Thứ Ba, 26 tháng 6, 2012

Chất độc hóa học - tội ác còn đó.

Chất độc hóa học - tội ác còn đó.


Trong 10 năm (1961- 1971), trải dài trên các tỉnh của miền Nam Việt Nam, từ vĩ tuyến 17 trở vào, quân đội Mỹ đã sử dụng 72 triệu lít chất độc hóa học diệt cây, trong đó đáng chú ý là trên 40 triệu lít chất độc màu da cam có chứa Đioxin – chất hóa học độc nhất và bền vững nhất mà con người tìm ra.
Chất độc hóa học – tội ác còn đó!
Chất độc diệt cây (antiplant) là những chất độc hóa học thường được sử dụng dưới dạng bột, keo, dung dịch và được phun rải bằng các phương tiện trên không hoặc trên bộ … để phá hoại mùa màng hoặc các thảm thực vật, nhiều loại chất độc còn gây tổn thương cho con người và động vật.
Chất độc diệt cây được quân đội Mỹ sử dụng vào mục đích chiến tranh từ năm 1940 và tìm ra trên 1000 chất phá hoại hoa màu và trên 12000 chất làm rụng lá. Trong những năm 1952- 1954, lần đầu tiên quân Anh sử dụng chất độc hóa học diệt cây vào mục đích quân sự ở Malaysia. Từ năm 1961 Mỹ tiến hành chiến tranh hóa học ở Việt Nam với quy mô lớn nhất, Mỹ đã sử dụng 72 triệu lít trên chiến trường đủ 17 loại chất độc diệt cây chủ yếu là chất độc da cam, chất trắng, chất xanh, chất hồng, chất đỏ tía…Chúng được gọi với cái tên như thế là theo màu của các vệt sơn quanh các thùng chứa nhưng khi phun dải đều có màu trắng vậy mức độ của từng chất ấy ra sao ?. Tại sao chúng chỉ quen gọi là chất độc màu da cam?
Chất trắng (White), một chất diệt cay có tác dụng làm khô kiệt đất đai, diệt cỏ và có khả năng tồn tại lâu trong đất. Kết quả thí nghiệm của trường Đại học Yale (Mỹ) cho thấy: sau 467 ngày hàm lượng chất trắng còn lại trong đất là 80- 96,6%. Chất trắng được sử dụng thí nghiệm ở Nam Việt Nam từ năm 1967 và có hiệu quả hơn so với chất đỏ tía (Purle) và da cam (Orange), sau đó được sử dụng với quy mô lớn để triệt hại rừng già ở dạng dung dịch nước, nồng độ 25%; gay hại cho nhiều loài thực vật thân gỗ thân gỗ mạnh hơn chất da cam và chỉ phun một lần là đủ triệt phá rừng. Do khả năng tích tụ trong các lớp đất sâu, nên có thể diệt cả những cây có dễ ăn sâu, liều lượng sử dụng 15- 16 kg/ ha. Khối lượng chất trắng đã sử dụng ở Việt Nam khoảng 20 triêu lít, chiếm khoảng 28% chất độc hóa học diệt cây đã sử dụng.
Chất xanh ( Blue), chất này tác động lên thực vật bằng cách rút nước của lá cây, gây héo úa mạnh đối với cay cối. Lá cây gặp chất độc bị khử nước, cuộn tròn lại và rụng trong vòng từ 2- 4 ngày. Để triệt phá toàn bộ sự sinh trưởng quân đội Mỹ đã phun dải nhiều lần với liều lượng 8 kg/ ha. Đối với cây lúa nước, chất xanh gây ảnh hưởng xấu đến quá trình tạo hạt, cây vẫ có vẻ phát triển bình thường, liều lượng để sử dụng diệt cây lúa nước từ 3- 4kg / ha chất xanh được sử dụng từ năm 1967 đến khi Sài Gòn được giải phóng tháng 4- 1975.Khối lượng đã sử dụng là 8 triệu lít.
Chất hồng (Pink), chất diệt cây loại lá rộng. Liều lượng sử dụng làm dụng lá 18- 36 kg/ha, diệt cây lá rộng 12kg / ha, diệt cây lúa nước từ 30-60 kg/ha, chất hồng được sử dụng rộng rãi trong những năm đầu của cuộc chiến tranh hóa học – chiến dịch Ranch Hand do quân đội Mỹ tiến hành ở Nam Việt Nam. Khối lượng đã sử dụng là khoảng 454898 kg.
Chất đỏ tía ( Purple), chất độc diệt cây thường được quân đội Mỹ dùng vào việc khai quang, làm trịu lá cay dọc theo các tuyến đường vận tải thủy bộ quan trọng, ngăn chặn hoạt động vận tải hay chú quân của ta. Loại cây sú vẹt, đước rất nhạy cảm với chất đỏ tía lá rụng hoàn toàn sau một tuần bị phun dải, thường dùng với liều lượng 28 lít /ha. Chất đỏ tía được quân đội Mỹ sử dụng những năm đầu của cuộc chiến tranh hóa học với 645.000 lít.
Chất da cam (Orange), là chất độc diệt cây có độc tính cao, và được sử dụng nhiều nhất ở Việt Nam, ở dạng lỏng sánh như dầu, màu nâu thẫm, không tan trog nước, tan trong diesel và mỡ, dễ xâm nhập vào màng tế bào của lá, đặc biệt là loài cây lá kép. Chất da cam tương tác với hệ men của cây, ức ché quá trình quang hợp, làm ngừng trệ hình thành chất diệp lục làm rối loạn điều tiết sinh trưởng, gây xoắn lá, xoắn cành rễ, nứt vỏ thân cành. Úa đỏ, khô cành lá, quả cây ngừng lớn và chết. Chất da cam chia làm ba loại như sau: da cam I, da cam II, và siêu da cam( hỗn hợp của hai chất da cam II và chất trắng).
Chất da cam có thể diệt cây không bằng chất trắng nhưng rất nguy hiểm với người là do nó chứa tạp chất Dioxin. Đây là chất độc có độc tính cao nhất trong số các chất độc tổng hợp được biết từ trước đến nay( chỉ cần 1g đioxin cũng đủ giết 8 triệu người), sản phẩm phụ hình thành trong quá trình điều chế chất da cam, là nguyên nhân gây ra các bệnh hiểm nghèo. Theo tính toán của các nhà khoa học Liên Xô cũ chỉ cần 1g đioxin cũng đủ giết 8 triệu người. Thế nhưng chất da cam trải xuống đồng ruộng, làng mạc Việt Nam chiếm tới 60% (trên 40 triệu lít) tổng khối lượng chất độc diệt cây mà quân đội Mỹ sử dụng, trung bình 163mg/ ha cao gấp 28- 30 lần quy định dùng trong nông nghiệp làm chất diệt cỏ. Dioxin gây nhiễm độc qua đường hô hấp, tiêu hóa với các triệu chứng: da và niêm mạc mắt bị kích thích, nhức đầu, nôn mửa, tổn thương gan, phổi, hệ tim mạch, cơ thể suy nhược; biến loạn thể nhiễm sắc, tăng ung thư gan, nguyên phát và dị tật ở con cái, sẩy thai …Hiện nay, chính phủ Mỹ, Hàn Quốc đã xác định hơn 10 loại bệnh cụ thể liên quan đến Dioxin.
Vào đầu thập niên 1960, Mỹ tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” và bị tổn thất nặng nề vào năm 1961. Cố vấn quân sự Mỹ đã đề xuất sáng kiến dùng chất độc hóa học diệt cây khai quang quanh những nơi có du kích . Bất chấp phản đối của một số nghị sĩ, tháng 11- 1961, Tổng thống John F. Kennedy ra quyết định sử dụng chất độc diệt cây để phá dải thực vật ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc. Đến năm 1962, chương trình rải chất độc diệt cây được triển khai trên quy mô lớn, ở nhiều vùng thuộc các tỉnh từ vĩ tuyến 17 trở vào và mở rộng sang cả Đông Dương.
Thực hiện “Chiến tranh cục bộ”, từ sau năm 1965, cuộc chiến tranh hóa học cũng leo thang. Chất độc hóa học mới, phạm vi ngày càng rộng, cường độ ngày một tăng. Các cựu chiến binh Mỹ kể lại, một số máy bay C-123 hai động cơ để rải chất độc hóa học chiếm một khoảng diện tích lớn trong sân bay Tân Sơn Nhất. Thông thường mỗi tốp máy bay đi dải có hai chiếc khi cần thiết có thêm chiếc F-4 đi yểm trợ. Máy bay trở chất độc trong các thùng trên 4000 lít phun dải ở độ cao 40 m. Một thiệt bị bơm có áp lực lớn sẽ đẩy chất độc xuống qua những chiếc vòi hai bên cánh với lưu lượng 1.050 lit/giờ. Thời gian phun chất độc hết khoảng 3,5 phút diện tích khoảng 140 ha/ vụ.
Theo công bố của Viện khoa học quốc gia và cục quân sự Mỹ, tổng số vụ rải chất độc của Mỹ là 8.532 vụ. có 10 vùng bị ảnh hưởng nặng nhất là: Phước Long (704 vụ ), Thừa Thiên (606 vụ), Bình Định (558 vụ), Long Khánh (502 vụ), Tây Ninh (473 vụ), Quảng Nam (373 vụ), Biên Hòa (366 vụ), Bình Dương(357 vụ),Kon Tum (311 vụ), 10 vùng này chiếm tới 47% lượng chất độc mà quân Mỹ đã phun trên toàn miền Nam. Một số lưu vực sông vùng Đông Nam bộ, sông Hương, sông Thạch Hãn…Vì thế, người dân ăn phải các loài cá trên sông bị nhiễm Dioxin đã gián tiếp bị nhiễm độc.
Theo số liệu ban đầu, quân đội Mỹ đã sử dụng 72 triệu lít chất độc diệt cây nhưng mới đây có tài liệu công bố là 100 triệu lít, trong đó đáng chú ý là trên 40 triệu lít chất độc da cam có chứa dioxin. Kết quả, hơn 2 triệu người Việt Nam bị nhiễm chất độc, 3.340.000 ha đất bị hủy diệt, 44% đất canh tác hoang hóa. Những khảo sát của các nhà khoa học 20 năm sau chiến tranh cho thấy vẫn còn 22% rừng tự nhiên và 31% đất trồng thuộc vùng bị nhiễm chất độc hóa học.
Với trên 40 triệu lít chất da cam mà Mỹ đã sử dụng, trên tàn bộ lãnh thổ miền Nam Việt Nam đẫ tồn lưu một lượng chất độc đioxin kỷ lục trong lịch sử chiến tranh hóa học thế giới: 170- 600 kg dioxin. Trong quá trình tồn dư trong đất dưới tác dụng của điều kiện thời tiết dioxin dịch chuyển đến các khu vực xa hơn- vùng thấp trũng tiếp tục tồn tại ở đó.
Hậu quả của chất độc hóa học – mà chủ yếu do chất do cam có chứa dioxin – do Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh hóa học ở Việt Nam không chỉ cho tác động trực tiếp, phải tính đến ảnh hưởng lâu dài đến môi trường sinh thái và những di chứng cho các thế hệ nạn nhân chất độc da cam, số nạn nhân ngày một tăng theo thời gian.
Báo cáo của hội thảo quốc tế lần thứ 2 ( 11- 1993) về tác hại của chất diệt cỏ Mỹ dùng trong chiến tranh Việt Nam cho thấy: rừng nội địa bị phá vỡ cấu trúc, chức năng bị đảo lộn. Chỉ tính riêng rừng ngập mặn và ứng phèn, có đến 240.000 ha bị phá hủy. Đặc biệt là rừng Sác (Cần Giờ , thành phố Hồ Chí Minh) gần như bị phá trụi không còn cả giống trồng. Phải cần 100 năm mới khôi phục lại hệ sinh thái ở đây. Chiến tranh hóa học làm cho tài nguyên lâm sản bị cạn kiệt, tính ra có tới 75 triệu m3 gỗ bị đốt cháy thành than. Sau chiến tranh, ở miền Nam chỉ còn 29,2% rừng dưới mức an toàn sinh thái, không đủ chức năng bảo vệ môi trường, hạn chế tác hại của thiên tai, như chống xói mòn, hạn hán, lũ lụt …
Đối với dân thường, qua phân tích mô mỡ những người sống trong vùng bị nhiễm độc ở miền Nam Việt Nam, nồng độ dioxin cao hơn so với người thường là 3-4 lần. Do đó, nó là nguây yên nhân lên xáo trộn về di truyền quái thai, ung thư, chết yểu …Thực tế sau chiến tranh, tại những vùng bị nhiễm chất độc dioxin, tỉ lệ sinh con quái thai cao gấp 10 lần, sinh con chết hay sẩy thai cao gấp 6 lần…
Cuộc chiến tranh khốc liệt đã đi qua, nhưng hơn 15 triệu tấn bom đạn cùng với gần 100 nghìn tấn chất độc hóa học đang để lại nhiều vết tích trên mỗi mét đất và di chứng cho nhân dân Việt Nam. Những hố bom và tiềm ẩn chất độc hóa học vẫn còn đó ở những làng quê Việt Nam, những con người hằng ngày chịu những nỗi đau ra cam,cần một lời nói trách nhiệm của các công ty hóa chất Mỹ và những trái tim yêu thương đồng loại!
Vũ Công Phong
(Sưu tầm – và biên soạn)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét