Thứ Tư, 27 tháng 6, 2012

Tham gia đánh bại cuộc hành quân Junction City của Mỹ


Tham gia đánh bại cuộc hành quân Junction City của Mỹ

Diễn biến chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Junction City của quân đội Mỹ tại căn cứ Dương Minh Châu - Bắc Tây Ninh được chia thành 02 đợt  diễn ra trong 53 ngày đêm, từ ngày 22-2 đến ngày 15-4-1967, trong đó có nhiều bộ phận lập nên những chiến công xuất sắc. Đây là Cuộc hành quân trên bộ quy mô lớn nhất, huy động đông quân nhất, nhiều binh khí kỹ thuật nhất, được chuẩn bị công phu nhất, nhiều tham vọng nhất mà lại thua đau nhất của quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược tại Việt Nam”. Xin phác hoạ những nét lớn của chiến dịch, những trận đánh điển hình để phân tích tầm vóc, ý nghĩa của chiến thắng lịch sử đánh bại cuộc hành quân này của quân đội Mỹ. 
TÌNH HÌNH CHUNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG:
 Sau khi đế quốc Mỹ nhận thấy chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” tiến hành ở miền Nam Việt Nam đã sắp sụp đổ. Nếu không nhanh chóng thay đổi chiến lược chiến tranh có thể bị quân và dân miền Nam đánh bại hoàn toàn. Mỹ vội vàng chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ” với sức mạnh hủy diệt chưa từng có trong lịch sử chiến tranh xâm lược của tên đế quốc hiếu chiến bên kia tây bán cầu. 
Đầu tháng 3.1965, tổng Thống Mỹ - Giôn Xơn (Johnson) quyết định đưa quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam; dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam. Ngay sau đó quyết định của Tổng thống được Hội đồng an ninh quốc gia Hoa Kỳ cụ thể hóa thành kế hoạch. Ngày 06.4.1965, Nhà Trắng công bố Bị vong lục số 328 - SAM, thông báo quyết định của Tổng thống và Hội đồng an ninh quốc gia. Thượng tuần tháng  7.1965, dưới sức ép các nghị sĩ phái diều hâu, lưởng viện quốc hội Mỹ đã biểu quyết thông qua kế hoạch chiến tranh này. 
Nhưng các nhà chiến lược quân sự Lầu Năm Góc không hình dung ra sức mạnh của chiến tranh nhân dân. Càng không hiểu được ý chí kiên cường của dân tộc Việt Nam. Ý chí đó thể hiện trong lời nói bất hủ của cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh “Dám đánh Mỹ ta sẽ tìm ra cách đánh Mỹ và nhất định thắng Mỹ”. Vì vậy khi quân Mỹ vừa đặt chân lên chiến trường đã bị ngay những trận đánh phủ đầu của quân và dân miền Nam như chúng ta đã biết. 
Vốn mang bản chất hiếu chiến, luôn ỉ lại vào sức mạnh quân sự của mình; quân viễn chinh Mỹ ngạo mạn đảm nhận vai trò trực tiếp chiến đấu ở phía trước; đẩy quân ngụy Sài Gòn về phía sau để “giữ nhà”, làm nhiệm vụ bình định. Đồng thời mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất vào mùa khô năm 1965 – 1966 với mục tiêu “Tìm diệt - Đánh gãy xương sống Việt Cộng”.
Nhưng quân Mỹ đã bị quân và dân ta giáng những đòn chí mạng ở Núi Thành, Vạn Tường, Plây Me, Đất Cuốc, Bàu Bàng, Dầu Tiếng, Cần Đâm, Căm Xe v.v… Lần đầu tiên quân viễn chinh Mỹ nếm vị đắng tổn thất nặng nề trên chiến trường ngoài nước Mỹ. Cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất hoàn toàn bị bẻ gãy.  
Sau cuộc phản công đầu tiên thất bại đó, các nhà hoạch định chiến lược chiến tranh của Mỹ thay đổi bằng chiến lược hai gọng kềm “Tìm diệt và bình định”. Tiếp tục chuẩn bị cho cuộc phản công chiến lược lần thứ hai vào mùa khô năm 1966 – 1967 với tham vọng sẽ làm thay đổi cơ bản được cục diện chiến tranh. Cú đánh quyết định trong cuộc phản công này là trận càn Giân -Xơn -Xi -Ty; đánh vào vùng căn cứ Dương Minh Châu - Bắc Tây Ninh.
Mục tiêu của cuộc hành quân là đánh thẳng vào các cơ quan đầu não, đang lãnh đạo cuộc kháng chiến của quân và dân ta ở miền Nam. Bắt Đài phát thanh Giải Phóng phải câm miệng. Triệt phá căn cứ kháng chiến và tiêu diệt các đơn vị chủ lực Quân Giải Phóng miền Nam trên địa bàn Bắc Tây Ninh, chủ yếu là Sư đoàn 9. Thế nhưng diễn biến chiến dịch không theo ý muốn của Mỹ mà lại thất bại thảm hại hơn trước. Sau đây xin tóm tắt về tình hình của địch và ta trước khi diễn ra cuộc phản công chiến lược lần thứ hai này.   
DIỄN BIẾN CỦA CHIẾN DỊCH:
1Khái quát về tình hình địch:
Tại thời điểm này, quân số của Mỹ - Ngụy ở miền Nam lên đến 983 ngàn tên; trong đó có 427 ngàn lính Mỹ, 52 ngàn lính chư hầu. Về đơn vị có 19 sư đoàn, 09 trung đoàn và 20 tiểu đoàn. Trong đó quân đội Mỹ có 06 sư đoàn, 03 trung đoàn; các nước chư hầu có 02 sư đoàn, 02 trung đoàn. Về hỏa lực có 3.702 máy bay, 2.676 xe tăng - xe bọc thép, 1.805 khẩu pháo…
Phần lớn những đơn vị khét tiếng của Mỹ như Sư đoàn bộ binh số 1 “Anh cả đỏ”, Sư đoàn bộ binh cơ giới số 25 “Tia chớp nhiệt đới” Lữ đoàn kỵ binh không vận 173 “Sứ giả nhà trời”, Lữ đoàn bộ binh nhẹ 196 và hầu hết các đơn vị không quân, kỵ binh thiết giáp, pháo binh mạnh nhất của Mỹ đều có mặt tại chiến trường miền Đông Nam bộ. Ngoài ra, Mỹ còn có 02 căn cứ không quân chiến lược B52 tại đảo Gu - Am trên biển Thái Bình Dương và U - Ta - Pao tại  vương quốc Thái Lan trực tiếp tham chiến vào cuộc chiến tranh Việt Nam.
Trong cuộc càn Giân-Xơn Xi-Ty này Mỹ đã huy động 45 ngàn quân vùng 03 chiến thuật gồm: Quân Mỹ có 26 tiểu đoàn bộ binh, 08 tiểu đoàn công binh. Về hỏa lực có 08 tiểu đoàn tăng- thiết giáp 1.300 chiếc, 17 tiểu đoàn pháo binh 306 khẩu pháo hạng nặng, 09 phi đoàn oanh tạc cơ 162 chiếc, 05 tiểu đoàn máy bay lên thẳng 300 chiếc, 03 phi đoàn máy bay vận tải 45 chiếc, 22 máy bay trinh sát các loại. Quân ngụy huy động 01 chiến đoàn thủy quân lục chiến, 01 tiểu đoàn biệt động quân, 12 đại đội biệt kích. Tướng tá Mỹ tuyên bố huênh hoang rằng “Với hỏa lực này, không một con thú rừng nào có thể tồn tại trong khu vực hành quân”. 
Để thực hiện mục tiêu cuộc hành quân, trước đó Mỹ đã rải chất độc da cam làm trụi lá cây và ném bom na pan thiêu rụi nhiều vùng căn cứ của ta. Lần đầu tiên Mỹ dùng B52 ném bom na pan xuống suối Bồ. Ngoài ra quân Mỹ có một số động thái chuẩn bị cho cuộc hành quân như:
* Kiên cố các căn cứ và nâng cấp sân bay dã chiến Trảng Lớn, Dầu Tiếng, Quản Lợi, Suối Đá và Minh Thạnh. Gấp rút mở rộng các trục đường giao thông. Vận chuyển trên 15 ngàn tấn lương thực, vũ khí, khí tài đưa vào các kho dự trữ hậu cần ở Trảng Lớn, Dầu Tiếng, Hớn Quản và Minh Thạnh.
* Cho máy bay trinh sát, chụp không ảnh, dò sóng vô tuyến điện, thả máy thu phát tiếng động vào vùng căn cứ của ta. Đồng thời mở một số cuộc càn quét, thăm dò lực lượng và cũng để nghi binh, hòng đánh lạc hướng phán đoán của đối phương. Những cuộc càn quét đó như:
1. Cuộc hành quân Át-then-bô-rô (Attelboro) sử dụng 30 ngàn quân mở màn cuộc phản công chiến lược lần thứ hai năm 1966-1967 đánh vào vòng ngoài căn cứ Trung ương Cục kéo dài 72 ngày đêm, từ ngày 14.9 đến ngày 24.11.1966. Đây là cuộc hành quân cấp quân đoàn đầu tiên của Mỹ ở Việt Nam.
 2. Cuộc hành quân Xê-Đa-Phôn (Cedar Falls) càn quét vùng tam giác sắt; khu vực Dầu Tiếng, Bến Cát, Củ Chi từ ngày 8.01 đến ngày 26.01.1967 nhằm đánh vào căn cứ Thành ủy, Bộ Tư lệnh khu Sài Gòn - Gia Định và Trung đoàn 16 của ta. Cũng vừa để củng cố vành đai phòng thủ phía bắc Sài Gòn.
3. Cuộc hành quân Gác-Đên (Garden) vào tây quốc lộ 22, sát biên giới Cam Pu Chia từ ngày 02.02 đến ngày 21.02. 1967. Sau đó đóng chốt lại Lò Gò, Cần Đăng, Thiện Ngôn, Tà Xia cùng tham gia trong đội hình cuộc hành quân Giân-Xơn Xi-Ty. 
 4.Trước đó Mỹ-ngụy càn quét khu vực miền Đông Nam Bộ bằng các cuộc hành quân mang tên Bích-Súp-Ring (Big Spring), Xin-Vơ Xi-Ty (Silver City) v.v… nhưng với quy mô nhỏ hơn, để thăm dò lực lượng và ngăn chận ta chuẩn bị mở đợt tấn công vào mùa khô 1966 – 1967.
Để cuộc hành quân triển khai chớp nhoáng theo chiến thuật “Bủa lưới, phóng lao”, ngày 21.2 Sở chỉ huy hành quân chuyển từ Biên Hòa lên Dầu Tiếng. Trung tướng Giô-Na-Than Si-Mân (Jonathan Seaman) tư lệnh dã chiến II của Mỹ tại vùng 03 chiến thuật được cử làm tư lệnh hành quân. Các đơn vị tham gia hành quân đến vị trí tập kết như:
- Sư đoàn bộ binh số 1 đứng chân ở Minh Thạnh, Quản Lợi, Thủ Đức và Dĩ An.
- Sư đoàn bộ binh cơ giới số 25 đứng chân tại Trảng Lớn, Bàu Cỏ và Cần Đăng.
- Lữ đoàn kỵ binh không vận 173 đứng chân ở Quảng Lợi và Biên Hòa.
- Lữ đoàn 3 sư đoàn bộ binh số 4 đứng chân tại Bến Củi, suối Ông Hùng và Dầu Tiếng.
- Lữ đoàn bộ binh nhẹ 196 và Trung đoàn 11 kỵ binh thiết giáp chuyển lên Suối Đá.
- Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn bộ binh số 9 chuyển đến  Đồng Dù-Củ Chi làm lực lượng dự bị và giữ hậu cứ cho Sư đoàn 25.
2Về quyết tâm chiến đấu của ta:
Nắm chắc ý đồ của địch, Trung ương Cục và Bộ tư lệnh Miền quyết tâm sử dụng lực lượng hiện có tại căn cứ Dương Minh Châu đánh nhỏ lẻ, tạo thời cơ cho các đơn vị chủ lực đánh lớn, đi đến kết thúc cuộc càn Giân -Xơn Xi -Ty. Bộ tư lệnh Miền quyết định chia vùng căn cứ Dương Minh Châu thành 13 “huyện”. Mỗi huyện gồm có một số cơ quan, đơn vị, trường, xưởng, kho tàng, bệnh viện… chịu sự chỉ huy thống nhất của Ban chỉ huy Huyện đội. Mỗi huyện được chia ra nhiều “xã chiến đấu”, xã đội trưởng trực tiếp chỉ huy.
Cán bộ chiến sĩ, nhân viên các cơ quan tổ chức thành từng đội du kích, được trang bị vũ khí mới - có súng chống tăng B40 và cả súng máy cao xạ 12 ly 7. Dựa vào hệ thống giao thông hào để chống càn bảo vệ căn cứ, kho tàng và bảo tồn lực lượng cho chiến đấu lâu dài, hình thành các tổ “săn xe tăng, săn máy bay Mỹ”. B Tư lệnh Miền phát động phong trào thi đua giành các huy hiệu dũng sĩ diệt Mỹ, diệt cơ giới, hạ máy bay địch v.v…
Sư đoàn 9 được tăng cường Trung đoàn 16 đứng chân ở những địa bàn trọng yếu ta phán đoán địch sẽ tiến quân đường bộ hoặc đổ quân bằng đường không. Cụ thể Trung đoàn 1 đứng ở phía tây quốc lộ 22, Trung đoàn 2 và Trung đoàn 16 đứng ở Chà Dơ - nam Bổ Túc và sở chỉ huy Sư đoàn đóng ở suối Bà Chiêm. Riêng Trung đoàn 3 chuyển lên Phước Sang chặn địch chi viện cuộc hành quân.
Sư đoàn có nhiệm vụ đánh phủ đầu, làm cho quân Mỹ mất tinh thần chiến đấu. Một số đơn vị chia nhỏ, thực hiện chiến thuật phân tán, tập hợp linh hoạt. Khi có lệnh nhanh chóng tập trung về đội hình, tung ra những cú đánh quyết định, tiêu diệt từng bộ phận lớn của quân Mỹ. Như vậy Sư đoàn 9 vừa phối hợp tác chiến vừa hỗ trợ địa phương xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang.
Tiểu đoàn 14, Tiểu đoàn 16 đơn vị chủ lực tỉnh và bộ đội địa phương của Tây Ninh chia thành 36 tổ. Chỉ để lại một đại đội đánh tập trung khi có thời cơ có nhiệm vụ bám giữ địa bàn tổ chức đánh lẻ, tiêu hao, căng kéo lực lượng địch. Tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực Miền tập trung đánh những trận lớn, tiến tới đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân.
 Đảng bộ tỉnh Tây Ninh lãnh đạo quần chúng nổi dậy phá rã ấp chiến lược. Đấu tranh chính trị chống dồn dân, bắt lính, đôn quân. Tăng cường công tác binh địch vận làm tan rã hàng ngũ ngụy quân. Liên tục tiến công địch bằng 03 mũi giáp công, chia lửa cho mặt trận Bắc Tây Ninh. Đặc biệt là tổ chức lực lượng dân công hỏa tuyến tiếp lương, tải đạn, chuyển thương phục vụ chiến trường.  
 Tính chung, toàn tỉnh Tây Ninh lúc bấy giờ có trên 15 ngàn tay súng của ta trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, quyết một phen sống mái với quân đội Mỹ. Chiến trường Tây Ninh nhanh chóng hình thành thế trận chiến tranh nhân dân “Thiên la địa võng”. Bộ đội chủ lực gần 10 ngàn tay súng, du kích các cơ quan bao gồm cả cơ quan trực thuộc Trung ương Cục- Bộ Tư lệnh Miền… gần 04 ngàn tay súng và các lực lượng vũ trang tỉnh Tây Ninh gần 02 ngàn tay súng. 
3Diễn biến chiến đấu của chiến dịch:
Suốt đêm 21 và cả ngày 22.2, máy bay ném bom chiến lược B52 của Mỹ oanh tạc 266 lần chiếc. Máy bay cường kích chiến thuật xuất kích 234 phi vụ. Mỹ đã dùng trên 10 ngàn tấn bom pháo rải thảm vùng căn cứ Dương Minh Châu để dọn đường và yểm trợ cho cuộc hành quân.
Sáng ngày 22 Mỹ bắt đầu xuất quân. Bộ binh và cơ giới tiến theo tỉnh lộ 4 đóng chốt ở Bàu Cỏ, Đồng Pan và Sóc Ky. Đặc biệt nguy hiểm là chúng dùng 250 lần chiếc máy bay lên thẳng đổ bộ bằng đường không 02 lữ đoàn xuống các mục tiêu như Trảng Chiên, Bàu Ba Vũng, Bàu Sấu, Bàu Lùng Tung, Cà Tum, Tà Đạt, Sóc Mới, Rùm Đuôn và An Khắc nhằm vu hồi phía sau, khóa chặt biên giới tạo thành thế bao vây. Kết hợp các mũi xe tăng-thiết giáp thọc xuyên qua căn cứ quyết bắt sống cho bằng được cơ quan lãnh đạo đầu não, tiêu diệt các đơn vị chủ lực của ta ngay từ những ngày đầu cuộc hành quân. 
Như vậy bằng phương tiện hiện đại, quân Mỹ triển khai chớp nhoáng 08 lữ đoàn bao gồm bộ binh, xe tăng và pháo binh hạng nặng tại khu vực cuộc hành quân càn quét. Chúng “Bủa lưới” toàn bộ vùng căn cứ ở tất cả các hướng bằng nhiều lớp, sẵn sàng thực hiện bước thứ hai là “Phóng lao”. Nhưng trái với tính toán lý thuyết, quân Mỹ không chụp được cơ quan lãnh đạo nào, không diệt được đơn vị chủ lực nào của ta. Ngược lại bị các đội du kích đánh trả khắp nơi từ những ngày đầu. Cụ thể:
- Du kích Cà Tum, Tà Đạt diệt gần 100 tên Mỹ, bắn rơi 12 máy bay, có 01 máy bay phản lực.
- Du kích Rùm Đuôn, An Khắc diệt 157 tên Mỹ, bắn rơi 09 máy bay.
- Du kích H19 công binh diệt gần 120 tên Mỹ, bắn cháy 09 xe tăng tại Sóc Ky.
- Tiểu đoàn 44 thông tin diệt 47 tên Mỹ, bắn cháy 10 xe quân sự.
- Du kích Chà Dơ, Bàu Cói, bàu Tà Be bắn cháy 17 xe v.v….
Những ngày tiếp theo quân Mỹ đi đến đâu cũng bị du kích cơ quan chặn đánh, gây cho chúng nhiều tổn thất. Đây là một bất ngờ lớn đối với Lầu Năm Góc và tướng tá Mỹ chỉ huy cuộc hành quân.
Liên đội 9 Thanh niên xung phong phục vụ các đơn vị chủ lực chiến đấu. Đưa vũ khí ra mặt trận và chuyển thương binh về các trạm xá, bệnh viện dưới làn bom pháo địch. Cụ thể: đại đội Nguyễn Văn Tư (C20.12) phục vụ Trung đoàn 1, đại đội Thành Đồng (C198) phục vụ Trung đoàn 2, đại đội Nguyễn Việt Khái (C239) phục vụ Trung đoàn 3, đại đội Ấp Bắc (C21.63 và 204) phục vụ Trung đoàn 16, dân công hỏa tuyến phục vụ các đơn vị vũ trang địa phương tỉnh Tây Ninh.
Tiếp nhận và điều trị thương binh trong vòng vây của quân Mỹ có Đội 6 - quân y dã chiến Cục Hậu cần Miền đứng ở bờ đông sông Tha La, Đội 7 ở cạnh suối Bồ, Bệnh viện K 71A ở khu vực Sóc Xoài phía đông lộ kiểm lâm cùng Bệnh viện Liên cơ của Trung ương Cục và các cơ sở quân dân y tỉnh Tây Ninh. 
Ngay từ những ngày đầu các lực lượng vũ trang Tây Ninh chiến đấu rất kiên cường, tiêu diệt tiêu hao nhiều sinh lực của Mỹ-ngụy. Bộ đội huyện Hòa Thành và du kích xã Trường Hoà diệt gọn một đội bình định 54 tên. Đại đội 3 tiểu đoàn 14 bắn cháy 05 xe tăng. Đại đội 1 tiểu đoàn 14 đánh địch ở An Tịnh, bắn cháy 05 xe tăng khác. Lực lượng địa phương huyện Gò Dầu diệt 02 chi đoàn thiết giáp, thu 01 đại liên. Đơn vị đặc công tỉnh phối hợp bộ đội địa phương Hòa Thành bắn cháy 16 xe địch v.v… 
Ngoài bộ đội chủ lực tỉnh và lực lượng vũ trang địa phương còn có các trung đội nữ pháo binh huyện Châu Thành, Bến Cầu, Trảng Bàng. Đây là nét độc đáo của Tây Ninh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những quả pháo của các cô gái mảnh mai đất Tây Ninh từng bao phen làm cho quân thù kinh hồn bạt vía. Các chị không chỉ sử dụng thuần thục pháo cối mà trong nhiều trận đánh còn sử dụng cả súng chống tăng B40, lựu phóng M79, tiểu liên AK để tấn công địch dũng mãnh không kém gì nam giới. Chiến công của các đội nữ binh- hậu duệ bà Trưng bà Triệu đã tích cực chia lửa đắc lực cho mặt trận Bắc Tây Ninh.
Hiệu quả đánh đòn phủ đầu của các đội du kích cơ quan và các lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Tây Ninh vừa tiêu hao sinh lực địch, vừa làm cho tinh thần của tướng tá và binh lính Mỹ nao núng. Tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực tổ chức những trận đánh phục kích tấn công vào đội hình hành quân hoặc tập kích vào các cụm quân dã ngoại của địch. Cụ thể là:
- Trung đoàn 16 sử dụng trên một ngàn quả đạn cối 82, ĐKZ 75 và cối 120 cấp trên tăng cường pháo kích vào sở chỉ huy, trận địa pháo và khu hậu cần của Sư đoàn bộ binh cơ giới số 25 Mỹ ngay khi chúng vừa triển khai đóng chốt tại Bàu Cỏ.
- Ngày 26 tháng 2, một tiểu đoàn của Trung đoàn 1 tập kích cụm quân Mỹ ở trảng A Lấn, tiêu diệt gần 150 tên.
- Ngày 28 tháng 2, Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 16 tập kích cụm cơ giới Mỹ gần cầu suối Ông Hùng, loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 tên, phá hủy 31 xe.
- Các phân đội pháo liên tục pháo kích sở chỉ huy hành quân ở Dầu Tiếng, căn cứ hậu cần ở Suối Đá, cụm quân Mỹ ở Tà Xia. . .
Những ngày tiếp theo nhiều tổ “săn xe tăng Mỹ” của du kích các cơ quan tổ chức đánh lẻ, bắn cháy từng xe tăng Mỹ di chuyển giữa ban ngày và cả vào ban đêm. Bị tấn công, pháo kích và quấy rối liên tục hằng đêm lính Mỹ bị mất ngũ, sức khỏe và tinh thần sa sút rõ rệt, quân số ốm lên trên 16%. Từ ngày 01 tháng 3 trở đi Mỹ bắt đầu co cụm dần về chốt giữ dọc trục quốc lộ 22.   
Cùng với chiến thắng giòn giã ngoài mặt trận, phong trào đấu tranh chính trị của đồng bào Tây Ninh cũng thu nhiều thắng lợi. Du kích đột nhập vào 80/140 ấp chiến lược. Vận động 03 ngàn đồng bào nổi dậy phá kềm bung về vùng giải phóng làm ăn, xây dựng ấp - xã chiến đấu, tiếp tế cách mạng.
Các huyện Châu Thành, Trảng Bàng, Bến Cầu huy động gần 11 ngàn lượt dân công hỏa tuyến tải lương thực, thực phẩm từ đồng bằng lên cho chiến trường, đưa thương binh về hậu cứ. Những gương điển hình như y tá Nguyễn Thị Hạnh liên tục tiếp máu cho thương binh đến ngất xỉu. Cô dân công Trần Thị Hương lấy thân mình che pháo cho thương binh và chị đã anh dũng hy sinh v.v... 
 Theo dõi diễn biến những ngày đầu, Bộ Tư lệnh Miền nhận định: “Mặc dù quân Mỹ tập trung lực lượng lớn, ra quân ồ ạt, hợp đồng binh hỏa lực chặt chẽ. Nhưng khi tiến vào vùng căn cứ rộng hàng nghìn kí lô mét vuông mà không nắm chính xác, cụ thể mục tiêu đánh chiếm. Lại bị ta chặn đánh ở khắp nơi, tinh thần lính Mỹ có biểu hiện dao động. Do đó, các đơn vị chủ lực cần tổ chức những trận  đánh lớn, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Đánh mạnh vào tinh thần binh lính Mỹ tiến tới đánh bại hoàn toàn cuộc càn quét của chúng”.
Trên tinh thần đó đêm 10 rạng ngày 11 tháng 3, Tiểu đoàn 4 và Đại đội 12 Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 2 được trên tăng cường hỏa lực, do trung đoàn trưởng Trương Văn Đàng và chính ủy Phan Khéo trực tiếp chỉ huy tấn công cụm quân Mỹ ở Đồng Pan. Đây là trận đầu của chiến dịch ta đánh cấp trung đoàn (thiếu), gần 500 lính Mỹ  chết và bị thương, 12 khẩu pháo bị phá hủy, 150 xe quân sự (có 50 xe tăng- xe bọc thép) bị bắn cháy.
Cũng trong đêm 10 tháng 3 Trung đoàn 16 tập kích cụm quân Mỹ ở bắc Bàu Cỏ diệt gần 200 tên, phá hủy 09 khẩu pháo và bắn cháy 64 xe quân sự (có 50 xe tăng- xe bọc thép). Ngày 13 tháng 3, trung tướng Si - Mân bị Bộ tư lệnh quân viễn chinh Mỹ tại Việt Nam cách chức tư lệnh hành quân tại trận địa . Địch cho máy bay lên thẳng bốc hết quân vùng tây bắc như Cà Tum, Bổ Túc…chỉ để lại Lữ đoàn 196 chốt Đồng Pan, Bàu Cỏ trên trục lộ 4. Đợt một cuộc hành quân của Mỹ kết thúc. 
 Qua 20 ngày đêm chiến đấu, các lực lượng vũ trang, cơ quan, đơn vị trong vùng căn cứ Dương Minh Châu cùng với quân và dân Tây Ninh loại khỏi vòng chiến đấu trên 06 ngàn tên Mỹ, bắn rơi 90 máy bay, bắn cháy 497 xe quân sự, trong đó có 352 xe tăng - xe bọc thép, phá hủy 33 khẩu pháo và nhiều phương tiện chiến tranh khác. Bước đầu bẻ gãy được các mục tiêu hành quân của địch; bảo tồn lực lượng ta và bảo vệ được các cơ quan, kho tàng vùng căn cứ.
Trên cơ sở phân tích tình hình cụ thể nhận thấy tuy địch bị thua đau, không thực hiện được ý đồ nhưng chúng còn lực lượng và tham vọng; quân Mỹ vẫn sẽ tiếp tục cuộc hành quân. Quân ủy - Bộ Tư lệnh Miền động viên cao nhất sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, điều chỉnh lại vị thế bố trí quân, chỉ đạo các đơn vị rút kinh nghiệm chống càn đợt một, sẵn sàng chiến đấu đợt hai.
Ngày 18 tháng 3, đợt hai cuộc hành quân Giân-Xơn-Xi-Ty bắt đầu mở màn. Địch huy động 28 ngàn lính Mỹ và 02 tiểu đoàn biệt động quân ngụy Sài Gòn tiến quân bằng đường bộ phối hơp đổ bộ bằng đường không. Cụ thể:
- Một tiểu đoàn của Lữ đoàn không vận 173 và Lữ đoàn 3 của Sư đoàn bộ binh số 4 đổ quân, chốt tại Đồng Rùm.
- Lữ đoàn 1 Sư đoàn bộ binh cơ giới số 25 tiến lên chốt tại Đồng Kèn.
- Lữ đoàn 2 Sư đoàn bộ binh số 1 và một bộ phận của Trung đoàn 11 thiết giáp từ Hớn Quản, hợp quân Tiểu đoàn 36 biệt động quân ngụy tiến lên Sóc Con Trăng.
- Bộ phận chủ yếu của Lữ đoàn 173 và Trung đoàn 11 thiết giáp chốt ở Bàu Trâm,  Bàu Cối và ngã ba Bà Chiêm.
Rút kinh nghiệm đợt một, quân Mỹ tỏ ra thận trọng, dè dặt; tập trung thành từng cụm bộ binh, xe tăng và pháo binh. Từ đó chúng tỏa ra xung quanh để thăm dò, thọc sâu đánh phá các căn cứ của ta. Mặt khác, luôn giữ chặt vị trí bàn đạp. Nhưng ngay những ngày đầu, quân Mỹ đã bị chặn đánh ở tất cả các hướng. Cụ thể:
- Ngày 18 tháng 3, từ Suối Đá hành quân lên cầu Lộc Ninh bị du kích Đoàn Hậu cần 82 đánh mìn, diệt 08 xe bọc thép.
- Bộ đội địa phương Dương Minh Châu bắn cháy 05 xe, diệt gần 100 tên Mỹ.
- Ngày 19 tháng 3, khi vừa đổ quân xuống Đồng Rùm trúng bãi mìn của du kích Đoàn 82, nổ tung 08 máy bay lên thẳng, gần 100 lính Mỹ thương vong.
- Ngày 21 tháng 3 đổ quân xuống bàu Tần Ken, bộ đội địa phương diệt 1 trung đội, bắn rơi 05 máy bay.
- Ngày 19 tháng 3, Trung đoàn 3 Sư đoàn 9 vận động tập kích Lữ đoàn 1 Sư đoàn bộ binh số 9 của Mỹ ngay khi đang triển khai đội hình hành quân tại Bàu Bàng. Loại khỏi vòng chiến đấu hơn 400 lính Mỹ, bắn cháy 92 xe quân sự (có 65 xe tăng-xe bọc thép) và phá hủy 09 khẩu pháo.
Ngày 20 tháng 3, Đảng ủy-Bộ tư lệnh Sư đoàn 9 hạ quyết tâm tập kích ngay cụm quân Mỹ ở trảng Đồng Rùm khi chúng chưa bố trí ổn định đội hình, công sự còn sơ sài, chưa tổ chức hiệp đồng chặt chẽ. Đồng chí Hoàng Cầm - tư lệnh sư đoàn và đồng chí Nguyễn Văn Quảng - phó chính ủy sư đoàn trực tiếp chỉ huy trận đánh này. Đồng Rùm là một trảng rất lớn, chiều dài hơn 01 km, rộng khoảng 800 mét xung quanh có rất nhiều trảng khác. Bìa trảng là những vạt rừng thưa mà phần lớn đã bị trụi lá do chất độc da cam và bom pháo phát hoang.
Đúng 5 giờ 39 phút ngày 21 tháng 3, Trung đoàn 2 do trung đoàn trưởng Trương văn Đàng và chính ủy Phan Khéo trực tiếp chỉ huy đột phá hướng chủ yếu bằng 02 mũi từ hướng nam và đông nam đánh lên. Đại đội 2 Tiểu đoàn 4 và Đại đội 13 Tiểu đoàn 6 đánh lướt qua tiền tiêu, nhanh chóng thọc sâu, tiêu diệt sở chỉ huy và trận địa pháo. Tên lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Mỹ leo lên trực thăng chuồn thẳng, làm cho binh lính Mỹ hốt hoảng do mất sự chỉ huy nên rối loạn đội hình, bị quân ta tiêu diệt hàng loạt. Số ít sống sót tháo chạy về phía bắc.
Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 16 đột phá mũi thứ yếu từ hướng bắc đánh xuống. Trung đoàn phó Trần Nam Hùng và chính ủy Vũ Xuân Trọng trực tiếp chỉ huy đánh thẳng vào cụm phía bắc và tàn quân cụm phía nam chạy lên. Nhanh chóng thọc sâu vào đội hình địch, tiêu diệt nhiều ổ đề kháng.
Quân ta chiến đấu rất ngoan cường dũng cảm dưới tầm phi pháo của Mỹ vô cùng ác liệt. Một vài đơn vị thương vong nặng như cán bộ chiến sĩ của Đại đội 11 Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 16 thương vong gần hết. Như Đại đội 1 Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 2 chỉ còn 9 tay súng… Sau 3 giờ chiến đấu, ta tiêu diệt hoàn toàn sở chỉ huy cụm cứ điểm và hầu hết cụm quân Mỹ phía nam; đánh thiệt hại nặng cụm phía bắc loại khỏi vòng chiến đấu 1.270 tên Mỹ, bắn cháy 87 xe tăng -xe bọc thép, bắn rơi 12 máy bay, phá hủy 06 khẩu pháo.
Đây là trận đánh cấp sư đoàn (thiếu) tiêu diệt nhiều sinh lực địch và cũng là đòn quyết định đánh bại cuộc càn Giân-Xơn-Xi-Ty. Góp phần vào thắng lợi chung của quân và dân miền Nam, đập tan cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ. Sau thiệt hại nặng nề tại Đồng Rùm, cánh quân Mỹ hướng này co cụm lại. Tiếp theo ngày 28 tháng 3, Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 16 tập kích cụm quân Mỹ tại bàu Tri Giết loại khỏi vòng chiến đấu hơn 200 tên Mỹ, bắn cháy 23 xe tăng -xe bọc thép.
Ngày 31 tháng 3 Trung đoàn 1 và Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 16 vận động tập kích cụm quân Mỹ ở nam Bàu Ba Vũng, tiêu diệt hai đại đội địch. Ngày 01 tháng 4, Mỹ rút cụm quân Đồng Rùm và toàn bộ cánh quân này về hậu cứ. Cũng từ đó, Mỹ bắt đầu rút dần lực lượng ra khỏi khu vực cuộc càn quét. Các lực lượng vũ trang của ta bám sát chặn đánh, pháo kích vào đội hình địch. Cuối cùng Trung đoàn 16 pháo kích vào cụm quân Mỹ ở Sóc Con Trăng trước khi chúng rút lui sau cùng vào ngày 15.4.1967.
Cuộc hành quân Giân-Xơn-Xi-Ty quy mô rầm rộ, được phái diều hâu Nhà Trắng lớn lối tuyên truyền rùm beng và ký thác nhiều kỳ vọng vào đấy đã phải kết thúc thảm bại trước một tháng so với kế hoạch hành quân vạch ra ban đầu. Thật trớ trêu, Giân-Xơn-Xi-Ty chỉ là tên của một thị trấn nhỏ ở tiểu bang Can Giát (Kansas) Hoa Kỳ. Nhưng khi lấy nó đặt tên cho cuộc hành quân ở Việt Nam lại trở thành tên một thảm bại lớn của quân đội Mỹ.
Qua cuộc thư hùng không cân sức 53 ngày đêm ròng rã, quân Mỹ sử dụng trên 20 ngàn tấn bom đạn chà đi xát lại, cày xới tan hoang vùng căn cứ Dương Minh Châu. Mỹ và quân ta đan xen với nhau, luôn cọ sát trong thế cài răng lược. So sánh về mọi mặt quá chênh lệch, mà bất lợi luôn thuộc về phía ta. Nhưng rồi Mỹ phải ôm lấy thất bại thật thảm hại, lặng lẽ rút lui trong nhục nhã. Sau thất bại này, Kít-Sinh-Gơ (Kissinger) cố vấn an ninh Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ rút ra kết luận tuy rất cay đắng nhưng cũng khá triết lý: “Mỹ không thắng có nghĩa là thua, Việt Cộng không thua có nghĩa là thắng”.
 Mãi sau này khi đã về vườn, có đủ thời gian để chiêm nghiệm lại hình ảnh thê thảm, ô nhục của Mỹ khi lập cầu hàng không tháo chạy khỏi Việt Nam cuối tháng 4 năm 1975. Viên tướng bốn sao Mác-Xeo-Tay-Lo (Maxwell Taylor), nguyên chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ từng được Lầu Năm Góc ca ngợi là người thiết kế, thi công đắc lực cho cuộc chiến tranh Việt Nam đã phải đau đớn thú nhận trong hồi ký của mình rằng: “Trong cuộc chiến tranh này khi quân đội Mỹ rút về nước không có một anh hùng nào cả, mà toàn là một lũ ngu xuẩn. Chính tôi cũng nằm trong số đó”.
 KẾT LUẬN CHUNG:
Trong lịch sử chống ngoại xâm, chưa lần nào dân tộc ta đứng trước thử thách cam go như cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vừa qua. Để đánh gục ý chí xâm lược của kẻ thù, quân và dân ta phải lần lượt đánh bại từng chiến lược chiến tranh lớn của tên đế quốc hùng mạnh hàng đầu thế giới, mà trong lịch sử quân đội của nó chưa có từ chiến bại. Để đánh bại mỗi chiến lược chiến tranh đó, chúng ta phải có những trận thắng về quân sự mang tính chất quyết định; chiến thắng Bắc Tây Ninh là một trong những trận như thế.
Hơn nữa, đánh bại cuộc hành quân Giân-Xơn-Xi-Ty không chỉ bẻ gãy một chiến lược chiến tranh, mà nó còn có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Bởi sau thắng lợi này, quân và dân ta đã mở cuộc tổng tấn công nổi dậy mùa xuân Mậu Thân -1968 toàn miền Nam. Buộc Mỹ phải đơn phương tuyên bố xuống thang chiến tranh phá hoại miền Bắc và chịu ngồi vào bàn thương lượng tại Pa Ri về chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Tổng kết đánh giá thắng lợi của chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Giân-Xơn-Xi-Ty, chúng ta thấy:
Về địch: Đây là cuộc hành quân quy mô lớn nhất của quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam bởi cho đến ngày kết thúc chiến tranh, Mỹ không tổ chức được cuộc hành quân nào có quy mô tương tự. Mặc dù cuối cùng quân Mỹ cũng đã có mặt ở một số nơi chúng muốn đến trên vùng căn cứ của ta. Nhưng phải trả giá bằng tổn thất nặng nề, bị ta loại khỏi vòng chiến đấu 14.233 tên, bắn cháy 992 xe quân sự  (có 775 xe tăng - xe bọc thép) phá hủy 112 khẩu pháo, bắn rơi 160 máy bay (có 144 máy bay lên thẳng). Điều cốt lõi nhất để kết luận là Mỹ không đạt được mục tiêu nào đã đặt ra cho cuộc hành quân. 
Về ta: Trải qua 53 ngày đêm chiến đấu vô cùng ác liệt; một số cơ quan, đơn vị của ta có tổn thất nhất định. Nhưng thắng lợi lớn nhất là tất cả mục tiêu cần bảo vệ ta đã bảo vệ được. Du kích chứng tỏ khả năng chiến đấu thật tuyệt vời trong thế trận chiến tranh nhân dân. Cụ thể là du kích đã diệt 6.619 tên địch, bắn cháy 434 xe quân sự, bắn rơi 118 máy bay và phá hủy 03 khẩu pháo. Bộ đội chủ lực của ta đủ sức và kinh nghiệm đối đầu với quân đội Mỹ; trong đó, thành tích của lực lượng quân báo và bộ phận trinh sát kỹ thuật là đặc biệt quan trọng.
Riêng Sư đoàn 9 đánh 87 trận gồm 01 trận cấp sư đoàn, 02 trận cấp trung đoàn, 07 trận cấp tiểu đoàn và 77 trận cấp phân đội. Diệt 7.614 tên địch, bắn cháy 558 xe quân sự, phá hủy 109 khẩu pháo, bắn rơi 42 máy bay. Chiến thắng Bắc Tây Ninh đã đóng góp những giá trị to lớn, những kết luận vô giá cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đó là:   
Thứ nhất: Thất bại này, kế hoạch leo thang chiến tranh của đế quốc Mỹ bị phá sản ở nấc thang cao nhất. Cuộc phản công chiến lược lần thứ hai trở thành trận đánh kém hiệu quả nhất của quân đội Mỹ tại Việt Nam.
Thứ hai: Đánh bại cuộc hành quân Giân-Xơn Xi-Ty, báo hiệu phần thắng thuộc về Quân Giải Phóng miền Nam trong cuộc đụng đầu lịch sử với đạo quân viễn chinh hùng mạnh và phương tiện chiến tranh hiện đại của quân đội Mỹ.
Thứ ba: Chiến thắng Bắc Tây Ninh là một trong những cơ sở cho Đảng ta quyết tâm phát động cuộc tổng tấn công và nổi dậy tết Mậu Thân – năm 1968. Đồng thời còn mang đậm nét ý nghĩa lịch sử quân sự của quân đội ta, đó là:
1. Ta phán đoán đúng ý đồ địch, chủ động chuẩn bị chiến dịch phản công. Nhận định đánh giá đúng tình hình, hạ quyết tâm chính xác. Đập tan gọng kềm tìm diệt của Mỹ - ngụy, bảo vệ an toàn các cơ quan đầu não của cách mạng. 
2. Chứng minh cho cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện đã phát triển đến đỉnh cao. Cách tổ chức, bố trí lực lượng thích hợp, sáng tạo trên địa bàn ít dân.  Áp dụng nhiều cách đánh linh hoạt, táo bạo và hiệu quả.
3. Khẳng định đội ngũ cán bộ lãnh đạo - chỉ huy đã trưởng thành, vận dụng đúng đắn và sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng. Tinh thần chiến đấu kiên cường của bộ đội và nhân dân ta để lại nhiều bài học quý báu cho quân đội và cho dân tộc ta. Cụ thể trong số những bài học đó:
Một là: Bằng đường lối độc lập tự chủ, được bạn bè quốc tế ủng hộ giúp đỡ và có Đảng sáng suốt lãnh đạo; cuộc kháng chiến chống quân xâm lược của nhân dân ta nhất định thắng lợi, dù chúng có mạnh đến đâu. 
Hai là: Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền lãnh đạo tài tình cuộc chiến tranh nhân dân; kết hợp nhuần nhuyễn ba thứ quân và sử dụng chặt chẽ ba mũi giáp công. Từ đó chúng ta có đủ sức đương đầu và đánh bại đội quân xâm lược nhà nghề và guồng máy chiến tranh khổng lồ của Mỹ.
Ba là: Cán bộ lãnh đạo - chỉ huy các lực lượng vũ trang không phòng ngự thụ động mà luôn tạo ra thời cơ để chuyển sang thế chủ động tiến công. Cách phòng ngự tốt nhất là tấn công đúng thời điểm để kết thúc thắng lợi chiến dịch.
Chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Giân-Xơn-Xi-Ty là kết quả của sự lãnh đạo - chỉ huy tài tình của Trung ương Cục, Quân ủy-Bộ chỉ huy Miền. Hiệp đồng chiến đấu, chia lửa của các chiến trường và cách đánh táo bạo, chủ động, sáng tạo của các lực lượng vũ trang. Cũng từ đó trong tác chiến, xuất hiện thuật ngữ độc đáo “Hợp đồng theo tiếng súng” được phổ biến trong các đơn vị của Sư đoàn 9.
Chiến thắng này tự nó chứng minh sự đúng đắn trong lời khẳng định đanh thép của cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Đó cũng là câu trả lời dứt khoát của nhân dân Việt Nam đối với những cái đầu hiếu chiến ở Lầu năm góc và Nhà Trắng, chuyên xua quân đi xâm chiếm xứ người. 
Tất cả chúng ta hôm nay và cả những thế hệ mai sau, đặc biệt là thế hệ trẻ hãy luôn ghi nhớ rằng: Để có độc lập tự do, đất nước thanh bình, cuộc sống ấm no hạnh phúc hôm nay là nhân dân cả nước ta đã phải trải qua 30 năm chiến đấu chống ngoại xâm. Đã chịu tổn thất, hy sinh, mất mát lớn nhất trong lịch sử của dân tộc: Hằng triệu chiến sĩ và đồng bào đã ngã xuống cho Tổ quốc trường tồn; trong đó có nhiều người đã anh dũng hy sinh cho chiến thắng Bắc Tây Ninh đầu năm 1967.
                                                                                                      NGUYỄN  CỨ 
                                                                                               Sưu tầm và biên soạn

Nhà Trắng và Lầu Năm Góc với cuộc phản công mùa khô 1967


Nhà Trắng và Lầu Năm Góc với cuộc phản công mùa khô 1967
QĐND - Chủ Nhật, 17/04/2011, 16:25 (GMT+7)
QĐND - Năm 1967 đi vào quân sử Mỹ với hàng loạt chiến dịch quy mô lớn, nổi bật là Gian-xơn Xi-ti (Junction City) - cuộc hành binh lớn nhất trong chiến tranh Việt Nam. Nhưng 1967 cũng lại là năm chấm dứt “cuộc chiến tranh của Oét-mo-len (Westmoreland)”  (chiến tranh tổng lực bằng các binh đoàn lớn/ Large-unit war).
Trong sách “Việt Nam và sự đổi thay cách sống Mỹ” (Vietnam and The Transformation of American life), tác giả Bút-dan-cô (R. Buzzanco) đã dẫn dắt người đọc vào các “thâm cung bí sử” ở Nhà Trắng-Lầu Năm Góc để luận giải những nỗ lực bất thành của Mỹ hòng “thắp ánh sáng cuối đường hầm” ở miền Nam Việt Nam, trong năm cầm quyền cuối cùng của Giôn-xơn (Johnson).
Bất chấp cả sự kiên cường đã được thử thách của “Việt cộng” (VC), lẫn cái hố chất thải là chính trường của Việt Nam Cộng hòa, người Mỹ tiếp tục tiến hành cuộc chiến trên khắp Việt Nam, đánh phá miền Bắc bằng đường không, tiến công ở miền Nam Việt Nam bằng cả quân lực trên không lẫn trên bộ.
Kế hoạch Gian-xơn Xi-ti, chiến dịch “hoành tráng” nhất của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
Những cú đấm trượt
Trên cương vị Tổng chỉ huy, Oét-mo-len theo đuổi kiểu chiến tranh tiêu hao (attrition), sử dụng ưu thế khổng lồ về vũ khí của Mỹ nhằm làm xói mòn đối phương đến mức tuyển quân ở miền Nam và bổ sung quân từ miền Bắc không đủ bù đắp, dẫn đến VC không thể duy trì được sức chiến đấu.
Thắng lợi của Mỹ sẽ cận kề, khi quân lực Mỹ xoay xở được sao cho tổn thất của VC nhiều hơn là số tân binh miền Nam và quân số tăng cường từ miền Bắc. Oét-mo-len, kể cả trong chiến tranh và hậu chiến, đã bị phê phán kịch liệt về chiến lược “xói mòn” này, một chiến lược được áp dụng tốt bởi chính kẻ thù của ông ta. Vì quân VC ở miền Nam và quân đội chính quy của Tướng Giáp ở miền Bắc - Quân đội nhân dân Việt Nam có khả năng khắc phục các tổn thất về người, thay quân, và tiếp tục chiến đấu.
Người Mỹ đã không thể hiểu, hoặc chấp nhận thực tế này. Bộ trưởng quốc phòng Mắc Na-ma-ra (McNamara), kiến trúc sư của cuộc chiến tranh, quá tin vào công nghệ, máy tính, và phân tích hệ thống, nên không thể tưởng tượng được rằng đối phương lại kiên trì tranh đấu, bất chấp những số liệu khổng lồ do “đếm xác”, có được nhờ quân Mỹ sử dụng một cách vô tội vạ hỏa lực pháo binh và không quân. Trả lời một trợ lý thường tỏ ra bi quan về Việt Nam, Mắc Na-ma-ra la lên: “Cơ sở dữ liệu của ông đâu? Hãy đưa cho tôi những gì có thể đưa được vào máy tính. Đừng ngâm thơ, tôi không nghe đâu”.
Dựa trên tư tưởng chỉ đạo như thế, quân Mỹ ở Việt Nam bắt đầu những chiến dịch tìm-diệt. Trong các chiến dịch này, rừng bị tàn phá bởi hóa chất diệt cỏ, các làng bị bom san phẳng, dân chúng bị dồn khỏi quê hương bản quán.
Những chiến dịch như thế có thể hủy hoại đối phương khá nặng nề, gây tổn thất rất lớn về người cho VC, nhưng không đem lại thắng lợi cho Mỹ. VC luôn tìm được cách trụ vững trước những đòn tấn công của phe Mỹ, và luôn bù đắp được những thiệt hại.
...Tướng Giáp đã rút được những bài học cần thiết từ những trận đánh như Ia Đrăng, quân của ông luôn tránh những trận đụng độ giữa các đơn vị lớn của hai bên, trừ phi xuất hiện những điều kiện thuận lợi cho cách đánh của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Oét-mo-len lại rút ra bài học khác, nên vẫn cứ dấn vào cuộc chiến tranh tiêu hao theo cách của mình... Trong chiến dịch Xê-đa Phôn (Cedar Falls) chẳng hạn, bộ binh, thiết giáp, và quân đổ bộ đường không của Hoa Kỳ muốn “phát quang” vùng Tam giác sắt, chiến khu của “VC” ở ngoại vi Sài Gòn. Quân Mỹ sử dụng chiến thuật “trên đe dưới búa”: một số đơn vị quân Mỹ sẽ chặn một đầu của vùng chiến khu này, rồi tìm cách “lùa” đối phương vào trận địa của một số đơn vị Mỹ khác triển khai ở phía bên kia của chiến trường ...
Trước trận đánh, quân Mỹ đã phải dồn dân ra khỏi khu Tam giác sắt này sao cho họ (quân Mỹ) có thể lập nên một khu vực quyết chiến điểm (free fire zone-vùng được xạ kích không hạn chế), trong đó mọi người Việt đều được coi là Việt Cộng, và đều trở thành mục tiêu cho mọi hỏa khí của quân Mỹ. Bằng cách dồn dân và tiến công vào dân thường như thế, sự “trợ giúp của quân đội Hoa Kỳ” đã trở thành nhân tố làm người dân căm giận.
Mất đà...
Rồi 6 tháng sau chiến dịch Xê-đa Phôn, toàn bộ lực lượng VC đã quay trở lại vùng Tam giác sắt này và được người dân ủng hộ mạnh mẽ hơn trước. Ngay cả cấp phó “diều hâu” của Oét-mo-len (Westmoreland) là tướng Uy-li-an Đi-puy (William DePuy) phải thừa nhận rằng, trong những chiến dịch như Xê-đa Phôn hay Gian-xơn Xi-ti, “VC ẩn nấp và chờ đợi... Rất khó nắm bắt được VC. Họ kiểm soát trận đánh tốt hơn. VC chính là người quyết định cho trận đánh xảy ra hay không”.
Đối phương đã duy trì được lực lượng và quyết định tính chất của cuộc chiến trong cả hai năm: 1966 và 1967. Chỉ huy tình báo của quân Mỹ, tướng Mắc Cơ-rít-chi-an (McChristian) cho hay, đối phương đã bổ sung được tới 65 nghìn quân trong năm 1967. Khi lực lượng đối phương hùng hậu đến như thế, cộng thêm với sự ì ạch của quân đội Việt Nam cộng hòa-vốn chỉ trụ lại đối mặt với VC được khoảng 40% các cuộc giao tranh, Oét-mo-len đã phải liên tục xin tăng viện.
Với 470 nghìn quân Mỹ đã hiện diện ở Nam Việt Nam năm 1967, tư lệnh Oét-mo-len vẫn “đòi” thêm 200 nghìn quân nữa, nhưng Giôn-xơn chỉ đáp ứng được một phần, bằng 40 nghìn lính. Với số quân tăng viện này, Westy chỉ chống đỡ được với đối phương là cùng. Từ tháng 9-1966 đến tháng 1-1967, VC đã chủ động đánh tới 87 trận, trong khi con số dự báo của phía Mỹ chỉ là 5.
Trên đe dưới búa
Con số trận đánh trên thực tế này đã gây sốc cho Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Ơ-lơ Uy-lơ (Earle Wheeler). Ông ta đã cảnh cáo Oét-mo-len hôm 9-3-1967 như sau: “Tôi không thể đi gặp tổng thống và nói những điều trái ngược với các báo cáo của chính mình trước đó... Chúng ta không phát biểu chắc chắn được ai đang nắm quyền chủ động ở Nam Việt Nam”.
Hoảng hốt thực sự (duly alarmed), Uy-lơ lệnh cho Oét-mo-len chưa công bố con số này, bởi vì nếu chúng xuất hiện trên truyền thông, “chúng sẽ, nói trắng ra, sẽ bóc trần bộ mặt thật của Oa-sinh-tơn (Washington)”.
Oét-mo-len không công bố những con số thống kê, nhưng cũng chẳng xem xét lại chiến lược (tìm-diệt) của mình. Với cuộc chạy đua vào Nhà Trắng đã khởi nguồn, viên tư lệnh quân Mỹ ở Nam Việt Nam hiểu rằng Giôn-xơn muốn có những tiến bộ ở Việt Nam, để cuộc chiến tranh này không làm mắc cạn chuyến tàu về lại đích Nhà Trắng thêm lần nữa của ông.
Vì thế, với quyền lựa chọn eo hẹp và sức sáng tạo có chừng mực, Westy chỉ còn cách nằng nặc đòi thêm quân. Cùng kỳ, ông ta nhận thấy quân tiếp viện cũng chỉ có giá trị mức nào thôi. “Đánh nhau với du kích cũng như diệt mối bằng cái tuốc-nơ-vít”, ông giải thích cho tổng thống Mỹ (trong chuyến Giôn-xơn sang Gu-am hạ tuần tháng 3-1967), “khi anh diệt từng con một, mối sinh sôi nảy nở bằng chính tốc độ diệt mối của anh”.
Tiếp tục cuộc chiến với 470 nghìn quân trong hình thái “cối xay thịt”, nhưng Oét-mo-len và Uy-lơ vẫn không thể bảo đảm thắng lợi, kể cả nếu được tăng viện thêm 200 nghìn quân nữa.
Nói trước, bước qua?
Oét-mo-len nhận thức được những khó khăn chồng chất đang chờ ông ta phía trước, biết rằng tổng thống đang chờ nghe những tin vui. Vì thế, ông ta tuyên bố rằng, vào mùa xuân ấy quân Mỹ và Việt Nam cộng hòa “bắt nhịp” được với nhau. Trong chuyến đi khuếch trương thắng lợi tháng 11-1967 tại Oa-sinh-tơn, ông thông báo đầy lạc quan rằng, cuộc chiến tranh của Mỹ đang được vận hành tốt, rằng ông có thể thấy “ánh sáng cuối đường hầm”.
Tham mưu trưởng liên quân Ha-rôn Giôn-xơn (Harold Johnson) hân hạnh khi nghe loan báo một triển vọng sáng sủa như vậy, nhưng vẫn thấy nỗi lo canh cánh. Trong thư gửi sang Nam Việt Nam cho tướng Crây-tơn A-bram (Creighton Abrams) ngày 22-11-1967, Ha-rôn Giôn-xơn hy vọng Westy “đã không đào hố cho chính mình bằng những lời nói trước. Diễn đàn của các nhà tiên tri rởm (false prophets) đang ngày một đông đảo hơn”.
“Ánh sáng cuối đường hầm”, mà những người phê phán Oét-mo-len về sau đem ra làm trò cười, đã quả báo thành những ánh chớp giáng vào ông. Cuối tháng 1-1968, sấm chớp giội khắp miền Nam... Trong vòng 60 ngày Tết Mậu Thân đã hạ bệ Tổng thống Mỹ, buộc lãnh đạo cao cấp nhất phải xem xét lại cuộc chiến tranh, đem lại đỉnh điểm cho một trong những cuộc khủng hoảng trầm trọng nhất của nước Mỹ thời hiện đại. Tết Mậu Thân chính là bản cáo phó dành cho Mỹ ở Việt Nam.
Sau đường hầm là... đường hầm
Tết Mậu Thân 1968 chính là lúc cả giới quân sự ở Oa-sinh-tơn và Sài Gòn, cùng với các chính khách Mỹ nhìn nhận rằng Việt Nam quả là một nghiệp chướng tiến thoái lưỡng nan cho Mỹ. Vài ngày sau khi cuộc Tổng tiến công bắt đầu, Oét-mo-len báo cáo với Uy-lơ rằng, “với góc nhìn thực tiễn, phải chấp nhận rằng đối phương vừa giáng (vào phe Hoa Kỳ và đồng minh ở Nam Việt Nam) một đòn khốc liệt”...
Một tuần sau, Oét-mo-len tiếp tục diễn giải tình hình một cách thật thà: “Chúng ta hiện đang nhập vào một cuộc chơi mới, nơi ta phải đương đầu với một kẻ thù kiên quyết, có kỷ luật cao, được động viên cao độ để nhanh chóng giành thắng lợi”...
Cuối tháng 3-1968, Tổng thống than vãn rằng “mọi người đều khuyên nên đầu hàng”. Nhưng chính Giôn-xơn mới là người đầu hàng, khi ông ta công bố quyết định rút khỏi chiến dịch tái tranh cử vào Nhà Trắng.
Tới năm 1968, thắng lợi trở thành một đại lượng vô cùng nhỏ, nên các vị tư lệnh Mỹ, sợ bị đổ lỗi cho thất bại, đã trực diện tìm mọi phương cách buộc Nhà Trắng phải chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh. Họ cố làm sáng tỏ rằng, chính Giôn-xơn đã đẩy họ vào tình thế luôn thiếu nguồn nhân lực (để tiến hành chiến tranh).
Bằng cách bác bỏ đề nghị tăng quân, Tổng thống Mỹ đã tạo cho các lãnh đạo quân sự Mỹ một bằng chứng ngoại phạm, giúp họ thoát khỏi trách nhiệm về cuộc chiến bại ở Việt Nam ...
Lê Đỗ (lược dịch)

Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị tạo thế và lực, chớp thời cơ tấn công, nổi dậy giải phóng quê hương, đóng góp to lớn vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước


Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị tạo thế và lực, chớp thời cơ tấn công, nổi dậy giải phóng quê hương, đóng góp to lớn vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước


Thái Vĩnh Liệu
(Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy)

1. Đảng bộ Quảng Trị chấp hành chủ trương của Trung ương, lãnh đạo quân, dân vượt mọi gian khổ, hy sinh, tạo thế và lực, tấn công, nổi dậy giải phóng quê hương, giữ vững vùng giải phóng
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quảng Trị - địa đầu giới tuyến hai miền, điểm xuất phát của con đường chi viện Bắc - Nam, có Đường 9 đi qua và vùng rừng núi Trường Sơn nối liền Vĩnh Linh - hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam với Gio Linh - Cam Lộ - Hướng Hóa qua nước bạn Lào - có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Đối với Mỹ - ngụy, mất Quảng Trị thì Thừa Thiên Huế - thủ phủ của miền Trung sẽ bị uy hiếp, ảnh hưởng nặng nề đến cục diện chiến trường miền Trung Trung Bộ cũng như trên toàn miền Nam, vì vậy, chúng ra sức chốt giữ vùng đất này và quyết tâm biến Quảng Trị thành phòng tuyến chống cộng vững chắc nhất. Ngay sau Hội nghị Giơnevơ, Mỹ - ngụy đã tập trung xây dựng ở Quảng Trị một lực lượng quân sự mạnh cùng với bộ máy chính quyền tay sai từ thôn, xã và một hệ thống đảng phái phản động ở hầu khắp các địa phương. Mỹ nhanh chóng sử dụng đội quân này đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân Quảng Trị một cách khốc liệt, gây tổn thất nặng nề cho lực lượng cách mạng. Sau chuyển quân tập kết, Quảng Trị còn 8.400 đảng viên nhưng đến cuối năm 1957, chỉ còn 306 cán bộ, đảng viên. Hai huyện Hải Lăng và Cam Lộ bị địch rà quét không còn chi bộ nào. Trước tổn thất to lớn của Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị đòi hỏi Tỉnh ủy - cơ quan lãnh đạo cao nhất phải kịp thời tìm ra con đường và phương thức đấu tranh thích hợp, để giữ gìn và tiếp tục xây dựng lực lượng, khi có thời cơ thì kịp thời phát động quần chúng đứng lên giành quyền làm chủ. Trong lúc tình hình hết sức căng thẳng thì Tỉnh ủy được tiếp thu bản Đề cương cách mạng miền Nam. Sự khẳng định con đường đấu tranh bằng bạo lực cách mạng để giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của Mỹ - ngụy của Đề cương cách mạng miền Nam đã tháo gỡ sự lúng túng, bế tắc về phương pháp đấu tranh, từ đó, Tỉnh ủy nêu quyết tâm khôi phục lại phong trào, trước mắt tập trung thực hiện hai nhiệm vụ: xây dựng căn cứ địa miền núi; khôi phục, xây dựng tổ chức Đảng và cơ sở cách mạng với phương châm tinh, gọn, chú trọng chất lượng.
Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, cán bộ, đảng viên ở khắp các địa bàn không quản nguy hiểm bám dân, bám đất, bám cơ sở, kiên trì vận động, giáo dục quần chúng, xây dựng lực lượng cách mạng. Đến năm 1958, năm huyện, thị đồng bằng đã khôi phục được 28 chi bộ với 160 đảng viên, 20 chi đoàn thanh niên lao động với 120 đoàn viên; phục hồi, xây dựng cơ sở ở 117 thôn với 639 nòng cốt trung kiên, lập được 17 ban cán sự thôn. Có một số thôn ở Gio Linh, Triệu Phong, ta nắm được 1/2 hoặc 3/4 số dân.
Đối với vùng miền núi, sau khi phong trào đấu tranh của nhân dân các huyện miền xuôi gặp nhiều khó khăn, tổn thất, Tỉnh ủy đã chủ trương khôi phục và gây dựng các căn cứ miền núi, làm chỗ dựa để phong trào cách mạng ở đồng bằng phát triển. Cũng nhận thấy vai trò quan trọng của địa bàn miền núi Quảng Trị, Mỹ - ngụy nhanh chóng chiếm lĩnh các địa bàn quan trọng, xây dựng bộ máy chính quyền, lập hệ thống đồn bốt liên hoàn, vững chắc với mục tiêu “quyết khống chế bằng được vùng rừng núi”. Nhưng với sự tập trung chỉ đạo của Tỉnh ủy và truyền thống cách mạng của nhân dân các dân tộc, phong trào đấu tranh chính trị ở miền núi phát triển mạnh mẽ, phong phú và đa dạng. Từ những hầm chông, cạm bẫy được bố trí với lý do hợp pháp để chống thú rừng phá hoại mùa màng, nương rẫy, dần dần xuất hiện những bẫy chông, bẫy đá ngăn cản địch càn quét, phục kích bắn giết cán bộ, đồng bào. Các tổ du kích bán vũ trang xuất hiện, hoạt động công khai và bí mật, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị đòi quyền dân sinh, dân chủ của quần chúng. Căn cứ cách mạng ở miền núi được khôi phục và phát triển không chỉ làm chỗ dựa để Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng trong tỉnh mà còn góp phần bảo vệ, xây dựng tuyến hành lang chiến lược Bắc - Nam và làm nhiệm vụ quốc tế với nước bạn Lào.
Cuộc đấu tranh cách mạng ở Quảng Trị có bước phát triển mới khi Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 15 Về tăng cường đoàn kết, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà. Tiếp thu chủ trương của Đảng, để đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam bằng con đường bạo lực như Nghị quyết số 15 của Trung ương đã chỉ thị, Tỉnh ủy đề ra hai nhiệm vụ: tiếp tục củng cố, xây dựng căn cứ địa miền núi và khẩn trương thành lập lực lượng vũ trang. Sau quá trình chuẩn bị, hai đơn vị vũ trang với phiên hiệu 59A và 59B được thành lập. Sự ra đời của hai đơn vị vũ trang tỉnh báo hiệu sự phát triển về chất của phong trào cách mạng, là cơ sở để phát triển lực lượng vũ trang tỉnh và các huyện sau này. Thời kỳ đấu tranh mang tính chất “khu đệm” đã chuyển sang bước ngoặt đấu tranh bằng sức mạnh bạo lực tổng hợp trong thế chiến lược tiến công, phù hợp với tình hình phát triển của phong trào cách mạng miền Nam. Căn cứ địa miền núi Hướng Hoá tiếp tục được củng cố, toàn huyện có 46 chi bộ với 209 đảng viên, 47 chi đoàn thanh niên lao động với hơn 200 đoàn viên, thành lập được 65 ban cán sự bản, 3 ban cán sự xã, 753 nòng cốt trung kiên.
Sau khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời (ngày 20-12-1960), đầu năm 1961, ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng Quảng Trị được thành lập, là ngọn cờ tập hợp quần chúng nhân dân đoàn kết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và ngụy quyền tay sai. Quân và dân Quảng Trị xốc tới, kết hợp ba mũi đấu tranh: chính trị, quân sự, binh vận trên khắp các địa phương giành thắng lợi mới.
Cuối năm 1960 đến giữa năm 1961, nhân dân Hướng Hóa dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy đã nổi dậy giành chính quyền thắng lợi, tạo thế và lực mới cho đấu tranh cách mạng toàn tỉnh. Các hoạt động vũ trang hỗ trợ mạnh mẽ cho phong trào phá ấp chiến lược trên khắp các địa phương và đấu tranh chính trị, binh vận ở đô thị. Đầu năm 1964, quận lỵ Ba Lòng được giải phóng và giữa năm 1964 đến đầu năm 1965, nhân dân vùng nông thôn đồng bằng Quảng Trị đã nổi dậy làm cuộc đồng khởi giành thắng lợi lớn. Quân, dân toàn tỉnh đã phá thế kìm kẹp của địch ở 236 ấp chiến lược, giải phóng gần 13 vạn dân với 4/5 đất đai. Vùng giải phóng của tỉnh mở rộng, nối liền với khu vực Vĩnh Linh và vùng giải phóng Thừa Thiên, hạ Lào, tạo thế liên hoàn giữa ba vùng: miền núi, giáp ranh và đồng bằng. Chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều thôn, xã. Các tổ chức đoàn thể cách mạng và lực lượng vũ trang được củng cố và phát triển mạnh. Hàng ngàn thanh niên thoát ly ra vùng chiến khu tham gia kháng chiến. Tuyến vận tải chiến lược Bắc - Nam đi qua vùng miền núi Hướng Hóa - Quảng Trị được củng cố, mở rộng, chi viện đắc lực cho quân và dân miền Nam đánh Mỹ.
Trước thất bại dồn dập trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ buộc phải đưa quân Mỹ và chư hầu vào tham chiến và mở cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc. Cuộc chiến đấu của quân và dân miền Nam nói chung, quân và dân Quảng Trị nói riêng đứng trước những thử thách mới. Với ưu thế về quân số, vũ khí, phương tiện chiến tranh, trong mùa khô 1965-1966, địch đã mở 277 cuộc càn trên khắp địa bàn Quảng Trị, dùng máy bay B.52 ném bom vùng chiến khu, giáp ranh, rải chất độc hóa học, bom napan xuống miền núi Hướng Hóa. Giặc Mỹ đã gây nhiều tội ác đối với nhân dân Quảng Trị. Một số vùng giải phóng của tỉnh, trong đó có quận lỵ Ba Lòng, bị Mỹ - ngụy đánh chiếm trở lại.
Những hành động phản kích quyết liệt của địch đã làm cho nhiều cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và quần chúng yêu nước không tránh khỏi băn khoăn, lo lắng. Kịp thời ổn định tình hình, hội nghị Tỉnh ủy tháng 1-1966 nhận định: Địch hấp tấp đưa quân Mỹ và chư hầu đến Quảng Trị là ở trong thế bị động đối phó với bộ đội chủ lực của ta ở mặt trận Đường 9. Do đó, tuy lực lượng địch đông nhưng nông thôn đồng bằng vẫn sơ hở, tương quan lực lượng giữa ta và địch vẫn không thay đổi”. Với nhận định đúng đắn này, Tỉnh ủy chủ trương đưa phong trào cách mạng đồng bằng lên theo phương châm “hai chân”, “ba mũi giáp công”, phối hợp chặt chẽ “ba thứ quân” trên “ba vùng chiến lược” nhằm giải phóng toàn bộ nông thôn đồng bằng, đẩy mạnh phong trào đô thị, với yêu cầu làm chủ với nhiều mức độ khác nhau.
Có thể nói, trước thử thách có tính bước ngoặt, Tỉnh ủy đã thể hiện bản lĩnh cách mạng vững vàng, nhanh chóng giải quyết được vấn đề tư tưởng, lãnh đạo quân, dân phát huy truyền thống anh hùng, chủ động tiến công địch giành thắng lợi. Quân, dân Quảng Trị nêu cao quyết tâm: “Nhà tan cửa nát cũng ừ. Đánh thắng giặc Mỹ cực chừ sướng sau”. Vì vậy trong mùa khô 1965-1966, quân, dân Quảng Trị đã đánh trên 300 trận, diệt và làm bị thương gần 4.000 tên địch.
Giữa năm 1966, Trung ương mở Mặt trận Đường 9, Quảng Trị trở thành chiến trường thu hút, giam chân và tiêu hao một bộ phận sinh lực lớn của địch, tạo điều kiện cho các chiến trường khác hoạt động (trực tiếp nhất là đồng bằng Trị - Thiên) làm cho địch đã bị động càng bị động hơn, ngăn chặn âm mưu của chúng mở rộng chiến tranh trên bộ ra miền Bắc, đặc biệt là vùng Quân khu 4. Đây là thời cơ lớn nhưng cũng đặt ra trách nhiệm nặng nề cho Đảng bộ và quân, dân Quảng Trị.
Để đối phó với quân chủ lực miền Bắc, quyết giữ phòng tuyến chiến lược ngoài cùng, Mỹ - ngụy đã tăng cường lực lượng quân sự lớn ra Quảng Trị, với đội quân thường trực lên đến 15 tiểu đoàn, đóng giữ nhiều điểm cao dọc Đường 9. Địch liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét, bình định, dồn nhân dân vào các trại tập trung, ấp chiến lược, tiếp tục thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng” và tìm diệt lực lượng vũ trang ta. Chúng đánh phá bằng phi pháo, rải chất độc hóa học từ miền tây Vĩnh Linh đến Gio Linh, Cam Lộ lên Hướng Hóa qua biên giới Việt - Lào, phá trụi cây cối, hoa màu làm cho đồng bào miền núi lâm vào nạn đói trầm trọng. Tại vùng giới tuyến, Mỹ đã xây dựng hàng rào điện tử Mắc Namara, sử dụng những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất và những đội quân khét tiếng lần đầu xuất hiện trên chiến trường với những biệt danh: “đỉa đói”, “gà tàng”, “trâu điên”, “dơi”, “nhện” với mưu đồ chặt đứt hoàn toàn con đường chi viện Bắc - Nam.
Quyết tâm thực hiện chủ trương của Trung ương, phối hợp nhịp nhàng bộ đội chủ lực, các lực lượng vũ trang trong tỉnh tấn công mạnh mẽ, tiêu diệt bảo an, dân vệ, ác ôn và ngụy quyền thôn xã, bẻ gãy các cuộc hành quân bình định và lấn chiếm của địch, mở rộng vùng giải phóng. Thế làm chủ của quân và dân được nâng cao. Kết quả là, trong mùa khô 1966-1967, quân và dân Quảng Trị đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 13.000 tên địch (khoảng 4.000 lính Mỹ), bắn rơi và bắn cháy 105 máy bay các loại, bắn cháy và bắn hỏng 148 xe quân sự, thu 575 súng, tiêu diệt 1 tiểu khu, 1 chi khu, 19 phân chi khu quân sự, 7 vị trí, phá sập 14 cầu, 8 cống, tiêu diệt và làm tan rã khoảng 50% lực lượng địa phương quân và lực lượng bình định của địch, có 2.255 binh lính ngụy đào ngũ. Điển hình là cuộc tấn công và nổi dậy của nhân dân ba xã vùng giới tuyến, giải phóng quê hương vào đầu năm 1967, nối liền Quảng Trị với Vĩnh Linh thân yêu và trận tập kích vào thị xã Quảng Trị (vào tháng 4-1967) mở đầu cho phương thức đánh vào thị xã, thành phố trên toàn miền Nam. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, quân, dân Quảng Trị đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực, làm tròn nhiệm vụ tổng công kích địch trên khắp các mặt trận, buộc địch phải phân tán lực lượng để quân, dân Thừa Thiên chiếm giữ thành phố Huế trong thời gian dài. Quân, dân Gio Linh - Cam Lộ thực hiện “trận Bạch Đằng” trên sông Hiếu, đánh chìm tàu địch, làm tắc nghẽn giao thông vận chuyển của chúng suốt một tuần lễ. Tại mặt trận Khe Sanh, nhân dân các dân tộc Hướng Hóa vượt qua khó khăn gian khổ, nhất là nạn đói do giặc Mỹ gây ra, hăng hái lên đường đi dân công phục vụ chiến dịch. Quân, dân Quảng Trị đã phối hợp nhịp nhàng với bộ đội chủ lực chiến đấu kiên cường, anh dũng suốt 170 ngày đêm, đập tan ý đồ ngông cuồng và ngoan cố của giặc Mỹ tại chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị, buộc chúng phải thất thủ Khe Sanh, làm tròn nhiệm vụ quan trọng đối với phong trào cách mạng miền Nam trong năm 1968 là giam chân, thu hút một bộ phận quan trọng lực lượng tinh nhuệ của địch (quân Mỹ), tạo điều kiện cho toàn miền thực hiện cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt giành thắng lợi. Chiến dịch Khe Sanh - Hướng Hóa góp phần rất quan trọng làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt đánh phá miền Bắc và ngồi vào bàn đàm phán tại Pari. Với chiến công này, cán bộ, đảng viên, quân và dân mặt trận Đường 9 - Quảng Trị được Bác Hồ gửi thư khen ngợi.
Thắng lợi của quân và dân ta trên chiến trường Quảng Trị cùng toàn miền Nam đã giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, nhưng Mỹ vẫn không từ bỏ âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh, tiếp tục sử dụng quân viễn chinh Mỹ làm chỗ dựa để ráo riết thực hiện “Học thuyết Níchxơn”, thí điểm chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Đối với chiến trường Quảng Trị, mặc dù đã chịu nhiều thất bại trong thời kỳ trước, Mỹ vẫn ngoan cố chiếm giữ để củng cố thế phòng ngự, cắt đứt con đường vận tải chiến lược Bắc - Nam, nuôi tham vọng đánh ra vùng Quân khu 4. Vì vậy, địch vội vã tăng cường quân số và các loại phương tiện chiến tranh1, thực hiện phân tuyến, phân vùng và mở các cuộc phản kích vô cùng quyết liệt, kết hợp rải chất độc hoá học khai quang các tuyến rừng xanh, bắn phá, dội bom, cày ủi, san bằng các vùng giáp ranh ở Cam Lộ, Gio Linh nhằm đẩy bộ đội chủ lực ra khỏi địa bàn, tạo vành đai trắng chia cắt đồng bằng và miền núi, chiếm lại vùng nông thôn. Trong lúc đó, bộ đội chủ lực sau những trận đánh dài ngày đã suy yếu, chưa kịp củng cố, bổ sung, phải rút dần ra hậu phương. Phần lớn nhân dân Quảng Trị đã bị dồn vào các khu tập trung, địch lại ráo riết bình định, thanh lọc thực hiện âm mưu “tiêu diệt hoàn toàn hạ tầng cơ sở Việt cộng”. Trong hoàn cảnh vô cùng gian khổ, các cấp ủy Đảng vẫn kiên cường bám trụ, dựa vào nhân dân tổ chức cho lực lượng vũ trang đánh địch, tạo thế và lực mới. Tại Hải Lăng, lực lượng vũ trang dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy đã đánh địch trên 100 trận, loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 1.700 tên địch, phá hàng trăm xe quân sự, phương tiện vận tải của địch và các đoạn đường giao thông quan trọng. Quân, dân Gio Linh - Cam Lộ liên tục đánh các đoàn bình định của địch; bao vây, bắn tỉa, đánh trả các cuộc hành quân nống ra vùng giải phóng của chúng từ căn cứ Dốc Miếu, Cồn Tiên; phối hợp với bộ đội chủ đánh mạnh trên mặt trận Đường 9. Nhân dân các dân tộc Hướng Hoá được tuyên truyền, vận động hăng hái sản xuất, đóng góp nhiều lương thực cho cách mạng. Phong trào bắn máy bay lan rộng khắp các bản làng. Nổi bật là sự kết hợp của dân quân du kích với bộ đội địa phương đánh thắng địch ở Cô Ca Lưi, Cô Ca Va, Làng Hạ giành thắng lợi lớn, bảo vệ an toàn Khu ủy Trị - Thiên, phá tan âm mưu “tìm diệt” bộ đội chủ lực, đánh chiếm các căn cứ quan trọng tại vùng núi của địch. Song song với phong trào đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị, binh vận phát triển mạnh ở nông thôn đồng bằng. Chỉ tính riêng trong 9 tháng đầu năm 1969, toàn tỉnh có 97 cuộc đấu tranh chính trị, binh vận với nhiều hình thức phong phú. Tinh thần bám dân, bám đất của cán bộ, đảng viên đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước của quân, dân toàn tỉnh, đưa phong trào cách mạng Quảng Trị vượt qua thời kỳ đặc biệt khó khăn, dần dần tạo được thế tiến công, giành thắng lợi to lớn hơn.
Trong năm 1970, được Quân khu ủy bổ sung 700 cán bộ, chiến sĩ, phong trào cách mạng khắp các địa phương trên địa bàn tỉnh phát triển mạnh hơn. Bộ đội địa phương và du kích đã đánh 314 trận, đặc biệt là phong trào du kích phát triển mạnh, đánh trúng và đánh thẳng vào lực lượng kìm kẹp của địch ở nông thôn đồng bằng, làm cho chúng lúng túng, bị động đối phó, quần chúng nhân dân phấn khởi, tin tưởng. Nhân dân vùng nông thôn đồng bằng, kể cả đồng bào trong khu tập trung đã tham gia gần 200 cuộc đấu tranh chính trị chống địch kìm kẹp, bình định, thanh lọc, đòi tự do đi lại, đòi về làng cũ làm ăn. Nhiều nơi, ngụy quyền buộc phải bồi thường thiệt hại. Mũi đấu tranh binh vận cũng phát triển mạnh. Năm 1970, có 15 vụ nội ứng làm tan rã 1.200 phòng vệ dân sự, thu 172 súng trường và tiểu liên, vận động trên 100 binh sĩ đào rã ngũ. Mặc dù so sánh lực lượng giữa ta và địch ở vùng nông thôn đồng bằng còn chênh lệch, nhưng vùng giáp ranh, ta đã cài được thế xen kẽ, đánh địch liên tục, tạo bàn đạp phát triển tiến công về miền xuôi.
ở miền núi, mặc dù máy bay địch bắn phá ác liệt, biệt kích thường xuyên quấy rối, nhân dân các dân tộc vẫn bám rẫy sản xuất. Nạn đói không chỉ bị đẩy lùi mà đồng bào còn đóng góp nuôi dưỡng 300 cán bộ vùng đồng bằng Triệu - Hải, Phong - Quảng lên căn cứ học tập; giúp đỡ nhân dân 5 xã thuộc quận 3 Thừa Thiên sơ tán ra trong thời gian dài và trồng được “20 triệu bụi sắn đánh Mỹ”.
Trong hoàn cảnh vô cùng gian khổ, ác liệt, hầu hết đảng viên, cán bộ đều kiên cường, dũng cảm, vượt qua muôn vàn thiếu thốn, khó khăn, bám dân, bám đất đánh địch, lãnh đạo quần chúng đấu tranh chính trị, binh vận, làm nhiệm vụ hậu cần tại chỗ. Nhiều đảng viên bị địch bắt vẫn kiên trung, bất khuất trước quân thù làm cho mối quan hệ giữa Đảng và dân thêm bền chặt. Đến cuối năm 1970, 5 huyện, thị xã đồng bằng có 1.297 đảng viên (503 đảng viên hợp pháp). Thế và lực của Quảng Trị đã mạnh lên, cùng bộ đội chủ lực lập công xuất sắc trong năm 1971, đập tan ý đồ leo thang chiến tranh của Mỹ - ngụy.
Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào đã làm thay đổi quan trọng thế chiến lược giữa ta và địch trên chiến trường Quảng Trị. Vùng giải phóng được củng cố vững chắc. Đường chi viện Bắc - Nam đi qua Quảng Trị thêm rộng mở. Ngụy quân, ngụy quyền hoang mang dao động mạnh. Khí thế cách mạng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân lên cao. Đấu tranh chính trị, binh vận phát triển mạnh mẽ. Trước yêu cầu của thời kỳ mới, giữa năm 1971, Tỉnh ủy Quảng Trị được lập lại, tạo thêm điều kiện thuận lợi để phong trào cách mạng toàn tỉnh lên cao hơn.
Do vị trí chiến lược có tính quyết định đối với vùng chiến thuật 1 và cả chiến trường miền Nam, nên dù đã bị thất bại nặng nề trên mặt trận Đường 9 - Nam Lào, Mỹ - ngụy vẫn tìm mọi cách bắt lính, dồn dân và hơn 2.000 gia đình ở Gio Linh và Cam Lộ bị đưa vào khu tập trung Câu Nhi, nhằm mở rộng vành đai trắng, ngăn chặn sự tấn công của ta.
Trước âm mưu của địch, Tỉnh ủy Quảng Trị mở hội nghị và đề ra nhiệm vụ: phải tích cực làm thay đổi tương quan lực lượng ở đồng bằng, nhất là ở thôn, xã, tạo cho được địa bàn ở nông thôn, củng cố hậu phương tỉnh, huyện; tổ chức chiến trường miền núi, tích cực sản xuất tự túc lương thực, chuẩn bị khả năng cả ba vùng cho xuân - hè 1972. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, quân, dân toàn tỉnh đẩy mạnh ba mũi giáp công, phối hợp với bộ đội chủ lực tiến công địch khi chúng chưa kịp hồi phục. Các lực lượng vũ trang tỉnh đã đánh 1.668 trận, diệt gần 5.000 tên địch, buộc chúng phải thu hẹp diện kìm kẹp quần chúng ở nông thôn, mở rộng địa bàn đứng chân ở giáp ranh, tạo thế liên hoàn giữa ba vùng đồng bằng, giáp ranh, miền núi. Đấu tranh binh vận, chính trị thu hút hàng vạn người tham gia, giành được những thắng lợi lớn. Đảng bộ, quân, dân toàn tỉnh đã tạo được thế và lực hết sức quan trọng để giành thắng lợi quyết định trong năm 1972.
Với những kết quả đã đạt được trong xuân - hè 1971, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972, nhằm tạo một bước chuyển biến cơ bản, tiến lên làm thay đổi cục diện chiến tranh, buộc đế quốc Mỹ phải rút hết quân về nước. Sau khi phân tích tình hình chiến trường, nhất là việc chuẩn bị các điều kiện vật chất cho chiến dịch, đồng thời tạo thế bất ngờ với địch, Quân ủy Trung ương quyết định chọn Trị - Thiên làm hướng chủ yếu với nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch, hỗ trợ quần chúng trên cả ba vùng nổi dậy, giải phóng phần lớn địa bàn Trị - Thiên, có điều kiện thì kiên quyết giải phóng toàn bộ hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Đảng ủy Bộ Tư lệnh chiến dịch được thành lập, các đồng chí Hồ Sĩ Thản, Trần Đồng được chỉ định tham gia, do đồng chí Lê Quang Đạo làm Bí thư.
Thấy được chiến trường Quảng Trị là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng trong hệ thống phòng ngự chiến lược, nên dù bị đánh nhiều, binh lực bị hao tổn nặng, Mỹ - ngụy vẫn ngoan cố, không chịu rút bỏ một điểm nào. Ngay từ cuối năm 1971, Mỹ - ngụy đã phán đoán hướng tiến công chiến lược chính năm 1972 của ta không phải là Trị - Thiên, nhưng chúng vẫn tăng cường phòng vệ, ráo riết hành quân, tung biệt kích thám báo thăm dò, phát hiện lực lượng và sự chuẩn bị của ta.
Chủ trương của Trung ương quyết tâm giải phóng Quảng Trị là niềm mong đợi bấy lâu của mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân Quảng Trị, vì vậy, tuy thời gian chuẩn bị gấp gáp nhưng các lực lượng vũ trang, chính trị từ tỉnh đến cơ sở vẫn trào dâng niềm tin tưởng, phấn khởi, quyết tâm phối hợp chặt chẽ với đòn tiến công của bộ đội chủ lực, phát huy cao độ sự nổi dậy của quần chúng, tiêu diệt và làm tan rã hệ thống kìm kẹp của địch, hình thành mặt trận tiến công rộng khắp nhằm tiêu diệt, làm tan rã lực lượng bảo an, dân vệ, ngụy quyền, từng bước giải phóng đất đai, tiến tới giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị.
Quán triệt chủ trương của Trung ương, Thường vụ Tỉnh ủy đã họp và quyết định tổ chức lực lượng vũ trang địa phương tỉnh thành hai cánh:
- Cánh bắc gồm hai huyện Gio Linh, Cam Lộ và thị xã Đông Hà do đồng chí Nguyễn Sanh, ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy và đồng chí Lê Mạnh Thoa, Tỉnh đội trưởng, phụ trách.
- Cánh nam gồm hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng và thị xã Quảng Trị do đồng chí Nguyễn Đức Dũng, Phó Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Nguyễn Văn Lương, ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, phụ trách.
Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu mỗi cánh tùy theo nhiệm vụ, mục tiêu, tính chất của địa bàn mà chia thành cụm (khu vực) để sử dụng lực lượng, tổ chức hiệp đồng giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, binh vận, tiến công và nổi dậy, phối hợp giữa chủ lực và bộ đội địa phương nhằm giành thắng lợi cao nhất.
Ngày 19-3-1972, bộ đội địa phương tỉnh tổ chức tấn công quận lỵ Mai Lĩnh để lừa địch.
Trong lúc Mỹ và ngụy quyền tay sai còn lạc quan, tin tưởng, chưa phán đoán được hướng tiến công chủ yếu của ta thì đúng 11giờ 30 phút ngày 30-3-1972, chiến dịch giải phóng tỉnh Quảng Trị mở màn. Với những đòn tấn công dồn dập của các lực lượng vũ trang cùng sự nổi dậy mạnh mẽ của quần chúng nhân dân, đến ngày 2-4-1972, toàn bộ các vị trí địch trên bốn cánh cung đông - tây - nam - bắc được mệnh danh là “Lá chắn thép”, “Pháo đài bất khả xâm phạm” và hàng rào điện tử Mắc Namara của địch đã tan tành. Hai huyện Cam Lộ, Gio Linh với hơn 10 vạn dân được hoàn toàn giải phóng1. Thắng lợi giòn giã của đợt đầu tấn công đã làm nức lòng quân, dân, thúc giục cán bộ, chiến sĩ thừa thắng xông lên giáng cho địch những đòn quyết định, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị.
Sau đợt hoạt động tạo thế, ngày 27-4-1972, quân ta mở đợt tấn công thứ hai vào cụm Đông Hà - ái Tử - La Vang. Với sức mạnh của binh khí kỹ thuật và sự hiệp đồng binh chủng chặt chẽ, quân ta vừa đánh mạnh trên toàn tuyến, vừa tập trung diệt từng điểm, từng cụm, bao vây, chia cắt chiến dịch, bộ đội chủ lực đã đánh vỡ từng mảng tiến tới tiêu diệt hoàn toàn quân địch. Đến 15 giờ 30 phút ngày 28-4, toàn bộ Đông Hà - Lai Phước được giải phóng. 14 giờ ngày 30-4, ta làm chủ căn cứ ái Tử. Phối hợp chặt chẽ với các cuộc tấn công dồn dập của bộ đội chủ lực, hàng trăm cán bộ, quân dân chính ở các địa phương cũng xông xáo lao vào trận đánh. Ngày 28-4, đồng bào các xã Gio Linh và các xã bắc Triệu Phong hăng hái dùng thuyền đưa bộ đội sang sông. Bộ đội chủ lực nhanh chóng đánh chiếm Long Quang, Thanh Hội, Vĩnh Hoà. Thừa thắng, quân ta phát triển đánh chiếm các mục tiêu nằm rải rác dọc đồng bằng ven biển hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng. Bộ đội Cụ Hồ đi đến đâu, nhân dân phấn khởi chào đón và phối hợp đấu tranh chính trị, binh vận tới đó. Khi được tin Đông Hà - ái Tử được giải phóng, Trung đoàn 27 và các lực lượng vũ trang địa phương náo nức chuẩn bị tiến công hệ thống đồn bốt kìm kẹp hơn 10.000 dân ở Gia Đẳng. Hàng nghìn đồng bào ở các xã lân cận đốt đuốc, gõ mõ, đánh trống reo hò ủng hộ. Khí thế đấu tranh trào dâng như nước vỡ bờ. Chiều ngày 28-4, khu tập trung Gia Đẳng được giải phóng thì ngày 29-4, chi khu quân sự Triệu Phong đầu hàng. Ngày 30-4, địch ở Linh Chiểu, Phương Lang bỏ chạy. Đông Hà, ái Tử thất thủ đã làm cho địch ở thị xã Quảng Trị hoang mang cực độ, ngày 1-5, chúng bắt đầu “rút chạy có kế hoạch”. Nhưng địch đi đến đâu cũng bị đánh, chạy ngả nào cũng bị chặn. Cả đoạn đường gần 30km từ thị xã Quảng Trị đến Mỹ Chánh trở thành “đại lộ kinh hoàng” đối với quân ngụy. Cờ giải phóng tung bay trên kỳ đài Thành Cổ vào chiều ngày 1-5-1972. Ngày 2-5, chi khu quân sự Hải Lăng bị diệt. Cuộc tấn công và nổi dậy của quân và dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn.
Sau hơn một tháng (từ ngày 30-3 đến ngày 2-5-1972), bộ đội chủ lực và quân dân Quảng Trị đã vượt qua khó khăn, gian khổ, ác liệt, hy sinh, đánh hàng trăm trận lớn nhỏ, diệt và làm bị thương 14.350 tên địch, bắt 3.160 tên; thu, phá hủy 1.870 xe quân sự (có gần 600 xe tăng, thiết giáp), 419 khẩu pháo; bắn rơi, phá hủy 340 máy bay và rất nhiều quân trang, quân dụng khác.
 Quảng Trị - tỉnh đầu tiên của miền Nam được hoàn toàn giải phóng là sự kiện vô cùng trọng đại. 18 năm đấu tranh anh dũng, kiên cường, chịu bao tổn thất, hy sinh, cán bộ, đảng viên, nhân dân Quảng Trị với lòng tin sắt đá: “Nhà tan cửa nát cũng ừ, đánh thắng giặc Mỹ cực chừ sướng sau”, người trước ngã, người sau tiếp bước đã giành thắng lợi oanh liệt. Mỗi người dân Quảng Trị thật sự cảm nhận sâu sắc chân lý vĩ đại “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị cùng quân, dân ta cả nước đã giáng cho Mỹ - ngụy một đòn chí tử. Lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại, quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị, phá tan tuyến phòng thủ kiên cố nhất ở miền Nam Việt Nam. Cùng với chiến thắng ở Tây Nguyên, miền Trung và Đông Nam Bộ, thắng lợi to lớn trên mặt trận Quảng Trị đã làm cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ sụp đổ một mảng lớn. Cục diện chiến trường đã thay đổi có lợi cho ta. Thế và lực của địch đã suy yếu lại càng suy yếu thêm và không tránh khỏi ngày thất bại hoàn toàn.
 Sau ngày giải phóng, ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Quảng Trị đã được thành lập, động viên, tổ chức nhân dân thực hiện 10 chính sách của ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh. Nhân dân Quảng Trị phấn khởi, tin tưởng, với khí thế cách mạng hào hùng đã hăng hái tham gia xây dựng và bảo vệ quê hương, củng cố lực lượng, quyết tâm cùng đồng bào, chiến sĩ cả nước tiếp tục chiến đấu, để tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Thất thủ ở Quảng Trị và nhiều địa bàn xung yếu trên chiến trường miền Nam đã làm cho ngụy quyền Sài Gòn ở trong tình thế nguy ngập, Mỹ vội vã tăng cường viện trợ, “Mỹ hoá” trở lại cuộc chiến tranh, mở cuộc tấn công quy mô lớn nhất trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam bằng không quân và hải quân ra miền Bắc, hòng ngăn chặn hoàn toàn sự chi viện của miền Bắc vào miền Nam.
Được Mỹ giúp sức, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu quyết định mở cuộc hành quân “Lam Sơn 72” chiếm lại Quảng Trị, hòng xoay chuyển tình thế, phá tan cuộc tiến công sắp tới của quân và dân ta, bảo vệ cố đô Huế và cả miền Nam, tiếp tục thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Tái chiếm được Quảng Trị sẽ là “lợi thế” để chúng gây sức ép với ta ở Hội nghị Pari, vớt vát lại uy thế chính trị đã bị suy giảm thảm hại, vực dậy tinh thần quân ngụy đang suy sụp nghiêm trọng.
Trước tình hình và nhiệm vụ mới, Tỉnh ủy Quảng Trị nhận định: Thất bại của địch ở Quảng Trị là một thất bại có tính chất chiến lược, do đó, Mỹ - ngụy rất cay cú, chúng sẽ tìm hết mọi âm mưu, thủ đoạn để phản kích, nhằm phá hoại mọi thành quả mà ta đạt được, thậm chí chúng có thể đánh chiếm lại Quảng Trị. Tỉnh ủy dự kiến: Địch có thể phản kích bằng ba khả năng, trong đó khả năng quyết liệt nhất là sử dụng binh lực với quy mô sư đoàn và có thể quân Mỹ tham gia để đánh chiếm lại một số khu vực quan trọng mà trọng điểm là thị xã Quảng Trị. Tỉnh ủy nêu rõ nhiệm vụ cấp bách, nặng nề cho toàn Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh là: Động viên và phát huy cao độ truyền thống đấu tranh, tinh thần tự lực tự cường, nỗ lực phi thường, đưa phong trào đấu tranh yêu nước của quân và dân trong tỉnh trở thành cao trào cách mạng để giữ vững và củng cố vùng giải phóng, góp phần đắc lực vào sự nghiệp đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất đất nước.
Đúng như dự kiến của Tỉnh ủy, từ ngày 28-6-1972, địch bắt đầu mở cuộc phản kích từ nhiều hướng vào thị xã Quảng Trị. Đồng thời, Tổng thống Mỹ Níchxơn đã “yểm trợ tối đa” cho quân ngụy mở các cuộc hành quân, mà trước hết là tăng cường các vụ đánh phá bằng máy bay, pháo binh hết sức ác liệt vào vùng giải phóng. Trước yêu cầu cấp bách phải bảo vệ quê hương, Tỉnh ủy chủ trương kiên quyết phối hợp với quân chủ lực đánh bại cuộc phản kích của địch và đề ra biện pháp tập trung giữ vững thị xã Quảng Trị, nhanh chóng hình thành chiến tranh du kích sau lưng địch, tổ chức sơ tán dân của hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng về phía sau, tích cực phòng tránh, hạn chế thiệt hại.
Từ những ngày đầu tiên, cuộc chiến đấu chống địch phản kích, bảo vệ vùng giải phóng đã diễn ra quyết liệt và càng gần đến ngày 13-7-1972 (ngày nhóm họp Hội nghị Pari), các trận đánh càng gay go. Bộ đội chủ lực cùng lực lượng vũ trang tỉnh tổ chức nhiều trận đánh giành thắng lợi, phá tan âm mưu đánh chiếm thị xã Quảng Trị trước ngày 13-7-1972 của địch.
Tình hình chiến sự vô cùng ác liệt, nhưng cán bộ, đảng viên, chiến sĩ Quảng Trị không nao núng tinh thần, phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực để chiến đấu và phục vụ chiến đấu, bảo vệ nhân dân, đồng thời tranh thủ mọi lúc, mọi nơi, tìm cách đưa đồng bào ra vùng giải phóng an toàn. 6 vạn đồng bào hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng chấp hành chủ trương của Tỉnh ủy đã vượt qua mưa bom bão đạn sơ tán ra vùng giải phóng và khu vực Vĩnh Linh, Quảng Bình, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội triển khai chiến dịch.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích trên toàn mặt trận, đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, bẻ gãy các cuộc tiến công ra vùng giải phóng của Mỹ - ngụy.
Không chiếm được thị xã Quảng Trị để mặc cả với ta tại Hội nghị Pari, Mỹ - ngụy mở cuộc tấn công mới. Lúc này, địch chi viện cho cuộc hành quân này mỗi ngày từ 102 đến 104 lần máy bay B.52, 130 đến 170 lần máy bay cường kích và 35.050 viên pháo biển, 13.500 viên pháo mặt đất. Nhưng địch cũng không thực hiện được mục tiêu: Nhanh chóng đánh chiếm thị xã Quảng Trị, sau đó tiếp tục phát triển ra ái Tử, Đông Hà, Cửa Việt ... đẩy lùi Việt cộng về vị trí trước ngày 29-3-1972. Mỹ - ngụy thay đổi hướng tấn công nhưng mục tiêu vẫn là “đánh chiếm thị xã Quảng Trị càng nhanh càng tốt”.
Sát cánh cùng bộ đội chủ lực, các lực lượng vũ trang Quảng Trị vừa làm nhiệm vụ dẫn đường, vừa phối hợp chiến đấu ở mọi lúc, mọi nơi. Bộ đội địa phương tỉnh đã có những trận đánh hiệu suất cao ở Hội Yên, Gia Đẳng, Trà Trì, Trà Lộc. Du kích hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng kiên cường bám trụ, chiến đấu bảo vệ từng tấc đất vùng giải phóng. Các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Hướng Hóa huy động cao độ lực lượng bổ sung cho các huyện, thị phía trước đánh địch. Quân, dân trên các địa bàn bất chấp bom đạn, anh dũng, xông pha phục vụ chiến đấu với niềm lạc quan, tin tưởng.
Thành Cổ Quảng Trị trở thành một trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay và pháo hạm Mỹ, cũng là mục tiêu quan trọng nhất của cuộc hành quân “Lam Sơn 72”. Địch ngày càng xiết chặt vòng vây xung quanh thị xã Quảng Trị. Bộ đội ta chiến đấu trong hoàn cảnh thiếu quân số và trang bị nghiêm trọng. Thời tiết lại vào mùa mưa, lũ đến sớm, bom đạn địch dày đặc càng làm cho ta gặp nhiều khó khăn, tổn thất. Nhưng các lực lượng vũ trang ta vẫn kiên cường bám trụ, với tinh thần anh dũng vô song, giành giật với địch từng tấc đất, mét hào, từng mảng tường, góc hầm, đẩy lùi hết đợt phản kích này đến đợt phản kích khác của địch từ nhiều phía. Cho đến ngày 16-9-1972, lực lượng ta rút lui về phía sau.
Tính đến ngày 16-9-1972, các lực lượng vũ trang ta đã trải qua cuộc chiến đấu liên tục 81 ngày đêm, giữ vững thị xã Quảng Trị và vùng giải phóng Quảng Trị, phá tan âm mưu “đánh chiếm thị xã Quảng Trị trước mùa mưa” để thực hiện mưu đồ chính trị và ngoại giao của Mỹ.
Tám mươi mốt ngày đêm, địch tổ chức 5 lần tấn công với quy mô lớn vào thị xã Quảng Trị và chỉ tính về thời gian, cuộc hành quân “Lam Sơn 72” của địch đã kéo dài gấp tám lần so với dự kiến ban đầu. Toàn bộ hai sư đoàn cơ động chiến lược ngụy bị thu hút vào mặt trận Quảng Trị, trong đó Lữ đoàn dù 2, bốn tiểu đoàn lính thủy đánh bộ đã bị tổn thất nặng nề. 7.756 tên địch thiệt mạng, hàng nghìn tên bị thương; hàng trăm xe quân sự, máy bay bị tiêu diệt. Nhưng địch vẫn không thực hiện được các mục tiêu đã đề ra.
Tám mươi mốt ngày đêm đứng vững ở thị xã Quảng Trị, đương đầu với cuộc đánh phá quy mô ác liệt nhất từ trước đến nay của không quân, hải quân Mỹ, với tất cả mưu mô xảo quyệt và sự tham gia của những đơn vị thiện chiến nhất của quân ngụy Sài Gòn, quân, dân Quảng Trị và bộ đội chủ lực đã viết nên bản anh hùng ca tuyệt vời về sức mạnh của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Bị thiệt hại nặng nhưng Mỹ - ngụy vẫn không từ bỏ âm mưu đánh chiếm lại vùng giải phóng Quảng Trị, cuối tháng 9-1972, chúng mở cuộc hành quân “Lam Sơn 72A” đánh ra các bàn đạp ở phía đông và phía tây. Lợi dụng mùa mưa lũ, lực lượng vũ trang ta gặp muôn vàn khó khăn, địch tập trung bom pháo hủy diệt và cho bộ binh liên tục tấn công quyết chiếm bằng được các bàn đạp quan trọng. Góp phần giúp bộ đội giữ vững trận tuyến, nhân dân khu vực Vĩnh Linh và vùng giải phóng Quảng Trị hăng hái hưởng ứng phong trào “Tìm kiếm nguyên vật liệu giúp các đơn vị tuyến trước xây dựng công sự trận địa”. Mỗi bao cát, tấm tôn, thùng sắt từ Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ chuyển về tuyến trước đều nặng tình quân dân và chất chứa trong đó quyết tâm đánh thắng địch. Sự chi viện kịp thời của hậu phương đã tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng vũ trang giữ vững trận địa, đánh bại mọi âm mưu tấn công lấn chiếm vùng giải phóng của địch, cao điểm là các cuộc hành quân “Sóng thần” 9, 36, 45, 18, cuối cùng là cuộc hành quân TăngôXity, giữ vững vùng giải phóng của tỉnh.
Thắng lợi tại mặt trận Quảng Trị trong năm 1972, đặc biệt là cuộc chiến đấu ở Thành Cổ Quảng Trị đã góp phần thực hiện tích cực quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng. Cùng với những chiến công oanh liệt của cả nước, nổi bật là trận “Điện Biên Phủ trên không” trên bầu trời Hà Nội vào cuối năm 1972, đã làm thất bại mưu đồ đàm phán trên thế mạnh của Mỹ, buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari, rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam, làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng giữa ta và địch.
Quảng Trị giải phóng là một sự kiện lớn; là mốc son mở ra thời kỳ mới, tạo thế và lực cho cách mạng miền Nam. Vì thế, được sự quan tâm to lớn của anh em, bè bạn quốc tế, nhiều đoàn khách nước ngoài đã thăm Quảng Trị và gửi chúc thư chính thức công nhận Chính phủ lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam đóng tại huyện Cam Lộ. Điều đó càng nhân lên niềm phấn khởi, tự hào trong mỗi người dân Quảng Trị. Nhân dân vùng giải phóng hăng hái chung sức, đồng lòng khôi phục và phát triển sản xuất, ổn định đời sống. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, đồng bào các địa phương hăng hái thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng, làm bàn đạp vững chắc để quân, dân ta xốc tới tiến hành chiến dịch tấn công và nổi dậy giải phóng phần dân, phần đất còn lại của tỉnh và cùng nhân dân toàn miền Nam làm nên vào mùa xuân năm 1975 lịch sử.

2. Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị đã đóng góp to lớn vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc
a) Vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ đầu cầu giới tuyến, đấu tranh anh dũng, kiên cường giành những thắng lợi to lớn. Mảnh đất Quảng Trị đã diễn ra nhiều sự kiện, trận đánh có tác động trực tiếp và quan trọng đến cục diện chiến trường miền Nam 
Sau Hiệp định Giơnevơ, Mỹ nhảy vào độc chiếm miền Nam, gây ra cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Tính chất ác liệt, nóng bỏng của chiến trường Quảng Trị suốt cuộc chiến tranh này đã được thể hiện rõ trong tuyên bố trắng trợn của Mỹ: “Biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17”. Vì lẽ đó, với những thủ đoạn thâm độc và việc tập trung cao độ phương tiện chiến tranh hiện đại, xây dựng lực lượng quân sự hùng hậu, Mỹ coi Quảng Trị là tuyến phòng thủ cứng rắn nhất khu vực Đông Dương và quyết tâm chiếm giữ với bất cứ giá nào.
Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị gánh vác trọng trách to lớn: Bảo vệ Vĩnh Linh - tiền đồn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, làm thất bại mọi chiến lược chiến tranh và sự thử nghiệm những vũ khí hiện đại của Mỹ trên đất Quảng Trị, giữ vững hành lang tiếp viện Bắc - Nam, tiếp sức cho cuộc kháng chiến của quân và dân miền Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn. Cùng với trách nhiệm lớn lao là khát vọng thống nhất đất nước hòa quyện trong niềm mong ước đoàn tụ: “Bao giờ cầu lại bắc qua. Bắc, Nam sum họp cho ta với mình”vì vậy, Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị đã chiến đấu bằng một ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi: “Nhà tan cửa nát cũng ừ. Đánh thắng giặc Mỹ cực chừ sướng sau!”.
Sau Hiệp định Giơnevơ, Quảng Trị trở thành một “khu đệm” trong cuộc đấu tranh thống nhất hai miền. Nhiệm vụ đặt ra cho Quảng Trị là phải đấu tranh kiên quyết buộc đối phương phải thi hành Hiệp định nhưng phải giữ được thế hợp pháp, bảo đảm cho lợi ích chung của toàn miền, đặc biệt là Liên khu V. Chấp hành chủ trương của Trung ương, Đảng bộ tỉnh đề ra phương châm công tác “ba vì, bốn chút”1 là hoàn toàn hợp lý, đồng thời trong quá trình lãnh đạo nhân dân kiên trì thực hiện đã cho thấy Quảng Trị đã sẵn sàng chấp nhận sự hy sinh lợi ích cục bộ địa phương, đặt lên trên hết lợi ích chung, lợi ích toàn cục.
Trong thời kỳ khó khăn, cam go nhất, Tỉnh ủy vẫn bám trụ ở đồng bằng lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng. Đồng thời nêu cao tinh thần đoàn kết, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, xây dựng trong cán bộ, đảng viên một niềm tin mãnh liệt vào sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, vào thắng lợi cuối cùng của dân tộc; nhờ đó đã động viên, giác ngộ quần chúng nhân dân, từng bước củng cố, phát triển cơ sở cách mạng, xây dựng lực lượng, đưa phong trào đấu tranh chuyển từ thoái trào sang thế tiến công địch.
Suốt cuộc kháng chiến, Đảng bộ tỉnh thấm nhuần sâu sắc đường lối chiến tranh, phương pháp đấu tranh cách mạng do Đảng vạch ra, nắm bắt thời cơ, tấn công địch liên tục, giành những thắng lợi lớn, tác động trực tiếp đến cục diện chiến trường miền Nam và đó chính là đóng góp quan trọng của Quảng Trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Tỉnh ủy Quảng Trị đã sớm xác định vai trò quan trọng của căn cứ địa miền núi, tập trung xây dựng và phát triển làm chỗ dựa vững chắc cho phong trào cách mạng toàn tỉnh và cả miền Nam. Căn cứ địa miền núi Hướng Hoá - Quảng Trị được giữ vững đã làm thất bại âm mưu khống chế, chia cắt địa bàn chiến lược của địch, đặc biệt là âm mưu ngăn chặn sự chi viện đắc lực của miền Bắc vào miền Nam của chúng. Không chỉ xây dựng và phát triển hành lang chi viện Bắc - Nam càng rộng mở mà chúng ta còn làm tốt nghĩa vụ quốc tế với nước bạn Lào, làm cho liên minh chiến đấu chống Mỹ của ba nước Đông Dương thêm vững chắc.
Năm 1964, phong trào đồng khởi nông thôn ở đồng bằng Quảng Trị đã giải phóng hàng chục vạn dân, phá tan hàng trăm ấp chiến lược, là một đòn đánh mạnh vào chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Một vùng giải phóng rộng lớn được mở ra nối liền với miền Bắc xã hội chủ nghĩa; tạo thế liên hoàn với Thừa Thiên Huế và các tỉnh Khu 5, với các tỉnh nước bạn Lào; chuyển phong trào kháng chiến phát triển trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, đồng bằng, thị xã; có tác động quan trọng đối với chiến trường miền Nam.
Từ năm 1966, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định mở mặt trận Đường 9. Tính chất ác liệt, nóng bỏng của chiến trường Quảng Trị càng nhân lên gấp bội bởi đây là nơi có nhiệm vụ thu hút, tiêu diệt và giam chân một lực lượng lớn sinh lực địch, tạo điều kiện cho toàn miền đẩy mạnh phong trào đấu tranh. Từ năm 1966 đến năm 1972 là thời kỳ ác liệt nhất trên chiến trường Quảng Trị. Trong cuộc chiến đấu sống còn, cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, nhân dân Quảng Trị đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vừa là hậu phương, vừa là tiền tuyến. Bộ đội địa phương, du kích làm nhiệm vụ dẫn đường, phối hợp chiến đấu. Nhân dân các địa phương bất chấp bom đạn địch chà đi xát lại, kiên cường giữ vững sản xuất, cung cấp hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm nuôi quân. Hàng ngàn dân công có mặt trên các tuyến đường miệt mài vận chuyển vật lực phục vụ chiến dịch, khiêng cáng thương binh, tử sĩ. Chính tình cảm gắn bó keo sơn giữa quân và dân trên tuyến đầu ác liệt nhất và sự phối hợp nhịp nhàng giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương và lực lượng du kích đã làm nên một Quảng Trị với những chiến công oanh liệt.
Năm 1967, ba xã giới tuyến được giải phóng, xóa bỏ sự chia cắt của Mỹ - ngụy tại vĩ tuyến 17 - cầu Hiền Lương, tạo bàn đạp quan trọng cho ta tiến vào phía trước.
Năm 1968, kết hợp với đòn tấn công mãnh liệt của bộ đội chủ lực, quân, dân Quảng Trị tấn công, nổi dậy giải phóng hoàn toàn quận Hướng Hóa với hơn 10 vạn dân. Chiến thắng Khe Sanh - Hướng Hóa làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ, làm lung lay ý chí xâm lược của Lầu Năm Góc, làm nức lòng quân và dân cả nước. Vùng giải phóng Quảng Trị được củng cố và mở rộng, tạo điều kiện để phát triển mạnh mẽ hành lang chi viện Bắc - Nam.
Năm 1971, Quảng Trị đã đóng góp hết sức quan trọng vào chiến thắng Đường 9 - Nam Lào, bẻ gãy xương sống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ; tác động trực tiếp và to lớn đến cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam, làm thay đổi cục diện chiến tranh, tạo đà để Quảng Trị tiến lên giải phóng quê hương.
Năm 1972, Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị cùng với bộ đội chủ lực đã thực hiện được sự chỉ đạo chiến lược của Trung ương Đảng: giành thắng lợi có tính quyết định trên chiến trường, giải phóng vùng đất giới tuyến, phá tan phòng tuyến chống cộng vững chắc nhất của Mỹ - ngụy. Cuộc chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng, đặc biệt là 81 ngày đêm đứng vững tại Thành Cổ đã trở thành bản anh hùng ca bất tử mà nhân loại coi đó như là một sự kiện điển hình của thế kỷ XX. Lùi lại 40 năm trước, khi quân ta mở cuộc tấn công giải phóng Quảng Trị đợt 2, Tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu gửi mật thư tay cho Tư lệnh các vùng chiến thuật đã viết: “Từ đây (ngày 29-4) đến ngày thứ năm (ngày 4-5-1972) sắp tới, sẽ có những phiên họp mật với phía cộng sản trước khi có phiên họp công khai tiếp theo vào ngày 4-5-1972. Cố gắng của cộng sản mà chúng ta thấy đã thể hiện 2 ngày qua tại Trị - Thiên và Kon Tum là bằng mọi cách chiếm cho được các tỉnh này, đồng thời ở lại Bình Long, để có thắng lợi trên chiến trường mặc cả có lợi với ta trong các cuộc hội đàm... Đồng thời lấy đó làm chiến thắng để hoạt động có lợi về chính trị trong và ngoài nước, là lũng đoạn hàng ngũ của ta, gây hoang mang trong binh sĩ: đào ngũ, không chiến đấu nữa, v.v.. Chưa kể là các nơi chúng đã chiếm, chúng tiếp tục loan ra, còn phía chúng ta thì cũng khó phản công chiếm lại được các nơi đã mất, trong tình trạng chính trị như vậy, đối với dư luận quốc nội và quốc ngoại, chưa kể vấn đề phương diện yểm trợ của đồng minh”1. Do đó, Nguyễn Văn Thiệu lệnh cho tướng lĩnh các vùng “bằng mọi giá đừng để cộng sản chiếm Trị - Thiên và Kon Tum” và nhấn mạnh đây là “vấn đề tối quan trọng” từ ngày 29-4 đến ngày 4-5-1972. Điều đó cho thấy, chiến dịch giải phóng tỉnh Quảng Trị và cuộc chiến đấu chống địch phản kích, tái chiếm ở trong thời điểm hết sức “chiến lược” mà cả hai phía đều mong muốn có được một thắng lợi quân sự quyết định. Chính vì lẽ mà cán bộ, đảng viên, quân và dân Quảng Trị đã không tiếc máu xương, chiến đấu kiên cường, bất khuất và độc lập, tự do cho đất nước và quê hương.
Ngay từ khi tiếp nhận chủ trương của Trung ương, toàn tỉnh đã dấy lên một khí thế cách mạng sôi sục, ý chí và quyết tâm lớn lao, quyết tâm giải phóng quê hương. Cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và quần chúng cách mạng hăng hái trên khắp các địa bàn, phối hợp đắc lực với bộ đội chủ lực thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị chiến trường. Bộ đội địa phương làm tốt nhiệm vụ đánh địch nghi binh, giữ yếu tố bất ngờ cho chiến dịch. Kể từ ngày chiến dịch mở màn (ngày 30-3-1972) đến kết thúc cuộc chiến đấu chống địch phản kích tái chiếm vùng giải phóng (ngày 31-1-1973), suốt 11 tháng chiến sự diễn ra ác liệt, dân quân du kích và đồng bào ở lại bám trụ luôn sát cánh cùng bộ đội chủ lực chiến đấu, phục vụ chiến đấu, chăm sóc, nuôi dưỡng cán bộ, chiến sĩ, thương bệnh binh, chôn cất tử sĩ. Nhiều trận đánh của bộ đội, du kích các địa phương đạt hiệu suất cao, “chia lửa” nhịp nhàng với bộ đội chủ lực trong chiến dịch tấn công cũng như phòng ngự. Nhiều chiến sĩ cán bộ, chiến sĩ bộ đội, du kích trở thành những tấm gương ngời sáng cổ vũ toàn quân và toàn dân nêu cao tinh thần yêu nước, xả thân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, quê hương như đồng chí Nguyễn Xuân Cần - ủy viên Thường vụ Huyện ủy Gio Linh nữ du kích Nguyễn Thị Lan ở Đông Hà, Trung đội trưởng Hán Duy Long, chiến sĩ Phan Văn Ba (Tiểu đoàn 3), chiến sĩ pháo cối Bùi Huy Hoàng....Nhân dân vùng giải phóng ngày đêm hướng về nơi giao tranh, dốc toàn lực ra chiến trường và đóng góp tất cả những gì có được giúp bộ đội đứng vững tại trận địa. Tinh thần chiến đấu quên mình của bộ đội, du kích địa phương và sự nổi dậy của quần chúng nhân dân kết hợp với những đòn tấn công mạnh mẽ, anh dũng vô song của quân chủ lực đã làm nên chiến công oanh liệt, vẻ vang trong năm 1972 trên chiến trường Quảng Trị, buộc Mỹ phải tung ra con bài cuối cùng trước khi ký Hiệp định Pari - đánh phá miền Bắc mà chủ yếu là thành phố Hà Nội, Hải Phòng.
Lần thứ ba trong tiến trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Quảng Trị được chọn để đặt thủ phủ. Đó là kết quả của quá trình đấu tranh anh dũng, bất khuất của quân và dân cả nước, trong đó có sự hy sinh to lớn của quân và dân toàn tỉnh; khắc sâu trong tâm khảm mỗi người dân Quảng Trị niềm vinh dự, tự hào sâu sắc.
Quân, dân Quảng Trị hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng vùng giải phóng vững mạnh, để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn bè quốc tế khi đến với vùng đất này những ngày đầu giải phóng, càng nhân lên tình cảm và sự ủng hộ nhiệt thành của nhân loại với cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam, để dân tộc ta sớm kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
b) Đảng bộ, quân và dân khu vực Vĩnh Linh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hậu phương của tiền tuyến lớn, đánh thắng các cuộc chiến tranh phá hoại của kẻ thù, giữ vững đảo Cồn Cỏ, xứng đáng với danh hiệu lũy thép anh hùng
Vĩnh Linh thực hiện thắng lợi công cuộc khôi phục và phát triển sản xuất, là biểu tượng của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cổ vũ mạnh mẽ nhân dân miền Nam đấu tranh thống nhất nước nhà.
Vĩnh Linh chi viện tích cực và kịp thời cho Quảng Trị trong thời kỳ khó khăn nhất, khởi đầu của con đường chi viện Bắc - Nam và suốt cuộc kháng chiến, Sự giúp đỡ, chi viện của Vĩnh Linh đã góp phần to lớn vào những chiến công của quân, dân Quảng Trị và cả chiến trường miền Nam.
Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Linh khắc sâu lời căn dặn của Bác Hồ, đánh thắng địch ngay trận đầu. Với hệ thống làng hầm sâu trong lòng đất, Vĩnh Linh đã hiên ngang đứng vững dưới bom đạn ác liệt của quân thù, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại, giữ vững sản xuất và luôn sẵn sàng chi viện cho tiền tuyến trong mọi hoàn cảnh. Vĩnh Linh là nơi đầu tiên bắn rơi máy bay B.52 của Mỹ và đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, để ta đúc rút kinh nghiệm chiến đấu với phương tiện hiện đại bậc nhất của Hoa Kỳ. Với việc bảo vệ đảo Cồn Cỏ - hòn đảo tiền tiêu của Tổ quốc, Vĩnh Linh đã góp phần quan trọng vào nhiệm vụ giữ vững con đường Hồ Chí Minh trên biển.
Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Linh thực hiện kế hoạch K8, K10, sơ tán một bộ phận lớn đồng bào ra Bắc, giang tay đón nhận bà con cô bác từ phía Nam ra để tiến hành cuộc chiến đấu anh dũng nhất trong lịch sử chiến đấu chống ngoại xâm trên mảnh đất Quảng Trị.
Với những thành tích oanh liệt, vẻ vang, Đảng bộ, quân và dân Vĩnh Linh vinh dự được Bác Hồ tám lần gửi thư khen. Đó là minh chứng sống động nhất, sự khẳng định sâu sắc nhất đóng góp của Vĩnh Linh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Từ sau ngày được giải phóng, Quảng Trị là nơi hội tụ nghĩa tình của cả nước, là một địa danh để nhân dân thế giới ngưỡng mộ. Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị mãi mãi không quên, mãi mãi biết ơn sự hy sinh cao cả của cán bộ, chiến sĩ cả nước trên mảnh đất này vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị đã và sẽ tiếp tục phấn đấu để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, xứng đáng với truyền thống anh hùng, bất khuất, đáp ứng mong đợi của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, đồng bào, đồng chí đã sống, chiến đấu, công tác trên mảnh đất này.



1. Ba vì: vì bảo vệ miền Bắc, vì chiếu cố miền Nam, vì bảo vệ hòa bình. Bốn chút: sau một chút, chậm một chút, khéo một chút, nhẹ một chút (trong đấu tranh vũ trang).