Chiến khu Đ: Mở trận đánh đặc công đầu tiên
Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và giải phóng đất nước, lối đánh đặc công của quân dân ta là chiến thuật đặc sắc, được ra đời trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên địa bàn Chiến khu Ð, huyện Tân Uyên tỉnh Bình Dương.
Trận đánh mưu trí, dũng cảm tiêu diệt tháp canh cầu Bà Kiên đêm 18 rạng sáng 19-3-1948 trở thành tiền đề để ngày 19-3-1967 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Binh chủng Ðặc công Quân đội nhân dân Việt Nam.
Sau thất bại Việt Bắc cuối năm 1947, thực dân Pháp buộc phải chuyển hướng chiến lược chiến tranh từ đánh nhanh, thắng nhanh sang chiến lược lâu dài "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt".
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên cơ sở tổng kết và phát triển cách đánh bất ngờ, tiếp cận mục tiêu tiến công hiệu quả, ngày 19-3-1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập Binh chủng Ðặc công, một đơn vị tinh nhuệ của QÐND Việt Nam. Ngày 19-3 được chọn làm ngày truyền thống của bộ đội Ðặc công. |
Ðối với Nam Bộ, thực dân Pháp đặc biệt coi trọng chiến thuật De latour, một viên tướng nổi tiếng của Pháp được điều từ Ma-rốc sang Sài Gòn để chỉ huy quân Pháp ở Nam Bộ, nhằm nhanh chóng vãn hồi an ninh theo kỳ vọng của Pháp. De latour cho xây dựng hệ thống tháp canh bằng gạch hoặc đá dày từ 0,6 đến 0,8m, cao từ 10 đến 12m, có ba tầng lỗ châu mai và đài quan sát để bảo vệ các đường giao thông của chúng và chia cắt đường giao thông của ta, gây khó khăn rất lớn cho ta về vận chuyển lương thực, vũ khí...
Ðại tá Trần Công An, người chỉ huy trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên ngày 19-3-1948 kể: Trước tình hình giặc càng ngày o ép lấn chiếm vùng tự do của ta, huyện đội Tân Uyên giao nhiệm vụ cho đội du kích nghiên cứu tiêu diệt các tháp canh của địch. Sau khi đã nghiên cứu kỹ tình hình, tổ du kích bốn người do tôi chỉ huy vào rừng Cò Mi tập kỹ thuật, hóa ngụy trang bò vào mục tiêu là cây to, cao, sao cho ở trên cao không phát hiện được.
Khi luyện tập đã thành thục và chuẩn bị đầy đủ, đêm 18 rạng sáng 19-3-1948, tổ du kích chúng tôi được trang bị một súng trường với 20 viên đạn, 10 lựu đạn và một thang cao 5 m, áp sát tháp canh cầu Bà Kiên, thả lựu đạn vào lỗ châu mai tiêu diệt tháp canh theo đúng phương án đã luyện tập. Kết quả 11 tên địch bị tiêu diệt, ta thu tám súng và 20 lựu đạn và bảo toàn lực lượng.
Theo Ðại tá Trần Công An, thực hiện chính sách "bình định" theo chiến lược De latour, đến tháng 11-1948 giặc Pháp đóng quân trên địa bàn miền Ðông Nam Bộ có 491 cứ điểm gồm 5.547 tên Pháp và lính lê dương và 13.664 lính ngụy.
bí mật đánh tháp canh, đồn bốt địch bằng F.T.
Năm 1948 giặc tiến công ta 220 trận quy mô từ 200 đến 1.000 quân. Riêng ở Thủ Dầu Một giặc Pháp đóng tới 6.800 quân với hệ thống 128 đồn bốt, càn quét 298 trận. Hệ thống tháp canh của địch được xây dựng dày đặc. Chiến thắng tháp canh cầu Bà Kiên chẳng những đánh dấu lần đầu tiên lính tháp canh bị tiêu diệt gọn tại chỗ, mà quan trọng hơn là mở ra một lối đánh mới nhằm chống lại có hiệu quả chiến thuật tháp canh của thực dân Pháp. Sau đó, năm 1949 Bộ tư lệnh khu 7 phối hợp tỉnh đội Biên Hòa tổ chức tổng kết kinh nghiệm và trên cơ sở phân tích các cách đối phó của địch đi đến kết luận: Có thể sử dụng phương pháp bí mật đột nhập, dùng một loại mìn đặc biệt để tiêu diệt tháp canh, lô cốt, đồn bốt địch. Khoa quân giới Khu 7 được giao nhiệm vụ sản xuất loại mìn đánh sập, phá thủng các loại tường. Ðó là trái ba-dô-min đặt tên là F.T (phá tường, phá thành)... Huyện đội Tân Uyên, Ban chỉ huy trung đoàn 301-310 tuyển chọn 300 chiến sĩ ưu tú về rừng Mã Ðà luyện tập kỹ thuật |
Sau ba tháng luyện tập thành thục, đêm 21 rạng ngày 22-3-1950, 300 chiến sĩ được chia thành 50 tổ đồng loạt đánh 50 tháp canh của địch trên các quốc lộ 1, quốc lộ 15 và tỉnh lộ 24, 16. Kết quả cả 50 tháp canh của địch đều bị tiêu diệt gọn, song tháp canh chỉ thủng một lỗ lớn đường kính từ 0,6m đến 1,5m. Thắng lợi lớn nhưng mục tiêu làm đổ sập toàn bộ tháp canh chưa được thực hiện.
Kinh nghiệm được rút ra là sau khi đánh vào tháp canh, đồn bốt địch bằng trái F.T, đồng thời phải tiếp ngay bằng trái pê-ta (được sản xuất bằng thuốc nổ TNT bọc trong vỏ tôn và được đặt tên là F.T2) mới phá sập được toàn bộ tháp canh và tiêu diệt những tên địch còn sống sót.
Ðêm 18 rạng 19-4-1950 tổ đánh tháp canh cầu Bà Kiên lần thứ hai đã thu thắng lợi toàn diện phá sập hoàn toàn tháp canh và tiêu diệt toàn bộ bọn địch bằng hai quả mìn F.T và F.T2, mở đường cho toàn bộ các tỉnh miền Ðông Nam Bộ: Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa, Chợ Lớn, Gia Ðịnh, Tân An, Mỹ Tho... tiếp tục đánh tan nhiều đồn bốt, tháp canh của địch, góp phần quan trọng đánh bại chiến thuật De latour của thực dân Pháp trên chiến trường Ðông Nam Bộ.
Trong tổng kết quân sự toàn Nam Bộ năm 1950, Bộ Tư lệnh Nam Bộ gọi đây là cách đánh đặc công (cộng đồng đặc biệt) và những chiến sĩ thực hiện cách đánh này được gọi là chiến sĩ đặc công.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên cơ sở tổng kết và phát triển cách đánh bất ngờ, tiếp cận mục tiêu tiến công hiệu quả, ngày 19-3-1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập Binh chủng Ðặc công, một đơn vị tinh nhuệ của QÐND Việt Nam. Ngày 19-3 được chọn làm ngày truyền thống của bộ đội Ðặc công.
Theo: NDO-TRỌNG ÐẠT -----------------------------------------------------
Đặc công rừng sác |
Ở chiến trường Nam Bộ, Pháp tăng quân, xây dựng hệ thống bót “Đờ-la-tua” là sản phẩm của tướng Delatour Desmer, tư quân viễn chinh Pháp ở Nam Bộ. Hàng loạt đồn bót dựng lên xung quanh thị xã, thành phố và trên các đường giao thông quan trọng, nhằm bao vây, chia cắt, ngăn chặn lực lượng vũ trang ta.
Phong trào du kích phát triển khắp nông thôn, thành thị, nhưng ta gặp khó khăn do chưa có chiến thuật hữu hiệu và loại vũ khí có đủ sức công phá tường dày của tháp canh.
Qua nhiều lần thử nghiệm thắng lợi, đặc biệt là trận đánh đêm 18 rạng 19-03-1948 tiêu diệt đồn cầu Bà Kiên, đã mở ra 1 khả năng mới đánh địch trong vị trí cố thủ vũng chắc. Từ thực tế đánh tháp canh, ta đúc kết được kinh nghiệm thực tiễn, làm tiền đề cho chiến thuật đặc công ra đời Sự hình thành Đặc công nước :
Nếu đặc công bộ có lối đánh đặc biệt thì đặc công nước càng đặc biệt, vì đánh dưới nước khó khăn hơn nhiều so với trên bộ, trang bị vũ khí cũng khác biệt hơn. Đặc công nước (còn gọi là đặc công thủy ra đời do yêu cầu đánh vào đối tượng hải quân của địch và những mục tiêu vùng sông nước, do đó xuât1 hiện gần như song song với đặc công bộ.
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, các hoạt động trên sông nước của địch chiếm 1 phần quan trọng trên chiến trường. Lợi dụngình nước ta có bờ biển dài, nhiều sông ngòi, có vùng sông ngòi chằng chịt như miền Tây Nam Bộ, quân Pháp đã bố trí 1 lực lượng hải quân khá mạnh. Hải quân địch tập trung vào 3 hoạt động chủ yếu :
- Dùng tàu thuyền chiến đấu hỗ trợ cho bộ binh đi càn quét
- Đánh phá căn cứ, ngăn chặn tiếp tế, vận chuyển của ta
- Dùng đường thủy để tiếp hậu cần cho chúng trên đất liền
Vì thế việc đánh địch trên mặt trận sông biển có ý nghĩa chiến lược quan trọng
Ở miền Bắc, các vùng ven sông, ven biển khẩn trương xây dựng các đội săn tàu địch, sẵn sàng đánh chúng trên mặt trận sông nước.
Trong chiến dịch Hà-Nam-Ninh (06-1951), tổ đặc công nước do Nguyễn Quang Vinh (thuộc trung đoàn 36, Đại đoàn 308) chỉ huy dùng thuyền nan chở 300 kg thuốc nổ đánh chìm tàu LCD chở vũ khí của quân Pháp. Đây là trận mở đầu cho cách đánh tàu chiến địch tên chiến trường Bắc Bộ, tạo tiền đề cho việc nghiện cứu sử dụng đặc công đánh các mục tiêu tên sông, biển.
Ở miền Nam, đầu năm 1949, đội săn tàu Long Châu Sa dùng thủy lôi tự tạo đánh chìm tàu Glyxin trên sông Sài Thượng, diệt hàng trăm tên địch.
Ở vùng Rừng Sác, tháng 9-1950, các đội đặc công được hình thành từ Trung đoàn 300, hoạt động ở vùng Nhà Bè, Thủ Thiêm xuống Cần Giờ, Soài Rạp. Các chiến sỹ chiến đấu rất dũng cảm, táo bạo, được đồng bào gọi là “quân cảm tử”, diệt nhiều tên chỉ huy Pháp, Việt gian, đầu sỏ.
Như vậy trong giai đoạn đầu kháng chiến, cùng với cách đánh của đặc công bộ, cách đánh của đặc công thủy cũng bắt đầu phát triển. Dựa trên những tiến bộ của quá trình nghiên cứu cải tiến vũ khí, các địa phương ở Bắc Bộ và Nam Bộ đã tổ chức được 1 lực lượng chuyên, tinh để đánh tàu, thuyền của địch bằng cách đánh đặc công.
Sự hình thành Đặc công biệt động :
Do tính chất cuả cuộc kháng chiến lâu dài và để phù hợp với phương châm, phương thức hoạt động tác chiến ở thành phố, bên cạnh các lực lượng vũ trang đô thị như Tự vệ thành, Thanh niên xung phong, Quốc gia tự vệ cuộc, Công đoàn xung phong … các tổ chức quân sự chuyên trách lần lượt ra đời.
Ở Sài Gòn, 10 ban công tác thành hoạt động mạnh dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Khu trưởng Nguyễn Bình.
Ở nhiều thành phố khác như Hà Nội, Hải Phòng, huế, Đà Nẵng, các đội công tác đặc biệt và biệt động cũng khẩn trương thành lập làm nhiệm vụ trừng trị bọn đầu sỏ thực dân, việt gian, phản động, phá hoại cơ sở kinh tế của địch.
Các tổ, đội vũ trang biệt động hoạt động ngay trong lòng địch, từ đánh nhỏ, lẻ, tiến lên đánh biệt động đặc công táo bạo, linh hoạt trừng trị địch
Nổi lên trong các hoạt động tại Sài Gòn là nữ sinh trường Quân chính Nguyễn Thị Lan (Lan Mê Linh) 17 tuổi đã dùng súng ngắn ám sát tên Hiền Sỹ chủ bút báo “Phục Hưng” tháng 03-1946.
Đặc biệt ngày 08-06-1946 ban cong tác thanh đánh kho đạn của Pháp, thiêu hủy 400 tấn đạn dược, thuốc nổ, làm chết 40 lính Pháp. Đạn nổ liên lục 3 ngày đêm.
Đầu năm 1947, lực lượng biệt động Hải Phòng phối hợp với bộ đội địa phương tập kích sân bay Cát Bi, diệt 1 trung đội lính Âu Phi
Nam 1948, biệt động Đà Nẵng cùng với bộ đội địa phương, công an xung phong đột nhập Thanh Qut, tiêu diệt nhiều tên đầu sỏ, trấn áp bọn phản động
Tại Hà Nội, đêm 18-01-1950, biệt động phối hợp với Tiểu đoàn 108 tập kích sân bay Bạch Mai, phá hủy 25 xe các loại, thiêu hủy 1.270.000 lít xăng dầu, tiêu diệt nhiều sỹ quan và binh lính địch..
Không chỉ ở những thành phố lớn, đặc công biệt động phát triển ở hầu hết thành phố, thị xã, vùng địch kiểm soát, trở thành 1 lực lượng đe doạ trực tiếp thường xuyên ngay tại hang ổ kẻ thù và phối hợp với hoạt động chính trị gây cho địch nhiều hoang mang khiếp sợ
Thành tích của bộ đội đặc công trong kháng chiến chống Mỹ :
Trong kháng chiến chống Mỹ, bộ đội đặc công trên các chiến trường đã đánh hàng chục nghìn trận.
- Loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục nghìn tên địch (gồm cả Mỹ và chư hầu)
- Tiêu diệt và đánh thiệt hại hàng trăm sở chỉ huy các cấp.
- Phá hủy, phá hỏng hàng nghìn máy bay các loại.
- Phá hủy 1600 khẩu pháo
- Phá hủy 30 giàn tên lửa
- Phá hủy 9000 xe quân sự
- Phá hủy 2,7 triệu tấn bom đạn, 600 triệu lít xăng dầu
- Đánh chìm, đánh hỏng 400 tàu xuồng chiến đấu.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968, bộ đội đặc công đã đánh đồng loạt vào những mục tiêu hiểm yếu, quan trọng của địch ở hầu khắp các thành phố, thị xã miền Nam, góp phần cùng quân dân cả nước đánh bại chí xâm lược của Mỹ, tạo bước ngoặt quyết định của chiến tranh.
(Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968, lực lượng biệt động Sài Gòn bị tổn thất khá nặng nề : Thứ nhất, là mất gần hết lực lượng “gạo cội”, vốn là các cán bộ có trình độ am hiểu chiến trường và có bản lĩnh chiến đấu. Số chiến sỹ hy sinh, bị bắt ở các mũi tiến công khá lớn. Tổn thất thứ 2 là các cơ sở trung kiên nằm tại chỗ, mà nhiều năm trước ta đã chắt chiu xây dựng đã bị bể hàng loạt).
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, bộ đội đặc công biệt động đánh chiếm, giữ vững nhiều cầu và căn cứ quan trọng, bảo đảm cho các binh đoàn chủ lực tiến công thần tốc, giành thắng lợi nhanh chóng, trọn vẹn.
Là Đơn vị Anh hùng LLVTND Ngày thành lập (Ngày truyền thống binh chủng : 19-03-1967 Tổ chức lực lượng lúc mới thành lập : - 9 tiểu đoàn đặc công - Trường bổ túc cán bộ - 3 cơ quan. Tư lệnh qua các thời kỳ : - Nguyễn Chí Điềm (1967-1976) - Nguyễn Chi (1980-1982) - Nguyễn Anh Đệ (1983-1985) - Nguyễn Tư Cường (1985-1992) - Nguyễn Mai Năng (1993-1996) - Trần Thanh Phương (Từ 1997…) Truyền thống : “Đặc biệt tinh nhuệ, anh dũng tuyệt vời, mưu trí, táo bạo, đánh hiểm thắng lớn". |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét