1. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng
sản Việt Nam
Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 28-6-1996 đến ngày 1-7-1996 tại Hà
Nội,
QUYẾT NGHỊ
1- Thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá VII trình Đại hội; giao Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII căn cứ vào kết quả biểu quyết và những kết luận của Đại hội để hoàn chỉnh và chính thức ban hành.
2- Thông qua báo cáo về phương hướng nhiệm vu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000; giao Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII căn cứ vào kết quả biểu quyết và kết luận của Đại hội để hoàn chỉnh và chính thức ban hành.
3- Thông qua toàn văn Điều lệ Đảng Cộng sản ViệtNam đã được bổ sung sửa đổi.
4- Giao Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII và các cấp ủy Đảng xây dựng chương trình hành động thiết thực để tổ chức thực hiện những chủ trương đã nêu trong các văn kiện được Đại hội thông qua.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng, vượt mọi khó khăn, hăng hái phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, đưa công cuộc đổi mới lên tầm cao mới, đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà nhiệm vụ trung tâm là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
QUYẾT NGHỊ
1- Thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá VII trình Đại hội; giao Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII căn cứ vào kết quả biểu quyết và những kết luận của Đại hội để hoàn chỉnh và chính thức ban hành.
2- Thông qua báo cáo về phương hướng nhiệm vu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000; giao Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII căn cứ vào kết quả biểu quyết và kết luận của Đại hội để hoàn chỉnh và chính thức ban hành.
3- Thông qua toàn văn Điều lệ Đảng Cộng sản Việt
4- Giao Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII và các cấp ủy Đảng xây dựng chương trình hành động thiết thực để tổ chức thực hiện những chủ trương đã nêu trong các văn kiện được Đại hội thông qua.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng, vượt mọi khó khăn, hăng hái phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, đưa công cuộc đổi mới lên tầm cao mới, đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà nhiệm vụ trung tâm là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hà Nội, ngày 1-7-1996
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC
LẦN THỨ VIII ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆTNAM
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC
LẦN THỨ VIII ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
2. Phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm 1996 - 2000 (Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng)
Phần thứ nhất
ĐÁNH GIÁ
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM 1991 - 1995
Bước vào thập kỷ
90, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng; tuy
nhiên nền kinh tế tăng trưởng chậm, chưa ổn định còn suy thoái trong một số
lĩnh vực. Mặt khác, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Đất nước ta
vẫn trong tình thế còn nhiều khó khăn, thử thách gay gắt.
Đại hội lần thứ
VII của Đảng đã đề ra mục tiêu tổng quát của 5 năm 1991 - 1995 là: vượt qua
khó khăn, thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định
chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình
trạng khủng hoảng.
Qua 5 năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội VII, với cố gắng to lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân,
nền kinh tế nước ta không những đứng vững trước những thử thách gay gắt mà còn
đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên, tình
hình kinh tế, xã hội vẫn còn nhiều mặt yếu kém.
1.
I-NHỮNG MẶT LÀM ĐƯỢC
2.
Nền kinh tế đã khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái; đạt mức tăng
trưởng khá cao, liên tục và tương đối toàn diện; thực hiện vượt mức hầu hết các
chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1991 - 1995.
Tổng sản phẩm
trong nước (GDP) tăng bình quân hằng năm 8,2% (kế hoạch là 5,5 - 6,5%)
Công nghiệp tăng
bình quân hằng năm 13,3% (kế hoạch là 7,5% - 8,5%). Một số ngành có mức tăng
cao: năm 1995 so với năm 1990, công nghiệp nhiên liệu (kể cả dầu, khí) gấp 3,2 lần,
điện gấp 1,6 lần, vật liệu xây dựng gấp 2,7 lần, chế biến thực phẩm gấp 1,9
lần...
Nông nghiệp tăng
bình quân hằng năm 4,5% (mức đề ra 3,7 - 4,5%). Sản lượng lương thực 5
năm qua tăng 26% so với 5 năm trước đó, tạo điều kiện cơ bản để ổn định đời sống
nhân dân, phát triển ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông
thôn. Nuôi trồng và đánh bắt thuỷ, hải sản tăng khá nhanh; kim ngạch xuất khẩu
thuỷ, hải sản năm 1995 gấp 3 lần năm 1990. Tỉ lệ đất có rừng che phủ bắt đầu
tăng nhờ đẩy mạnh trồng, khoanh nuôi và bảo vệ rừng, hạn chế khai thác gỗ.
Các ngành dịch vụ
năm 1995 tăng 80% so với năm 1990 (bình quân hàng năm tăng 12%). Giao thông vận
tải có chuyển biến tiến bộ, vận tải hàng hóa tăng 62%; viễn thông phát triển
nhanh, doanh thu bưu điện và doanh thu du lịch đều gấp 10 lần; thị trường hàng
hoá trong nước phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội về số
lượng, chất lượng, chủng loại.
Lĩnh vực tài
chính, tiền tệ đạt tiến bộ đáng kể, nổi bật nhất là đã chặn được nạn lạm phát
cao, từng bước đẩy lùi lạm phát. Chỉ số giá hàng tiêu dùng và dịch vụ giảm từ
67,4% năm 1991 xuống còn 17,5% năm 1992; 5,2% năm 1993; 14,4% năm 1994 và 12,7%
năm 1995.
Đã hình thành
được hệ thống thuế áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế, nâng dần tỉ lệ
động viên thuế và phí trong GDP, tạo thành nguồn thu chính của ngân sách Nhà
nước, bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên và tăng dần phần dành cho đầu tư phát
triển. Tỉ lệ thiếu hụt ngân sách đã được kiềm chế; chấm dứt việc phát hành tiền
để bù đắp bội chi, thay bằng vay của dân, của nước ngoài.
Trong lĩnh vực
tiền tệ, tín dụng, đã phân định những chức năng quản lý Nhà nước của ngân hàng
Nhà nước và chức năng kinh doanh của ngân hàng thương mại. Việc điều hoà lưu
thông tiền tệ, ổn đinh giá trih đồng tiền Việt Nam, quản lý ngoại hối, xây dựng
thị trường hối đoái hợp pháp và các hoạt động tín dụng, thanh toán đều có bước
tiến.
Quy mô đầu tư
phát triển toàn xã hội tăng khá. Trong 5 năm, ước tính vốn đầu tư toàn xã hội
khoảng 18 tỉ USD (theo mặt bằng giá 1995), trong đó phần của Nhà nước chiếm 43%
(bao gồm cả đầu tư qua ngân sách, tín dụng Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước tự
đầu tư), đầu tư của nhân dân chiếm trên 30%, đầu tư trực tiếp của nước ngoài
chiếm 27%. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, đã chuyển mạnh từ hình thức ngân
sách cấp phát có tính chất bao cấp sang hình thức tín dụng đầu tư, mở rộng liên
doanh liên kết, vay vốn trong nước và ngoài nước...Đã tập trung nhiều hơn vốn
đầu tư của ngân sách Nhà nước cho hạ tầng kinh tế, xã hội. Vốn đầu tư của dân
phát triển ở cả nông thôn và thành thị. Tốc độ thu hút vốn đầu tư trực tiếp của
nước ngoài trong 5 năm qua tăng bình quân hằng năm 50%; phần vốn được thực hiện
đạt khoảng 1/3 tổng số vốn đăng ký theo dự án.
Những kết quả về
đầu tư phát triển đã làm tăng năng lực sản xuất trong nông thôn, lâm, ngư
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, đưa vào hoạt động một số công trình quan trọng
của nền kinh tế, nhất là giao thông, thuỷ lợi, dầu khí, thép, xi măng và các cơ
sở du lịch, dịch vụ.
2. Cơ cấu
kinh tế theo ngành và vùng đã bắt đầu chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá;
hình thành nền kinh tế nhiều thành phần.
Cơ cấu
ngành:
Trong GDP, nông,
lâm, ngư nghiệp tăng khá về số tuyệt đối, nhưng tỉ trọng giảm từ 38,7% năm 1990
xuống 29% năm 1995; công nghiệp và xây dựng từ 22,6% tăng lên 29,1%; dịch vụ từ
38,6% tăng lên 41,9%. Cơ cấu sản xuất của nông nghiệp, công nghiệp cũng có
những thay đổi theo hướng hiệu quả hơn; các ngành dịch vụ phát triển đa dạng.
Cơ cấu
vùng kinh tế:
Cơ cấu vùng đang
hình thành từng bước theo quy hoạch kinh tế - xã hội của các địa phương, các đô
thị, các địa bàn lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm. Các khu
công nghiệp, khu chế xuất đang được xây dựng. Một số địa bàn kinh tế, đặc biệt
là một số thành phố lớn, phát huy lợi thế của mình đã đẩy mạnh đầu tư, đạt nhịp
độ tăng trưởng cao. Một số vùng nông thôn đã có bước phát triển nhanh nhờ
chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng khai thác lợi thế so sánh, gắn với thị
trường.
Cơ cấu
thành phần kinh tế:
Khu vực kinh tế
nhà nước chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế, đảm nhận các khâu then chốt
và các lĩnh vực trọng yếu, nhất là trong công nghiệp, cơ sở hạ tầng và tài
chính, tín dụng. Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã tiếp cận thị trường, đầu tư
chiều sâu, đổi mới công nghệ, hoạt động có hiệu quả hơn trước.
Các hợp tác xã
trong các lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, mua bán, tín dụng trong thời kỳ
đầu chuyển sang cơ chế mới, do nhiều nguyên nhân, bị suy giảm mạnh. Đến nay một
số ít đã đổi mới tổ chức, quy mô và phương thức hoạt động, khôi phục và phát
triển sản xuất, kinh doanh. Đã xuất hiện các hình thức kinh tế hợp tác kiểu
mới, tuy chưa phổ biến.
Kinh tế cá thể,
tiểu chủ phát triển nhanh trong nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
thương mại, dịch vụ, đã góp phần quan trọng vào cá thành tựu kinh tế - xã hội.
Kinh tế tư bản tư
nhân trong các nước bước đầu phát triển, tập trung phần lớn vào lĩnh vực
thương mại, dịch vụ và kinh doanh bất động sản; đầu tư vào sản xuất còn ít. Các
doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu, có một số doanh nghiệp quy mô
tương đối lớn, sử dụng nhiều lao động.
Kinh tế tư bản
nhà nước bao gồm các hình thức liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư
nhân trong nước và với tư bản nước ngoài đang phát triển. Các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài đã bắt đầu đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, tăng thêm
kim ngạch xuất khẩu, tạo nhiều việc làm trực tiếp và gián tiếp.
3. Kinh tế
đối ngoại phát triển trên nhiều mặt; thị trường xuất, nhập khẩu được củng cố và
mở rộng; nguồn vốn đầu tư của nước ngoài tăng nhanh.
Trong 5 năm (1991
- 1995) tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 17 tỉ USD (kế hoạch là 12 - 15
tỉ USD), bảo đảm nhập các loại vật tư, thiết bị và hàng hoá đáp ứng nhu cầu của
sản xuất và đời sống, góp phần cải thiện cán cân thanh toán thương mại. Trong
cơ cấu hàng xuất khẩu đã có thêm một số mặt hàng chế biến và tăng số mặt hàng
có khối lượng xuất khẩu lớn như dầu thô, gạo, cà phê, hải sản, may mặc...
Tổng kim ngạch
nhập khẩu trên 21 tỉ USD, kể cả phần nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài; tỉ trọng nhập khẩu vật tư, thiết bị tăng lên, đáp ứng được nhu
cầu phát triển. Quan hệ mậu dịch đã mở rộng với trên 100 nước và tiếp cận nhiều
thị trường mới.
Nhà nước đã mở
rộng quyền xuất, nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế,
ban hành một số chính sách khuyến khích xuất khẩu...
Vốn đầu tư trực
tiếp của nước ngoài (FDI) tăng nhanh, đến cuối năm 1995, các dự án được cấp
giấy phép đạt trên 19 tỉ USD vốn đăng ký. Tỉ trọng đầu tư vào công nghiệp chiếm
40% tổng số vốn theo dự án (nếu kể cả dầu khí thì chiếm trên 60%), trong đó hơn
60% là đầu tư chiều sâu. Địa bàn đầu tư phân bố rộng trên hơn các vùng lãnh
thổ. Hình thức đầu tư chủ yếu là xí nghiệp liên doanh, chiến trên 65% tổng số
vốn; xí nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm gần 18%; hợp đồng hợp tác kinh doanh
chiếm gần 17%. Nhà nước đã bổ sung, hoàn thiện từng bước khuôn khổ pháp lý cho
đầu tư nước ngoài.
Mối quan hệ hợp
tác phát triển đã được khôi phục, khai thông và mở rộng với nhiều nước và các
tổ chức tài chính quốc tế; cơ chế thu hút nguồn tài trợ phát triển song phương
và đa phương đã được thiết lập. Nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODA) tăng
dần lên trong những năm gần đây và được tập trung chủ yếu cho việc xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội.
4. Khoa
học và công nghệ có bước phát triển mới.
Đã tập trung
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới và phát
triển của nước ta, phục vụ cho việc xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Về khoa học tự nhiên và công nghệ, đã chú trọng hơn việc nghiên cứu
ứng dụng, tập trung vào những lĩnh vực công nghệ ưu tiên như vật liệu mới, công
nghệ sinh học, công nghệ thông tin... Việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu và
chuyển giao công nghệ tiến bộ vào sản xuất, kinh doanh được đẩy mạnh hơn trước.
5. Lĩnh
vực văn hoá - xã hội có chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện
một bước.
Công tác
giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới, sau một số năm giảm sút.
Tỉ lệ người biết chữ trong dân đã nâng lên đạt mức 90%; tỉ lệ trẻ em đi học
trong độ tuổi phổ cập tiểu học và số học sinh phổ thông các cấp học đều tăng;
tỉ lệ lưu ban; bỏ học giảm. Mạng lưới trường phổ thông mở rộng đều khắp các xã,
phường; cơ sở vật chất được cải thiện. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi có
trường nội trú cho con em người dân tộc. Hình thức trường chuyên, lớp chọn phát
triển ở nhiều địa phương. Nhiều trường bán công và dân lập ra đời, hoạt động có
hiệu quả.
Các trường, lớp
dậy nghề phát triển dưới nhiều hình thức. Hệ thống giáo dục đại học, trung học
chuyên nghiệp mở rộng hơn trước cả về quy mô, ngành nghề và loại hình đào tạo.
Các trường đại học và cao đẳng đang được sắp xếp lại; các trung tâm đại học
quốc gia ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và ba trung tâm đại học khu vực đang
hình thành.
Công tác thông
tin đại chúng, các hoạt động văn hoá, nghệ thuật phát triển phong
phú cả về thể loại, hình thức và nội dung, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin và
hưởng thụ văn hoá của các tầng lớp nhân dân, góp phần tích cực trong công tác
tuyên truyền, giáo dục, đặc biệt là giáo dục truyền thống cách mạng, đấu tranh
chống những hiện tượng tiêu cực, đẩy lùi ảnh hưởng văn hoá độc hại. Diện phủ
sóng truyền thanh, truyền hình được mở rộng, chất lượng thu phát tốt hơn.
Trong lĩnh vực bảo
vệ sức khoẻ, đã có những cố gắng và tiến bộ về vệ sinh phòng bệnh, thực
hiện có kết quả các chương trình chăm sóc và bảo vệ trẻ em, chương trình phòng
chống sốt rét, bưới cổ, phòng chống suy dinh dưỡng; tăng tỉ lệ số dân được dùng
nước sạch, đựơc cung cấp dịch vụ y tế tại xã, phường. Một số trung tâm y tế
được đầu tư nâng cấp và trang bị lại. Chế độ bảo hiểm y tế được mở rộng. Thể
dục thể thao có bước phát triển. Công tác bảo vệ môi trường, môi sinh được
triển khai.
Giải quyết việc
làm
mỗi năm từ 1 đến 1,2 triệu người.
Công tác dân số,
kế hoạch hoá gia đình phát triển sâu rộng, đạt được một số kết quả rõ nét. Tỉ lệ
sinh mấy năm nay giảm mỗi năm gần 1 phần nghìn.
Các cuộc vận động
xoá đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, các hoạt động từ thiện, chăm sóc trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ngày càng được đông đảo nhân dân hưởng
ứng.
Thu nhập và đời
sống của các tầng lớp nhân dân ở các vùng đều được cải thiện với mức độ
khác nhau; số hộ nghèo giảm đi. Nhiều địa phương đã thanh toán được nạn đói.
6. Quốc
phòng, an ninh được giữ vững
Việc điều chỉnh
chiến lược về quốc phòng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân được thực hiện
có kết quả. Các khu vực phòng thủ được tăng cường một bước. Sự kết hợp giữa
kinh tế và quốc phòng được tiến hành dưới nhiều hình thức và đã bước đầu mang
lại kết quả.
An ninh, quốc gia
được giữ vững, thế trận an ninh nhân dân được củng cố. Việc xử lý kiên quyết
các vụ vi phạm pháp luật trong một số lĩnh vực mở ra khả năng thiết lập và củng
cố trật tự, an toàn xã hội, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật.
II - NHỮNG
MẶT YẾU KÉM
1. Chất
lượng và hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, nguy cơ tụt hậu xa hơn còn lớn.
Lực lượng sản xuất còn nhỏ
bé, cơ sở vật chất, nhất là kết cấu hạ tầng còn lạc hậu; trình độ khoa học và
công nghệ chuyển biến chậm; nguồn nhân lực có kiến thức, tay nghề, năng lực
kinh doanh còn ít, lại chưa được sử dụng tốt; năng suất lao động xã hội tăng
chậm.
Chất lượng sản
phẩm và chất lượng công trình nhìn chung còn thấp. Nhiều hàng hoá kém sức cạnh
tranh với hàng nước ngoài.
Tỉ lệ tiết kiệm
và đầu tư còn thấp, nền kinh tế rất thiếu vốn. Đầu tư của ngân sách nhà nước
còn dàn trải, bị lãng phí, thất thoát, hiệu quả thấp. Đầu tư của nhân dân vào
sản xuất còn ít. Nguồn tài trợ cho phát triển và đầu tư nước ngoài thực hiện
chậm.
GDP bình quân dầu
người vẫn còn rất thấp so với một số nước xung quanh
2.Việc xây
dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng, vừa buông lỏng.
Khu vực kinh tế
nhà nước chưa bảo đảm hiệu quả và chưa thực hiện tốt vai trò chủ đạo. Các thành
phần kinh tế khác chưa được phát huy mạnh mẽ các tiềm năng, vừa chưa bảo đảm
hoạt động có trật tự, kỷ cương theo pháp luật.
3.
Tài chính, tiền tệ chưa ổn định và thiếu lành mạnh.
Ngân sách nhà
nước thường xuyên căng thẳng còn bội chi lớn. Hệ thống thuế phức tạp, chồng
chéo, chưa hợp lý, vừa ít khuyến khích sản xuất, vừa có nhiều kẽ hở dễ bị lợi
dụng. Phân cấp ngân sách chưa hợp lý, vừa phân tán lại vừa tập trung quá mức,
thiếu ổn định phát sinh nhiều tiêu cực, hạn chế tính năng động, sáng tạo. Tài
sản quốc gia, tài chính công và tài chính doanh nghiệp nhà nước chưa được quản lý
chặt chẽ, còn sơ hở để xảy ra nhiều thất thoát, lãng phí.
Thị trường tiền
tệ, thị trường vốn chậm phát triển. Lãi suất tín dụng chưa phù hợp với cơ chế
thị trường và hạn chế đầu tư phát triển. Các công cụ điều tiết lưu thông tiền
tệ chưa được sử dụng đồng bộ, có hiệu quả. Tỉ lệ dùng tiền mặt còn quá lớn,
thanh toán không qua ngân hàng còn phổ biến. Ngoại tệ còn được sử dụng nhiều
trong lưu thông nội địa. Mầm mống tái lạm phát cao chưa được loại bỏ hẳn.
Công tác quản lý
xuất nhập khẩu, quản lý các dự án đầu tư nước ngoài vừa thiếu khuyến
khích đúng hướng, vừa có phần lỏng lẻo.
4. Các mặt
văn hoá - xã hội còn nhiều vấn đề phải giải quyết.
Chất lượng giáo
dục, đào tạo thấp; công tác giáo dục ở những vùng sâu, vùng xa, miền núi còn
rất nhiều khó khăn. Hệ thống khám chữa bệnh phần lớn bị xuống cấp cả về cơ sở
vật chất lẫn chất lượng, tinh thần và thái độ phục vụ. Mức độ ô nhiễm và huỷ
hoại về môi trường, môi sinh rất đáng lo ngại. Một số bệnh dịch, bệnh xã hội
vẫn còn đe doạ một số vùng và có nguy cơ phát triển; số người nhiễm HIV tiếp
tục tăng. Những hoạt động văn hoá không lành mạnh và các tệ nạn xã hội vấn phát
triển. Nhịp độ phát triển dân số vẫn còn cao. Số người chưa có việc làm ở khu
vực thành thị còn chiếm khoảng 7%, thời gian lao động ở nông thôn mới được sử
dụng ở mức thấp.
Tỉ lệ người
nghèo, hộ nghèo, xã nghèo còn cao. Sự phân hoá giàu nghèo diễn ra không bình
thường. Chỉ số giá tiêu dùng trên 10%/năm càng gây thêm khó khăn cho những
người có thu nhập thấp. Tình trạng tham nhũng, buôn lậu, làm ăn phi pháp chưa
ngăn chặn được, có chỗ nghiêm trọng hơn. Kỷ cương, kỷ luật và trật tự xã hội
còn nhiều chỗ chưa tốt.
*
*
*
Nhìn chung, nhiệm vụ ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991 - 1995 đã
được thực hiện thắng lợi. Các mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm được thực
hiên vượt mức. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số
mặt còn chưa vững chắc. Đã tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời
kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên,
nước ta vẫn đang ở trình độ phát triển rất thấp về kinh tế và công nghệ. Các
mặt văn hóa, xã hội vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc.
Những thành tựu
trong 5 năm qua có phần do huy động được kết quả đầu tư xây dựng cơ sở vật chất
từ những năm trước, song nhân tố quyết định là đường lối, chính sách đổi mới
của Đảng đã tạo động lực thúc đẩy hàng vạn doanh nghiệp, hàng chục triệu lao
động ở nông thôn và thành thị chủ động khai thác các nguồn lực, phát triển sản
xuất kinh doanh. Mặt khác, những sự bất cập, những thiếu xót, khuyết điểm trong
tiến trình đổi mới cũng là nguyên nhân chính hạn chế sự phát triển.
Cần nhấn mạng
rằng, tiến trình đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên, chặng đường đổi mới tiếp theo có phạm vi sâu rộng hơn, có nhiều khó
khăn hơn, phải tiếp cận và giải quyết nhiều vấn đề phức tạp của kinh tế thị
trường và sự hội nhập quốc tế.
Phần thứ hai
PHƯƠNG
HƯỚNG, NHIỆM VỤ, MỤC TIÊU CHỦ YẾU CỦA KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ -
XÃ HỘI 5 NĂM 1996 - 2000
I - Nhiệm vụ và
mục tiêu phát triển
1. Nhiệm
vụ tổng quát.
Giai đoạn từ nay
đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đảy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi
lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới
một cách toàn diiện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000: tăng trưởng kinh tế
nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về
xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao
tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao
hơn vào đầu thế kỷ sau.
Nhiệm vụ tổng
quát nêu trên đòi hỏi việc xây dựng và thực hiện kế hoạch 5 năm 1996 - 2000
phải thấu suốt tư tưởng chỉ đạo dưới đây:
- Thực hiện đồng
thời ba mục tiêu về kinh tế: tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả; ổn định
vững chắc kinh tế vĩ mô; chuẩn bị các tiền đề cho bước phát triển cao hơn sau
năm 2000, chủ yếu là phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, kết cấu
hạ tầng, hoàn thiện thể chế.
- Tiếp tục thực
hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa; phát huy mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đổi mới căn bản tổ chức và quản lý, nâng cao
hiẹu quả khu vực kinh tế Nhà nước để phát huy vai trò chủ đạo. Đổi mới và phát
triển đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến cao, triển khai thực hiện
Luật hợp tác xã. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà
nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước. Phát huy khả năng của kinh tế cá
thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân. Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của
người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày một
tốt hơn.
- Kết hợp hài hoà
tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội - văn hoá, tập trung giải quyết những
vấn đề bức xúc nhằm tạo được chuyển biến rõ nét về thực hiện công bằng và tiến
bộ xã hội.
- Kết hợp chặt
chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực
vừa phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, vừa phục vụ quốc phòng, an ninh.
- Kết hợp phát
triển các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác, tạo điều kiện cho các vùng
đều phát triển, phát huy được lợi thế của các vùng, tránh chênh lệch quá xa về
nhịp độ tăng trưởng giữa các vùng.
2. Nhiệm
vụ và mục tiêu chủ yếu
Tập trung
sức cho mục tiêu phát triển, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân
hàng năm 9 - 10%; đến năm 2000, GDP bình quân đầu người gấp đôi năm 1990 (trong
chỉ đạo thực hiện phấn đấu đạt cao hơn).
Phát triển toàn
diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và
đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tốc
độ tăng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp bình quân hàng năm 4,5 - 5%.
Phát triển các
ngành công nghiệp, chú trọng trước hết công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng
tiêu dùng và hang xuất khẩu; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng
về dầu khí, than, xi măng, cơ khí, điện tử, thép, phân bón, hoá chất, một số cơ
sở công nghiệp quốc phòng. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân
hàng năm 14 - 15%.
Cải tạo, nâng cấp
và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng, trước hết ở những khâu ách tắc
và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển.
Phát triển các
ngành dịch vụ, tập trung vào các lĩnh vực vận tải, thông tin liên lạc, thương
mại, du lịch, các dịch vụ tài chính, ngân hàng, công nghệ, pháp lý... Tốc độ
tăng giá trị dịch vụ bình quân hàng năm 12 -13%.
Tăng nhanh đầu tư
phát triển toàn xã hội. Chú trọng tăng cả tích luỹ và đầu tư trong nước thông
qua ngân sách, cũng như của doanh nghiệp và nhân dân. Giải quyết tốt quan hệ
tích luỹ - tiêu dùng theo hướng cần kiệm để công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
không tiêu dùng quá khả năng nền kinh tế cho phép; tăng năng xuất và hiệu quả
để vừa cải thiện được đời sống, vừa có tích luỹ ngày càng nhiều cho đầu tư phát
triển. Chống thất thoát, lãng phí, tham nhũng. Huy động tối đa mọi nguồn lực
trong nước, đồng thời thu hút mạnh các nguồn vốn bên ngoài để đưa tỉ lệ
đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2000 lên khoảng 30% GDP.
Khai thác thế
mạnh của cả nước, của mỗi vùng, mỗi ngành tạo ra sự phát triển hài hoà giữa các
vùng lãnh thổ. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn
trọng điểm có điều kiện sớm đưa lại hiệu quả cao. Đồng thời dành nguồn vốn để
giải quyết những nhu cầu bức xúc của các vung khác, nhất là phát triển kết cấu
hạ tầng và hỗ trợ vốn tín dụng, tạo điều kiện để các vùng còn kém phát triển,
các vùng nông thôn, miền núi có thể phát triển nhanh hơn, khắc phục dần tình
trạng chênh lệch quá lớn về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng.
Đến năm 2000 tỉ
trọng công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 34 - 35% trong GDP; nông, lâm , ngư
nghiệp chiếm khoảng 19 - 20%; dịch vụ chiếm khoảng 45-46%.
Tăng nhanh
khă năng và tiềm lực tài chính của đất nước, lành mạnh hoá nền tài chính quốc
gia. Huy động 20 - 21% GDP vào ngân sách thông qua thuế và phí; kiềm chế
bội chi ngân sách không quá 4,5% GDP; thực hiện cam kết trả nợ. Tiếp tục thực
hiên mục tiêu kiềm chế và kiểm soát lạm phát, loại trừ các nguy cơ tái lạm phát
cao, giữ chỉ số giá tiêu dùng dưới 10%/ năm. Cải thiện cán cân thanh toán quốc
tế.
Phát triển thị
trường tiền tệ và thị trường vốn, hình thành từng bước thị trường chứng khoán.
Tăng khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, thu hẹp việc sử dụng ngoại tệ
ở trong nước; ổn định tỉ giá hối đoái phù hợp với sức mua thực tế của đồng
tiền.
Mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, tăng
khả năng xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến sâu; tăng sức cạnh tranh của
hàng hóa và dịch vụ. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm khoảng 28%
(chưa kể phần xuất khẩu tại chỗ), nâng mức xuất khẩu bình quân đầu người năm
2000 lên 200 USD; phát triển mạnh du lịch và các dịch vụ thu ngoại tệ. Kim
ngạch nhập khẩu tăng bình quân hàng năm khoảng 24%.
Tăng khả năng
tiếp nhận vốn đầu tư và công nghệ từ bên ngoài.
Giải
quyết tốt một số vấn đề xã hội.
Thanh toán nạn mù
chữ và hoàn thành cơ bản phổ cập tiểu học trong cả nước, phổ cập trung học cơ
sở (lớp 9) ở thành phố lớn và những nơi có điều kịên. Số lao động qua đào tạo
chiếm khoảng 22 - 25% tổng số lao động. Chuyển mạnh về chất lượng giáo dục, đào
tạo. Phát triển và nâng cao năng lực, hiệu quả nghiên cứu, triển khai khoa học
và công nghệ. Phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, thông
tin, y tế, thể dục thể thao, mở rộng tới các vùng sâu và vùng xa.
Giảm nhịp độ phát
triển dân số vào năm 2000 xuống dưới 1,8%. Xoá nạn đói Đến năm 2000 tỉ lệ người
thu nhập quá thấp giảm xuống một nửa so với hiện nay, tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi
bị suy dinh dưỡng giảm xuống dưới 30%. Dân cư thành thị và 80% dân số ở nông
thôn được cung cấp nước sạch. Tăng tuổi thọ bình quân lên khoảng 70 tuổi.
Giải quyết việc
làm cho 6,5 - 7 triệu người, giảm tỉ lệ thất nghiệp thành thị xuống dưới 5% và
tăng thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn trên 75%. Điều chỉnh tiền
lương và giải quyết những bất hợp lý trong chính sách tiền lương. Từng bước
hình thành quỹ bảo trợ thất nghiệp ở thành thị. Bảo đảm mức sống của người về
hưu và các gia đình có công với nước.
Hoàn thành căn
bản định canh đinh cư và ổn định đời sống của đồng bào các dân tộc ít người.
Ngăn chặn và giảm
ô nhiễm môi trường ở thành phố, khu công nghiệp.
Đẩy lùi tham
nhũng, các tệ nạn xã hội, loại trừ văn hoá độc hại.
Bảo vệ
vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của tổ quốc, giữ vững ổn định
chính trị và an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vững mạnh, sẵn sàng
đối phó với mọi tình huống.
Tích cực
chuẩn bị và tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000, chủ yếu là phát
triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, xây dựng kết cấu
hạ tầng và một số công trình công nghiệp then chốt, hình thành đồng bộ cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
II - Các
chương trình và lĩnh vực Phát triển
1. Chương
trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Mục tiêu:
Phát triển nông
nghiệp toàn diện hướng vào bảo đảm an toàn lương thực quốc gia trong mọi tình
huống, tăng nhanh nguồn thực phẩm và rau quả, cải thiện chất lượng bữa ăn, giảm
suy dinh dưỡng.
Chuyển dịch cơ
cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn có hiệu quả. Trên cơ sở bảo đảm vững chắc
nhu cầu lương thực, chủ yếu là lúa, mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp,
cây ăn quả, tăng nhanh đàn gia súc, gia cầm, phát triển kinh tế biển, đảo, kinh
tế rừng, khai thác có hiệu quả tiềm năng của nền nông nghiệp sinh thái, tăng nhanh
sản lượng hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, mở rộng thị
trường nông thôn; tăng thu nhập của nông dân. Đẩy mạnh việc xây dựng, nâng cấp
kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội.
Nhiệm vụ
và giải pháp:
Tăng nhanh sản
lượng lương thực hàng hoá ở những vùng đông bằng có năng xuất và hiệu
quả cao. Bố trí lại mùa vụ để né tránh thiên tai, chuyển sang các vụ có năng
suất cao hoặc sang các cây có hiệu quả cao hơn. Nhân nhanh những giống mới có
năng suất cao, phẩm chất tốt, thích ứng với từng vung sinh thái, đặc biệt là
giống lúa lai, ngô lai. Quy hoạch và phát triển một số vùng sản xuất các loại
lúa gạo ngon có giá trị cao. Dự kiến năm 2000, sản lượng lương thực đạt khoảng
30 triệu tấn bình quân đầu người 360 - 370 kg.
Phát triển mạnh
các loại cây công nghiệp, cây ăn quả và rau đậu có hiệu quả kinh tế cao;
hình thành những vùng sản xuất tập trung gắn với công nghiệp chế biến tại chỗ.
Trồng cây công nghiệp kết hợp với chương trình phủ xanh đất trống, đồi trọc
theo hình thức nông lâm kết hợp. Coi trọng các biện pháp thâm canh tăng năng
suất; áp dụng các biện pháp sinh học hiện đại và công nghệ sinh học, không sử
dụng hoá chất; sản xuất cá loại nông sản sạch. Đến năm 2000 đưa tỉ trọng cây
công nghiệp chiếm khoảng 45% giá trị sản phẩm ngành trồng trọt.
Hình thành và
phát triển các vùng chăn nuôi tập trung gắn với công nghiệp chế biến
thực phẩm . Khuyến khích và nhân rộng các hộ chăn nuôi giỏi, các nông trại chăn
nuôi. Đổi mới hệ thống giống có năng suất cao, chất lượng tốt. Thực hiện chương
trình nạc hoá đàn lợn, cải tạo đàn bò, phát triển bò sữa, bò thịt và thanh toán
một số bệnh nhiệt đới. Phát triển nghề chăn nuôi các loại động vật đặc sản. Mở
rộng mạng lưới chế biến thức ăn gia súc, thú y, bảo hiểm vật nuôi và các dịch
vụ khác. Phấn đấu đến năm 2000, đưa tỉ trọng ngành chăn nuôi trong giá trị sản
phẩm nông nghiệp lên khoảng 30 - 35%.
Phát triển nghề
nuôi trồng thuỷ hải sản cả ở nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Bảo vệ và
khôi phục rừng ngập mặn. Chuyển một số ruộng trũng, thường bị úng lụt hoặc bị
nhiễm mặn, năng suất thấp sang nuôi trồng thuỷ sản. Cải tạo con giống, tổ chức
tốt dịch vụ hậu cần về thức ăn, phòng chống dịch bệnh, từng bước áp dụng phương
thức nuôi công nghiệp. Đến năm 2000, diện tích nuôi trồng thuỷ sản trên 60 vạn
ha.
Quản lý việc đánh
bắt trong từng ngư trường để bảo tồn sự sinh sản và phát triển đàn cá. Khuyến
khích ngư dân tự sắm phương tiện và tổ chức khai thác tốt các nguồn lợi thuỷ
hải sản. Phát triển mạnh nghề đánh bắt xa bờ thông qua việc hỗ trợ cho ngư dân
vay vốn và phát triển lực lượng quốc doanh. Chống ô nhiễm môi trường biển, sông
ngòi, ao hồ và nghiêm cấm khai thác thuỷ hải sản bằng phương pháp huỷ diệt.
Tiếp tục điều tra tài nguyên và sinh vật biển để có kế hoạch khai thác, bảo vệ.
Sản lượng thuỷ
hải sản vào năm 2000 khoảng 1,6 - 1,7 triệu tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng
khoảng 50 - 55 vạn tấn; xuất khẩu thuỷ hải sản 1 - 1,1 tỉ USD.
Phát triển nghề rừng
gắn với việc ổn định và cải thiện đời sống của dân cư ở miền núi; tăng tốc độ
phủ xanh đất trống, đồi núi trọc; khoanh nuôi, tái sinh, bảo vệ rừng, tạo điều
kiện cho miền núi phát huy thế mạnh về lâm nghiệp. Hoàn thành việc giao rừng,
giao đất đến hộ nông dân. Tăng cường công tác kiểm lâm để bảo vệ vốn rừng, bảo
vệ hệ sinh thái bền vững, bảo vệ quỹ gien, ngăn chặn tệ đốt phá rừng, săn thú
bừa bãi. Quản lý chặt chẽ việc khai thác gỗ, tiếp tục cấm xuất khẩu gỗ nguyên
liệu. Quy hoạch và phát triển công nghiệp chế biến gỗ có hiệu quả.
Trong 5 năm 1996
- 2000, phải bảo vệ 9,3 triệu ha rừng hiện có và tạo thêm 2,5 triệu ha rừng,
trong đó có 1 triệu ha rừng trồng mới, đưa diện tích đất đai được che phủ bằng
rừng và cây lâu năm khác lên 40%. Tạo việc làm ổn định cho 1 triệu hộ với 2
triệu lao động và 6 - 7 triệu nhân khẩu.
Phát triển đa
dạng công nghiệp chế biến và tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, thị tứ,
thị trấn, liên kết với công nghiệp ở đô thị lớn và khu công nghiệp tập trung.
Phát triển các làng nghề, nhất là các làng nghề làm hàng xuất khẩu; mở mang các
loại hình dịch vụ. Xây dựng thêm đường sá, mạng lưới cấp điện, cấp nước, điện thoại,
trường học, cơ sở y tế, văn hoá ở nông thôn.
Phát triển nhanh hệ
thống thuỷ lợi ở tất cả các vùng, đặc biệt là khôi phục, sửa chữa, nâng cấp
và mở rộng hệ thống thuỷ lợi đã có ở hai đồng bằng lớn ở đất nước; thực hiện
chương trình chống nhiễm mặn, chua phèn và chống lũ toàn diện ở đồng bằng sông
Cửu Long. Xây dựng các hồ chứa nước ở một số vùng trung du, miền núi vừa phục
vụ sản xuất, vừa cải thiện nguồn nước sinh hoạt cho dân cư. Dự kiến trong 5
năm, năng lực tưới tăng thêm 20 vạn ha, năng lực tiêu úng tăng thêm 25 vạn ha,
tạo nguồn nước tưới ở Nam Bộ 50 vạn ha, ngăn mặn 10 vạn ha.
Bảo đảm đủ phân
bón kịp thời vụ với giá ổn định. Mở rộng việc ứng dụng các biện pháp sinh học
trong bảo vệ thực vật. Phát triển mạng lưới khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư,
chuyển giao kỹ thuật và dịch vụ cung ứng vật tư kỹ thuật. Tổ chức chế biến tiêu
thụ các sản phẩm nông nghiệp. Thực hiện chính sách bảo hiểm và khuyến khích về
giá đối với nông sản, đặc biệt là lúa và cây công nghiệp xuất khẩu. Điều chỉnh
việc phân bổ vốn của Nhà nước, huy động thêm nguồn vốn để tăng đáng kể vốn đầu
tư và tín dụng cho nông, lâm , ngư nghiệp và kinh tế nông thôn.
3. Chương
trình phát triển công nghiệp
Mục tiêu:
Đổi mới công nghệ
của phần lớn doanh nghiệp. Phát triển nhanh một số ngành có lợi thế, hình thành
một số ngành mũi nhọn trong các lĩnh vực chế biến lương thực - thực phẩm, khai
thác và chế biến dầu khí, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, cơ khí
chế tạo, sản xuất vật liệu.
Hình thành các
khu công nghiệp tập trung (bao gồm cả khu chế xuất và khu công nghệ cao), tạo
địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát triển mạnh
công nghiệp nông thôn và ven đô thị. ở các thành phố, thị xã, nâng cấp, cải tạo
các cơ sở công nghiệp hiện có, đưa các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra
ngoài thành phố, hạn chế việc xây dựng cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu
dân cư.
Nhiệm vụ
và giải pháp:
Phát triển công
nghiệp chế biến thực phẩm và công nghiệp hàng tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu
cầu trong nước, đồng thời hướng mạnh về xuất khẩu, ưu tiên phát triển những sản
phẩm có lợi thế cạnh tranh và hiệu quả cao.
Kết hợp hài hoà
nhiều loại quy mô, nhiều trình độ công nghệ thích hợp, với sự tham gia của tất
cả các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài, bảo đảm chế biến phần lớn
nông, lâm , thuỷ sản của các vùng. Đầu tư chiều sâu, mở rộng công suất và đổi
mới công nghệ các cơ sở hiện có, đồng thời xây dựng mới một số cơ sở sản xuất
với công nghệ hiện đại.
Nâng cấp các cơ
sở xay xát gạo hiện có, xây dựng thêm một số cơ sở xay xát đánh bóng gạo
xuất khẩu, đưa công suất xay xát lên khoảng 15 triệu tấn thóc vào năm 2000.
Củng cố lại và xây dựng thêm hệ thống sân phơi, kho bảo quản, dự trữ lương
thực; giảm hao hụt sau thu hoạch. Phát triển các cơ sở chế biến mầu, thức ăn
chăn nuôi, tinh bột nguyên liệu.
Đầu tư chiều sâu,
mở rộng các nhà máy đường hiện có. Xây dựng mới một số nhà máy có quy mô
vừa và nhỏ ở những vùng nguyên liệu nhỏ; ở những vùng nguyên liệu tập trung
lớn, xây dựng nhà máy có thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại kể cả liên
doanh với nước ngoài. Sản lượng đường năm 2000 khoảng 1 triệu tấn.
Đổi mới thiết bị
và công nghệ các nhà máy chè hiện có để đảm bảo sản phẩm xuất khẩu được;
liên doanh, hợp tác với nước ngoài xây dựng một số nhà máy chè hiện đại. Khuyến
khích phát triển các cụm sơ chế quy mô hộ, liên hộ, liên kết với các nhà máy
tinh chế.
Cho dân vay vốn
đầu tư để phát triển mạnh cà phê. Tăng công suất chế biến, nâng cao chất
lượng và đa dạng hoá sản phẩm cà phê.
Trong việc thực
hiện dự án phát triển cao su, cần bảo đảm yêu cầu đầu tư để nâng công
suất chế biến mủ cao su từ 20.000 tấn hiện nay lên 70.000 tấn/năm. Phát triển
các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm từ cao su.
Phát triển chế
biến thịt, sữa, thuỷ hải sản, rau, quả theo nhiều quy mô. Cải tạo các cơ sở
hiện có và xây dựng các cơ sở mới hiện đại, nhất là để phục vụ cho xuất khẩu.
Phát triển mạnh công
nghiệp nhẹ, nhất là dệt, may, da giầy, giấy, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ.
Đầu tư hiện đại hoá dây chuyền công nghệ, nâng chất lượng và sức cạnh tranh của
sản phẩm. Chuyển dần việc nhận gia công dệt may, đồ da sang mua nguyên liệu,
vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu; coi trọng nâng cao năng lực tiếp thị để mở
rộng thị trường. Khắc phục sự lạc hậu của ngành sợi, dệt; phấn đấu đến năm 2000
sản xuất 800 triệu mét vải, lụa gắn với phát triển bông và tơ tằm. Đầu tư chiều
sâu các nhà máy hiện có và xây dựng mới một số nhà máy gắn với phát triển vùng
nguyên liệu để đưa sản lượng giấy năm 2000 lên 30 vạn tấn. Sản xuất đồ dùng kim
khí, đồ dùng bằng nhựa, chất tẩy rửa, mỹ phẩm đủ cho nhu cầu trong nước và có
phần xuất khẩu.
Tiếp tục đẩy mạnh
tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu và khí, năm 2000 đạt khoảng
20 triệu tấn dầu quy đổi, trong đó khơảng 16 triệu tấn dầu thô và 4 tỉ m3
khí. Đa dạng hoá các hình thức hợp tác, liên doanh; nâng cao năng lực công
nghiệp dầu khí quốc gia cả trong thăm dò, khai thác, chế biến và dịch vụ. Xây
dựng quy hoạch tổng thể sử dụng khí thiên nhiên, khí đồng hành. Hoàn thành hai
công trình đường ống dẫn khí để sử dụng 4,5 - 5 tỉ m3 /năm. Xây dựng
nhà máy lọc dầu số 1 (6,5 triệu tấn/ năm). Chuẩn bị xây dựng nhà máy lọc dầu số
2 (hoặc mở rộng nhà máy số 1) và xây dựng ngành công nghiệp hoá dầu.
Tăng nhanh nguồn điện;
hoàn thành xây dựng và xây dựng gối đầu một số cơ sở phát điện lớn để tăng thêm
khoảng 3000 MW công suất huy động trong 5 năm tới và gối đầu khoảng 1000 MW
công suất cho sau năm 2000. Sản lượng điện vào năm 2000 khoảng 30 tỉ KWh. Xây
dựng, cải tạo hệ thống các trạm biến áp và đường dây tải điện đòng bộ với
nguồn. Có chính sách và biện pháp tích cực, hữu hiệu để sử dụng điện hợp lý,
tiết kiệm.
Phát triển ngành than
hướng vào tăng công suất hiện có bằng phục hồi, cải tạo, mở rộng một số mỏ. Duy
trì công suất các mỏ đang khai thác. Năm 2000 đạt khoảng 10 triệu tấn than
sạch.
Tăng thêm công
suất sản xuất phân lân, đạt sản lượng 1,2 triệu tấn vào năm 2000. Cải
tạo phải mở rộng nhà máy phân đạm Hà Bắc. Xây dựng nhà máy phân đạm số 1 từ khi
có công suất 60 - 80 vạn tấn/ năm. Xây dựng gối đầu nhà máy phân đạm số 2 có
công suất tương tự đưa vào vận hành trong kế hoạch 5 năm sau.
Đưa vào sản xuất
các nhà máyxi măng đang xây dựng; huy động và vay vốn để mở rộng, xây
dựng mới một số nhà máy xi măng, kể cả lò đứng; liên doanh với nước ngoài xây
thêm một số nhà máy. Sản lượng xi măng năm 2000 đạt khoảng 18 - 20 triệu tấn.
Đầu tư hoàn chỉnh
các dây chuyền sản xuất thép hiện có, khởi công xây dựng mới một số nhà
máy thép, chú trọng khâu tạo phôi. Năm 2000 sản xuất 2 triệu tấn thép. Chuẩn bị
xây dựng mỏ sắt Thạch Khê và nhà máy thép tổ hợp quy mô lớn.
Đổi mới thiết bị
và công nghệ để hiện đại hoá một bước các nhà máy cơ khí hiện có. Kết
hợp chế tạo trong nước với nhập khẩu để trang bị một phần máy móc, các dây
truyền, thiết bị cho nền kinh tế và có sản phẩm xuất khẩu. Trước mắt, hướng vào
sản xuất thiết bị toàn bộ cho công nghiệp chế biến nông sản, các loại phương
tiện vận tải, thiết bị sản xuất xi măng lò đứng, thiết bị sản xuất gạch ngói,
các phụ tùng, phụ kiện thay thế... Phát triển mạnh công nghiệp đóng và sửa chữa
tàu biển, lắp ráp và chế tạo ô tô, xe máy, chế tạo thiết bị điện trung và hạ
thế. Bắt đầu chế tạo thiết bị cao áp, động cơ công suất lớn, động cơ cho tàu
thuỷ hoạt động xa bờ. Đáp ứng nhu cầu dụng cụ cầm tay. Tăng năng lực sửa chữa.
phục hồi máy móc thiết bị và phát triển dịch vụ sau khi bán sản phẩm.
Xây dựng và phát
triển nhanh công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, chọn một số
hướng đi sớm vào hiện đại phục vụ chế tạo máy và tự động hoá một số khâu có sản
phẩm xuất khẩu. Nâng dần mức chế tạo linh kiện, phụ tùng trong nước. Phát triển
dịch vụ tin học, nhất là phần mềm ứng dụng trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa
học, sản xuất, quản lý và đời sống.
Kết hợp chặt chẽ
kinh tế với quốc phòng trong việc quy hoạch và phát triển các vùng kinh tế,
các ngành công nghiệp, lấy hiệu quả kinh tế gắn với yêu cầu bảo đảm quốc phòng,
an ninh làm cơ sở cho những chủ trương cụ thể.
Xây dựng, phát
triển công nghiệp quốc phòng, phấn đấu dần dần tự sản xuất được trang
thiết bị quan trọng, đáp ứng những nhu cầu tối thiểu cần thiết bảo đảm sức
chiến đấu của lực lượng vũ trang, từng bước tăng cường tiềm lực quốc phòng, đủ
sức bảo vệ Tổ quốc.
Nâng cao năng lực
của các ngành và các cơ sở kinh tế trong việc đáp ứng các nhu cầu vật chất, kỹ
thuật cho quốc phòng, an ninh. Bảo đảm có thể nhanh chóng huy động được mọi
tiềm lực kinh tế phục vụ quốc phòng, an ninh khi tình thế đòi hỏi.
Khai thác có hiệu
quả tiềm năng của các cơ sở công nghiệp quốc phòng để tham gia xây dựng kinh
tế. Có cơ chế,chính sách quản lý các xí nghiệp quốc phòng và lực lượng quân
đội, công an làm kinh tế theo đúng pháp luật và phù hợp với tính chất đặc thù
của quốc phòng và an ninh.
3. Chương
trình phát triển kết cấu hạ tầng.
Mục tiêu:
Phát triển kết
cấu hạ tầng vừa bảo đảm các điều kiện cần thiết cho nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội 5 năm 1996 - 2000, vừa chuẩn bị những điều kiện cho bước phát triển
sau năm 2000.
Bảo đảm sự giao
lưu thông thoát trong mọi thời tiết trên các tuyến giao thông huyết mạch, tuyến
xương sống và các tuyến nhánh đến các vùng, các trung tâm miền núi. Trong từng
vùng, điện, nứơc, giao thông, thông tin được đáp ứng tuỳ theo yêu cầu của mức
độ phát triển. Phát triển kết cấu hạ tầng vùng miền núi, nông thôn trước hết là
đường sá, thông tin, điện, nước sạch, trường học, trạm xá. Tập trung sức giải
quyết nước cho các tỉnh miền Trung, đường giao thông cho vùng núi và Đồng bằng
sông Cửu Long.
Nhiệm vụ
và giải pháp:
Khắc phục sự
xuống cấp, từng bước nâng cấp các công trình và các tuyến giao thông
trọng yếu. Đầu tư xây dựng mới theo hướng đồng bộ, hiện đại các công trình giao
thông tại các cửa khẩu (sân bay, hải cảng quốc tế), các hành lang quan trọng
nối cửa khẩu với nội địa, tại các vùng kinh tế trọng điểm, tuyến trục Bắc -
Nam.
Tập trung khôi
phục, nâng cấp từng đoạn các tuyến đường bộ trọng yếu, đặc biệt là các tuyến
quốc lộ; xây dựng một số cầu lớn. Mở rộng, nâng cấp các tuyến trục, các đường
phố chính và đường vành đai ở Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Nâng cấp
các tuyến đường bộ ở các tỉnh biên giới, miền núi; các tuyến đường đến trung
tâm các huyện vùng sâu, vùng xa.
Nâng cấp, củng cố
mạng đường sắt hiện có, bảo đảm chạy tàu an toàn, thuận lợi. Trang bị hệ thống
thông tin tín hiệu bán tự động và điện thoại tự động ở các ga lớn để bảo đảm
điều hành chạy tàu an toàn. Chuẩn bị xây dựng tuyến Hà Nội - Hạ Long, Thành phố
Hồ Chí Minh - Vũng Tàu, cải tạo tuyến đường Bắc - Nam qua đèo Hải Vân.
Mở rộng và nâng
cấp 3 sân bay quốc tế đạt dần trình độ hiện đại, có thể tiếp nhận 12 - 13 triệu
lượt hành khách/năm. Nâng cấp các sân Cát Bi, Phú Bài, Nha Trang, Cam Ly, Cà
Mau, Cần Thơ... Mở thêm các đường bay mới, tăng thêm máy bay bảo đảm nhu cầu
bay quốc tế và trong nứơc.
Củng cố, mở rộng
để tăng năng lực các cảng biển hiện có,cải tạo, mở rộng cảng Hải Phòng, chuẩn
bị và từng bước xây dựng các cảng Cái Lân, Chân Mây, Liên Chiểu, Dung Quất, Bến
Đình - Sao Mai. Xây dựng cảng Cần Thơ thành cảng trung tâm của Đồng bằng sông
Cửu Long. Nạo vét, chỉnh trị các luồng sông và nâng cấp các cảng sông chính,
bảo đảm hệ thống đường sông ở Đồng bằng Bắc Bộ có thể chạy sà lan tới 1000 tấn
và ở Đồng bằng Nam Bộ có thể cho tàu 2000 tấn đi sâu vào nội địa.
Phát triển mạng
lưới bưu chính viễn thông hiện đại, đồng bộ, thống nhất, đều khắp và đa
dịch vụ, đáp ứng tối đa nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng với chất lượng cao, giá thành hạ. Phát triển công nghiệp bưu chính viễn
thông. Năm 2000 đạt mật độ diện thoại 6 máy/ 100 dân và hầu hết các xã ở nông
thôn, vùng sâu, vùng xa đều có máy điện thoại.
Phát triển và
nâng cấp mạng lưới điện, bảo đảm cấp điện đầy đủ, ổn định cho các đô thị
và khu côngnghiệp. Đến năm 2000 sẽ có 100% huyện va 80% số xã có điện lưới và
điện tại chỗ.
Xây dựng quy
hoạch bảo vệ và khai thác hợp lý nguồn nước, đáp ứng yêu cầu của sản
xuất và đời sống. Cải thiện từng bước tình hình cấp, thoát nước ở các đô thị,
ưu tiên những nơi chưa có hệ thống cấp, thoát nước. Giải quyết cơ bản hệ thống
cấp nước Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hạ Long và
một số thị xã, khu vực trục đường 51, các khu chế xuất và khu công nghiệp. Tiếp
tục thực hiện chương trình nước sạch nông thôn, nhất là ở Đồng bằng sông Cửu
Long và vùng núi.
4. Chương
trình phát triển khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường sinh thái.
Mục tiêu:
Phát triển khoa
học và công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh, coi đó là nhân tố quan trọng để
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Xây dựng luận cứ khoa học cho
các định hướng phát triển đất nước, các chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà
nước; tiếp thu được các thành tựu khoa học và cộng nghệ thế giới, lựa chọn và
làm chủ công nghệ chuyển giao vào Việt Nam. Bước đầu phát triển một số lĩnh vực
công nghệ cao như: điện tử - tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới và tự
động hoá.
Thúc đẩy đổi mới
công nghệ trong các ngành sản xuất từ 10%/năm trở lên, đặc biệt chú ý chất
lượng công nghệ; tập trung vào việc ứng dụng công nghệ tiến bộ, đưa công nghệ
nước ta từng bước đạt trình độ trung bình của khu vực.
Tạo bước chuyển
biến rõ nét về bảo vệ môi trường sinh thái.
Nhiệm vụ
và giải pháp:
Đổi mới và nâng
cao trình độ công nghệ trong các ngành sản xuất và dịch vụ chủ yếu, đi
thẳng vào công nghệ hiện đại đối với các lĩnh vực sản xuất then chốt có tác
động đến nhiều ngành khác, các lĩnh vực sản xuất sản phẩm xuất khẩu, các lĩnh
vực đầu tư mới. Tổ chức tốt việc giám định các công nghệ nhập khẩu. Tiếp tục
hoàn thiện và đổi mới công nghệ trong một số ngành nghề truyền thống. Đổi mới
phương tiện kỹ thuật kiểm tra, đo lường, điều khiển, áp dụng kỹ thuật tự động
hoá để nâng cao chất lượng sản phẩm của các ngành sản xuất.
Phát triển các
công nghệ cao. Đến năm 2000 xây dựng được cơ sở hạ tầng truyền thông tin
học quốc gia. ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực kinh tế
quốc dân, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng và hiệu quả;
hình thành mạng thông tin quốc gia, liên kết với một số mạng thông tin quốc tế.
Phát triển công nghệ sinh học nhằm tạo ra và nhân nhanh các giống cây trồng, vật nuôi
mới; chế biến nông, lâm, thuỷ sản; sản xuất các loại vắc xin và kháng huyết
thanh, các chế phẩm chuẩn đoán bệnh nhanh và chính xác; phát triển các công nghệ
xử lý ô nhiễm môi trường. Phát triển công nghệ vật liệu, nghiên cứu chế
tạo một số vật liệu mới có hiệu quả cao, phát triển các loại vật liệu có độ bền
lớn và chịu đựơc điều kiện khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt. Phát triển kỹ thuật
tự động hoá đồng bộ ở một số nhà máy then chốt, ứng dụng công nghệ tự động hoá
ở các khâu quyết định đến chất lượng sản phẩm.
Xây dựng các khu
công nghệ cao tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, là nơi hội tụ các cơ quan
khoa học và các doanh nghiệp trong và ngoài nước, nhằm tạo ra các công nghệ cao
và các ngành công nghiệp dựa trên công nghệ cao.
Phát triển khoa
học xã hội và nhân văn, nắm vững những luận điểm cơ bản của học thuyết Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu những vấn đề lý luận của công cuộc
đổi mới và phát triển trong thời kỳ mới; làm rõ bản chất của nền kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
làm rõ vấn đề Nhà nước pháp quyền trong điều kiện Đảng cầm quyền, nâng cao vai
trò lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới; xây dựng các phương án cho tiến trình
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đaih hoá; xác định hệ thống chính sách xã hội
trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng các mục tiêu chiến lược
phát triển toàn diện con người Việt Nam; xác định các giải pháp tổ chức quản lý
xã hội, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nghiên cứu đề
xuất chiến lược an ninh - quốc phòng...
Phát triển các
ngành khoa học tự nhiên, nghiên cứu một số vấn đề cơ bản có triển vọng của
khoa học hiện tại và tương lai, nhằm tiếp cận được với trình độ thế giới trong
các lĩnh vực về toán học, điều khiển học và khoa học tính toán, về vật lý học,
cơ học, hoá học, sinh học và các khoa học về trái đất.
áp dụng các biện
pháp khoa học - công nghệ và đổi mới thể chế, chính sách quản lý nhắm nâng cao chất
lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm cả trên thị trường trong nước và nước
ngoài, tạo ra các sản phẩm xuất khẩu đạt tiêu chuẩn quốc tế, tập trung vào một
số mặt hàng chủ yếu như: gạo, cà phê, cao su, thuỷ sản, hàng may mặc, dầu khí,
cơ khí lắp ráp... Xây dựng hệ thống thể chế quản lý chất lượng và chứng nhận
chất lượng sản phẩm.
Đẩy mạnh việc bảo
hộ sở hữu công nghiệp, bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh trong cơ chế thị
trường và khuyến khích sáng tạo của các nhà khoa học và những người lao động.
Sớm xây dựng và
ban hành Luật khoa học và công nghệ, tạo lập thị trường cho hoạt động khoa học
và công nghệ; các doanh nghiệp cần coi trọng phát triển khoa học và công nghệ,
dựa vào khoa học, công nghệ để phát triển sản xuất có hiệu quả. Nhà nước có
chính sách khuyến khích ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật thông qua các biện pháp
ưu đãi về thuế, tín dụng, xuất nhập khẩu... Hỗ trợ cho các thành phần kinh tế
có nhu cầu nghiên cứu khoa học và sáng tạo công nghệ. Tiếp tục sắp xếp lại các
cơ quan khoa học và công nghệ theo hướng tập trung hơn cho các lĩnh vực khoa
học và công nghệ chiến lược, gắn nghiên cứu khoa học với giáo dục, đào tạo,
chuyển một số viện nghiên cứu chuyên ngành về trực thuộc các tổng công ty; gắn
kết các chương trình khoa học và công nghệ với các chương trình kinh tế - xã
hội, với quy hoạch phát triển các vùng lãnh thổ.
Thu hút nhiều
nguồn vốn để tăng nhanh đầu tư cho khoa học và công nghệ. Ngoài nguồn vốn hỗ
trợ từ ngân sách, cần hình thành các cơ chế chính sách huy động thêm nguồn vốn
của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, các nguồn viện trợ quốc tế, vốn
từ các chương trình kinh tế - xã hội và từ các công trình xây dựng cơ bản để
đầu tư cho khoa học và công nghệ.
Sử dụng hợp lý
tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái. Tiến hành khẩn trương việc
điều tra ô nhiễm môi trường; điều tra, đánh giá việc khai thác không hợp lý các
nguồn tài nguyên thiên nhiên gây tổn hại đến môi trườngvà đề ra các biện pháp
khắc phục hữu hiệu. Thực hiện các dự án về cải tạo, bảo vệ môi trường, xây dựng
các vườn quốc gia, khu rừng cấm, trồng cây xanh ở đô thị và các khu công
nghiệp; áp dụng các kỹ thuật tiên tiến để xử lý các chất độc hại, chất thải.
Các quy hoạch, các dự án phát triển kinh tế - xã hội, các dự án đầu tư nước
ngoài và các công trình xây dựng cơ bản đều phải được xem xét đánh giá về mặt
tác độngđối với môi trường và có biện pháp xử lý. Giải quyết dứt điểm tình
trạng suy thoái môi trường do các cơ sở sản xuất gây ra. Ngăn chặn tận gốc việc
gây ô nhiễm môi trường, trước hết là nước và không khí trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đưa diện tích phủ xanh đất nước lên đạt mức an toàn
sinh thái, bảo toàn đa dạng sinh học ở đất liền và ở biển. Bảo đảm môi trường
lao động, sinh hoạt cho con người ở các khu công nghiệp, các đô thị, vệ sinh
môi trường nông thôn. Tăng cường công tác quản lý môi trường ở tất cả các lĩnh
vực, tăng cường điều kiện bảo đảm thực hiện Luật bảo vệ môi trường.
5.
Chương trình phát triển kinh tế dịch vụ.
Mục tiêu:
Phát triển mạnh
cac loại dịch vụ, mở thêm những loại hình mới đáp ứng nhu cầu đa dạng của sản
xuất kinh doanh và đời sống.
Tạo môi trường
cạnh tranh lành mạnh trong dịch vụ. Giữ ổn định giá cả, nhất là đối với các mặt
hàng và dịch vụ thiết yếu.
Nhiệm vụ
và giải pháp:
Phát triển thương
nghiệp, bảo đảm lưư thông hàng hóa thông suốt, dễ dàng trong cả nước, nhất
là vùng nông thôn, vùng sâu và miền núi, chú trọng công tác tiếp thị trong và
ngoài nước. Thương nghiệp quốc doanh được củng cố và phát triển trong những
ngành hàng thiết yếu đối với sản xuất và đời sống, trước hết là ở những địa bàn
còn bỏ trống, nắm bán buôn, chi phối bán lẻ. Từng bước tổ chức hợp tác xã mua
bán và mạng lưới đại lý để cùng thương nghiệp quốc doanh đủ sức ngăn ngừa những
biến động bất thường, ổn định thị trường và giá cả.
Tăng cường quản
lý thị trường, hướng dẫn các thành phần kinh tế trong thương nghiệp phát triển
đúng hướng; chống trốn thuế, lậu thuế. lưu thông hàng giả.
Tăng cường vai
trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước, xử lý kịp thời mọi diễn biến bất lợi của thị
trường. Hoàn thiện hệ thống dự trữ quốc gia, dự trữ lưu thông.
Giá trị hàng hóa
bán ra trên thị trường đến năm 2000 gấp 2,5 lần năm 1995, bình quân tăng hàng
năm 20% (tính theo mặt bằng giá năm 1995).
Tăng nhanh khối
lượng, nâng cao chất lượng và độ an toàn vận tải hành khách, hàng hoá
trên tất cả các loại hình vận tải. Nâng cao năng lực đủ sức đảm nhiệm tỉ lệ thị
phần theo luật pháp và thông lệ quốc tế trong vận tải hàng không, viễn dương.
Triển khai thực
hiện quy hoạch tổn thể phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng du
lịch to lớn của đất nước theo hướng du lịch văn hoá, sinh thái môi trường. Xây
dựng các chương trình và các điểm du lịch hấp dẫn về văn hoá, di tích lịch sử
và khu danh lam thắng cảnh. Huy động các nguồn lực tham gia kinh doanh du lịch,
ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng ở những khu vực du lịch tập trung, ở các trung
tâm lớn. Nâng cao trình độ văn hoá và chất lượng dịch vụ phù hợp với cácloại
khách du lịch khác nhau.
Đẩy mạnh việc huy
động vốn trong nước đầu tư vào khách sạn. Cổ phần hóa khách sạn hiện có để huy
động các nguồn vốn vào việc đầu tư cải tạo, nâng cấp.
Liên doanh với
nước ngoài xây dựng các khu du lịch và khách sạn lớn, châta lượng cao đòi hỏi
nhiều vốn. Chuyển các nhà nghỉ nhà khách sang kinh doanh khách sạn và du lịch.
6. Chương
trình phát triển kinh tế đối ngoại.
Mục tiêu:
Tổng kim ngạch xuất
khẩu tăng bình quân hàng năm khoảng 28% (chưa kể phần xuất khẩu tại chỗ).
Tăng nhanh tỉ trọng hàng đã qua chế biến trong kim ngạch xuất khẩu, giảm tỉ
trọng xuất khẩu nguyên liệu và hàng sơ chế.
Hướng nhập
khẩu là tập trung vào nguyên liệu, vật liệu, các loại thiết bị công nghệ
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từng bước thay thế nhập khẩu
những mặt hàng có thể sản xuất có hiệu quả ở trong nước. Tổng kim ngạch nhập
khẩu tăng bình quân hàng năm 24%/
Trong 5 năm thu
hút và sử dụng có hiệu quả khoảng 7 tỉ USD từ nguồn tài trợ phát triển chính
thức (ODA) và 13 - 15 tỉ USD (tính theo mặt bằng giá 1995) từ nguồn đầu tư trực
tiếp của nước ngoài (FDI).
Cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế.
Nhiệm vụ
và giải pháp:
Mở rộng thị
trường xuất khẩu, đổi mới cơ cấu và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu.
Tăng tỉ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh, giảm mạnh việc xuất khẩu hàng thô.
Dự kiến đến năm 2000 sản phẩm xuất khẩu đã qua chế biến chiếm 80%, trong đó chế
biến sâu và tinh 50%. Tạo thêm mặt hàng, nhóm hàng xuất khẩu có khối lượng và
giá trị lớn. Tăng khối lượng các mặt hàng đặc sản có giá trị. Nhóm hàng công
nghiệp nặng và khoáng sản xuất khẩu tăng bình quân hàng năm 33%, nhóm hàng công
nghiệp nhẹ 38%, nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản 16%.
Cơ cấu nhập
khẩu: dự kiến máy móc thiết bị và phụ tùng chiếm khoảng 39% và tăng bình
quân hàng năm 25%; nguyên, nhiên, vật liệu chiếm khoảng 52% và tăng bình quân
25%; hàng tiêu dùng chiếm khoảng 9% và tăng 14%.
Củng cố vị trí ở
các thị trường quen thuộc, khôi phục quan hệ với thị trường truyền thống, tìm
thị trường và bạn hàng mới, giảm sự tập trung quá mức vào một vài thị trường.
Tạo một số thị trường và bạn hàng lâu dài về những mặt hàng xuất, nhập khẩu chủ
yếu, giảm xuất, nhập qua thị trường trung gian. Thực hiện nhất quán các chính
sách khuyến khích xuất khẩu, bao gồm cả việc bảo hiểm về giá cho hàng xuất
khẩu, điều tiết tỉ giá hối đoái hợp lý, có lợi cho xuất khẩu.
Tiếp theo việc
gia nhập ASEAN và chuẩn bị cho việc tham gia Khối mậu dịch tự do (AFTA), cần
xúc tiến việc tham gia Diễn đàn kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ
chức thương mại quốc tế (WTO), từng bước tham gia các hoạt động của Hệ thống
toàn cầu về ưu đãi thương mại với các nước đang phát triển (GSTP), áp dụng các
chuẩn mực thương mại quốc tế và lựa chọn tham gia một số hiệp hội xuất khẩu
quốc tế về từng mặt hàng xuất khẩu.
Tranh thủ thu hút
nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODA) đa phương và song phương, tập
trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, nâng cao
trình độ khoa học, công nghệ và quản lý, đồng thời dành một phần vốn tín dụng
đầu tư cho các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng. Ưu tiên
dành viện trợ không hoàn lại cho những vùng chậm phát triển. Các dự án sử
dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm trả
nợ, không được gây thêm gánh nặng nợ nần không trả đựơc. Phải sử dụng nguồn vốn
ODA có hiệu quả và kiểm tra, quản lý chặt chẽ, chống lãng phí, tiêu cực.
Đầu tư trực tiếp
của nước ngoài (FDI) hướng vào những lĩnh vực, những sản phẩm và dịch vụ
có công nghệ tiên tiến, có tỉ lệ xuất khẩu cao. Đối với những ngành không đòi
hỏi nhiều vốn và công nghệ cao, có thể sinh lợi nhanh thì phải dùng nhiều hình
thức để huy động vốn trong nước đầu tư toàn bộ hoặc chiếm tỉ lệ góp vốn cao nếu
cần liên doanh. Về địa bàn đầu tư, cần có chính sách và biện pháp hữu hiệu để
thu hút vào những nơi có tiềm năng nhưng trước mắt còn kho khăn. Hình thức đầu
tư cần tiếp tục đa dạng hoá, chú ý thêm những hình thức mới, như đầu tư tài
chính (bên ngoài góp vốn, mua cổ phần, nhưng không tham gia quản lý như xí
nghiệp liên doanh). Về đối tác đầu tư, cần tăng cường quan hệ hợp tác với các
công ty đa quốc gia để tranh thủ được công nghệ nguồn, tiếp cận cách quản lý
hiện đại và thâm nhập nhanh vào thị trường quốc tế, mở rộng được thị trường
mới.
Đi đôi với những
cố gắng thu hút thêm nguồn vốn bên ngoài, cần chú trọng nhiều hơn việc đưa vào
thực hiện những dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài đã được cấp giấp phép,
khắc phục các trở lực để đưa nhanh vào sử dụng nguồn vốn ODA đã được các nhà
tài trợ cam kết.
7. Chương
trình phát triển giáo dục và đào tạo.
Mục tiêu:
Nâng cao mặt bằng
dân trí, bảo đẩm những tri thức cần thiết để mọi người gia nhập cuộc
sống xã hội và kinh tế theo kịp tiến trình đổi mới và phát triển đất nước.
Đào tạo bồi dưỡng
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hoá.Tăng tỉ trọng số người tốt nghiệp phổ thông cơ sở (lớp
9) trong độ tuổi lao động lên 55 -60% và tỉ lệ những người lao động qua đào tạo
trong tổng số lao động lên 22 - 25% vào năm 2000, bảo đảm nguồn lao động có
chất lượng cho các lĩnh vực ứng dụng công nghệ tiên tiến. Xây dựng đội ngũ cán
bộ khoa học và công nghệ vững mạnh, đủ sức giải quyết những vấn đề được đặt ra
trong chương trình phát triển khoa học và công nghệ.
Phát hiện, bồi
dưỡng và trọng dụng nhân tài, chú trọng các lĩnh vực khoa học và công
nghệ, văn hoá - nghệ thuật, quản lý kinh tế, xã hội và quản trị sản xuất kinh
doanh.
Nhiệm vụ
và giải pháp:
Phát triển giáo
dục mầm non, tăng tỉ lệ trẻ em được chăm sóc ở các nhà trẻ hoặc nhóm trẻ,
nâng cao hiểu biết cho những người chăm sóc trẻ em ở giai đình. Đưa hầu hết trẻ
em trong độ tuổi vào lớp mẫu giáo lớn để chuẩn bị vào tiểu học.
Thanh toán nạn mù
chữ
cho những người lao động ở độ tuổi 15 - 35 và thu hẹp diện mù chữ ở các dộ tuổi
khác. Tích cực xoá mù chữ cho nhân dân ở vùng cao, vùng sâu và vùng xa và những
vùng còn khó khăn.
Hoàn thành cơ bản
phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước và phổ cập giáo dục trung học cơ
sở ở các thành phố lớn và những nới có điều kiện. Có chính sách giúp đỡ con em
người dân tộc thiểu số, gia đình nghèo, người tàn tật có điều kiện học tập.
Phát triển trường lớp nội trú, bán trú. Củng cố và tăng cường các trường
chuyên, lớp chọn. Mở thêm trường dân lập, bán công ở các cấp học phổ thông.
Thực hiện giáo dục toàn diện ở bậc tiểu học (đặc biệt là các môn nhạc, hoạ, thể
dục thể thao). Mở rộng và nâng cao chất lượng dạy ngoại ngữ, tin học từ cấp phổ
thông. Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, trang bị đủ kiến thức cần
thiết đi đôi với tạo ra năng lực tự học, sáng tạo của học sinh, khắc phục tình
trạng phải dạy thêm quá nhiều ngoài giờ học chính khoá.
Thông qua việc
cải tiến hệ thống thông tin về lao động và thông qua các chính sách, các quy
định của Nhà nước để điều chỉnh cơ cấu đào tạo một cách hợp lý, nhằm đạt tới sự
cân đối giữa đào tạo và sử dụng ở các trình độ và các ngành nghề khác nhau, đặc
biệt bảo đảm được nhân lực cho các ngành mũi nhọn và các chương trình kinh tế -
xã hội trọng điểm; tăng nhanh tỉ trọng đào tạo ngành nghề dưới bậc đại học.
Kiện toàn, phát
triển mạnh và bảo đảm chất lượng các cở sở đào tạo nghề, kể cả các cơ sở
dân lập, tư nhân, các doanh nghiệp đi đôi với tăng cường quản lý Nhà nước.
Mở rộng quy mô
một cách hợp lý và nâng cao chất lượng đào tạo đại học, kết hợp đào tạo
mới và đào tạo lại, phát triển giáo dục - đào tạo đỉnh cao nhằm lựa chọn, xây
dựng đội ngũ chuyên gia khoa học, công nghệ, văn hoá và những nhà kinh doanh
giỏi, đội ngũ công chức và cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế - xã hội có năng
lực.
Thực hiện quy
hoạch sắp xếp lại các trường đại học, cao đẳng và các viện nghiên cứu, xây dựng
các đại học đa lĩnh vực ở các trung tâm kinh tế, văn hóa của cả nước. Phát triển
các đại học và cao đẳng địa phương để đáp ứng nhu cầu học tập và phát huy nguồn
nhân lưc tại chỗ. Tranh thủ các nguồn taì trợ học bổng và khuyến khích du học
tự túc để tăng nhanh số người đi học đại học, sau đại học ở nước ngoài.
Hoàn chỉnh và
củng cố các trường sư phạm về mọi mặt, khắc phục nhanh chóng tình trạng
thiếu giáo viên và nâng cao chất lượng giáo viên ở tất cả các cấp học. Bổ sung
chính sách đãi ngộ giáo viên và có chính sách khuyến khích giáo viên tình
nguyện đến các vùng khó khăn. Sử dụng giáo viên đúng năng lực và đãi ngộ đúng
công sức với tinh thần ưu đãi nghề dậy học, chú trọng giáo viên vùng núi, vùng
sâu và các vùng khó khăn.
Tăng cường nghiên
cứu khoa học giáo dục; tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học. Kết hợp giáo
dục nhà trường với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, xây dựng môi trường
giáo dục lành mạnh.
Cụ thể hoá và thể
chế hoá chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về xã hội hoá sự nghiệp
giáo dục đào tạo, trước hết là về đầu tư phát triển và bảo đảm kinh phí
hoạt động. Ngoài việc ngân sách dành một tỉ lệ thích đáng cho sự nghiệp phát
triển giáo dục đào tạo, cần thu hút thêm các nguồn đầu tư từ các cộng đồng, các
thành phần kinh tế, các giới kinh doanh trong và ngoài nước đi đôi với việc sử
dụng có hiệu quả nguồn đầu tư cho giáo dục đào tạo. Những doanh nghiệp sử dụng
người lao động được đào tạo có nghĩa vụ đóng góp vào ngân sách giáo dục, đào
tạo. Đổi mới chế độ học phí phù hợp với sự phân tầng thu nhập trong xã hội,
loại bỏ những đóng góp không hợp lý, nhằm bảo đảm tốt hơn kinh phí giáo dục,
đồng thời cải thiện điều kiện học tập cho học sinh nghèo.
Nghiên cứu việc
tổ chức và phối hợp chỉ đạo chương trình phát triển giáo dục - đào tạo phục vụ
công cuộc hiện đại hóa đất nước. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp Nhà
nước về giáo dục, sớm xây dựng và ban hành Luật giáo dục. Định rõ trách nhiệm,
mở rộng quyền hạn và nâng cao năng lực quản lý cho các cơ sở đào tạo, trước hết
là các trường đại học. Đổi mới và tăng cường công tác quản lý giáo dục, đặc
biệt ở các cấp vĩ mô, để kiểm soát được chất lượng đào tạo, điều hành được bộ
máy giáo dục ở quy mô ngày càng lớn và bảo đảm được hiệu quả đoà tạo đúng mục
tiêu mong muốn.
8. Chương
trình giải quyết các vấn đề văn hoá - xã hội
Mục tiêu:
Giải quyết việc
làm, phát triển toàn diện các mặt hoạt động về văn hoá, thông tin, thể
dục thể thao, y tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình và các mặt xã hội khác
nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất, tinh thần và thể lực của dân tộc,
đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và hội nhập vào cộng đồng quốc tế.
Kết hợp hài hoà
giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội, tạo bước
chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi
tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội.
Nhiệm vụ
và giải pháp:
Nhanh chóng triển
khai chương trình quốc gia giải quyết việc làm, tạo điều kiện cho mọi
người lao động tự tạo, tự tìm việc làm. Mỗi năm thu hút thêm 1,3 - 1,4
triệu lao động có chỗ làm việc. Trong chỉ đạo thực hiện sẽ tạo thêm cơ hội cho
người lao động tự tạo và tìm việc làm để có thể đưa mức thu hút lao động hàng
năm lên cao hơn. Giảm tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5% và nâng tỉ lệ
sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 75%.
Tổ chức thực hiện
và kiểm tra việc thi hành Luật lao động, tăng cường việc bảo vệ người
lao động, trọng tâm là ở các doanh nghiệp. Tiếp tục cải tiến chế độ lương, làm
cho tiền lương thật sự gắn liền với năng xuất, chất lượng, hiệu quả; trở thành
thu nhập chính và là động lực đối với người lao động.
Mở rộng chế độ bảo
hiểm xã hội đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế, áp dụng
bắt buộc đối với các cơ quan, các doanh nghiệp. Tổ chức quản lý và sử dụng tốt
các quỹ bảo hiểm; bảo đảm đời sống của người nghỉ hưu. Mở rộng các quỹ làm việc
nghĩa, việc thiện của nhân dân.
Phát triển và
nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thông tin đại chúng
và các phương tiện vui chơi giải trí đáp ứng nhu cầu đời sống văn hoá - tinh
thần của nhân dân. Chú trọng các vùng miền núi, biên giới, hải đảo và các vùng
nông thôn có nhiều khó khăn.
Tăng nhanh số
lượng các sản phẩm văn hoá, văn học nghệ thuật, báo chí có chất lượng cao về
nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật. Tăng cường đầu tư cải tạo và xây dựng
hệ thống các cơ sở văn hoá thông tin từ trung ương đến địa phương đựơc quy
hoạch lại theo hướng hoạt động đa năng, gắn hoạt động văn hoá với du lịch, thể
thao và vui chơi giải trí. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình văn hóa có
tầm cỡ quốc gia ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và tại các trung tâm lớn của
đất nước.
Từng bước hiện
đại hoá các ngành phát thanh, truyền hình, điện ảnh, in, xuất bản. Nâng cao
chất lượng các chương trình phát thanh và truyền hình, tăng công suất phát sóng
truyền thanh, truyền hình, kể cả ra nước ngoài. Đến năm 2000, phấn đấu để có
khoảng 80% số hộ có thể xem truyền hình Trung ương; 95% số hộ được nghe Đài
Tiếng nói Việt Nam. Tiếp tục thực hiện ba chương trình quốc gia về văn hoá -
thông tin: bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử và các di sản văn hoá dân tộc;
phát triển điện ảnh Việt Nam; xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, trong đó chú
trọng vấn đề gia đình văn hoá, làng bản văn hoá, nếp sống văn minh đô thị. Mở
rộng giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao với các dân tộc, nhất là với
các nước trong khu vực. Tăng cường các biện pháp và phối hợp lực lượng của toàn
xã hội, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, đấu tranh bền bỉ và mạnh mẽ nhằm
ngăn chặn, loại trừ các văn hoá phẩm độc hại và các tệ nạn xã hội.
Đổi mới cơ chế
quản lý theo hướng xã hội hoá các hoạt động văn hoá - thông tin, đồng thời tiếp
tục xây dựng và hoàn chỉnh các chế độ chính sách phù hợp với đặc điểm của ngành
(như trợ giá, đặt hàng, vốn, thuế đối với sản phẩm văn hoá; chế độ thu sự
nghiệp văn hoá, chính sách huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước...) nhằm
bảo đảm sự nghiệp văn hoá - thông tin phát triển nhanh trong quá trình đổi mới,
giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Có chính sách chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của đội
ngũ những người làm công tác văn hoá, văn nghệ.
Cải thiện các chỉ
tiêu cơ bản về sức khoẻ cho mọi người, từng bước nâng cao thể trạng và
tầm vóc, trước hết là nâng cao thể lực bà mẹ, trẻ em.
Tạo chuyển biến
nhanh trong việc thực hiện chiến lược dân số cả về quy mô, cơ cấu và sự
phân bố, tập trung trước hết vào mục tiêu mỗi cặp vợ chồng không có quá hai con
và được nuôi dậy tốt; giảm nhanh tỉ lệ phụ nữ sinh con thứ ba trở lên. Ngoài
việc đầu tư thêm kinh phí vào phương tiện kỹ thuật, cần tăng cường giáo dục
truyền thông, bổ sung các chính sách về hạn chế sinh đẻ, củng cố hệ thống quản
lý dân số, kế hoạch hoá gia đình các cấp có mạng lưới đến tận thôn xóm, đường
phố. Giảm nhịp độ phát triển dân số xuống dưới 1,8% vào năm 2000.
Thực hiện chương
trình dinh dưỡng quốc gia, giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi
từ 42% hiện nay xuống còn dưới 30% năm 2000 và không còn suy dinh dưỡng nặng,
đưa tỉ lệ dân số có mức ăn dưới 2.100 Kcalo/ngày xuống dưới 10%, chăm sóc phụ
nữ có thai, sinh đẻ, giảm tỉ lệ tử vong của phụ nữ khi đẻ xuống 0,5 phần nghìn,
của trẻ em dưới 1 tuổi xuống dưới 30 phần nghìn, của trẻ em dưới 5 tuổi xuống
dưới 55 phần nghìn.
Giảm hẳn tỉ lệ
mắc bệnh và tỉ lệ chết do các bệnh nhiễm khuẩn, ký sinh trùng như sốt rét, lao,
bệnh ỉa chảy và viêm phổi ở trẻ em. Mở rộng việc phòng, chống bệnh bứơu cổ,
thực hiện toàn dân ăn muối có trộn iốt. Thanh toán bệnh bại liệt, phong, uốn
ván ở trẻ sơ sinh, nhanh chóng dập tắt các ổ dịch, phòng chống bệnh dại. Chống
tệ nghiện hút, mại dâm; ngăn chặn nhiễm HIV/AIDS và tổ chức điều trị những
người đã mắc.
Phát triển các
dịch vụ khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ ban đầu của y tế nhà nước,
y tế dân lập. Thí điểm hình thức liên doanh giữa cơ sở y tế nhà nước với nước
ngoài cả về y và dược. Phát triển y học cổ truyền dân tộc, kết hợp y học cổ
truyền với y học hiện đại. Chấn chỉnh tổ chức quản lý ngành dược, đổi mới công
nghệ, mở rộng mặt hàng và nâng cao chất lượng sản phẩm của các cơ sở sản xuất
và cung ứng thuốc, thiết bị y tế.
Tăng chi ngân
sách và huy động nhiều nguồn vốn khác để đầu tư xây dựng và nâng cấp các cơ sở
y tế. Đến năm 2000, tất cả các xã trong nước đều có trạm y tế, 40% trạm có bác
sỹ, tất cả các trạm có y sĩ sản, nhi hoặc nữ hộ sinh, các thôn có y tá. Tất cả
các huyện đều có trung tâm y tế đủ sức làm nhiệm vụ của tuyến hỗ trợ thứ nhất.
Trung tâm y tế của tất cả các tỉnh có đủ thiết bị chủ yếu cho các khoa, đủ sức
làm nhiệm vụ của tuyến hỗ trợ thứ hai. Tiếp tục xây dựng hai trung tâm y tế
chuyên sâu tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Cải thiện chính
sách và chế độ thù lao đối với cán bộ y tế, nhất là cán bộ y tế cơ sở và ở miền
núi. Đa dạng hoá các loại hình bảo hiểm y tế. Xoá bỏ sự phân biệt giữa
khám chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm và theo chế độ thu phí dịch vụ. Có chính
sách giải quyết viện phí cho người nghèo và nhân dân các vùng xa xôi, hẻo lánh.
Giảm đáng kể nhà
ổ chuột ở thành thị. Phần lớn nhà ở nông thôn được xây dựng chắc chắn và
có công trình vệ sinh, chú ý vùng đồng băng sông Cửu Long.
Tạo bước tiến mới
của phong trào thể dục thể thao, đạt 8 - 10% số dân tập luyện thể dục
thể thao, 50% trường học các cấp thực hiện giáo dục thể chất có nền nếp, hình
thành hệ thống đào tạo tài năng quốc gia, nâng cao thành tích các môn thể thao.
Xây dựng quy hoạch và xúc tiến đầu tư phát triển các cơ sở vật chất về thể dục
thể thao cho các trường học và các địa bàn dân cư. Xây dựng các trung tâm thể
thao quốc gia. Tăng cường đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học của ngành thể
dục thể thao.
Phát triển các
hoạt động tình nghĩa trong xã hội, chăm sóc tốt hơn người có công với nước,
gia đình liệt sỹ, thương binh, những người có khó khăn trong cuộc sống, người
tàn tật, người già không nơi nương tựa và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn.
9. Chương
trình phát triển các vùng lãnh thổ.
Mục tiêu:
Tạo điều kiện cho
tất cả các vùng đều phát triển trên cơ sở khai thác thế mạnh và tiềm năng của
mỗi vùng để hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và liên kết giữa các vùng, tạo nên
sự phát triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ của cả nước.
Kết hợp sự phát
triển có trọng điểm với sự phát triển toàn diện các vùng lãnh thổ, giảm bớt chênh
lệch về nhịp độ phát triển giữa các vùng.
Nhiệm vụ
và giải pháp:
Miền núi và các
vùng có nhiều khó khăn, trước hết những địa bàn xung yếu, những khu căn cứ
cách mạng, những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người cần được ưu
tiên đầu tư, tạo những điều kiện ban đầu để khai thác đựơc các lợi thế và nguồn
lực tại chỗ, tăng sức thu hút đầu tư, chất xám từ các nơi khác. Nhà nước dành
viện trợ không hoàn lại và vốn vay theo điều kiện ưu đãi của nước ngoài để đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, trước hết là đường giao thông,
mạng lưới điện, giáo dục, đào tạo,chăm sóc sức khoẻ. áp dụng chính sách ưu đãi
về thuế, tín dụng, chuyển giao kỹ thuật, sử dụng đất đai. Khuyến khích hình
thành những tụ điểm kinh tế có khả năng thúc đấy kinh tế hàng hoá, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, đa dạng hoá ngành nghề, phát triển công nghiệp chế biến; đẩy
mạnh giao lưu hàng hoá, mở mang dịch vụ. Tích cực thực hiện chương trình xoá
đói, giảm nghèo, định canh định cư, thiết lập trật tự trong việc di dân. Đặc biệt
quan tâm nâng cao dân trí. Trong chỉ đạo điều hành phải có quyết tâm cao và
biện pháp mạnh mẽ để đưa miền núi đi lên, thu hẹp dần tình trạng cách biệt với
các vùng phát triển.
Những vùng nông
thôn đồng bằng có nhiệm vụ chiến lược là bảo đảm vững chắc an toàn lương
thực quốc gia, cung cấp đầy đủ thực phẩm với chất lượng ngày càng cao cho các
thành phố, khu công nghiệp và tăng nhanh xuất khẩu, kể cả xuất khẩu tại chỗ.
Chú trọng phát triển đồng đều giữa các vùng đồng bằng và nâng cao hiệu quả kinh
tế. Khắc phục tình trạng vùng chuyên canh lúa bị nghèo và thiệt hơn các vùng
nông thôn khác, trước hết bằng chính sách tín dụng, giá cả và thuế. Khuyến
khích phát triển chăn nuôi hàng hoá (kể cả nuôi trồng thuỷ sản), công nghiệp
chế biến nông, lâm,thuỷ sản, cơ khí sửa chữa và chế tạo ở trình độ thích hợp,
sản xuất vật liệu xây dựng, phát triển các ngành nghề truyền thống kết hợp với
ngành nghề mới; đẩy mạnh công nghiệp làm hàng xuất khẩu, vệ tinh gia công cho
các trung tâm công nghiệp; phát triển tổng hợp các ngành dịch vụ. Chuyển bớt
lao động nông nghiệp sang khu vực phi nôngnghiệp tại chỗ, giảm bớt sức ép về
lao động và dân số đối với các đô thị lớn.
Vùng biển và ven
biển là địa bàn chiến lược về kinh tế và an ninh quốc phòng, có nhiều lợi
thế phát triển và là cửa mở lớn của cả nước để đẩy mạnh giao lưu quốc tế, thu
hút đầu tư nước ngoài. Khai thác tối đa tiềm năng và các lợi thế của vùng biển,
ven biển, kết hợp với an ninh, quốc phòng, tạo thế và lực để phát triển mạnh
kinh tế - xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển của Tổ quốc.
Xây dựng cơ cấu
kinh tế trong vùng hướng mạnh về xuất khẩu, kết hợp khai thác kinh tế ven biển,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc quyền tài phán quốc gia, theo quy
ước Luật biển quốc tế. Chú trọng kinh tế hải đảo và các căn cứ xuất phát ven
biển. Quy hoạch phát triển kinh tế biển trong một chương trình liên kết
các ngành kinh tế quan trọng như dầu khí, hải sản, vận tải biển, công nghiệp,
khoáng sản biển, đóng và sửa chữa tàu biển, dàn khoan, du lịch và dịch vụ biển,
hình thành một số ngành mũi nhọn có công nghệ tiên tiến hiện đại, có giá trị
xuất khẩu lớn, tạo nguồn tích luỹ cao và ổn định cho nền kinh tế quốc dân.
Phát triển đồng
bộ và hiện đại hoá kết cấu hạ tầng ven biển và các huyện đảo, gắn với vùng kinh
tế trọng điểm. Hình thành các trung tâm kinh tế biển, các đô thị lớn,
các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu du lịch và thương mại với hệ thống các
cảng biển được mở rộng và xây dựng mới, nhất là các cảng nước sâu. Phát triển
các hành lang kinh tế ven biển, trước hết là các dải Hải Phòng - Hạ Long - Móng
Cái, Huế - Quảng Ngãi, Vũng Tàu - Bà Rịa...
Quy hoạch và xây
dựng chương trình phát triển kinh tế hải đảo, trước hết tập trung vào
một số đảo quan trọng về kinh tế và quốc phòng, an ninh như: Phú Quốc, Thổ Chu,
Côn Sơn, Phú Quý, Lý Sơn, Cát Bà, Cô Tô, Vĩnh Thực, Bạch Long Vĩ...Đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng như các công trình thiết yếu về cầu cảng, đường sá, cấp
điện, nước, thông tin liên lạc...Có chính sách ưu đãi đặc biệt để khuyến khích
dân ra định cư phát triển kinh tế đảo, nâng cao đời sống và bảo đảm điều kiện
cần thiết cho các chiến sỹ trên đảo. Nhà nước dành thêm vốn tín dụng ưu đãi cho
dân vay để phát triển nghề cá biển khơi. Tăng cường các hoạt động điều tra cơ
bản, khoa học và công nghệ về biển. Đặc biệt quan tâm bảo vệ tài nguyên và môi
trường ven biển và biển. Đầu tư thích đáng cho việc tăng cường, củng cố an
ninh, quốc phòng, bảo vệ vững chăc chủ quyền và lợi ích quốc gia trên vùng
biển, đảo. Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về quản lý,
khai thác biển, ven biển và các hải đảo.
Khu vực đô thị có lợi thế và
điều kiện phát triển nhanh; các thành phố lớn đóng vai trò trung tâm giao lưu
kinh tế trong vùng và quốc tế. Hình thành mạng lưới đô thị mang chức năng trung
tâm khu vực hay tiểu vùng để phát huy tác động của công nghiệp và dịch vụ đến
các vùng khác, nhờ đó mà có thể khai thác nhiều hơn, có hiệu qủa hơn các tiềm
năng của mỗi vùng. Tuỳ điều kiện từng nơi, tất cả các thị xã, thị trấn đều phải
được phát triển trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp và dịch vụ mang ý nghĩa tiểu
vùng. Hình thành các thị tứ làm trung tâm kinh tế, văn hoá cho mỗi xã hoặc cụm
xã.
Phát triển các đô
thị vệ tinh xung quanh các thành phố lớn để dãn bớt công nghiệp và dân cư,
tránh sự tập trung quá mức vào Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Tạo điều kiện cần
thiết để thu hút công nghiệp và phát triển đô thị mới lên vùng đồi trung du,
tránh sử dụng nhiều diện tích đất lúa. Hạn chế mở rộng quy mô các thành phố
lớn. Sớm quy hoạch mạng lưới đô thị lớn, vừa và nhỏ trong toàn quốcphù hợp với
trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển đô thị phải đi đôi với việc
xây dựng đồng bộ và quản lý các công trình công cộng (điện, cấp thoát nước, cây
xanh...).
Coi trọng việc
kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và văn hoá, giữ gìn bản sắc và truyền
thống dân tộc với tiến lên hiện đại trong phát triển đô thị.
Ba vùng kinh tế
trọng điểm ở ba miền Bắc, Trung, Nam có điều kiện tăng trưởng kinh tế
nhanh hơn nhịp độ chung của cả nước, cung ứng cho cả nước nhiều sản phẩm và
dịch vụ cần thiết, phát huy vai trò trung tâm về công nghiệp, dịch vụ, thương
mại, tài chính, khoa học kỹ thuật, là cửa ngõ giao lưu quốc tế. Phát triển ba
vùng trọng điểm phải kết hợp chặt chẽ, phục vụ và thúc đẩy cho sự phát triển
các vùng khác và cả nước, tạo điều kiện để các doanh nghiệp ở vùng trọng điểm
để mở vùng kinh doanh và đầu tư ra các vùng khác.
10. Chương
trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc.
Mục tiêu:
Khai thác mọi
nguồn lực địa phương và huy động sức của cả nước để tạo bước tiến nhanh hơn về
kinh tế - xã hội, ổn định đời sống, cải thiện môi trường, môi sinh.
Phấn đấu tăng
trưởng kinh tế với tốc độ bằng hoặc cao hơn mức bình quân chung cả nước; năm
2000 GDP bình quân đầu người đạt gấp đôi năm 1994.
Các khu vực miền
núi và vùng đồng bào dân tộc đều phải có bước phát triển, khu vực có điều kiện
thuận lợi phải phát triển với tốc độ cao hơn để thúc đẩy, hỗ trợ các khu vực
khác cùng phát triển.
Tăng trưởng kinh
tế phải kết hợp hài hoà với phát triển xã hội - văn hoá, bảo đảm an ninh
- quốc phòng, phấn đấu khoảng cách giữa các vùng về mặt tiến bộ xã hội.
Nhiệm vụ:
Công nghiệp.
Phát triển công
nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu. Sắp xếp và đầu tư chiều sâu các cơ sở
hiện có.
Phát triển công
nghiệp nhỏ, thủ công nghiệp ở những vùng sâu, vùng xa, khuyến khích các nghề
thủ công truyền thống.
Xây dựng các cơ
sở sản xuất vật liệu xây dựng, đẩy mạnh công tác thăm dò và khai thác khoáng
sản.
Hoàn thành đúng
tiến độ các công trình thuỷ điện đang xây dựng và chuẩn bị một số công trình
mới ở Sơn La, Sông Gâm, Tây Nguyên...
Nông - lâm
nghiệp.
Giải quyết lương
thực theo quan điểm kinh tế hàng hoá. Mở rộng diện tích lương thực ở vùng có
điều kiện thuỷ lợi, chuyển đổi cơ cấu cây trồn hợp lý đi đôi với thâm canh tăng
năng suất bằng áp dụng tiến bộ kỹ thuật về giống, phân. Bảo đảm tốc độ lương
thực sản xuất tại chỗ hàng năm 3,4 - 4% và năm 2000 đạt bình quân đầu người 250
- 280 kg. Mở rộng giao lưu với các vùng để bả đảm an toàn lương thực.
Đưa độ che phủ
rừng vào năm 2000 trên 40%. Hình thành hệ thống rừng phòng hộ đầu nguồn xung
yếu và vùng nguyên liệu giấy, gỗ trụ mỏ.
Đưa diện tích cây
công nghiệp dài ngày từ 179 nghìn ha năm 1994 lên gấp đôi vào năm 2000, trong
đó cao su 166 nghìn ha; cà phê 101 nghìn ha và chè 97 nghìn ha. Phát triển mạnh
chăn nuôi, nhất là chăn nuôi, nhất là chăn nuôi đại gia súc.
Gắn phát triển
lâm nghiệp với công tác định canh, định cư. ổn định sản xuất và đời sống của
các hộ mới định canh, định cư. Tiếp tục đầu tư để hoàn thành các dự án của
chương trình 327, ưu tiên hằng năm mở thêm 80 - 100 dự án cho vùng đang còn du
canh, du cư. Năm 2000 cơ bản hoàn thành công tác định canh , định cư trong cả
nước.
Kết cấu hạ tầng
và dịch vụ.
Về giao thông,
đầu tư nâng cấp các đường quốc lộ; tuyến đường dọc biên giới và các tuyến đường
đến các huyện, xã vùng cao. Gắn việc phân bố lại dân cư với việc xây dựng đường
sá để giao thông phục vụ tốt các điểm dân cư. Đến năm 2000, hầu hết các xã hoặc
cụm xã đều có đường ô tô đến trung tâm.
Về năng lượng,
năm 2000 có 100% huyện lỵ có điện và khoảng 60 -70% xã có điện.
Về thuỷ lợi, đẩy
mạnh công tác xây dựng các hồ chứa nước bảo đảm tưới tiêu cho các vùng sản xuất
lương thực và cây công nghiệp tập trung; cung cấp nước cho công nghiệp và đô
thị, kết hợp với phát điện nếu có điều kiện. Tiếp tục thực hiện chương trình
nước sạnh nông thôn, năm 2000 có 80% số dân được dùng nước sạch.
Xây dựng và phát
triển đo thị, thị trấn, thị tứ để thúc đẩy và hỗ trợ vùng nông thôn miền núi
phát triển, đưa tỉ lệ dân đô thị từ 14% năm 1994 lên 18% năm 2000. Hình thành
các điểm thương mại cấp vùng, thị xã, huyện và cụm xã. Nhà nước trợ giá một số
mặt hàng cơ bản (muối iốt, dầu, giấy học sinh...). Khuyến khích các thành phần
kinh tế tham gia đầu tư và cung cấp hàng hoá trong vùng. Phấn đấu xuất khẩu đạt
tốc độ tăng bình quân hàng năm 20 - 30%.
Bảo tồn và khai
thác vẻ đẹp cảnh quan thiên nhiên và các di tích lịch sử để phát triển du lịch.
Thực hiện chương
trình phát thanh, truyền hình, chương trình phát triển thông tin liên lạc; năm
2000 đạt 100% số huyện có trạm phát lại truyền hình, hầu hết số xã có trạm điện
thoại.
Phát triển mạng
lưới y tế, giáo dục ở xã, bản: năm 2000 có 100% số xã có trạm y tế, có sơ sở
dược, bảo đảm cung cấp đủ các loại thuốc thông thườngcho nhân dân, có đủ phương
tiện khám và chữa các loại bệnh thông thường; phổ cập giáo dục tiểu học và xoá
mù chữ cho những người trong độ tuổi. Mở rộng các hình thức giáo dục, củng cố
và phát triển các trường dân tộc nội trú, bán trú.
Giảm tỉ lệ nghèo
vào năm 2000 xuống dưới 30% số hộ, không còn hộ đói.
Giải pháp
chủ yếu:
Khu vực I, gồm
các trung tâm đo thị, thị trấn và khu công nghiệp, hiện nay chiếm khoảng 0,1%
diện tích tự nhiên và 15% dân số của các tỉnh và huyện miền núi. GDP bình quân
đầu người cao hơn mức bình quân chung cả nước. Cơ chế đầu tư ở đây chủ yếu là
huy động từ cộng đồng và vốn vay, tạo nên thị trường nội vùng và làm đầu mối
giao lưu giữa miền núi với các vùng khác trong cả nước; phát triển với nhịp độ
cao hơn mức bình quân cả nước để thúc đẩy sự phát triển của vùng.
Khu vực II, gồm
các vùng đệm giữa các khu vực đô thị và vùng sâu, vùng xa, vùng cao, hiện nay
chiếm gần 15% diện tích tự nhiên và 25% dân số của các tỉnh và huyện miền núi;
GDP bình quân đầu người năm 1994 bằng 70% mức trung bình cả nước. Mật độ đường
giao thông còn thấp, mới có 0,18 km/km3. Cơ chế đầu tư đối với khu
vực này là có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước về hạ tầng, huy động vốn từ cộng
đồng và vốn tín dụng. Xoá đói và định canh, định cư 100%; giảm tỉ lệ nghèo
xuống dưới 30% trước năm 2000.
Khu vực III, là
khu vực khó khăn nhất, hiện chiếm 85% diện tích tự nhiên và 60% dân số của các
tỉnh và huyện miền núi, gồm khu vực vùng cao, vùng sâu, điều kiện sống và dịch
vụ, hạ tầng cực kỳ khó khăn; đất nông nghiệp thiếu, chưa đủ điều kiện tiến lên
sản xuất hàng hoá; GDP bình quân đầu người năm 1994 chỉ bằng 31% mức trung bình
cả nước. Mật độ đường giao thông chỉ có 0,09 km/km2, còn 464 xã chưa
có đường ô tô đến. Mục tiêu của khu vực này đến năm 2000 là xoá đói, giảm
nghèo, đưa số hộ nghèo từ 70% hiện nay xuống dưới 40%; 100% định cư. Nhà nước
phải có biện pháp tập trung vốn ngân sách đầu tư theo chương trình tổng hợp và
có sự chỉ đạo chặt chẽ giúp chi khu vực này phát triển nhanh, giúp các tỉnh
biên giới phía Bắc trụ dân lại.
Vốn đầu tư ngân
sách cho miền núi và vùng đồng bào dân tộc sẽ được tập trung hỗ trợ xây dựng các
cơ sở giao thông, điện, giống cây con, trường học, trạm y tế, bệnh viện. Vốn
tín dụng tập trung hỗ trợ phát triển nông - lâm nghiệp, xoá đói, giảm nghèo.
Lồng ghép các
chương trình phát triển trên địa bàn miền núi và vùng đồng bào dân tộc để đầu
tư một cách đồng bộ, thiết thực đối với lợi ích của đồng bào các dân tộc. áp
dụng cách quản lý đặc thù về đầu tư đối với miền núi trong từng khu vực cụ thể.
Có chính sách ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc, nâng cao năng
lực cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo ở các cấp chính quyền, cán bộ quản lý kinh
tế. Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Ban hành các chính sách khuyến khích cán bộ
công tác ở vùng cao, vùng sâu, cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi. Tổ
chức các đội trí thức mới ra trường tình nguyện xuống các bản, làng giúp đồng
bào dân tộc.
11. Chương
trình về xoá đói, giảm nghèo.
Mục tiêu:
Giảm tỉ lệ nghèo
đói trong tổng số hộ của cả nước từ 20 - 25% hiện nay xuống còn khoảng 10% vào
năm 2000, bình quân giảm 300 nghìn hộ/năm.
Trong 2 - 3 năm
đầu của kế hoạch 5 năm, tập trung xoá về cơ bản nạn đói kinh niên.
Cơ chế
chính sách đối với người nghèo và xã nghèo:
Hiện nay có 14
chương trình quốc gia và dự án được thực hiện có nội dung gắn với xoá đói,giảm
nghèo. Từ năm 1996 sẽ lồng ghép chương trình xoá đói, giảm nghèo với các chương
trình khác, trong đó lấy chương trình quốc gia về giải quyết việc làm và về phủ
xanh đất trống đồi núi trọc làm nòng cốt.
Bổ sung các chính
sách giúp cho người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo tổ chức sản xuất, bảo đảm
cuộc sống và nâng lên khá giả, trước mắt tập trung vào các chính sách sau đây:
ủy ban nhân dân
các cấp tỉnh, huyện rà soát lại toàn bộ diện tích đất đai trên địa bàn lãnh
thổ, thu hồi đất đai đã cấp không đúng đối tượng, không đúng chính sách; thu
hồi đất đã cấp cho các doanh nghiệp, các cơ quan sử dụng không đúng mục đích,
để giao cho các hộ nông dân nghèo chưa được giao đất hoặc giao chưa đủ mức. Vận
động và giúp đỡ hộ nông dân nghèo đến các vùng kinh tế mới mau chóng ổn định
sản xuất và đời sống.
Mở rộng các quỹ
tín dụng cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất, với lãi suất ưu đãi. Các hộ nghèo
được ủy ban nhân dân xã, phường chứng nhận được vay vốn không phải thế chấp.
Thông qua ngân hàng phục vụ người nghèo và các quỹ hỗ trợ của các tổ chức đoàn
thể bảo đảm 90 - 95% số hộ nghèo được vay vốn sản xuất, trong đó các hộ thuộc
đối tượng chính sách, các hộ đói nghèo nhất được ưu tiên vay trước. Nguồn vốn
để thực hiện mục tiêu này bao gồm vốn tự có của ngân hàng, vốn của các chương
trình, vốn của quỹ xoá đói, giảm nghèo, vốn tài trợ quốc tế kể cả vốn
vay, vốn hỗ trợ của ngân sách nhà nước...
Các cơ sở đào tạo
và các trung tâm dạy nghề của Nhà nước thực hiện việc đào tạo nghề miễn phí đối
với con em các hộ nghèo; đồng thời hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp
nhận tuyển con em các hộ nghèo vào đào tạo và làm việc.
Xây dựng đội ngũ
những người tình nguyện, bao gồm các cán bộ kỹ thuật, sinh viên mới tốt nghiệp
và những nông dân làm ăn giỏi trong vùng, để hướng dẫn cách làm ăn và phổ biến
các biện pháp kỹ thuật giúp đỡ người nghèo sản xuất kinh doanh.
Đối với các vùng
cao, vùng sâu, vùng xa sản phẩm tiêu thụ khó khăn, giá thấp, Nhà nước thông qua
các doanh nghiệp nhà nước tiêu thụ sản phẩm và trợ giá.
Xây dựng chính
sách tài trợ đầu tư 6 loại công trình xã hội thiết yếu cho 1.300 xã nghèo nhất
(đường ôtô và đường dây điện đến trung tâm xã; nước sạch cho dân cư; phòng học
cho học sinh cấp I, II, xoá lớp 3 ca; trạm y tế; chợ tại xã hoặc liên
xã).
Con em các
hộ nghèo đi học các trường phổ thông đều được miễn học phí (hoặc được cấp học
bổng để đóng học phí); ở bậc tiểu học được mượn sách giáo khoa, cấp không vở
viết và được miễn mọi khoản đóng góp khác. Đối với các hộ quá khó khăn có thể
xét trợ cấp thêm học bổng. Tổ chức các lớp học tình thương cho con em người
nghèo do những giáo viên tình nguyện giảng dạy.
Các học sinh giỏi
là con em các hộ nghèo, nhất là con em đồng bào các dân tộc ít người, được ưu
tiên xét học bổng hàng năm.
Cấp miễn phí thẻ
bảo hiểm y tế cho các hộ nghèo theo số người trong gia đình. Các tỉnh, thành
phố có điều kiện, có thể thành lập cơ sở khám chữa bệnh nhân đạo cho người
nghèo.
Phối hợp các
chương trình xã hội khác như: Dân số, kế hoạch hoá gia đình, chống sốt rét,
bưới cổ, tiêm chủng mở rộng, phòng chống tệ nạn xã hội và chương trình
hành động quốc gia vì trẻ em 1991 - 2000 để chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo.
Tổ chức điều tra
xác định số hộ nghèo đói do mất khả năng lao động và xây dựng tiêu chuẩn chính
sách trợ cấp cụ thể theo chính sách cứu tế xã hội nhằm ổn định đời sống
lâu dài cho họ.
Phần thứ ba
CÁC GIẢI
PHÁP VÀ CHÍNH SÁCH CHỦ YẾU
I- một số
cân đối lớn của kế hoạch 5 năm 1996 - 2000
1. Cân đối
tài chính.
Cân đối
tích luỹ - tiêu dùng:
Đổi mới các cơ
chế chính sách về kinh tế và xã hội để hướng dẫn tiêu dùng của dân cư phù hợp
với khả năng của nền kinh tế. Dự kiến 5 năm tới tiêu dùng bình quân đầu người
tăng hàng năm khoảng 6%, gần gấp đôi nhịp độ tăng của 5 năm trước và đến
năm 2000 bằng 1,5 lần so với năm 1990. Tích luỹ và đầu tư phát triển tăng bình
quân hàng năm 15%. Toàn bộ tích luỹ tài sản gộp của 5 năm bằng khoảng 33% so
với GDP (5 năm 1991 - 1995, tỉ lệ này là 24,6%) bao gồm: tích luỹ tài sản
cố định chiếm phần chủ yếu (khoảng 90%), tích luỹ tài sản lưu động và tăng dự
trữ tài sản quý hiếm.
Về
ngoại tệ:
Trong 5 năm 196 -
2000 dự kiến nguồn ngoại tệ vào nước ta khoảng 88 - 90 tỉ USD; trong đó, từ
xuất khẩu khoảng 58 - 60 tỉ USD, nếu kể cả xuất khẩu tại chỗ (cả hàng hoá lẫn
dịch vụ) thì tổng ngoại tệ thu tư xuất khẩu khoảng 64,5 đến 67 tỉ USD; từ nguồn
vay nợ và viện trợ, khoảng 7 - 8 tỉ USD; còn lại là nguồn đầu tư trực tiếp,
kiều hối...
Tổng chi ngoại tệ
trong 5 năm dự kiến 86 - 87 tỉ USD, trong đó, chi nhập khẩu 75 tỉ USD;
chi phí dịch vụ của các ngành hàng không, bưu điện, du lịch... khoảng 2 tỉ USD;
còn lại là chi trả nợ, các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển lợi nhuận
về nước...
Như vậy theo dự
báo ban đầu, trong 5 năm 196 - 2000, nguồn ngoại tệ vào nước ta sẽ tăng nhanh.
Tuy còn nhập siêu lớn nhưng cán cân thanh toán quốc tế có thể vẫn bội thu. Vì
vậy, sức mua của đồng tiên Việt Nam so với ngoại tệ mạnh có tăng lên,
nhưng chưa lành mạnh và không lợi cho xuất khẩu, cần phải có các giải pháp hữu
hiệu để hạn chế tình trạng này.
2. Cân đối
ngân sách nhà nước.
Dự kiến bố
trí cân đối ngân sách như sau:
Tổng thu ngân
sách nhà nước trong 5 năm 1996 - 2000 khoảng 21 - 22% GDP, trong đó thu thuế và
phí khoảng 20 - 21% GDP (1991 - 1995 là 20%, riêng 1995: 21,6%).
Tổng chi ngân
sách nhà nước khoảng 24 - 25% GDP (1991 - 1995 là 25,5%); trong đó, chi tiêu
dùng thường xuyên khoảng 14% GDP; trả nợ khoảng 3.5% GDP, dành cho đầu tư phát
triển khoảng 6,5 - 7% GDP (1991 - 1995 là 6,4%) và bằng 26% tổng số chi ngân
sách nhà nước. Bội chi ngân sách khoảng 3 - 3,5% GDP và dự kiến bù đắp bằng
nguồn vốn vay trong nước trên 50%, vay dài hạn ngoài nước dưới 50%.
Các chính
sách và giải pháp thực hiện:
Tiếp tục cải cách
hệ thống thuế bước 2, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới nền kinh tế và phù
hợp với thông lệ quốc tế, nhưng không làm giảm nguồn thu ngân sách. Trong chỉ
đạo điều hành, ngoài việc tận thu thuế và phí theo luật định, phải vừa nuôi
dưỡng, làm tăng nguồn thu, vừa triệt để khai thác các nguồn thu khác (đất đai,
tài nguyên, nhà cửa, trụ sở...) để tăng thu ngân sách, đáp ứng tốt hơn nhu cầu
chi tiêu ngày càng tăng của Nhà nước. Đồng thời, để từng bước thực hiện công
bằng xã hội, cần sửa đổi, bổ sung các sắc thuế, điều tiết có hiệu quả thu nhập
của các tầng lớp dân cư.
Bảo đảm chi
tiêu dùng thường xuyên ở mức cần thiết hợp lý, tiết kiệm, ưu tiên cho nhiệm vụ
đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, tiếp thu công nghệ hiện đại, bảo vệ
sức khoẻ nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh và giải quyết các vấn đề bức xúc
trong lĩnh vực xã hội...
Trên cơ sở đẩy
mạnh sản xuất và triệt để tiết kiệm trong sản xuất cũng như trong tiêu dùng mà
tăng nhanh vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Đối với vốn từ nước ngoài, phải đảm bảo
sử dụng có hiệu quả và trả được nợ.
Tốc độ tăng chi
tiêu dùng thường xuyên phải thấp hơn tốc độ tăng chi cho đầu tư và thấp hơn tốc
độ tăng chi ngân sách.
Để chủ động hơn
trong điều hành, ngân sách hằng năm phải có dự phòng thích đáng và có quỹ dự
trữ tài chính gối đầu cho năm sau.
Từng bước giảm
dần bội chi ngân sách, không bù đắp bội chi bằng phát hành tiền dưới bất kỳ
hình thức nào. Vay dân, vay nước ngoài phải tính toán hiệu quả, đặc biệt phải
nhanh chóng chấm dứt tình trạng vay ngắn hạn với lãi suất cao làm tăng gánh
nặng trả nợ cho ngân sách.
3. Cân đối
vốn đầu tư.
Trong công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước theo đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ
trương huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong
đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng,
kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể tranh thủ ở bên ngoài.
Chiến lược lâu dài là phải huy động tối đa nguồn vốn trong nước để chiếm tỉ lệ
cao trong đầu tư. Tuy nhiên, những năm đầu thời kỳ công nghiệp hoá đòi hỏi
nguồn vốn lớn, mà vốn trong nước còn hạn hẹp, nên phải huy động thêm nguồn vốn
bên ngoài cho nhu cầu đầu tư phát triển, trên nguyên tắc bảo đảm hiệu quả
kinh tế và trả được nợ. Để đảm bảo tốc độ GDP tăng 9 - 10%/năm thì vốn đầu tư
xã hội trong 5 năm tới phải đạt 41- 42 tỉ USD (tính theo mặt bằng giá 1995,
trong đó vốn trong nước chiếm trên 50%. Tăng nhanh mức huy động vốn thông qua
các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển và m ở rộng thị trường vốn bằng
nhiều hình thức như: tiền gửi tiết kiệm dài hạn, phát hành trái phiếu, cổ
phiếu, kể cả việc phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp ra
thị trường quốc tế, mở rộng các quỹ đầu tư và các hình thức huy động nguồn vốn
nước ngoài. Từng bước hình thành thị trường chứng khoán.
Dự kiến cơ
cấu các nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội như sau:
Tổng vốn đầu tư
từ ngân sách (bao gồm cả nguồn tích luỹ từ thu ngân sach trong nước và
một phần vốn ODA) chiếm 21%; vốn tín dụng nhà nước 7%; vốn doanh nghiệp nhà
nước tự đầu tư 24% (bao gồm khấu hao cơ bản để lại, lợi nhuận sau thuế, vay một
phần ODA và vay trên thị trường vốn); vốn đầu tư của dân khoảng 17%; vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) khoảng 31%.
Nếu tính riêng cơ
cấu vốn đầu tư trong nước, thì vốn đầu tư ngân sách chiếm 25%, vốn tín dụng nhà
nước chiếm 14%, vốn doanh nghiệp chiếm 28%, vốn của dân chiếm 33%.
Định hướng đầu tư
phát triển toàn xã hội đối với các ngành và lĩnh vực kinh tế chủ yếu như sau:
nông, lâm, ngư nghiệp, thủy lợi chiếm 20%; công nghiệp chiếm 43%; hạ tầng giao
thông bưu điện chiếm 18%; hạ tầng xã hội, giáo dục, y tế, văn hoá, môi trường,
khoa học công nghệ chiếm 14%; và đầu tư khác 5%.
Phần vốn nhà nước
có thể chi phối trực tiếp được bao gồm: ngân sách nhà nước, tín dụng nhà nước
và doanh nghiệp nhà nước đầu tư chiếm trên 52%; trong đó cơ cấu nguồn vốn
từ ngân sách được định hướng như sau: nông, lâm, ngư nghiệp, thủy lợi
chiếm 22%; giao thông, bưu điện chiếm 35%; hạ tầng xã hội chiếm 35%; các
ngành khác gần 10%.
Vốn đầu tư của
các doanh nghiệp ưu tiên cho đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ. Đối với vốn
đầu tư của dân và nguồn vốn FDI. Nhà nước thông qua cơ chế chính sách để định
hướng, nhằm thực hiện cơ cấu đầu tư toàn xã hội đã nêu trên.
Một số
quan hệ lớn về phân bổ nguồn vốn đầu tư:
Giữa vùng kinh tế
trọng điểm với các vùng khác:
Trong khi tập
trung đúng mức cho 3 vùng kinh tế trọng điểm, phải đặc biệt coi trọng nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng biên giới, vùng biển, đảo,
vùng đồng bào dân tộc, vùng căn cứ cách mạng, dành nguồn lực thích đáng để giải
quyết nhu cầu bức xúc của các vùng khác.
Vốn ngân sách nhà
nước và vốn ODA dành cho các dự án do các ngành trung ương trực tiếp quản
lý sẽ được phân bổ đều cho các vùng để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội. Vốn đầu tư của ngân sách do địa phương quản lý bố trí khoảng 30% cho 3
vùng kinh tế trọng điểm và 70% cho các vùng khác. Riêng vốn đầu tư của các
doanh nghiệp, của dân cư và đầu tư trực tiếp của nước ngoài, tỉ lệ đầu tư ở các
vùng trọng điểm có thể cao hơn.
Giữa các ngành
công nghiệp:
Vốn đầu tư cho
các ngành công nghiệp chế biến cho tiêu dùng và xuất khẩu chiếm 12% tổng vốn
đầu tư toàn xã hội (khoảng 30% vốn đầu tư cho các ngành công nghiệp).
Vốn đầu tư cho
các ngành công nghiệp nặng chiếm 30% vốn đầu tư toàn xã hội (khoảng 70% vốn đầu
tư cho các ngành công nghiệp) để xây dựng có chọn lọc một số công trình có nhu
cầu cấp bách đối với sự phát triển kinh tế, xã hội, có điều kiện về vốn, về thị
trường và hoạt động có hiệu quả như điện, dầu và khí, xi măng, thép...
I- CHÍNH
SÁCH ĐỐI VỚI CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ VÀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ
1. Thực
hiện tốt chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần.
Tiếp tục đổi mới
và phát triển có hiệu quả khu vực kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò
chủ đạo. Xác định những ngành và lĩnh vực cần tập trung nguồn lực để củng cố và
phát triển doanh nghiệp nhà nước; phân định rõ và có cơ chế quản lý thích hợp
đối với doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp kinh doanh. Tiếp tục tổ chức lại
và sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ.
Tổng kết kinh nghiệm, hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý để triển khai tích cực và
vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo thêm động lực mới
trong quản lý, huy động thêm vốn cho yêu cầu phát triển và điều chỉnh cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước. Trong quá trình cổ phần hoá, tiền thu được do bán cổ
phần của Nhà nước phải đầu tư lại để mở rộng sản xuất kinh doanh làm cho tài
sản thuộc sở hữu của Nhà nước ngày càng tăng lên, chứ cổ phần hoá không đồng
nghĩa với tư nhân hoá. Có chính sách cụ thể tạo điều kiện và khuyến khích người
lao động trong doanh nghiệp mua cổ phần hoặc góp vốn vào doanh nghiệp. Bảo đảm
các nguyên tắc công khai, đấu thầu, đấu giá trong cổ phần hoá, ngăn ngừa việc
xâm phạm tài sản nhà nước. Xác định rõ nhiệm vu, quyền hạn và sự phối hợp giữa
các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước và thực hiện vai trò chủ sở
hữu của Nhà nước đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước có góp vốn.
Tổng kết, rút
kinh nghiệm và mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng của người
lao động trong các ngành nghề trên cơ sở góp cổ phần và lao động trực tiếp của
xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, bảo đảm nguyên tắc tự
nguyện và cơ chế quản lý dân chủ, công khai về tài chính và kinh doanh. Thực
hiện tốt Luật hợp tác xã. Nhà nước khuyến khích, giúp đỡ kinh tế hợp tác phát
triển có hiệu quả.Tranh thủ nguồn vốn tài trợ quốc tế cho khu vực kinh tế này.
Phát triển đa
dạng các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước, bao gồm các hình thức hợp tác, liên
doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và với tư bản nước
ngoài, nhằm động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản
lý.. .của các nhà tư bản vì lợi ích của công cuộc xây dựng đất nước. áp dụng
nhiều phương thức góp vốn liên doanh giữa kinh tế nhà nước với các nhà kinh
doanh tư nhân trong nước nhằm tạo thế, tạo lực cho các doanh nghiệp Việt Nam
phát triển, tăng sức hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài. Khuyến khích các ngân
hàng thương mại, các công ty tài chính và các doanh nghiệp nhà nước hùn vốn và
huy động các thành phần kinh tế khác cùng góp vốn thực hiện các dự án, hoặc để
tăng tỉ lệ góp vốn của phía Việt Nam trong các công trình hợp tác, liên doanh
với bên ngoài.
Giúp đỡ kinh
tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, công nghệ, thị trường
và kinh nghiệm quản lý để mở rộng và nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất , kinh
doanh. Hướng dẫn và có chính sách thích hợp khuyến khích họ tự tổ chức hoặc
tham gia vào các tổ chức kinh tế hợp tác và các hình thức liên doanh, liên kết
với kinh tế nhà nước.
Thực hiện các
biện pháp chính sách để khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân đầu tư vào
sản xuất trong các ngành, các lĩnh vự phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát
triển của đất nước. Bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện
thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có
lợi cho quốc kế dân sinh. Khuyến khích các cổ phần doanh nghiệp dành cổ phần ưu
đãi để bán cho người lao động tại doanh nghiệp. Xây dựng quan hệ hợp tác giữa
chủ và thợ trên cơ sở thực hiện Luật lao động, bảo đảm lợi ích hợp pháp của cả
hai bên.
2. Hoàn
thiện cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới các công cụ
quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Xây dựng đồng bộ
các loại thị trường, tạo môi trường cho sự vận động nămg động và có trật tự của
cơ chế thị trường.
Chăm lo giải
quyết việc làm cho người lao động đi đôi với việc tăng cường vai trò của Nhà
nước trong tổ chức quản lý và hướng dẫn việc sử dụng và thuê mướn lao động. Cụ
thể hoá và thực hiện các quy định trong Bộ Luật lao động, bảo đảm quyền của
người lao động tự do tìm việc làm. Thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động
và trả lương theo hợp đồng ký kết giữa người lao động và người sử dụng lao
động.
Ban hành những quy
định cụ thể về sở hữu và sử dụng bất động sản, về quyền sử dụng đất. Quy định
việc tính giá chuyển quyền sử dụng đất trong giá trị bất động sản. Tiền tệ hoá
bất động sản thuộc sở hữu Nhà nước làm cơ sở cho việc thực hiện chính sách đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng, chính sách cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà
nước, chính sách phát triển các khu công nghiệp và khu dân cư mới, chính sách
về nhà ở. Đối với đất nông nghiệp, ban hành quy định cụ thể cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất, trên nguyên tắc tuân theo quy hoạch và bảo đảm an toàn lương
thực. Kiểm soát việc tích tụ ruộng đất canh tác, vừa khuyến khích sản xuất hàng
hoá vừa ngăn chặn người làm nông nghiệp không có đất sản xuất. Khuyến khích các
thành phần kinh tế khai hoang, phục hoá, mở rộng diện tích đất nông nghiệp.
Phát triển thị
trường công nghệ đi đôi với triển khai thực hiện pháp lệnh vè sở hữu công
nghiệp và xúc tiến việc ban hành thể chế về quyền tác giả.
Phát triển thị
trường vốn bằng nhiều hình thức thu hút tiền gửi trung, dài hạn qua ngân hàng
và các công ty tài chính để cho vay đầu tư phát triển. Mở rộng việc phát hành
trái phiếu, cổ phiếu và xúc tiến chuẩn bị về thể chế, cán bộ và các điều kiện
cần thiết cho việc thiết lập thị trường chứng khoán và bảo đảm sự hoạt động
lành mạnh của thị trường này.
Tiếp tục hoàn
thiện và mở thêm nhiều loại hình thị trường hàng hoá và dịch vụ, với sự tham
gia bình đẳng của các thành phần kinh tế. Nghiên cứu ban hành luật bảo đảm cạnh
tranh cà kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, chống cạnh tranh không lành mạnh
và chống hạn chế thương mại. Mở rộng đi đôi với việc tổ chức lại thị trường nội
địa trên các vùng đô thị, nông thôn và miền núi.
Tiếp tục đổi mới
công tác kế hoạch hoá, hướng vào nâng cao chất lượng xây dựng chiến lược và quy
hoạch phát triển các ngành, các vùng và toàn bộ nề kinh tế. Xây dựng các chương
trình, kế hoạch phát triển dài hạn, trung hạn. Nâng cao chất lượng các cân đối
lớn và dự báo những khả năng và xu hướng phát triển làm cơ sở cho việc đề ra
các mục tiêu kinh tế, các chính sách, giải pháp và định hướng về phân bổ nguồn
lực để thực hiện.
Nâng cao chất
lượng xây dựng, thẩm định các dự án đầu tư. Thiết lập quy chế kết hợp chặt chẽ
việc xây dựng kế hoạch, quy hoạch với việc hoạch định chính sách và thể chế để
dẫn dắt, điều hành nền kinh tế theo định hướng kế hoạch, xử lý kịp thời những
mất cân đối và những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện kế hoạch.
Tiếp tục cải cách
và xây dựng hệ thống tài chính, tiền tệ thành công cụ điều tiết vĩ mô nhạy bén
và phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế. Tiếp tục đổi mới chính sách thuế
theo hướng vừa bảo đảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, vừa khuyến khích sản
xuất kinh doanh và thúc đẩy thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng để
tăng tích luỹ. Đơn giản hoá hệ thống thuế và biểu thuế suất; nâng tính ổn định
của thuế, áp dụng thuế TVA thay cho thuế doanh thu; bổ sung thuế và phí sử dụng
tài nguyên thiên nhiên không tái tạo. Xây dựng quy chế bảo đảm chi ngân sách
tiết kiệm và có hiệu quả, nâng dần tỉ lệ chi cho đầu tư phát triển, kiềm chế bội
chi. Thực hiện chế độ kiểm soát chi ngân sách và tài chính công thông qua kho
bạc và kiểm toán Nhà nước. Sớm hoàn thiện chính sách tài chính quốc gia, thực
hiện tốt Luật ngân sách Nhà nước, đặc biệt là những quy định về phân cấp ngân
sách.
Hoàn thiện cơ chế
phát hành tiền và kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện. Mở rộng các hình thức
thanh toán không dùng tiền mặt. Tiếp tục chuyển các ngân hàng thương mại sang
cơ chế kinh doanh đầy đủ. Phát triển ngân hàng phục vụ người nghèo với lãi suất
ưu đãi và thể thức cho vay thích hợp. Sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh ngân hàng và
nâng lên thành luật. Cho phép các định chế tài chính kinh doanh đa dạng, phát
triển mạnh các dịch vụ tài chính, ngân hàng theo đúng pháp luật và các quy định
quản lý của Ngân hàng Nhà nước. Khuyến khích phát triển, đa dạng hoá hoạt động
kinh doanh bảo hiểm của các thành phần kinh tế và mở ra hợp tác với nước ngoài;
đổi mới cơ chế và tổ chức quản lý bảo hiểm xã hội. Quy định rõ quy mô và phạm
vi hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, phát huy tác dụng
tích cực của họ trong việc đổi mới công nghệ ngân hàng, đồng thời bảo đảm sự
kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước.
Đổi mới từng bước
cơ chế quản lý ngoại hối phù hợp với điều kiện thực tế. Xác định tỉ giá hợp lý
của đồng tiền Việt Nam với một số ngoại tệ có quan hệ nhiều trong giao dịch,
từng bước làm cho đồng tiền Việt Nam có giá trị chuyển đổi đầy đủ.
3. Tiếp
tục đổi mới cơ chế kinh tế đối ngoại, đẩy nhanh quá trình hội nhập với kinh tế
khu vực và thế giới.
Trên cơ sở xác
định những mặt hàng luật pháp cấm kinh doanh, một số mặt hàng chỉ Nhà nước được
kinh doanh và một số mặt hàng phải quy định hạn ngạch, cho phép các đơn vị, chủ
yếu là các đơn vị sản xuất có đăng ký kinh doanh đựơc tham gia hoạt động xuất,
nhập khẩu với sự quản lý và hướng dấn của Nhà nước. Cải tiến phương thức và cơ
chế phân bổ hạn ngạch xuất, nhập khẩu.
Xây dựng đồng bộ
chính sách khuyến khích xuất khẩu, bao gồm sự giúp đỡ về điều kiện sản xuất
kinh doanh, chuyển giao công nghệ, tiếp thị và ưu đãi về thuế; hoàn thiện quy
chế hoạt động của quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Tách thuế nhập khẩu, không nhập làm một
với thuế doanh thu (hoặc TVA) và thuế tiêu thụ đặc biệt; thu hẹp biểu thuế suất
và giảm dần mức thuế nhập khẩu. áp dụng danh mục và sự phân loại hàng hoá, quy
chế hải quan phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định chung của các nước ASEAN,
chuẩn bị cho tiến trình gia nhập khối mậu dịch tự do AFTA. Thực hiện bảo hộ sản
xuất có chọn lọc và có thời hạn bằng các biện pháp thích hợp, hỗ trợ các cơ sở
sản xuất nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và ngăn chặn buôn lậu.
Thống nhất từng
bước chính sách đối với đầu tư trong nước và dầu tư nước ngoài. Thử nghiệm việc
cho phép công ty và người nước ngoài mua cổ phiếu của các công ty cổ phần trong
nước kể cả các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, trong hạn mức quy định theo
ngành nghề kinh doanh.
Xây dựng quy chế
và xác định rõ trách nhiệm của cơ quan hành chính các cấp trong việc kiểm tra
thực hiện các dự án đã được cấp giấy phép, giải quyết các trở ngại đối với việc
thực hiện dự án, kiểm soát các doanh nghiệp đã đi vào hoạt động. Bổ sung quy
chế thành lập và hoạt động của các văn phòng đại diện công ty nước ngoài tại
Việt Nam, tạo thuận lợi cho công ty nước ngoài xúc tiến đầu tư, kinh doanh,
đồng thời bảo đảm sự quản lý của Nhà nước, ngăn chặn và xử lý kịp thời những
hoạt động trái pháp luật Việt Nam.
4. Cải
cách hành chính.
Nội
dung cải cách nền hành chính đề ra trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp
hành Trung ương (khoá VII) cần được triển khai thực hiện tích cực theo chương
trình, kế hoạch. Tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ban hành các luật mới như: Luật thương
mại, Luật ngân hàng, Luật hải quan, Luật bưu chính viễn thông, Luật điện, Luật
xây dựng, Luật khoa học và công nghệ, Luật tài nguyên nước...Sửa đổi bổ sung
các luật và pháp lệnh hiện hành về thuế, về khuyến khích đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, về công ty, về doanh nghiệp tư nhân... Cải tiến
việc ban hành văn bản pháp quy thi hành luật; bảo đảm tính thống nhất về nội
dung, tính kịp thời và hiệu lực thi hành luật sau khi ban hành. Đẩy mạnh cải
cách cơ bản thủ tục hành chính. Hoàn thành sớm việc ban hành và công bố các văn
bản pháp quy về thủ tục hành chính đã được sửa đổi. Rà soát văn bản pháp quy ở
các cấp, xoá bỏ các quy định do ngạnh, địa phương ban hành trái với các văn bản
pháp quy của Quốc hội và Chính phủ; xây dựng quy chế thông tin đối với dân về
các quyết định và công việc của Nhà nước. Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên
truyền và giáo dục pháp luật; huy động lực lượng của các đoàn thể chính trị, xã
hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận động
thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống và
làm việc theo pháp luật trong cơ quan nhà nước và trong xã hội.
Sắp xếp lại bộ
máy hành chính ở trung ương và địa phương, hợp nhất một số cơ quan quản lý
chuyên ngành về kinh tế trên cơ sở xác định rõ và thực hiện đúng chức năng quản
lý nhà nước của các bộ, ngành. Cụ thể hoá sự phân cấp quản lý nhà nước giữa các
cơ quan của Chính phủ với các cấp chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp hành chính; cụ
thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ phù hợp với yêu cầu nâng cao hiệu lực chỉ
đạo, điều hành thống nhất và thông suốt của hệ thống hành chính nhà nước và của
thủ trưởng cơ quan hành chính. Bổ sung quy định về kiểm tra hành chính, chú
trọng việc kiểm tra thường xuyên thông qua chế độ báo cáo, kế toán, kiểm toán;
khắc phục tình trạng nhiều đoàn kiểm tra, thanh tra chồng chéo lên nhau, gây
phiền hà và tốn kém cho cơ sở.
Ban hành quy chế
công chức và chế độ công vụ, quy chế thi tuyển hoặc kiểm tra, sát hạch khi
tuyển dụng hoặc đề bạt chức vụ. Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo mới và trẻ hoá
đội ngũ cán bộ, công chức. Thực hiện quy hoạch bồi dưỡng và sắp xếp lại theo
tiêu chuẩn chức danh; bố trí lại công việc hoặc đưa ra khỏi bộ máy những người
không đủ năng lực thực thi nhiệm vụ; kiên quyết xử lý và sa thải những người
thoái hoá, biến chất. Tăng cường biện pháp và phối hợp lực lượng đẩy mạnh đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí, cửa quyền trong bộ máy quản lý nhà nước
và các tổ chức kinh tế nhà nước.
Xúc tiến thành
lập Toà hành chính trong Toà án nhân dân, bổ sung thể chế làm căn cứ cho việc
xét xử. Xác định mô hình tổ chức và thủ tục tố tụng phù hợp với đặc điểm của
các vụ kiện hành chính. Tuyển chọn và đào tạo bồi dưỡng thẩm phán hành chính.
Kính thưa Đại
hội,
Thưa các đồng chí
và các bạn,
Đại hội lần thứ
VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
họp vào thời điểm lịch sử có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Công cuộc đổi mới toàn
diện mở đầu từ Đại hội VI đã trải qua gần 10 năm. Từ đó đến nay, nước ta đã có
những thay đổi to lớn và sâu sắc. Đại hội VIII có nhiệm vụ kiểm điểm kết
quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, tổng kết 10 năm đổi mới, đề
ra những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của toàn Đảng và toàn dân ta trong
thời kỳ mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà nhiệm vụ trung tâm là
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phần thứ
nhất
ĐẤT NƯỚC
SAU 10 NĂM ĐỔI MỚI
Từ cuối những năm
70, khi nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, Đảng ta, trên cơ sở tổng
kết thực tiễn và những kinh nghiệm sáng tạo của nhân dân, đã đề ra nhiều chủ
trương đổi mới từng phần. Tuy vậy, những nhược điểm của mô hình xây dựng chủ
nghĩa xã hội lúc đó về căn bản chưa được khắc phục. Đất nước bị bao vây, cấm
vận. Trong quá trình thực hiện những biện pháp cải cách, chúng ta lại
phạm một số sai lầm mới nên khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra ngày càng gay
gắt, tỉ lệ lạm pháp lên đến 774,7% vào năm 1986.
Cuối năm 1986,
tại Đại hội VI, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật”, Đảng ta đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng
định những mặt làm được, phân tích những sai lầm, khuyết điểm, đề ra đường lối
đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Sau Đại hội VI,
công cuộc đổi mới được triển khai mạnh mẽ. Nhưng tình hình diễn biến phức tạp,
có lúc khó khăn tưởng chừng khó vượt qua: ba năm liền lạm pháp ở mức ba con số;
đời sống của những người hưởng lương và trợ cấp xã hội giảm sút mạnh;
nhiều xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã tiểu, thủ công nghiệp đình đốn, thua
lỗ, sản xuất cầm chừng, thậm chí phải đóng cửa; hàng chục vạn công nhân buộc
phải rời xí nghiệp; hàng vạn giáo viên phải bỏ nghề; những vụ đổ vỡ quỹ tín
dụng xảy ra ở nhiều nơi. Những diễn biến quốc tế phức tạp tác động xấu đến tình
hình nước ta.
Trong hoàn cảnh
đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã tỏ rõ bản lĩnh vững vàng, ra sức khắc phục
khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội
cấp bách, từng bước đưa Nghị quyết Đại hội VI vào cuộc sống. Đầu năm 1988 có
nạn đói lớn ở nhiều vùng và lạm phát còn ở mức 393,8%, nhưng từ năm 1989 trở đi
nước ta đã bắt đấu xuất khẩu được mỗi năm 1-1,5triệu tấn gạo; lạm phát giảm
dần, đến năm 1990 còn 67,4%. Việc thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn đạt
những tiến bộ rõ rệt. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bước đầu hình thành. Đời sống của
nhân dân được cải thiện, dân chủ trong xã hội được phát huy. Quốc phòng, an
ninh được giữ vững; hoạt động đối ngoại được mở rộng, đẩy lùi tình trạng vị bao
vây, cô lập. Công tác xây dựng Đảng có tiến bộ. Lòng tin của nhân dân từng bước
được khôi phục.
Tuy vậy, những
kết quả đạt được còn hạn chế và chưa vững chắc, nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh.
Đại hội VII của Đảng nhận định: Công cuộc đổi mới đã đạt được
những thành tựu bước đầu rất quan trọng, nhưng nước ta vẫn chưa ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội.
Đại hội VII đã
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000, Báo cáo
chính trị và Điều lệ Đảng (sửa đổi). Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát cho 5 năm
1991-1995 là : vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã
hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng. Đại hội long
trọng tuyên bố: Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Sau Đại hội VII,
sự tan rã của Liên Xô đã tác động sâu sắc đến nước ta. Đông đảo cán bộ và nhân
dân lo lắng, một số người dao động, hoài nghị về tiền đồ của chủ nghĩa xã hội.
Quan hệ kinh tế giữa nước ta với các thị trường truyền thống bị đảo lộn. Trong
khi đó, Mỹ vẫn tiếp tục cấm vận. Một số thế lực thu địch đẩy mạnh những hoạt
động gây mất ổn định chính trị và bạo loạn lật đổ. Nước ta một lần nữa lại đứng
trước nước thử thách hiểm nghèo.
Đảng ta và nhân
dân ta kiên trì đường lối đổi mới, ra sức thực hiện Nghị quyết của Đại hội VII,
vượt qua khó khăn, trở ngại, giành nhiều thắng lợi mới to lớn.
I- THÀNH
TỰU
1- Đẩy
nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu chủ yếu
của kế hoạch 5 năm.
Trong 5 năm
1991-1995, nhịp độ tăng bình quân hăng năm về tổng sản phẩm trong nước
(GDP)đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5 – 6,5%), về sản xuất công nghiệp là 13,3%, sản
xuất nông nghiệp 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển
đổi: tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6% năm 1990 đến 29,1% năm
1995; dịch vụ từ 39,6% lên 41,9%. Bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.
Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội năm 1990 chiếm 15,8% GDP; năm 1995 là 27,4%
(trong đó nguồn đầu tư trong nước chiếm 16,7% GDP). Đến cuối năm 1995, tổng vốn
đăng ký của các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 19 tỉ USD, gần
1/3 đã được thực hiện. Lạm phát từ mức 67,1% năm 1991 giảm xuống còn 12,7% năm
1995.
Hoạt động khoa
học và công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thích nghi
dần với cơ chế thị trường.
Quan hệ sản xuất
được điều chỉnh phù hợp hơn với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng.
2- Tạo
được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội.
Đời sống vật chất
của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ
giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm. Mỗi năm thêm hơn 1 triệu lao động có việc làm.
Nhiều nhà ở và đường giao thông được nâng cấp và xây dựng mới ở cả nông thôn và
thành thị.
Trình độ dân trí
và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục, đào
tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao,
thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hóa gia đình và nhiều hoạt động xã hội
khác có những mặt phát triển và tiến bộ.
Người lao động
được giải phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp lý, phát huy được
quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong tìm việc làm, tăng
thu nhập, tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội.
Chủ trương đền ơn
đáp nghĩa đối với người có công với nước được toàn dân hưởng ứng, phong trào
xóa đói, giảm nghèo và các hoạt động từ thiện ngày càng mở rộng, đang trở thành
một nét đẹp mới trong xã hội ta.
Lòng tin của nhân
dân vào chế độ và tiền đồ của đát nước, vào Đảng và Nhà nước được nâng lên.
3- Giữ
vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh.
Chúng ta đã giữ
vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường hòa bình của đất nước,
tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới.
Đảng đã định rõ
phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới, tiếp tục thực hiện có kết quả việc điều chỉnh chiến lược quốc phòng,
an ninh. Các nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống lực lượng
vũ trang được đáp ứng tốt hơn. Chất lượng và sức chiến đấu của quân đội và công
an được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng
cố. Công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được tăng
cường.
4- Thực
hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.
Trên cơ sở Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã
từng bước cụ thể hóa đường lối đổi mới trên các lĩnh vực, củng cố Đảng và chính
trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội; đã
ban hành Hiến pháp mới năm 1992, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều văn bản
pháp luật quan trọng, tiến hành cải cách một bước nền hành chính Nhà những,
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội từng bước đổi mới
nội dung và phương thức hoạt động, đạt hiệu quả thiết thực hơn. Quyền làm chủ
của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hóa
được phát huy. Các tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc đoàn kết, gắn bó
trong sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đồng bào ta ở
nước ngoài cũng ngày càng hướng về quê hương vì đại nghĩa ấy.
5. Phát
triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích cực
vào đời sống cộng đồng quốc tế.
Chúng ta đã triển
khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa,
đa dạng hóa. Khôi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với Trung
Quốc; tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt với Lào; xây dựng quan hệ
tốt với Campuchia; phát triển quan hệ với các nước trong khu vực, trở thành
thành viên đầy đủ của tổ chức ASEAN; củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống với
nhiều nước, từng bước đổi mới quan hệ với Liên bang Nga, các nước trong Cộng
đồng các quốc gia độc lập và các nước Đông Âu; mở rộng quan hệ với các nước
công nghiệp phát triển; bình thường hóa quan hệ với Mỹ; thiết lập và mở rộng
quan hệ với nhiều nước Nam Á, Nam Thái Bình dương, Trung Đông, châu Phi và Mỹ latinh;
mở rộng quan hệ với Phong trào không liên kết, các tổ chức quốc tế và khu vực.
Đảng ta tiếp tục
phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng sản và công nhân, các
phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong trào tiến bộ trên thế giới; thiết
lập quan hệ với các đảng cầm quyền ở một số nước. Mở rộng hoạt động đối ngoại
của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội. Phát triển quan hệ với các tổ chức
phi chính phủ trên thế giới.
Đến nay nước ta
đã có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, có quan hệ buôn bán với trên 100
nước. Các công ty của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào nước
ta. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế dành cho ta viện trợ không hoàn lại hoặc
cho vay để phát triển.
Thành tựu trên
lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững hòa bình, phá
thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế của nước ta trên thế
giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó
cũng là sự đóng góp tích cực của nhân ta vào sự nghiệp chung của nhân dân thế
giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
II- KHUYẾT
ĐIỂM VÀ YẾU KÉM
Cùng với việc
đánh giá đúng thành tựu, cần nhận rõ những khuyết điểm và yếu kém.
1- Nước ta
còn nghèo và kém phát triển. Chúng ta lại chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản
xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư phát triển.
Đến nay nước ta
vẫn còn là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới; trình độ phát triển
kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất
- kỹ thuật còn lạc hậu, nợ nần nhiều. Trong khi nhu cầu vốn đầu tư phát triển
rất lớn và cấp bách, một số cơ quan nhà nước, đảng, đoàn thể, tổ chức kinh tế,
một bộ phận cán bộ và nhân dân lại tiêu xài lãng phí, quá mức mình làm ra, chưa
tiết kiệm để dồn vốn cho đầu tư phát triển. Nhà nước còn thiếu chính sách để
huy động có hiệu quả nguồn vốn trong dân. Năm 1995, đầu tư xây dựng cơ bản bằng
vốn trong nước (kể cả nguồn vốn khấu hao cơ bản) chỉ chiếm 16,7% GDP, trong đó
phần vốn ngân sách chỉ chiếm 4,2% GDP, còn rất thấp so với yêu cầu phát triển
kinh tế. Sử dụng nguồn lực còn phân tán, kém hiệu quả, chưa kiên quyết tập
trung cho các chương trình, dự án kinh tế - xã hội cấp thiết.
2- Tình
hình xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết.
Nạn tham nhũng,
buôn lậu, lãng phí của công chưa ngăn chặn được. Tiêu cực trong bộ máy nhà
nước, đảng và đoàn thể, trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất là trên các lĩnh
vực nhà đất, xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, thuế, xuất nhập khẩu và cả trong
hoạt động của nhiều cơ quan thi hành pháp luật,… nghiêm trọng kéo dài. Việc làm
đang là vấn đề gay gắt. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và
nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh. Đời sống một bộ phận nhân
dân, nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, vùng đồng bào
dân tộc, còn quá khó khăn. Chất lượng giáo dục, đào tạo, y tế ở nhiều nơi rất
thấp. Người nghèo không đủ tiền để chữa bệnh và cho con em đi học. Trong khi đó
các nguồn tài chính từ ngân sách và những nguồn lực khác có thể huy động được
cho yêu cầu phúc lợi xã hội vừa rất hạn chế vừa chưa được sử dụng có hiệu quả.
Tình trạng ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường sinh thái, hủy hoại tài nguyên
ngày càng tăng. Văn hóa phẩm độc hại lan tràn. Tệ nạn xã hội phát triển. Trật
tự an toàn xã hội còn nhiều phức tạp.
3- Việc
lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng vừa buông lỏng.
Chậm tháo gỡ các
vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế quốc dân. việc thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước làm
chậm. Chưa quan tâm tổng kết thực tiễn, kịp thời chỉ ra phương hướng, biện pháp
đổi mới kinh tế hớp tác, để hợp tác xã ở nhiều nơi tan rã hoặc chỉ còn là hình
thức, cản trở sản xuất phát triển; chưa kịp thời đúc kết kinh nghiệm, giúp đỡ
các hình thức kinh tế hợp tác mới phát triển. Chưa giải quyết tốt một số chính
sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát huy tiềm năng, đồng thời chưa quản lý
tốt thành phần kinh tế này. quản lý kinh tế hợp tác liên doanh với nước ngoài
có nhiều sơ hở.
4- Quản lý
nhà nước về kinh tế, xã hội còn yếu.
Hệ thống luật
pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm.
Công tác tài chính,
ngân hàng, giá cả, kế hoạch hóa, quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn nhiều
yếu kém; thủ tục hành chính… đổi mới chậm. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một
số trận địa quan trọng chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản
lý xuất nhập khẩu có nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây tác động xấu
đối với sản xuất . Chế độ phân phối thu nhập còn nhiều bất hợp lý. Bội chi ngân
sách và nhập siêu còn lớn. Lạm phát tuy được kiềm chế nhưng chưa vững chắc.
Quản lý nhà nước
đối với các hoạt động khoa học và công nghệ, bảo vệ tài nguyên và môi trường
sinh thái, giáo dục, đào tạo, thông tin, báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ
chưa tốt.
5- Hệ
thống chính trị còn nhiều nhược điểm.
Năng lực và hiện
quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt
động của các đoàn thể chính trị, xã hội chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình
hình. Bộ máy đảng, nhà nước, đoàn thể chậm được sắp xếp lại, tinh giản và nâng
cao chất lượng; còn nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm nghiêm trọng quyền dân
chủ của nhân dân. Công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, thay đổi, trẻ hóa cán bộ,
chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng, chậm trễ. Năng lực và phẩm chất của đội
ngũ cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Điều đáng lo ngại là không
ít cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất, đạo
đức; sức chiến đấu của một bộ phận tổ chức cơ sở đảng suy yếu.
III- ĐÁNH
GIÁ TỔNG QUÁT
Sau 10 năm thực
hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, đất
nước đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go. Trong những hoàn cảnh hết sức
phức tạp, khó khăn, nhân dân ta không những đứng vững mà còn vươn lên, đạt
những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt.
Công cuộc
đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất
quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã được hoàn
thành về cơ bản. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số
mặt còn chưa vững chắc.
Nhiệm vụ
đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho
công nghiệp hóa đã cơ bản hoàng thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.
Xét trên
tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ
bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy trong quá trình thực
hiện có một số khuyết điểm, lệch lạc lớn và kéo dài dẫn đến chệch hướng ở lĩnh
vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ này hay mức độ khác.
IV- NHỮNG
BÀI HỌC CHỦ YẾU
Những thành tựu
đạt được trên dây là kết quả cả một quá trình tìm tòi, đổi mới, bám sát thực
tiễn, phấn đấu gian khổ của Đảng và nhân dân ta. Đó là : Nghị quyết Hội nghị
trung ương sáu (Khóa IV) với những chính sách làm cho sản xuất “bung ra”; Chỉ
thị 100 của Ban Bí thư (Khóa IV) về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người
lao động trong hợp tác xã nông nghiệp; các Quyết định 25, 26-CP của Thủ tướng
Chính phủ về nhiều nguồn cân đối và ba phần kế hoạch; Đại hội V của Đảng với
việc xác định lại thứ tự ưu tiên trong phát triển kinh tế, khẳng định nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu; Nghị quyết Hội nghị Trung ương tám (Khóa V) tháng
6-1985 về giá, lương, tiền; Kết luận của Bộ Chính trị (Khóa V) tháng 8-1986 về
một số vấn đề lớn thuộc quan điểm kinh tế…
Những thử nghiệm
ban đầu về đổi mới nói trên là tiền đề dẫn tới đường lối đổi mới toàn diện tại
Đại hội VI. Đường lối ấy hình thành trên cơ sở phát huy tinh thần độc lập, tự
chủ, tổng kết những kinh nghiệm sáng tạo của nhân dân, của các cấp, các ngành,
hợp quy luật, thuận lòng người, nên đã nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Trong quá trình
đổi mới, đặc biệt vào những thời điểm có tính bước ngoặt, Đảng ta đã có những
quyết sách rất quan trọng. Đó là những kết luận kịp thời của Hội nghị Trung
ương sáu (Khóa VI) khẳng định 5 nguyên tắc của công cuộc đổi mới; là sự bác bỏ
kiên quyết của Ban chấp hành Trung ương khóa VI tại các Hội nghị Trung ương
sáu, bảy, tám đối với những mầm mống đầu tiên về đa nguyên chính trị chớm xuất
hiện trong Đảng; những nghị quyết Trung ương nhận định sắc bén và kịp thời về
diễn biến của tình hình quốc tế vào những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90;
việc thông qua cương lĩnh, Chiến lược, điều lệ Đảng (sửa đổi) tại Đại hội VII;
thông qua Hiến pháp mới năm 1992; chỉ rõ thời cơ và nguy cơ, xác định nhiệm vụ
đẩy tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở Hội nghị đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ; các nghị quyết Trung ương khóa VII và nhiều nghị
quyết, quyết định lớn khác của Đảng và Nhà nước cụ thể hóa, bổ sung và phát
triển đường lối đổi mới trên hầu hết các lĩnh vực. Với những quyết định
đúng đắn ấy, toàn Đảng, toàn dân ra đã vượt qua khó khăn, trở ngại, đưa công
cuộc đổi mới đi đến thắng lợi hôm nay.
Tổng kết chặng
đường đổi mới 10 năm qua, có thể rút ra một số bài học chủ yếu sau đây:
1- Giữ
vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới; nắm
vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa
Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xác định rõ đổi
mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là quan niệm đúng đắn
hơn về chủ nghĩa xã hội và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức,
bước đi và biện pháp phù hợp. Kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược
cách mạng với sự linh hoạt, sáng tạo trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới.
Đổi mới phải được
thực hiện trên cơ sở bảo vệ, kế thừa và phát huy truyền thống quý báu của dân
tộc và những thành tựu cách mạng đã đạt được. Phê phán nghiêm túc sai lầm,
khuyết điểm phải đi đôi với khẳng định những việc làm đúng, không phủ
nhận sạch trơn quá khứ, không hoang mang, mất phương hướng, từ thái cực này
chuyển sang thái cực khác.
2- Kết hợp
chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế
làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.
Xét trên tổng
thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong
việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi
mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung
trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục
khủng hoảng kinh tế- xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để
giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo
thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội.
Trong việc đổi
mới tổ chức và cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị, chúng ta đã đi những
bước thận trọng và vững chắc, bắt đầu từ giải quyết những vấn đề cấp bách nhất
và đã chín muồi, với nhận thức đây là việc rất cần thiết nhưng đặc biệt phức
tạp, nhạy cảm và nếu vội vã để xảy ra sai lầm sẽ phải trả giá rất đắt, có khi
không cứu vãn được.
Mục tiêu chủ yếu
của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Bài học lớn là dân chủ nhất thiết
phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền làm
chủ của nhân dân, đồng thời chống khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích. Dứt
khoát bác bỏ mọi mưu toan lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” nhằm gây rối về
chính trị, chống phá chế độ, hoặc can thiệp vào nội bộ nước ta. Không chấp nhận
đa nguyên, đa đảng.
3- Xây
dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi
đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và
phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Vận dụng các hình
thức kinh tế và phương pháp quản lý nền kinh tế thị trường là để sử dụng mặt
tích cực của nó phục vụ mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không đi theo
con đường tư bản chủ nghĩa.
Kinh tế thị
trường có những mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là
xu thế phân hóa giàu nghèo quá mức, là tâm lý sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền
mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm… Đi vào kinh tế thị trường, phải kiên quyết
đấu tranh khắc phục, hạn chế tối đa những khuynh hướng tiêu cực đó.
Để phát triển sức
sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận trên thực
tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội, nhưng phải
luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp
pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói, giảm nghèo, từng bước
thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm cho mọi người, mọi nhà đều khá giả.
4- Mở rộng
và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc.
Cách mạng là sự
nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Chính những ý kiến, nguyện
vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của
Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua
biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm
nay. Để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên, giành những thành tựu
lớn hơn, cần thực hiện tốt hơn nữa việc mở rộng, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân, cả ở trong nước và ở nước ngoài, phát huy dân chủ, động viên tối đa
sức mạnh của toàn thể dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh.
5. Mở rộng
hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế
giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Công cuộc đổi mới
của nhân dân ta ngày nay phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, được sự
đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước. Đi đôi với phát huy cao độ ý chí tự
lực tự cường, động viên mọi nguồn lực bên trong, cần khai thác tốt nước điều
kiện thuận lợi mới trong quan hệ đối ngoại, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác
với các nước vì hòa bình, độc lập và phát triển, tạo môi trường quốc tế thuận
lợi và tranh thủ những nhân tố tích cực phục vụ công cuộc xây dựng và bảo
vệ đất nước. Mở rộng quan hệ quốc tế phải trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ,
bình đẳng và cùng có lợi, giữ gìn, phát huy bản sắc và những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc. Thực hiện da phương hóa và đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Coi
trọng và tiếp tục phát huy những quan hệ truyền thống.
6- Tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Sự nghiệp cách
mạng của nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng ta là đảng cầm quyền. Những
thắng lợi và thành tựu, những thất bại và tổn thất của cách mạng đều gắn liền
với trách nhiệm của Đảng. Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng phải nghiêm
túc xem xét những sai lầm, khuyết điểm và yếu kém của mình, đổi mới và chỉnh
đốn Đảng, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo. Các thế lực chống chủ
nghĩa xã hội và độc lập dân tộc luôn chĩa mũi nhọn vào Đảng, tập trung sức phá
hoại nền tảng tư tưởng và tổ chức của Đảng. Thủ đoạn họ thường dùng là xuyên
tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phủ nhận sự hy sinh và công lao của
những người cộng sản, thổi phồng sai lầm, khuyết điểm của Đảng, đòi thực hiện
nhân quyền và dân chủ kiểu tư sản, đòi phi chính trị hóa bộ máy nhà nước, đòi
đa nguyên, đa đảng nhằm tước bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Họ lợi dụng những kẻ
cơ hội, phản bội về chính trị, hoặc thoái hóa về phẩm chất đạo đức để chia rẽ,
làm suy yếu, phá hoại Đảng từ bên trong.
Nhận rõ yêu cầu
mới của cách mạng và âm mưu thủ đoạn chống phá Đảng nói trên, Đảng ta xác định
trong giai đoạn hiện nay lãnh đạo kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng
là nhiệm vụ then chốt. coi trọng tổng kết công tác xây dựng Đảng. Củng cố Đảng
về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ. Tăng cường bản chất giai cấp công nhân
và tinh tiên phong của Đảng. Ngăn chặn khuynh hướng hạ thấp vai trò lãnh đạo
của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao trình độ và hiệu quả lãnh đạo
của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Phần thứ hai
MỤC TIÊU
ĐẾN NĂM 2020 VÀ NĂM 2000
I -
BỐI CẢNH CHUNG
1- Đặc
điểm toàn diện thế giới.
Sự nghiệp đổi
mới, xây dựng và bảo vệ đất nước tiếp tục phát triển trong tình hình thế giới
diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chưa đựng những yếu tố khó lường.
Những đặc điểm
nổi bật là :
- Chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến chủ nghĩa xã hội tạm thời
lâm vào tháo trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại;
loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu
sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới. Đấu tranh dân tộc và
đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức.
- Nguy cơ chiến
tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục
bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can
thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
- Cách mạng khoa
học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng nhanh lực
lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế
giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội.
Các nước đều đứng
trước những cơ hội để phát triển. Nhưng do ưu thế về vốn, công nghệ, thị
trường, v.v.. thuộc về các nước tư bản chủ nghĩa phát triển và các công ty đa
quốc gia, cho nên các nước chậm phát triển và đang phát triển đứng trước những
thách thức to lớn. Chênh lệch giàu nghèo giữa các nước ngày càng mở rộng. Cuộc
cạnh tranh kinh tế, thương mại, khoa học - công nghệ diễn ra gay gắt.
- Cộng đồng thế
giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu (bảo vệ môi trường, hạn chế sự
bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo …), không
một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết, mà cần phải có sự hợp tác đa
phương.
- Khu vực châu Á
- Thái bình Dương đang phát triển năng động và tiếp tục phát triểnvới tốc độ
cao. Đồng thời khu vực này cũng tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn định.
Trong quan hệ
quốc tế; đã và đang nổi lên những xu thế chủ yếu sau đây:
- Hòa bình, ổn
định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân
tộc và quốc gia trên thế giới. Các nước dành ưu tiên cho phát triển kinh tế,
coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh
tổng hợp của quốc gia.
- Các quốc gia
lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực,
liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Hợp
tác ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt.
- Các dân tộc
nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đấu tranh chống lại sự áp đặt
và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hóa dân tộc.
- Các nước xã hội
chủ nghĩa, các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng, tiến bộ
trên thế giới kiên trì đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội.
- Các nước có chế
độ chính trị - xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại
hòa bình.
Các đặc điểm và xu
thế nêu trên đã làm nảy sinh tính đa phương, đa dạng trong quan hệ quốc tế và
trong chính sách đối ngoại của các nước.
Tình hình thế
giới và khu vực tác động sâu sắc đến các mặt đời sống xã hội nước ta, đưa đến
những thuận lợi lớn đồng thời cũng làm xuất hiện những thách thức lớn.
2-Thời cơ
và thách thức.
Những thành tựu
của công cuộc đổi mới đã và đang tạo ra thế và lực mới, cả ở bên trong và bên
ngoài để chúng ta bước bào một thời kỳ phát triển mới. Nhiều tiền đề cần thiết
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được tạo ra. Quan hệ của nước ta với các
nước trên thế giới mở rộng hơn bao giờ hết. Khả năng giữ vững độc lập tự chủ và
hội nhập với cộng đồng thế giới tăng thêm. Đó là thời cơ lớn.
Nhưng bốn nguy cơ
mà hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (1-1994) nêu lên cho đến nay vẫn
là những thách thức lớn. Các nguy cơ ấy có mối liên hệ tác động lẫn nhau và đều
nguy hiểm, không thể xem nhẹ nguy cơ nào.
Nguy cơ tụt hậu
xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và
gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên tình hình môi trường
cạnh tranh quyết liệt. Có những thế lực vẫn tiếp tục mưu toàn thực hiện diễn
biến hòa bình, thường xuyên dùng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng can
thiệp vào nội bộ nước ta. Tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Biển
Đông còn diễn biến phức tạp. Chệch hướng xã hội chủ nghĩa và quan liêu, tham
nhũng vẫn đang thật sự là những nguy cơ lớn. Tệ quan liêu, tham nhũng và suy
thoái về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho bộ máy
đảng và nhà nước suy yếu, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối với chế độ bị
xói mòn, các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước bị thi hành sai lệch
dẫn tới chệch hướng; đó là mảnh đất thuận lợi cho diễn biến hòa bình.
Thuận lợi và khó
khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau. Chúng ta phải chủ động nắm thời cơ, vươn
lên phát triển nhanh và vững chắc, tạo ra thế và lực mới; đồng thời luôn luôn
tỉnh táo, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ, kể cả những nguy cơ mới
nảy sinh, bảo đảm phát triển đúng hướng.
II- MỤC
TIÊU
Xuất phát từ tình
hình nói trên và căn cứ vào Cương lĩnh của Đảng, cần tiếp tục
nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mục tiêu
của công nghiệp hóa, hiện tại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công
nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Từ nay đến
năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Lực lượng sản
xuất đến lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ
công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hóa cơ bản được thực
hiện trong cả nước, năng suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh
cao hơn nhiều so với hiện nay. GDP tăng từ 8 đến 10 lần sơ với năm 1990. Trong
cơ cấu kinh tế, tuy nông nghiệp tiếp tục phát triển mạnh, song công nghiệp và
dịch vụ sẽ chiếm tỉ trọng rất lớn trong GDP và trong lao động xã hội.
Khoa học tự nhiên
và công nghệ có khả năng nắm bắt và vận dụng được nhiều thành tựu mới nhất của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Khoa học xã hội và nhân văn có khả năng
làm cơ sở cho việc xây dựng hình thái ý thức xã hội mới. Sự phát triển của khoa
học đủ sức cung cấp luận cứ cho việc hoạch định các chính sách, chiến lược và
quy hoạch phát triển.
Về quan hệ sản
xuất, chế độ sở hữu, cơ chế quản lý và chế độ phân phối gắn kết với nhau,
phát huy được các nguồn lực, tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, thực hiện công bằng xã hội.
Kinh tế nhà nước
thực hiện tốt vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng
trong nền kinh tế. Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân chiếm tỉ
trọng đáng kể. Kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức khác nhau tồn tại phổ
biến.
Về đời sống vật
chất và văn hóa, nhân dân có cuộc sống no đủ, có nhà ở tương đối tốt, có
điều kiện thuận lợi về đi lại, học hành, chữa bệnh, có mức hưởng thụ văn hóa
khá. Quan hệ xã hội lành mạnh, lối sống văn minh, gia đình hạnh phúc.
Làm được những
việc nói trên sẽ là một bước tiến lớn trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Giai đoạn
từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập
trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc
đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000: tăng trưởng
kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức
xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân,
nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát
triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau.
- Đến năm 2000,
GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi năm 1990. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình
quân hằng năm đạt khoảng 9-10%; sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp khoảng 4,5-5%,
công nghiệp 14-15%, dịch vụ 12-13%, xuất khẩu khoảng 28%. Tỉ lệ đầu tư/GDP
khoảng 30%. Năm 2000, nông nghiệp chiếm khoảng 19-20%, công nghiệp và xây dựng
34-35%, dịch vụ 45-46% GDP.
Phát triển và
phát huy tốt tiềm lực khoa học và công nghệ; lựa chọn và làm chủ các loại hình
công nghệ nhập và tích cực chuẩn bị cho bước phát triển cao hơn ở giai đoạn
sau. Tốc độ đổi mới công nghệ đạt 10%/năm trở lên.
Đổi mới căn bản
tổ chức, quản lý và nâng cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới và
phát triển đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến cao, mà nòng cốt
là các hợp tác xã. Phát triển các hình thức liên doanh, liên kết trực tiếp giữa
các doanh nghiệp nhà nước với nhau, giữa kinh tế nhà nước với kinh tế hợp tác,
kinh tế tư bản tư nhân, cá thể và các công ty nước ngoài.
- Tạo việc làm
nhiều hơn số lao động tăng thêm hằng năm, giảm đáng kể thất nghiệp; xóa đói,
tiếp tục giảm nghèo. Cải thiện điều kiện ăn, ở, học hành, chữa bệnh, đi lại,
nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, đặc biệt các vùng nông thôn, miền
núi. Tới năm 2000, nhịp độ tăng dân số dưới 1,8%. Khắc phục tình trạng suy dinh
dưỡng nặng ở trẻ em dưới 5 tuổi. Thanh toán nạn mù chữ cho người trong độ tưổi
15-35, phổ cập giáo dục tiểu học, tăng tỉ lệ lao động qua đào tạo lên 22-25%.
Ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường. Đẩy lùi tiêu cực và các tệ nạn xã hội.
- Giữ vững sự ổn
định chính trị và định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển. Tạo
chuyển biến căn bản trong việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao vai trò lãnh
đạo của Đảng. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, trọng tâm là cải cách
nền hành chính, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước; mở
rộng dân chủ, thiết lập kỷ cương, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân.
Củng cố quốc
phòng, giữ vững an ninh.
Mở rộng quan hệ
đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng
cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Phần thứ ba
ĐỊNH HƯỚNG
PHÁT TRIỂN CÁC LĨNH VỰC CHỦ YẾU
I -
PHÁT TRIỂN VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA
Quán triệt
các quan điểm dưới đây về công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Giữ vững độc
lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa
nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế
giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm
trong nước sản xuất có hiệu quả.
- Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
- Lấy việc phát
huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích lũy cho
đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân,
phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường.
- Khoa học
và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kết hợp công nghệ
truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những
khâu quyết định.
- Lấy hiệu quả
kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa
chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực
sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ
tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số
công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả. Tạo ra những mũi nhọn
trong từng bước phát triển. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực,
các địa bàn trọng điểm; đồng thời quan tâm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mọi
vùng trong nước; có chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn, tạo điều kiện cho
các vùng đều phát triển.
- Kết hợp kinh tế
với quốc phòng - an ninh.
Nội dung
cơ bản của công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong những năm còn lại của thập kỷ
90 là :
Đặc biệt coi
trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn
diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biên nông, lâm, thủy sản;
phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nâng cấp, cải
tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế, trước hết ở
những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển. Xây dựng có chọn
lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều kiện
về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả cao. Mở
rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ. Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại.
Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như chế biến nông, lâm, thủy sản, khai
thác và chế biến dầu - khí, một số ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử và
công nghệ thông tin, du lịch. Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ.
1- Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
- Phát triển toàn
diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình thành các vùng tập trung chuyên canh, có cơ
cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hóa nhiều về số lượng, tốt
về chất lượng, bảo đảm an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu
của công nghiệp chế biến và của thị trường trong, ngoài nước.
- Thực hiện thủy
lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa …
- Phát triển công
nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản với công nghệ ngày càng cao, gắn với nguồn
nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị.
- Phát triển các
ngành nghê, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu, thủ công
nghiệp, công nghiệp sã hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và
chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại hình dịch vụ phục vụ
sản xuất và đời sống nhân dân.
- Xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bước hình thành nông thôn mới văn minh,
hiện đại.
Hoàn thành cơ bản
việc giao đất, khoán rừng cho hộ nông dân. điều chỉnh việc phân bổ vốn và huy
động thêm nhiều nguồn vốn cho phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế nông
thôn. Có chính sách khuyến khích và trợ giúp nông dân trong xây dựng kết cấu hạ
tầng, chuyển giao công nghệ, giải quyết các khó khăn về vốn, về giá cả vật tư
nông nghiệp và hàng nông sản, về thị trường tiêu thụ sản phẩm …
2- Phát triển
công nghiệp, ưu tiên các ngành chế biến lương thực - thực phẩm, sản
xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử và công nghệ thông
tin. Phát triển có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng (năng lượng - nhiên
liệu, vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo, đóng và sửa tàu thủy, luyện kim, hóa
chất), tăng thêm năng lực sản xuất tương ứng với yêu cầu tăng trưởng kinh tế,
nâng cao khả năng độc lập tự chủ về kinh tế và quốc phòng.
Kết hợp kinh tế
với quốc phòng, xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng nhằm đáp ứng
những nhu cầu tối thiểu cần thiết trong từng thời kỳ.
Cải tạo các khu
công nghiệp hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất. Xây dựng mới một
số khu công nghiệp, phân bổ rộng trên các vùng.
3- Xây dựng kết
cấu hạ tầng.
Khắc phục tình
trạng xuống cấp của hệ thống giao thông hiện có; khối phục, nâng cấp và mở thêm
một số tuyến giao thông trọng yếu, kết hợp giao thông với thủy lợi, tận dụng giao
thông đường thủy; mở thêm đường đến các vùng sâu, vùng xa; cải thiện giao thông
ở các thành phố lớn. Cải tạo, nâng cấp một số cảng sông, cảng biển, sân bay;
xây dựng dần cảng biển nước sâu.
Tiếp tục phát
triển và hiện đại hóa mạng thông tin liên lạc quốc gia, mở liên lạc điện
thoại đến hầu hết các xã.
Phát triển nguồn
điện; cải tạo và mở rộng lưới điện đáp ứng nhu cầu và cung cấp điện ổn định.
Cải thiện việc cấp thoát nước ở đô thị, thêm nguồn nước sạch cho nông thôn.
Tăng đầu tư cho kết
cấu hạ tầng xã hội (giáo dục, y tế, khoa học, văn hóa – thông tin,
thể thao …)
4- Phát triển
nhanh du lịch, các dịch vụ hàng không, hàng hải, bưu chính - viễn thông, thương
mại, vận tải, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, công nghệ, pháp lý,
thông tin … và các dịch vụ phục vụ cuộc sống nhân dân.
Từng bước đưa
nước ta trở thành một trung tâm du lịch, thương mại - dịch vụ có tầm cỡ trong
khu vực.
5- Phát triển hợp
lý các vũng lãnh thổ.
Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế lãnh thổ trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế, tiềm năng của
từng vùng, liên kết hỗ trợ nhau, làm cho tất cả các vùng đều phát triển.
Đầu tư ở mức cần
thiết cho các vùng kinh tế trọng điểm để thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền
kinh tế. Dành nguồn lực thích đáng cho việc giải quyết những nhu cầu cấp bách,
đặc biệt là về kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, để những vùng còn kém phát
triển, nhất là các vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc ít
người, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng có bước tiến nhanh hơn, dần dần giảm bớt
sự chênh lệch quá lớn về trình độ phát triển kinh tế- xã hội giữa các vùng, coi
đây là một trọng tâm chỉ đạo của các ngành, các cấp. Đặc biệt quan tâm phát
triển kinh tế biển, kết hợp với an ninh - quốc phòng.
Từng bước hình
thành mạng lưới đô thị hợp lý, tránh không tạo thành các siêu đô thị. Tăng
cường công tác quy hoạch và quản lý đô thị.
6- Mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Đẩy mạnh xuất
khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại.
Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nâng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu
trên thị trường. Giảm tỉ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỉ trọng sản phẩm
chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu. Tăng nhanh xuất khẩu dịch vụ. Nâng
cao tỉ trọng phần giá trị gia tăng trong giá trị hàng xuất khẩu. Giảm dần nhập
siêu, ưu tiên việc nhập khẩu để phát triển sản xuất phục vụ xuất khẩu, hạn chế
nhập những hàng tiêu dùng chưa thiết yếu. Có chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất
trong nước.
Điều chỉnh cơ cấu
thị trường để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi
ích giữa ta với các đối tác.
Chủ động tham gia
cộng đồng thương mại thế giới, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế
một cách có chọn lọc, với bước đi thích hợp.
Việc sử dụng vốn
vay và thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài phải theo quy hoạch và kế
hoạch phát triển ngành và vùng lãnh thổ, bảo đảm thực hiện các mục tiêu, nhiệm
vụ đã đề ra.
Tính toán kỹ khả
năng vay, sử dụng vốn vay có hiệu quả, trả được nợ. Cải thiện cán cân thanh
toán. Tăng dự trữ ngoại tệ. Làm rõ và thực hiện đúng trách nhiệm, quyền hạn của
cơ quan quản lý nợ nước ngoài, của người đi vay và người sử dụng vốn vay.
Thử nghiệm để
tiến tới thực hiện việc đầu tư ra nước ngoài.
II – CHÍNH
SÁCH ĐỐI VỚI CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ
Nắm vững
định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần:
- Thực hiện nhất
quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Lấy
việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên
ngoài cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội,
cải thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích
phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh.
- Chủ động đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác. Kinh tế
nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành
nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư
nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết
giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước.
Áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
- Xác lập, củng
cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội,
thực hiện công bằng xã hội ngày một tốt hơn.
- Thực hiện nhiều
hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là
chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết
quả sản xuất – kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Thừa nhận sự
tồn tại lâu dài của các hình thức thuê mướn lao động nhưng không để biến thành
quan hệ thống trị, dẫn tới sự phân hóa xã hội thành hai cực đối lập. Phân phối
và phân phối lại hợp lý các thu nhập; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với
xóa đói, giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và trình
độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư.
- Tăng cường hiệu
lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, khai thác triệt để vai trò tích cực đi đôi với
khắc phục và ngăn ngừa, hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường. Bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật của mọi doanh
nghiệp và cá nhân không phân biệt thành phần kinh tế.
- Giữ vững độc
lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế với
bên ngoài.
Thực hiện
những chủ trương, chính sách sau dây đối với từng thành phần kinh tế :
1- Tiếp tục đổi
mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ
đạo: làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã
hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển; làm lực
lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo
nền tảng cho chế độ xã hội mới.
Tập trung nguồn
lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực
trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm, những cơ sở sản xuất và thương mại, dịch vụ quan trọng, một số doanh
nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có quan hệ đến quốc phòng –an ninh. Doanh
nghiệp nhà nước nói chung có quy mô vừa và lớn, công nghệ tiến bộ, kinh doanh
có hiệu quả, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách.
Lấy suất sinh lời
trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh
nghiệp kinh doanh; lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn
chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp công ích.
Đổi mới và tăng
cường hoạt động của kinh tế nhà nước trong lĩnh vực phân phối lưu thông. Phát
huy vai trò trung tâm kinh tế, khoa học – công nghệ, văn hóa - xã hội của doanh
nghiệp nhà nước trong nông, lâm, ngư nghiệp, nhất là ở miền núi, hải đảo, vùng
đồng bào dân tộc ít người.
Triển khai tích
cực và vững chắc việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để huy động thêm vốn,
tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản nhà
nước ngày càng tăng lên, không phải để tư nhân hóa. Bên cạnh những doanh nghiệp
100% vốn nhà nước sẽ có nhiều doanh nghiệp nhà nước nắm đa số hay nắm tỉ lệ cổ
phần chi phối. Gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần cho người lao động tại doanh
nghiệp, cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp tùy từng trường hợp cụ
thể; vốn huy động được phải dùng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
Tổ chức hợp lý
các tổng công ty, bảo đảm vừa tránh phân tán lực lượng, vừa chống độc quyền
hoặc trở thành cấp hành chính trung gian.
2- Kinh tế hợp
tác mà nòng cốt là các hợp tác xã là hình thức liên kết tự nguyện của
những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức
mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất, kinh
doanh và đời sống.
Phát triển kinh
tế hợp tác với nhiều hình thức đa dạng, từ thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác đến
hợp tác xã; tuân thủ nguyên tắc tự nguyện, bình đảng, cùng có lợi, quản lý dân
chủ.
Hợp tác xã được
tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã
viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như
nhau đối với công việc chung.
Tăng cường lãnh
đạo, chỉ đạo và có chính sách khuyến khích, ưu đãi, giúp đỡ kinh tế hợp tác
phát triển có hiệu quả. Thực hiện tốt Luật hợp tác xã.
3- Kinh tế tư
bản nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước
với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với
tư bản nước ngoài. Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc
động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý … của
các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ, cũng như của công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước.
Áp dụng nhiều
phương thức góp vốn liên doanh giữa Nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân
trong nước nhằm tạo thế, tạo lực cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển, tăng
sức hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài.
Cải thiện môi
trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư
trực tiếp của nước ngoài. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động
trong các xí nghiệp hợp tác, liên doanh.
4- Kinh tế cá
thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài, Giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu
chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về thị trường
tiêu thụ sản phẩm. Hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ, vì lợi ích thiết thân và
nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bước đi vào làm ăn hợp tác một cách tự
nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã.
5- Kinh tế tư
bản tư nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước.Khuyến khích tư bản tư
nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài; bảo hộ quyền sở hữu và lợi
ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn
làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh.
III- TIẾP
TỤC ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ.
Từ thực tiễn hơn
10 năm qua, có thể khẳng định một số nhận thức về cơ chế quản lý kinh tế mới:
- Sản xuất hàng
hòa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn
minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng.
- Trong nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta, thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là một thể thống nhất với nhiều lực lượng tham gia sản xuất và lưu thông,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thị trường trong nước gắn với
thị trường thế giới.
- Thị trường vừa
là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch. Kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng
và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô. Thị trường có vai trò trực tiếp
hướng dẫn các đơn bị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức
sản xuất kinh doanh.
- Vận dụng cơ chế
thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, đồng thời
xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh, nhằm phát huy
tác động tích cực tô lớn đi đôi với ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục những mặt
tiêu cực của thị trường. Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, kế hoạch,
cơ chế, chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh tế và bằng các nguồn lực của khu
vực kinh tế nhà nước.
Từ nay đến năm
2000, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xóa bỏ cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1- Tạo lập
đồng bộ các yếu tố của thị trường.
- Phát triển mạnh
thị trường hàng hóa và dịch vụ.
Mở rộng thị
trường, thực hiện giao lưu hàng hóa thông suốt trong cả nước. Phát triển thị
trường công nghệ, các dịch vụ thông tin, tư vấn, tiếp thị, pháp lý, tài chính,
ngân hàng, kiểm toàn, bảo hiểm, bảo lãnh …
Khắc phục tình
trạng kinh doanh trái phép, trốn lậu thuế. Kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm
minh các vi phạm. Tạo môi trường hợp tác và cạnh tranh lành mạnh trong sản
xuất, kinh doanh. Thực hiện độc quyền nhà nước trong một số ngành, một số lĩnh
vực nhất định vì lợi ích của đất nước; hạn chế độc quyền kinh doanh, không để
lợi dụng địa vị độc quyền để duy trì đặc quyền, đặc lợi, lũng đoạn thị trường.
Chỉnh đốn hoạt
động của các tổ chức thương nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đổi mới hệ
thống thương nghiệp nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo; khắc phục tình trạng
buông lỏng thị trường nông thôn, miền núi.
- Tổ chức quản lý
và hướng dẫn tốt việc thuê mướn và sử dụng lao động.
Bảo đảm công ăn,
việc làm cho dân là một mục tiêu xã hội hàng đầu, không để thất nghiệp trở
thành căn bệnh kinh niên. Nhà nước chú trọng đầu tư tạo việc làm, đồng thời tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế và người lao động tạo thêm chỗ làm việc và
tự tạo việc làm; khuyến khích các tổ chức và cá nhân cùng Nhà nước tổ chức tốt
dịch vụ giới thiệu việc làm, đào tạo nghề nghiệp.
Trong việc thuê
mướn lao động, người lao động và người sử dụng lao động bình đẳng trước pháp
luật. Nhà nước, với sự tham gia của công đoàn, các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, phải kiểm tra, kiểm soát việc thuê mướn, sử dụng và trả công lao động,
cải thiện điều kiện lao động; bảo đảm thực hiện những quy định về bảo hộ, an
toàn lao động; giải quyết tốt mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng
lao động theo pháp luật, bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động.
Tiếp tục cải tiến
chế độ tiền lương trong khu vực nhà nước. Có chính sách hướng dẫn và điều tiết
tiền lương và thu nhập cá nhân trong toàn xã hội. Thực hiện chế độ bảo hiểm xã
hội đối với người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Quản lý chặt
chẽ đất đai và thị trường bất động sản.
Đất
đai thuộc sở hữu toàn dân, không tư nhân hóa, không cho phép mua bán đất đai.
Thực hiện đúng Luật đất đai; bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và chính
sách về đất đai. Trong việc giao quyền sử dụng hay cho thuê đất phải xác định
đúng giá các loại đất để sử dụng đất có hiệu quả, duy trì và phát triển quỹ
đất, bảo đảm lợi ích của toàn dân. Khắc phục tình trạng đầu cơ đất và những
tiêu cực, yêu kém trong quản lý và sử dụng đất.
Tổ chức, quản lý
tốt thị trường bất động sản. Chăm lo giải quyết vấn đề nhà ở cho nhân dân, nhất
là ở các vùng đô thị; phát triển các doanh nghiệp nhà nước xây dựng và kinh
doanh nhà ở. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xây dựng và kinh
doanh nhà theo sự hướng dẫn và quản lý của Nhà nước.
- Xây dựng thị
trường vốn, từng bước hình thành thị trường chứng khoán.
Phát triển thị
trường vốn, thu hút các nguồn vốn trung, dài hạn qua ngân hàng và các công ty
tài chính để đáp ứng nhu cầu cho bay đầu tư phát triển.
Chuẩn bị các điều
kiện cần thiết để từng bước xây dựng thị trường chứng khoán phù hợp với điều
kiện Việt Nam và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2-
Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp về kinh tế.
Ban hành một số
luật mới và sửa đổi, bổ sung một số luật và pháp lệnh hiện hành để tiếp tục thể
chế hóa Cương lĩnh, chiến lược và các chủ trương chính sách của Đảng, hình thành
khuôn khổ pháp lý đồng bộ, cần thiết cho các hoạt động kinh tế.
3- Tiếp
tục đổi mới công tác kế hoạch hóa.
Kế hoạch nhà nước
phải quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng để đưa ra một hệ thống các mục
tiêu vĩ mô, xác định tốc độ phát triển, cơ cấu và các cân đối lớn, các chính
sách, giải pháp để dẫn dắt nền kinh tế theo định hướng kế hoạch.
Tập trung sức xây
dựng chiến lược và quy hoạch phát triển, các chương trình và dự án lớn cho cả
nước và cho từng ngành, từng vùng, từng lĩnh vực. Chuyển dần sang kế hoạch 5
năm là chính, có phân ra từng năm; giảm nhẹ việc xây dựng và xét duyệt kế hoạch
hằng năm.
Kế hoạch phải bao
quát các ngành, các vùng, các lĩnh vực và thành phần kinh tế.
4- Đổi mới
các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả.
- Chính sách
tài chính phải nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát triển; huy động
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; tăng tích lũy để tạo vốn cho đầu tư phát
triển; đáp ứng những nhu cầu chi thường xuyên thật sự cần thiết, cấp bách; bảo
đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia; giảm bội chi ngân sách, góp phần
khống chế và kiểm soát lạm phát. Xử lý đúng đắn các mối quan hệ: tích lũy và
tiêu dùng tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp và tài chính dân cư; ngân
sách trung ương và ngân sách địa phương; chi thường xuyên và chi đầu tư phát
triển, chi bảo đảm quốc phòng- an ninh; huy động vồn trong nước và vốn bên
ngoài; vay và trả nợ …
Để tạo vốn đầu tư
phát triển, giải pháp cơ bản và lau dài là phải làm ăn có hiệu quả, phát triển
kinh tế, thực hành triệt để tiết kiệm cả trong chi tiêu của Nhà nước, trong sản
xuất kinh doanh và trong tiêu dùng của dân cư; khuyến khích mạnh tiết kiệm và
đầu tư, đa dạng hóa các kênh huy động vốn.
Có tầm nhìn dài
hạn trong chính sách thu, tính đến nhu cầu chi cấp thiết trước mắt, nhưng phải
chú trọng bồi dưỡng nguồn thu lâu dài. Đổi mới chính sách thuế theo hướng đơn
giản, ổn định, công bằng khuyến khích làm ăn hợp pháp; bảo đảm tỉ lệ động viên
hợp lý vào ngân sách nhà nước, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
tích tụ vốn để đầu tư phát triển. Thực hiện chính sách ưu đãi hơn nữa về thuế
đối với đầu tư phát triển và đối với những vùng có nhiều khó khăn.
Thực hiện chặt
chẽ chế độ kế toán, kiểm toán và chế độ kiểm tra, thanh tra tài chính.
- Chuyển mạnh
chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường, góp
phần ổn định sức mua của đồng Việt Nam, kiềm chế lạm phát ở mức thấp, huy động
và cho vay vốn có hiệu quả … Ngân hàng trung ương có trách nhiệm chính trong
việc kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, quản lý ngoại tệ, vàng.
Tổ chức tốt hệ
thống quỹ tín dụng nhân dân. Quản lý chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng
thương mại và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Có biện pháp đồng bộ để giảm
dần lãi suất, tạo điều kiện cho đầu tư phát triển.
Có chính sách tỉ
giá hối đoái và quản lý ngoại hối hợp lý thúc đẩy xuất khẩu và điều tiết được
nhập khẩu, từng bước làm cho đồng Việt Nam có giá trị chuyển đổi đầy đủ và là
phương tiện lưu thông duy nhất trong nước.
- Tiếp tục hoàn
thiện hệ thống giá cả và đổi mới công tác quản lý giá.
Tăng cường lực
lượng dự trữ quốc gia, đổi mới cơ chế dự trữ lưu thông, cơ chế hình thành và
hoạt động của quỹ bình ổn giá, phương thức can thiệp để bình ổn giá một số mặt
hàng hết sức thiết yếu.
5- Nâng
cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước.
Nhà nước thực
hiện tốt các chức năng: định hướng sự phát triển; trực tiếp đầu tư vào một số
lĩnh vực để dẫn dắt nỗ lực phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thiết
lập khuôn khổ luật pháp, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn
định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt; khắc phục, hạn chế mặt
tiêu cực của cơ chế thị trường; phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân;
quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội.
Thực hiện đúng
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của
của Nhà nước. Các bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản
trị kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp.
IV – PHÁT
TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO.
1- Khoa
học và công nghệ.
Hoạt động khoa
học và công nghệ của nước ta trong giai đoạn tới cần tập trung vào các phương
hương chủ yếu sau đây:
- Vận dụng sáng
tạo và phát triển học thuyết Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; phát triển và
kết hợp chặt chẽ các ngành khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và
công nghệ … làm chỗ dựa khoa học cho việc triển khai thực hiện Cương lĩnh, Hiến
pháp, xác định phương hướng, bước đi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng pháp luật, các chính sách, kế hoạch và chương trình kinh tế - xã hội.
- Đẩy mạnh nghiên
cứu ứng dụng các thành tựu khoa hoạc tự nhiên và công nghệ tiên tiến trong tất
cả các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ, quản lý và quốc phòng – an ninh.
Nắm bắt các công
nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới,
những công nghệ mới trong chế tạo máy … để có thể đi nhanh vào hiện đại ở những
khâu quyết định.
Đánh giá chính
xác tài nguyên quốc gia, từ đó đề xuất một chiến lược đúng đắn về khai thác, sử
dụng bảo vệ tài nguyên. Bảo đảm cơ sở khoa học và công nghệ cho việc khai thác,
sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh
thái. Áp dụng các công nghệ hiện đại trong việc kiểm soát, đánh giá và xử lý
tác động môi trường. Ưu tiên các công nghệ sạch, tốn ít nguyên, nhiên liệu. Đề
xuất các phương pháp khoa học và ứng dụng các phương tiện kỹ thuật để hạn chế
hậu quả thiên tai.
- Chú trọng đúng
mức nghiên cứu cơ bản về khoa học xã hội, khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên,
làm chỗ dựa lâu bền cho nghiên cứu ứng dụng, triển khai và tiếp nhận các thành
tựu mới về khoa học và công nghệ.
- Xây dựng tiềm
lực nhằm phát triển một nền khoa học và công nghệ tiên tiến. Đẩy mạnh các hình
thức đào tạo cán bộ khoa học ở trong và ngoài nước. Gấp rút đào tạo lớp chuyên
gia đầu đàn. Sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ hiện có; bổ sung cán bộ trẻ cho
các cơ quan nghiên cứu triển khai, các trường đại học. Bố trí lại lực lượng
khoa học và công nghệ theo hướng gắn khoa học và công nghệ với giáo dục đào
tạo, gắn nghiên cứu - triển khai với sản xuất và dịch vụ.
Tăng cường cơ sở
vật chất kỹ thuật cho các ngành khoa học và công nghệ; chú trọng xây dựng hệ
thống các phòng thí nghiệm hiện đại ở các trường đại học và các viện nghiên
cứu; xây dựng và nâng cấp mạng lưới dịch vụ kỹ thuật như đo lường, tiêu chuẩn,
thẩm định công nghệ, thông tin khoa học và công nghệ.
- Xây dựng và
thực hiện tốt hệ thống chính sách và cơ chế đồng bộ cho phát triển khoa học và
công nghệ, cụ thể là :
Phát huy sự tìm
tòi, sáng tạo trong nghiên cứu, đồng thời đề cao trách nhiệm xã hội của những
người làm công tác khoa học và công nghệ đối với đất nước. Tạo lập thị trường
cho các hoạt động khoa học và công nghệ. Kiểm soát các công nghệ nhập. Thúc đẩy
các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn của Nhà nước đổi mới công nghệ,
thu hút lực lượng nghiên cứu - triển khai về các doanh nghiệp.
Có chính sách
chăm lo điều kiện làm việc, lợi ích vật chất và tinh thần của người nghiên cứu,
phát minh và ứng dụng khoa học, công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; ưu đãi
nhân tài có cống hiến quan trọng, khuyến khích cán bộ khoa học làm việc ở vùng
sâu, vùng xa. Ngăn chặn tình trạng “chảy chất xám”.
Đa dạng hóa các
nguồn vốn đầu tư cho các hoạt động khoa học và công nghệ. Xây dựng quỹ tín dụng
và ngân hàng đầu tư phát triển khoa học và công nghệ. Nâng dần mức đầu tư của
ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ.
Khơi dậy trong
nhân dân lòng yêu nước, ý chí quạt cường, phát huy tài trí của người Việt Nam,
quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu bằng khoa học và công nghệ.
2. Giáo
dục và đào tạo.
Cùng với khoa học
và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng
cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Phương hướng chung của lĩnh vực giáo dục,
đào tạo trong 5 năm tới là phát triểnm nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo điều kiện cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên,
có việc làm; khắc phục những tiêu cực, yếu kém trong giáo dục và đào tạo.
Đến năm 2000 bảo
đảm đại bộ phận trẻ em 5 tuổi được hưởng chương trình giáo dục mầm non; thanh
toán nạn mù chữ ở những người trong độ tuổi từ 15 đến 35, thu hẹp diện
người mù chữ ở độ tuổi khác; cơ bản hoàn thành phổ cập tiểu học trong cả nước,
trước hết là đối với trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 14; phổ cập trung học cơ sở
ở những thành phố lớn, khu công nghiệp tập trung và những nơi mà điều kiện cho
phép. Có chính sách bảo đảm cho con em các gia đình trong diện chính sách, gia
đình nghèo được đi học, động viên và giúp đỡ những học sinh giởi, có
nhiều triển vọng. Mở cuộc vận động rộng rãi trong toàn dân kiên quyết xóa mù
chữ và chống nạn thất học.
Xây dựng hệ thống
trường chuyên, trường trọng điểm, trung tâm chất lượng cao ở các bậc học. Coi
trọng việc dạy ngoại ngữ và tin học từ cấp phổ thông. Mở thêm các trường phổ
thông nội trú ở những vùng khó khăn, vùng đồng bào thiểu số. Coi trọng giáo dục
gia đình.
Đổi mới hệ thống
giáo dục chuyên nghiệp và đại học, kết hợp đào tạo với nghiên cứu, tạo nguồn
nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến. Củng cố và nâng cao chất
lượng giáo dục phổ thông. Phát triển các hình thức giáo dục từ xa. Mở rộng hệ
thống các trường lớp dạy nghề và đào tạo công nhân lành nghề. Trong khi tập
trung sức xây dựng hệ thống trường công, có chính sách giúp đỡ, hướng dẫn phát
triển và quản lý tốt các trường, lớp bán công, dân lập, tư thục. Khuyến khích
dạy nghề tại doanh nghiệp. Phát triển đào tạo sau đại học; tăng số lượng đào
tạo đại học và sau đại học ở nước ngoài và tại các trung tâm đào tạo quốc tế ở
trong nước. Khuyến khích du học tự túc. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa đào tạo
với sử dụng. Xây dựng đội ngũ trí thức đồng bộ về các lĩnh vực khoa học và công
nghệ, văn hóa văn nghệ, quản lý kinh tế, quản lý xã hội … Nhanh chóng xây dựng
đội ngũ công chức và nhân viên của hệ thống hành chính các cấp. Đào tạo đội ngũ
các nhà quản trị doanh nghiệp giỏi. Nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo từ 10% hiện
nay lên khoảng 22-25%. Nâng cao kiến thức văn hóa, nghề nghiệp cho phụ nữ; bồi
dưỡng lực lượng cán bộ nữ.
Xác định rõ hơn
mục tiêu, thiết kế nội dung, chương trình, đổi mới phương pháp giáo dục, đào
tạo, lựa chọn những nội dung có tính cơ bản, hiện đại. Tăng cường giáo
dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc;
ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền độ của đất nước. Từng bước áp
dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình đào tạo;
phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp. Ngăn
chăn và xử lý nghiêm những tiêu cực trong giảng dạy, học tập, thi cử và cấp văn
bằng, chứng chỉ.
Đổi mới công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Sử dụng giáo
viên đúng năng lực, đãi ngộ đúng công sức và tài năng với tinh thần ưu đãi và
tôn vinh nghề dạy học.
Tổng kết cải cách
giáo dục; xây dựng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp và
chính sách của Nhà nước về giáo dục, đào tạo. Tăng cường quản lý nhà nước đối
với các loại hình trường lớp giáo dục và đào tạo.
Nâng dần tỉ trọng
chi ngân sách cho giáo dục, đào tạo. Động viên đúng mức sự đóng góp của mỗi
nhà, mỗi người, đồng thời thu hút nguồn đầu tư từ các cộng đồng, các giới,
trong và ngoài nước cho giáo dục, đào tạo. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong giáo
dục, đào tạo.
Phát huy trách
nhiệm của các cấp ủy đảng, các cấp chính quyền, đoàn thể, các doanh nghiệp đối
với sự nghiệp giáo dục, đào tạo.
V- XÂY
DỰNG NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Mọi hoạt động văn
hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn,
tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã
hội.
Kế thừa và phát
huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ, các di sản văn hóa, nghệ thuật
của dân tộc. Bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng
cảnh của đất nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc
tế, phải đặc biệt quan tâm gìn giữ và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa
và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp
thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt
Nam; đấu tranh chống sự xâm nhập của các loại văn hóa độc hại, những khuynh
hướng sùng ngoại, lai căng, mất gốc. Khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất
chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn.
Củng cố, tăng
cường mạng lưới văn hóa cơ sở. Quản lý tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ.
Khai thác và phát triển mọi sắc thái và giá trị văn hóa, nghệ thuật của các dân
tộc trên đất nước ta; tạo ra sự thống nhất trong tính đa dạng và phong phú của
nền văn hóa Việt Nam.
Nâng cao hiểu
biết và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân ở mọi vùng đất nước. Hướng dẫn nhân
dân về nếp sống văn hóa, văn minh; chống các hủ tục, mê tín dị đoan.
Phát triển đi đôi
với quản lý tốt mạng lưới thông tin, báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền
thanh, truyền hình, điện ảnh và các hình thức nghệ thuật khác. Sớm hoạch định
một chiến lược quốc gia về thông tin; coi trọng việc nâng cao chất lượng thông
tin đại chúng, tính chân thật, tính chiến đấu và tính đa dạng của thông tin;
coi trọng việc phát hiện và đề cao các nhân tố mới đồng thời với việc phát hiện
và phê phán các hiện tượng tiêu cực. Tăng cường công tác thông tin đối ngoại.
Bảo đảm dân chủ,
tự do cho mọi sự sáng tạo và hoạt động văn hóa, vun đắp các tài năng, đồng thời
đề cao trách nhiệm của văn nghệ sĩ trước công chúng, dân tộc và thời đại.
Khuyến khích, tạo điều kiện thúc đẩy sáng tác văn học, nghệ thuật phản ánh các
nhân tố mới trong xã hội, cổ vũ cái tốt, cái đẹp trong quan hệ giữa con người
với con người, giữa con người với xã hội, với thiên nhiên, phê phán cái sai,
lên án cái xấu, cái ác, hướng tới chân, thiện, mỹ. Phổ biến kịp thời các tác
phẩm tốt, đưa các nhân tố văn hóa, tinh thần nhân văn thấm sâu vào các lĩnh vực
của đời sống xã hội, từ cách ứng xử trong gia đình, trường học, xã hội đến các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, giao tiếp…
Xây dựng gia đình
no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc, làm cho gia đình thực sự là tế bào lành
mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người. Phát huy trách nhiệm của gia đình
trong việc lưu truyền những giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Thực hiện tốt Luật hôn nhân và gia đình.
Phát huy người
tốt, việc tốt. Hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới phù hợp với truyền
thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại.
Xây dựng văn hóa
là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Có chính sách đầu tư thích đáng cho văn hóa,
văn nghệ. Phát triển các hoạt động văn hóa, văn nghệ của Nhà nước, tập thể và
cá nhân theo đường lối của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
VI- CHÍNH
SÁCH GIẢI QUYẾT MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Hệ thống chính
sách xã hội được hoạch định trên những quan điểm sau đây:
- Tăng tưởng kinh
tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong
suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối
hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều
kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sự dụng tốt năng lực của mình.
- Thực hiện nhiều
hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là
chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết
quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với
chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động.
- Khuyến khích
làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Thu hẹp dần khoảng
cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng
lớp dân cư.
- Phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, nhân hậu,
thuỷ chung.
- Các vấn đề
chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai
trò nòng cốt đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức
trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những
vấn đề xã hội.
Trong những năm
trước mắt, phải giải quyết tốt một số vấn đề xã hội sau đây:
- Tập
trung sức tạo việc làm.
Phương hướng quan
trọng nhất là Nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế
hoạch và các chương trình kinh tế - xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh
tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho
người lao động. Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo
pháp luật. Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động
trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên các địa bàn có tính chiến lược về kinh
tế, an ninh - quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao
động. Giảm đáng kể tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn.
- Thực hiện
xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội và các hoạt động nhân
đạo, từ thiện.
Thực hiện tốt
chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng và phát triển quỹ xóa đói giảm nghèo
bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối
tượng và có hiệu quả.
Tổ chức tốt đời
sống xã hội trên từng địa bàn để trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người
còn thấp vẫn tạo được một cuộc sống khá hơn cho nhân dân. Mở rộng diện các xã
có điện, có đường, có trường học, có trạm y tế, có nước sạch…
Tổ chức tốt việc
thi hành Pháp lệnh về người có công, bảo đảm cho những người có công với đất
nước và cách mạng có đời sống vật chất và tinh thần ít nhất bằng mức sống trung
bình của nhân dân ở nơi cư trú; bồi dưỡng và tạo điều kiện cho con em những
người có công với cách mạng tiếp nối sự nghiệp của cha anh. Mở rộng phong trào đền
ơn đáp nghĩa, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ.
Thực hiện và hoàn
thiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo đảm đời sống người nghỉ hưu được ổn
định, từng bước cải thiện. Xây dựng Luật bảo hiểm xã hội.
Đẩy mạnh các hoạt
động nhân đạo, từ thiện. Thực hiện các chính sách bảo trợ trẻ mồ côi,
lang thang cơ nhỡ, người già neo đơn, nạn nhân chiến tranh, người tàn tật; xây
dựng quỹ tình thương trích từ ngân sách một phần và động viên toàn xã hội tham
gia đóng góp; tiến tới xây dựng Luật về bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi.
Giúp đỡ những người bị thiên tai và những rủi ro khác.
- Chăm sóc
và bảo vệ sức khoẻ, nâng cao thể chất của nhân dân.
Phấn đấu đến năm
2000 giảm hẳn tỉ lệ mắc bệnh truyền nhiễm gây dịch, các bệnh do ký sinh trùng
và suy dinh dưỡng. Khắc phục các hậu quả của chiến tranh trên lĩnh vực sức
khỏe. Cải thiện các chỉ tiêu cơ bản về sức khỏe của người dân, nhất là sức khỏe
bà mẹ, trẻ em, nâng cao tuổi thọ bình quân và giảm tỉ lệ tử vong.
Tiếp tục củng cố
hệ thống y tế nhà nước, đặc biệt là y tế xã, huyện. Mở rộng, đa dạng hóa, nâng
cao chất lượng và hiệu quả các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Đổi mới và tăng cường
công tác quản lý bệnh viện, kiện toàn hệ thống khám chữa bệnh đủ sức đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao và đa dạng của nhân dân. Thực hiện khám chữa bệnh miễn phí
cho các gia đình chính sách, cho người nghèo. Tăng đầu tư của Nhà nước kết hợp
với tạo thêm nguồn kinh phí khác cho y tế như phát triển bảo hiểm, mở rộng hợp
tác quốc tế. Khuyến khích và quản lý tốt hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân
của các tổ chức và cá nhân. Phát triển y học cổ truyền dân tộc; kết hợp y học
cổ truyền với y học hiện đại. Xây dựng chính sách về quản lý và phát triển công
nghiệp dược, thiết bị y tế, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Có chính
sách đãi ngộ để sử dụng tốt cán bộ y tế, nhất là ở những nơi khó khăn. Ngăn
chặn tình trạng xuống cấp trong ngành y tế, từ cơ sở vật chất, trang thiết bị
đến chất lượng và thái độ phục vụ. Chấn chỉnh việc thu và sử dụng viện phí.
Chống tiêu cực trong các dịch vụ y dược. Đề cao y đức "thày thuốc như mẹ
hiền".
Đẩy mạnh công tác
y học dự phòng. Thực hiện rộng rãi các biện pháp vệ sinh môi trường, vệ sinh
thực phẩm và cung cấp nước sạch.
Phát triển phong
trào thể dục thể thao sâu rộng trong cả nước, trước hết là trong thanh,
thiếu niên; tạo chuyển biến tích cực về chất lượng và hiệu quả giáo dục thể
chất trong trường học, trong các lực lượng dự bị quốc phòng và lực lượng vũ
trang. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về thể dục, thể thao. Từng bước hình
thành lực lượng thể thao chuyên nghiệp.
- Đẩy mạnh
công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình.
Kiện toàn hệ
thống tổ chức làm công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình. Phát triển mạng lưới
dịch vụ kế hoạch hóa gia đình đến tận cơ sở, nhất là nông thôn miền núi. Hướng
vào mục tiêu mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1 hoặc 2 con, tỉ lệ tăng dân số dưới 1,8%
vào năm 2000; tiến tới ổn định quy mô dân số trong nửa đầu thế kỷ sau.
- Đẩy lùi
tệ nạn xã hội.
Thực hiện đồng bộ
các biện pháp giáo dục, kinh tế, hành chính và pháp luật đề phòng, chống có
hiệu quả các tệ nạn xã hội, nhất là tệ trộm cướp, cờ bạc, ma túy, mua bán
dâm...
VII- QUỐC
PHÒNG VÀ AN NINH
Nhiệm vụ
về quốc phòng và an ninh trong những năm tới là:
Phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, từng bước tăng cường tiềm lực
quốc phòng và an ninh của đất nước, xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân,
thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh
nhân dân, nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang, bảo vệ vững chắc độc lập,
an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ
Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu và
hoạt động gây mất ổn định chính trị xã hội, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, gây tổn hại cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước; ngăn
chặn và trừng trị có hiệu quả mọi loại tội phạm, bảo đảm tốt trật tự, an toàn
xã hội.
Thực hiện nhiệm
vụ quốc phòng và an ninh trong tình hình mới, cần nắm vững các tư tưởng chỉ
đạo sau đây:
- Kết hợp chặt
chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Kết hợp quốc
phòng và an ninh với kinh tế.
- Gắn nhiệm vụ
quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, hai mặt có quan hệ khăng khít với nhau của
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa; phối hợp chặt chẽ hoạt động
quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại.
- Củng cố quốc
phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng,
Nhà nước và của toàn quân, toàn dân. Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống
chính trị để tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng lực lượng quân
đội và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại;
xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận
an ninh nhân dân; quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, tích cực, chủ động,
sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá ta.
- Hoàn thiện hệ
thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc; thể chế hóa các chủ trương, chính sách của
Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Tăng cường quản
lý nhà nước về quốc phòng, an ninh.
- Thường xuyên
chăm lo xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công
an, đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng và an ninh.
VIII-
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
Nhiệm vụ đối
ngoại trong thời gian tới là củng cố môi trường hòa bình và tạo điều kiện quốc
tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tiếp tục thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa
các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả nước trong
cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Hợp tác nhiều
mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết các vấn
đề tồn tại và các tranh chấp bằng thương lượng.
Ra sức tăng cường
quan hệ với các nước láng giếng và các nước trong tổ chức ASEAN, không ngừng
củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, coi trọng quan hệ với các
nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế giới, đồng thời
luôn luôn nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nước đang phát triển ở châu
Á, châu Phi, Mỹ latinh, với Phong trào không liên kết.
Tăng cường hoạt
động ở Liên hợp quốc, tổ chức các nước sử dụng tiếng Pháp, các tổ chức tài
chính - tiền tệ quốc tế, tổ chức thương mại thế giới và các tổ chức quốc tế
khác. Tích cực đóng góp cho hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải
quyết các vấn đề toàn cầu. Ủng hộ cuộc đấu tranh nhằm loại trừ hoàn toàn vũ khí
hạt nhân và những phương tiện giết người hàng loạt khác.
Phát triển quan
hệ với các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng, độc lập dân tộc
và tiến bộ; mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác.
Mở rộng quan hệ
đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, tranh thủ sự đồng
tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy xu thế hòa
bình, hợp tác, phát triển.
IX- THỰC
HIỆN ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC, PHÁT HUY VAI TRÒ LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN
Trong thời kỳ mới
của công cuộc xây dựng đất nước, nhân dân ta càng có điều kiện mở rộng khối đại
đoàn kết dân tộc, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức làm nền tảng. Đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp, các dân
tộc, các tôn giáo, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi người trong đại gia đình dân tộc
Việt Nam dù sống trong nước hay đang định cư ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh
của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc vì mục
tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh, lấy mục tiêu đó làm điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận những
điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xóa bỏ định
kiến, mặc cảm, hướng tới tương lai, xây dựng tinh thần đại đoàn kết, cởi mở,
tin cậy lẫn nhau.
Trong những năm
tới, cần động viên mọi tiềm năng sáng tạo, phát huy vai trò làm chủ của nhân
dân nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện thắng lợi những
nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội 1996 - 2000.
- Bằng các
chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc trong nước,
tạo ra những động lực mới thúc đẩy phong trào cách mạng của nhân dân.
Xây dựng giai cấp
công nhân lớn mạnh về mọi mặt, phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp,
nâng cao trình độ học vấn và tay nghề, có năng lực ứng dụng và sáng tạo công
nghệ mới, có tác phong công nghiệp và ý thức tổ chức, kỷ luật, lao động đạt
năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, làm nòng cốt trong việc xây
dựng khối liên minh công nhân, nông dân, trí thức và tăng cường khối đại đoàn
kết dân tộc.
Tạo thêm việc
làm, cải thiện điều kiện lao động, thực hiện an toàn lao động và vệ sinh công
nghiệp, hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Tổ chức
tốt việc đào tạo và đào tạo lại nghề nghiệp. Tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn
chỉnh chính sách tiền công lao động và các chính sách bảo đảm về mặt xã hội.
Tạo điều kiện cho công nhân có cổ phần trong các doanh nghiệp. Đẩy mạnh việc
phát triển Đảng trong công nhân; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo cán bộ xuất thân
từ công nhân.
Đối với giai
cấp nông dân, thực hiện tốt chính sách giao đất, khoán rừng; ngăn chặn và
khắc phục tình trạng nông dân không có ruộng đất sản xuất; giúp đỡ về vốn, kỹ
thuật, các dịch vụ cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm, phát triển công nghiệp
chế biến và các nghề tiểu, thủ công. Phát triển tín dụng nông thôn, mở rộng
việc cho nông dân nghèo vay vốn sản xuất, chống nạn cho vay nặng lãi, mua lúa
non, buôn bán trái phép ruộng đất. Giúp đỡ nông dân phát triển các hình thức
kinh tế hợp tác. Có chính sách bảo hộ sản xuất cho nông dân.
Đối với tầng
lớp trí thức, tạo điều kiện thu nhận thông tin, tiếp cận với các thành tựu
mới của khoa học và văn hóa thế giới, nâng cao kiến thức chuyên môn, trình độ
chính trị; khuyến khích tự do sáng tạo, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ;
phổ biến các tác phẩm và công trình văn học nghệ thuật có giá trị; phát hiện,
bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ xứng đáng các tài năng. Tổ chức tốt lực lượng cán
bộ khoa học và văn hóa, nghệ thuật thực hiện các chương trình, đề tài nghiên
cứu của Nhà nước. Phát huy vai trò của trí thức trong việc xây dựng luật pháp
và chính sách.
Đối với thanh
niên, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh ở mọi cấp, mọi ngành. Coi trọng hơn nữa việc giáo dục, rèn luyện thế
hệ trẻ về chính trị, tư tưởng, văn hóa, nghề nghiệp, đạo đức, lối sống. Quan
tâm đào tạo nghề và giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu học tập, lao động sáng
tạo, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao và giải trí lành mạnh cho thanh,
thiếu niên. Tạo điều kiện cho Đoàn Thanh niên thực hiện tốt trách nhiệm đối với
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Tạo môi trường xã hội lành mạnh, ngăn
ngừa các tệ nạn xã hội và văn hóa phẩm độc hại. Chăm lo giáo dục, đào luyện thế
hệ trẻ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị,
của gia đình, nhà trường và của toàn xã hội. Nghiên cứu ban hành Luật thanh
niên.
Đối với phụ
nữ, xây dựng và thực hiện Chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ
Việt Nam đến năm 2000.
Đặc biệt coi
trọng việc đào tạo nghề nghiệp, giúp đỡ chị em có việc làm, phát triển kinh tế
gia đình, cải thiện đời sống, bảo vệ sức khỏe của phụ nữ và trẻ em.
Quan tâm phát
triển đảng và đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ; tăng tỉ lệ cán bộ nữ trong cơ quan
lãnh đạo Đảng và Nhà nước ở các cấp, các ngành.
Đối với các
nhà doanh nghiệp tư nhân, thực thi chính sách bảo hộ sở hữu tài sản và vốn,
khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh,
thực hiện tốt các nghĩa vụ mà luật pháp quy định.
Vấn đề dân tộc
có vị trí chiến lược lớn. Thực hiện "bình đẳng, đoàn kết, tương trợ"
giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Xây dựng Luật dân tộc. Từ nay đến năm 2000, bằng nhiều biện pháp tích cực
và vững chắc, thực hiện cho được 3 mục tiêu chủ yếu: xóa được đói, giảm được
nghèo, ổn định và cải thiện được đời sống, sức khỏe của đồng bào các dân tộc,
đồng bào vùng cao, vùng biên giới; xóa được mù chữ, nâng cao dân trí, tôn trọng
và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; xây dựng được cơ sở chính
trị, đội ngũ cán bộ và đảng viên của các dân tộc ở các vùng, các cấp trong sạch
và vững mạnh.
- Về tôn giáo,
thi hành nhất quán chính sách tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào của công dân. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.
Bảo đảm cho sinh
hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật Nhà nước. Nghiêm cấm việc xâm
phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái
pháp luật và chính sách của Nhà nước. Nhà nước chăm lo phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, giúp đỡ đồng bào có đạo xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống,
tham gia các công việc xã hội, từ thiện.
Đồng bào theo đạo
và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với
Tổ quốc, sống "tốt đời đẹp đạo".
- Đối với người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân
tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta chủ trương bảo hộ quyền lợi chính đáng, giúp
đỡ nâng cao ý thức cộng đồng, tăng cường đoàn kết tương trợ, giữ gìn bản sắc
văn hóa và truyền thống dân tộc; tạo điều kiện thuận lợi cho kiều bào về thăm
quê hương, giúp đỡ gia đình, đóng góp ngày càng nhiều hơn vào sự nghiệp xây
dựng đất nước thông qua việc hợp tác với các ngành, các địa phương trong nước
trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học và công nghệ, văn hóa nghệ thuật...
- Xây dựng
cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra" đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước.
Thực hiện tốt các
cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện là các cơ quan dân cử
và các đoàn thể; làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng
các quy ước, hương ước tại cơ sở phù hợp với luật pháp của Nhà nước.
Đảng và Nhà nước
tiếp tục đổi mới phong cách bảo đảm dân chủ trong quá trình chuẩn bị ra quyết
định và thực hiện các quyết định.
- Tiếp tục
đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội.
Củng cố, mở rộng
các tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một tổ chức liên minh
chính trị, liên hiệp tự nguyện của các đoàn thể chính trị - xã hội và các cá
nhân tiêu biểu trong các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn
giáo. Mặt trận và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân, nơi phối hợp thống nhất hành động của các tầng lớp nhân dân thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tham gia với Đảng và
Nhà nước thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ, chăm lo và bảo vệ lợi
ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; bảo vệ Đảng và chính quyền, thực hiện
các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh đối ngoại; góp phần
tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Thực hiện thành
nền nếp việc Đảng và Nhà nước cùng bàn bạc và tham khảo ý kiến của Mặt trận về
những quyết định, chủ trương lớn.
Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ,
Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh... cần tập hợp rộng rãi các hội viên, đoàn
viên dưới nhiều hình thức đa dạng; thực hiện tốt chức năng giáo dục, vận động
quần chúng thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cụ thể; chăm lo thiết thực lợi
ích của hội viên, đoàn viên; đại diện cho tầng lớp mình tham gia công việc của
Nhà nước. Hướng mạnh về cơ sở để phát triển tổ chức, củng cố sinh hoạt, xã hội
hóa các hoạt động, đào tạo, bồi dưỡng rèn luyện cán bộ, khắc phục bệnh quan
liêu, hành chính trong hoạt động của các đoàn thể. Nhà nước cần ban hành luật
về lập hội và tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động của các đoàn thể nhân dân.
- Mọi cán
bộ, đảng viên đều phải làm công tác dân vận theo chức trách của mình. Mọi cấp bộ đảng
chăm lo công tác dân vận, đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân, các hội quần chúng.
X- TIẾP
TỤC CẢI CÁCH BỘ MÁY NHÀ NƯỚC, XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Quán triệt
các quan điểm cơ bản sau đây:
- Xây dựng Nhà
nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản
lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã
hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân
dân.
- Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.
- Tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội
bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức.
- Tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Để xây dựng, kiện
toàn bộ máy nhà nước vững mạnh, trong sạch, có hiệu lực và hiệu quả, trong 5
năm tới, phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây:
Đổi mới,
nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát của Quốc hội đối với toàn bộ
hoạt động của Nhà nước.
- Về hoạt động
lập pháp: Ban hành các đạo luật cần thiết để điều chỉnh các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Ưu tiên xây dựng các luật về kinh tế, về các quyền công dân và
các luật điều chỉnh công cuộc cải cách bộ máy nhà nước, các luật điều chỉnh các
hoạt động văn hoá, thông tin. Coi trọng tổng kết thực tiễn Việt Nam, nâng cao
chất lượng xây dựng pháp luật, ban hành các văn bản luật với những quy định cụ
thể, dễ hiểu, dễ thực hiện. Giảm dần các luật, pháp lệnh chỉ dừng lại ở những
nguyên tắc chung, muốn thực hiện được phải có nhiều văn bản hướng dẫn thi hành.
- Về hoạt động
giám sát: Nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của
Quốc hội và hội đồng nhân dân. Xác định rõ phạm vi, nội dung, cơ chế giám sát
của Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội và của hội đồng nhân dân các cấp; phân
định rõ tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau giữa hoạt động giám
sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân với hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm
sát của các cơ quan và tổ chức khác. Cùng với việc bảo đảm thực hiện các quyền
khiếu nại, tố cáo của công dân, cần nghiên cứu, hướng dẫn để mọi công dân có
điều kiện phát hiện, đề xuất, kiến nghị, giúp cho hoạt động giám sát có hiệu quả.
Cải cách
nền hành chính nhà nước.
Là trọng tâm của
việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước trong những năm trước mắt, công cuộc cải
cách hành chính phải dựa trên cơ sở pháp luật và tiến hành đồng bộ trên các
mặt: cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và xây dựng, kiện toàn đội ngũ
cán bộ, công chức hành chính.
- Về cải cách thể
chế hành chính: Thực hiện cải cách cơ bản các thủ tục hành chính, cả về
thể chế và tổ chức thực hiện; loại bỏ những khâu bất hợp lý và phiền hà, ngăn
chặn tệ cửa quyền, tham nhũng, hối lộ, vi phạm pháp luật.
- Về tổ chức bộ
máy: Chấn chỉnh cơ cấu tổ chức, biên chế, quy chế hoạt động của bộ máy hành
chính các cấp. Làm cho bộ máy tinh gọn, bảo đảm sự điều hành tập trung, thống
nhất, thông suốt, có hiệu lực từ Chính phủ đến chính quyền địa phương, cơ sở;
đồng thời phát huy tính chủ động, năng động của địa phương, cơ sở. Xác định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền địa
phương. Kiện toàn bộ máy chính quyền cấp huyện và cơ sở đủ sức quản lý, giải
quyết kịp thời, đúng thẩm quyền những vấn đề cuộc sống đặt ra và nhân dân đòi
hỏi.
- Về đội ngũ cán
bộ, công chức hành chính: Xây dựng và ban hành văn bản pháp quy về chế độ công
vụ và công chức. Định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm, thẩm quyền, quyền lợi và kỷ
luật công chức hành chính. Quy định các chế độ đào tạo, tuyển dụng, sử dụng
công chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có trình độ chuyên
môn và kỹ năng nghề nghiệp cao vừa giác ngộ về chính trị, có tinh thần trách
nhiệm, tận tụy, công tâm, vừa có đạo đức liêm khiết khi thừa hành công vụ.
Cải cách
tổ chức và hoạt động tư pháp.
- Tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt
động của hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật đều phải xử
lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
- Củng cố, kiện
toàn bộ máy các cơ quan tư pháp. Phân định lại thẩm quyền xét xử của tòa án
nhân dân, từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án nhân dân
huyện. Đổi mới tổ chức, hoạt động của viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều
tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp.
- Xây dựng đội
ngũ thẩm phán, thư ký tòa án, điều tra viên, kiểm sát viên, chấp hành viên,
công chứng viên, giám định viên, luật sư... có phẩm chất chính trị và đạo đức
chí công vô tư, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, bảo đảm cho bộ máy
trong sạch, vững mạnh.
Đẩy mạnh
đấu tranh chống tham nhũng.
Tiến hành đấu
tranh kiên quyết, thường xuyên và có hiệu quả chống tệ tham nhũng trong bộ máy
nhà nước, trong các ngành, các cấp từ trung ương đến cơ sở. Kết hợp những biện
pháp cấp bách với những giải pháp có tầm chiến lược nhằm vừa hoàn thiện cơ chế,
chính sách, kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh công tác quản lý, khắc phục sơ hở vừa
xử lý nghiêm, kịp thời mọi vi phạm, tội phạm, huy động và phối hợp chặt chẽ mọi
lực lượng đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi và loại trừ tệ tham nhũng.
Đấu tranh chống
tham những phải gắn với đấu tranh chống buôn lậu, lãng phí, quan liêu; tập
trung vào các hành vi lợi dụng chức quyền tham ô, làm thất thoát tài sản nhà
nước, nhận hối lộ; chú ý những lĩnh vực trọng điểm như đất đai, nhà ở, xây dựng
cơ bản, hợp tác đầu tư, tài chính, ngân hàng, xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh,
hải quan, hoạt động tư pháp, quản lý tài sản công, quản lý vốn trong các doanh
nghiệp nhà nước...
Phải làm tốt
những việc sau đây:
1. Tiếp tục kiện toàn bộ máy nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường
quản lý nhà nước. Thực hiện công khai và dân chủ trong phân bổ ngân sách, kinh
phí, duyệt các chương trình, dự án đầu tư. Kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng, chi
tiêu ngân sách nhà nước. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý vốn trong doanh nghiệp
nhà nước, quản lý tài sản công trong cơ quan nhà nước. Hoàn thiện các tiêu
chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật; chấn chỉnh chế độ thống kê, kế toán, kiểm
toán. Tiếp tục cải tiến chế độ tiền lương, bảo đảm cho công chức có thể sống
bằng thu nhập từ tiền lương. Có kế hoạch triển khai việc kê khai thu nhập và
nhà đất của công chức và cán bộ đảng từ trung ương đến các cấp.
2- Xử lý nghiêm minh, kịp thời các vụ tham những ở mọi nơi, mọi cấp, đối với
mọi cương vị.
3- Kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật, kiên quyết đưa ra khỏi ngành những
cán bộ, nhân viên tham nhũng hoặc bao che, tiếp tay cho bọn tham nhũng, làm
sạch bộ máy thực sự trong sạch, vững mạnh.
4- Tăng cường giáo dục chính trị và phẩm chất, đạo đức cho cán bộ, đảng viên.
Quản lý và kiểm tra chặt chẽ đảng viên cả ở nơi công tác và nơi cư trú để mỗi
cán bộ, đảng viên, công chức ở bất cứ cương vị nào đều phải thường xuyên tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức, không để đồng tiền cám dỗ sa vào tham nhũng dưới bất
cứ hình thức hoặc mức độ nào.
5- Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải gương mẫu không tham nhũng và phải chịu
trách nhiệm về tệ tham nhũng trong cơ quan, đơn vị của mình. Lựa chọn người
trong sạch, có bản lĩnh chính trị, có kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn tham
gia công tác chống tham nhũng. Xây dựng cơ chế để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên, nhân dân phát hiện và tích cực tham
gia chống tham những; bảo vệ những người thật sự công tâm và kiên quyết chống
tham nhũng, nghiêm trị những tổ chức và cá nhân bao che, tiếp tay cho bọn tham
nhũng, đồng thời ngăn ngừa những hành vi lợi dụng chống tham nhũng để bôi xấu
và phá rối nội bộ. Phát huy vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng trong
cuộc đấu tranh này.
Phần thứ tư
XÂY DỰNG
ĐẢNG NGANG TẦM ĐÒI HỎI CỦA THỜI KỲ MỚI
Toàn bộ thành tựu
và khuyết điểm của công cuộc đổi mới gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và
hoạt động của Đảng ta. Sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng là một nhân tố quyết
định tạo ra những thành tựu đổi mới. Đồng thời, chính trong quá trình lãnh đạo
đổi mới mà Đảng ngày càng trưởng thành, nhận rõ hơn những mặt yếu kém của mình
để có biện pháp khắc phục.
Thắng lợi của
công cuộc đổi mới chứng tỏ: Đảng ta tiếp tục giữ vững và phát huy được bản lĩnh
và kinh nghiệm của các thời kỳ trước, lãnh đạo có kết quả công cuộc xây dựng và
bảo vệ đất nước trong những tình huống mới hết sức phức tạp.
Nhìn một cách
tổng quát, trong mười năm qua, công tác xây dựng Đảng đạt được những
thành tựu sau đây:
Đảng đã đề
ra và từng bước bổ sung, hoàn thiện dần đường lối đổi mới một cách đúng đắn,
sáng tạo, hình thành ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
- Khẳng
định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động của Đảng. ở những bước bước ngoặt của cách
mạng, trước những diễn biến phức tạp của tình hình, Đảng kịp thời có định hướng
tư tưởng chính trị đúng đắn, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, chống những luận
điệu thù địch, tạo cơ sở cho sự thống nhất tư tưởng trong Đảng và trong nhân
dân.
- Giữ vững nguyên
tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Có tiến bộ về thực
hiện dân chủ trong Đảng và lãnh đạo thực hiện dân chủ trong xã hội, phát huy
trí tuệ của tập thể, sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân.
- Đã có chủ
trương và biện pháp đổi mới, chỉnh đốn Đảng gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội, kiện toàn hệ thống chính trị. Đổi mới một tổ chức và cán bộ, nâng cao
trình độ và sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên; ngăn chặn đựoc sự sa sút, yếu
kém của nhiều tổ chức cơ sở Đảng; bước đầu cải tiến phương thức lãnh đạo và
phong cách công tác. Công tác kiểm tra việc chấp hành nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt Đảng, kiểm tra việc giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ,
đảng viên và việc xử lý kỷ luật Đảng có tiến bộ.
Tuy nhiên, công
tác xây dựng Đảng vừa qua còn nhiều khuyết điểm. Hiện nay, đang nổi lên một số
vấn đề lớn:
- Trong điều kiện
cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với bên ngoài, cán bộ, đảng
viên hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động nhiều nhân tố rất phức tạp, kể cả
những hoạt động chống phá Đảng, vấn đề giữ vững bản chất giai cấp công nhân của
Đảng đứng trước những thách thức mới. Song, Đảng thiếu sự chuẩn bị đầy đủ cho
bước chuyển này, chưa chú ý đúng mức vấn đề giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính
trị và đạo đức đối với cán bộ, đảng viên. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý
chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đoạ về đạo đức và lối sống. Một số thoái
hoá về chính trị, tuy rất ít nhưng hoạt động của họ gây hậu quả hết sức xấu.
- Trình độ kiến thức,
năng lực lãnh đạo của Đảng có mặt chưa theo kịp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn chưa đựơc làm sáng tỏ.
- Tổ chức cơ sở
Đảng ở nhiều nơi yếu kém, có nơi tê liệt; phương thức lãnh đạo và sinh hoạt
lúng túng, có tình trạng vừa kém dân chủ vừa thiếu kỷ luật, kỷ cương. Một số
cán bộ và cấp uỷ chưa tôn trọng và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ;
bệnh quan liêu, độc đoán, cục bộ, địa phương, kèn cựa, địa vị, cá nhân chủ
nghĩa rất nặng. Không ít nơi nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng.
- Công tác kiểm
tra việc chấp hành đường lối, quan điểm, chỉ thị. nghị quyết của Đảng chưa được
chú trọng.
Để thực hiện
những mục tiêu và nhiệm vụ mà Đại hội VIII nêu ra, Đảng ta phải tiếp tục sự đổi
mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của
mình, khắc phục cho được các khuyết điểm, các biểu hiện tiêu cực và yếu kém.
Đảng phải mạnh từ trung ương đến cơ sở, ở tất cả các cấp, các ngành.
Trong công tác
xây dựng Đảng, phải thường xuyên nắm vững và tập trung làm tốt những điều
cơ bản sau đây:
1- GIỮ
VỮNG VÀ TĂNG CƯỜNG BẢN CHẤT GIAI CẤP CÔNG NHÂN CỦA ĐẢNG .
Đây là nhiệm vụ
có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với Đảng ta. Trong điều kiện hiện nay, giữ
vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng là phải:
- Kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong bất kỳ tình huống khó khăn nào
cũng không dao động, xa rời mục tiêu đó.
- Kiên định và
vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, xuất phát đầy đủ từ thực tiễn Việt Nam, trên cơ sở đó xây dựng đường lối,
chủ trương và các chính sách đúng đắn.
- Giữ vững nguyên
tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường
xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
- Thường xuyên
giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công
nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo quan điểm của giai cấp công
nhân.
- Củng cố mối
quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
Chăm lo đời sống, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Trung thành với
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại.
Trong toàn bộ
tiến trình cách mạng, lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích dân
tộc. Đảng đại biểu cho lợi ích giai cấp công nhân đồng thời đại biểu cho lợi
ích toàn dân tộc. Sức mạnh của Đảng là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn hệ tư tưởng
tiên tiến của giai cấp công nhân với khí phách, tinh hoa, truyền thống tốt đẹp
của dân tộc và điều này tập trung thể hiện sáng ngời ở tư tưởng Hồ Chí Minh.
2 - NÂNG
CAO BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ, PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN.
Căn cứ vào Cương
lĩnh và các nghị quyết của Đảng, thường xuyên bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên
đường lối, chủ trương của Đảng, các vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những kiến thức
mới của thời đại, bảo đảm sự thống nhất về chính trị và tư tưởng của toàn Đảng.
Công tác lý luận
trước hết hướng vào những vấn đề do cuộc sống đặt ra, làm rõ căn cứ khoa học
của các giải pháp, dự báo các xu hướng phát triển, góp phần bổ sung, hoàn thiện
đường lối của Đảng, làm cho ngày càng sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Mọi cán bộ, đảng viên,
trước hết là các cán bộ lãnh đạo chủ chốt, phải có kế hoạch thường xuyên học
tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực
tiễn. Học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên và phải được
quy định thành chế độ. Lười học tập, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp
nhận những thông tin mới, cũng là biểu hiện của sự thoái hoá.
Uốn nắn những
nhận thức lệch lạc, những quan điểm mơ hồ, những biểu hiện dao động về tư
tưởng, suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng. Phê phán
và bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch. Đảng viên có quyền được phát biểu
ý kiến trong tổ chức, được bảo lưu ý kiến, nhưng phải chấp hành nghị quyết của
Đảng, không được truyền bá những quan điểm trái với quan điểm, đường lối của
Đảng, không được làm lộ bí mật của Đảng và nhà nước. Tổ chức đảng cần quản lý,
có biện pháp xử lý kịp thời đối với những đảng viên vi phạm nguyên tắc đảng
hoặc lợi dụng dân chủ để tuyên truyền chống Đảng.
Khắc phục tình
trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên sa sút phẩm chất đạo đức. Cán bộ, đảng viên
phải gương mẫu tự rèn luyện, tự phấn đấu nâng cao đạo đức cách mạng “cần kiệm,
liêm chính, chí công vô tư”, khắc phục chủ nghĩa cá nhân. Không được lợi dụng
việc pháp luật chưa đồng bộ hoặc cơ chế, chính sách còn những chỗ sơ hở để làm
ăn bất chính, đục khoét của công. Các tổ chức đảng phải thường xuyên giáo dục,
rèn luyện, quản lý đảng viên, kể cả đảng viên là cán bộ cao cấp. Xác định rõ
những việc liên quan đến kinh doanh tư nhân, đến việc làm cho người nước ngoài
mà công chức không được phép làm; quy định chặt chẽ việc nhận quà biếu, tiếp
khách; quy định chế độ cán bộ, công chức, đảng viên, trước hết là những người
giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt ở các cấp, phải báo cáo và chịu sự kiểm tra về
thu nhập, về tài sản. Những người giàu lên một cách bất thường phải có sự kiểm
tra của tổ chức đảng. Quy đinh trách nhiệm của những cán bộ, đảng viên có vợ,
chồng và con làm ăn phi pháp; định rõ những hoạt động kinh doanh mà vợ, chồng,
con của cán bộ lãnh đạo chủ chốt đương chức ở trung ương và địa phương không
được phép làm. Đảng viên không làm hoặc mượn danh nghĩa người thân để làm kinh
tế tư bản tư nhân.
Xử lý kịp thời và
nghiêm minh những cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, bất kể là ai, ở cương
vị nào.
3 - CỦNG
CỐ ĐẢNG VỀ TỔ CHỨC, THỰC HIỆN NGHIÊM NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ.
Có quy đinh cụ
thể bảo đảm cho mọi đảng viên được thảo luận và tham gia quyết định các chủ
trương công tác của tổ chức đảng; thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng
tổ chức, cấp dưới phục tùng cấp trên, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Ban
Chấp hành Trung Ương và Đại hội toàn quốc của Đảng. Những quyết đinh thuộc thẩm
quyền của tập thể phải biểu quyết theo đa số; mọi thành viên phải chấp hành
quyết đinh của tập thể.
Đảng viên, cán bộ
phải rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật, tự giác đặt mình trong sự quản lý
của chi bộ, tham gia đầy đủ sinh hoạt chi bộ, tuân thủ kỷ luật của Đảng. Không
để một đảng viên nào đứng ngoài sự quản lý của tổ chức.
Thực hiện nghiêm
túc chế độ tự phê bình và phê bình; chống cách làm hình thức, chiếu lệ, không
sửa chữa khuyết điểm. Nghiêm cấm hiện tượng trấn áp, trù dập người phê
bình cũng như hiện tượng lợi dụng phê bình để vu cáo, đả kích cá nhân, gây rối
nội bộ.
Mọi hoạt động vô
tổ chức, vô kỷ kuật, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, gây chia rẽ
bè phái trong Đảng đều phải bị xử lý nghiêm minh.
Tiếp tục cải tiến
bộ máy Đảng, nhà nước và đoàn thể theo hướng tinh giản và nâng cao hiệu quả;
xác đinh rõ hơn chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các tổ chức, kiện toàn
các cấp uỷ đảng, giải quyết các mối quan hệ và nâng cao chất lượng hoạt động
của các ban đảng, các đảng đoàn, ban cán sự, đảng uỷ khối, đảng uỷ cơ quan.
Đoàn kết thống
nhất trong Đảng, trước hết là ở cơ quan lãnh đạo, có ý nghĩa quyết định sự
thành công của cách mạng. Cán bộ, đảng viên giữ gìn sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng trên cơ sở đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và tình thương
yêu đồng chí. Tập trung sức giải quyết cho được tình trạng mất đoàn kết nghiêm
trọng ở một số ngành và địa phương, phân tích đúng nguyên nhân, có biện pháp
giải quyết phù hợp. Đặc biệt cần:
- Bố trí đúng
người đứng đầu tổ chức đảng và cơ quan chính quyền cùng cấp;
- Thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ;
- Có quy chế công
tác rõ ràng, chặt chẽ, nhất là về công tác cán bộ;
- Thường xuyên tự
phê bình và phê bình; đấu tranh chống kèn cựa địa vị, cơ hội, cục bộ, bản vị,
bè phái;
- Bồi dưỡng tình
thương yêu đồng chí, tôn trọng lẫn nhau;
- Phát hiện sớm
hiện tượng mất đoàn kết, tập trung giải quyết và xử lý dứt điểm.
Không đồng nhất
việc trong Đảng có những ý kiến khác nhau khi thảo luận, tranh luận trong tổ
chức với tình trạng mất đoàn kết. Trước sự phát triển của cách mạng, có nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn rất phức tạp, chưa sáng tỏ, trong Đảng cần có sự
thảo luận, tranh luận. Mọi cán bộ, đảng viên phải biết lắng nghe, tôn trọng ý
kiến của nhau, thật sự vì chân lý, lẽ phải. Đồng thời không “đoàn kết” hình
thức, một chiều, nể nang, không dám đấu tranh.
4 - CHĂM
LO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ.
Tình hình và
nhiệm vụ mới đặt ra rất nhiều yêu cầu cho công tác cán bộ. Toàn Đảng phải hết
sức chăm lo xây dựng thật tốt đội ngũ cán bộ, chú trọng đội ngũ cán bộ kế cận
vững vàng, đủ bản lĩnh về các mặt. Sớm xây dựng chiến lược cán bộ của thời kỳ
mới.
Đảng phải lo cán
bộ cho cả hệ thống chính trị, trên tất cả các lĩnh vực. Đảng thống nhất lãnh
đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm
của các tổ chức thành viên hệ thống chính trị trong công tác cán bộ. Bảo đảm
nguyên tắc tập thể, dân chủ đi đôi với phát huy trách nhiệm cá nhân trong
công tác cán bộ.
Trên cơ sở bảo
đảm tiêu chuẩn, thực hiện trẻ hoá đội ngũ cán bộ đồng thời kết hợp tốt các độ
tuổi, bảo đảm tính liên tục, tính phát triển trong đội ngũ cán bộ. Có chính
sách đoàn kết, tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng dụng mọi nhân tài của
đất nước, trong Đảng và ngoài Đảng.
Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ
chuyên môn và năng lực thực tiễn. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cả cán bộ lãnh
đạo, cán bộ quản lý, các nhà doanh nghiệp và các chuyên gia, trước hết là đội
ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị; coi trọng cả đức và tài, đức là
gốc. Việc học tập của cán bộ phải được quy định thành chế độ và phải được thực
hiện nghiêm ngặt. Mọi cán bộ phải thường xuyên nâng cao trình độ mọi mặt, rèn
luyện, trau dồi phẩm chất chính trị, lòng trung thành với lý tưởng cách mạng, ý
chí kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ý thức tổ chức kỷ
luật, gương mẫu trong đạo đứcvà lối sống, kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích chung, khi lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích chung thì phải biết
đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết.
Chăm lo tạo nguồn
cán bộ trong phong trào thực tiễn và ngay từ trong các trường đại học, cao đẳng
và dạy nghề. Coi trọng bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ.
Đổi mới quan niệm
và phương pháp đánh giá, bố trí cán bộ, bảo đảm thật sự dân chủ, với một quy
trình chặt chẽ. Mỗi cấp uỷ cần có biện pháp quản lý và nắm chắc quá trình phát
triểncủa cán bộ. Đánh giá, nhận xét cán bộ phải căn cứ vào những việc làm cụ
thể của mỗi người cả ưu điểm và khuyết điểm, trong từng thời gian nhất định.
Những nhận xét, kết luận về cán bộ, mọi công việc về nhân sự nhất thiết phải do
tập thể có thẩm quyền quyết định. Khắc phục cách làm đơn giản, thành kiến,
thiếu công tâm, dân chủ hình thức.
Bố trí và sử dụng
cán bộ phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn và sở trường. Đề bạt, bổ nhiệm đúng lúc,
giao việc đúng tầm, thay thế kịp thời khi cần thiết. Xây dựng quy chế bầu cử có
nhiệm kỳ, bổ nhiệm có thời hạn. Có chế độ cho cán bộ được từ chức hoặc rút chức
để nhận công việc thích hợp.
Xây dựng quy chế
tuyển chọn cán bộ, tuyển chọn nhân tài.
Có chính sách sử
dụng đúng đắn, chính sách tiền lương và đãi ngộ hợp lý đối với các loại cán bộ.
Khắc phục tình trạng không muốn công tác ở cơ quan đảng, đoàn thể, tình trạng
“chảy chất xám” của khu vực nhà nước. Có biện pháp tích cực và chủ động bảo vệ
cán bộ, không để cán bộ bị các thế lực đen tối mua chuộc, lôi kéo, khống chế
hoặc bôi nhọ.
5 - NÂNG
CAO SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG.
Khảo sát kỹ từng
loại tổ chức cơ sở đảng, đánh giá đúng thực trạng và nguyên nhân để có biện
pháp đổi mới, chỉnh đốn phù hợp. Bảo đảm cho mỗi loại hình hoạt động theo đúng
chức năng và nhiệm vụ của mình.
Phát huy kết quả
và kinh nghiệm của việc thực hiện Nghị quyết Trung ương ba (Khoá VII), chỉ đạo
tốt cuộc vận động xây dựng cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; chấn chỉnh các cơ
sở yếu kém; khắc phục sự buông lỏng công tác đảng. Những nơi nội bộ mất đoàn
kết, cán bộ chủ chốt có nhiều biểu hiện tiêu cực thì cấp trên phải chỉ đạo,
giúp đỡ trực tiếp. Tạo ra một bước chuyển biến mới của các cơ sở đảng vùng đồng
bào tôn giáo, dân tộc.
Hướng chủ yếu
củng cố, chỉnh đốn các tổ chức cơ sở đảng là phải làm cho các cơ sở này quán
triệt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đề ra được chủ trương, giải
pháp đúng và lãnh đạo tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ của đơn vị, phát triển
kinh tế, xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của người lao động, chống tham
nhũng, ức hiếp quần chúng, lãnh đạo giải quyết những nguyện vọng chính đáng,
thiết thực, bức xúc của nhân dân. Chấn chỉnh và cải tiến sinh hoạt đảng; có quy
định chặt chẽ đối với những trường hợp đảng viên đi công tác, làm việc lưu động
ở nơi xa, ở nước ngoài. Thực hiện có nền nếp việc quản lý đảng viên.
ở các doanh
nghiệp tư nhân, các cơ sở liên doanh với nước ngoài, những nơi chưa có hoặc có
ít đảng viên phải đi từ việc xây dựng các đoàn thể, tập hợp và giáo dục quần
chúng, phát triển đoàn viên, hội viên, đảng viên, tiến tới xây dựng các tổ đảng
và chi bộ đảng. Sớm có quy định hướng dẫn hoạt động của các tổ chức đảng
ở khu vực này.
Dành kinh phí
thoả đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ cơ sở; chú ý kiện toàn và
tăng cường đội ngũ cốt cán.
Các tổ chức cơ sở
đảng phải động viên và tổ chức nhân dân thường xuyên tham gia xây dựng Đảng:
đóng góp ý kiến xây dựng các nghị quyết của Đảng; giám sát, phê bình cán bộ,
đảng viên; giới thiệu những người xứng đáng để kết nạp vào Đảng, bầu vào các
cấp ủy và chính quyền; giúp tổ chức đảng làm tốt công tác kiểm tra, phát hiện,
đấu tranh với những hành vi tham nhũng, buôn lậu, và các tệ nạn khác...
Đổi mới cách phân
công, tạo điều kiện để mọi đảng viên đều gắn với nhiệm vụ cụ thể. Đối với những
đồng chí già yếu, cán bộ nghỉ hưu phải chăm lo giúp đỡ bảo đảm đời sống và tạo
điều kiện để các đồng chí đó tiếp tục phát huy khả năng và kinh nghiệm đóng góp
cho công việc chung.
Đẩy mạnh công tác
phát triển đảng, bảo đảm tiêu chuẩn và chất lượng. Bồi dưỡng, giáo dục thanh
niên, tạo nguồn, phát triển đảng.
6 - TIẾP
TỤC ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG .
Đảng lãnh đạo hệ
thống chính trị; đề ra đường lối. chính sách xây dựng và bảo vệ đất nước; nắm
vững tổ chức và cán bộ để bảo đảm thực hiện có kết quả đường lối của Đảng. Đảng
lãnh đạo thông qua tổ chức đảng chứ không chỉ thông qua cá nhân đảng viên; lãnh
đạo bằng các quyết định của tập thể và bằng cách theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo,
kiểm tra việc thực hiện, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc.
Đảng lãnh đạo phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực của Nhà nước chứ không điều
hành thay Nhà nước. Đảng và mọi đảng viên đều hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp, pháp luật và chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình.
Đảng đoàn, ban
cán sự đảng trong các cơ quan nhà nước và đoàn thể chịu trách nhiệm
trước cấp uỷ về quán triêt đường lối, chính sách của Đảng trong hoạt động của
các cơ quan và đoàn thể đó; phối hợp với đảng uỷ khối và cấp uỷ đảng địa phương
trong công tác xây dựng Đảng ở các cơ sở thuộc ngành mình quản lý.
Đảng uỷ, đảng
đoàn, ban cán sự đảng làm việc theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, có chế độ sinh hoạt định kỳ với nội dung rõ ràng, không lẫn lộn với sinh
hoạt chính quyền.
7 - ĐỔI
MỚI CÔNG TÁC KIỂM TRA VÀ KỶ LUẬT CỦA ĐẢNG.
Công tác kiểm tra
có vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng. Kiểm tra
và giữ gìn kỷ luật của Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng.
Nội dung kiểm tra
bao gồm việc kiểm tra chấp hành đường lối, chính sách và nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, giữ gìn phẩm chất đạo
đức cách mạng của đảng viên. Thông qua kiểm tra mà phát huy ưu điểm, phát hiện
nhân tố mới, khắc phục khuyết điểm, bổ sung, phát triển hoặc điều chỉnh chủ
trương, chính sách, xử lý sai phạm.
Các tổ chức đảng,
trước hết là các cấp uỷ đảng, bộ Chính trị và các ban thường vụ cấp uỷ, cần tự
mình tiến hành kiểm tra và sử dụng các ban để tổ chức thường xuyên việc kiểm
tra.
Công tác kiểm tra
kỷ luật có chương trình, kế hoạch, có trọng tâm trọng điểm; phải kết hợp chặt
chẽ với công tác thanh tra của Nhà nước, thanh tra nhân dân để có kết luận rõ
ràng và có chủ trương xử lý đúng đắn, nhất là đối với những đảng viên vi phạm
pháp luật.
Củng cố, kiện
toàn bộ máy kiểm tra các cấp, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ kiểm tra về
đường lối, quan điểm pháp luật, kinh tế, về nghiệp vụ và phong cách làm việc.
Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra có phẩm chất chính trị tốt, công tâm, trong
sạch, đủ năng lực kiểm tra việc chấp hành đường lối chính sách của Đảng.
Đặc biệt coi
trọng làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng.
*
*
*
Kính thưa Đại
hội,
Thưa các đồng chí
và các bạn,
Đại hội VIII của
Đảng là Đại hội tiếp tục đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa. Những phương
hướng và nhiệm vụ nêu trên đây là sự cụ thể hoá và phát triển hơn nữa đường lối
đổi mới được xác định qua các Đại hội VI và Đại hội VII của Đảng. Thực hiện
thắng lợi những phương hướng, nhiệm vụ này là cách tốt nhất để chuẩn bị
hành trang cho dân tộc ta vững bước đi vào thế kỷ XXI, vượt qua đói nghèo, tạo
đà cho những bước tiến lớn hơn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta đoàn kết một lòng, phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc,
trí tuệ và bản lĩnh của con người Việt Nam, nêu cao ý chí độc lập tự chủ, tự
lực tự cường, nắm chắc thời cơ, khắc phục mọi khó khăn thử thách, quyết tâm đưa
những nghị quyết của Đại hội VIII vào cuộc sống, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, từng bước tiến lên chủ nghĩa
xã hội.
Thưa Đoàn Chủ
tịch,
Thưa các đồng chí
Cố văn Ban chấp hành Trung ương,
Thưa các đồng chí
đại biểu,
Thưa các vị khách
quý,
Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu cột
mốc mới trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta. Đại hội có nhiệm vụ
kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết của Đại hội VII, tổng kết 10 năm đổi mới;
đề ra mục tiêu, phương hướng, giải pháp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước đến năm 2000 và 2020; bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng.
Trong quá trình
chuẩn bị các văn kiện, đảng bộ các cấp. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ
chức chính trị, xã hội, các đồng chí Cố vấn Ban chấp hành Trung ương, các đồng
chí lão thành cách mạng, các nhân sĩ, trí thức đã góp nhiều ý kiến quan trọng
và xác đáng. Sau khi dự thảo Báo cáo chính trị được công bố rộng rãi, đông đảo
các tầng lớp nhân dân trong cả nước và đồng bào sinh sống ở nước ngoài đã sôi
nổi đóng góp nhiều ý kiến quý báu, đầy tâm huyết, thể hiện ý chí, nguyện vọng
và quyết tâm của toàn dân đoàn kết chung quanh Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng
Đảng bàn việc nước. Có thể nói, các văn kiện trình ra Đại hội lần này là kết
tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân ta.
Thay mặt Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa VII, tôi xin trình bày những nội dung chủ yếu trong
các văn kiện đó.
I- ĐÁNH
GIÁ 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT
ĐẠI HỘI
VII VÀ 10 NĂM ĐỔI MỚI
Đại hội VIII phải
đánh giá đúng đắn kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và 10 năm thực
hiện đường lối đổi mới được đề ra từ Đại hội VI của Đảng, rút ra những bài học
lớn, làm cơ sở xác định đúng đắn mục tiêu, nhiệm vụ cho chặng đường sắp tới.
Mười năm trước,
khi Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện, nước ta trong tình trạng trầm trọng
nhất của khủng hoảng kinh tế - xã hội; sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt,
đất nước bị bao vây về kinh tế, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng
tin giảm sút. Sau gần 5 năm phấn đấu gian khổ, kiên cường thực hiện đường lối
đổi mới, nhân dân ta đã giành được những thắng lợi bước đầu rất quan trọng cả
về kinh tế, xã hội chính trị, đối nội và đối ngoại. Mức độ gay gắt của cuộc
khủng hoảng đã giảm được một phần. Đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra
được Đại hội VII bổ sung và phát triển, thể hiện ở cương lĩnh, Chiến lược và
Báo cáo chính trị mà Đại hội VII đã thông qua.
Song lúc bấy giờ,
thành tựu đổi mới còn hạn chế. Tăng trưởng kinh tế còn chậm, lạm pháp còn cao,
nhiều vấn đề xã hội mới nảy sinh, có mặt nghiêm trọng. Mỹ vẫn tiếp tục bao vây
cấm vận. Một số thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động hòng gây mất ổn định chính
trị, phá rối an ninh quốc gia, làm phương hại đến độc lập, chủ quyền của đất
nước. Nước ta lại đứng trước mắt những thử thách rất gay gắt.
Trong tình thế
đó, Đảng và nhân dân ta đã thể hiện trí tuệ và bản lĩnh cách mạng của mình,
phát huy truyền thống đoàn kết, đấu tranh kiên cường, lao động sáng tạo, đẩy
lùi nguy cơ, vượt qua thử thách, đưa sự nghiệp đổi mới tiếp tục tiến lên.
Nhìn tổng quát, công
cuộc đổi mới 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan
trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã được hoàn thành về
cơ bản.
Tình trạng đình
đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc phục. Kinh tế tăng trưởng
nhanh, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân hằng năm
thời kỳ 1991 - 1995 đạt 8,2%. Lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7%
năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991, 12,7% năm 1995. Đầu tư toàn xã hội bằng
nguồn vốn trong và ngoài nước so với GDP năm 1990 là 15,8%, năm 1995 là 27,4%.
Lương thực không những đủ ăn mà còn xuất khẩu được mỗi năm khoảng 2 triệu tấn
gạo. Nhiều công trình thuộc kết cấu hạ tầng và cơ sở công nghiệp trọng yếu được
xây dựng, tạo thêm sức mạnh vật chất và thế cân đối mới cho bước phát triển tiếp
theo.
Quan hệ sản xuất
được điều chỉnh phù hợp hơn với tính chất, trình độ và yêu cầu phát triển của
sức sản xuất, giải phóng và phát huy tiềm năng to lớn trong nước, tạo thuận lợi
khai thác nguồn lực bên ngoài. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa tiếp tục được xây dựng một cách đồng bộ hơn và có hiệu quả hơn.
Số việc làm tạo
thêm hàng năm gần đây đã xấp xỉ số người mới bổ sung vào lực lượng lao động.
Đời sống vật chất của đại bộ phận nhân dân được cải thiện. Trình độ dân trí và
mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân khá hơn trước. Các phong trào đền ơn đáp
nghĩa, xóa đói giảm nghèo được toàn dân hưởng ứng. Dân chủ được phát huy. Lòng
tin của nhân dân đối với chế độ và tiền đồ đất nước, với Đảng và Nhà nước được
khẳng định.
Ổn định chính trị
- xã hội được giữ vững. Quốc phòng an ninh được củng cố. Quan hệ đối ngoại phát
triển mạnh mẽ; phá được thế bị bao vây, cô lập; mở rộng hợp tác và tham gia
tích cực đời sống cộng đồng quốc tế.
Công tác xây dựng
Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tăng cường đại đoàn kết
toàn dân có nhiều chuyển biến tích cực.
Trong khi đánh
giá đúng thành tựu, chúng ta cần thấy rõ những tồn tại và yếu kém: nước ta còn
nghèo và kém phát triển; chúng ta lại chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản
xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dành vốn cho đầu tư, phát triển. Tình hình xã
hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết. Việc lãnh đạo xây dựng
quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng. Vừa buông lỏng. Quản lý nhà nước về
kinh tế, xã hội còn nhiều thiếu sót. Hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm.
Tuy vậy, đến nay,
thế và lực của đất nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Nước ta đã ra
khỏi cuộc khủng hỏang kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm,
tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển
sang thời kỳ phát triển mới; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ những bài học
thành công và chưa thành công, chúng ta đã điều chỉnh và bổ sung nhận thức, làm
cho quan niệm về chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể; đường lối, chủ trương,
chính sách ngày càng đồng bộ, có căn cứ khoa học và thực tiễn. Con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.
Đại hội VI đề ra
đường lối đổi mới toàn diện. Đại hội VII thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2000. Các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương và
của Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đã cụ thể hóa cương
lĩnh, chiến lược trên hầu hết các lĩnh vực, từ kinh tế đến văn hóa, xã hội,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước. Các văn kiện
trình Đại hội VIII kế thừa và phát triển hơn nữa những đường lối, chủ trương
đúng đắn đó.
Xét trên tổng
thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là
đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải nắm vững và kiên
trì đường lối đó, thường xuyên nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để có những điều
chỉnh, bổ sung và phát triển cần thiết, đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên giành
những thắng lợi to lớn hơn nữa.
Tuy vậy, trong
quá trình thực hiện, chúng ta đã phạm một số khuyết điểm, lệch lạc lớn và kéo
dài, dẫn đến chệch hướng ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ này hay
mức độ khác. Nếu không được khắc phục có hiệu quả thì những khuyết điểm,
lệch lạc đó sẽ làm suy yếu Đảng, làm mọt ruỗng bộ máy Nhà nước, biến chất chế
độ, đưa đất nước đi chệch con đường xã hội chủ nghĩa. Giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa là cuộc đấu tranh khó khăn, phức tạp, diễn ra thường xuyên. Điều
quan trọng là sớm phát hiện sai lầm, khuyết điểm, đề ra biện pháp sửa chữa đúng
đắn, kịp thời.
Tổng kết chặng
đường đổi mới 10 năm qua, Đảng ta rút ra một số bài học chủ yếu:
- Trong quá trình
đổi mới, phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững 2
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách
mạng với sự linh hoạt, sáng tạo trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới.
- Kết hợp chặt
chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Phát huy dân chủ, khắc phục
những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời chống mọi khuynh
hướng dân chủ cực đoan, quá khích, mọi âm mưu lợi dụng chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền” nhằm gây rối chính trị, chống phá chế độ, can thiệp vào nội bộ nước
ta.
- Xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường phải đi đôi
với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Mở rộng và tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự
cường, động viên sức mạnh của cả dân tộc nỗ lực phấn đấu vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
- Mở rộng hợp tác
quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết
hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Động viên mọi nguồn lực bên
trong là chính, đồng thời khai thác tốt những điều kiện thuận lợi mới trong
quan hệ đối ngoại, tạo môi trường quốc tế thuận lợi và tranh thủ những nhân tố
tích cực phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Việc mở rộng quan hệ
đối ngoại phải trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, giữ gìn, phát huy bản sắc và
truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đảng ta phải
luôn tự đổi mới và chỉnh đốn. Củng cố và xây dựng Đảng cả về chính trị, tư
tưởng, tổ chức, cán bộ; tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiền
phong của Đảng; đổi mới phương thức, lề lối làm việc, nâng cao trình độ và hiệu
quả lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Nắm vững và vận
dụng sáng tạo những bài học trên đây là bảo đảm cho thành công của sự nghiệp phát
triển đất nước trong thời kỳ mới.
II - THỜI
KỲ PHÁT TRIỂN MỚI - ĐẨY MẠNH
CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Đảng ta nhận định
rằng sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước phát triển trong tình hình
thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường.
Nêu lên 5 đặc
điểm của tình hình thế giới và 5 xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế hiện nay,
Đảng ta khẳng định: sau những biến cố chính trị ở Liên Xô và Đông Âu, chủ nghĩa
xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất
của thời đại; loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển,
có mặt sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới. Đấu tranh
dân tộc và đấu tranh giai cấp diễn ra dưới nhiều hình thức.
Cách mạng khoa
học và công nghiệp tiếp tục phát triển nhanh với trình độ ngày càng cao, thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và
đời sống xã hội. Các nước đầu có những cơ hội để phát triển. Tuy nhiên, do ưu
thế về vốn, công nghệ, thị trường thuộc về các nước phát triển, khiến các nước
chậm phát triển và đang phát triển đứng trước những thách thức to lớn.
Châu Á - Thái
Bình Dương đang là khu vực phát triển năng động với nhịp độ tăng trưởng cao.
Đồng thời khu vực này cũng đang tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn định.
Trong quan hệ
quốc tế, hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi
bức xúc của các dân tộc và các quốc gia trên thế giới. Các nước dành ưu tiên
cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với
việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia; tham gia ngày càng nhiều vào
quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại
và nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Hợp tác ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng
rất gay gắt.
Các dân tộc nâng
cao ý thức độc lập, tự chủ, đấu tranh chống lại sự áp đặt và can thiệp của nước
ngoài, bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Các lực lượng xã hội chủ nghĩa, cách mạng và
tiến bộ trên thế giới kiên trì đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội. Các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau vừa hợp tác
vừa đấu tranh cùng tồn tại hòa bình.
Trước mắt chúng
ta có cả thời cơ lớn và những thách thức lớn.
Thời cơ lớn được
tạo ra trước hết do những thành tựu của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, đồng thời cũng do sự tác động của nhiều xu thế tích cực trên thế giới.
Thách thức lớn
nảy sinh từ bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ nêu lên.
Các nguy cơ đó có mối liên hệ tác động lẫn nhau và đều nguy hiểm, không thể xem
nhẹ nguy cơ nào.
Thuận lợi và khó
khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau. Chúng ta phải chủ động nắm thời cơ, vươn
lên phát triển nhanh và vững chắc, tạo ra thế và lực mới, đồng thời luôn luôn
tỉnh táo, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ, kể cả những nguy cơ mới
nảy sinh, bảo đảm phát triển đúng hướng.
Xuất phát từ kết
quả 10 năm đổi mới, từ những tiền đề đã được tạo ra, Đảng ta nhận định rằng
nước ta đã chuyển sang thời ký phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đây là một nhận định cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa chỉ đạo
đối với việc đề ra phương hướng, nhiệm vụ sắp tới.
Mục tiêu của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ
sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến
bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất
và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Từ nay đến năm
2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Lực lượng sản
xuất đến lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công
được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hóa cơ bản được thực hiện
trong cả nước, năng suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao
hơn nhiều so với hiên nay. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng từ 8 đến 10 lần
so với năm 1990.
Về quan hệ sản
xuất, chế độ sở hữu, cơ chế quản lý và chế độ phân phối gắn kết với nhau, giải
phóng sức sản xuất, tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực
hiện công bằng xã hội.
Kinh tế nhà nước
thực hiện tốt vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành nền
tảng. Kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức khác nhau tồn tại phổ biến.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân chiếm tỉ trọng đáng kể.
Về đời sống vật
chất và văn hóa, nhân dân có cuộc sống no đủ, có nhà ở tương đối tốt, có điều
kiện thuận lợi về đi lại, học hành, chữa bệnh, có mức hưởng thụ văn hóa khá.
Quan hệ xã hội lành mạnh, lối sống văn minh; phát huy những giá trị cao đẹp và
truyền thống vẻ vang của dân tộc.
Làm được những
việc nói trên sẽ là một bước tiến lớn trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Giai đoạn từ nay
đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực
lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một
cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000: tăng trưởng kinh tế nhanh,
hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích lũy từ
nội bộ nền kinh tế, tạo tiến đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu
thế kỷ sau.
III- PHÁT
TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
VÀ XÂY
DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT MỚI THEO
ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Đi lên chủ nghĩa
xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, Đảng ta luôn xác định xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Trong những năm tiến
hành công nghiệp hóa trước đây, mặc dù có những sai lầm, thiếu sót, song
chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Một số công trình lớn đã được
xây dựng và phát huy tác dụng. Chúng ta phải kế thừa thành tựu của thời kỳ
trước, rút kinh nghiệm từ những sai lầm, thiếu sót để bổ sung, phát triển nhận
thức, đề ra những bước đi, giải pháp thích hợp, nhằm triển khai có hiệu quả hơn
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời kỳ mới.
Ngày nay, công
nghiệp hóa luôn gắn liền với hiện đại hóa, với việc ứng dụng rộng rãi những thành
tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thời đại. Khoa học và công nghệ trở
thành nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao dân trí, bồi dưỡng
và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết đinh thắng
lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong hoàn cảnh
mới chúng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hóa và da dạng
hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập
khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả, tranh thủ vốn, công nghệ
và thị trường quốc tế để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhưng kinh
nghiệm cho thấy, nếu không tao lập được một vị thế độc lập, tự chủ, không có đủ
nội lực cần thiết, thì không thể tham gia hợp tác quốc tế một cách thật sự bình
đẳng và có lợi, không thể khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài.
Vì vậy, phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, bảo đảm khả năng giữ vững độc
lập, tự chủ về kinh tế, quốc phòng an ninh, chủ động tham gia phân công lao
động và hợp tác quốc tế. Luôn luôn nêu cao phương châm dựa vào nguồn lực trong
nước là chính, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, động viên mọi
người, mọi nhà, mọi cấp, mọi ngành cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong
tiêu dùng, dành vốn cho đầu tư phát triển.
Trong những năm
trước mắt, khả năng vốn còn có hạn, nhu cầu việc làm rất bức bách, đời sống
nhân dân còn nhiều khó khăn, tình hình kinh tế, xã hội chưa thật ổn định vững
chắc. Chúng ta cần tránh sai lầm chủ quan nóng vội, quá thiên về công nghiệp nặng,
ham quy mô lớn. Phải đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa nông nghiệp và nông
thôn, ra sức phát triển nông - lâm ngư nghiệp, các ngành công nghiệp chế
biến nông – lâm - thủy sản, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, các
ngành du lịch, dịch vụ; khôi phục, phát triển, từng bước hiện đại hóa các ngành
nghề tiểu thủ công truyền thống đi đôi với mở mang những ngành nghề mới.
Cân nhắc, lựa
chọn những dự án cũng như thời điểm khởi công các công trình công nghiệp nặng
trọng yếu mà nhu cầu đòi hỏi bức bách và có điều kiện về vốn, công nghệ, thị
trường, có khả năng phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả cao. Nâng cấp, cải
tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế ở những khâu
ách tắc nhất đang cản trở sự phát triển.
Xây dựng quy hoạch
phát triển tổng thể dài hạn các ngành, các lĩnh vực, các địa bàn để có bước đi
thích hợp, kết hợp giữa nhu cầu trước mắt và mục tiêu lâu dài, giữa điểm và
diện, giữa kinh tế và quốc phòng, an ninh, giữa công nghiệp, nông nghiệp và
dịch vụ. Phát triển các loại hình doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa là chính, với
công nghệ thích hợp, vốn đầu tư ít, tạo ra nhiều việc làm, thời gian thu hồi
vốn nhanh. Chú trọng đầu tư chiều sấu, đổi mới trang thiết bị nhằm khai thác có
hiệu quả năng lực sản xuất hiện có. Đồng thời xây dựng hoặc tích
cực chuẩn bị để xây dựng một số công trình lớn thật sự cần thiết.
Chính sách phát
triển công nghiệp phải gắn kết chặt chẽ với chính sách và giải pháp phát triển
các ngành và các lĩnh vực khác, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau, tạo nên sự phát
triển đồng bộ trong đời sống kinh tế, xã hội. Đặc biệt quan tâm xây dựng quan
hệ hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa công
nghiệp và nông nghiệp, thành thị và nông thôn, công nhân, nông dân và trí thức
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nếu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội
mới, thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây
dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp.
Chính sách kinh
tế nhiều thành phần đã góp phần to lớn giải phóng và phát triển sức sản xuất,
đưa đến những thành tựu kinh tế - xã hội quan trọng qua 10 năm đổi mới. Văn
kiện Đại hội VIII khẳng định tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách
này, khuyến khích mọi doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước khai thác các
tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển, yên tâm làm ăn lâu dài, hợp pháp, có lợi
cho quốc kế dân sinh; đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp
luật, không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh.
Nền kinh tế nhiều
thành phần mà Đảng ta chủ trương là nền kinh tế phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Do đó, văn kiện nhấn mạnh sự cần thiết phải chăm lo đổi mới và
phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác, làm cho kinh tế nhà nước thực
sự làm ăn có hiệu quả, phát huy tốt vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác
xã phấn đấu dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Tập trung nguồn
lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực
trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm, những cơ sở sản xuất và thương mại, dịch vụ quan trọng, một số doanh
nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có quan hệ đến quốc phòng an ninh.
Đổi mới tổ chức
quản lý doanh nghiệp nhà nước, phát huy cao độ quyền tự chủ của doanh nghiệp
trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa
một bộ phận doanh nghiệp nhà nước để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc
đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản thuộc sở hữu nhà nước ngày
càng tăng lên.
Tăng cường lãnh
đạo, chỉ đạo và có chính sách ưu đãi, giúp đỡ kinh tế hợp tác mà nòng cốt là
các hợp tác xã phát triển tốt. Kết hợp một cách tự nguyện sức mạnh của từng
thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của
sản xuất kinh doanh và đời sống của người lao động.
Phát triển rộng
rãi các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Áp dụng nhiều phương thức hợp tác,
liên doanh giữa Nhà nước với các nhà tư bản trong nước và các công ty tư bản
nước ngoài. Tạo thế và lực cho doanh nghiệp Việt Nam phát triển, tăng khả năng
hợp tác và cạnh tranh. Cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý
để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Giúp đỡ kinh tế
cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về
thị trường tiêu thụ sản phẩm, hướng dẫn họ từng bước đi vào làm ăn hợp tác một
cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã.
Khuyến khích tư
bản tư nhân dầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài, bảo hộ quyền sở hữu và
lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi đối với tăng cường quản lý, hướng
dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh.
Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần không thể
tách rời việc xây dựng đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cơ chế thị trường
đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế- xã hội. Nó
chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc
xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, cơ chế
thị trường có những tác động tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã
hội. Vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô
của Nhà nước, nhằm phát huy tác dụng tích cực đi đôi với ngăn ngừa, hạn chế và
khắc phục những mặt tiêu cực. Phải xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,
hình thành đồng bộ các yếu tố của thị trường, đồng thời xây dựng và hoàn thiện
các công cụ pháp luật, kế hoạch, các thiết chế tài chính, tiền tệ và những
phương tiện vật chất và tổ chức cần thiết cho sự quản lý của Nhà nước, tạo điều
kiện cho cơ chế thị trường hoạt động hữu hiệu.
Xử lý tốt mối
quan hệ giữa kế hoạch và thị trường. Thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng
của kế hoạch. Kế hoạch phải quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng để đưa ra
một hệ thống các mục tiêu vĩ mô, xác định tốc độ tăng trưởng, cơ cấu và các cân
đối lớn, lựa chọn phương án, chính sách và giải pháp dể định hướng phát triển
cho toàn bộ nền kinh tế.
Cơ chế thị trường
đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn
minh. Cạnh tranh vì lợi ích phát triển đất nước, chứ không phải làm phá sản
hàng loạt, lãng phí các nguồn lực thôn tính lẫn nhau.
Thực hiện đúng
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của
Nhà nước. Tôn trọng và phát huy đầy đủ quyến tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp
trong cơ chế thị trường. Các cơ quan chính quyền không can thiệp vào những việc
thuộc chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp.
IV- CHĂM
LO PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC
CON NGƯỜI,
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Cương lĩnh của
Đảng ta chỉ rõ: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực
to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội".
Hàng loạt vấn đề
xã hội đang được đặt ra, hoặc do hậu quả nặng nề của nhiều năm chiến tranh, của
nền kinh tế kém phát triển, hoặc mới nảy sinh trong quá trình chuyển sang cơ
chế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế. Không thể cùng một lúc giải quyết
mọi vấn đề trong lúc năng suất lao động xã hội còn thấp, nguồn thu ngân sách
còn hạn hẹp, lại phải tích lũy cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì
vậy, Báo cáo chính trị chỉ đề cập một số vấn đề bức bách nhất về con người và
về xã hội.
Báo cáo chính trị
trình bày các phương hướng chủ yếu phát triển trí tuệ của người Việt Nam
thể hiện trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Các ngành khoa học xã
hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệ phải được quan tâm đầu tư phát
triển, chú trọng nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các thành tựu khoa học và công nghệ của nhân loại để góp phần đắc
lực vào việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch phát triển
sản xuất kinh doanh, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người.
Giáo dục và đào
tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Bằng nhiều hình thức đa dạng bảo
đảm cho mọi người được học, nhất là người nghèo và con em các gia đình thuộc
diện chính sách. Động viên phong trào toàn dân thi đua xóa mù chữ, hoàn thành
phổ cập tiểu học trong cả nước và phổ cập trung học cơ sở ở những nơi có điều
kiện. Cải tiến chất lượng dạy và học, khắc phục những tiêu cực, yếu kém trong
ngành giáo dục để hoàn thành tốt việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn lực con người
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cùng với đổi mới nội dung giáo dục
theo hướng cơ bản, hiện đại, phải tăng cường giáo dục công dân, giáo dục thế
giới quan khoa học, lòng yêu nước, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và
tiền đồ của đất nước.
Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, xã hội. Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, các
hoạt động văn hóa - văn nghệ có vị trí quan trọng trong việc hình thành nhân
cách, làm phong phú đời sống tinh thần con người Việt Nam. Bản sắc dân tộc và
tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đậm không chỉ trong công tác
văn hóa - văn nghệ, mà cả trong hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng
các thành tựu khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo … sao cho trong mọi lĩnh
vực chúng ta có cách tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái
Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, tiếp thụ những tinh hoa của nhân loại, song phải luôn
luôn coi trọng những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc, quyết không được
tự đánh mất mình, trở thành bóng mờ hoặc bản sao chép của người khác.
Sự cường tráng
về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý để tạo
ra tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội. Chăm lo cho con người về thể chất là
trách nhiệm của toàn xã hội, của tất cả các cấp, các ngành, các đoàn thể. Song
song với phát triển kinh tế, chăm lo cho việc ăn, ở của dân ngày càng tốt hơn,
các ngành y tế, thể dục thể thao, dân số và kế hoạch hóa gia đình phải làm tốt
nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Trong đó, phải rất quan tâm xây dựng
và củng cố hệ thống y tế cơ sở, làm tốt công tác y tế dự phòng, phòng chống các
bệnh dịch, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, phát động rộng rãi phong trào thể
dục thể thao quần chúng. Phải đổi mới cơ chế và thái độ phục vụ, động viên thỏa
đáng và sử dụng có hiệu quả những nguồn tài chính dành cho hoạt động y tế. Bảo
đảm cho những người nghèo, những người trong diện chính sách được chăm
sóc sức khỏe, khám chữa bệnh được giảm hoặc miễn phí.
Qua thực tiễn 10
năm đổi mới, chúng ta nhận thức rõ là không chờ kinh tế phát triển cao rồi mới
giải quyết các vấn đề xã hội, mà ngay trong từng bước và suốt quá trình phát
triển, tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Công bằng xã hội không chỉ được thực hiện trong phân phối kết quả sản
xuất, mà còn được thực hiện ở khâu phân phối tư liệu sản xuất, ở việc tạo ra
những điều kiện cho mọi người phát huy tốt năng lực của mình. Khuyến khích làm
giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp đi đôi với chăm lo xóa đói, giảm nghèo,
thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, giữa
các dân tộc, giữa các tầng lớp dân cư, đặc biệt quan tâm đến các vùng căn cứ
cách mạng và kháng chiến cũ, các gia đình thuộc diện chính sách, làm cho mọi
người, mọi nhà đều tiến tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việc làm, có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành và chữa bệnh, từng bước thực hiện điều
Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước.
Xuất phát từ nhận
thức chăm lo cho con người, cho cộng đồng xã hội là trách nhiệm của toàn xã
hội, của mỗi đơn vị, của từng gia đình, là sự nghiệp của Đảng. Nhà nước và của
toàn dân, chúng ta chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội theo tinh thần xã
hội hóa, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt. Theo trình độ phát triển
kinh tế, Nhà nước tăng dần nguồn đầu tư cho khoa học, giáo dục, văn hóa, chăm
sóc sức khỏe và các vấn đề xã hội; đồng thời khai thác mọi tiềm năng của nhân
dân, của địa phương, của các hội, đoàn, tranh thủ các nguồn viện trợ từ nước
ngoài và sử dụng có hiệu quả để chăm lo cho con người và xã hội. Sự nghiệp cách
mạng là sự nghiệp của nhân dân do nhân dân và vì nhân dân, Nhà nước và nhân dân
cùng làm, mọi việc đều phải dựa vào dân…, đó là những quan điểm và kinh
nghiệm trong lịch sử chiến tranh nhân dân và trong 10 năm đổi mới cần nắm vững
và phát huy để tạo nguồn lực giải quyết vấn đề con người và xã hội trong thời
kỳ hiện nay.
V- MỤC
TIÊU, NHIỆM VỤ
VÀ CÁC
CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
LỚN TRONG
KẾ HOẠCH 5 NĂM 1996 – 2000
Đất nước ta bước
vào 5 năm cuối cùng của thế kỷ này với những khả năng và cơ hội lớn hơn nhiều
so với 5 năm trước, đồng thời cũng đứng trước những thử thách hết sức gay
gắt.
Kế hoạch 5 năm
1996-2000 được xây dựng trên cơ sở quán triệt những tư tưởng chỉ đạo sau đây :
- Một là, thực hiện đồng
thời 3 mục tiêu về kinh tế: đẩy mạnh công nghiệp hóa với nhịp độ tăng trưởng
cao, bền vững và có hiệu quả; ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô; chuẩn bị các
tiền đề cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000, chủ yếu là phát triển nguồn
nhân lực, khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, hoàn thiện thể chế.
- Hai là, tiếp tục thực
hiện nhất quán, lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần, phát huy mọi nguồn
lực để phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời hoàn thiện cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Ba là, kết hợp hài hòa
tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội, tập trung giải quyết những vấn đề
bức xúc nhằm tạo được chuyển biến rõ về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
- Bốn là, kết hợp chặt
chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực
vừa phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế vừa phục vụ quốc phòng, an ninh.
- Năm là, kết hợp phát
triển các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác, tạo điều kiện cho các vùng
đều phát triển; phát huy lợi thế của mỗi vùng, trách chênh lệch quá xa về nhịp
độ tăng trưởng giữa các vùng.
Trong 5 năm tới,
chúng ta tập trung sức cho mục tiêu phát triển, đạt tốc độ tăng GDP bình quân
hằng năm 9 - 10%; đến năm 2000 GDP bình quân đầu người gấp đôi năm 1990. Giá
trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 14-15%/năm, nông nghiệp 4,5 - 5%, dịch
vụ 12 - 13% và trong chỉ đạo thực hiện phải tranh thủ mọi khả năng mới, phấn
đấu đạt cao hơn.
Việc xác định các
mục tiêu trên xuất phát từ khả năng thực tế và yêu cầu bức bách của cuộc sống,
của thời đại nhằm nâng cao mọi mặt đời sống các tầng lớp dân cư, thay đổi bộ
mặt đất nước, tạo thế vững vàng cho nước ta tham gia cạnh tranh và hợp tác
trong tiến trình hội nhập cộng đồng quốc tế.
Phương hướng và
giải pháp lớn nhằm thực hiện các mục tiêu trên được thể hiện trong 11 chương
trình và lĩnh vực phát triển của kế hoạch 5 năm tới mà nội dung chủ yếu có thể
tóm tắt như sau :
- Nhóm các chương
trình và lĩnh vực phát triển về nông nghiệp, kinh tế nông thôn, vùng lãnh thổ,
vùng miền núi và dân tộc thiểu số tập trung vào các mục tiêu và phương
hương chính là : phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp
chế biến nông-lâm-thủy sản, đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bảo đảm an toàn lương thực quốc gia
trong mọi tình huống. Tạo điều kiện cho các vùng đều phát triển trên cơ sở phát
huy thế mạnh và tiềm năng của mỗi vùng, liên kết giữa các vùng, làm cho mỗi
vùng đều có chuyển biến rõ rệt, giảm sự chênh lệch quá xa về nhịp độ tăng
trưởng giữa các vùng. Trước hết là ưu tiên giúp đỡ những địa bàn xung yếu,
những khu căn cứ cách mạng, các vùng miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số
còn nhiều khó khăn, tạo điều kiện ban đầu để các vùng đó từng bước tự vươn lên.
Khai thác tối da tiềm năng và lợi thế của vùng biển, ven biển để phát triển
kinh tế, kết hợp với quốc phòng an ninh, bảo vệ và làm chủ vùng biển của Tổ
quốc.
- Nhóm các chương
trình và lĩnh vực phát triển về công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng và dịch vụ tập trung vào các
mục tiêu và phương hướng chính là : phát triển nhanh một số ngành công nghiệp
có lợi thế, có sức cạnh tranh trên thị trường, hướng mạnh về xuất khẩu, hình
thành một số ngành và sản phẩm mũi nhọn trong các lĩnh vực như chế biến lương
thực, thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, khai thác và chế biến dầu khí, công
nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, sản xuất vật liệu. Nâng
cấp và cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có, hình thành các khu công nghiệp
tập trung, tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới,
phát triển mạnh công nghiệp ở nông thôn và ven đô thị. Phát triển giao thông
đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không. Bảo đảm giao lưu thông thoát
trong mọi thời tiết trên các tuyến giao thông huyết mạch, tuyến xương sống và
các tuyến nhánh đến các vùng, các trung tâm miền núi. Chú trọng phát triển kết
cấu hạ tầng kinh tế-xã hội ở miền núi, nông thôn, đặc biệt là đường, điện,
trường học, trạm y tế, nước sạch, thông tin liên lạc …
Các ngành dịch
vụ, thương mại vươn lên bảo đảm lưu thông hàng hóa thông suốt trong cả nước,
chú trọng vùng nông thôn, vùng sâu, miền núi; mở rộng thương mại quốc tế. Củng
cố và phát triển thương nghiệp nhà nước trong những ngành hàng thiết yếu,
những địa bàn còn bỏ trống, nắm bán buôn, chi phối bán lẻ. Từng bước tổ
chức hợp tác xã mua bán và mạng lưới đại lý để cùng thương nghiệp nhà nước đủ
sức ngăn ngừa những biến động bất thường, góp phần ổn định thị trường, giá cả.
Phát triển du lịch và các dịch vụ tài chính, kiểm toán, ngân hàng, bảo hiểm,
thông tin, tư vấn về công nghệ, pháp luật …
- Chương trình
kinh tế đối ngoại nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả các hoạt động về ngoại
thương về thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài và các dịch vụ hoạt động vụ thu
ngoại tệ khác, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Mở
rộng thị trường xuất nhập khẩu; tăng tỉ trọng xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế
biến, tạo thêm những nhóm hàng, mặt hàng có khối lượng và giá trị lớn. Kim
ngạch xuất khẩu tăng bình quân hằng năm khoảng 28%; kim ngạch nhập khẩu tăng
khoảng 24%; thay thế nhập khẩu một số mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả.
Tiếp tục cải
thiện môi trường đầu tư, tận dụng thời cơ tăng nhanh khả năng tiếp nhận, thu
hút và sử dụng có hiệu quả vồn đầu tư và công nghệ tiên tiến, hiện đại của nước
ngoài; đồng thời nâng dần tỉ lệ góp vốn của phía Việt Nam trong các cơ sở liên
doanh.
- Nhóm các
chương trình về khoa học và công nghệ, giáo cục và đào tạo tập trung vào
các mục tiêu và hướng chính là :
Phát triển khoa
học và công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; nắm bắt các thành tựu khoa học và công nghệ thế giới, lựa
chọn và làm chủ công nghệ chuyển giao vào Việt Nam. Bước đầu phát triển một số
lĩnh vực công nghệ cao về điện tử, thông tin, sinh học, vật liệu mới và tự động
hóa. Nâng tỷ lệ đổi mới thiết bị tình hình các ngành sản xuất mỗi năm từ
10% trở lên. Tranh thủ tối đa công nghệ tiến bộ, từng bước đưa công nghệ nước
ta đạt tới trình độ trung bình của khu vực. Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu bảo vệ
và cải thiện môi trường sinh thái.
Nâng cao mặt bằng
dân trí. Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tăng tỉ lệ người lao động được đào tạo trong tổng số
lao động lên 22 –25% vào năm 2000.
Xây dựng đội ngũ
cán bộ khoa học và công nghệ vững mạnh. Phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân
tài trong các lĩnh vực khoa học - công nghệ, văn hóa - nghệ thuật, quản lý kinh
tế - xã hội và quản trị sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu trước mắt và chuẩn
bị cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000.
- Nhóm các chương
trình về phát triển văn hóa - xã hội tập trung vào những mục tiêu và
phương hướng sau :
Giải quyết việc
làm. Nhà nước đầu tư tạo thêm chỗ làm việc và tạo điều kiện cho mọi người tự
mình và giúp đỡ người khác tạo việc làm, giảm tỉ lệ người chưa có việc làm ở
thành thị xuống còn 5% và nâng tỉ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên
75% vào năm 2000.
Xóa đói, giảm tỷ
lệ nghèo từ 20 –25% hiện nay xuống khoảng 10% tổng số hộ cả nước vào năm 2000.
Mở rộng các hoạt
động đền ơn đáp nghĩa những người có công với nước, đảm bảo cho người có công
và gia đình có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của xã, phường nơi cư
trú.
Thực hiện phương
châm đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, y
tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình và các mặt xã hội khác, hướng vào nâng cao
chất lượng cuộc sống vật chất, tinh thần và thể lực của nhân dân. Kết hợp hài
hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo
chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi
tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội.
Phấn đấu thu hẹp
dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng; đặc biệt quan tâm đầu tư
phát triển các lĩnh vực xã hội ở những vùng còn nhiều khó khăn, vùng sâu, vùng
xa… nhất là về y tế, giáo dục, phát thành, truyền hình, văn hóa văn nghệ …
VI- CỦNG
CỐ QUỐC PHÒNG, AN NINH
Trong khi đặt
trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không một chút lơi
lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn coi trọng quốc phòng, an ninh, coi đó
là hai nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ.
Nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh trong những năm tới là : phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn
dân, của cả hệ thống chính trị, từng bước tăng cường tiềm lực quốc phòng, an
ninh của đất nước, xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc
phòng toàn dân gắn với nền an ninh toàn dân và thế trấn an ninh nhân dân, nâng
cao chất lượng các lực lượng vũ trang, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa; ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động gây mất ổn
định chính trị xã hội, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, gây tổn
hại cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước; ngăn chặn có hiệu quả và
nghiêm trị mọi loại tội phạm, bảo đảm tốt trật tự, an toàn xã hội.
Kết hợp chặt chẽ
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kết hợp quốc phòng, an ninh
với kinh tế. Gắn chặt nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, hai mặt có mối
quan hệ khăng khít trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ trong tình hình
mới. Phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng an ninh với hoạt động đối ngoại.
Hoàn thiện hệ thống
pháp luật về bảo vệ Tổ quốc; thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về
xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Thường xuyên chăm lo xây
dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công an, đối với
sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh. Tăng cường quản lý nhà nước về quốc
phòng và an ninh.
VII- MỞ
RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI
Nhiệm vụ đối
ngoại trong thời gian tới là củng cố môi trường hòa bình và tạo điều kiện quốc
tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tiếp tục thực
hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa
với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Mở rộng quan hệ
quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức
quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có
lợi, thông qua thương lượng để tìm những giải pháp phù hợp giải quyết các vấn
đề tồn tại và các tranh chấp, bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, hợp tác và
phát triển.
Tăng cường quan
hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN, không ngừng củng cố
quan hệ với các nước bạn về truyền thống, coi trọng quan hệ với các nước phát
triển và các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế giới, đồng thời luôn luôn
nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nước đang phát triển ở châu Á, châu
Phi, Mỹ latinh, với Phong trào không liên kết.
Tăng cường quan
hệ với các tổ chức của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác. Tích cực hoạt
động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. Ủng hộ
cuộc đấu tranh loại trừ vũ khí hạt nhân và các phương tiện giết người hàng loạt
khác.
Phát triển quan
hệ với các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng, độc lập dân tộc
và tiến bộ; thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng
khác.
Mở rộng quan hệ
đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, tranh thủ sự đồng
tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy xu thế hòa
bình, hợp tác, phát triển.
VIII- TĂNG
CƯỜNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC,
PHÁT HUY VAI TRÒ LÀM CHỦ
CỦA NHÂN
DÂN, XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN
NHÀ NƯỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Sự nghiệp xây dựng
đất nước đòi hỏi mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc, lấy liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, đoàn kết
mọi người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay đang định
cư ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng, nêu cao truyền thống yêu
nước và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, tiến
lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; đồng
thời chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc,
cùng nhau xóa bỏ định kiến, mặc cảm, hướng tới tương lai, xây dựng tinh thần
đại đoàn kết, cởi mở và tin cậy.
Cách mạng là sự
nghiệp của nhân dân. Chế độ ta là chế độ do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược.
Thực hiện đại
đoàn kết dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trước hết phải thể hiện
ở các chính sách cụ thể, thiết thực, đáp ứng lợi ích hợp pháp của các giai cấp,
các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, tạo ra động lực mới thúc đẩy phong
trào cách mạng. Trong đó, chăm lo xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về mọi
mặt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa là một nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trị ở
nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng
và Nhà nước. Thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại
diện, làm chủ trực tiếp cùng các hình thức tự quản tại cơ sở.
Tiếp tục đổi mới
tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân,
làm cho Mặt trận và các tổ chức thành viên thực sự là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nhà nước ta là cột trụ
của hệ thống chính trị, là cộng cụ thực hiện quyền lực của nhân dân. Việc xây
dựng và hoàn thiện nhà nước phải được tiến hành trên cơ sở quán triệt các quan
điểm cơ bản sau đây :
- Xây dựng
nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng. Thực hiện
đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với
mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
- Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.
- Tăng cường pháp
chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội
bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức.
- Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Để Nhà nước ta
thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân, một nhà nước trong sạch, vững
mạnh, có hiệu lực và hiệu quả, phải thực hiện tốt, đồng bộ các nhiệm vụ: đổi
mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội đối
với toàn bộ hoạt động của Nhà nước; cải cách nền hành chính nhà nước, bao gồm
cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công
chức; cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp.
Hiện nay, cán bộ,
đảng viên và nhân dân ta hết sức quan tâm đến cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Nạn tham nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống còn của hệ
thống chính trị. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có những biện pháp khắc
phục, song hiệu quả còn thấp.
Phải tiến hành
đấu tranh kiên quyết, thường xuyên và có hiệu quả chống nạn tham nhũng trong bộ
máy nhà nước, trong các ngành, các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Kết hợp những
biện pháp cấp bách với những giải pháp có tầm chiến lược nhằm vừa hoàn
thiện cơ chế, chính sách, kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh công tác quản lý, khắc
phục sơ hở, vừa xử lý nghiêm, kịp thời mọi vi phạm, tội phạm, huy động và phối
hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi và loại trừ tham
nhũng. Thủ trưởng cơ quan, đơn vị, cán bộ chủ chốt các cấp phải gương mẫu đi
đầu trong đấu tranh chống tham nhũng, trước hết là đối với bản thân.
Đấu tranh chống
tham nhũng phải gắn với đấu tranh chống buôn lậu, lãng phí, quan liêu; tập
trung vào các hành vi tham ô, chiếm đoạt, làm thất thoát tài sản nhà nước, đòi
hối lộ, đưa và nhận hối lộ; chú ý một số lĩnh vực trọng điểm.
IX-
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ BỔ SUNG,
SỬA ĐỔI
ĐIỀU LỆ ĐẢNG
Xây dựng Đảng
ngày càng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức là nhiệm vụ then chốt,
nhất là trong tình hình hiện nay, khi đất nước chuyển sang thời kỳ phát triển
mới.
Mọi thành tựu và
khuyết điểm trong quá trình mới gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động
của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng là một nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu
đổi mới; đồng thời Đảng có trách nhiệm trong việc để kéo dài nhiều mặt yếu kém,
tiêu cực trong bộ máy đảng, nhà nước và trong xã hội. Chính trong quá trình
lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta ngày càng trưởng thành, nhận rõ hơn những
mặt yếu kém của mình để có biện pháp khắc phục.
Phải kiên định sự
lãnh đạo của Đảng, vì ở nước ta, không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì
không thể có độc lập dân tộc, không có quyền làm chủ thực sự của nhân dân,
không có Nhà nước của dân, do dân, vì dân, không thể thực hiện được công bằng
xã hội, không thể có chủ nghĩa xã hội. Lúc bình thường, vai trò lãnh đạo của
Đảng đã rất quan trọng; ở những bước chuyển giai đoạn, vai trò đó lại càng quan
trọng.
Đương nhiên, để
làm tốt vai trò lãnh đạo, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Là
đảng cầm quyền, lại hoạt động trong điều kiện mới hết sức phức tạp, Đảng ta ý
thức sâu sắc về điều đó, coi đây là một quy luật phát triển của Đảng.
Đổi mới và chỉnh
đốn Đảng là nhằm nâng cao phẩm chất và năng lục lãnh đạo của Đảng, xây dựng,
củng cố và bảo vệ Đảng, làm cho Đảng luôn luôn trong sạch, vững mạnh, đáp ứng
yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới. Vì vậy, nó phải gắn với đổi
mới các lĩnh vực kinh tế, xã hội, với việc kiện toàn hệ thống chính trị, với
phát huy óc sáng tạo và khơi dậy phong trào hành động cách mạng của nhân dân.
Trong quá trình
tự đổi mới và chỉnh đốn, Đảng phải kiên định và phát triển sáng tạo những quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ chí Minh về xây dựng Đảng.
Phải xuất phát từ thực tiễn để đề ra giải pháp về xây dựng Đảng. Chống các
khuynh hướng cơ hội, bảo thủ, cực đoan.
Điểm xuyên suốt
có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với Đảng ta trong giai đoạn hiện nay là giữ
vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Bản chất ấy thể
hiện trước hết ở mục đích, lý tưởng của Đảng; ở Cương lĩnh chính trị và đường
lối cán bộ của Đảng; ở mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân và dân tộc, ở
sự kết hợp đúng đắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân.
Cần thống nhất
nhận thức : Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng một nước Việt Nam độc
lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ
nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Nền tảng tư tưởng của Đảng là
chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nguyên tắc tổ chức của Đảng là
tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Một quy luật cơ bản
trong phát triển, tiến bộ của Đảng là thường xuyên tự phê bình và phê bình.
Bản chất giai
cấp, mục tiêu, lý tưởng của Đảng đòi hỏi mọi đảng viên phải nêu cao vai trò
tiên phong gương mẫu, có lao động, không bóc lột, không làm kinh tế tư bản tư
nhân; có đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh, có ý thức tổ chức kỷ luật,
gắn bó với nhân dân… Mọi hành vi trái với những quy định nêu trên đều không phù
hợp với yêu cầu về tư cách đảng viên.
Trong tình hình
hiện nay, phải rất chú trọng việc giáo dục, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất cách mạng và trình độ trí tuệ của cán bộ, đảng viên.
Uốn nắn những nhận thức lệch lạc, những quan điểm mơ hồ, những biểu hiện dao
động về tư tưởng, suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của
Đảng. Phê phán và bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch. Mọi cán bộ, đảng
viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, phải gương mẫu học tập, rèn luyện,
phấn đấu nâng cao trình độ mọi mặt, giữ gìn đạo đức cách mạng, khắc phục chủ
nghĩa cá nhân. Các tổ chức đảng phải thường xuyên giáo dục, quản lý đảng viên,
kể cả đảng viên là cán bộ lãnh đạo. Xử lý kịp thời và nghiêm minh những đảng
viên thoái hóa, biến chất.
Càng đi vào cơ
chế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, hệ thống tổ chức của Đảng càng
phải khoa học, vững mạnh, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Muốn thế, một mặt phải thực hiện nghiêm
túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng, phát huy dân chủ và
giữ gìn kỷ luật, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng; mặt khác phải kiện
toàn hệ thống tổ chức của Đảng và của các tổ chức khác trong hệ thống chính
trị, có cơ chế và phương thức hoạt động thích hợp, vừa bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng, vừa phát huy vai trò chủ động, tích cực, năng động của Nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội, các đơn vị kinh tế, các đoàn thể nhân dân.
Trong việc xây
dựng hệ thống tổ chức của Đảng, cùng với việc kiện toàn tổ chức đảng các cấp,
đặc biệt là ở cấp trung ương, phải rất quan tâm củng cố tổ chức cơ sở đảng.
Phát huy kết quả và kinh nghiệm thực hiện Nghị quyết Trung ương ba (Khóa VII),
cần nâng cao tính tiền phong chiến đấu của các cơ sở đảng và của đảng viên
trong công cuộc đổi mới, trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước; xây dựng cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, chấn
chỉnh các cơ sở yếu kém, khắc phục sự buông lỏng công tác đảng, cải tiến nội
dung sinh hoạt đảng, gắn với thực tế tại địa bàn. Hiện nay, trong điều kiện
kinh tế nhiều thành phần, áp dụng cơ chế quản lý mới có rất nhiều lại hình cơ
sở đảng với những chức năng, nhiệm vụ không hoàn toàn giống nhau. Cần có
kế hoạch khảo sát, đánh giá đúng từng lại hình cơ sở để có biện pháp đổi mới,
chỉnh đốn phù hợp, bảo đảm cho mỗi loại hình hoạt động theo đúng chức năng và
nhiệm vụ của mình.
Tình hình và
nhiệm vụ mới đòi hỏi toàn Đảng phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, chú
trọng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ kế cận. Sớm
xây dựng cho được một chiến lược cán bộ của thời kỳ mới. Là đảng cầm quyền, Đảng
phải chăm lo đào tạo, bố trí cán bộ cho cả hệ thống chính trị. Đảng thống nhất
lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời phát huy trách
nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị. Bảo đảm nguyên tắc
tập thể đi đôi với phát huy trách nhiệm cá nhân trong công tác cán bộ.
Trên cơ sở nắm
vững tiêu chuẩn, thực hiện trẻ hóa đội ngũ cán bộ đồng thời kết hợp tốt các độ
tuổi, bảo đảm tính liên tục và tính phát triển trong đội ngũ cán bộ. Có cơ chế,
chính sách đoàn kết, tập hợp rộng rãi đội ngũ cán bộ, phát hiện và trọng dụng
nhân tài của đất nước. Cán bộ của thời kỳ mới phải là những người có phẩm chất
chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng cách mạng, kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn,
có ý thức tổ chức kỷ luật, gương mẫu trong đạo đức và lối sống; tóm lại là phải
có đủ đức và tài, trong đó đức là gốc.
Đổi mới quan niệm
và phương pháp tiến hành công tác cán bộ theo hướng thật sự dân chủ, theo một
quy trình chặt chẽ.
Một vấn đề được
nhấn mạnh trong các văn kiện kỳ này là tăng cường và đổi mới công tác
kiểm tra của Đảng. Đề cao trách nhiệm kiểm tra của các cấp ủy đảng,
các ban của cấp ủy. Xác định cụ thể nhiệm vụ, tăng cường quyền hạn và trách
nhiệm của ủy ban kiểm tra các cấp. Điều lệ Đảng khẳng định: kiểm tra là một
trong những chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng phải thường xuyên tiến
hành công tác kiểm tra. Tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra của
Đảng. Các cấp ủy đảng lãnh đạo công tác kiểm tra và tổ chức thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, điều lệ Đảng, các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng phải trực tiếp kiểm tra và
sử dụng các ban để kiểm tra. Thông qua kiểm tra để phát hiện nhân tố mới, phát
huy ưu điểm, ngăn ngừa và khắc phục khuyết điểm; bổ sung, phát triển hoặc điều
chỉnh chủ trương, chính sách…
Ủy ban kiểm tra
các cấp tập trung vào việc kiểm tra đảng viên có biểu hiện vi phạm tiêu chuẩn
đảng viên, vi phạm tiêu chuẩn cấp ủy viên và việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên;
kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới có biểu hiện vi phạm trong việc chấp hành Cương
lĩnh chính trị, điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị và nguyên tắc tổ chức của
Đảng; xử lý và giúp cấp ủy xử lý công minh, kịp thời đảng viên và tổ chức đảng
có hành động vi phạm.
Đặc biệt quan tâm
làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng trong tình hình mới.
Thưa các đồng
chí,
Đại hội VIII của
Đảng là Đại hội tiếp tục đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa. Những phương
hướng và nhiệm vụ nêu trong các căn kiện trình Đại hội Đảng lần này là sự cụ
thể hóa và phát triển hơn nữa đường lối đổi mới được xác định qua các Đại hội
VI và Đại hội VII của Đảng. Thực hiện thắng lợi những phương hướng, nhiệm vụ đó
là cách tốt nhất để tạo đà cho những bước tiến lớn hơn trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, chuẩn bị hành trang cho dân tộc ra đi vào thế kỷ XXI.
Toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, phát huy truyền thống vẻ vang của dân
tộc, trí tuệ và bản lĩnh của con người Việt Nam, nêu cao ý chí độc lập tự chủ,
tự lực tự cường, nắm chắc vận hội, tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua
thử thách, quyết tâm biến nội dung Nghị quyết Đại hội VIII thành hiện thực;
tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa
xã hội.
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh
anh dũng, làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, tiến hành các cuộc kháng
chiến chống xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp
giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, đưa cả nước chuyển sang giai đoạn
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay Đảng đang lãnh đạo nhân dân tiến hành công
cuộc đổi mới toàn diện theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng được tôi luyện,
trưởng thành và đã xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất
tốt đẹp của Đảng ta. Đó là bản lĩnh chính trị vững vàng, tính kiên định cách
mạng, tinh thần độc lập sáng tạo; nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; gắn bó với nhân dân; giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế. Tuy
có những lúc Đảng phạm sai lầm, khuyết điểm nhưng do biết công khai tự phê bình
và quyết tâm sửa chữa, nên Đảng vẫn được nhân dân tin cậy và thừa nhận là đội
tiên phong chính trị, người lãnh đạo chân chính duy nhất của dân tộc.
Thực tiễn chứng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng nước ta; để lãnh đạo được cách mạng, Đảng phải
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, có trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo theo yêu cầu của
từng giai đoạn cách mạng, phải phòng và chống được những nguy cơ lớn đối với
một đảng lãnh đạo chính quyền là: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự
thoái hoá biến chất của cán bộ, đảng viên.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam và truyền thống của Đảng ta gắn liền
với tên tuổi đồng chí Hồ Chí Minh - Người sáng lập Đảng, có công lao to lớn vận
dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, đề ra những luận điểm cơ bản về đảng và dày
công xây dựng, rèn luyện Đảng ta. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là
biểu hiện tập trung nhất những truyền thống tốt đẹp của Đảng và của dân tộc.
Chúng ta tự hào về Đảng ta và những truyền thống tốt đẹp của Đảng,
quyết tâm giữ vững, kế thừa và phát triển các truyền thống đó, ra sức khắc phục
những khuyết điểm và nhược điểm, chăm lo xây dựng và bảo vệ Đảng, làm cho Đảng
đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên.
Tại Đại hội VII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã trình Đại hội
nhiều văn kiện quan trọng. Nhiệm vụ chủ yếu của báo cáo này là trình bày tình
hình Đảng và công tác xây dựng đảng từ sau Đại hội VI đến nay, nêu ra phương
hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng trong thời gian tới và những vấn đề lớn về sửa
đổi Điều lệ Đảng để Đại hội xem xét và quyết định.
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH ĐẢNG VÀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG
Thời gian từ Đại hội VI đến nay là một chặng đường có nhiều thử thách
lớn đối với Đảng ta, nhân dân ta. Trong tình hình đất nước có nhiều khó khăn,
kinh tế - xã hội khủng hoảng, thế giới có những diễn biến hết sức phức tạp,
Đảng đã kiên trì lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo nhân dân vượt mọi khó
khăn, từng bước đưa đường lối Đại hội VI vào cuộc sống và đã thu được những
thành tựu bước đầu rất quan trọng.
Bám sát yêu cầu của công cuộc đổi mới, thực hiện phương hướng xây dựng
đảng do Đại hội VI đề ra, công tác xây dựng đảng đã đạt một số kết quả :
- Trong Đảng tiếp tục có sự đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế,
bước đầu hình thành hệ thống các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi
mới ở nước ta.
Qua tổng kết hoạt động thực tiễn phong phú từ cơ sở, với tinh thần độc
lập và sáng tạo, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã cụ thể hoá và phát
triển Nghị quyết Đại hội, đề ra nhiều chủ trương, chính sách về đổi mới cơ cấu
kinh tế, cơ chế quản lý, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Việc khẳng định
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, mở rộng quan hệ với bên ngoài, mở rộng dân
chủ trong đời sống xã hội là bước chuyển rất quan trọng, đánh dấu sự tiến bộ
trong tư duy lý luận gắn liền với hoạt động thực tiễn của Đảng ta.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, Đảng đã đề ra
những nguyên tắc định hướng công cuộc đổi mới ở nước ta, trên cơ sở đó xây dựng
sự nhất trí trong Đảng, phê phán những nhận thức mơ hồ, những quan điểm lệch
lạc, nâng cao ý thức cảnh giác đối với mọi âm mưu phá hoại và chống đối.
- Thực hiện dân chủ trong Đảng và lãnh đạo thực hiện dân chủ trong
xã hội một cách đúng hướng, vừa phát huy trí tuệ tập thể, thực hiện quyền công
dân, vừa bảo đảm sự ổn định về chính trị.
Trong sinh hoạt của nhiều cấp uỷ và tổ chức đảng, đã có không khí thảo
luận thẳng thắng, phát huy trí tuệ của đông đảo cán bộ, đảng viên trong việc
chuẩn bị các đề án, nghị quyết, trong việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo. Nhiều
cấp uỷ đảng thực hiện tốt hơn chế độ kiểm điểm công tác, tự phê bình và phê bình.
Ban Chấp hành Trung ương đã kiểm điểm việc chấp hành Nghị quyết Đại hội vào
giữa nhiệm kỳ; các uỷ viên Bộ Chính trị tự phê bình trước Ban Chấp hành Trung
ương.
Với cơ chế và chính sách mới, đã bước đầu mở rộng quyền tự chủ của các
cơ sở kinh tế, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho
mọi người được tự do sản xuất, kinh doanh theo pháp luật. Đã tích cực thực hiện
việc lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến của nhân dân tham gia xây dựng các chủ
trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chú ý nâng cao vai trò của các cơ
quan dân cử và các đoàn thể nhân dân. Các phương tiện thông tin đại chúng và
các hoạt động văn hoá, văn nghệ có một số đổi mới với nội dung phong phú hơn
trước, thảo luận công khai các ý kiến khác nhau, đấu tranh phê phán các hiện
tượng tham nhũng, tiêu cực, biểu dương những nhân tố mới.
Kết quả về thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội tuy mới là bước
đầu, còn nhiều hạn chế, nhưng đã góp phần quan trọng thúc đẩy công cuộc đổi
mới.
- Đã có những cố gắng trong việc làm trong sạch và nâng cao sức
chiến đấu của đội ngũ đảng viên.
Nhiều cấp uỷ và tổ chức đảng đã triển khai thực hiện Nghị quyết 04 của
Bộ Chính trị và Nghị quyết 05 của Ban Chấp hành Trung ương, tăng cường kiểm tra
đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng; thông qua tự phê bình và phê bình, lấy ý kiến
quần chúng để đánh giá, xem xét tư cách đảng viên; giải quyết nhiều vụ việc
tiêu cực, thư tố cáo cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng và pháp luật nhà
nước; bố trí lại đội ngũ cốt cán. Từ sau Đại hội VI đến tháng 12-1990 đã thi
hành kỷ luật 206.181 đảng viên, trong đó đưa ra khỏi Đảng 78.206 người.
Đợt củng cố, làm trong sạch Đảng trước Đại hội VII gắn với đấu tranh
chống tham nhũng được chỉ đạo tích cực hơn, đạt một số kết quả. Đại hội đảng bộ
hai cấp tiến hành vào cuối năm 1988 đầu năm 1989 và đại hội đảng bộ các cấp
tiến tới Đại hội VII vừa qua thật sự là các đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng
của toàn Đảng, góp phần quan trọng nâng cao ý thức đảng, ý thức trách nhiệm của
đông đảo cán bộ, đảng viên đối với sự nghiệp cách mạng.
Từ sau Đại hội VI đến nay, các tổ chức đảng đã kết nạp 303.237 đảng
viên mới, trong đó có 68,4% là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, góp
phần tăng thêm sức chiến đấu mới cho Đảng. Đến cuối năm 1990, toàn Đảng có
2.155.022 đảng viên, sinh hoạt trong 43.088 chi bộ và đảng bộ cơ sở (dưới đảng
uỷ cơ sở có 121.311 chi bộ).
Trải qua đấu tranh cách mạng lâu dài và hơn bốn năm tiến hành công cuộc
đổi mới, số đông đảng viên mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ chủ chốt từ trung ương
đến cơ sở đã thể hiện phẩm chất chính trị vững vàng trước mọi thử thách, nhất
là trước những biến động hết sức phức tạp của tình hình thế giới; đã kiên định
và quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Trình độ nhận thức lý luận
và thực tiễn của nhiều cán bộ, đảng viên đã được nâng lên thể hiện rõ trong
việc đóng góp ý kiến vào các văn kiện Đại hội VII ở đại hội đảng bộ các cấp vừa
qua. Những cán bộ, đảng viên và những tổ chức đảng năng động, sáng tạo trong
việc thực hiện nhiệm vụ, đã đóng góp cho Đảng những kinh nghiệm tốt, góp phần
bổ sung đường lối, chính sách của Đảng.
- Đã thực hiện một bước việc kiện toàn tổ chức và đổi mới cán bộ.
Trên cơ sở nhận thức mới về chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trong
hệ thống chính trị, nhất là trong điều kiện đổi mới chính sách và cơ chế quản
lý, đã tiến hành một bước việc đổi mới cán bộ các cấp, các ngành, sắp xếp lại
một số tổ chức, tinh giản biên chế, bỏ bớt một số khâu trung gian. ở nông thôn,
phù hợp với yêu cầu tổ chức lại sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp,
nhiều chi bộ đảng được sắp xếp lại theo địa bàn dân cư (thôn, xóm, ấp, bản) kết
hợp với tổ chức theo đơn vị sản xuất, công tác.
Đã có sự cải tiến nhất định trong quan hệ làm việc giữa Trung ương Đảng
với Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng và các đoàn thể; giữa cấp
uỷ đảng với cơ quan nhà nước và đoàn thể ở các cấp; khắc phục một phần tình
trạng cấp uỷ đảng bao biện làm thay công việc của các cơ quan nhà nước và đoàn
thể. Có tiến bộ nhất định trong lãnh đạo, quản lý ở tầm vĩ mô và phát huy quyền
chủ động của các đơn vị cơ sở.
Các cấp, các ngành đã chú ý bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ những kiến
thức, kinh nghiệm mới về lãnh đạo và quản lý. Đồng thời đã điều chỉnh, sắp xếp
lại nhiều cán bộ lãnh đạo và quản lý, tăng thêm một số cán bộ trẻ được đào tạo
cơ bản, có triển vọng; thay đổi nhiều cán bộ kém năng lực và phẩm chất không
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Chú trọng bố trí cán bộ trong các cơ quan nhà nước,
cho các chương trình kinh tế, các ngành và đơn vị trọng điểm. Đã có một số đổi
mới về quan điểm đánh giá cán bộ, cải tiến một bước sự phân công, phân cấp quản
lý cán bộ. Có tiến bộ hơn về thực hiện nguyên tắc tập thể, dân chủ trong bầu cử
và bổ nhiệm cán bộ.
Cần đánh giá đúng những kết quả và chuyển biến tích cực nêu trên và khẳng
định đó là mặt cơ bản. Đồng thời phải thấy hết những yếu kém và khuyết điểm thể
hiện tập trung nhất ở các mặt:
- Trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo của Đảng ở các cấp
nói chung còn thấp, chưa chuyển kịp theo yêu cầu đổi mới.
Vẫn còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh trong công cuộc đổi
mới chưa được làm sáng tỏ. Một số quan điểm và chủ trương lớn của Đảng chưa
được cụ thể hoá một cách đồng bộ. Trình độ các mặt của cán bộ, đảng viên, nhất
là trình độ và kinh nghiệm quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, lãnh đạo sản xuất
kinh doanh theo cơ chế quản lý mới còn nhiều mặt yếu. Sự nhất trí đối với một
số chủ trương, chính sách chưa cao. Trong Đảng vừa có những biểu hiện bảo thủ,
vừa có khuynh hướng nóng vội, bắt chước cách làm của nước khác; cũng có cả tư
tưởng dao động, cơ hội về chính trị.
- Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đổi mới còn chậm, cơ cấu
tổ chức còn nhiều bất hợp lý, bộ máy vẫn cồng kềnh, kém hiệu quả.
Chuyển sang thực hiện cơ chế mới, chúng ta lúng túng trong việc xác định
chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ và lề lối làm việc giữa Đảng với các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị, nhất là giữa Đảng với Nhà nước ở tất cả các cấp.
Nhiều cấp uỷ và tổ chức đảng vẫn còn ôm đồm bao biện công việc của chính quyền
và các đoàn thể, đồng thời lại có những biểu hiện buông lỏng và xem nhẹ vai trò
lãnh đạo của Đảng trên một số lĩnh vực và ở một số loại hình cơ sở (như xí
nghiệp, cơ quan, trường học...). Công tác quần chúng của Đảng chưa được quan
tâm đúng mức và chưa có sự đổi mới cơ bản.
Còn nhiều vướng mắc trong quan hệ lãnh đạo, quản lý giữa ngành và lãnh
thổ, trong việc xác định cơ cấu bộ máy hành chính các cấp, hệ thống tổ chức
đảng từ trung ương đến cơ sở và chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức
cơ sở đảng. Tổ chức bộ máy và biên chế các cơ quan đảng, nhà nước và đoàn thể ở
các cấp vẫn nặng nề. Việc tinh giản bộ máy đạt kết quả thấp do thiếu những
phương án tổng thể khoa học, thiếu biện pháp đồng bộ, chỉ đạo không tập trung,
kiên quyết. Số tổ chức cơ sở đảng yếu kém còn nhiều, có nơi mất sức chiến đấu.
- Đội ngũ cán bộ tuy có thay đổi khá nhiều nhưng chưa tạo ra chất
lượng mới, công tác cán bộ có nhiều khuyết điểm.
Số cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực đảm đương tốt nhiệm vụ trong thời
kỳ mới chưa nhiều, hoặc chưa được phát hiện và sử dụng hợp lý. Còn thiếu nhiều
cán bộ giỏi về quản lý nhà nước, quản lý sản xuất, kinh doanh và chuyên gia đầu
ngành. Vẫn còn tình trạng "hụt hẫng", lúng túng trong bố trí hạt nhân
lãnh đạo ở các cấp, kể cả ở cấp chiến lược. Đó là do công tác quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ làm chưa tốt; quản lý cán bộ chưa khoa học, nắm cán bộ
không chắc. Trong nhận xét, đánh giá, bố trí, đề bạt cán bộ, không ít trường
hợp còn theo quan điểm cũ, thiếu dân chủ, có khi còn lệ thuộc vào ý kiến của một
vài cán bộ có thẩm quyền. Tư tưởng cá nhân, cục bộ địa phương, phong kiến còn
nặng làm cho việc đánh giá, sử dụng cán bộ nhiều khi thiếu chính xác. Chưa có
cơ chế hợp lý để phát hiện và lựa chọn nhân tài, thay đổi, bãi miễn những cán
bộ không đủ phẩm chất hoặc năng lực đảm đương nhiệm vụ. Chậm đổi mới công tác
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo yêu cầu mới. Chính sách đãi ngộ cán
bộ còn nhiều bất hợp lý nhưng vẫn chưa được cải tiến một cách căn bản.
- Dân chủ trong Đảng còn hạn chế, kỷ luật không nghiêm, một số nơi
mất đoàn kết nghiêm trọng.
Không ít cấp uỷ và tổ chức đảng thiếu tôn trọng và phát huy quyền của
đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới. Không ít cán bộ lãnh đạo chưa quen với
những thông tin ngược chiều, không thích nghe ý kiến khác với ý kiến của mình.
Còn thiếu những cơ chế cụ thể có hiệu lực bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Có những quy định trong Điều lệ
Đảng, trong các quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương và các cấp uỷ không
được chấp hành nghiêm túc. Hiện tượng cán bộ lãnh đạo độc đoán, mệnh lệnh, trù
dập, ức hiếp quần chúng còn xảy ra ở một số nơi, có khi rất trắng trợn. Trong
khi tình trạng mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức còn nặng thì những biểu hiện
dân chủ cực đoan, tự do vô kỷ luật cũng không ít. Tệ bè cánh, mất đoàn kết ở
một số cấp uỷ và cơ quan lãnh đạo rất nghiêm trọng. Công tác tư tưởng, công tác
kiểm tra chưa thường xuyên và chặt chẽ, nhiều lúc thiếu sắc bén, kịp thời, còn
hữu khuynh trong đấu tranh chống tiêu cực và các quan điểm sai trái, lệch lạc.
Vẫn còn tình trạng "ô dù" bao che lẫn nhau làm cho việc xử lý cán bộ,
đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước không nghiêm, còn "nhẹ
trên, nặng dưới", để các hiện tượng tiêu cực phát triển, gây thắc mắc, bất
bình trong Đảng và trong nhân dân.
- Nhiều đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, một bộ phận đã tha hoá,
tham nhũng, xa dân, làm giảm sút nghiêm trọng uy tín của Đảng.
Trong đội ngũ đảng viên, bộ phận thực sự tiền phong gương mẫu, đáp ứng
được yêu cầu của công cuộc đổi mới cả về năng lực, phẩm chất chiếm tỷ lệ chưa
cao. Là một Đảng có lịch sử đấu tranh trên 60 năm, số đảng viên là người hưu
trí đã chiếm 23% tổng số đảng viên; nhiều đồng chí có phẩm chất chính trị vững
vàng, vẫn tích cực tham gia sinh hoạt và công tác, nhưng hạn chế về sức khoẻ và
khả năng hoạt động. Một bộ phận đảng viên, tuổi chưa cao, được rèn luyện trong
chiến đấu, đã phát huy vai trò tích cực trong chiến tranh, nhưng ít có điều
kiện học tập, nâng cao trình độ, nay không theo kịp nhiệm vụ mới.
Nhiều đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, phai nhạt lý tưởng, không phát
huy được vai trò tích cực trong quần chúng. Tình trạng cán bộ, đảng viên vi
phạm các nguyên tắc quản lý hoặc lợi dụng những sơ hở trong cơ chế quản lý để
lấy cắp của công, ăn hối lộ, buôn lậu, làm giàu bất chính, vi phạm đạo đức, lối
sống cách mạng có chiều hướng tăng lên, nhất là trong cán bộ hoạt động sản xuất
kinh doanh, quản lý nhà nước và ngay cả trong một số cơ quan bảo vệ pháp luật,
cơ quan đảng và đoàn thể.
Tình trạng yếu kém nói trên có nhiều nguyên nhân, chủ yếu là:
- Chúng ta tiến hành xây dựng Đảng trong tình hình đất nước có rất
nhiều khó khăn với hậu quả nặng nề của chiến tranh và cơ chế quản lý tập trung
quan liêu bao cấp kéo dài. Chủ nghĩa xã hội và nhiều đảng cộng sản trên thế
giới lâm vào khủng hoảng toàn diện và sâu sắc nhất từ trước tới nay đã tác động
mạnh mẽ đến nước ta. Chúng ta còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm khi chuyển
sang giai đoạn cách mạng mới. Cơ chế quản lý kinh tế -xã hội chưa đồng bộ và có
nhiều sơ hở, chính sách tiền lương còn nhiều bất hợp lý, làm cho công tác xây
dựng đảng về tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ gặp nhiều khó khăn.
- Đảng chưa đặt đúng tầm quan trọng của việc chỉnh đốn Đảng theo Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chưa coi trọng đúng mức việc nghiên cứu lý luận
và tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và xây dựng Đảng trong điều
kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Một số
cấp uỷ đảng và cán bộ lãnh đạo chưa coi trọng đúng mức công tác xây dựng đảng,
không chăm lo đầy đủ công tác giáo dục, rèn luyện đảng viên theo phương hướng
tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng. Một bộ phận
cán bộ, đảng viên, kể cả không ít cán bộ lãnh đạo cao cấp, trung cấp thiếu sự
tu dưỡng, rèn luyện, học tập để vươn lên.
- Sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, trước hết là của Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với công tác xây dựng đảng, nhất là đối với
việc chấp hành Điều lệ Đảng, thực hiện Nghị quyết 05 của Ban Chấp hành Trung
ương, Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị và một số chủ trương lớn về tổ chức cán bộ
tuy đã có nhiều cố gắng nhưng chưa tập trung, kiên quyết và đồng bộ, thiếu kiểm
tra, đôn đốc, tổng kết rút kinh nghiệm, nhiều khi khoán trắng công việc này cho
các ban chuyên môn về xây dựng đảng. Chưa gắn chặt công tác xây dựng đảng với
việc cải cách bộ máy nhà nước và đổi mới công tác quần chúng.
Các cấp uỷ chưa tích cực chỉ đạo việc củng cố và đổi mới các cơ quan
tham mưu và nghiên cứu về xây dựng đảng, nhất là đổi mới tư duy và phương thức
công tác. Các ban của Đảng, các cơ quan nghiên cứu, các trường đảng ở cả trung
ương và địa phương còn có những biểu hiện quan liêu, bảo thủ, trì trệ, chưa nỗ
lực vươn lên nâng cao chất lượng công tác của mình đáp ứng yêu cầu của tình
hình mới.
Phần thứ hai
NHIỆM VỤ ĐỔI MỚI VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG
THỜI GIAN TỚI
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong bối cảnh quốc tế, trong nước
và tình hình Đảng ta hiện nay đòi hỏi Đảng nhất thiết phải tự
đổi mới, tự chỉnh đốn. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng và cấp bách, có ý
nghĩa quyết định đối với sự thành công của sự nghiệp đổi mới, sự ổn định và
phát triển của đất nước và đối với vận mệnh của bản thân Đảng. Đây cũng là
nguyện vọng và đòi hỏi của nhân dân.
Phương hướng cơ bản của việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng là:
Phát huy truyền thống cách mạng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính
tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, gắn liền với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, cải cách bộ máy
nhà nước, đổi mới công tác quần chúng, bảo đảm cho Đảng ta - đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc - làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Theo phương hướng trên đây, dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) trong phần
mở đầu đã khẳng định những vấn đề cơ bản về Đảng và xây dựng đảng với
những nội dung cơ bản như sau:
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí
tuệ của dân tộc và của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn của
đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp
với yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh theo con
đường xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Đảng giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, kết hợp sự
kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách
lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới.
Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân, ủng hộ sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân
dân và thường xuyên chịu sự giám sát của nhân dân, đoàn kết và lãnh đạo nhân
dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời
là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà
nước, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật, chống quan liêu, lạm quyền, đặc quyền đặc lợi.
Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ
làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện lãnh đạo tập thể và cá nhân phụ trách,
tự phê bình và phê bình, giữ vững đoàn kết, thống nhất trong Đảng trên cơ sở Cương
lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ
hội, chống mọi biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, cục bộ, địa phương, chia rẽ,
bè phái trong Đảng. Trong tình hình hiện nay, việc khẳng định những vấn đề cơ
bản trên đây có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bảo đảm cho việc đổi mới và chỉnh
đốn Đảng không đi chệch những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng.
Yêu cầu đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong những năm tới là:
Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực
lãnh đạo chính trị; đổi mới một bước cơ bản nội dụng và phương thức lãnh đạo
của Đảng; bảo đảm dân chủ, giữ gìn kỷ luật, tăng cường đoàn kết thống nhất
trong Đảng; làm trong sạch và nâng cao chất lượng đảng viên; khắc phục có hiệu
quả các hiện tượng tiêu cực, đặc biệt là tệ tham nhũng, khôi phục và nâng cao
lòng tin của nhân dân đối với Đảng; chấn chỉnh tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán
bộ; làm cho Đảng có bản lĩnh chính trị, có kiến thức, năng lực và sức chiến đấu
mới, đủ sức đoàn kết lãnh đạo toàn dân vượt mọi khó khăn, thử thách, phấn đấu
thực hiện có kết quả các nghị quyết của Đại hội VII.
Để đạt được những yêu cầu trên, cần làm tốt những nhiệm vụ chủ yếu
dưới đây:
Một là, phải tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao trình độ trí
tuệ và năng lực lãnh đạo chính trị của Đảng. Đây là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu.
Phát triển công tác lý luận gắn với tổng kết thực tiễn, chú trọng tổng
kết những cái mới đang hằng ngày nảy sinh trong đời sống đất nước và trên thế
giới.
Tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt
là về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; quán triệt, phát triển, cụ
thể hoá Cương lĩnh chính trị, Chiến lược kinh tế - xã hội và các văn kiện khác
của Đại hội một cách đúng đắn, có căn cứ khoa học, đưa công cuộc đổi mới đi vào
chiều sâu. Nghiên cứu có hệ thống tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Kịp thời nắm bắt, dự báo và giải đáp những vấn đề mới xuất hiện ở trong nước và
quốc tế.
Chấn chỉnh hệ thống thông tin, bảo đảm cho cấp uỷ đảng, đặc biệt là cấp
trung ương có điều kiện tiếp cận được những vấn đề mới nhất về lý luận và thực
tiễn. Cải tiến quy trình chuẩn bị nghị quyết, ra nghị quyết, tổ chức và kiểm
tra việc thực hiện nghị quyết, làm cho các nghị quyết thật sự phản ánh được trí
tuệ tập thể của Đảng, của nhân dân và được thực hiện đến nơi đến chốn. Có biện
pháp và tổ chức thích hợp bảo đảm cho cán bộ, đảng viên, các chuyên gia, các
nhà khoa học trong và ngoài Đảng phát huy mọi sáng kiến và sự suy nghĩ độc lập,
tích cực tham gia vào các quá trình trên. Đối với những vấn đề mới và khó, hoặc
còn nhiều ý kiến khác nhau cần chuẩn bị nhiều phương án để cân nhắc, thực hiện
chế độ làm thử, rút kinh nghiệm trước khi ra nghị quyết.
Các cơ quan tham mưu, cơ quan nghiên cứu giúp cấp uỷ chuẩn bị nghị
quyết phải được kiện toàn, bao gồm những cán bộ và chuyên gia có phẩm chất
chính trị và kiến thức khoa học, am hiểu thực tế, có khả năng tư duy độc lập,
phân tích tổng hợp, biết lắng nghe các ý kiến khác nhau, tiếp thu những ý kiến
đúng.
Hai là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng,
bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng, nâng cao trình độ kiến thức của cán bộ, đảng
viên và nhân dân.
Công tác chính trị tư tưởng có nhiệm vụ làm cho thế giới quan Mác -
Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh thấm nhuần trong Đảng và giữ vị trí chỉ
đạo trong đời sống tinh thần xã hội; nâng cao ý chí phấn đấu, xây dựng niềm tin
vững chắc vào con đường xã hội chủ nghĩa, đấu tranh không khoan nhượng với các
luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, xuyên tạc đường lối, chính sách của
Đảng; xây dựng phương pháp tư duy khoa học, chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa
kinh nghiệm và chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc. Khắc phục những biểu hiện bi
quan dao động, giảm sút ý chí phấn đấu, bảo thủ trì trệ, chủ quan nóng vội. Đặc
biệt chú trọng giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ.
Bảo vệ và phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng của Đảng, của
giai cấp công nhân và của dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân
loại. Phê phán tư tưởng coi nhẹ hoặc phủ định truyền thống và thành quả cách
mạng của Đảng và nhân dân. Nâng cao kiến thức và năng lực tổ chức thực tiễn cho
cán bộ, đảng viên, gắn liền với đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, không ngừng nâng
cao dân trí.
Bồi dưỡng đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc
đấu tranh chống tiêu cực trong Đảng và trong xã hội. Chống sự tha hoá về phẩm
chất chính trị, xa rời quần chúng, tham nhũng, làm ăn bất chính, chạy theo tiền
tài, danh vị, chia rẽ bè phái. Chống việc phục hồi các hủ tục, mê tín, dị đoan.
Nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, không mơ hồ về bản chất của chủ
nghĩa đế quốc và các lực lượng chống chủ nghĩa xã hội. Kịp thời đấu tranh chống
những luận điệu chiến tranh tâm lý, phản tuyên truyền của các thế lực thù địch
và những phần tử xấu. Tăng cường công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới mạnh mẽ phương pháp công tác tư tưởng, có nhiều hình thức thiết
thực, sinh động, phù hợp với từng đối tượng.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác thông tin, báo chí, xuất bản,
văn hoá, văn nghệ. Bố trí đúng và nâng cao trách nhiệm của những cán bộ phụ
trách các cơ quan này.
Tăng cường và từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất - kỹ thuật của các
cơ quan làm công tác tư tưởng. Có chính sách tài chính đúng đắn đối với các
hoạt động báo chí, xuất bản, thông tin cổ động, văn hoá, văn nghệ, giáo dục lý
luận, nghiên cứu khoa học.
Ba là, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hệ thống chính trị, trước hết là đối với Nhà nước; đổi mới công tác
quần chúng của Đảng.
- Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, chiến lược, cách định
hướng về chính sách và những chủ trương công tác, lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá
thành hiến pháp, pháp luật, chính sách, trên cơ sở đó Nhà nước quản lý, điều
hành mọi mặt đời sống xã hội.
Đảng kiểm tra và giám sát việc thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng
thông qua hoạt động của đảng viên và tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước và
dựa vào ý kiến của nhân dân.
Đảng chăm lo công tác cán bộ, bồi dưỡng, lựa chọn cán bộ đưa ra ứng cử
vào các cơ quan dân cử, hoặc giới thiệu với Nhà nước để đề bạt, bổ nhiệm vào
các cương vị chủ chốt ở các ngành, các cấp. Đảng tôn trọng cơ chế của Nhà nước
về bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, không gò ép, áp đặt.
Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh thực sự là
Nhà nước của dân, do dân, vì dân, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất
quyền lực, phân công phân nhiệm rõ ràng.
Đảng lãnh đạo bằng công tác tư tưởng, tổ chức, vai trò tiên phong,
gương mẫu của đảng viên và tổ chức đảng (như đảng đoàn, ban cán sự, tổ chức cơ
sở đảng).
Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không bao biện làm thay công việc của Nhà
nước. Đảng viên công tác trong cơ quan nhà nước phải nghiêm chỉnh chấp hành
nghị quyết của Đảng, làm tròn nhiệm vụ Đảng giao, gương mẫu thực hiện nghĩa vụ
công dân, tuân theo pháp luật, không được lợi dụng chức quyền làm điều sai
trái, giành đặc quyền, đặc lợi.
- Trong điều kiện lãnh đạo chính quyền, Đảng đặc biệt coi trọng đổi
mới công tác quần chúng của Đảng theo quan điểm: cách mạng là sự nghiệp của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật
thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân, làm suy yếu sức mạnh
của Đảng, của cách mạng sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận
mệnh của đất nước.
Đường lối, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng
chân chính của nhân dân. Tạo mọi điều kiện để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân. Khắc phục tình trạng vi phạm dân chủ, dân chủ hình thức; đồng thời chống
dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối trong xã hội.
Các tổ chức đảng từ trung ương đến cơ sở phải lấy công tác vận động
quần chúng và lãnh đạo công tác của các đoàn thể làm một nội dung thường xuyên
trong hoạt động của mình. Cán bộ lãnh đạo phải thường xuyên đi sát cơ sở, đi
sát nhân dân, trực tiếp trao đổi ý kiến với nhân dân, học hỏi kinh nghiệm sáng
tạo của nhân dân.
Đảng tôn trọng tính tự chủ về tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân, hướng dẫn và tạo điều kiện cho mặt trận và các đoàn
thể, nhất là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên đoàn Lao động, Hội
Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ...đổi mới nội dung và phương thức hoạt động đúng
hướng, đạt hiệu quả. Đảng lắng nghe và trân trọng ý kiến đóng góp của Mặt trận
và các đoàn thể đối với sự lãnh đạo của Đảng và cán bộ, đảng viên, khuyến khích
các đoàn thể chủ động đóng góp ý kiến xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng
và pháp luật của Nhà nước.
Bốn là, bảo đảm dân chủ, giữ gìn kỷ luật, tăng cường đoàn
kết thống nhất trong Đảng.
Có nhận thức đúng đắn và thống nhất về yêu cầu, nội dung dân chủ và
nguyên tắc tập trung dân chủ; đồng thời có cơ chế bảo đảm thực
hiện những nội dung đó. Dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) lần này có bổ sung
một số quy định chính là nhằm tạo ra cơ chế đó.
Trước hết, phải bảo đảm thực hiện các quyền của đảng viên, nhất
là quyền được thảo luận một cách thẳng thắn các vấn đề đường lối, chính sách
của Đảng, quyền được phê bình, chất vấn trong phạm vi tổ chức về hoạt động của
tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp. Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) nhấn mạnh quyền
được thông tin, quyền được bảo lưu ý kiến của đảng viên. Những quy định trên
tạo điều kiện khắc phục tình trạng cấp uỷ vi phạm quyền của đảng viên, còn đảng
viên thì thụ động tiêu cực.
Để tăng cường sự kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của
cấp uỷ, dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) yêu cầu phải thực hiện đúng
các quy định về triệu tập đại hội thường lệ và đại hội bất thường, kể cả ở cơ
sở. Đồng thời đề nghị tăng thêm quyền của hội nghị đại biểu: hội nghị đại biểu
được triệu tập giữa hai kỳ đại hội; hội nghị đại biểu có thẩm quyền bổ sung
nghị quyết của đại hội cho phù hợp với tình hình mới trên cơ sở Cương lĩnh
chính trị, đường lối của Đảng, nghị quyết của cấp trên; bầu bổ sung uỷ viên ban
chấp hành; nghị quyết của hội nghị đại biểu, kể cả ở cấp trung ương, không phải
thông qua ban chấp hành.
Trong Đảng từ trung ương đến cơ sở phải chấp hành nghiêm túc các quy
định về chế độ báo cáo, chế độ tự phê bình và phê bình. Các cơ quan được bầu
phải chịu sự giám sát của tổ chức đảng và đảng viên, phải báo cáo hoạt động
trước cơ quan đã bầu ra mình, thường xuyên thông báo tình hình và hoạt động của
mình đến các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Thực hiện chế độ Ban Chấp hành
Trung ương kiểm tra, giám sát hoạt động của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; các cấp
uỷ kiểm tra, giám sát hoạt động của ban thường vụ: các uỷ viên Bộ Chính trị, uỷ
viên thường vụ các cấp tự phê bình trước ban chấp hành. Quy định cụ thể chế độ
cấp trên tự phê bình trước cấp dưới và tổ chức việc phê bình từ dưới lên. Thực
hiện đều đặn chế độ quần chúng phê bình cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Cán
bộ lãnh đạo phải gương mẫu tự phê bình và tiếp thu phê bình. Nghiêm cấm việc
trù dập người phê bình thẳng thắn; đồng thời kiên quyết xử lý những kẻ lợi dụng
phê bình để đả kích cá nhân, vu cáo, chia rẽ.
Để nâng cao vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của uỷ ban kiểm tra
các cấp, dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị quy định: uỷ ban kiểm tra có
chức năng kiểm tra việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng,
kiểm tra việc chấp hành quy chế làm việc của tổ chức đảng cấp dưới, kiểm tra
việc giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng của đảng viên, xem xét và xử lý kỷ
luật các tổ chức đảng và đảng viên theo đúng quy định của Điều lệ Đảng.
Năm là, làm trong sạch Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên.
Đảng viên phải làm tròn những nhiệm vụ đảng viên ghi trong Điều
lệ Đảng. Trong giai đoạn cách mạng mới cần nhấn mạnh: đảng viên phải có phẩm
chất chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của
Đảng, có thái độ tích cực đối với công cuộc đổi mới, đồng thời phải có trình độ
trí tuệ, năng lực lãnh đạo để thực hiện nhiệm vụ đổi mới.
Trong cuộc đấu tranh để xoá bỏ nghèo nàn lạc hậu, thực hiện dân giàu,
nước mạnh, đảng viên hoạt động trong các thành phần kinh tế phải nêu được vai
trò tiền phong, gương mẫu; bằng lao động sáng tạo, có năng suất và chất lượng
cao của mình góp phần tích cực vào việc phát triển lực lượng sản xuất, giải
quyết việc làm cho người lao động, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, trong
đó có bản thân và gia đình mình. Đảng viên làm kinh tế phải gương mẫu chấp hành
luật pháp, chính sách của Nhà nước, có lối sống lành mạnh và giữ được quan hệ
tốt với quần chúng.
Đảng viên là công nhân, viên chức tại chức, ngoài việc hoàn thành nhiệm
vụ công tác, được khuyến khích phát triển kinh tế gia đình. Đảng viên được góp
cổ phần vào các công ty, xí nghiệp quốc doanh, tập thể. Đảng viên không ở trong
biên chế của các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, bản thân trực tiếp lao động
(lao động chân tay, lao động kỹ thuật, lao động quản lý) được đứng ra tổ chức
các đơn vị kinh tế tập thể (tổ sản xuất, hợp tác xã...); được đấu thầu, nhận
khoán đất đai, thuê tài sản của Nhà nước, của tập thể để tổ chức kinh doanh;
được làm kinh tế cá thể, tiểu chủ. Đảng viên không được làm kinh tế tư bản tư
nhân; đối với những trường hợp đặc biệt thì tổ chức đảng sẽ xem xét giải quyết
từng trường hợp cụ thể theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đội ngũ đảng
viên, cần có kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng nâng cao giác ngộ lý tưởng xã hội
chủ nghĩa và trình độ mọi mặt của đảng viên. Thực hiện nền nếp phân công đảng
viên, kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng và nhiệm vụ được giao. Thông
qua công tác thực tế, qua phong trào quần chúng để giáo dục, rèn luyện đảng
viên. Biểu dương, khuyến khích và phát huy vai trò tích cực của những đảng viên
tiên phong gương mẫu, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Chú trọng bồi dưỡng các
đảng viên mới, đảng viên trẻ.
Đối với những đảng viên già yếu, không trực tiếp sản xuất, công tác, tổ
chức đảng cần có hình thức sinh hoạt thích hợp và phân công hợp lý để các đồng
chí thuận tiện trong sinh hoạt đảng và tiếp tục đóng góp vào công việc chung.
Những đồng chí già yếu, ốm đau lâu ngày, tự nguyên xin miễn công tác và sinh
hoạt đảng, thì chi bộ xem xét quyết định.
Đối với những đảng viên tự nguyện xin ra Đảng vì những lý do khác nhau
(không phải là do vi phạm kỷ luật của Đảng), thì chi bộ xem xét, chấp nhận và
báo cáo lên cấp uỷ có thẩm quyền để kiểm tra lại. Đảng trân trọng ghi nhận
những cống hiến của đảng viên và giữ mối liên hệ tốt với các đồng chí ấy.
Đối với những đảng viên trình độ hạn chế, nhưng vẫn gắn bó với Đảng, tổ
chức đảng cần tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện để các đồng chí đó làm tốt nhiệm
vụ đảng viên.
Kiên quyết làm trong sạch đội ngũ đảng viên.
Thông qua công tác kiểm tra của Đảng và dựa vào quần chúng để nhận xét, đánh
giá đúng đảng viên, đưa ra khỏi Đảng những người không còn tư cách đảng viên,
trước hết là những đảng viên thoái hoá, biến chất, tham nhũng, cơ hội, gây chia
rẽ, bè phái, trù dập, ức hiếp quần chúng, bị quần chúng oán ghét. Kịp thời xử
lý bằng những hình thức kỷ luật thích hợp đối với những đảng viên vi phạm kỷ
luật Đảng, dù đảng viên đó là cán bộ lãnh đạo ở bất cứ cấp nào.
Xoá tên trong danh sách đảng viên những người không thiết tha với Đảng,
giảm sút ý chí phấn đấu, không tích cực làm nhiệm vụ đảng viên, không còn tín
nhiệm trong quần chúng và những đảng viên bỏ sinh hoạt đảng hoặc không đóng
đảng phí 3 tháng trong năm mà không có lý do chính đáng. Một số trường hợp xét
còn có thể giúp đỡ để tiến bộ thì định thời hạn để những đảng viên đó phấn đấu
và tổ chức đảng phải có kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng; nếu hết thời hạn mà không
tiến bộ thì cũng xoá tên trong danh sách đảng viên, hoặc khuyên rút ra khỏi
Đảng. Đây là việc phải tập trung chỉ đạo thực hiện tốt để khắc phục "sức
ỳ" lớn trong đảng hiện nay, từ đó nâng cao sức chiến đấu của đội ngũ đảng
viên.
Chỉ đạo chặt chẽ công tác kết nạp đảng viên mới nhằm
tăng thêm năng lực và trí tuệ mới, trẻ hoá đội ngũ, từng bước khắc phục tình
trạng tỉ lệ đảng viên quá thấp ở một số đơn vị (như xí nghiệp, trường học, cơ
sở tiểu, thủ công nghiệp) và một số vùng (như vùng đồng bào dân tộc, vùng tôn
giáo). Coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng, đề phòng bọn cơ hội tìm
cách vào Đảng.
Chăm lo bồi dưỡng, kết nạp vào Đảng những người ưu tú trong công nhân,
nông dân, trong trí thức, trong lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân lao
động khác. Tuỳ theo hoàn cảnh từng nơi, tỉnh uỷ, thành uỷ có thể quy định trình
độ học vấn đối với người kết nạp vào Đảng. Đặc biệt coi trọng kết nạp những
thanh niên nam nữ ưu tú vào Đảng. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phải
được các cấp uỷ đảng coi trọng giúp đỡ xây dựng để xứng đáng là đội dự bị tin
cậy của Đảng, hạt nhân nòng cốt của phong trào thanh niên và là lực lượng kế
tục sự nghiệp cách mạng của dân tộc và của Đảng. Phải đặt công tác xây dựng
đoàn trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với công tác xây dựng đảng.
Sáu là, củng cố các tổ chức cơ sở đảng và các cấp uỷ đảng.
Theo yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới nội dung và phương thức
lãnh đạo, phải nghiên cứu sắp xếp lại tổ chức của Đảng. Tổ chức cơ sở
đảng được lập theo đơn vị cơ sở hành chính, kinh tế hoặc công tác, đặt dưới sự
lãnh đạo của cấp uỷ địa phương. Không tổ chức đảng theo ngành dọc, trừ đảng bộ
quân đội theo quy định của Điều lệ Đảng và một số ngành công tác đặc biệt do
Trung ương quy định; nhưng cần tăng cường mối quan hệ giữa cấp uỷ địa phương và
cơ quan lãnh đạo ngành trong chỉ đạo các hoạt động có liên quan ở cơ sở. Trong
một số trường hợp nhất định, nếu được sự đồng ý của Trung ương, các tỉnh uỷ,
thành uỷ có thể thành lập một số đảng uỷ (hoặc ban cán sự đảng) cấp trên của
những tổ chức cơ sở chưa thể giao về trực thuộc các quận uỷ, huyện uỷ. Một số
tổ chức cơ sở đảng trong các viện nghiên cứu, trường đại học, công ty, xí
nghiệp lớn có thể đặt trực thuộc các tỉnh uỷ, thành uỷ. Sắp xếp lại và củng cố
tổ chức, tăng cường hoạt động của các đảng uỷ khối các cơ quan trung ương. Tất
cả các đảng bộ cơ sở và cấp trên của cơ sở đóng trên địa bàn lãnh thổ và những
đảng viên thuộc các đảng bộ này đều có trách nhiệm tham gia công tác xã hội,
công tác vận động quần chúng ở địa phương theo hướng dẫn của cấp uỷ địa phương.
Các tổ chức cơ sở đảng thuộc các loại hình
khác nhau như nông thôn, xí nghiệp, trường học, cơ quan, viện nghiên cứu, đơn
vị quân đội, công an... đều phải được củng cố để thật sự phát huy vai trò lãnh
đạo trong đơn vị. Căn cứ vào nhiệm vụ chung của tổ chức cơ sở đảng trong dự
thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) cần sớm cụ thể hoá nhiệm vụ, chức trách, phương
thức lãnh đạo của từng loại hình cơ sở đảng.
Cải tiến sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ. Mọi đảng viên, kể cả
đảng viên là cán bộ lãnh đạo, phải thực hiện tốt những nhiệm vụ do chi bộ phân
công, phải chịu sự giám sát của chi bộ về ý thức chấp hành đường lối, chính
sách, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng và về đạo đức, lối sống, quan hệ với
quần chúng ở nơi làm việc và nơi ở. Đảng uỷ cấp trên cần chỉ đạo chặt chẽ việc
kiện toàn tổ chức cơ sở đảng. Thu hẹp diện cơ sở yếu kém. Tổng kết để phổ biến
kinh nghiệm của những tổ chức cơ sở đảng vững mạnh. Đặc biệt chú trọng bồi
dưỡng, bố trí đội ngũ cốt cán. Nâng cao chất lượng cán bộ đảng chuyên trách;
bồi dưỡng bí thư đảng uỷ và đảng viên đủ tiêu chuẩn để giới thiệu vào các cương
vị lãnh đạo và quản lý ở cơ sở.
Một công việc hết sức quan trọng là phải nâng cao chất lượng cấp uỷ
đảng từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
theo những tiêu chuẩn cấp uỷ viên đã nêu trong dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi),
bảo đảm tập trung trí tuệ của toàn Đảng, của mỗi đảng bộ. Nâng cao năng lực
lãnh đạo của cấp uỷ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp. Thực hiện đổi
mới, nâng cao chất lượng của cấp uỷ qua mỗi kỳ đại hội và bảo đảm tính kế thừa
trong cơ quan lãnh đạo. Kịp thời thay đổi, rút ra khỏi cấp uỷ những người giảm
sút tín nhiệm do năng lực và phẩm chất kém, không chờ đến hết nhiệm kỳ, bổ sung
cấp uỷ viên khi có yêu cầu theo quy định của Điều lệ Đảng. Xây dựng và thực
hiện nghiêm túc các quy chế làm việc của cấp uỷ từ trung ương đến cơ sở.
Bảy là, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ
cán bộ đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và kế tục sự nghiệp cách mạng.
Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng.
Mục tiêu của công tác cán bộ là
xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ và có chất lượng, mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ
chủ chốt của các ngành, các cấp và cơ sở, trước hết là đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược, có đủ phẩm chất và năng lực, bảo đảm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ
của 5 năm tới và sự vững vàng của Đảng trước mọi khó khăn, thử thách, đồng thời
tích cực chuẩn bị cán bộ cho những năm tiếp theo.
Tiêu chuẩn cơ bản của cán bộ lãnh đạo trong
giai đoạn hiện nay là: có bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức trách nhiệm
và tinh thần đổi mới; trung thực và thẳng thắn; có kiến thức và năng lực tổ
chức thực tiễn; có tinh thần học tập để không ngừng nâng cao trình độ; có lối
sống lành mạnh, được nhân dân tín nhiệm. Trên cơ sở xác định tiêu chuẩn cơ bản
của cán bộ lãnh đạo và quản lý, cần khẩn trương xây dựng tiêu chuẩn cán bộ theo
từng chức danh ở các cấp, các ngành.
Xúc tiến và đổi mới công tác quy hoạch cán bộ, tích cực đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo của Đảng, cán bộ quản
lý nhà nước, cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh, chuyên gia trên các lĩnh vực
theo yêu cầu thiết thực của công cuộc đổi mới, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu và
cấp bách của công tác cán bộ. Sắp xếp lại hệ thống trường lớp; cải cách nội
dung và quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Trong bố trí, sử dụng cán bộ phải thể hiện rõ quan điểm đổi
mới. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ và căn cứ vào tiêu chuẩn cán
bộ để bố trí, sử dụng cán bộ. Phải lấy kết quả thực tế thực hiện nhiệm vụ được
giao làm căn cứ chủ yếu để nhận xét, đánh giá cán bộ; không đơn thuần theo quá
trình, bằng cấp, học vị, tuổi tác. Kiên quyết bãi miễn và đưa ra khỏi cương vị
lãnh đạo và quản lý ở mọi cấp những cán bộ kém phẩm chất và năng lực, không đảm
đương được nhiệm vụ. Bố trí lại những cán bộ phân công không hợp lý. Mạnh dạn
đề bạt cán bộ trẻ có đủ tiêu chuẩn và có triển vọng. Không điều chuyển cán bộ
từ ngành này, vị trí này sang ngành khác, vị trí khác nếu những cán bộ đó không
phù hợp với nhiệm vụ được giao.
Xoá bỏ quan niệm hễ là cấp uỷ viên thì bố trí làm cán bộ lãnh đạo ở
ngành nào, ở đơn vị nào cũng được, không kể năng lực có phù hợp không. Quan tâm
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng tốt đội ngũ trí thức, đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ dân
tộc thiểu số, cán bộ xuất thân là công nhân. Đoàn kết, sử dụng hợp lý mọi lực
lượng cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng; không hẹp hòi, định kiến về lý lịch và
thành phần xuất thân. Kịp thời phát hiện những cán bộ trẻ, có tài, đồng thời
biết sử dụng có hiệu quả những cán bộ lớn tuổi đã từng trải, có kinh nghiệm.
Chống tư tưởng phong kiến gia trưởng, cục bộ địa phương trong công tác cán bộ.
Từng bước hình thành các cơ chế phát hiện, tuyển chọn, đề bạt và bãi
miễn cán bộ một cách khoa học và có hiệu quả. Làm đúng các quy định và quy
trình dân chủ, tôn trọng ý kiến của cấp dưới và tập thể, không áp đặt ý kiến cá
nhân. Rút kinh nghiệm để làm tốt việc thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các
đơn vị kinh tế, sự nghiệp...
Sửa đổi các chính sách, chế độ đãi ngộ cán bộ, xoá bỏ các chế độ
chính sách mang tính bình quân, bao cấp và những quy định có tính đặc quyền,
đặc lợi. Có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với những cán bộ có tài, có cống
hiến xuất sắc, cán bộ có nhiều công lao với Tổ quốc, cán bộ cơ sở, kể cả cán bộ
trong và ngoài Đảng. Sớm cải tiến chế độ tiền lương và các chính sách, chế độ
xã hội khác. Thực hiện đúng đắn chính sách, chế độ đối với cán bộ hoạt động lâu
năm, cán bộ hưu.
Tăng cường sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và nâng cao
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể đối với công tác cán bộ. Cán
bộ lãnh đạo chủ chốt ở mỗi cấp, mỗi ngành phải đích thân chăm lo công tác cán
bộ và khắc phục bệnh chủ quan, thiếu công tâm trong công tác cán bộ để làm tốt
công tác quan trọng này. Kiện toàn các cơ quan tham mưu các cấp về công tác cán
bộ, không để những cán bộ không vững vàng về chính trị, không trung thực, kém
phẩm chất và năng lực làm công tác cán bộ.
*
* *
Công tác xây dựng đảng vốn đã quan trọng, lúc này càng hết sức quan
trọng. Vì vậy trong thời gian tới việc đổi mới và chỉnh đốn đảng phải được chỉ
đạo một cách kiên quyết, có bước đi vững chắc, làm từ trung ương đến cơ sở,
bằng nhiều biện pháp đồng bộ, gắn với quá trình đổi mới cơ chế quản lý, tăng
cường hệ thống chính trị, cải cách bộ máy nhà nước, dựa vào nhân dân, thông qua
phong trào cách mạng của nhân dân để đổi mới, chỉnh đốn Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương cần có kế hoạch cụ thể để chỉ đạo thực hiện có
hiệu quả các quyết định của Đại hội về công tác xây dựng đảng và Điều lệ Đảng,
tạo ra một bước chuyển biến quan trọng về đổi mới và chỉnh đốn đảng trong 5 năm
tới. Đồng thời xúc tiến tổng kết công tác xây dựng đảng trong các thời kỳ, nhất
là trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, góp phần nâng cao trình độ lý luận về xây
dựng đảng và hoàn chỉnh lịch sử Đảng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét