1. Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng của Ban
Chấp hành Trung ương (khoá VI) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của
Đảng, ngày 27-6-1991
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh
anh dũng, làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, tiến hành các cuộc kháng
chiến chống xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp
giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, đưa cả nước chuyển sang giai đoạn
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay Đảng đang lãnh đạo nhân dân tiến hành công
cuộc đổi mới toàn diện theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng được tôi luyện,
trưởng thành và đã xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất
tốt đẹp của Đảng ta. Đó là bản lĩnh chính trị vững vàng, tính kiên định cách
mạng, tinh thần độc lập sáng tạo; nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; gắn bó với nhân dân; giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế. Tuy
có những lúc Đảng phạm sai lầm, khuyết điểm nhưng do biết công khai tự phê bình
và quyết tâm sửa chữa, nên Đảng vẫn được nhân dân tin cậy và thừa nhận là đội
tiên phong chính trị, người lãnh đạo chân chính duy nhất của dân tộc.
Thực tiễn chứng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng nước ta; để lãnh đạo được cách mạng, Đảng phải
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, có trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo theo yêu cầu của
từng giai đoạn cách mạng, phải phòng và chống được những nguy cơ lớn đối với
một đảng lãnh đạo chính quyền là: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự
thoái hoá biến chất của cán bộ, đảng viên.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam và truyền thống của Đảng ta gắn liền
với tên tuổi đồng chí Hồ Chí Minh - Người sáng lập Đảng, có công lao to lớn vận
dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, đề ra những luận điểm cơ bản về đảng và dày
công xây dựng, rèn luyện Đảng ta. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là
biểu hiện tập trung nhất những truyền thống tốt đẹp của Đảng và của dân tộc.
Chúng ta tự hào về Đảng ta và những truyền thống tốt đẹp của Đảng,
quyết tâm giữ vững, kế thừa và phát triển các truyền thống đó, ra sức khắc phục
những khuyết điểm và nhược điểm, chăm lo xây dựng và bảo vệ Đảng, làm cho Đảng
đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên.
Tại Đại hội VII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã trình Đại hội
nhiều văn kiện quan trọng. Nhiệm vụ chủ yếu của báo cáo này là trình bày tình
hình Đảng và công tác xây dựng đảng từ sau Đại hội VI đến nay, nêu ra phương
hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng trong thời gian tới và những vấn đề lớn về sửa
đổi Điều lệ Đảng để Đại hội xem xét và quyết định.
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH ĐẢNG VÀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG
Thời gian từ Đại hội VI đến nay là một chặng đường có nhiều thử thách
lớn đối với Đảng ta, nhân dân ta. Trong tình hình đất nước có nhiều khó khăn,
kinh tế - xã hội khủng hoảng, thế giới có những diễn biến hết sức phức tạp,
Đảng đã kiên trì lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo nhân dân vượt mọi khó
khăn, từng bước đưa đường lối Đại hội VI vào cuộc sống và đã thu được những
thành tựu bước đầu rất quan trọng.
Bám sát yêu cầu của công cuộc đổi mới, thực hiện phương hướng xây dựng
đảng do Đại hội VI đề ra, công tác xây dựng đảng đã đạt một số kết quả :
- Trong Đảng tiếp tục có sự đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế,
bước đầu hình thành hệ thống các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi
mới ở nước ta.
Qua tổng kết hoạt động thực tiễn phong phú từ cơ sở, với tinh thần độc
lập và sáng tạo, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã cụ thể hoá và phát
triển Nghị quyết Đại hội, đề ra nhiều chủ trương, chính sách về đổi mới cơ cấu
kinh tế, cơ chế quản lý, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Việc khẳng định
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, mở rộng quan hệ với bên ngoài, mở rộng dân
chủ trong đời sống xã hội là bước chuyển rất quan trọng, đánh dấu sự tiến bộ
trong tư duy lý luận gắn liền với hoạt động thực tiễn của Đảng ta.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, Đảng đã đề ra
những nguyên tắc định hướng công cuộc đổi mới ở nước ta, trên cơ sở đó xây dựng
sự nhất trí trong Đảng, phê phán những nhận thức mơ hồ, những quan điểm lệch
lạc, nâng cao ý thức cảnh giác đối với mọi âm mưu phá hoại và chống đối.
- Thực hiện dân chủ trong Đảng và lãnh đạo thực hiện dân chủ trong
xã hội một cách đúng hướng, vừa phát huy trí tuệ tập thể, thực hiện quyền công
dân, vừa bảo đảm sự ổn định về chính trị.
Trong sinh hoạt của nhiều cấp uỷ và tổ chức đảng, đã có không khí thảo
luận thẳng thắng, phát huy trí tuệ của đông đảo cán bộ, đảng viên trong việc
chuẩn bị các đề án, nghị quyết, trong việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo. Nhiều
cấp uỷ đảng thực hiện tốt hơn chế độ kiểm điểm công tác, tự phê bình và phê bình.
Ban Chấp hành Trung ương đã kiểm điểm việc chấp hành Nghị quyết Đại hội vào
giữa nhiệm kỳ; các uỷ viên Bộ Chính trị tự phê bình trước Ban Chấp hành Trung
ương.
Với cơ chế và chính sách mới, đã bước đầu mở rộng quyền tự chủ của các
cơ sở kinh tế, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho
mọi người được tự do sản xuất, kinh doanh theo pháp luật. Đã tích cực thực hiện
việc lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến của nhân dân tham gia xây dựng các chủ
trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chú ý nâng cao vai trò của các cơ
quan dân cử và các đoàn thể nhân dân. Các phương tiện thông tin đại chúng và
các hoạt động văn hoá, văn nghệ có một số đổi mới với nội dung phong phú hơn
trước, thảo luận công khai các ý kiến khác nhau, đấu tranh phê phán các hiện
tượng tham nhũng, tiêu cực, biểu dương những nhân tố mới.
Kết quả về thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội tuy mới là bước
đầu, còn nhiều hạn chế, nhưng đã góp phần quan trọng thúc đẩy công cuộc đổi
mới.
- Đã có những cố gắng trong việc làm trong sạch và nâng cao sức
chiến đấu của đội ngũ đảng viên.
Nhiều cấp uỷ và tổ chức đảng đã triển khai thực hiện Nghị quyết 04 của
Bộ Chính trị và Nghị quyết 05 của Ban Chấp hành Trung ương, tăng cường kiểm tra
đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng; thông qua tự phê bình và phê bình, lấy ý kiến
quần chúng để đánh giá, xem xét tư cách đảng viên; giải quyết nhiều vụ việc
tiêu cực, thư tố cáo cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng và pháp luật nhà
nước; bố trí lại đội ngũ cốt cán. Từ sau Đại hội VI đến tháng 12-1990 đã thi
hành kỷ luật 206.181 đảng viên, trong đó đưa ra khỏi Đảng 78.206 người.
Đợt củng cố, làm trong sạch Đảng trước Đại hội VII gắn với đấu tranh
chống tham nhũng được chỉ đạo tích cực hơn, đạt một số kết quả. Đại hội đảng bộ
hai cấp tiến hành vào cuối năm 1988 đầu năm 1989 và đại hội đảng bộ các cấp
tiến tới Đại hội VII vừa qua thật sự là các đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng
của toàn Đảng, góp phần quan trọng nâng cao ý thức đảng, ý thức trách nhiệm của
đông đảo cán bộ, đảng viên đối với sự nghiệp cách mạng.
Từ sau Đại hội VI đến nay, các tổ chức đảng đã kết nạp 303.237 đảng
viên mới, trong đó có 68,4% là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, góp
phần tăng thêm sức chiến đấu mới cho Đảng. Đến cuối năm 1990, toàn Đảng có
2.155.022 đảng viên, sinh hoạt trong 43.088 chi bộ và đảng bộ cơ sở (dưới đảng
uỷ cơ sở có 121.311 chi bộ).
Trải qua đấu tranh cách mạng lâu dài và hơn bốn năm tiến hành công cuộc
đổi mới, số đông đảng viên mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ chủ chốt từ trung ương
đến cơ sở đã thể hiện phẩm chất chính trị vững vàng trước mọi thử thách, nhất
là trước những biến động hết sức phức tạp của tình hình thế giới; đã kiên định
và quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Trình độ nhận thức lý luận
và thực tiễn của nhiều cán bộ, đảng viên đã được nâng lên thể hiện rõ trong
việc đóng góp ý kiến vào các văn kiện Đại hội VII ở đại hội đảng bộ các cấp vừa
qua. Những cán bộ, đảng viên và những tổ chức đảng năng động, sáng tạo trong
việc thực hiện nhiệm vụ, đã đóng góp cho Đảng những kinh nghiệm tốt, góp phần
bổ sung đường lối, chính sách của Đảng.
- Đã thực hiện một bước việc kiện toàn tổ chức và đổi mới cán bộ.
Trên cơ sở nhận thức mới về chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trong
hệ thống chính trị, nhất là trong điều kiện đổi mới chính sách và cơ chế quản
lý, đã tiến hành một bước việc đổi mới cán bộ các cấp, các ngành, sắp xếp lại
một số tổ chức, tinh giản biên chế, bỏ bớt một số khâu trung gian. ở nông thôn,
phù hợp với yêu cầu tổ chức lại sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp,
nhiều chi bộ đảng được sắp xếp lại theo địa bàn dân cư (thôn, xóm, ấp, bản) kết
hợp với tổ chức theo đơn vị sản xuất, công tác.
Đã có sự cải tiến nhất định trong quan hệ làm việc giữa Trung ương Đảng
với Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng và các đoàn thể; giữa cấp
uỷ đảng với cơ quan nhà nước và đoàn thể ở các cấp; khắc phục một phần tình
trạng cấp uỷ đảng bao biện làm thay công việc của các cơ quan nhà nước và đoàn
thể. Có tiến bộ nhất định trong lãnh đạo, quản lý ở tầm vĩ mô và phát huy quyền
chủ động của các đơn vị cơ sở.
Các cấp, các ngành đã chú ý bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ những kiến
thức, kinh nghiệm mới về lãnh đạo và quản lý. Đồng thời đã điều chỉnh, sắp xếp
lại nhiều cán bộ lãnh đạo và quản lý, tăng thêm một số cán bộ trẻ được đào tạo
cơ bản, có triển vọng; thay đổi nhiều cán bộ kém năng lực và phẩm chất không
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Chú trọng bố trí cán bộ trong các cơ quan nhà nước,
cho các chương trình kinh tế, các ngành và đơn vị trọng điểm. Đã có một số đổi
mới về quan điểm đánh giá cán bộ, cải tiến một bước sự phân công, phân cấp quản
lý cán bộ. Có tiến bộ hơn về thực hiện nguyên tắc tập thể, dân chủ trong bầu cử
và bổ nhiệm cán bộ.
Cần đánh giá đúng những kết quả và chuyển biến tích cực nêu trên và khẳng
định đó là mặt cơ bản. Đồng thời phải thấy hết những yếu kém và khuyết điểm thể
hiện tập trung nhất ở các mặt:
- Trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo của Đảng ở các cấp
nói chung còn thấp, chưa chuyển kịp theo yêu cầu đổi mới.
Vẫn còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh trong công cuộc đổi
mới chưa được làm sáng tỏ. Một số quan điểm và chủ trương lớn của Đảng chưa
được cụ thể hoá một cách đồng bộ. Trình độ các mặt của cán bộ, đảng viên, nhất
là trình độ và kinh nghiệm quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, lãnh đạo sản xuất
kinh doanh theo cơ chế quản lý mới còn nhiều mặt yếu. Sự nhất trí đối với một
số chủ trương, chính sách chưa cao. Trong Đảng vừa có những biểu hiện bảo thủ,
vừa có khuynh hướng nóng vội, bắt chước cách làm của nước khác; cũng có cả tư
tưởng dao động, cơ hội về chính trị.
- Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đổi mới còn chậm, cơ cấu
tổ chức còn nhiều bất hợp lý, bộ máy vẫn cồng kềnh, kém hiệu quả.
Chuyển sang thực hiện cơ chế mới, chúng ta lúng túng trong việc xác định
chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ và lề lối làm việc giữa Đảng với các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị, nhất là giữa Đảng với Nhà nước ở tất cả các cấp.
Nhiều cấp uỷ và tổ chức đảng vẫn còn ôm đồm bao biện công việc của chính quyền
và các đoàn thể, đồng thời lại có những biểu hiện buông lỏng và xem nhẹ vai trò
lãnh đạo của Đảng trên một số lĩnh vực và ở một số loại hình cơ sở (như xí
nghiệp, cơ quan, trường học...). Công tác quần chúng của Đảng chưa được quan
tâm đúng mức và chưa có sự đổi mới cơ bản.
Còn nhiều vướng mắc trong quan hệ lãnh đạo, quản lý giữa ngành và lãnh
thổ, trong việc xác định cơ cấu bộ máy hành chính các cấp, hệ thống tổ chức
đảng từ trung ương đến cơ sở và chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức
cơ sở đảng. Tổ chức bộ máy và biên chế các cơ quan đảng, nhà nước và đoàn thể ở
các cấp vẫn nặng nề. Việc tinh giản bộ máy đạt kết quả thấp do thiếu những
phương án tổng thể khoa học, thiếu biện pháp đồng bộ, chỉ đạo không tập trung,
kiên quyết. Số tổ chức cơ sở đảng yếu kém còn nhiều, có nơi mất sức chiến đấu.
- Đội ngũ cán bộ tuy có thay đổi khá nhiều nhưng chưa tạo ra chất
lượng mới, công tác cán bộ có nhiều khuyết điểm.
Số cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực đảm đương tốt nhiệm vụ trong thời
kỳ mới chưa nhiều, hoặc chưa được phát hiện và sử dụng hợp lý. Còn thiếu nhiều
cán bộ giỏi về quản lý nhà nước, quản lý sản xuất, kinh doanh và chuyên gia đầu
ngành. Vẫn còn tình trạng "hụt hẫng", lúng túng trong bố trí hạt nhân
lãnh đạo ở các cấp, kể cả ở cấp chiến lược. Đó là do công tác quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ làm chưa tốt; quản lý cán bộ chưa khoa học, nắm cán bộ
không chắc. Trong nhận xét, đánh giá, bố trí, đề bạt cán bộ, không ít trường
hợp còn theo quan điểm cũ, thiếu dân chủ, có khi còn lệ thuộc vào ý kiến của một
vài cán bộ có thẩm quyền. Tư tưởng cá nhân, cục bộ địa phương, phong kiến còn
nặng làm cho việc đánh giá, sử dụng cán bộ nhiều khi thiếu chính xác. Chưa có
cơ chế hợp lý để phát hiện và lựa chọn nhân tài, thay đổi, bãi miễn những cán
bộ không đủ phẩm chất hoặc năng lực đảm đương nhiệm vụ. Chậm đổi mới công tác
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo yêu cầu mới. Chính sách đãi ngộ cán
bộ còn nhiều bất hợp lý nhưng vẫn chưa được cải tiến một cách căn bản.
- Dân chủ trong Đảng còn hạn chế, kỷ luật không nghiêm, một số nơi
mất đoàn kết nghiêm trọng.
Không ít cấp uỷ và tổ chức đảng thiếu tôn trọng và phát huy quyền của
đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới. Không ít cán bộ lãnh đạo chưa quen với
những thông tin ngược chiều, không thích nghe ý kiến khác với ý kiến của mình.
Còn thiếu những cơ chế cụ thể có hiệu lực bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Có những quy định trong Điều lệ
Đảng, trong các quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương và các cấp uỷ không
được chấp hành nghiêm túc. Hiện tượng cán bộ lãnh đạo độc đoán, mệnh lệnh, trù
dập, ức hiếp quần chúng còn xảy ra ở một số nơi, có khi rất trắng trợn. Trong
khi tình trạng mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức còn nặng thì những biểu hiện
dân chủ cực đoan, tự do vô kỷ luật cũng không ít. Tệ bè cánh, mất đoàn kết ở
một số cấp uỷ và cơ quan lãnh đạo rất nghiêm trọng. Công tác tư tưởng, công tác
kiểm tra chưa thường xuyên và chặt chẽ, nhiều lúc thiếu sắc bén, kịp thời, còn
hữu khuynh trong đấu tranh chống tiêu cực và các quan điểm sai trái, lệch lạc.
Vẫn còn tình trạng "ô dù" bao che lẫn nhau làm cho việc xử lý cán bộ,
đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước không nghiêm, còn "nhẹ
trên, nặng dưới", để các hiện tượng tiêu cực phát triển, gây thắc mắc, bất
bình trong Đảng và trong nhân dân.
- Nhiều đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, một bộ phận đã tha hoá,
tham nhũng, xa dân, làm giảm sút nghiêm trọng uy tín của Đảng.
Trong đội ngũ đảng viên, bộ phận thực sự tiền phong gương mẫu, đáp ứng
được yêu cầu của công cuộc đổi mới cả về năng lực, phẩm chất chiếm tỷ lệ chưa
cao. Là một Đảng có lịch sử đấu tranh trên 60 năm, số đảng viên là người hưu
trí đã chiếm 23% tổng số đảng viên; nhiều đồng chí có phẩm chất chính trị vững
vàng, vẫn tích cực tham gia sinh hoạt và công tác, nhưng hạn chế về sức khoẻ và
khả năng hoạt động. Một bộ phận đảng viên, tuổi chưa cao, được rèn luyện trong
chiến đấu, đã phát huy vai trò tích cực trong chiến tranh, nhưng ít có điều
kiện học tập, nâng cao trình độ, nay không theo kịp nhiệm vụ mới.
Nhiều đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, phai nhạt lý tưởng, không phát
huy được vai trò tích cực trong quần chúng. Tình trạng cán bộ, đảng viên vi
phạm các nguyên tắc quản lý hoặc lợi dụng những sơ hở trong cơ chế quản lý để
lấy cắp của công, ăn hối lộ, buôn lậu, làm giàu bất chính, vi phạm đạo đức, lối
sống cách mạng có chiều hướng tăng lên, nhất là trong cán bộ hoạt động sản xuất
kinh doanh, quản lý nhà nước và ngay cả trong một số cơ quan bảo vệ pháp luật,
cơ quan đảng và đoàn thể.
Tình trạng yếu kém nói trên có nhiều nguyên nhân, chủ yếu là:
- Chúng ta tiến hành xây dựng Đảng trong tình hình đất nước có rất
nhiều khó khăn với hậu quả nặng nề của chiến tranh và cơ chế quản lý tập trung
quan liêu bao cấp kéo dài. Chủ nghĩa xã hội và nhiều đảng cộng sản trên thế
giới lâm vào khủng hoảng toàn diện và sâu sắc nhất từ trước tới nay đã tác động
mạnh mẽ đến nước ta. Chúng ta còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm khi chuyển
sang giai đoạn cách mạng mới. Cơ chế quản lý kinh tế -xã hội chưa đồng bộ và có
nhiều sơ hở, chính sách tiền lương còn nhiều bất hợp lý, làm cho công tác xây
dựng đảng về tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ gặp nhiều khó khăn.
- Đảng chưa đặt đúng tầm quan trọng của việc chỉnh đốn Đảng theo Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chưa coi trọng đúng mức việc nghiên cứu lý luận
và tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và xây dựng Đảng trong điều
kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Một số
cấp uỷ đảng và cán bộ lãnh đạo chưa coi trọng đúng mức công tác xây dựng đảng,
không chăm lo đầy đủ công tác giáo dục, rèn luyện đảng viên theo phương hướng
tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng. Một bộ phận
cán bộ, đảng viên, kể cả không ít cán bộ lãnh đạo cao cấp, trung cấp thiếu sự
tu dưỡng, rèn luyện, học tập để vươn lên.
- Sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, trước hết là của Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với công tác xây dựng đảng, nhất là đối với
việc chấp hành Điều lệ Đảng, thực hiện Nghị quyết 05 của Ban Chấp hành Trung
ương, Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị và một số chủ trương lớn về tổ chức cán bộ
tuy đã có nhiều cố gắng nhưng chưa tập trung, kiên quyết và đồng bộ, thiếu kiểm
tra, đôn đốc, tổng kết rút kinh nghiệm, nhiều khi khoán trắng công việc này cho
các ban chuyên môn về xây dựng đảng. Chưa gắn chặt công tác xây dựng đảng với
việc cải cách bộ máy nhà nước và đổi mới công tác quần chúng.
Các cấp uỷ chưa tích cực chỉ đạo việc củng cố và đổi mới các cơ quan
tham mưu và nghiên cứu về xây dựng đảng, nhất là đổi mới tư duy và phương thức
công tác. Các ban của Đảng, các cơ quan nghiên cứu, các trường đảng ở cả trung
ương và địa phương còn có những biểu hiện quan liêu, bảo thủ, trì trệ, chưa nỗ
lực vươn lên nâng cao chất lượng công tác của mình đáp ứng yêu cầu của tình
hình mới.
Phần thứ hai
NHIỆM VỤ ĐỔI MỚI VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG
THỜI GIAN TỚI
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong bối cảnh quốc tế, trong nước
và tình hình Đảng ta hiện nay đòi hỏi Đảng nhất thiết phải tự
đổi mới, tự chỉnh đốn. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng và cấp bách, có ý
nghĩa quyết định đối với sự thành công của sự nghiệp đổi mới, sự ổn định và
phát triển của đất nước và đối với vận mệnh của bản thân Đảng. Đây cũng là
nguyện vọng và đòi hỏi của nhân dân.
Phương hướng cơ bản của việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng là:
Phát huy truyền thống cách mạng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính
tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, gắn liền với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, cải cách bộ máy
nhà nước, đổi mới công tác quần chúng, bảo đảm cho Đảng ta - đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc - làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Theo phương hướng trên đây, dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) trong phần
mở đầu đã khẳng định những vấn đề cơ bản về Đảng và xây dựng đảng với
những nội dung cơ bản như sau:
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí
tuệ của dân tộc và của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn của
đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp
với yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh theo con
đường xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Đảng giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, kết hợp sự
kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách
lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới.
Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân, ủng hộ sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân
dân và thường xuyên chịu sự giám sát của nhân dân, đoàn kết và lãnh đạo nhân
dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời
là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà
nước, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật, chống quan liêu, lạm quyền, đặc quyền đặc lợi.
Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ
làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện lãnh đạo tập thể và cá nhân phụ trách,
tự phê bình và phê bình, giữ vững đoàn kết, thống nhất trong Đảng trên cơ sở Cương
lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ
hội, chống mọi biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, cục bộ, địa phương, chia rẽ,
bè phái trong Đảng. Trong tình hình hiện nay, việc khẳng định những vấn đề cơ
bản trên đây có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bảo đảm cho việc đổi mới và chỉnh
đốn Đảng không đi chệch những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng.
Yêu cầu đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong những năm tới là:
Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực
lãnh đạo chính trị; đổi mới một bước cơ bản nội dụng và phương thức lãnh đạo
của Đảng; bảo đảm dân chủ, giữ gìn kỷ luật, tăng cường đoàn kết thống nhất
trong Đảng; làm trong sạch và nâng cao chất lượng đảng viên; khắc phục có hiệu
quả các hiện tượng tiêu cực, đặc biệt là tệ tham nhũng, khôi phục và nâng cao
lòng tin của nhân dân đối với Đảng; chấn chỉnh tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán
bộ; làm cho Đảng có bản lĩnh chính trị, có kiến thức, năng lực và sức chiến đấu
mới, đủ sức đoàn kết lãnh đạo toàn dân vượt mọi khó khăn, thử thách, phấn đấu
thực hiện có kết quả các nghị quyết của Đại hội VII.
Để đạt được những yêu cầu trên, cần làm tốt những nhiệm vụ chủ yếu
dưới đây:
Một là, phải tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao trình độ trí
tuệ và năng lực lãnh đạo chính trị của Đảng. Đây là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu.
Phát triển công tác lý luận gắn với tổng kết thực tiễn, chú trọng tổng
kết những cái mới đang hằng ngày nảy sinh trong đời sống đất nước và trên thế
giới.
Tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt
là về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; quán triệt, phát triển, cụ
thể hoá Cương lĩnh chính trị, Chiến lược kinh tế - xã hội và các văn kiện khác
của Đại hội một cách đúng đắn, có căn cứ khoa học, đưa công cuộc đổi mới đi vào
chiều sâu. Nghiên cứu có hệ thống tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Kịp thời nắm bắt, dự báo và giải đáp những vấn đề mới xuất hiện ở trong nước và
quốc tế.
Chấn chỉnh hệ thống thông tin, bảo đảm cho cấp uỷ đảng, đặc biệt là cấp
trung ương có điều kiện tiếp cận được những vấn đề mới nhất về lý luận và thực
tiễn. Cải tiến quy trình chuẩn bị nghị quyết, ra nghị quyết, tổ chức và kiểm
tra việc thực hiện nghị quyết, làm cho các nghị quyết thật sự phản ánh được trí
tuệ tập thể của Đảng, của nhân dân và được thực hiện đến nơi đến chốn. Có biện
pháp và tổ chức thích hợp bảo đảm cho cán bộ, đảng viên, các chuyên gia, các
nhà khoa học trong và ngoài Đảng phát huy mọi sáng kiến và sự suy nghĩ độc lập,
tích cực tham gia vào các quá trình trên. Đối với những vấn đề mới và khó, hoặc
còn nhiều ý kiến khác nhau cần chuẩn bị nhiều phương án để cân nhắc, thực hiện
chế độ làm thử, rút kinh nghiệm trước khi ra nghị quyết.
Các cơ quan tham mưu, cơ quan nghiên cứu giúp cấp uỷ chuẩn bị nghị
quyết phải được kiện toàn, bao gồm những cán bộ và chuyên gia có phẩm chất
chính trị và kiến thức khoa học, am hiểu thực tế, có khả năng tư duy độc lập,
phân tích tổng hợp, biết lắng nghe các ý kiến khác nhau, tiếp thu những ý kiến
đúng.
Hai là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng,
bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng, nâng cao trình độ kiến thức của cán bộ, đảng
viên và nhân dân.
Công tác chính trị tư tưởng có nhiệm vụ làm cho thế giới quan Mác -
Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh thấm nhuần trong Đảng và giữ vị trí chỉ
đạo trong đời sống tinh thần xã hội; nâng cao ý chí phấn đấu, xây dựng niềm tin
vững chắc vào con đường xã hội chủ nghĩa, đấu tranh không khoan nhượng với các
luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, xuyên tạc đường lối, chính sách của
Đảng; xây dựng phương pháp tư duy khoa học, chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa
kinh nghiệm và chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc. Khắc phục những biểu hiện bi
quan dao động, giảm sút ý chí phấn đấu, bảo thủ trì trệ, chủ quan nóng vội. Đặc
biệt chú trọng giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ.
Bảo vệ và phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng của Đảng, của
giai cấp công nhân và của dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân
loại. Phê phán tư tưởng coi nhẹ hoặc phủ định truyền thống và thành quả cách
mạng của Đảng và nhân dân. Nâng cao kiến thức và năng lực tổ chức thực tiễn cho
cán bộ, đảng viên, gắn liền với đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, không ngừng nâng
cao dân trí.
Bồi dưỡng đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc
đấu tranh chống tiêu cực trong Đảng và trong xã hội. Chống sự tha hoá về phẩm
chất chính trị, xa rời quần chúng, tham nhũng, làm ăn bất chính, chạy theo tiền
tài, danh vị, chia rẽ bè phái. Chống việc phục hồi các hủ tục, mê tín, dị đoan.
Nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, không mơ hồ về bản chất của chủ
nghĩa đế quốc và các lực lượng chống chủ nghĩa xã hội. Kịp thời đấu tranh chống
những luận điệu chiến tranh tâm lý, phản tuyên truyền của các thế lực thù địch
và những phần tử xấu. Tăng cường công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới mạnh mẽ phương pháp công tác tư tưởng, có nhiều hình thức thiết
thực, sinh động, phù hợp với từng đối tượng.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác thông tin, báo chí, xuất bản,
văn hoá, văn nghệ. Bố trí đúng và nâng cao trách nhiệm của những cán bộ phụ
trách các cơ quan này.
Tăng cường và từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất - kỹ thuật của các
cơ quan làm công tác tư tưởng. Có chính sách tài chính đúng đắn đối với các
hoạt động báo chí, xuất bản, thông tin cổ động, văn hoá, văn nghệ, giáo dục lý
luận, nghiên cứu khoa học.
Ba là, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hệ thống chính trị, trước hết là đối với Nhà nước; đổi mới công tác
quần chúng của Đảng.
- Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, chiến lược, cách định
hướng về chính sách và những chủ trương công tác, lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá
thành hiến pháp, pháp luật, chính sách, trên cơ sở đó Nhà nước quản lý, điều
hành mọi mặt đời sống xã hội.
Đảng kiểm tra và giám sát việc thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng
thông qua hoạt động của đảng viên và tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước và
dựa vào ý kiến của nhân dân.
Đảng chăm lo công tác cán bộ, bồi dưỡng, lựa chọn cán bộ đưa ra ứng cử
vào các cơ quan dân cử, hoặc giới thiệu với Nhà nước để đề bạt, bổ nhiệm vào
các cương vị chủ chốt ở các ngành, các cấp. Đảng tôn trọng cơ chế của Nhà nước
về bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, không gò ép, áp đặt.
Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh thực sự là
Nhà nước của dân, do dân, vì dân, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất
quyền lực, phân công phân nhiệm rõ ràng.
Đảng lãnh đạo bằng công tác tư tưởng, tổ chức, vai trò tiên phong,
gương mẫu của đảng viên và tổ chức đảng (như đảng đoàn, ban cán sự, tổ chức cơ
sở đảng).
Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không bao biện làm thay công việc của Nhà
nước. Đảng viên công tác trong cơ quan nhà nước phải nghiêm chỉnh chấp hành
nghị quyết của Đảng, làm tròn nhiệm vụ Đảng giao, gương mẫu thực hiện nghĩa vụ
công dân, tuân theo pháp luật, không được lợi dụng chức quyền làm điều sai
trái, giành đặc quyền, đặc lợi.
- Trong điều kiện lãnh đạo chính quyền, Đảng đặc biệt coi trọng đổi
mới công tác quần chúng của Đảng theo quan điểm: cách mạng là sự nghiệp của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật
thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân, làm suy yếu sức mạnh
của Đảng, của cách mạng sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận
mệnh của đất nước.
Đường lối, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng
chân chính của nhân dân. Tạo mọi điều kiện để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân. Khắc phục tình trạng vi phạm dân chủ, dân chủ hình thức; đồng thời chống
dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối trong xã hội.
Các tổ chức đảng từ trung ương đến cơ sở phải lấy công tác vận động
quần chúng và lãnh đạo công tác của các đoàn thể làm một nội dung thường xuyên
trong hoạt động của mình. Cán bộ lãnh đạo phải thường xuyên đi sát cơ sở, đi
sát nhân dân, trực tiếp trao đổi ý kiến với nhân dân, học hỏi kinh nghiệm sáng
tạo của nhân dân.
Đảng tôn trọng tính tự chủ về tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân, hướng dẫn và tạo điều kiện cho mặt trận và các đoàn
thể, nhất là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên đoàn Lao động, Hội
Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ...đổi mới nội dung và phương thức hoạt động đúng
hướng, đạt hiệu quả. Đảng lắng nghe và trân trọng ý kiến đóng góp của Mặt trận
và các đoàn thể đối với sự lãnh đạo của Đảng và cán bộ, đảng viên, khuyến khích
các đoàn thể chủ động đóng góp ý kiến xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng
và pháp luật của Nhà nước.
Bốn là, bảo đảm dân chủ, giữ gìn kỷ luật, tăng cường đoàn
kết thống nhất trong Đảng.
Có nhận thức đúng đắn và thống nhất về yêu cầu, nội dung dân chủ và
nguyên tắc tập trung dân chủ; đồng thời có cơ chế bảo đảm thực
hiện những nội dung đó. Dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) lần này có bổ sung
một số quy định chính là nhằm tạo ra cơ chế đó.
Trước hết, phải bảo đảm thực hiện các quyền của đảng viên, nhất
là quyền được thảo luận một cách thẳng thắn các vấn đề đường lối, chính sách
của Đảng, quyền được phê bình, chất vấn trong phạm vi tổ chức về hoạt động của
tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp. Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) nhấn mạnh quyền
được thông tin, quyền được bảo lưu ý kiến của đảng viên. Những quy định trên
tạo điều kiện khắc phục tình trạng cấp uỷ vi phạm quyền của đảng viên, còn đảng
viên thì thụ động tiêu cực.
Để tăng cường sự kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của
cấp uỷ, dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) yêu cầu phải thực hiện đúng
các quy định về triệu tập đại hội thường lệ và đại hội bất thường, kể cả ở cơ
sở. Đồng thời đề nghị tăng thêm quyền của hội nghị đại biểu: hội nghị đại biểu
được triệu tập giữa hai kỳ đại hội; hội nghị đại biểu có thẩm quyền bổ sung
nghị quyết của đại hội cho phù hợp với tình hình mới trên cơ sở Cương lĩnh
chính trị, đường lối của Đảng, nghị quyết của cấp trên; bầu bổ sung uỷ viên ban
chấp hành; nghị quyết của hội nghị đại biểu, kể cả ở cấp trung ương, không phải
thông qua ban chấp hành.
Trong Đảng từ trung ương đến cơ sở phải chấp hành nghiêm túc các quy
định về chế độ báo cáo, chế độ tự phê bình và phê bình. Các cơ quan được bầu
phải chịu sự giám sát của tổ chức đảng và đảng viên, phải báo cáo hoạt động
trước cơ quan đã bầu ra mình, thường xuyên thông báo tình hình và hoạt động của
mình đến các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Thực hiện chế độ Ban Chấp hành
Trung ương kiểm tra, giám sát hoạt động của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; các cấp
uỷ kiểm tra, giám sát hoạt động của ban thường vụ: các uỷ viên Bộ Chính trị, uỷ
viên thường vụ các cấp tự phê bình trước ban chấp hành. Quy định cụ thể chế độ
cấp trên tự phê bình trước cấp dưới và tổ chức việc phê bình từ dưới lên. Thực
hiện đều đặn chế độ quần chúng phê bình cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Cán
bộ lãnh đạo phải gương mẫu tự phê bình và tiếp thu phê bình. Nghiêm cấm việc
trù dập người phê bình thẳng thắn; đồng thời kiên quyết xử lý những kẻ lợi dụng
phê bình để đả kích cá nhân, vu cáo, chia rẽ.
Để nâng cao vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của uỷ ban kiểm tra
các cấp, dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị quy định: uỷ ban kiểm tra có
chức năng kiểm tra việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng,
kiểm tra việc chấp hành quy chế làm việc của tổ chức đảng cấp dưới, kiểm tra
việc giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng của đảng viên, xem xét và xử lý kỷ
luật các tổ chức đảng và đảng viên theo đúng quy định của Điều lệ Đảng.
Năm là, làm trong sạch Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên.
Đảng viên phải làm tròn những nhiệm vụ đảng viên ghi trong Điều
lệ Đảng. Trong giai đoạn cách mạng mới cần nhấn mạnh: đảng viên phải có phẩm
chất chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của
Đảng, có thái độ tích cực đối với công cuộc đổi mới, đồng thời phải có trình độ
trí tuệ, năng lực lãnh đạo để thực hiện nhiệm vụ đổi mới.
Trong cuộc đấu tranh để xoá bỏ nghèo nàn lạc hậu, thực hiện dân giàu,
nước mạnh, đảng viên hoạt động trong các thành phần kinh tế phải nêu được vai
trò tiền phong, gương mẫu; bằng lao động sáng tạo, có năng suất và chất lượng
cao của mình góp phần tích cực vào việc phát triển lực lượng sản xuất, giải
quyết việc làm cho người lao động, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, trong
đó có bản thân và gia đình mình. Đảng viên làm kinh tế phải gương mẫu chấp hành
luật pháp, chính sách của Nhà nước, có lối sống lành mạnh và giữ được quan hệ
tốt với quần chúng.
Đảng viên là công nhân, viên chức tại chức, ngoài việc hoàn thành nhiệm
vụ công tác, được khuyến khích phát triển kinh tế gia đình. Đảng viên được góp
cổ phần vào các công ty, xí nghiệp quốc doanh, tập thể. Đảng viên không ở trong
biên chế của các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, bản thân trực tiếp lao động
(lao động chân tay, lao động kỹ thuật, lao động quản lý) được đứng ra tổ chức
các đơn vị kinh tế tập thể (tổ sản xuất, hợp tác xã...); được đấu thầu, nhận
khoán đất đai, thuê tài sản của Nhà nước, của tập thể để tổ chức kinh doanh;
được làm kinh tế cá thể, tiểu chủ. Đảng viên không được làm kinh tế tư bản tư
nhân; đối với những trường hợp đặc biệt thì tổ chức đảng sẽ xem xét giải quyết
từng trường hợp cụ thể theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đội ngũ đảng
viên, cần có kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng nâng cao giác ngộ lý tưởng xã hội
chủ nghĩa và trình độ mọi mặt của đảng viên. Thực hiện nền nếp phân công đảng
viên, kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng và nhiệm vụ được giao. Thông
qua công tác thực tế, qua phong trào quần chúng để giáo dục, rèn luyện đảng
viên. Biểu dương, khuyến khích và phát huy vai trò tích cực của những đảng viên
tiên phong gương mẫu, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Chú trọng bồi dưỡng các
đảng viên mới, đảng viên trẻ.
Đối với những đảng viên già yếu, không trực tiếp sản xuất, công tác, tổ
chức đảng cần có hình thức sinh hoạt thích hợp và phân công hợp lý để các đồng
chí thuận tiện trong sinh hoạt đảng và tiếp tục đóng góp vào công việc chung.
Những đồng chí già yếu, ốm đau lâu ngày, tự nguyên xin miễn công tác và sinh
hoạt đảng, thì chi bộ xem xét quyết định.
Đối với những đảng viên tự nguyện xin ra Đảng vì những lý do khác nhau
(không phải là do vi phạm kỷ luật của Đảng), thì chi bộ xem xét, chấp nhận và
báo cáo lên cấp uỷ có thẩm quyền để kiểm tra lại. Đảng trân trọng ghi nhận
những cống hiến của đảng viên và giữ mối liên hệ tốt với các đồng chí ấy.
Đối với những đảng viên trình độ hạn chế, nhưng vẫn gắn bó với Đảng, tổ
chức đảng cần tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện để các đồng chí đó làm tốt nhiệm
vụ đảng viên.
Kiên quyết làm trong sạch đội ngũ đảng viên.
Thông qua công tác kiểm tra của Đảng và dựa vào quần chúng để nhận xét, đánh
giá đúng đảng viên, đưa ra khỏi Đảng những người không còn tư cách đảng viên,
trước hết là những đảng viên thoái hoá, biến chất, tham nhũng, cơ hội, gây chia
rẽ, bè phái, trù dập, ức hiếp quần chúng, bị quần chúng oán ghét. Kịp thời xử
lý bằng những hình thức kỷ luật thích hợp đối với những đảng viên vi phạm kỷ
luật Đảng, dù đảng viên đó là cán bộ lãnh đạo ở bất cứ cấp nào.
Xoá tên trong danh sách đảng viên những người không thiết tha với Đảng,
giảm sút ý chí phấn đấu, không tích cực làm nhiệm vụ đảng viên, không còn tín
nhiệm trong quần chúng và những đảng viên bỏ sinh hoạt đảng hoặc không đóng
đảng phí 3 tháng trong năm mà không có lý do chính đáng. Một số trường hợp xét
còn có thể giúp đỡ để tiến bộ thì định thời hạn để những đảng viên đó phấn đấu
và tổ chức đảng phải có kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng; nếu hết thời hạn mà không
tiến bộ thì cũng xoá tên trong danh sách đảng viên, hoặc khuyên rút ra khỏi
Đảng. Đây là việc phải tập trung chỉ đạo thực hiện tốt để khắc phục "sức
ỳ" lớn trong đảng hiện nay, từ đó nâng cao sức chiến đấu của đội ngũ đảng
viên.
Chỉ đạo chặt chẽ công tác kết nạp đảng viên mới nhằm
tăng thêm năng lực và trí tuệ mới, trẻ hoá đội ngũ, từng bước khắc phục tình
trạng tỉ lệ đảng viên quá thấp ở một số đơn vị (như xí nghiệp, trường học, cơ
sở tiểu, thủ công nghiệp) và một số vùng (như vùng đồng bào dân tộc, vùng tôn
giáo). Coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng, đề phòng bọn cơ hội tìm
cách vào Đảng.
Chăm lo bồi dưỡng, kết nạp vào Đảng những người ưu tú trong công nhân,
nông dân, trong trí thức, trong lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân lao
động khác. Tuỳ theo hoàn cảnh từng nơi, tỉnh uỷ, thành uỷ có thể quy định trình
độ học vấn đối với người kết nạp vào Đảng. Đặc biệt coi trọng kết nạp những
thanh niên nam nữ ưu tú vào Đảng. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phải
được các cấp uỷ đảng coi trọng giúp đỡ xây dựng để xứng đáng là đội dự bị tin
cậy của Đảng, hạt nhân nòng cốt của phong trào thanh niên và là lực lượng kế
tục sự nghiệp cách mạng của dân tộc và của Đảng. Phải đặt công tác xây dựng
đoàn trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với công tác xây dựng đảng.
Sáu là, củng cố các tổ chức cơ sở đảng và các cấp uỷ đảng.
Theo yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới nội dung và phương thức
lãnh đạo, phải nghiên cứu sắp xếp lại tổ chức của Đảng. Tổ chức cơ sở
đảng được lập theo đơn vị cơ sở hành chính, kinh tế hoặc công tác, đặt dưới sự
lãnh đạo của cấp uỷ địa phương. Không tổ chức đảng theo ngành dọc, trừ đảng bộ
quân đội theo quy định của Điều lệ Đảng và một số ngành công tác đặc biệt do
Trung ương quy định; nhưng cần tăng cường mối quan hệ giữa cấp uỷ địa phương và
cơ quan lãnh đạo ngành trong chỉ đạo các hoạt động có liên quan ở cơ sở. Trong
một số trường hợp nhất định, nếu được sự đồng ý của Trung ương, các tỉnh uỷ,
thành uỷ có thể thành lập một số đảng uỷ (hoặc ban cán sự đảng) cấp trên của
những tổ chức cơ sở chưa thể giao về trực thuộc các quận uỷ, huyện uỷ. Một số
tổ chức cơ sở đảng trong các viện nghiên cứu, trường đại học, công ty, xí
nghiệp lớn có thể đặt trực thuộc các tỉnh uỷ, thành uỷ. Sắp xếp lại và củng cố
tổ chức, tăng cường hoạt động của các đảng uỷ khối các cơ quan trung ương. Tất
cả các đảng bộ cơ sở và cấp trên của cơ sở đóng trên địa bàn lãnh thổ và những
đảng viên thuộc các đảng bộ này đều có trách nhiệm tham gia công tác xã hội,
công tác vận động quần chúng ở địa phương theo hướng dẫn của cấp uỷ địa phương.
Các tổ chức cơ sở đảng thuộc các loại hình
khác nhau như nông thôn, xí nghiệp, trường học, cơ quan, viện nghiên cứu, đơn
vị quân đội, công an... đều phải được củng cố để thật sự phát huy vai trò lãnh
đạo trong đơn vị. Căn cứ vào nhiệm vụ chung của tổ chức cơ sở đảng trong dự
thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) cần sớm cụ thể hoá nhiệm vụ, chức trách, phương
thức lãnh đạo của từng loại hình cơ sở đảng.
Cải tiến sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ. Mọi đảng viên, kể cả
đảng viên là cán bộ lãnh đạo, phải thực hiện tốt những nhiệm vụ do chi bộ phân
công, phải chịu sự giám sát của chi bộ về ý thức chấp hành đường lối, chính
sách, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng và về đạo đức, lối sống, quan hệ với
quần chúng ở nơi làm việc và nơi ở. Đảng uỷ cấp trên cần chỉ đạo chặt chẽ việc
kiện toàn tổ chức cơ sở đảng. Thu hẹp diện cơ sở yếu kém. Tổng kết để phổ biến
kinh nghiệm của những tổ chức cơ sở đảng vững mạnh. Đặc biệt chú trọng bồi
dưỡng, bố trí đội ngũ cốt cán. Nâng cao chất lượng cán bộ đảng chuyên trách;
bồi dưỡng bí thư đảng uỷ và đảng viên đủ tiêu chuẩn để giới thiệu vào các cương
vị lãnh đạo và quản lý ở cơ sở.
Một công việc hết sức quan trọng là phải nâng cao chất lượng cấp uỷ
đảng từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
theo những tiêu chuẩn cấp uỷ viên đã nêu trong dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi),
bảo đảm tập trung trí tuệ của toàn Đảng, của mỗi đảng bộ. Nâng cao năng lực
lãnh đạo của cấp uỷ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp. Thực hiện đổi
mới, nâng cao chất lượng của cấp uỷ qua mỗi kỳ đại hội và bảo đảm tính kế thừa
trong cơ quan lãnh đạo. Kịp thời thay đổi, rút ra khỏi cấp uỷ những người giảm
sút tín nhiệm do năng lực và phẩm chất kém, không chờ đến hết nhiệm kỳ, bổ sung
cấp uỷ viên khi có yêu cầu theo quy định của Điều lệ Đảng. Xây dựng và thực
hiện nghiêm túc các quy chế làm việc của cấp uỷ từ trung ương đến cơ sở.
Bảy là, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ
cán bộ đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và kế tục sự nghiệp cách mạng.
Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng.
Mục tiêu của công tác cán bộ là
xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ và có chất lượng, mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ
chủ chốt của các ngành, các cấp và cơ sở, trước hết là đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược, có đủ phẩm chất và năng lực, bảo đảm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ
của 5 năm tới và sự vững vàng của Đảng trước mọi khó khăn, thử thách, đồng thời
tích cực chuẩn bị cán bộ cho những năm tiếp theo.
Tiêu chuẩn cơ bản của cán bộ lãnh đạo trong
giai đoạn hiện nay là: có bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức trách nhiệm
và tinh thần đổi mới; trung thực và thẳng thắn; có kiến thức và năng lực tổ
chức thực tiễn; có tinh thần học tập để không ngừng nâng cao trình độ; có lối
sống lành mạnh, được nhân dân tín nhiệm. Trên cơ sở xác định tiêu chuẩn cơ bản
của cán bộ lãnh đạo và quản lý, cần khẩn trương xây dựng tiêu chuẩn cán bộ theo
từng chức danh ở các cấp, các ngành.
Xúc tiến và đổi mới công tác quy hoạch cán bộ, tích cực đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo của Đảng, cán bộ quản
lý nhà nước, cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh, chuyên gia trên các lĩnh vực
theo yêu cầu thiết thực của công cuộc đổi mới, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu và
cấp bách của công tác cán bộ. Sắp xếp lại hệ thống trường lớp; cải cách nội
dung và quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Trong bố trí, sử dụng cán bộ phải thể hiện rõ quan điểm đổi
mới. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ và căn cứ vào tiêu chuẩn cán
bộ để bố trí, sử dụng cán bộ. Phải lấy kết quả thực tế thực hiện nhiệm vụ được
giao làm căn cứ chủ yếu để nhận xét, đánh giá cán bộ; không đơn thuần theo quá
trình, bằng cấp, học vị, tuổi tác. Kiên quyết bãi miễn và đưa ra khỏi cương vị
lãnh đạo và quản lý ở mọi cấp những cán bộ kém phẩm chất và năng lực, không đảm
đương được nhiệm vụ. Bố trí lại những cán bộ phân công không hợp lý. Mạnh dạn
đề bạt cán bộ trẻ có đủ tiêu chuẩn và có triển vọng. Không điều chuyển cán bộ
từ ngành này, vị trí này sang ngành khác, vị trí khác nếu những cán bộ đó không
phù hợp với nhiệm vụ được giao.
Xoá bỏ quan niệm hễ là cấp uỷ viên thì bố trí làm cán bộ lãnh đạo ở
ngành nào, ở đơn vị nào cũng được, không kể năng lực có phù hợp không. Quan tâm
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng tốt đội ngũ trí thức, đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ dân
tộc thiểu số, cán bộ xuất thân là công nhân. Đoàn kết, sử dụng hợp lý mọi lực
lượng cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng; không hẹp hòi, định kiến về lý lịch và
thành phần xuất thân. Kịp thời phát hiện những cán bộ trẻ, có tài, đồng thời
biết sử dụng có hiệu quả những cán bộ lớn tuổi đã từng trải, có kinh nghiệm.
Chống tư tưởng phong kiến gia trưởng, cục bộ địa phương trong công tác cán bộ.
Từng bước hình thành các cơ chế phát hiện, tuyển chọn, đề bạt và bãi
miễn cán bộ một cách khoa học và có hiệu quả. Làm đúng các quy định và quy
trình dân chủ, tôn trọng ý kiến của cấp dưới và tập thể, không áp đặt ý kiến cá
nhân. Rút kinh nghiệm để làm tốt việc thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các
đơn vị kinh tế, sự nghiệp...
Sửa đổi các chính sách, chế độ đãi ngộ cán bộ, xoá bỏ các chế độ
chính sách mang tính bình quân, bao cấp và những quy định có tính đặc quyền,
đặc lợi. Có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với những cán bộ có tài, có cống
hiến xuất sắc, cán bộ có nhiều công lao với Tổ quốc, cán bộ cơ sở, kể cả cán bộ
trong và ngoài Đảng. Sớm cải tiến chế độ tiền lương và các chính sách, chế độ
xã hội khác. Thực hiện đúng đắn chính sách, chế độ đối với cán bộ hoạt động lâu
năm, cán bộ hưu.
Tăng cường sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và nâng cao
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể đối với công tác cán bộ. Cán
bộ lãnh đạo chủ chốt ở mỗi cấp, mỗi ngành phải đích thân chăm lo công tác cán
bộ và khắc phục bệnh chủ quan, thiếu công tâm trong công tác cán bộ để làm tốt
công tác quan trọng này. Kiện toàn các cơ quan tham mưu các cấp về công tác cán
bộ, không để những cán bộ không vững vàng về chính trị, không trung thực, kém
phẩm chất và năng lực làm công tác cán bộ.
*
* *
Công tác xây dựng đảng vốn đã quan trọng, lúc này càng hết sức quan
trọng. Vì vậy trong thời gian tới việc đổi mới và chỉnh đốn đảng phải được chỉ
đạo một cách kiên quyết, có bước đi vững chắc, làm từ trung ương đến cơ sở,
bằng nhiều biện pháp đồng bộ, gắn với quá trình đổi mới cơ chế quản lý, tăng
cường hệ thống chính trị, cải cách bộ máy nhà nước, dựa vào nhân dân, thông qua
phong trào cách mạng của nhân dân để đổi mới, chỉnh đốn Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương cần có kế hoạch cụ thể để chỉ đạo thực hiện có
hiệu quả các quyết định của Đại hội về công tác xây dựng đảng và Điều lệ Đảng,
tạo ra một bước chuyển biến quan trọng về đổi mới và chỉnh đốn đảng trong 5 năm
tới. Đồng thời xúc tiến tổng kết công tác xây dựng đảng trong các thời kỳ, nhất
là trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, góp phần nâng cao trình độ lý luận về xây
dựng đảng và hoàn chỉnh lịch sử Đảng.
Đại
hội VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. ý nghĩa lịch sử của Đại hội VI là
đã phân tích đúng đắn nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội từ nhiều năm trước, đề ra các định hướng lớn để từng bước
thoát khỏi tình trạng đó.
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, những diễn biến quốc
tế phức tạp đã tác động xấu đến tình hình chính trị, kinh tế và xã hội nước ta.
Nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực khắc phục khó khăn, kiên trì tìm
tòi, khai phá con đường đổi mới chưa có một khuôn mẫu cho trước, từng bước đưa
đường lối Đại hội VI đi vào cuộc sống. Mặc dù tình hình còn nhiều khó khăn, kết
quả đạt được xác định khả năng tự đổi mới của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam .
Đại hội VII của Đảng có nhiệm vụ tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại
hội VI, đánh giá những việc làm được, những việc có thể làm nhưng chưa làm
được, những vấn đề mới nảy sinh, chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân
và kinh nghiệm trên các lĩnh vực chủ yếu. Trên cơ sở đó, hoàn chỉnh, bổ sung và
phát triển các chủ trương đổi mới của Đại hội VI, đề ra các phương hướng, nhiệm
vụ lớn cho 5 năm 1991-1995.
Phần thứ nhất
THỰC HIỆN ĐỔI MỚI CÁC LĨNH VỰC CỦA ĐỜI SỐNG XÃ
HỘI
Hơn bốn năm đưa Nghị quyết Đại hội VI vào cuộc sống là quá trình thể
nghiệm, tìm tòi, từng bước cụ thể hoá, phát triển và tổ chức thực hiện những
định hướng lớn của Nghị quyết đại hội. Đảng và Nhà nước vừa tập trung giải
quyết những vấn đề kinh tế, xã hội cấp bách, giữ vững ổn định chính trị, vừa
thực hiện đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Từ giữa năm 1988 trở đi, các chủ trương, chính sách đổi mới bắt đầu
mang lại kết quả rõ rệt, tình hình kinh tế và đời sống nhân dân dần dần được
cải thiện, sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy, lòng tin của
nhân dân vào công cuộc đổi mới tăng lên.
Tuy nhiên, những kết quả do đổi mới đem lại còn hạn chế và chưa vững
chắc. Do những thiếu sót chủ quan và tác động bất lợi của những yếu tố khách
quan, từ quý II-1990 đến nay, bên cạnh những nhân tố tích cực tiếp tục
được phát huy, tình hình kinh tế, xã hội có những diễn biến phức tạp mới. Nhiều
cơ sở sản xuất kinh doanh đình đốn kéo dài, lạm phát ở mức cao, tình trạng tham
nhũng, tiêu cực, bất công trong xã hội tiếp tục phát triển; đời sống của những
người mà nguồn thu nhập chính dựa vào tiền lương hoặc trợ cấp xã hội và một bộ
phận nông dân tiếp tục giảm sút; tâm trạng lo lắng trong một bộ phận nhân dân
có chiều hướng tăng lên.
Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương đã phân tích sâu sắc tình
hình của thời điểm quan trọng này, vạch ra phương hướng củng cố và phát huy
những thắng lợi đã giành được, phấn đấu vượt qua những khó khăn mới về kinh tế,
xã hội, giữ vững sự ổn định chính trị, tạo thế đi lên cho những năm sau. Hiện
nay, những yêu cầu nói trên vẫn đang là những nhiệm vụ cấp bách của Đảng, Nhà
nước và toàn dân ta.
Dưới đây sẽ kiểm điểm việc thực hiện đổi mới trên các lĩnh vực chủ yếu.
1- Về đổi mới kinh tế.
Thành tựu đầu tiên trên lĩnh vực kinh tế là đã đạt được những tiến
bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế (lương
thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu).
Tình hình lương thực - thực phẩm có chuyển biến tốt. Từ chỗ
thiếu ăn triền miên, năm 1988 còn phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo, nay chúng ta đã
vươn lên đáp ứng được nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan
trọng ổn định đời sống của nhân dân và cải thiện cán cân xuất - nhập khẩu. Đó
là kết quả tổng hợp của việc phát triển sản xuất, thực hiện chính sách khoán
trong nông nghiệp, xoá bỏ chế độ bao cấp, tự do lưu thông và điều hoà cung cầu
lương thực- thực phẩm trên phạm vi cả nước. Nhưng bình quân lương thực đầu
người của nước ta còn thấp, việc điều hoà lương thực có lúc chưa tốt, quản lý
dự trữ lương thực quốc gia có khuyết điểm lớn, giá cả lương thực - thực phẩm có
những lúc tăng đột biến vì nhiều nguyên nhân, tình trạng thiếu đói từng thời
gian vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi. Chúng ta không thể chủ quan, coi nhẹ nhiệm vụ
đẩy mạnh sản xuất và điều hoà lương thực - thực phẩm.
Hàng hoá trên thị trường, nhất là hàng tiêu dùng, dồi dào, đa
dạng và lưu thông tương đối thuận lợi, trong đó nguồn hàng sản xuất trong nước
tuy chưa đạt kế hoạch nhưng cũng tăng hơn trước và có tiến bộ rõ rệt về mẫu mã,
chất lượng. Một số sản phẩm tư liệu sản xuất tăng khá. Các cơ sở sản xuất gắn
chặt hơn với nhu cầu thị trường, phần bao cấp của Nhà nước về vốn, giá vật tư,
tiền lương... giảm đáng kể. Đó là kết quả của chủ trương phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần và đổi mới nhiều chính sách về sản xuất và lưu thông
hàng hoá. Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp nói chung, trong đó có sản xuất hàng
tiêu dùng, phát huy tiềm năng còn thấp. Nhiều cơ sở sản xuất, nhất là các cơ sở
tiểu, thủ công nghiệp và công nghiệp quốc doanh địa phương, đang gặp khó khăn,
chủ yếu do trình độ trang bị kỹ thuật lạc hậu, chất lượng sản phẩm kém, giá
thành sản phẩm cao, thiếu thị trường tiêu thụ và thiếu vốn, lại bị hàng ngoại
chèn ép.
Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh, mở rộng
hơn trước về quy mô, hình thức và góp phần quan trọng vào việc thực hiện các
mục tiêu kinh tế - xã hội. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 439 triệu rúp và 384
triệu đôla năm 1986, lên 1019 triệu rúp và 1170 triệu đôla năm 1990. Đã giảm
được khá lớn mức độ nhập siêu so với trước đây. Phần bù lỗ cho xuất khẩu giảm
đáng kể. Từ năm 1989 có thêm các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn như gạo, dầu
thô và một số mặt hàng mới khác. Tuy nhiên, xuất khẩu còn phải vươn lên mạnh
mới đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu và trả nợ, thị trường mở ra còn chậm và bấp
bênh, chưa có nhiều mặt hàng chủ lực có sức cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường
vững chắc, tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm thô còn lớn. Quản lý hoạt động kinh tế đối
ngoại còn nhiều sơ hở: hàng nhập lậu tràn lan; ngoại tệ thu được từ xuất khẩu, nhất
là ngoại tệ mạnh, chưa được quản lý thống nhất và sử dụng có hiệu quả; tranh
mua hàng xuất khẩu đẩy giá lên cao và tranh bán dẫn đến bị nước ngoài dìm giá.
Những kết quả thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế gắn
liền với những chuyển biến tích cực trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư và
bố trí lại cơ cấu kinh tế. Nhà nước đình và hoãn nhiều công trình đã ký với
nước ngoài và của một số ngành, địa phương để tập trung vốn cho các công trình
trọng điểm trực tiếp phục vụ ba chương trình kinh tế hoặc có ý nghĩa trọng yếu.
Trong 5 năm 1986-1990 đã dành cho ba chương trình kinh tế hơn 60% vốn đầu tư
của ngân sách trung ương, 75-80% vốn đầu tư của địa phương. Ngoài ra, phần đầu
tư của nhân dân rất lớn, đồng thời cũng đã thu hút được một số vốn đầu tư của
nước ngoài. Mặc dù vốn đầu tư của ngân sách trung ương giảm, nhưng xét tổng thể
các thành phần kinh tế thì tổng vốn đầu tư trong nền kinh tế không giảm. Nhiều
công trình công nghiệp nặng quan trọng được khởi công từ những năm trước đã
được đưa vào sử dụng. Đã hình thành một số ngành sản xuất mới có triển vọng tốt
như dầu khí, công nghiệp lắp ráp hàng điện tử, nuôi và chế biến tôm... Đã xuất
hiện một số vùng sản xuất hàng hoá tập trung về lương thực, trồng cây công
nghiệp ngắn ngày và dài ngày, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản. Một số loại hình
kinh tế dịch vụ mới ra đời và phát triển nhanh góp phần thúc đẩy kinh tế hàng
hoá và phục vụ đời sống nhân dân. Nhưng việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư còn
có tình trạng phân tán, không tập trung vào các công trình thiết yếu, còn nhiều
lãng phí và kém hiệu quả. Mặt khác, do nguồn vốn ngân sách quá eo hẹp nên đã
hạn chế việc dành thêm vốn cho ba chương trình kinh tế, cơ sở hạ tầng và đầu tư
chiều sâu để đổi mới công nghệ, cho đầu tư vào một số ngành và vùng trọng điểm
mang lại hiệu quả nhanh. Nhiều cơ sở công nghiệp và thương nghiệp quốc doanh
chậm được sắp xếp lại; một số hoạt động thương nghiệp, dịch vụ phát triển không
hợp lý và lộn xộn; công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản chậm phát triển; cơ
cấu kinh tế miền núi chưa có chuyển biến rõ rệt theo hướng sản xuất hàng hoá;
Một thành tựu khác về đổi mới kinh tế là bước đầu hình thành nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước.
Phát triển quan điểm kinh tế của Đại hội VI, Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương đã khẳng định phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
là một chủ trương chiến lược lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Chính sách này được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đã đi nhanh vào cuộc sống.
Chính sách ấy đã góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế; khơi
dậy được nhiều tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất,
dịch vụ, tạo thêm việc làm và sản phẩm cho xã hội; thúc đẩy sự hình thành và
phát triển nền kinh tế hàng hoá, tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị
trường.
Để thích ứng và thúc đẩy phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, chúng ta đã từng bước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo các định hướng
cơ bản của Đại hội VI, chú trọng tập trung giải quyết những nhiệm vụ then chốt
và cấp bách trong từng thời gian.
Trong toàn bộ các biện pháp đổi mới cơ chế quản lý, cuộc cải cách giá,
chuyển từ hệ thống định giá hành chính sang cơ chế giá thị trường có vị trí
trung tâm. Đi đôi với cải cách giá, việc đổi mới chính sách lưu thông và mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đã thúc đẩy hình thành thị trường thống nhất
trong cả nước gắn với thị trường thế giới, góp phần điều hoà cung - cầu và giảm
bớt chênh lệch về giá hàng hoá giữa các vùng trong nước. Nhờ giá cả phản ánh
đúng hơn giá trị và quan hệ cung - cầu trên thị trường, thực hiện mua bán bình
thường vật tư hàng hoá, xoá bỏ tem phiếu, đi liền với tiền tệ hoá một phần quan
trọng tiền lương, đã giảm hẳn các nhu cầu giả tạo và nạn tích trữ vật tư, hàng
hoá trong sản xuất và tiêu dùng, tình trạng ngân sách bù giá, tình trạng lời
giả lỗ thật.
Công tác kế hoạch hoá đã chuyển từ kế hoạch pháp lệnh sang kế hoạch
định hướng là chủ yếu, bước đầu sử dụng các đòn bẩy kinh tế và lực lượng vật
chất để bảo đảm cân đối tổng cung - tổng cầu trong nền kinh tế. Đã xây dựng
Chiến lược kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành và vùng, mở rộng thông tin kinh
tế, nâng cao vai trò của hợp đồng kinh tế.
Trong lĩnh vực tài chính, đã sửa đổi, bổ sung hệ thống thuế, thi hành
pháp lệnh về kế toán và thống kê, động viên khá hơn các nguồn thu cho ngân
sách; giảm các khoản chi có tính chất bao cấp, mở rộng quyền chủ động tài chính
cho cơ sở, thu hẹp các khoản đầu tư theo phương thức cấp phát, mở rộng đầu tư
qua tín dụng. Ngành ngân hàng đã tổ chức các ngân hàng kinh doanh, triển khai
kinh doanh tiền tệ, ngoại tệ, vàng bạc, thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt
(tuy chưa nhất quán).
Bộ máy nhà nước từng bước chuyển sang thực hiện chức năng quản lý nhà
nước, khắc phục dần sự can thiệp vào điều hành kinh doanh của cơ sở. Việc xây
dựng pháp luật kinh tế được đẩy mạnh.
Cùng với những đổi mới cơ chế quản lý ở tầm vĩ mô, chúng ta đã tiếp tục
điều chỉnh quan hệ sản xuất ở nông thôn, cải tiến chế độ khoán và cơ chế quản
lý trong các hợp tác xã nông nghiệp; mở rộng về nhiều mặt quyền tự chủ kinh
doanh của các xí nghiệp quốc doanh, tạo điều kiện phát huy tính chủ động sáng
tạo của các đơn vị kinh tế và của người lao động. Nhờ đó đã thúc đẩy các cơ sở
sản xuất theo nhu cầu thị trường, phấn đấu áp dụng tiến bộ kỹ thuật và cải tiến
quản lý, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
Cơ chế quản lý kinh tế mới đã bước đầu hình thành nhưng chưa đồng bộ,
còn thiếu nhiều luật lệ, chính sách bảo đảm sản xuất, kinh doanh đúng hướng;
chậm tổng kết để đề ra chương trình tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế có hệ
thống. Bên cạnh những tiến bộ, sự quản lý và điều hành vĩ mô của Nhà nước ở các
cấp cũng bộc lộ nhiều mặt non yếu, chưa thực hiện nhất quán và có hiệu quả chức
năng định hướng, kiểm soát và điều tiết các thành phần kinh tế.
Đáng chú ý là: hoạt động tài chính, ngân hàng, thương nghiệp quốc doanh
còn nhiều yếu kém. Các chính sách tài chính chưa thực sự tạo điều kiện đẩy mạnh
phát triển sản xuất và tạo nguồn thu; tình trạng thất thu thuế và bội chi ngân
sách còn lớn; Nhà nước quản lý lỏng lẻo, hầu như thả nổi khâu phân phối thu
nhập trong các đơn vị kinh tế quốc doanh. Ngân hàng chưa trở thành trung tâm
thanh toán và tín dụng của xã hội, chưa có phương thức giải quyết thoả đáng vốn
cho các cơ sở kinh doanh; chính sách lãi suất cho vay và nhận gửi có nhiều bất
hợp lý. Thương nghiệp quốc doanh còn lúng túng trong phương thức hoạt động,
chưa làm tốt chức năng điều hoà cung - cầu và điều tiết giá cả những mặt hàng
trọng yếu. Công tác quản lý thị trường có nhiều sơ hở, nạn buôn lậu, làm hàng
giả trầm trọng và kéo dài, chậm ban hành các chính sách có hiệu lực để bảo hộ
sản xuất trong nước. Công tác phân tích kinh tế, dự đoán các tình huống xảy ra
và chuẩn bị các biện pháp ứng phó còn hạn chế. Công tác thanh tra, kiểm tra
thiếu chặt chẽ, phát hiện và xử lý những vụ vi phạm chưa kịp thời và chưa
nghiêm (điển hình là các vụ tiêu cực lớn ở ngành dự trữ quốc gia, ngân hàng,
tín dụng, xuất nhập khẩu, thuế, xây dựng cơ bản). Sự phối hợp giữa các ngành,
các cấp thiếu chặt chẽ, hiện tượng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược"
xảy ra không ít. Nhiều cấp, nhiều ngành còn bố trí những cán bộ kinh doanh
thiếu hiểu biết về kinh tế và luật pháp, không tính đến năng lực nghiệp vụ
chuyên môn, chậm phát hiện và xử lý những người thoái hoá biến chất về đạo đức.
Đó là những khuyết điểm chủ yếu trong quản lý kinh tế cần sớm được khắc phục.
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực, đã xuất hiện nhiều
hiện tượng tiêu cực mới mà chúng ta chưa lường hết, chậm phát hiện
và chưa xử lý tốt. Đó là lối làm ăn chạy theo lợi nhuận bất kể giá nào, dẫn đến
vi phạm pháp luật, lừa đảo, hối lộ, làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, xâm phạm
nghiêm trọng tài sản xã hội chủ nghĩa và của công dân; nợ nần dây dưa, chiếm
dụng vốn của nhau, nhiều trường hợp không có khả năng thanh toán. Đó là xu
hướng chạy theo buôn bán nhiều hơn sản xuất, thương mại hoá tràn lan, xâm nhập
vào cả các cơ quan văn hoá, y tế, giáo dục, nội chính...; kỷ luật, kỷ cương và
pháp luật không nghiêm, bất công xã hội tăng lên.
Kết quả đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với những thành tựu và khuyết
điểm như trên, thể hiện ở những mức độ khác nhau trong các thành phần kinh tế.
Kinh tế quốc doanh hiện đang nắm những bộ phận then chốt, có vị trí chi
phối nền kinh tế, có tác dụng điều tiết thị trường và giá cả ở một mức độ nhất
định. Gần một phần ba các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh vươn lên trong kinh
doanh và thích ứng được với cơ chế mới. Đã xuất hiện một số nông trường, lâm
trường kinh doanh có hiệu quả. Điểm yếu nhất của kinh tế quốc doanh là hiệu quả
hoạt động nhìn chung còn thấp. Một bộ phận khá lớn công nghiệp quốc doanh, nhất
là các cơ sở do quận, huyện quản lý, đang rất khó khăn. Nhiều đơn vị thương
nghiệp quốc doanh kinh doanh thua lỗ, không ít cơ sở bị tư nhân lợi dụng để làm
ăn phi pháp.
Kinh tế tập thể trong nông nghiệp đã chuyển sang thực hiện rộng rãi cơ
chế khoán, hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ, được giao quyền sử
dụng ruộng đất, bước đầu giải phóng sức sản xuất, khai thác tiềm năng lao động
và vốn của nhân dân. Đã xuất hiện một số hình thức hợp tác mới thuộc nhiều lĩnh
vực cùng hoạt động trên một địa bàn. Thực tiễn khẳng định Nghị quyết 10 của Bộ
Chính trị là đúng đắn, phù hợp với điều kiện kinh tế nước ta và nguyện vọng của
nông dân. Nhưng hiện nay phần lớn các ban quản lý hợp tác xã và tập đoàn sản
xuất đang lúng túng trong hoạt động, chưa thực hiện được việc tổ chức khâu dịch
vụ sản xuất, tiêu thụ, một số nhiệm vụ quản lý cần thiết và tham gia thực hiện
các chính sách xã hội ở nông thôn; tình trạng khoán trắng cho xã viên diễn ra
phổ biến. Các vụ tranh chấp ruộng đất tuy đã được tích cực giải quyết, nhưng
vẫn còn nhiều vấn đề phức tạp.
Trong lĩnh vực sản xuất tiểu, thủ công nghiệp, khoảng 20% số hợp tác xã
đã vươn lên thích nghi được với thị trường. Một bộ phận lớn đang rất khó khăn,
khoảng 20% các hợp tác xã, trong đó có những đơn vị chỉ là kinh tế tập thể về
hình thức, đã chuyển sang hoạt động dưới dạng tư nhân. Việc củng cố các hợp tác
xã trong công nghiệp, xây dựng, vận tải chưa được quan tâm đúng mức theo yêu
cầu Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị.
Phần lớn các hợp tác xã mua bán kinh doanh thua lỗ và lúng túng về
phương hướng hoạt động. Khuyết điểm lớn là đã để phát triển các tổ chức tín
dụng đô thị một cách tràn lan, thiếu chỉ đạo và quản lý chặt chẽ dẫn đến vỡ nợ
khá phổ biến, trong đó không ít trường hợp làm ăn gian dối. ở nông thôn nói
chung các hợp tác xã tín dụng chỉ còn hình thức, tình trạng tư nhân cho vay
nặng lãi đang phát triển.
Về kinh tế tư nhân, kết quả rõ nhất là nhiều hộ cá thể và tiểu chủ đã
bỏ vốn kinh doanh vào nhiều ngành nghề. Nhưng cho đến nay, nhiều người có vốn
lớn vẫn chưa mạnh dạn đầu tư, nhất là vào lĩnh vực sản xuất, vì môi trường kinh
doanh chưa bảo đảm và có phần chưa tin vào sự ổn định của chính sách. Trong khi
nhiều đơn vị kinh tế tư nhân đóng góp tích cực và làm giàu chính đáng, một số
người đã hoạt động phi pháp, lừa đảo, trốn lậu thuế.
Một thành tựu quan trọng nữa là đã kiềm chế được một bước đà lạm
phát. Đây là kết quả tổng hợp của việc thực hiện ba chương trình kinh tế và
đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới chính sách giá và lãi suất, mở rộng lưu thông
và điều hoà cung - cầu hàng hoá. Nếu chỉ số tăng giá bình quân hằng tháng của
thị trường xã hội năm 1986 là 20%, năm 1987 - 10%, năm 1988 - 14%, thì năm 1989
là 2,5% và năm 1990 là 4,4%. Điều có ý nghĩa là chúng ta đạt được kết quả này
trong hoàn cảnh nguồn trợ giúp bên ngoài giảm so với trước, vừa chống lạm phát
vừa thực hiện chuyển từ giá bao cấp sang giá kinh doanh.
Tuy nhiên, kết quả kiềm chế lạm phát chưa vững chắc, giá cả có những
thời gian tăng cao, lên xuống không ổn định. Cuộc đấu tranh để kiềm chế và đẩy
lùi lạm phát vẫn đang là một nhiệm vụ cấp bách và cơ bản.
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội những năm qua, khoa học
và công nghệ tiếp tục phát triển, bước đầu phát huy vai trò động lực, hướng
vào nghiên cứu ứng dụng, góp phần phát triển sản xuất, nhất là trong lĩnh vực
nông nghiệp, ngư nghiệp, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, nâng cao trình độ công
nghệ của một số lĩnh vực sản xuất, tiếp thu và làm chủ được các công nghệ nhập
từ nước ngoài. Tiềm lực khoa học và công nghệ tăng lên.
Lực lượng khoa học đã góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho các chủ
trương phát triển kinh tế; đóng góp tích cực vào việc soạn thảo Cương lĩnh,
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, Chiến lược phát triển khoa
học và công nghệ; nghiên cứu những vấn đề về lịch sử, ngôn ngữ, văn hoá...
Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ đã bước đầu được đổi mới nhằm gắn
khoa học với sản xuất và đời sống, mở rộng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm
của các tập thể và cơ quan khoa học.
Tuy nhiên, khoa học và công nghệ nước ta phát triển chậm, chưa đáp ứng được
những yêu cầu bức xúc của công cuộc đổi mới. Khoa học xã hội chưa nghiên cứu
sâu sắc và lý giải một cách thuyết phục những vấn đề cơ bản về thời đại, về chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Khoa học và công nghệ chưa đóng góp được nhiều vào việc
tạo chuyển biến mạnh mẽ nền kinh tế về mặt năng suất, chất lượng và hiệu quả,
thúc đẩy phát triển nhanh các ngành có hàm lượng khoa học và công nghệ cao.
Còn thiếu những chính sách cụ thể để tạo môi trường thuận lợi cho việc
ứng dụng rộng rãi hơn nữa các thành tựu khoa học và công nghệ. Việc chậm đổi
mới chính sách sử dụng và đãi ngộ đối với cán bộ khoa học, kỹ thuật đã gây lãng
phí lớn nguồn chất xám quý giá của đất nước. Đầu tư tài chính của Nhà nước cho
hoạt động khoa học và công nghệ còn quá ít, không bảo đảm điều kiện cần thiết
để triển khai các nhiệm vụ trọng điểm và xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ
quốc gia. Chưa có cơ chế phù hợp để huy động được nhiều nguồn vốn cho hoạt động
khoa học và công nghệ. Công tác kiểm tra, giám sát còn chưa thường xuyên và đầy
đủ để hạn chế việc sử dụng lãng phí và kém hiệu quả các nguồn lực vật chất dành
cho lĩnh vực này. Nhiều cán bộ lãnh đạo các ngành, các cấp và cơ sở chưa nhận
thức đầy đủ vai trò động lực và chưa sử dụng khoa học và công nghệ để thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội.
2- Thực hiện chính sách xã hội.
Việc thực hiện chính sách xã hội tuy có một số tiến bộ, nhưng chưa được
quan tâm đúng với tầm quan trọng của nó và còn nhiều thiếu sót.
Đời sống của một bộ phận nhân dân so
với 5 năm trước ổn định hơn và có được cải thiện, nhưng nhìn chung còn khó
khăn.
Từ cuối năm 1988 trở đi, vấn đề lương thực xét cân đối chung trên phạm
vi cả nước đã được giải quyết tốt hơn. Thị trường thực phẩm dồi dào. Nhu cầu
mặc được đáp ứng khá. Nhà ở của một bộ phận dân cư cả ở thành thị và nông thôn
được cải thiện. Tiện nghi sinh hoạt trong nhiều gia đình tăng thêm. Việc đi lại
của nhân dân dễ dàng hơn. Đời sống tinh thần của nhân dân có một số mặt được
cải thiện như được tự do làm ăn theo pháp luật, làm chủ nguồn thu nhập hợp pháp,
tham gia vào các quyết định lớn của Đảng và Nhà nước, nguồn thông tin và nhận
thông tin được mở rộng hơn trước...
Một bộ phận nhân dân có thu nhập cao chính đáng nhờ biết kinh doanh,
hoặc có lao động xuất khẩu.
Nhờ thực hiện các chính sách mới, tỷ lệ thu nhập của xã viên trong giá
trị sản phẩm thu hoạch sau Khoán 10 đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, vẫn có
khoảng trên dưới 10% hộ nông dân còn thường xuyên gặp khó khăn, túng thiếu; ở
những vùng hay bị thiên tai, một số vùng núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu
số, ở những nơi có nhiều gia đình thuộc diện chính sách, các gia đình neo đơn
thì tỷ lệ trên còn cao hơn. Nhà ở của nông dân một số vùng còn đơn sơ. Sinh
hoạt văn hoá ở nông thôn nhiều nơi còn nghèo nàn.
ở thành thị, người lao động ở những đơn vị sản xuất thua lỗ thì rất khó
khăn, những người làm dịch vụ, buôn bán nhìn chung có thu nhập khá.
Một bộ phận không nhỏ nhân dân ta còn sống dưới nhu cầu tối thiểu. Số
trẻ em suy dinh dưỡng còn lớn. Khó khăn gay gắt và mức sống bị giảm sút nhiều là
những người mà nguồn thu nhập chính dựa vào tiền lương và trợ cấp xã hội.
Hơn bốn năm qua, để đáp ứng các nhu cầu đời sống nhân dân, chúng ta đã
động viên và phát huy khả năng của toàn xã hội, khuyến khích người lao động
tăng thu nhập và làm giàu chính đáng, chấp nhận sự chênh lệch trong thu nhập do
năng suất và hiệu quả lao động. Đó là phương hướng đúng tạo động lực cho sự
phát triển và nâng cao mức sống chung của xã hội. Khuyết điểm là còn thiếu
chính sách, biện pháp có hiệu lực để ngăn chặn thu nhập phi pháp và điều tiết
mức thu nhập. Tuy mức sống còn thấp nhưng trong tiêu dùng của một bộ phận nhân
dân và cán bộ còn nhiều xa hoa, lãng phí, có một số mặt vượt quá trình độ và
khả năng của nền kinh tế chung.
Nhiều khó khăn về kinh tế, xã hội của nước ta có nguyên nhân ở tốc độ
phát triển dân số quá cao. Nhịp độ tăng dân số năm 1990 khoảng 2,2%. Công tác
tuyên truyền vận động nhân dân chưa tiến hành tốt, đầu tư phương tiện cho công
tác này quá ít và còn thiếu những chính sách nhất quán, đồng bộ và có hiệu lực.
Nhiều vùng nông thôn chưa có chuyển biến trong việc hạn chế sinh đẻ. Tốc độ
tăng dân số quá nhanh tạo nên áp lực lớn về đời sống và việc làm, cản trở việc
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, nâng cao mức sống của nhân dân.
Vấn đề việc làm đặc biệt gay gắt. Trong hơn bốn năm qua, việc
thực hiện chính sách kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã tạo điều kiện quan
trọng để giải quyết thêm việc làm. Đã phát triển nhiều hình thức đào tạo nghề
nghiệp, giới thiệu việc làm do Nhà nước, các đoàn thể và cá nhân đứng ra tổ
chức. Hình thức thanh niên xung phong đi xây dựng các khu kinh tế mới hoặc đảm
nhiệm các công trình xây dựng tiếp tục phát triển. Các hình thức quân đội kết
hợp làm kinh tế được mở rộng. Nhờ những biện pháp ấy, trong 5 năm 1986-1990 có
thêm 4,2 triệu lao động đã tìm được việc làm. Tuy vậy, những cố gắng và tiến bộ
trên mới chỉ đáp ứng một phần nhu cầu giải quyết việc làm cho toàn xã hội, số
người không có việc làm từ nhiều nguồn tăng lên nhanh. Các chính sách và biện
pháp giải quyết việc làm còn bị động, chắp vá.
Lĩnh vực giáo dục và đào tạo có một số tiến bộ trong việc
xác định mục tiêu, nội dung và phương pháp cũng như cơ cấu hệ thống giáo dục.
Những kết quả ban đầu được thể hiện ở việc từng bước đa dạng hoá loại hình giáo
dục, đào tạo, dân chủ hoá quản lý nhà trường, tăng cường liên kết nhà trường
với xã hội. Nội dung giáo dục phổ thông đã được đổi mới một phần, chất lượng
lớp 1, lớp 2 và ở trường chuyên, lớp chọn có tiến bộ. Quá trình đào tạo đại học
và chuyên nghiệp được tổ chức lại và có một số cải tiến. Nhờ sự nỗ lực của đội
ngũ giáo viên, sự đầu tư của Nhà nước cùng với sự đóng góp của nhân dân, sự
nghiệp giáo dục, đào tạo được duy trì, có một số mặt ổn định hoặc phát triển.
Số học sinh, sinh viên nước ta hiện nay là 15 triệu người, chiếm gần 1/4 dân
số.
Nhưng nền giáo dục nước ta chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém do trình
độ kinh tế, do thiếu sự quan tâm đúng mức ở tầm chỉ đạo chiến lược, đồng thời
do công tác quản lý của ngành giáo dục và đào tạo còn nhiều khuyết điểm và nhược
điểm.
Chất lượng giáo dục, nhất là chất lượng giáo dục tư tưởng, đạo đức còn
kém, một bộ phận học sinh, sinh viên mờ nhạt về lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Số
học sinh phổ thông chán học và bỏ học ngày càng nhiều. Số người mù chữ tăng
lên. Chính sách đối với giáo viên tuy có cải tiến, nhưng chưa hấp dẫn thanh
niên học giỏi vào ngành sư phạm, đời sống của đa số các thầy cô giáo còn quá
thấp, có nơi giáo viên bỏ nghề đến mức số mới được đào tạo ở các trường sư phạm
không bù lại kịp. Trình độ chuyên môn của giáo viên chậm được nâng cao. Việc
đầu tư cho giáo dục miền núi, vùng dân tộc thiểu số còn quá ít ỏi. Chậm sắp xếp
lại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và trường
phổ thông.
Công tác bảo vệ sức khoẻ, nâng cao thể lực
của nhân dân vẫn được duy trì trong điều kiện có nhiều khó khăn. Công tác
chăm sóc sức khoẻ ban đầu có một số tiến bộ. Tiêm chủng mở rộng cho trẻ em được
ngành y tế thực hiện tốt trên phạm vi cả nước, đạt kết quả đáng khích lệ, giảm
nhiều số trẻ em chết dưới một tuổi. Chủ trương bảo vệ sức khoẻ nhân dân nhằm
giải quyết các vấn đề cơ bản và cấp bách, nhất là chống các bệnh nhiễm trùng,
chống suy dinh dưỡng và vệ sinh môi trường, đồng thời phòng chống những bệnh
tật của một nước đang phát triển công nghiệp, bước đầu đã thu được một số kết
quả. Phong trào thể dục, thể thao quần chúng được duy trì và mở rộng ở nhiều
nơi.
Tuy nhiên, nhìn chung công tác phòng và chữa bệnh, bảo vệ sức khoẻ của
nhân dân còn nhiều vấn đề phải giải quyết. Đa số các bệnh viện từ trung ương
đến tỉnh, huyện xuống cấp nhiều. Bệnh sốt rét phát triển ở một số huyện, xã
miền núi. Kinh phí của Nhà nước không đủ cho nhu cầu của y tế, nhưng chưa có
những hình thức và biện pháp thích hợp để giải quyết. Việc thu viện phí chưa
hợp lý, gây nhiều lộn xộn. Vệ sinh môi trường như cung cấp nước sạch, giải
quyết chất thải công nghiệp, bảo vệ môi trường sống là những vấn đề tồn tại
lớn.
Hoạt động văn hoá, văn nghệ phong phú hơn về nội dung, đa dạng
hơn về hình thức và thể loại. Trong các ngành văn học, nghệ thuật đã có một số
tác phẩm tốt. Đội ngũ văn nghệ sĩ thuộc các thế hệ có những đóng góp vào sự
nghiệp đổi mới của đất nước. Trong hoạt động văn hoá, văn nghệ, dân chủ bước
đầu được phát huy, tạo điều kiện thuận lợi cho sự sáng tạo.
Tuy nhiên, mức hưởng thụ văn hoá, văn nghệ của đông đảo nhân dân lao
động còn thấp, nhất là ở nhiều vùng nông thôn, miền núi. Hoạt động văn hoá, văn
nghệ thường tập trung ở các đô thị và có khuynh hướng chạy theo thị hiếu không
lành mạnh. Đã xuất hiện một số tư tưởng lệch lạc: coi nhẹ văn nghệ dân tộc và
cách mạng, nhìn xã hội toàn màu đen, "để cho quần chúng tự chọn món ăn,
v.v..
Công tác quản lý văn hoá tuy có đổi mới, nhưng còn nhiều khuyết điểm,
chưa quản lý chặt chẽ công tác xuất bản, nhập phim, làm phim, để cho các văn
hoá phẩm độc hại phổ biến tràn lan, gây hại lớn. Chưa có những biện pháp tích
cực để phổ biến rộng rãi trong nhân dân các tác phẩm có giá trị. Một số ngành
nghệ thuật như điện ảnh, tuồng, chèo... đang gặp nhiều khó khăn, chưa có biện
pháp khắc phục.
3. Về quốc phòng và an ninh.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và Nghị quyết Bộ Chính trị về nhiệm vụ
quốc phòng, công tác quân sự và quốc phòng đã có những đổi mới quan
trọng. Xuất phát từ quan điểm chiến tranh nhân dân đã thực hiện một cuộc điều
chỉnh chiến lược lớn, bố trí lại lực lượng trên phạm vi cả nước, tạo ra thế
phòng thủ hợp lý, tăng cường khả năng phòng thủ ở các khu vực trọng điểm; từng
bước xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Đã chấn chỉnh một bước cơ
bản tổ chức biên chế lực lượng vũ trang, giảm được hơn 60 vạn quân thường trực;
đồng thời chú ý xây dựng lực lượng dự bị động viên và nâng cao chất lượng dân
quân tự vệ.
Đã chú trọng nâng cao chất lượng tổng hợp của quân đội, trước hết là về
mặt chính trị, bảo đảm quân đội vững vàng trước tình hình phức tạp ở trong nước
và trên thế giới, kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, chấp hành tốt
mọi nhiệm vụ được giao. Khắc phục nhiều khó khăn để bảo đảm đời sống và chính
sách đối với bộ đội.
Đã thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và cách mạng
Campuchia, rút hết quân tình nguyện ở Campuchia về nước.
Các xí nghiệp quốc phòng và các tổ chức làm kinh tế của quân đội bước
đầu chuyển sang thực hiện cơ chế quản lý mới, phấn đấu thực hiện được kế hoạch
hằng năm, góp phần bảo đảm cho quốc phòng và tham gia xây dựng đất nước.
Những kết quả trên lĩnh vực quân sự và quốc phòng đã tác động tích cực
đến việc thực hiện cả hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo
điều kiện thuận lợi mới cho công cuộc xây dựng kinh tế.
Thiếu sót nổi lên là chất lượng tổng hợp các lực lượng vũ trang còn có
mặt chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ. Sức chiến đấu, trình
độ sẵn sàng chiến đấu, chất lượng huấn luyện của một số đơn vị chưa cao. Đời
sống cán bộ và chiến sĩ còn nhiều khó khăn. Hiệu quả công tác đảng, đoàn, công
tác chính trị còn hạn chế. Việc xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố,
công tác quản lý và huấn luyện lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ còn
nhiều vấn đề phải giải quyết. Nhiều xí nghiệp quốc phòng lúng túng trong quá
trình chuyển sang thực hiện cơ chế quản lý mới.
Nghị quyết Bộ Chính trị về quốc phòng chưa được quán triệt sâu sắc
trong cán bộ các cấp, các ngành. Sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng uỷ Quân sự
Trung ương và Bộ Quốc phòng có mặt, có lúc còn thiếu biện pháp tích cực và đồng
bộ. Chậm nghiên cứu Chiến lược quốc phòng gắn với Chiến lược kinh tế - xã hội.
Đảng uỷ và người chỉ huy một số đơn vị quản lý bộ đội thiếu chặt chẽ.
Công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn
xã hội đã có những đổi mới quan trọng về đường lối, chủ trương,
phương pháp công tác và xây dựng lực lượng, góp phần giữ vững ổn định chính trị
- xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc đổi mới; phục vụ yêu cầu phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; xây
dựng, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ đối ngoại; bảo vệ
Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ những thành quả cách mạng trong tình hình mới.
Phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc được khôi phục và phát triển ở nhiều
địa bàn, từng bước hình thành một số tuyến, khu vực có phong trào liên hoàn,
với nội dung, hình thức phong phú, phòng ngừa và tấn công bọn tội phạm. Đấu
tranh kiên quyết chống âm mưu "diễn biến hoà bình", ngăn chặn các hoạt
động gián điệp, biệt kích, bảo vệ nội bộ, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới,
trừng trị bọn tội phạm hình sự, giữ gìn trật tự công cộng.
Tuy nhiên, tình hình an ninh, trật tự còn rất phức tạp. Các thế lực thù
địch ở trong nước và ngoài nước câu kết với nhau, ra sức khai thác cuộc khủng
hoảng của chủ nghĩa xã hội và những sơ hở, yếu kém của chúng ta để phá ta bằng
các thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt. An ninh nội bộ, an ninh kinh tế, tư tưởng,
văn hoá, an ninh biên giới còn không ít khuyết điểm. Trật tự an toàn xã hội,
nhất là ở các thành phố, thị xã còn nhiều vấn đề phải giải quyết; tình hình
thất thoát lớn tài sản xã hội chủ nghĩa, tham nhũng, buôn lậu, đạo đức suy
đồi... đang là những vấn đề nóng bỏng.
Tình hình trên có nhiều nguyên nhân. Song nguyên nhân trực tiếp là
trong cán bộ và nhân dân ta còn có mặt hữu khuynh, mất cảnh giác. Chúng ta chưa
gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ an ninh, trật tự; chưa quan
tâm đúng mức giải quyết những nguyên nhân và điều kiện làm nảy sinh, phát triển
tội phạm; còn buông lỏng pháp chế, kỷ cương; đấu tranh chưa mạnh mẽ, xử lý chưa
nghiêm minh những kẻ phạm tội.
Công an nhân dân, lực lượng xung kích, nòng cốt đấu tranh bảo vệ an
ninh, trật tự, đã được củng cố một bước về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đã
có những đổi mới về quan điểm phục vụ nhân dân, phục vụ nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội. Tinh thần chiến đấu, tác phong công tác, ý thức tổ chức kỷ
luật được nâng lên, lực lượng cơ sở, lực lượng bán chuyên trách được củng cố,
tăng cường hơn. Nhưng nhìn chung, lực lượng công an chưa được xây dựng thực sự
vững mạnh, chưa đáp ứng tốt yêu cầu của tình hình mới. Biểu hiện tiêu cực, quan
liêu, cửa quyền còn nhiều. Việc bảo đảm cơ sở vật chất - kỹ thuật và chăm lo
đời sống cho lực lượng công an chưa được quan tâm đúng mức.
4. Về công tác đối ngoại.
Nghị quyết Đại hội VI, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và
Bộ Chính trị đã xác định mục tiêu của các hoạt động đối ngoại là giữ vững hoà
bình, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tích cực vào sự nghiệp chung
của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trong những năm qua, chúng ta đã từng bước thực hiện thắng lợi phương
hướng trên. Quan hệ giữa nước ta với Liên Xô đang được đổi mới phù hợp với lợi
ích của nhân dân mỗi nước. Tình hữu nghị và đoàn kết đặc biệt giữa Đảng và nhân
dân Việt Nam với Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân dân Campuchia không ngừng
phát triển; hiệu quả hợp tác đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau được nâng cao. Bằng
những việc làm cụ thể, chúng ta đã và đang góp phần rất quan trọng vào quá
trình giải quyết hoà bình vấn đề Campuchia. Quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta với Cuba và một số nước xã hội chủ nghĩa khác tiếp tục được tăng cường.
Đã kiên trì thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc.
Chúng ta đã tăng cường tình đoàn kết chiến đấu với các đảng cộng sản và
công nhân, các phong trào, các tổ chức quốc gia và quốc tế bảo vệ độc lập và
chủ quyền dân tộc, vì hoà bình và tiến bộ.
Sự hợp tác nhiều mặt và tình hữu nghị, đoàn kết giữa nước ta với ấn Độ
cũng như với nhiều nước độc lập dân tộc và Phong trào Không liên kết tiếp tục
phát triển.
Với các nước Đông Nam á, chúng ta chủ trương mở rộng quan hệ về nhiều
mặt theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào nội bộ
của nhau, hai bên cùng có lợi. Những năm qua cũng đã ghi nhận những cố gắng lớn
của Nhà nước ta trong việc cải thiện quan hệ với nhiều nước ở khu vực châu á -
Thái Bình Dương, Tây âu, Bắc âu và một số nước khác.
Những thành tựu đối ngoại đã tạo môi trường quốc tế thuận lợi hơn cho
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy lùi một bước âm mưu bao vây,
cô lập đối với nước ta, tăng thêm bầu bạn, nâng cao uy tín của nước ta trên
trường quốc tế.
Tuy nhiên, công tác đối ngoại còn có khuyết điểm và những mặt yếu kém:
khi tình hình thế giới và quan hệ quốc tế thay đổi, có việc chưa đánh giá đầy
đủ và kịp thời để có chủ trương sát đúng; chưa tạo được sự thống nhất cao về
nhận thức và hành động giữa một số ngành trong một số trường hợp.
5. Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi
mới hoạt động của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân.
Một trong những thành tựu của công cuộc đổi mới là bước đầu thực
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các cơ
chế và chính sách mới đã mở rộng quyền tự chủ của các cơ sở kinh tế, phát huy
tiềm năng của các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho mọi người được tự do
kinh doanh theo pháp luật.
Các hoạt động văn hoá, thông tin, báo chí, xuất bản có bước phát triển
mới về nội dung và phương pháp thông tin, về nghiên cứu và sáng tạo, về thảo
luận dân chủ các ý kiến khác nhau, tự phê bình và phê bình, đấu tranh phê phán
các hiện tượng tiêu cực.
Trong sinh hoạt đảng, hoạt động của các cơ quan nhà nước và các đoàn
thể nhân dân, cũng như trong xã hội, đã có không khí thảo luận cởi mở, thẳng
thắn, phê phán khuyết điểm, sai lầm, khắc phục dần hiện tượng dân chủ hình
thức. Nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật quan trọng đã được nhân dân tham
gia ý kiến trước khi quyết định.
Tuy nhiên, những tiến bộ đó còn hạn chế. Quyền làm chủ của nhân dân
chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ. Trong xã hội còn không ít hiện tượng
mất dân chủ, dân chủ hình thức, có nơi rất nghiêm trọng. Bệnh quan liêu, tư
tưởng phong kiến, gia trưởng còn nặng. Đồng thời cũng xuất hiện khuynh hướng
dân chủ cực đoan, dân chủ không đi liền với thực hiện kỷ luật và pháp luật. Cơ
chế và pháp luật bảo đảm thực hiện dân chủ chưa được cụ thể hoá đầy đủ.
Thực tế mấy năm qua cho thấy, để đổi mới và kiện toàn hệ thống chính
trị, xây dựng và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, vấn đề mấu chốt là phân
định rõ chức năng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các
đoàn thể nhân dân; kiên quyết chống quan liêu, chống những hành vi xâm phạm
quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời phê phán và khắc phục những khuynh hướng
lệch lạc.
Theo hướng đó, đã có những chủ trương, biện pháp sửa đổi tổ chức và
phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước. Hoạt động lập pháp được đẩy
mạnh. Bốn năm qua (tính đến hết năm 1990), Quốc hội, Hội đồng Nhà nước đã ban
hành 24 luật và 33 pháp lệnh. Các kỳ họp Quốc hội đã thể hiện rõ hơn tinh thần
dân chủ, quyền hạn và trách nhiệm của các đại biểu nhân dân. Hoạt động giám sát
của Quốc hội được tăng cường và có hiệu quả hơn trước.
Hội đồng Bộ trưởng và uỷ ban nhân dân các cấp đã bước đầu đổi mới
phương thức hoạt động, có tiến bộ trong điều hành và quản lý nhà nước bằng pháp
luật, giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế, xã hội quan trọng. Hội đồng Bộ
trưởng và các bộ đã coi trọng chỉ đạo các hoạt động ở tầm vĩ mô; đã sắp xếp một
bước tổ chức bộ máy các bộ, tổng cục và các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, huyện.
Các cơ quan toà án, kiểm sát đã được kiện toàn một bước. Nhiều tổ chức
bổ trợ cho công tác xét xử đã hình thành.
Tuy nhiên, sự điều hành và quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô nói chung còn
lúng túng và có nhiều khuyết điểm, nhược điểm; một số quyết định còn sơ hở. Còn
thiếu nhiều luật cần thiết. Không ít luật và pháp lệnh đã ban hành không được
thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Nhiều vụ phạm pháp không được xét xử hoặc
xét xử chậm, xử chưa nghiêm. Tổ chức các cơ quan xét xử còn yếu.
Chưa vận dụng tốt khoa học quản lý vào tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước. Sự phân công, phân nhiệm và các mối quan hệ giữa các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp có những nhược điểm chưa rõ. Sự phân cấp quản lý
giữa trung ương với các địa phương và cơ sở vừa chưa đầy đủ, vừa chưa phù hợp
với sự thay đổi của cơ chế quản lý. Đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước ít được
đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật và nghiệp vụ; thiếu kinh nghiệm về tổ
chức và quản lý nhà nước, nhất là khi chuyển từ cơ chế quan liêu bao cấp sang
cơ chế quản lý mới về kinh tế, xã hội; hiệu suất lao động và công tác còn thấp.
Khuyết điểm lớn là đến nay chưa thực hiện được cuộc cải cách cơ bản
về tổ chức bộ máy nhà nước như Đại hội VI đã đề ra. Tổ chức và biên chế của
bộ máy nhà nước còn quá cồng kềnh, nặng nề, chưa phù hợp với yêu cầu đổi mới cơ
chế quản lý và đổi mới phương thức hoạt động của Nhà nước. Việc sắp xếp lại tổ
chức và giảm biên chế có những trường hợp còn hình thức, kém hiệu quả.
Từ sau Đại hội VI của Đảng, nhất là từ sau Hội nghị lần thứ tám Ban
Chấp hành Trung ương, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã cố
gắng đổi mới tổ chức và hoạt động. Đại hội của nhiều đoàn thể đã được tiến hành
theo tinh thần: đổi mới - dân chủ - đoàn kết. Các đoàn thể, các tổ chức xã hội
đã coi trọng việc đoàn kết, tổ chức đoàn viên, hội viên cùng chăm lo giải quyết
những lợi ích thiết thực. Bộ máy của các đoàn thể ở các cấp được sắp xếp lại
một bước. Thêm nhiều tổ chức xã hội, tổ chức theo nghề nghiệp được thành lập,
thu hút đông đảo hội viên, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, nhất là ở cơ
sở.
Trước yêu cầu đổi mới hiện nay, nhiều đoàn thể chưa xác định được thật
rõ chức năng, nhiệm vụ, còn lúng túng về phương thức hoạt động và xây dựng tổ
chức. Lề lối làm việc còn nặng hành chính, hiệu quả giáo dục chính trị tư tưởng
còn thấp. Nhiều tổ chức cơ sở của các đoàn thể hoạt động thất thường.
Nhiều đoàn viên, hội viên không thiết tha gắn bó với tổ chức của mình.
Một số cán bộ đoàn thể không yên tâm công tác.
6- Đảng trong công cuộc đổi mới.
Từ Đại hội VI đến nay là thời gian có nhiều thử thách lớn đối với sự
lãnh đạo của Đảng ta. Trong tình hình đất nước và quốc tế có những diễn biến
nhanh và phức tạp, Đảng đã kiên trì đường lối đổi mới, đề ra và lãnh đạo nhân
dân thực hiện có kết quả một số chủ trương, chính sách lớn về đối nội và đối
ngoại, mở ra hướng phát triển mới của đất nước; tích cực sửa chữa những khuyết
điểm mà Đại hội VI đã chỉ ra. Trong quá trình đó, Đảng có bước trưởng thành
mới, có thêm những kiến thức và kinh nghiệm mới, nhất là về lãnh đạo kinh tế,
lãnh đạo nhà nước.
Nét nổi bật là trong Đảng đã có sự đổi mới tư duy, nhất là tư duy
kinh tế. Với tinh thần độc lập sáng tạo, Đảng đã cụ thể hoá và phát triển
Nghị quyết Đại hội VI, bước đầu hình thành hệ thống các quan điểm và nguyên
tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Trước những diễn biến phức tạp của
tình hình thế giới, Đảng kịp thời khẳng định những vấn đề có tính nguyên tắc
của công cuộc đổi mới, bảo đảm ổn định về chính trị để thực hiện đổi mới có kết
quả. Những thành tựu đã đạt được trên các lĩnh vực chứng tỏ đường lối và bước
đi của Đảng ta là đúng đắn, năng lực cụ thể hoá nghị quyết và tổ chức chỉ đạo
thực hiện của các cấp, các ngành có tiến bộ.
Công tác tư tưởng đã được coi trọng, góp phần
đổi mới tư duy, định hướng tư tưởng, bồi dưỡng những nhận thức đúng đắn cho
đảng viên và nhân dân, tạo ra sự nhất trí đối với đường lối, quan điểm của
Đảng. Đã chú ý mở rộng thông tin, thông tin nhiều chiều, tuyên truyền những
nhân tố mới, phổ biến những kinh nghiệm tốt, đồng thời tích cực đấu tranh chống
tiêu cực, chống những quan điểm và nhận thức sai trái, bảo vệ quan điểm đúng
đắn của Đảng.
Về công tác tổ chức và cán bộ, đã sắp xếp
lại một số tổ chức, điều chỉnh, thay đổi nhiều cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các
cơ quan, các ngành, các cấp. Thu gọn bớt một số ban, bộ, uỷ ban, tổng cục, bỏ
nhiều vụ, cục, phòng trung gian. Bộ máy chính quyền ở nhiều cơ sở, bộ máy quản
lý ở nhiều xí nghiệp, hợp tác xã gọn nhẹ hơn trước. Các chi bộ đảng ở nông thôn
được sắp xếp lại hợp lý hơn, chủ yếu theo địa bàn dân cư (thôn, xóm, ấp, bản).
Trong số cán bộ mới, nhiều đồng chí đã phát huy tác dụng tốt. Công tác cán bộ
có mặt đã được cải tiến theo hướng dân chủ và tập thể hơn. Việc kết hợp nhiều
độ tuổi ở mỗi cơ quan lãnh đạo là một kinh nghiệm tốt bảo đảm tính liên tục và
tính kế thừa trong đội ngũ cán bộ.
Việc thực hiện các nghị quyết về xây dựng đảng, tiến hành cuộc vận động
chỉnh đốn làm trong sạch Đảng nhất là đợt sinh hoạt chính trị, tiến hành
đại hội đảng bộ các cấp gần đây, đã thúc đẩy phát triển dân chủ trong Đảng,
củng cố các tổ chức cơ sở đảng, nâng thêm trình độ nhận thức và năng lực công
tác của đội ngũ đảng viên. Cho đến nay, tuy có một bộ phận đảng viên thoái hoá,
hư hỏng, một số kém tác dụng, nhưng số đông đảng viên mà nòng cốt là đội ngũ
cán bộ chủ chốt từ trung ương đến cơ sở vẫn giữ vững phẩm chất chính trị, nhất
trí với quan điểm, đường lối của Đảng, có tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc
phục khó khăn, phấn đấu thực hiện các nghị quyết của Đảng.
Phương thức lãnh đạo đã có những cải tiến trên cơ
sở nhận thức rõ hơn chức năng lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của Nhà nước
và chức năng của các đoàn thể, tôn trọng vai trò và quyền hạn của cơ quan nhà
nước và các đoàn thể; bớt được những hiện tượng ôm đồm, bao biện.
Tuy vậy, công tác xây dựng đảng chuyển biến chậm. Năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng ở các cấp chưa chuyển kịp theo yêu cầu đổi mới. Nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh trong công cuộc đổi mới chưa được làm sáng
tỏ, một số quan điểm và chủ trương lớn của Đảng chưa được cụ thể hoá một cách đồng
bộ. Hệ thống tổ chức của Đảng trước yêu cầu đổi mới còn những mặt chưa hợp lý,
bộ máy vẫn cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả. Một số tổ chức cơ sở đảng quá
yếu, có nơi gần như tê liệt. Trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo, quản lý của
cán bộ, đảng viên nói chung còn thấp. Sự suy thoái về phẩm chất đạo đức của một
bộ phận cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng. Tình trạng mất đoàn kết nội bộ xảy
ra trong nhiều tổ chức đảng. Trong Đảng vừa có những biểu hiện bảo thủ, không
chịu đổi mới, vừa có khuynh hướng đổi mới nóng vội, rập khuôn cách làm của nước
khác; cũng có cả tư tưởng dao động, cơ hội về chính trị. Phương thức lãnh đạo
chậm được đổi mới, tình trạng nhiều cấp uỷ đảng (nhất là ở nông thôn) bao biện,
làm thay công việc của chính quyền vẫn chưa được khắc phục một cách căn bản;
đồng thời cũng còn những biểu hiện buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng trên một số
lĩnh vực và ở một số loại hình cơ sở (như xí nghiệp, cơ quan, trường học...).
Nhiều cấp uỷ không đi sâu chỉ đạo công tác xây dựng đảng. Một số nghị
quyết, chỉ thị về xây dựng đảng không được thực hiện đến nơi đến chốn. Công tác
tư tưởng có lúc bị buông lỏng, thiếu chủ động và không sắc bén. Công tác giáo
dục phẩm chất đạo đức, khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong cán bộ, đảng
viên chưa được tiến hành một cách kiên quyết và có hiệu quả. Việc kiện toàn tổ
chức, tinh giản biên chế đạt kết quả thấp là do thiếu những phương án tổng thể,
khoa học, chỉ đạo không tập trung. Thực hiện kém việc quy hoạch và đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ. Chưa có cơ chế hợp lý để phát hiện và lựa chọn nhân tài. Tư tưởng
cá nhân, cục bộ, phong kiến đã gây trở ngại cho việc nhận xét, bố trí, đề bạt
cán bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu của cơ chế mới
và nhiệm vụ mới.
7- Đánh giá tổng quát và kinh nghiệm tiến hành đổi mới.
Tổng quát lại, sau hơn bốn năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, công
cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng.
Đường lối đổi mới từng bước được cụ thể hoá, bổ sung, phát triển và
đang đi vào cuộc sống.
Tình hình chính trị của đất nước ổn định.
Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực: bước đầu hình thành nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước; nhiều năng lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn; tốc độ lạm
phát được kiềm chế bớt; đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân
có phần được cải thiện. So với trước đây thì hiện nay mức độ khủng hoảng đã
giảm được một phần.
Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy. Nội dung và
phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị có một số đổi
mới theo hướng phát huy dân chủ nội bộ và quyền làm chủ của nhân dân, tăng
cường quyền lực của các cơ quan dân cử, nâng cao hiệu lực quản lý của chính
quyền các cấp, bước đầu chỉnh đốn Đảng đi đôi với đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và xã hội.
Quốc phòng được giữ vững, tình hình an ninh về cơ bản được bảo đảm.
Từng bước phá thế bị bao vây về kinh tế và chính trị, mở rộng quan hệ quốc tế,
tạo ra môi trường thuận lợi hơn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Những thành tựu nói trên chứng tỏ đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra
là đúng đắn, bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp. Qua thực tiễn,
chúng ta có thêm những nhận thức mới và kinh nghiệm quan trọng về con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm nước ta. Đó là cơ sở rất quan trọng
để chúng ta tiếp tục tiến lên.
Mặt khác, cần nhận thức đầy đủ những yếu kém và khó khăn lớn: đất nước
ta vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, công cuộc đổi mới còn những
mặt hạn chế, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng chưa được giải quyết. Đáng
chú ý là những vấn đề lớn sau đây:
Lạm phát còn ở mức cao, nhiều cơ sở sản xuất đình đốn kéo dài, lao động
thiếu việc làm tăng lên. Chế độ lương quá bất hợp lý. Đời sống của những người
sống chủ yếu bằng tiền lương hoặc trợ cấp xã hội và của một bộ phận nông dân bị
giảm sút.
Sự nghiệp văn hoá, xã hội nhiều mặt tiếp tục xuống cấp. Tình trạng tham
nhũng, tiêu cực và bất công xã hội phổ biến; lối sống thực dụng, hủ tục mê tín,
dị đoan phát triển; tình trạng vi phạm dân chủ còn nhiều.
Pháp luật, kỷ cương chưa nghiêm. An ninh, trật tự và an toàn xã hội còn
phức tạp. Vẫn có những nhân tố có thể gây mất ổn định chính trị không thể xem
thường.
Bộ máy của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân cồng kềnh, phong
cách làm việc còn quan liêu, kém hiệu lực. Không ít cán bộ, đảng viên không đủ
năng lực và phẩm chất đảm đương nhiệm vụ, thậm chí tha hoá biến chất, không
được quần chúng tín nhiệm. Việc nâng cao ý chí cách mạng trong Đảng, thanh lọc
đảng viên; lựa chọn, bố trí, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cốt cán; cải cách căn bản
hệ thống tổ chức là những vấn đề lớn đòi hỏi phải giải quyết.
Nhân tố quyết định đem lại những thành tựu đổi mới là sự lãnh đạo kiên
định, vững vàng của Đảng, tinh thần cách mạng và sự nỗ lực phấn đấu của toàn
dân. Hơn bốn năm qua, trong bối cảnh quốc tế và trong nước cực kỳ phức tạp,
Đảng và Nhà nước ta đã kiên trì đổi mới theo những phương hướng về cơ bản là
đúng đắn; nhân dân ta với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin vào sự nghiệp cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã chấp nhận thử thách, chịu đựng và vượt qua
nhiều khó khăn trong quá trình đổi mới, từng bước làm chuyển biến tình hình.
Nguyên nhân của những mặt khó khăn và yếu kém có phần là hậu quả của
nhiều năm trước đây để lại và là khó khăn của quá trình đi lên, vừa do những
tác động bất lợi của tình hình thế giới, song cần nhấn mạnh những khuyết điểm
chủ quan trong công tác lãnh đạo của Đảng và quản lý Nhà nước. Những khuyết
điểm có tính chất bao trùm là Đảng chậm xác định rõ yêu cầu và nội dung đổi mới
phương thức lãnh đạo trong giai đoạn mới, chưa tập trung nghiên cứu đề ra
phương hướng, chủ trương rõ ràng và chỉ đạo thực hiện tích cực việc tổ chức lại
bộ máy, còn thiếu những biện pháp có hiệu lực để nâng cao chất lượng đảng viên,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng ngang tầm đòi
hỏi của sự nghiệp cách mạng; công tác cán bộ còn nhiều khuyết điểm. Nhà nước ta
còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản lý, có những việc làm chưa đúng với quy
luật khách quan. Còn nhiều lúng túng, thiếu sót và sơ hở trong điều hành, quản
lý vĩ mô nền kinh tế thị trường (nhất là trong các lĩnh vực tài chính, tiền tệ,
tiền lương) cũng như trong quản lý văn hoá, xã hội. Vừa có tình trạng thiếu
nhất quán trong một số chủ trương đổi mới, vừa có sự buông lỏng vai trò quản lý
đối với xã hội.
Từ thực tiễn những thành công và va vấp trong mấy năm qua, có thể nêu
lên mấy kinh nghiệm bước đầu về tiến hành công cuộc đổi mới:
Một là, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá
trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến
lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới. Đi
lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta. Chúng ta phê phán những
khuyết điểm, sai lầm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng không
quan niệm những lệch lạc đó là khuyết tật của bản thân chế độ, coi khuyết điểm
là tất cả, phủ định thành tựu, từ đó dao động về mục tiêu và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà
là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết quả bằng những quan niệm đúng đắn
về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.
Chính vì vậy, phải giữ vững tư duy độc lập và sáng tạo trong việc đề ra đường
lối đổi mới phù hợp với đặc điểm tình hình của nước ta, đáp ứng đúng lợi ích và
nguyện vọng của nhân dân ta. Coi trọng học tập, tham khảo kinh nghiệm của thế
giới, nhưng không lúc nào được giáo điều, sao chép máy móc cách làm của nước
ngoài. Các chủ trương đổi mới đều phải nhằm phục vụ mục tiêu xây dựng chủ nghĩa
xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, đều phải lấy kết quả xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam để kiểm nghiệm.
Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ
nghĩa và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai
trò lãnh đạo xã hội. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt
để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Thực tiễn cho
thấy đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Trên từng lĩnh vực, nội dung đổi mới cũng bao gồm nhiều mặt: từ đổi mới
quan niệm đến đổi mới cơ chế, chính sách tổ chức, cán bộ, phong cách và lề lối
làm việc. Nếu chỉ đổi mới một lĩnh vực hoặc một khâu nào đó thì công cuộc đổi
mới không thể đạt kết quả mong muốn. Đồng thời trong mỗi bước đi lại phải xác
định đúng khâu then chốt để tập trung sức giải quyết làm cơ sở đổi mới
các khâu khác và lĩnh vực khác.
Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung
sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời
sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi
mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi
mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng
tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Vì chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc
biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên việc đổi mới trong hệ thống chính
trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho
phép gây mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến
hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ,
mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện
để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ.
Ba là, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi
đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội. Đổi
mới về kinh tế, chuyển nền kinh tế mang nặng tính tự cấp, tự túc với cơ chế
quản lý tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là hoàn toàn cần
thiết để giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản xuất trong xã hội. Song
thực tế cho thấy, bản thân nền kinh tế thị trường không phải là liều thuốc vạn
năng. Hơn nữa, cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, kinh tế thị trường
cũng là môi trường thuận lợi để nảy sinh và phát triển nhiều loại tệ nạn xã
hội. Để hạn chế và khắc phục những hậu quả tiêu cực ấy, giữ cho công cuộc đổi
mới đi đúng hướng và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước
phải thực hiện tốt vai trò quản lý về kinh tế - xã hội bằng luật pháp, kế
hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền giáo dục và các công cụ khác.
Bốn là, chúng ta khẳng định tiếp tục phát huy
ngày càng sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng để phát huy dân chủ
đúng hướng và đạt kết quả thì quá trình đó phải được lãnh đạo tốt, có bước đi
vững chắc phù hợp với tình hình chính trị, xã hội nói chung. Có như vậy mới
thực sự bảo đảm được quyền làm chủ của nhân dân, động viên toàn dân hăng hái
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chạy theo những đòi hỏi dân chủ cực đoan, thực hiện
dân chủ mà không gắn liền với kỷ luật, kỷ cương hoặc không tính toán đầy đủ đến
tình hình chính trị, xã hội, thì mọi ý định tốt đẹp về phát huy dân chủ không
thể thực hiện thành công, ngược lại sẽ đưa đến những hậu quả làm tổn hại lợi
ích của nhân dân.
Năm là, trong quá trình đổi mới, phải
quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát hiện và giải quyết đúng đắn những
vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới; tăng
cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mỗi chủ trương, chính sách, biện pháp kinh
tế, xã hội, dù là đúng đắn nhất, thì trong quá trình thực hiện, bên cạnh mặt
tích cực là chủ yếu cũng thường có những hệ quả tiêu cực nhất định, những vấn
đề mới nảy sinh, cần phải dự kiến trước và theo dõi để chủ động ngăn ngừa, giải
quyết tránh suy nghĩ đơn giản, một chiều, đến khi thấy có vấn đề mới nảy sinh,
có mặt tiêu cực mới xuất hiện thì hoang mang, hốt hoảng. Không vì gặp khó khăn
mà dao động và quay lại những cách làm sai lầm cũ.
Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng xuất hiện nhiều vấn đề
mới liên quan đến nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Chỉ có tăng cường tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận thì công cuộc
đổi mới mới trở thành hoạt động tự giác, chủ động và sáng tạo, bớt được sai lầm
và những bước đi quanh co, phức tạp.
Trong nhiệm kỳ Đại hội VI, nhờ sự phấn đấu của toàn Đảng và toàn dân,
chúng ta đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, đồng thời còn
nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Đổi mới là cuộc cách mạng đang trong quá
trình vận động, chưa thể kết thúc trong một thời gian ngắn. Nhiệm kỳ Đại hội
VII sẽ tiếp tục phát huy những ưu điểm đã đạt được, hoàn chỉnh, bổ sung và phát
triển đường lối đổi mới, ngăn ngừa những lệch lạc phát sinh, khắc phục khó khăn
trở ngại, tiến lên giành những thắng lợi mới.
Phần thứ hai
NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CHỦ YẾU
TRONG 5 NĂM 1991 - 1995
1- Đặc điểm tình hình.
Nước ta bước vào kế hoạch 5 năm 1991-1995 trong bối cảnh quốc tế
có những thay đổi lớn và tác động sâu sắc.
Từ năm 1991 trở đi, nguồn vay từ bên ngoài cho ngân sách giảm mạnh,
những khoản vay để thanh toán nhập siêu và sự ưu đãi về giá đã chấm dứt, nợ
nước ngoài phải trả hằng năm tăng lên. Tình hình quốc tế cũng gây cho chúng ta
những đảo lộn lớn và đột ngột về thị trường xuất khẩu và nhập khẩu, về nhiều
chương trình hợp tác kinh tế và nhiều hợp đồng về lao động. Trong một thời gian
ngắn, chúng ta phải chuyển một phần đáng kể khối lượng buôn bán từ các thị
trường truyền thống sang các thị trường mới; chịu những tác động lớn về biến
động cung - cầu và giá cả của thị trường thế giới. Trong khi đó nước ta còn bị
một số nước tiếp tục cấm vận và bao vây về kinh tế. Tình hình trên đây gây
nhiều khó khăn cho nền kinh tế nước ta trong thời gian vừa qua và sắp tới.
Song chúng ta cũng có những thuận lợi mới. Quan hệ đối ngoại của nước
ta ngày càng được mở rộng, trong đó quan hệ với một số nước gần đây có một số
cải thiện, mở ra triển vọng từng bước bình thường hoá. Điều đó tạo thêm khả
năng để chúng ta mở rộng thị trường, tham gia ngày càng sâu hơn vào sự phân
công lao động quốc tế, thu hút nguồn vốn và kỹ thuật, học hỏi kinh nghiệm của
thế giới để xây dựng đất nước. Có cơ sở để dự đoán rằng, những khả năng này sẽ
ngày càng lớn lên. Đồng thời, việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đòi hỏi
chúng ta phải nhanh chóng vươn lên thích ứng với những yêu cầu khắt khe về chất
lượng, hiệu quả, về quy chế và luật pháp kinh doanh của thị trường thế giới.
Tình hình chính trị thế giới, bên cạnh những thuận lợi có những mặt
phức tạp mới tác động vào nước ta. Các thế lực thù địch thực hiện âm mưu
"diễn biến hoà bình", kích động việc thực hiện đa nguyên chính trị,
đa đảng, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng, truyền bá tư tưởng, văn hoá đồi trụy, độc
hại, đưa lực lượng gián điệp, biệt kích vào phá hoại nước ta; câu kết với bọn
phản động, các phần tử cơ hội, bất mãn trong nước tăng cường hoạt động hòng lật
đổ chế độ. Nhiệm vụ bảo vệ đất nước còn nặng nề.
ở trong nước, khủng hoảng kinh tế - xã hội vẫn chưa chấm dứt.
Khó khăn hàng đầu phải giải quyết là tạo ra nguồn cân đối về vật chất, tài
chính, mở rộng thị trường tiêu thụ, đáp ứng mục tiêu ổn định và phát triển kinh
tế, khắc phục lạm phát đang ở mức cao. Trong khi đó, nền kinh tế về cơ bản chưa
có tích luỹ từ thu nhập quốc dân sản xuất, đời sống nhân dân còn nhiều khó
khăn, hàng triệu người, trong đó số đông là thanh niên, chưa có việc làm hoặc
việc làm chưa ổn định. Trật tự, kỷ cương còn lỏng lẻo; tiêu cực và tham nhũng
còn nhiều. Năng lực quản lý của Nhà nước, tổ chức bộ máy và cán bộ nhiều mặt
chưa đáp ứng được đòi hỏi của tình hình.
Mặt khác, cần thấy rõ những thuận lợi lớn để phát huy. Đó là: những
thành tựu bước đầu rất quan trọng và những kinh nghiệm đổi mới đã thu được
trong những năm qua; đông đảo nhân dân ủng hộ đường lối đổi mới; cục diện chính
trị nước ta ổn định. Nước ta còn nhiều tiềm năng để phát triển: đội ngũ lao
động và cán bộ khoa học, kỹ thuật cần cù, thông minh, sáng tạo; khả năng thâm
canh, tăng vụ và mở rộng diện tích trong nông nghiệp, phát triển nghề rừng và
thuỷ sản còn lớn; công nghiệp dầu khí, công nghiệp hàng tiêu dùng và xuất khẩu
có những điều kiện thuận lợi để mở rộng; vốn nhàn rỗi trong nhân dân còn
nhiều...
Với những thành tựu và kinh nghiệm của hơn bốn năm đổi mới, Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta chắc chắn có đủ bản lĩnh và khả năng đưa đất nước ta ra
khỏi khủng hoảng, tiến lên giành những thắng lợi mới.
2- Mục tiêu tổng quát và phương châm chỉ đạo
Xuất phát từ tình hình nói trên và căn cứ vào mục tiêu của chặng đầu
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mục tiêu tổng quát của 5 năm tới là
vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường
ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra
khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay.
Các mục tiêu cụ thể là:
- Tiếp tục kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững và phát triển sản
xuất, bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế;
- Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm mạnh nhịp độ tăng
dân số;
- ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Bảo đảm tiền lương tối thiểu đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của người
lao động, ngăn chặn thu nhập phi pháp và bất công;
- Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, đổi mới tổ
chức và cán bộ;
- Bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ thành
quả cách mạng.
Trong 5 năm 1991-1995, năm 1991 và năm 1992 là hai năm có tính chất
quyết định để chuyển nền kinh tế thích ứng với những biến động của tình hình
quốc tế, giữ vững và phát huy thành tựu đổi mới.
Những phương châm chỉ đạo là:
- Tăng cường hơn nữa khối đoàn kết toàn dân, động viên được lực
lượng của mọi tầng lớp nhân dân vào việc thực hiện mục tiêu xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Giữ vững đoàn kết trong Đảng, thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng và nhân dân.
- Kết hợp động lực kinh tế với động lực tinh thần, thực hiện hài
hoà lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy lòng yêu nước và tự hào dân
tộc, truyền thống cách mạng và kháng chiến, ý chí tự lực tự cường, cần kiệm xây
dựng đất nước, tạo ra phong trào quần chúng phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh.
- Tiếp tục đổi mới toàn diện và đồng bộ, đưa công cuộc đổi mới đi
vào chiều sâu với bước đi vững chắc, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ việc đổi mới các lĩnh vực khác, nhất là về dân chủ
hoá xã hội, tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, các chính
sách giáo dục, văn hoá, xã hội.
- Tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi, mở rộng và tăng cường quan hệ
quốc tế về chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học, kỹ thuật trên nguyên
tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, cùng có lợi, bảo vệ sản xuất, kinh tế và an
ninh quốc gia, gìn giữ và phát huy những truyền thống và bản sắc tốt đẹp của
văn hoá dân tộc.
Dưới đây là các nhiệm vụ chủ yếu để thực hiện mục tiêu tổng quát
nói trên.
3- ổn định và phát triển kinh tế.
Tập trung mọi nỗ lực giải quyết các vấn đề cấp bách nhất về kinh tế,
xã hội, trên cơ sở đó thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế của
kế hoạch 5 năm 1991-1995: ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản
xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt đầu có
tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế.
Để thực hiện nhiệm vụ trên phải phát huy sức mạnh của các thành phần
kinh tế; đẩy mạnh ba chương trình kinh tế với những nội dung cao hơn trước và
từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hoá; đẩy nhanh
nhịp độ ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật; hình thành về cơ bản và vận hành
tương đối thông suốt cơ chế quản lý mới.
Về cơ cấu ngành và vùng:
Tập trung đầu tư cả chiều rộng lẫn chiều sâu, tạo chuyển biến rõ nét về
cơ cấu kinh tế, trước hết đối với những ngành và vùng trọng điểm, có hiệu quả
nhanh.
- Tiếp tục coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, phát triển nông,
lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông
thôn và xây dựng nông thôn mới. Xây dựng phương án tổng thể trên từng vùng,
hình thành cơ cấu hợp lý về nông, lâm, ngư, công nghiệp phù hợp với sinh thái
vùng, gắn phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp với phát triển ngành nghề
tiểu, thủ công nghiệp và công nghiệp chế biến bằng công nghệ thích hợp; xây
dựng các điểm kinh tế - kỹ thuật - dịch vụ ở từng vùng và tiểu vùng; xây dựng
kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội ở nông thôn.
Trong sản xuất nông nghiệp toàn diện, đặt trọng tâm vào chương trình
lương thực - thực phẩm nhằm bảo đảm vững chắc nhu cầu trong nước và có khối
lượng xuất khẩu lớn, nhất là gạo và sản phẩm chăn nuôi; phát triển cây công
nghiệp dài ngày và ngắn ngày trên quy mô lớn để cung cấp nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến, xuất khẩu và thay thế nhập khẩu.
Khai thác tổng hợp kinh tế biển, nuôi trồng, đánh bắt và chế
biến thuỷ sản, nhất là các loại có khả năng xuất khẩu, gắn liền với chiến lược
khai thác và bảo vệ vùng biển của đất nước.
Phát triển kinh tế rừng, trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi
trọc, nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng tài nguyên rừng, bảo vệ thiên
nhiên và môi trường sinh thái.
- Đẩy mạnh chương trình hàng tiêu dùng và chương trình hàng xuất
khẩu, đáp ứng nhu cầu đa dạng, chất lượng ngày càng cao, phục vụ tốt tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu, tăng thêm nhiều việc làm.
Đa dạng hoá và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại. Huy động
tiềm năng của nền kinh tế, phát huy lợi thế so sánh, vừa đáp ứng tốt nhu cầu
sản xuất và đời sống trong nước, vừa hướng mạnh về xuất khẩu. Tiếp tục coi
trọng các thị trường truyền thống, đồng thời nhanh chóng thâm nhập thị trường
mới, mở rộng thị trường khu vực. Cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tỷ
trọng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng xuất khẩu nguyên liệu, tạo ra các
sản phẩm xuất khẩu chủ lực như dầu mỏ, nông sản, thuỷ sản. Sớm tạo được một số
mặt hàng gia công, lắp ráp, chế biến có công nghệ hiện đại, có sức cạnh tranh
trong xuất khẩu. Phát triển du lịch, vận tải hàng không, thông tin, bưu điện
quốc tế và các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác. Mở rộng hợp tác lao động và
chuyên gia. Phát triển hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm. Có chính sách thu hút tư bản nước ngoài đầu tư vào nước ta, trước hết
vào lĩnh vực sản xuất, dưới nhiều hình thức.
- Sắp xếp lại và phát triển các loại hình dịch vụ kinh tế- kỹ thuật
đáp ứng yêu cầu sản xuất, đời sống và hợp tác quốc tế.
- Phát triển một số ngành công nghiệp nặng nhằm phục vụ tốt ba
chương trình kinh tế, đồng thời tạo cơ sở cho những bước phát triển tiếp theo;
coi trọng khai thác các tài nguyên, góp phần tạo nguồn tích luỹ ban đầu.
Trong 5 năm 1991-1995, đặc biệt chú trọng tăng nhanh sản lượng khai
thác dầu khí; phát triển điện lực, nhất là ở miền Trung và miền Nam; sắp xếp và
đầu tư chiều sâu để phát triển ngành cơ khí nhằm trước hết phục vụ sản xuất và
chế biến sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp; phát triển công nghiệp điện tử - tin
học; sớm xây dựng cơ sở lọc dầu, sản xuất phân đạm; khai thác đá quý, bốcxít,
đất hiếm...
- Phát triển kết cấu hạ tầng, sớm khắc phục tình trạng xuống
cấp, mở rộng và hiện đại hoá có trọng điểm mạng lưới giao thông vận tải, chú
trọng phát triển vận tải đường biển, đường sông, đường sắt và hàng không quốc
tế, phát triển giao thông nông thôn và miền núi. Tiếp tục hiện đại hoá mạng bưu
điện quốc tế và trong nước; phủ sóng phát thanh và truyền hình khắp cả nước;
phát triển ngành sản xuất thiết bị bưu điện.
Tiếp tục xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế vùng
phù hợp với chiến lược chung của cả nước. Phát huy thế mạnh của từng vùng, từng
địa phương, khai thác các nguồn lực tại chỗ, đồng thời chủ động mở rộng quan hệ
phân công, hợp tác, liên kết với các vùng khác trong nước và với nước ngoài.
Xác định chính sách phát triển đô thị và hai trung tâm lớn nhất cả nước là Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Lựa chọn những thành phố, thị xã có vị trí thích
hợp, xây dựng thành các trung tâm kinh tế, văn hoá của từng vùng.
Trong 5 năm tới, có kế hoạch khai thác các thế mạnh của vùng trung
du, miền núi, tạo chuyển biến rõ nét ở một số vùng. Có những chính sách và
biện pháp riêng đối với miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Sắp xếp lại
bộ máy chỉ đạo của Trung ương đối với công tác này.
Tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và
đổi mới quản lý kinh tế.
Phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế, vừa cạnh tranh vừa hợp
tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất.
Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng
pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.
Trong cơ chế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản
xuất kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh
tự nguyện; thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế
lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu
quả; Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng, dẫn dắt các thành
phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất,
kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ và xử lý các vi phạm pháp
luật trong hoạt động kinh tế, bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và
phát triển xã hội.
Những công tác lớn cần tập trung tiến hành là:
- Sắp xếp lại và củng cố các đơn vị kinh tế.
Khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh phát
triển có hiệu quả, nắm vững những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế. Tập trung lực lượng củng cố và phát triển những
cơ sở làm ăn có hiệu quả và có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Cho
thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các cơ sở thua lỗ kéo dài và không
có khả năng vươn lên. Sắp xếp lại các liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty phù hợp
với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường.
Tổng kết việc thực hiện các cơ chế, chính sách trong các đơn vị kinh tế
quốc doanh và hợp tác xã. Sửa đổi và bổ sung các cơ chế, chính sách cần thiết
để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, quan hệ
giữa Nhà nước và xí nghiệp quốc doanh, quan hệ giữa tổ chức đảng, đoàn thể với
giám đốc. Tiến hành việc giao vốn và áp dụng rộng rãi các hình thức khoán trong
xí nghiệp quốc doanh. Sớm ban hành quy chế về doanh nghiệp quốc doanh. Xây dựng
một số công ty hoặc liên hiệp xí nghiệp lớn, có uy tín và khả năng cạnh tranh
trong quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Tiếp tục đổi mới và kiện toàn kinh tế tập thể theo nguyên tắc tự
nguyện, dân chủ, bình đẳng, phát huy và kết hợp hài hoà sức mạnh của tập thể và
của xã viên. Phát triển các hình thức hợp tác đa dạng và mở rộng các hình thức
kinh tế tập thể trong nông nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, mua bán, tín dụng
(nông thôn) ở những nơi cần thiết và có điều kiện.
Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị; tiếp tục đổi
mới cơ chế quản lý các hợp tác xã nông nghiệp theo hướng vừa bảo đảm quyền tự
chủ của hộ xã viên, vừa tăng cường vai trò của các ban quản trị trong một số
việc quản lý, điều hành sản xuất, làm tốt những khâu dịch vụ cần thiết, cùng
với chính quyền và các đoàn thể thực hiện các chính sách xã hội và xây dựng
nông thôn mới. Gắn kinh tế hộ với quy hoạch vùng, phát triển công nghiệp chế
biến, xây dựng công ty dịch vụ tổng hợp trên địa bàn. Giải quyết một cách cơ
bản tình trạng tranh chấp ruộng đất. Trên cơ sở quyền sở hữu toàn dân, ruộng
đất được giao cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng luật pháp
các vấn đề thừa kế, chuyển quyền sử dụng ruộng đất...
Phát triển mạnh kinh tế gia đình bằng nhiều hình thức, nhân dân
bỏ vốn là chính kết hợp với sự hỗ trợ chủ yếu bằng chính sách của Nhà nước.
Kinh tế tư nhân được phát triển theo sự quản
lý, hướng dẫn của Nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất; hướng kinh tế tư
bản tư nhân phát triển theo con đường tư bản nhà nước.
Sớm chấn chỉnh về tổ chức và công tác quản lý đối với các cơ sở công
nghiệp, xây dựng, vận tải ngoài quốc doanh.
Tổ chức từng bước việc thành lập các xí nghiệp, công ty cổ phần.
- Từng bước hình thành và mở rộng đồng bộ các thị trường bao gồm
các yếu tố của quá trình tái sản xuất (thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản
xuất, dịch vụ, thị trường vốn và tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị trường sức
lao động...). Phát triển các hình thức thu hút vốn và bảo đảm chu chuyển vốn
nhanh. Xây dựng thí điểm thị trường chứng khoán khi có điều kiện.
Mở rộng giao lưu hàng hoá trong cả nước, chú trọng nông thôn và miền
núi, xoá bỏ triệt để mọi hình thức chia cắt thị trường theo địa giới hành
chính. Gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, giải quyết tốt mối
quan hệ giữa tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ sản xuất
nội địa, kiên quyết chống buôn lậu và các hiện tượng tiêu cực khác trong lưu
thông. Tăng cường vai trò của hợp đồng kinh tế theo đúng pháp luật. Làm tốt
công tác dự báo và chủ động cân đối về những mặt hàng thiết yếu, hạn chế đến
mức thấp nhất và khắc phục kịp thời các đột biến về giá trên thị trường.
Sắp xếp và đổi mới hệ thống thương nghiệp quốc doanh, nâng cao hiệu
quả, phát huy tác dụng tích cực trong việc ổn định và điều tiết giá cả thị
trường. Tập trung làm tốt khâu bán buôn kết hợp với một phần bán lẻ những mặt
hàng thiết yếu. Có chính sách giải quyết vốn cho thương nghiệp quốc doanh để
kinh doanh và dự trữ lưu thông cần thiết. Có cơ chế phối hợp và điều hòa giữa
dự trữ quốc gia và dự trữ lưu thông.
Sắp xếp, thu gọn đầu mối các tổ chức xuất, nhập khẩu ở trung ương và
địa phương; thành lập hiệp hội xuất, nhập khẩu trên cơ sở tự nguyện. Đổi mới và
quản lý chặt chẽ việc cấp giấy phép và hạn ngạch xuất, nhập khẩu.
Kiên trì vận dụng cơ chế giá thị trường đối với giá hàng tiêu dùng, tư
liệu sản xuất, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng; điều chỉnh từng bước mặt
bằng giá và quan hệ tỷ giá cho phù hợp với sự thay đổi của giá quốc tế đối với
các loại vật tư, nguyên liệu, thiết bị nhập khẩu, song phải chú ý bảo đảm sản
xuất phát triển. Kiểm tra và giám sát giá các vật tư, hàng hoá, dịch vụ quan
trọng nhất, giá của một số đơn vị độc quyền kinh doanh.
Tiếp tục xoá bỏ các hình thức phân phối hiện vật; tính đủ giá trị đối
với đất đai, tài nguyên... đưa vào sử dụng.
- Đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu của Nhà
nước.
Tiếp tục đổi mới và bổ sung hệ thống pháp luật kinh tế . Tăng
cường kỷ luật, kỷ cương trong việc chấp hành các chính sách, chế độ của Nhà
nước; các ngành, các cấp không được tự ý thay đổi khi chưa có sự chấp thuận của
cấp có thẩm quyền.
Nâng cao chất lượng kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, bao quát
mọi thành phần kinh tế, lấy thị trường làm đối tượng và là căn cứ quan trọng
nhất. Sử dụng các chương trình mục tiêu, chính sách đầu tư, tín dụng và các
chính sách kinh tế khác để tạo điều kiện và hướng dẫn sự phát triển của các
thành phần kinh tế. Kế hoạch phải xác định những cân đối lớn của nền kinh tế
quốc dân và có chính sách, biện pháp bảo đảm các cân đối đó. Nâng cao dần trình
độ dự báo kinh tế - xã hội trong công tác kế hoạch hoá.
Xây dựng chính sách tài chính quốc gia và thực hiện cải cách cơ
bản tài chính nhà nước theo hướng thúc đẩy khai thác tiềm năng thiên nhiên và
của các tầng lớp nhân dân; vừa tích tụ vốn ở đơn vị kinh tế, vừa bảo đảm nguồn
vốn tập trung của Nhà nước; vừa tạo điều kiện, vừa gây sức ép buộc các đơn vị
kinh tế tìm mọi biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh; thực hiện phân phối hợp
lý thu nhập quốc dân, nâng cao dần tỷ lệ tích luỹ, thực hành tiết kiệm và bảo
đảm công bằng xã hội; góp phần tích cực kiềm chế và đẩy lùi lạm phát.
Tiếp tục đổi mới và bổ sung các luật thuế. Kiện toàn hệ thống thu thuế,
chống thất thu và lạm thu, chống mọi biểu hiện tiêu cực trong công tác thuế.
Phát triển đa dạng và quản lý tốt các hình thức bảo hiểm. Tăng cường thanh tra
tài chính, kiểm soát việc chấp hành pháp lệnh kế toán - thống kê.
Hệ thống ngân hàng thực hiện đúng chức năng của
ngân hàng nhà nước và ngân hàng kinh doanh; phân định rành mạch giữa tài chính
và tín dụng. áp dụng hình thức ngân hàng cổ phần. Ngân hàng vươn lên làm tốt
chức năng là trung tâm tiền tệ, tín dụng và thanh toán của các thành phần kinh
tế, thúc đẩy sản xuất phát triển có hiệu quả, góp phần từng bước ổn định giá
trị đồng tiền Việt Nam. Thực hiện quản lý ngoại tệ qua ngân hàng; sử dụng ngoại
tệ có kế hoạch, xây dựng thị trường hối đoái hợp pháp. Cho phép ngân hàng nước
ngoài vào hoạt động theo luật pháp của Việt Nam.
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống kế toán, thống kê và thông tin
kinh tế phục vụ cho công tác quản lý nhà nước và sản xuất kinh doanh.
- Cải tiến công tác điều hành của Nhà nước về kinh tế theo hướng
tăng cường phối hợp đồng bộ giữa các cấp quản lý, bảo đảm sự nhất quán trong
các quyết định. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát. Tiếp tục phân định rõ
quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý kinh doanh của các đơn vị cơ sở. Cải
tiến phân cấp quản lý kinh tế giữa trung ương và các cấp chính quyền địa
phương.
4- Chính sách xã hội.
Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh
tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người. Kết hợp
hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần
của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính
sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế.
- Phương hướng giải quyết đời sống 5 năm tới là: đáp ứng tốt hơn
các nhu cầu thiết yếu và ngày càng đa dạng của các tầng lớp dân cư; bảo đảm
vững chắc nhu cầu lương thực, khắc phục tình trạng thiếu đói thường xuyên và
nạn đói giáp hạt ở một số vùng; nâng mức cung ứng và tiêu dùng thực phẩm, tăng
thêm dinh dưỡng bữa ăn của đông đảo nhân dân.
Cải thiện điều kiện ở của nhân dân, chú trọng các thành phố lớn, một số
vùng nông thôn và các vùng hay gặp thiên tai. Từng bước cải thiện các điều kiện
vệ sinh công cộng, bảo vệ môi trường, xây dựng nếp sống văn minh. Phát triển và
nâng cao chất lượng hệ thống giao thông công cộng.
Đổi mới chính sách tiền lương và thu nhập, khuyến khích mọi
người tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế;
bảo hộ các nguồn thu nhập hợp pháp; điều tiết hợp lý thu nhập giữa các bộ phận
dân cư, các ngành và các vùng. Đấu tranh ngăn chặn thu nhập phi pháp.
Cải cách cơ bản chính sách tiền lương và tiền công theo các nguyên tắc:
tiền lương và tiền công phải dựa trên số lượng và chất lượng lao động, bảo đảm
tái sản xuất sức lao động; tiền tệ hoá tiền lương, xoá bỏ chế độ bao cấp ngoài
lương dưới hình thức hiện vật; thực hiện mối tương quan hợp lý về tiền lương và
thu nhập của các bộ phận lao động xã hội. Từ năm 1992, cải cách chính sách tiền
lương với bước đi hợp lý gắn với tinh giản bộ máy, biên chế và tìm thêm việc
làm cho số lao động dôi ra.
Đối với chiến sĩ lực lượng vũ trang, thực hiện tốt chế độ cung cấp đủ
tiêu chuẩn hiện vật theo định lượng. Có chế độ phụ cấp giúp sĩ quan và quân
nhân xuất ngũ có thêm điều kiện tạo lập cuộc sống mới.
Đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội theo hướng: mọi người lao
động và đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều đóng góp vào quỹ bảo
hiểm xã hội. Từng bước tách quỹ bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức nhà
nước khỏi ngân sách và hình thành quỹ bảo hiểm xã hội chung cho người lao động
thuộc mọi thành phần kinh tế.
Quan tâm chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công
với cách mạng vừa là trách nhiệm của Nhà nước, vừa là trách nhiệm của toàn dân,
sớm ban hành chế độ toàn dân đóng góp vào quỹ đền ơn, trả nghĩa để chăm lo đời
sống thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng.
Hình thành các tổ chức của người tàn tật và vì người tàn tận, các hội
từ thiện, tổ chức việc giúp đỡ người già cô đơn và trẻ mồ côi, Những người cơ
nhỡ, bất hạnh trong cuộc sống. Nhà nước dành một phần quỹ dự phòng của ngân
sách để chủ động cứu giúp những người gặp tai nạn do thiên tai.
Bảo vệ sức khoẻ, nâng cao thể lực của nhân dân phải
trở thành hoạt động tự giác của mỗi người, với sự quan tâm của Nhà nước và của
toàn xã hội.
Phát triển các hoạt động y tế bằng khả năng của Nhà nước và của nhân
dân, theo hướng dự phòng là chính; kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền
dân tộc. Sắp xếp lại hệ thống y tế, củng cố y tế cơ sở, đặc biệt là ở miền núi.
Xây dựng kế hoạch bảo vệ sức khoẻ theo vùng lãnh thổ. Từng bước khắc phục về cơ
bản các bệnh nhiễm trùng và ký sinh trùng, khống chế bệnh sốt rét, hạn chế đến
mức thấp nhất bệnh bướu cổ, ngăn ngừa và chống bệnh SIDA. Bảo vệ, chăm sóc bà
mẹ và trẻ em, thực hiện tốt dự phòng tích cực ngay trong thời kỳ thai nhi.
Bảo đảm nhu cầu về thuốc chữa bệnh. Mở rộng công nghiệp trang thiết bị
y tế, tích cực chuẩn bị xây dựng công nghiệp hoá dược và kháng sinh, phát triển
nuôi trồng cây, con làm thuốc. Phát triển bảo hiểm khám chữa bệnh, tăng ngân
sách cho hoạt động khám chữa bệnh.
Phát triển khoa học y dược học, xây dựng các mũi nhọn y dược học, y tế
Việt Nam, chú trọng đào tạo cán bộ, tiếp nhận tiến bộ khoa học thế giới ứng
dụng thích hợp vào nước ta trên cơ sở đông - tây y kết hợp.
Mở rộng hợp tác quốc tế về y tế, sử dụng có hiệu quả các nguồn viện trợ
quốc tế trong lĩnh vực này.
Công tác thể dục, thể thao cần coi trọng nâng cao chất lượng
giáo dục thể chất trong các trường học; tổ chức hướng dẫn và vận động đông đảo
nhân dân tham gia rèn luyện thân thể hằng ngày; nâng cao chất lượng các cơ sở
đào tạo, bồi dưỡng vận động viên, nâng cao thành tích một số môn thể thao. Cải
tiến tổ chức, quản lý các hoạt động thể dục, thể thao theo hướng kết hợp chặt
chẽ các tổ chức nhà nước và các tổ chức xã hội. Tạo các điều kiện về cán bộ, cơ
sở vật chất và khoa học, kỹ thuật để phát triển nhanh một số môn thể thao Việt
Nam có truyền thống và có triển vọng.
- Chính sách giải quyết dân số và việc làm được coi là một trong
những mục tiêu rất quan trọng của kế hoạch 5 năm tới.
Giảm tốc độ tăng dân số là một quốc sách, phải trở thành
cuộc vận động rộng lớn, mạnh mẽ và sâu sắc trong toàn dân. Tăng kinh phí,
phương tiện, cán bộ, đồng thời thực hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục, hành
chính để đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch. Củng cố các tổ chức chuyên
trách công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình.
Phương hướng quan trọng nhất để giải quyết việc làm là thực hiện
tốt Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, coi trọng cả phát triển sản xuất và
dịch vụ. Kết hợp giữa giải quyết việc làm tại chỗ với phân bố lại lao động theo
vùng lãnh thổ, xây dựng các khu kinh tế mới, hình thành các cụm kinh tế - kỹ
thuật - dịch vụ nhỏ ở nông thôn, ở các thị trấn, thị tứ, đồng thời mở rộng xuất
khẩu lao động. Đa dạng hoá việc làm và thu nhập để thu hút lao động của mọi
thành phần kinh tế. Giải quyết việc làm là trách nhiệm của mọi ngành, mọi cấp,
mọi đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế, của từng gia đình, từng người, với sự
đầu tư của Nhà nước, các đơn vị kinh tế và nhân dân. Có chương trình đồng bộ giải
quyết việc làm. Sớm ban hành Luật lao động và các quy chế cụ thể để bảo đảm
quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao
động.
- Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, cùng
xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt
đẹp của mỗi dân tộc là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Cần có
chính sách hỗ trợ các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế hàng hoá phù hợp với
điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc
khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tôn trọng tiếng nói và chữ viết của các dân
tộc.
Bảo đảm cho người Hoa hưởng mọi quyền và nghĩa vụ công dân, tôn trọng
văn hoá, chữ viết, tạo điều kiện để bà con người Hoa yên tâm làm ăn, góp phần
xây dựng đất nước Việt Nam và vun đắp quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước
Việt - Trung.
Tôn trọng văn hoá, tôn giáo của đồng bào Khơ-me, có chính sách giúp đỡ
bà con người Khơme về đời sống, nhất là ở những vùng đồng bào có nhiều khó
khăn.
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của đông đảo nhân dân.
Đạo đức tôn giáo có một số điểm phù hợp nhất định với công cuộc xây dựng xã hội
mới. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, thực
hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ
hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành
động vi phạm tự do tín ngưỡng; đồng thời nghiêm cấm và ngăn chặn mọi hành vi
lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã
hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân.
Đối với những công dân đã tham gia chính quyền và quân đội dưới các
chế độ cũ, Đảng, Nhà nước và xã hội ta đánh giá căn cứ vào thái độ và việc
làm của họ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ngày nay; xoá bỏ mọi
thành kiến, tạo điều kiện để họ đóng góp tài năng và sức lực vào sự nghiệp dân
giàu, nước mạnh.
Hơn hai triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài có mối quan hệ
gắn bó với nhân thân, với quê hương, đất nước. Đảng và Nhà nước ta hoan nghênh
bà con giữ gìn bản sắc, truyền thống và giá trị văn hoá dân tộc, tình cảm gắn
bó với quê hương, đất nước, nâng cao tính cộng đồng, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau
trong cuộc sống, xây dựng quan hệ tốt đẹp với nhân dân sở tại, đồng thời quan
tâm theo dõi, ủng hộ và đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước. Cần tổ chức
tốt việc thông tin tình hình trong nước và tạo điều kiện dễ dàng để bà con
người Việt ở nước ngoài về thăm đất nước.
5- Khoa học, giáo dục, văn hoá.
Phát triển sự nghiệp khoa học, giáo dục, văn hoá nhằm phát huy nhân tố
con người và vì con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong
toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là một động lực
đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của
thế giới.
Hoạt động khoa học và công nghệ phải bảo đảm cơ sở khoa học cho
các quyết định quan trọng của các cơ quan lãnh đạo, quản lý là công cụ chủ yếu
để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế - xã
hội, góp phần xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, thúc đẩy công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước.
Khoa học xã hội phải trở thành công cụ sắc bén trong việc đổi mới tư
duy, xây dựng luận cứ khoa học cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta,
xây dựng lập trường, quan điểm đúng đắn, xây dựng ý thức và nhân cách xã hội
chủ nghĩa, khắc phục những tư tưởng sai lầm. Trong những năm tới, nhiệm vụ chủ
yếu của các ngành khoa học xã hội là vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của nước ta
và tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa học của thế giới, nghiên cứu những
vấn đề cơ sở lý luận để hoàn thiện và triển khai Cương lĩnh, Chiến lược ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội và Nghị quyết Đại hội VII. Khắc phục sự chậm trễ
của khoa học xã hội, đổi mới một cách căn bản nội dung và phương pháp giảng dạy
các bộ môn khoa học Mác - Lênin, khoa học kinh tế, khoa học quản lý; phát triển
nhanh các ngành triết học, kinh tế học, xã hội học, luật học, khoa học chính
trị và khoa học quản lý, đặc biệt là khoa học quản lý kinh tế và quản lý nhà
nước.
Các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ tập trung vào việc cải tạo,
đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong nước hiện có, hiện đại hoá những
công nghệ truyền thống có ý nghĩa kinh tế, xã hội cao, lựa chọn tiếp thu những
công nghệ mới. Tập trung phát triển có trọng điểm một số hướng công nghệ hiện
đại như điện tử, tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới. Nghiên cứu và phổ
cập các giải pháp có hiệu quả nhằm sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường.
Trong những năm trước mắt, cần thực hiện một số biện pháp quan trọng
sau: xây dựng quy chế dân chủ, tăng cường sự hợp tác, khuyến khích tìm tòi và
tranh luận trong sinh hoạt khoa học; chú trọng bồi dưỡng, tuyển chọn và phát
huy năng lực đội ngũ cán bộ khoa học. Tăng mạnh đầu tư cho các hoạt động khoa
học và công nghệ từ nhiều nguồn và quản lý việc sử dụng có hiệu quả các nguồn
vốn đầu tư đó. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về khoa học và công
nghệ. Kiện toàn hệ thống các tổ chức khoa học và công nghệ, có những hình thức
linh hoạt gắn hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và triển khai với nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý và chính sách khoa học,
công nghệ phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
và yêu cầu mở rộng hợp tác quốc tế. Đẩy mạnh phong trào lao động sáng tạo và
ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong nhân dân. Tiếp tục hoàn thiện các cơ
chế và chính sách quản lý kinh tế để thúc đẩy mạnh mẽ việc ứng dụng khoa học và
công nghệ. Thành lập Hội đồng chính sách khoa học và công nghệ quốc gia.
Mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay
nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách
mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ
theo hướng toàn diện và có năng lực chuyên môn sâu, có ý thức và khả năng tự
tạo việc làm trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Nhiệm vụ của 5 năm tới là tiếp tục đổi mới, ổn định, phát triển và nâng
cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Coi trọng chất lượng giáo dục chính trị,
đạo đức cho học sinh và sinh viên; hiện đại hoá một bước nội dung, phương pháp
giáo dục; dân chủ hoá nhà trường và quản lý giáo dục; đa dạng hoá loại hình đào
tạo và loại hình trường lớp; từng bước hình thành những trường bán công, dân
lập, tư thục (dạy nghề), phát triển loại trường vừa học vừa làm. Mở rộng đào
tạo nghề; bồi dưỡng nhiều người giỏi về khoa học, công nghệ, kinh doanh, về
quản lý kinh tế, xã hội và nhiều công nhân lành nghề; nâng cao trình độ văn
hoá, khoa học, kỹ thuật cho người lao động.
Củng cố, ổn định trường lớp hiện có của giáo dục mầm non. Tập trung
thực hiện chương trình phổ cập giáo dục cấp I và chống mù chữ; phát triển cấp
II, cấp III phù hợp với yêu cầu và khả năng của từng địa phương. Củng cố và
phát triển trường phổ thông cho trẻ em có tật. Sắp xếp lại các trường đại học,
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Mở rộng một cách hợp lý quy mô
đào tạo đại học, mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học. Tiếp tục
cải tiến chế độ tuyển sinh và chế độ học bổng. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu,
thực nghiệm giáo dục, thể chế hoá cơ cấu của hệ thống giáo dục quốc dân.
Tăng đầu tư cho miền núi và vùng dân tộc thiểu số, mở rộng các trường
nội trú, quy hoạch đào tạo cán bộ và trí thức người dân tộc.
Trong những năm tới, cần tổng kết cuộc cải cách giáo dục vừa qua, chuẩn
bị tiến hành cuộc cải cách giáo dục mới theo hướng đào tạo một đội ngũ lao động
có trí tuệ thích ứng với nền kinh tế hàng hoá.
Tiếp tục xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá Việt Nam, bảo
tồn và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại. Vận động toàn dân thực hiện lối sống cần, kiệm, văn minh, lịch
sự. Phổ biến rộng rãi trong nhân dân những kiến thức văn hoá cần thiết cho sản
xuất và đời sống. Thực hiện nam nữ bình đẳng, bảo vệ nhân phẩm phụ nữ. Phát
động phong trào quần chúng bài trừ mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội khác.
Xây dựng gia đình văn hoá mới có ý
nghĩa rất quan trọng trong tình hình hiện nay, góp phần phát triển lực lượng
sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống, thực hiện kế hoạch hoá dân số, giữ gìn
và phát huy những truyền thống đạo đức, văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Nâng cao ý
thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người. Kết hợp và phát huy vai trò
của xã hội, các đoàn thể, nhà trường, tập thể lao động và tập thể dân cư trong
việc chăm lo bồi dưỡng tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người
mới và nền văn hoá mới.
Văn học, nghệ thuật là một bộ phận quan trọng trong
nền văn hoá, gắn bó với đời sống nhân dân và sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh
đạo. Khuyến khích tự do sáng tạo văn học, nghệ thuật vì sự hoàn thiện con
người, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cao đẹp của con người, đề cao tinh thần tự
hào dân tộc, tự lực, tự cường, phấn đấu làm cho dân giàu, nước mạnh, phê phán
những thói hư tật xấu, cái độc ác, thấp hèn. Vừa coi trọng những đề tài về
truyền thống dân tộc, cách mạng và kháng chiến, vừa bám sát thực tiễn cuộc sống
hiện nay. Qua phong trào sáng tạo văn học, nghệ thuật của quần chúng mà phát
hiện, bồi dưỡng và phát huy mọi tài năng, chú ý tài năng trẻ. Nâng cao chất
lượng công tác lý luận, nghiên cứu, giới thiệu và phê bình văn học, nghệ thuật;
chọn lọc những tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật tốt phổ biến rộng rãi
trong công chúng. Tạo điều kiện cho những tác phẩm có giá trị về nghệ thuật và
tư tưởng được xuất bản, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá của nhân dân lao
động. Nghiêm trị những người truyền bá và kinh doanh văn hoá phẩm phản động,
đồi trụy; chống văn hoá ngoại lai, không lành mạnh.
Phát triển sự nghiệp thông tin, báo chí, xuất bản theo hướng
nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu thông tin và nâng cao kiến thức văn hoá
của nhân dân. Tăng đầu tư phương tiện phát thanh, truyền hình, đưa thông tin
đến mọi vùng của đất nước, đến phần lớn các gia đình, nhất là ở nông thôn và
miền núi. Coi trọng công tác tuyên truyền đối ngoại. Quản lý chặt chẽ công tác
xuất bản, thông tin, báo chí, phim ảnh.
Nhà nước có chính sách đúng đối với các loại sản phẩm văn hoá khác nhau
(có loại Nhà nước đầu tư hoàn toàn hoặc trợ giá, có loại phải tự hạch toán kinh
doanh); quan tâm thích đáng đào tạo nhân tài, chăm sóc các nhà văn hoá, các văn
nghệ sĩ, các nhà báo có nhiều cống hiến; bồi dưỡng phẩm chất chính trị, lý luận,
nghiệp vụ cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các lĩnh vực này. Sắp xếp lại tổ
chức và cải tiến công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động văn hoá, nghệ
thuật, thông tin, báo chí, xuất bản. Đổi mới phương thức hoạt động của các đơn
vị văn hoá, nghệ thuật.
6- Quốc phòng và an ninh.
Củng cố nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân
nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, ngăn
chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại và xâm lược của kẻ thù. Đó
là nhiệm vụ của toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị.
Đẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trong thế trận
quốc phòng toàn dân, có khả năng ngăn chặn, đập tan các âm mưu và hành động
phản cách mạng tại địa phương và tích cực chiến đấu bảo vệ địa phương trong mọi
tình huống. Xây dựng các công trình quốc phòng trọng điểm cần thiết. Kết hợp
chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế của cả nước và trên từng địa phương; xây dựng, củng cố
vững chắc các khu căn cứ hậu phương chiến lược; chuẩn bị các phương án động
viên khi cần thiết.
Xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân với chất lượng ngày càng cao.
Xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại, tinh nhuệ,
với cơ cấu tổ chức và quân số hợp lý; nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh
chiến đấu. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, được huấn luyện và quản
lý tốt, bảo đảm khi cần thiết có thể động viên được nhanh chóng theo kế hoạch. Xây
dựng lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp, lấy chất lượng làm chính.
Sử dụng có hiệu quả tiềm năng lao động, lực lượng khoa học và cơ sở vật
chất - kỹ thuật của quân đội để xây dựng kinh tế và củng cố hệ thống công
nghiệp quốc phòng. Coi trọng đầu tư chiều sâu, phát huy năng lực sản xuất của
các xí nghiệp công nghiệp quốc phòng hiện có. Xây dựng và từng bước thực hiện
quy hoạch dài hạn và kế hoạch 5 năm về công nghiệp quốc phòng. Hoàn thành việc
chuyển các xí nghiệp quốc phòng sang cơ chế quản lý mới. Hiệu quả làm kinh tế
của quân đội được xem xét trên cả hai mặt kinh tế -xã hội và quốc phòng.
Chăm lo công tác đảng, công tác chính trị. Nâng cao chất lượng của đội
ngũ cán bộ. Bổ sung và thực hiện tốt các chính sách đối với quân đội và hậu
phương quân đội phù hợp với tính chất lao động đặc thù của quân đội. Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và sự nghiệp quốc phòng, bảo đảm quân đội
luôn luôn là lực lượng trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, vững
vàng trong mọi tình huống.
Giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất
nước, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực
thù địch và các loại tội phạm khác; giữ gìn trật tự an toàn xã hội, bảo
vệ vững chắc những thành quả của cách mạng, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới.
Đây là một nhiệm vụ trọng yếu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kết
hợp thành chiến lược thống nhất giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với
bảo vệ an ninh, trật tự; kết hợp củng cố nền quốc phòng toàn dân với xây dựng
thế trận an ninh nhân dân. Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị,
tính tích cực cách mạng của khối đoàn kết toàn dân, phối hợp lực lượng quốc
phòng và an ninh trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự.
Phát động sâu rộng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây
dựng các tuyến và địa bàn an toàn về an ninh, trật tự, chủ động phòng ngừa và
đấu tranh có hiệu quả chống các thế lực thù địch và bọn tội phạm. Sử dụng đồng
bộ các biện pháp đấu tranh; phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh những kẻ phạm
tội theo đúng pháp luật. Tăng cường các lực lượng chuyên trách đấu tranh bảo vệ
luật pháp.
Xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững mạnh, thực sự là
lực lượng nòng cốt, xung kích trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự. Tổ
chức và hoạt động của công an phải gắn bó với nhân dân. Thông qua phong trào
quần chúng mà phát triển công tác nghiệp vụ và rèn luyện cán bộ, chiến sĩ. Nâng
cao chất lượng mọi mặt của lực lượng biên phòng; phát huy hiệu lực quản lý nhà
nước đối với biên giới quốc gia. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ
chính trị, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ, pháp luật... của đội ngũ cán bộ, chiến
sĩ. Củng cố lực lượng cơ sở, lực lượng nửa chuyên trách.
Tăng cường trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật; có chính sách thích đáng
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đối với lực lượng công an nhân dân, chú
trọng lực lượng thường xuyên hoạt động trên các tuyến biên giới, những vùng xa
xôi hẻo lánh và địa bàn đặc biệt.
7- Chính sách đối ngoại.
Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian tới là giữ vững hoà bình,
mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng lợi ích của nhân dân
ta, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Cần nhạy bén nhận thức được những diễn biến phức tạp và thay đổi sâu
sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trên
thế giới để có những chủ trương đối ngoại phù hợp. Trong điều kiện mới càng
phải coi trọng vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện
đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các
nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên
tắc cùng tồn tại hoà bình.
Trước sau như một tăng cường đoàn kết và hợp tác với Liên Xô, đổi mới
phương thức và nâng cao hiệu quả hợp tác Việt - Xô nhằm đáp ứng lợi ích của mỗi
nước.
Không ngừng củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết và hữu nghị đặc biệt
giữa Đảng và nhân dân ta với Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân dân Campuchia
anh em. Đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả theo nguyên tắc bình
đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau. Phấn đấu góp
phần sớm đạt được một giải pháp chính trị toàn bộ về vấn đề Campuchia, trên cơ
sở tôn trọng chủ quyền của Campuchia và Hiến chương Liên hợp quốc.
Thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, từng bước mở
rộng sự hợp tác Việt - Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước
thông qua thương lượng hoà bình.
Củng cố quan hệ hữu nghị, đoàn kết, hợp tác cùng có lợi và bình đẳng
với Cuba và các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Đảng Cộng sản Việt Nam tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản và công
nhân, góp phần tích cực vào sự đoàn kết và hợp tác với các đảng anh em trên cơ
sở chủ nghĩa Mác-Lênin, đấu tranh vì những mục tiêu cao cả của thời đại.
Đảng Cộng sản Việt Nam đoàn kết với các lực lượng đấu tranh cho hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, sẵn sàng thiết lập và mở rộng
quan hệ với các đảng xã hội - dân chủ, các phong trào dân chủ và tiến bộ trên
thế giới.
Phát triển quan hệ đoàn kết, tin cậy và nâng cao hiệu quả hợp tác nhiều
mặt với ấn Độ. Tiếp tục mở rộng hợp tác với các nước đang phát triển khác. Tích
cực góp phần củng cố và tăng cường Phong trào Không liên kết.
Phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ở Đông Nam á và châu á - Thái
Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam á hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Mở rộng
sự hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước Bắc âu, Tây âu, Nhật Bản và các
nước phát triển khác. Thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ.
Góp phần làm cho Liên hợp quốc phục vụ đắc lực hơn những mục tiêu của
nhân loại là hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Hợp tác với các tổ chức
tài chính và tiền tệ quốc tế cũng như các tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc
và các tổ chức phi chính phủ.
8- Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà
nước và vai trò của các đoàn thể nhân dân.
Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi mới
và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu vừa là động lực của công
cuộc đổi mới.
Điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ dân
trí, trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân.
Đổi mới công tác thông tin và quy trình ra các quyết định của Đảng và Nhà nước,
để các quyết định ấy phản ánh được trí tuệ của toàn Đảng và của nhân dân. Chống
tệ quan liêu và những hành vi xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân; ngăn chặn và
khắc phục dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, dân chủ tư sản. Nghiêm trị những
hoạt động phá hoại, gây rối, thù địch.
Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo phương hướng: Nhà nước
thực sự là của dân, vì dân và do dân; Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, thực hiện thống nhất quyền lực nhưng phân công, phân cấp rành mạch; bộ máy
tinh giản, gọn nhẹ và hoạt động có chất lượng cao trên cơ sở ứng dụng các thành
tựu khoa học, kỹ thuật, quản lý.
Cần tập trung làm tốt một số việc:
- Tiếp tục sửa đổi, xây dựng hệ thống pháp luật, các chế độ chính sách
về quyền và nghĩa vụ công dân. Nâng cao trình độ của các cơ quan nhà nước về
xây dựng luật, nắm vững pháp luật và quản lý theo pháp luật. Thường xuyên giáo
dục pháp luật, xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật trong nhân dân.
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội để làm đúng trách nhiệm là
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hội đồng nhân dân phải có thực quyền. Đổi
mới tiêu chuẩn đại biểu và chế độ bầu cử Quốc hội và hội đồng nhân dân.
- Sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Hội đồng Bộ
trưởng, coi trọng bàn bạc tập thể, đồng thời đề cao trách nhiệm và quyền hạn cá
nhân của người đứng đầu Hội đồng Bộ trưởng, đứng đầu bộ trong quản lý và điều
hành.
- Xác định lại chức năng, nhiệm vụ của cấp tỉnh, huyện, xã để sắp xếp
lại tổ chức của mỗi cấp; đề cao quyền chủ động và trách nhiệm của địa phương,
nhưng bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Nhà nước trung ương. Xây dựng chính
quyền cấp xã, phường vững mạnh.
- Tăng cường hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Bảo đảm các
điều kiện và phương tiện cần thiết để các cơ quan này có đủ quyền lực và khả
năng thực hiện tốt nhiệm vụ.
- Kiên quyết sắp xếp lại tổ chức và tinh giản biên chế các cơ quan hành
chính, sự nghiệp ngay từ năm 1991, làm cho bộ máy gọn nhẹ và hoạt động có hiệu
quả. Sớm ban hành Luật lao động và quy chế viên chức nhà nước. Xây dựng đội ngũ
viên chức nhà nước có phẩm chất chính trị, tinh thần trách nhiệm cao và thành
thạo nghiệp vụ.
- Tiếp tục tiến hành kiên quyết và thường xuyên cuộc đấu tranh chống tệ
tham nhũng trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức đảng và trong xã hội. Phương
hướng cơ bản để khắc phục tệ tham nhũng là phải xây dựng và hoàn chỉnh bộ máy,
cơ chế quản lý và pháp luật; xử lý nghiêm minh những người vi phạm, đồng thời
tăng cường giáo dục tư tưởng, quản lý chặt chẽ nội bộ.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần
được đổi mới về tổ chức và hoạt động để thực sự góp phần thực hiện dân chủ và
đổi mới xã hội, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia các
công việc quản lý nhà nước; giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa
Đảng và Nhà nước với nhân dân. Các đoàn thể có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư
tưởng và đạo đức mới, động viên, phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp
nhân dân, đoàn kết toàn dân, phấn đấu cho sự thành công của công cuộc đổi mới.
Hình thức tổ chức và sinh hoạt của đoàn thể phải đa dạng, đáp ứng nhu
cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống nhân dân, ích nước, lợi nhà, tương
thân tương ái; thành lập và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ dưới sự
lãnh đạo của Đảng và tuân theo pháp luật của Nhà nước; hướng về cơ sở, sát với
đoàn viên, hội viên. Khắc phục tình trạng nhà nước hoá, hành chính hoá.
Bộ máy của các đoàn thể phải rất gọn nhẹ, hoạt động đúng với tính chất
tổ chức quần chúng. Cán bộ của các đoàn thể đại bộ phận không chuyên trách,
được lựa chọn từ những người ưu tú trong phong trào, có năng lực, phẩm chất và
có tín nhiệm với đoàn viên, hội viên.
Đổi mới và nâng cao hiệu quả lãnh đạo của cấp uỷ đảng đối với công tác
quần chúng và các đoàn thể nhân dân. Đặc biệt quan tâm xây dựng giai cấp công
nhân, giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ. Mỗi đảng viên đều phải làm công tác vận
động quần chúng, hoạt động tích cực trong các đoàn thể, các tổ chức xã hội.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò to lớn trong việc củng cố và tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước cần thể chế hoá quyền hạn và trách nhiệm của Mặt trận, của
các đoàn thể trong việc tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội; phối hợp chặt
chẽ hoạt động của các đoàn thể với nhau và với các cơ quan nhà nước từng cấp.
9- Chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Để lãnh đạo thắng lợi công cuộc đổi mới cũng như toàn bộ sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta phải tự đổi mới và chỉnh đốn,
có kiến thức, năng lực và sức chiến đấu mới, khắc phục có hiệu quả các hiện
tượng tiêu cực và các mặt yếu kém, khôi phục và nâng cao uy tín của Đảng trong
nhân dân. Đảng phải được xây dựng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức,
thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Trong 5 năm tới cần giải quyết tốt những vấn đề quan trọng và bức xúc
sau đây:
Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, tập
trung làm tốt việc hoàn chỉnh và cụ thể hoá Cương lĩnh, Chiến lược, định hướng
cho hoạt động của hệ thống chính trị và toàn xã hội. Bổ sung, cụ thể hoá quan
điểm về công tác tổ chức, cán bộ, lãnh đạo làm chuyển biến mạnh mẽ công tác tổ
chức, cán bộ. Tổ chức tốt việc kiểm tra thực hiện các quyết định của Đảng. Đảng
lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược và các định
hướng về chính sách; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, tổ chức, vận
động; bằng vai trò gương mẫu của đảng viên và tổ chức đảng. Đảng giới thiệu
những cán bộ có phẩm chất và năng lực vào cương vị lãnh đạo chủ chốt của các cơ
quan nhà nước để tăng cường hiệu lực của bộ máy nhà nước và bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng. Mọi cán bộ là đảng viên trong cơ quan nhà nước phải phục tùng sự lãnh
đạo của Đảng và thực hiện sáng tạo nghị quyết của Đảng, gương mẫu chấp hành
luật pháp của Nhà nước.
Quy định cụ thể mối quan hệ và lề lối làm việc giữa Đảng với Nhà nước
và các đoàn thể nhân dân ở các cấp, trước hết là ở trung ương.
Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, phục
vụ tốt yêu cầu nâng cao trình độ trí tuệ trong Đảng, quán triệt và phát triển
các Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phấn
đấu thực hiện thắng lợi kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm 1991-1995, nâng cao hơn
nữa lòng tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới.
Tiếp tục bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, những
quan điểm, đường lối của Đảng. Bồi dưỡng tinh thần độc lập tự chủ, ý thức tự
lực, tự cường, kết hợp với mở rộng hợp tác quốc tế, cần kiệm xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Nêu cao cảnh giác chống mọi âm mưu và thủ đoạn chia rẽ, phá hoại của
kẻ thù đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Tổ chức tốt công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, nâng cao
trình độ và năng lực vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của
nước ta, góp phần xây dựng chủ trương, chính sách của Đảng, lý giải những vấn
đề mới mà cuộc sống đặt ra. Đổi mới căn bản công tác giáo dục chính trị, lý
luận.
Chấn chỉnh tổ chức và bộ máy của Đảng, tạo
ra sự chuyển biến có ý nghĩa cách mạng trong tổ chức và bộ máy ở các cấp. Xây
dựng các cấp uỷ đảng từ Ban Chấp hành Trung ương đến cấp uỷ đảng cơ sở thật sự
có đủ trí tuệ và năng lực lãnh đạo phù hợp với yêu cầu ở mỗi cấp. Kịp thời thay
đổi, bổ sung các cấp uỷ viên khi cần thiết, không chờ hết nhiệm kỳ. Tiếp tục
kiện toàn các ban chuyên môn của cấp uỷ theo hướng tinh gọn về tổ chức và biên
chế, cán bộ có chất lượng. Chấn chỉnh tổ chức và hoạt động của các đảng bộ cơ
sở cho phù hợp với sự thay đổi của các tổ chức kinh tế, xã hội và phương thức
lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới. Khắc phục bằng được tổ chức cơ sở đảng
kém nát. Chú ý củng cố tổ chức đảng ở các vùng tôn giáo, dân tộc thiểu số.
Phát huy dân chủ nội bộ, thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Bảo
đảm cho mọi đảng viên thực hiện quyền dân chủ, thảo luận xây dựng đường lối,
chính sách của Đảng; ứng cử, bầu cử các cơ quan lãnh đạo; giám sát, kiểm tra
hoạt động của cấp uỷ. Đảng viên được phát biểu hết ý kiến trong quá trình chuẩn
bị ra nghị quyết, trình bày quan điểm trong tổ chức, được bảo lưu ý kiến, nhưng
khi đã có nghị quyết thì phải chấp hành nghiêm túc, không được tuyên truyền và
hành động theo quan điểm riêng. Cấp uỷ đảng cần lắng nghe ý kiến của đảng viên,
không định kiến, trù dập.
Mọi cấp uỷ viên có quyền và có trách nhiệm phát biểu ý kiến, tranh luận
thẳng thắn, tham gia các quyết định của cấp uỷ. Chống mọi biểu hiện độc đoán,
gia trưởng, áp đặt ý kiến cá nhân, không dám đấu tranh với những quan điểm và
việc làm sai trái.
Tăng quyền hạn của uỷ ban kiểm tra các cấp, chú trọng kiểm tra việc
thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, kiểm tra tư cách đảng viên
kể cả cấp uỷ viên cùng cấp, xem xét và xử lý kỷ luật đảng viên và các tổ chức
đảng theo quy định của Điều lệ Đảng.
Đẩy mạnh hơn nữa tự phê bình và phê bình, từ cơ quan lãnh đạo cao nhất
đến cơ sở. Bồi dưỡng tình đồng chí, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chủ
nghĩa cơ hội, tư tưởng bè phái, cục bộ.
Làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Căn
cứ vào tiêu chuẩn đảng viên trong giai đoạn hiện nay đã ghi trong Điều lệ Đảng
(sửa đổi), mọi đảng viên phải ra sức rèn luyện, học tập để có đủ phẩm chất,
kiến thức và năng lực phù hợp với nhiệm vụ được giao, nêu cao vai trò tiên
phong gương mẫu trong lao động và trong lối sống. Các cấp uỷ đảng phải thường xuyên
tổ chức bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất và trình độ nhận thức về các mặt của đảng
viên, làm tốt công tác rèn luyện và quản lý đảng viên.
Khai trừ khỏi Đảng những đảng viên thoái hoá, biến chất về chính trị và
đạo đức, gây chia rẽ, bè phái, tham ô, hối lộ, ức hiếp quần chúng. Đưa ra khỏi
Đảng bằng các hình thức thích hợp những đảng viên không tha thiết với Đảng,
giảm sút ý chí chiến đấu, thực sự không có tác dụng gì đối với công tác lãnh
đạo của Đảng.
Việc kết nạp đảng viên mới nhất thiết phải bảo đảm chất lượng. Chú
trọng trẻ hoá đội ngũ và tăng thêm thành phần công nhân trong Đảng.
Tiếp tục đổi mới cán bộ và công tác cán bộ, xây
dựng cho được một đội ngũ cán bộ vững mạnh và đồng bộ, bao gồm cán bộ lãnh đạo
chính trị, cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ kinh doanh, chuyên gia trên các lĩnh
vực, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, thực hiện được sự chuyển tiếp
vững vàng các thế hệ cán bộ.
Tiêu chuẩn cơ bản của cán bộ lãnh đạo trong giai đoạn hiện nay là: có
phẩm chất cách mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức và năng lực
thực hiện đổi mới, biết tổ chức và điều hành công việc, trung thực, thẳng thắn,
có lối sống lành mạnh, có khả năng đoàn kết, có phong cách dân chủ tập thể, có
ý thức tổ chức kỷ luật, nói đi đôi với làm, được quần chúng tín nhiệm.
Khẩn trương xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cho từng loại, từng chức danh
cán bộ ở các cấp, các ngành và căn cứ vào đó để đào tạo, bố trí, sử dụng cán
bộ, chấm dứt tình trạng bố trí cán bộ theo kiểu thân quen, cảm tính chủ quan.
Trong công tác cán bộ, cần coi trọng cả ba mặt: bồi dưỡng, bố trí đúng
để phát huy lực lượng cán bộ hiện có; kịp thời thay những cán bộ kém năng lực,
xử lý những cán bộ tham nhũng, thoái hoá, những cán bộ có quan điểm và tư tưởng
chính trị lệch lạc, vi phạm kỷ luật của Đảng; tích cực quy hoạch, đào tạo cán
bộ dự bị ở các cấp.
Đổi mới quan điểm về cán bộ và công tác cán bộ. Thực hiện chính sách
đoàn kết, động viên, phát huy mọi lực lượng cán bộ, cả ở trong Đảng và ngoài
Đảng; không hẹp hòi, định kiến về lý lịch và thành phần xuất thân. Xây dựng cơ
chế phát hiện, đề bạt và bãi miễn cán bộ, bảo đảm tính dân chủ và tập thể trong
công tác cán bộ. áp dụng các hình thức thích hợp với từng lĩnh vực, từng cấp
trong việc phát hiện, tìm hiểu, đánh giá, giới thiệu cán bộ. Khắc phục những
hiện tượng gò ép, áp đặt, dân chủ hình thức.
Đổi mới các chế độ, chính sách đối với cán bộ, trước hết là chính sách
tiền lương, bảo đảm ổn định đời sống của cán bộ, khuyến khích những người có
tài, có cống hiến xuất sắc, quan tâm chăm sóc cán bộ có công với cách mạng, cán
bộ hưu trí, cán bộ hoạt động ở những vùng có nhiều khó khăn. Xoá bỏ các chế độ,
chính sách mang tính bình quân và các quy định tạo ra đặc quyền đặc lợi.
Tăng cường sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và trách nhiệm trực tiếp của
các cơ quan nhà nước, các đoàn thể, các tổ chức sản xuất kinh doanh đối với
công tác cán bộ. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi đơn vị phải
đích thân chăm lo công tác cán bộ. Kiện toàn các cơ quan tham mưu về công tác
cán bộ, không để những người không vững vàng về chính trị, không trung thực,
kém phẩm chất và năng lực làm công tác cán bộ. Các cấp uỷ và tổ chức đảng cần
tăng cường lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, nâng cao chất
lượng đoàn viên và cán bộ đoàn, phát huy vai trò Đoàn là nòng cốt trong phong
trào thanh niên, phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, xứng đáng là
đội dự bị tin cậy của Đảng.
10- Một số nhiệm vụ kinh tế, xã hội cấp bách.
Cùng với việc thực hiện các phương hướng đổi mới toàn diện đã nêu ở
trên, để ổn định một bước tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục kiềm chế và đẩy
lùi lạm phát, trong thời gian trước mắt tập trung sức giải quyết một số nhiệm
vụ cấp bách sau đây:
- Đẩy mạnh sản xuất lương thực vụ hè thu và vụ mùa, tăng sản xuất rau màu
ngắn ngày để bù lại tổn thất của vụ đông xuân ở miền Bắc. Tăng sản lượng cây
công nghiệp và chăn nuôi để tạo thêm nguồn hàng xuất khẩu. Giải quyết đủ và kịp
thời các loại vật tư nông nghiệp; giúp nông dân vốn sản xuất bằng cách mở rộng
các hình thức tín dụng, kết hợp tín dụng nông thôn với tín dụng ngân hàng.
- Đối với sản xuất công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp thuộc tất cả
các thành phần kinh tế: tìm mọi nguồn để đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu, vật
liệu, thiết bị, phụ tùng, vốn cho sản xuất; mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm trong nước và xuất khẩu; quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu và chống buôn lậu
để bảo hộ sản xuất nội địa; thực hiện tiết kiệm, nâng cao chất lượng sản phẩm
và hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh; xử lý các cơ sở làm ăn thua lỗ
kéo dài để tập trung vốn, vật tư cho những cơ sở trọng điểm, làm ăn có hiệu
quả.
- Có chính sách huy động mọi nguồn vốn để bảo đảm thực hiện kế hoạch
xây dựng cơ bản năm 1991 và chuẩn bị cho những công trình xây dựng trọng yếu
của nền kinh tế quốc dân.
- Đẩy mạnh xuất khẩu, thống nhất quản lý ngoại tệ để thực hiện kế hoạch
nhập khẩu các vật tư, hàng hoá thiết yếu cho sản xuất và đời sống, bảo đảm cán
cân thanh toán quốc tế, góp phần duy trì các cân đối lớn của nền kinh tế.
- Mở rộng lưu thông và điều hoà hàng hoá giữa các vùng trong nước.
Thương nghiệp quốc doanh nắm và điều hoà các loại hàng thiết yếu nhất cho sản
xuất và đời sống, góp phần tích cực bình ổn giá, không để xảy ra những vụ đột
biến giá.
- Tiếp tục đổi mới hoạt động ngân hàng theo hướng kinh doanh, làm tốt
công tác tín dụng, tích cực tạo thêm nguồn vốn cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh của tất cả các thành phần kinh tế; làm tốt công tác thanh toán trong nền
kinh tế quốc dân; quản lý chặt chẽ việc phát hành và lưu thông tiền tệ.
- Ra sức phấn đấu thực hiện kế hoạch ngân sách nhà nước năm 1991. Giúp
đỡ phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh, thu đúng và thu đủ
thuế, chống thất thu thuế để tạo thêm nguồn thu cho tài chính nhà nước, đồng
thời triệt để tiết kiệm chi, lấy thu để chi, giảm bớt bội chi ngân sách.
- Thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp để giải quyết đời sống cho những
đối tượng đang gặp khó khăn.
Nhà nước hỗ trợ nông dân ở những nơi bị thiên tai nặng khôi phục sản
xuất và ổn định đời sống, đi đôi với vận động nông dân tương trợ lẫn nhau.
Khẩn trương nghiên cứu và xúc tiến cải cách cơ bản chế độ tiền lương,
gắn với việc sắp xếp hợp lý tổ chức và biên chế, xây dựng các chế độ bảo hiểm,
thực hiện việc toàn dân đóng góp vào quỹ đền ơn đáp nghĩa đối với những người
có công với cách mạng.
Phấn đấu tạo thêm nhiều việc làm, kể cả cho những người dôi ra trong
quá trình sắp xếp lại sản xuất kinh doanh và bộ máy quản lý, chú trọng đào tạo
lại nghề nghiệp và giúp một phần vốn cần thiết ban đầu.
- Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng và nạn buôn lậu. Khẩn trương
rà soát lại và sửa đổi, bổ sung các chính sách, quy định của Nhà nước để tạo
điều kiện đấu tranh có kết quả chống tệ tham nhũng; kịp thời xử lý nghiêm minh
những trường hợp đã phát hiện, loại bỏ khỏi guồng máy những cán bộ thoái hoá,
biến chất.
- Tiến hành có chiều sâu cuộc vận động các tầng lớp nhân dân, với lực
lượng công an nhân dân làm nòng cốt, bảo đảm an ninh và trật tự an toàn xã hội.
*
* *
Đại hội VII của Đảng khẳng định quyết tâm của Đảng và nhân dân ta tiếp
tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đưa đất nước ta vượt qua những thử
thách, đi dần vào thế ổn định và phát triển năng động, vững chắc.
Trước mắt chúng ta còn nhiều khó khăn trở ngại, song cũng có những thuận
lợi mới. Trên cơ sở các thành tựu đã đạt được, với bản lĩnh chính trị và truyền
thống cách mạng kiên cường của Đảng và nhân dân ta, chắc chắn sự nghiệp đổi mới
sẽ tiếp tục giành được những thắng lợi to lớn hơn nữa.
Đi
theo con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin, con đường mà Bác Hồ đã lựa chọn,
những người cộng sản Việt Nam và toàn thể nhân dân Việt Nam đồng tâm nhất trí,
đoàn kết một lòng, quyết tâm phấn đấu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
giàu mạnh, vì hạnh phúc của nhân dân.
3. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2000, ngày 27-6-1991
Phần thứ nhất
THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI
CÁC LỢI THẾ VÀ NGUỒN LỰC PHÁT TRIỂN
I. THỰC TRẠNG KINH TẾ -XÃ HỘI
1-Nước ta bước đầu vào xây dựng chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất
thấp, đến nay vẫn là một nước nghèo và kém phát triển.
Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước, nhân
dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc hàn gắn vết thương
chiến tranh, khôi phục và phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật, mở mang giáo dục, khoa học, văn hoá, y tế.
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn ở tình trạng nông nghiệp lạc hậu, còn nặng
tính chất tự cấp, tự túc. Trang bị kỹ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội
thấp kém. Cơ cấu kinh tế mất cân đối nặng. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu,
bao cấp để lại nhiều hậu quả nặng nề. Nền kinh tế rất kém hiệu quả, năng suất
lao động thấp, tích luỹ trong nước chưa đáng kể, còn lệ thuộc nhiều vào bên
ngoài.
Khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm nay: lạm phát nghiêm
trọng; sản xuất bấp bênh; thất nghiệp tăng; tiền lương không đủ sống; trật tự
an toàn xã hội không được bảo đảm; tham nhũng và nhiều tệ nạn xã hội khác lan
rộng, công bằng xã hội bị vi phạm; nếp sống văn hoá, tinh thần và đạo đức bị
xói mòn; lòng tin vào Đảng và Nhà nước giảm sút.
Thực trạng nêu trên có nguồn gốc sâu xa do lịch sử để lại và hậu quả
nhiều năm chiến tranh, song chủ yếu là do chúng ta đã phạm sai lầm chủ quan,
duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong
tiến trình công nghiệp hoá và trong cơ chế quản lý kinh tế. Những sai lầm đó
cùng với sự trì trệ trong công tác tổ chức, cán bộ đã kìm hãm lực lượng sản
xuất và triệt tiêu nhiều động lực phát triển.
2- Những quan điểm và chính sách đổi mới về kinh tế - xã hội do Đại hội
VI của Đảng đề ra được cụ thể hoá và phát triển trong quá trình thực hiện, đặc
biệt là những giải pháp tích cực từ cuối năm 1988 đã đưa tới những thành tựu
bước đầu rất quan trọng: hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần; xoá
bỏ về cơ bản cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, bước đầu chuyển sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước; giảm tốc độ lạm phát; đáp ứng tốt hơn
nhu cầu lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng; tăng nhanh xuất khẩu và có
bước phát triển mới về kinh tế đối ngoại.
Tuy nhiên, bước tiến đó chưa vững chắc. Lạm phát còn ở mức cao; sản
xuất chưa ổn định; tiêu cực xã hội vẫn trầm trọng. Đất nước chưa ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Việc chuyển sang cơ chế thị trường còn thiếu nhất quán, chưa đồng bộ,
đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ; quản lý vĩ mô chưa thoát hẳn cơ
chế cũ, lại buông lỏng nhiều mặt; thể chế, bộ máy và đội ngũ cán bộ chưa theo
kịp yêu cầu mới.
Hậu quả của những sai lầm cũ chưa khắc phục hết, lại thêm những khó
khăn mới do những khuyết điểm trong quá trình đổi mới và những biến động bất
lợi trong tình hình quốc tế.
Đất nước đang chuyển biến với những thành công bước đầu về cải cách
kinh tế, có thêm thuận lợi mới, đồng thời đang đứng trước những thử thách rất
gay gắt.
II. CÁC LỢI THẾ VÀ NGUỒN LỰC PHÁT TRIỂN
1- Nguồn nhân lực và con người Việt Nam
Bước vào thập kỷ 90, nước ta có 66 triệu dân với 33 triệu người trong
tuổi lao động; đến năm 2000 có khoảng 80 triệu dân với hơn 40 triệu lao động.
Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền thống yêu nước,
cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa
học và công nghệ... đó là nguồn lực quan trọng nhất.
Mặt khác, dân số tăng nhanh gây sức ép lớn về đời sống và việc làm.
Người Việt Nam đang có những hạn chế về thể lực, kiến thức, tay nghề, còn mang
thói quen sản xuất lạc hậu và dấu ấn của cơ chế cũ. Khắc phục được những nhược
điểm đó thì nguồn nhân lực và nhân tố con người mới thật sự trở thành thế mạnh
của đất nước.
2- Tài nguyên thiên nhiên.
Tài nguyên thiên nhiên nước ta tương đối phong phú, đa dạng.
Điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, tài nguyên sinh vật cho phép phát triển
nông- lâm- ngư nghiệp nuôi được số dân đông và có nhiều loại sản phẩm xuất
khẩu. Song thiên tai thường xảy ra cũng gây nhiều thiệt hại.
Đất canh tác ít, điều kiện mở rộng có hạn, nhưng khả năng tăng vụ và
thâm canh còn lớn.
Rừng bị khai thác và đốt phá bừa bãi trở nên nghèo kiệt, song nếu có
chính sách và giải pháp đúng sẽ khôi phục nhanh. Khoảng 9 triệu ha rừng còn lại
được bảo vệ và khai thác tốt cùng với khoảng 10 triệu ha đất trống, đồi trọc
được phủ xanh và sử dụng có hiệu quả sẽ là một thế mạnh về kinh tế và môi sinh.
Vùng biển và thềm lục địa rộng lớn có nhiều tiềm năng về thuỷ sản, dầu
khí và sa khoáng, dịch vụ hàng hải và du lịch...
Tài nguyên nước đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống.
Nguồn thuỷ năng có thể khai thác trên nhiều vùng, cung cấp một phần năng lượng
đáng kể.
Tài nguyên khoáng sản là một nguồn lực và lợi thế quan trọng, nhưng
chưa được khảo sát kỹ và mới được khai thác ở mức thấp. Một số loại có trữ
lượng đáng kể như dầu khí, than, bốcxít, apatít, quặng sắt, đất hiếm, đá quý,
các khoáng sản dùng làm vật liệu xây dựng... Nhiều loại khác phân bố rải rác,
có thể khai thác theo quy mô và công nghệ thích hợp.
3- Vị trí địa lý.
ở vào khu vực đang phát triển kinh tế năng động nhất thế giới, lại nằm
trên các tuyến giao thông quốc tế quan trọng, có nhiều cửa ngõ thông ra biển
thuận lợi (kể cả cho một số nước và vùng trong khu vực), nước ta có lợi thế để
mở rộng kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển thương mại và
các dịch vụ hàng không, hàng hải, du lịch.
4- Cơ sở vật chất và tiềm lực khoa học - kỹ thuật.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có tuy thiếu đồng bộ và phần lớn lạc hậu
về công nghệ, song là vốn ban đầu để đi lên, trong đó có một số cơ sở quan
trọng.
Nguồn vốn của các đơn vị kinh tế và trong dân không nhỏ, có thể sớm
khai thác và phát huy hiệu quả.
Đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và công nhân cùng với mạng lưới các
trường đào tạo, các viện nghiên cứu còn nhiều tiềm năng. Mặt khác, so với yêu
cầu phát triển, chúng ta còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm về kinh tế thị
trường, thiếu những nhà kinh doanh và quản lý giỏi, những nhà khoa học và công
nghệ có tài năng, những công nhân lành nghề.
5- Các nguồn lực ngoài nước.
Trong thập kỷ 90, tình hình thế giới còn diễn biến phức tạp, đặt nước
ta trước nhiều khó khăn gay gắt, đặc biệt là trong những năm đầu. Mặt khác, quá
trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, quan hệ giao lưu kinh tế và khoa học,
kỹ thuật, xu thế hoà bình và hợp tác ở khu vực và trên thế giới ngày càng phát
triển. Với đường lối đổi mới và cởi mở, nước ta có thể tận dụng được những khả
năng to lớn về vốn, thị trường, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của bên ngoài
để bổ sung và phát huy sức mạnh trong nước.
Các nguồn lực và lợi thế nêu trên phần lớn còn ở dạng tiềm năng mà việc
khai thác phải vượt qua nhiều trở ngại. Xác định đúng các quan điểm, mục tiêu
và giải pháp chiến lược là điều kiện tiên quyết để biến tiềm năng thành hiện
thực.
Phần thứ hai
Quan điểm và mục tiêu phát triển
I. Xuất phát từ mục tiêu, phương hướng cơ bản và lâu dài đã nêu trong
Cương lĩnh của Đảng, Chiến lược đến năm 2000 được xây dựng theo các quan
điểm phát triển dưới đây:
Phát triển kinh tế - xã hội theo con đường củng cố độc lập
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình
thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm
chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện
cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con
người. Chiến lược kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm, giải
phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao
động và của cả cộng đồng dân tộc, động viên và tạo điều kiện cho mọi người Việt
Nam phát huy ý chí tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ra
sức làm giàu cho mình và cho đất nước. Lợi ích của mỗi người, của từng tập
thể và của toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động
lực trực tiếp.
Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở
hữu và thu nhập hợp pháp. Nền kinh tế có nhiều thành phần với nhiều dạng sở hữu
và hình thức tổ chức kinh doanh phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển có hiệu quả nền sản xuất xã hội.
Mọi đơn vị kinh tế, không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự
chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật.
Nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Khuyến khích
tính năng động, sáng tạo đi đôi với thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động
kinh tế. Phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của
hàng hoá, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của sản xuất và đời sống, hướng mạnh về xuất
khẩu, thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả.
Mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước,
các tổ chức quốc tế, các công ty và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc giữ vững
độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Phát huy tinh thần độc lập tự
chủ, không ỷ lại vào bên ngoài, khai thác tối đa mọi lợi thế và nguồn lực của
đất nước là điều kiện cơ bản để mở rộng có hiệu quả kinh tế đối ngoại, bảo đảm
cho nền kinh tế luôn luôn phát triển trong thế chủ động.
Hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn quan trọng nhất của
sự phát triển. Các đơn vị kinh tế kinh doanh có hiệu quả, có
lãi và thực hiện các trách nhiệm xã hội theo luật pháp. Nhà nước có chính sách
khuyến khích và hỗ trợ cho các đơn vị kinh tế bị thua thiệt khi phục vụ lợi ích
chung.
Phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, không ngừng nâng cao năng
lực khoa học và công nghệ, chú trọng nghiên cứu ứng dụng và triển khai
để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Kết hợp nhiều trình độ
công nghệ khác nhau, tranh thủ tối đa công nghệ tiên tiến, tận dụng lợi thế
của nước đi sau. Khai thác các yếu tố phát triển cả về chiều rộng và chiều
sâu, ngày càng hướng mạnh vào chiều sâu. Tận dụng lợi thế của loại hình xí
nghiệp quy mô vừa và nhỏ.
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội,
phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường. Lấy phân phối theo lao động làm hình
thức chính, khuyến khích làm giàu đi đôi với giảm số người nghèo, nâng cao phúc
lợi xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, thực hiện nam nữ bình đẳng,
tạo cơ hội cho mọi người đều được cống hiến và được hưởng thành quả của sự phát
triển.
Dân chủ hoá đời sống xã hội; quyền công dân, quyền con người và tự
do cá nhân được bảo đảm bằng pháp luật, được thực hiện trong khuôn khổ pháp
luật và chỉ bị ràng buộc bởi pháp luật.
Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với ổn định và đổi mới
về chính trị, tăng cường củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật
tự, an toàn xã hội.
II. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược đến
năm 2000 là: ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu
vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống của nhân
dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh
hơn vào đầu thế kỷ XXI. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) đến năm 2000 tăng
khoảng gấp đôi so với năm 1990.
Mục tiêu này bao gồm những nội dung dưới đây:
Một là, vượt qua những khó khăn gay gắt trước
mắt, ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Đẩy lùi và khống
chế lạm phát, ổn định và phát triển sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân,
thu hẹp chênh lệch trong thanh toán quốc tế; chấm dứt tình trạng xuống cấp về
giáo dục, văn hoá, y tế, đẩy lùi các tệ nạn xã hội; tiếp tục đẩy mạnh cải cách
kinh tế, hình thành đồng bộ cơ chế thị trường; chỉnh đốn và nâng cao hiệu lực
quản lý của bộ máy nhà nước, chống tham nhũng, thiết lập trật tự, kỷ cương
trong kinh tế và xã hội. Nhiệm vụ này là trọng tâm của kế hoạch 5 năm
1991-1995.
Hai là, phấn đấu xoá nạn đói, giảm số người
nghèo khổ, giải quyết vấn đề việc làm, bảo đảm các nhu cầu cơ bản, cải thiện
đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân, tăng dần tích luỹ từ nội
bộ nền kinh tế, thu hút nhiều nguồn lực bên ngoài; tăng cường cơ sở vật chất -
kỹ thuật, chuyển dịch rõ rệt cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá.
Ba là, củng cố và xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội, phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí, năng lực
khoa học và công nghệ đáp ứng nhu cầu của những năm 90 và chuẩn bị cho
tương lai.
Bốn là, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh
trong tình hình mới, bảo đảm trật tự, an toàn và môi trường hoà bình, ổn định,
hợp tác cho sự nghiệp phát triển kinh tế.
Phần thứ ba
Cơ cấu kinh tế
Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu chiến lược, cơ cấu kinh tế trong
những năm 90 phải chuyển dịch rõ rệt theo những hướng chính dưới đây:
- Khắc phục tính chất tự cấp tự túc, khép kín, chuyển mạnh sang nền
kinh tế hàng hoá, gắn thị trường trong nước với ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu,
đáp ứng nhu cầu nhập khẩu.
- Phát triển nông - lâm- ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây
dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh
tế - xã hội; tăng tốc độ và tỉ trọng của công nghiệp, mở rộng kinh tế dịch
vụ, tăng cường cơ sở hạ tầng, bước đầu đưa nền kinh tế vượt khỏi tình trạng
nông nghiệp lạc hậu. Tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm của nông nghiệp đạt khoảng
4-5%, của công nghiệp khoảng 10-12%.
- Sắp xếp lại và đổi mới quản lý để bảo đảm sự phát triển có hiệu quả
của kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể; khuyến khích mọi loại hình kinh doanh
mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, tạo môi trường hợp tác và cạnh tranh
bình đẳng giữa các đơn vị kinh tế.
- Hướng trọng điểm đầu tư và phát triển của nền kinh tế vào những
ngành, những sản phẩm, những vùng đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội nhanh nhất
và nhiều nhất, tạo nguồn tích luỹ làm đòn xeo thúc đẩy và hỗ trợ các lĩnh vực
và các vùng khác.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư
và sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế dưới tác động của cơ chế thị
trường được Nhà nước hướng dẫn và thúc đẩy bằng các công cụ quản lý vĩ mô và
bằng chương trình đầu tư dựa vào nguồn vốn tập trung.
I. CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ
Trong nền kinh tế thị trường, với quyền tự do kinh doanh được pháp luật
bảo đảm, từ ba loại hình sở hữu cơ bản (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu
tư nhân), sẽ hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức
kinh doanh đa dạng.
Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển
trong những ngành và lĩnh vực then chốt, nắm những doanh nghiệp trọng yếu và
đảm đương những hoạt động mà các thành phần khác không có điều kiện hoặc không
muốn đầu tư kinh doanh. Khu vực quốc doanh được sắp xếp lại, đổi mới công nghệ
và tổ chức quản lý, kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần
kinh tế khác, thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một công cụ điều tiết
vĩ mô của Nhà nước.
Các xí nghiệp quốc doanh tồn tại và phát triển dưới hình thức 100% vốn
Nhà nước hoặc hình thức doanh nghiệp cổ phần trong đó vốn Nhà nước chiếm tỉ lệ
khống chế, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ kinh doanh, tự trang trải và tích
luỹ trong môi trường hợp tác, cạnh tranh; Nhà nước chỉ tài trợ có thời hạn cho
một số cơ sở thật sự cần thiết.
Những cơ sở không cần giữ hình thức quốc doanh thì Nhà nước chuyển hình
thức kinh doanh, hình thức sở hữu hoặc giải thể, đồng thời có chính sách giải
quyết việc làm và đời sống cho người lao động.
Kinh tế tập thể, với hình thức phổ biến là
hợp tác xã, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, phát triển rộng rãi và đa
dạng trong các ngành, nghề với quy mô và mức độ tập thể hoá khác nhau, trên cơ
sở tự nguyện góp vốn, góp sức của những người lao động. Tổ chức và hoạt động
của hợp tác xã không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Một hộ gia đình có thể
tham gia các hợp tác xã khác nhau và có quyền rút ra khỏi hợp tác xã theo điều
lệ.
ở nông thôn, trên cơ sở tăng cường vai trò đơn vị kinh tế tự chủ của hộ
xã viên, các hợp tác xã hướng hoạt động vào những khâu và lĩnh vực mà hộ xã
viên không có điều kiện tự làm hoặc làm kém hiệu quả hơn kinh doanh tập thể;
cùng với chính quyền và các đoàn thể chăm lo các vấn đề xã hội và xây dựng nông
thôn mới.
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Các hộ nông dân được Nhà nước giao quyền
sử dụng ruộng đất lâu dài và cấp giấy chứng nhận. Luật pháp quy định cụ thể
việc thừa kế và chuyển quyền sử dụng ruộng đất.
Kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển
trong các ngành nghề ở cả thành thị và nông thôn, không bị hạn chế việc mở rộng
kinh doanh, có thể tồn tại độc lập, tham gia các loại hình hợp tác xã, liên kết
với các doanh nghiệp lớn bằng nhiều hình thức.
Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không
hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp
không cấm. Nhà nước có thể liên doanh bằng nhiều hình thức với tư nhân trong và
ngoài nước, hình thành loại doanh nghiệp thuộc thành phần tư bản nhà nước.
Kinh tế gia đình không là một thành phần kinh
tế độc lập nhưng được khuyến khích phát triển mạnh.
Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có thể liên kết thành các
liên hiệp hoặc tập đoàn kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, trên cơ sở hiệu
quả kinh tế và cùng có lợi.
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, không
phân biệt đối xử, không tước đoạt tài sản hợp pháp, không gò ép tập thể hoá tư
liệu sản xuất, không áp đặt hình thức kinh doanh, khuyến khích các hoạt động có
lợi cho quốc kế dân sinh.
II. CÁC NGÀNH VÀ LĨNH VỰC KINH TẾ
1- Nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn
diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
Nông - lâm - ngư nghiệp phát triển theo hướng kinh tế hàng hoá, gắn với
công nghiệp chế biến, đáp ứng nhu cầu trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu, phát huy
lợi thế sinh thái, bảo vệ môi trường và tài nguyên.
Sản xuất nông nghiệp đi vào chuyên canh kết hợp với kinh doanh
tổng hợp nhằm đạt giá trị cao nhất trên một đơn vị diện tích. Thâm canh, tăng
vụ là chính và mở thêm diện tích ở những nơi có điều kiện. Tăng sản lượng lương
thực đủ nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu. Tăng nhanh tỉ trọng cây
công nghiệp, cây thực phẩm và chăn nuôi. Hình thành một số vùng chuyên canh cây
công nghiệp và chăn nuôi, có cả công nghiệp chế biến, dành cho thị trường ngoài
nước.
Phát triển và hoàn chỉnh hệ thống thuỷ lợi, giải quyết về căn bản vấn
đề tưới tiêu nước cho những vùng trọng điểm lương thực và cây công nghiệp tập
trung. Tận dụng phân hữu cơ, tăng mức đáp ứng nhu cầu phân hoá học, tích cực
phòng trừ sâu bệnh. áp dụng rộng rãi công nghệ và các biện pháp sinh học trong
các khâu chính của quá trình sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, hạn chế ô nhiễm
môi trường và thoái hoá đất. Từng bước cơ giới hoá có hiệu quả các khâu sản
xuất chủ yếu.
Lâm nghiệp có nhiệm vụ hàng đầu là bảo
vệ và phát triển tài nguyên rừng và đất rừng. Đẩy nhanh việc trồng và khoanh
nuôi rừng, phủ xanh và sử dụng đất trống, đồi trọc gắn liền với phân bố lao
động lên trung du, miền núi, thực hiện định canh, định cư, ổn định đời sống của
các dân tộc. Mọi đất rừng đều có người làm chủ trực tiếp, kể cả rừng kinh tế,
rừng phòng hộ và các khu bảo tồn thiên nhiên. Kết hợp lâm nghiệp với nông
nghiệp, gắn với công nghiệp khai thác và chế biến, kinh doanh tổng hợp đất
rừng.
Ngư nghiệp phát triển đánh bắt và nuôi
trồng các loại thuỷ, hải sản nhất là các loại có khả năng xuất khẩu. Thực hiện
nghiêm quy chế bảo vệ nguồn lợi thuỷ, hải sản, ngăn chặn việc khai thác huỷ
diệt tài nguyên. Xây dựng đội ngũ lao động giỏi nghề biển, cơ sở hạ tầng và chế
biến, bảo hộ nghề cá nhân dân. Phát triển lực lượng tàu thuyền khai thác vùng
biển xa.
Coi trọng các công nghệ sau thu hoạch. Phát triển rộng khắp công
nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, kết hợp nhiều hình thức, trình độ công
nghệ, hợp tác, liên doanh với nước ngoài để hiện đại hoá công nghệ, tăng sức
cạnh tranh của sản phẩm. Giảm dần và tiến tới chấm dứt việc xuất khẩu dưới dạng
nguyên liệu.
Phát triển kinh tế gắn với xây dựng nông thôn mới. Phát huy tối
đa tiềm năng của kinh tế hộ nông dân, kết hợp với hoạt động có hiệu quả của các
tổ chức kinh tế hợp tác thu hút phần lớn số hộ ở nông thôn và liên kết bằng
nhiều hình thức với kinh tế quốc doanh.
Phát triển mạnh các ngành, nghề, đặc biệt là công nghiệp và dịch vụ ở
nông thôn; đưa nhanh kỹ thuật nông nghiệp và công nghệ mới đến tận hộ gia đình;
giải quyết việc làm và thay đổi cơ cấu lao động, giảm bớt số lao động sản xuất
nông nghiệp. Hình thành các điểm công thương nghiệp và văn hoá ở nông thôn.
Nhà nước hỗ trợ xây dựng nông thôn mới chủ yếu là về xây dựng kết cấu
hạ tầng và dùng các chính sách tài chính, tín dụng, giá cả, đầu tư để khuyến
khích sản xuất, tăng thu nhập và sức mua của dân cư nông thôn.
Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với xây dựng văn hoá mới, thực hiện
những tiến bộ xã hội, đặc biệt là về giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, thu hẹp diện
những gia đình thiếu đói và vùng thiếu đói. Kiến thiết nông thôn mới theo quy
hoạch, hết sức hạn chế mất đất canh tác.
2- Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Tận dụng khả năng của tất cả các thành phần kinh tế, phát triển mạnh
công nghiệp hàng tiêu dùng bằng nhiều hình thức, quy mô và công nghệ thích hợp
để thoả mãn nhu cầu về các loại hàng thông thường (hàng dệt và may mặc, giấy,
thuốc chữa bệnh, kim khí tiêu dùng...), tăng mức đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày
càng cao của nhân dân và đẩy mạnh xuất khẩu.
Tích cực tạo nguồn nguyên liệu và tăng năng lực trang bị kỹ thuật trong
nước, đồng thời đẩy mạnh nhập nguyên liệu và thiết bị mà sản xuất trong nước
chưa đáp ứng được. Đổi mới thiết bị, công nghệ và bảo đảm chất lượng các loại
nguyên liệu, vật liệu để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá. Khuyến khích chế tạo
mặt hàng mới.
Mở rộng các hình thức liên doanh, hợp tác với nước ngoài làm hàng xuất
khẩu là một hướng ưu tiên để phát triển và hiện đại hoá các ngành công nghiệp
hàng tiêu dùng.
3- Công nghiệp tư liệu sản xuất và khai thác, chế biến khoáng sản.
Phát triển có chọn lựa một số ngành, trước hết hướng vào phục vụ sản
xuất nông - lâm - ngư nghiệp, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Quy mô, thời điểm
xây dựng và mức độ phát triển các ngành này căn cứ vào hiệu quả, khả năng đầu
tư, nhất là khả năng tranh thủ vốn và kỹ thuật ngoài nước.
Xây dựng quy hoạch tổng thể và chính sách năng lượng quốc gia, ưu tiên
phát triển ngành năng lượng.
Thực hiện quy hoạch phát triển điện, cân đối nguồn thuỷ điện và
nhiệt điện cùng với mạng lưới chuyển tải và phân phối; chú ý đáp ứng nhu cầu
điện ở miền Trung và miền Nam.
Xúc tiến mạnh việc hợp tác và liên doanh với nước ngoài thăm dò, khai
thác và chế biến dầu khí. Xây dựng công nghiệp lọc, hoá dầu theo công
nghệ hiện đại kéo theo sự phát triển một số ngành khác đi từ nguyên liệu dầu và
khí.
ổn định và phát triển sản xuất than đáp ứng nhu cầu nhiên liệu,
chất đốt sinh hoạt và đẩy mạnh xuất khẩu; hợp tác với nước ngoài về khai thác,
vận tải, sàng tuyển, chế biến than có kỹ thuật cao.
Phát triển một số ngành công nghiệp nguyên liệu, vật liệu, chủ
yếu là hoá chất cơ bản, phân bón, thuốc trừ sâu, vật liệu xây dựng, một số kim
loại đen và màu; hợp tác khai thác, chế biến quặng sắt, bốcxít, đất hiếm... Sớm
phát triển các vật liệu mới và tranh thủ công nghệ hiện đại trong công nghiệp nguyên
liệu, vật liệu.
Điều tra, bảo vệ và đưa nhanh vào khai thác một số khoáng sản quý hiếm.
Sắp xếp lại, đổi mới kỹ thuật, công nghệ và sản phẩm ngành cơ khí
nhằm phục vụ trước hết nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp chế biến và vận
tải; bảo đảm dịch vụ sửa chữa. Mở rộng hợp tác trong nước và với nước ngoài
trong lĩnh vực cơ khí, tăng sức cạnh tranh với hàng ngoại, tận dụng khả năng
làm hàng xuất khẩu.
Phát huy năng lực khoa học và công nghệ trong nước và tranh thủ hợp tác
quốc tế để phát triển ngành công nghiệp điện tử - tin học đi thẳng vào
hiện đại, góp phần đáp ứng nhu cầu về hàng điện tử thông dụng, nâng cao từng
bước trình độ tự động hoá sản xuất và tin học hoá quản lý.
Nâng cao năng lực và trình độ công nghệ của ngành xây dựng đáp
ứng các nhu cầu xây dựng trong nước và mở rộng hoạt động ở nước ngoài.
Xây dựng công nghiệp quốc phòng phù hợp với khả năng của nền
kinh tế, làm nòng cốt cùng với các ngành công nghiệp dân dụng bảo đảm nhiệm vụ
sửa chữa, phục hồi và sản xuất một phần trang bị cho lực lượng vũ trang; phân
công hiệp tác giữa công nghiệp dân dụng và công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu
cầu động viên công nghiệp khi tình thế đòi hỏi; huy động năng lực của xí nghiệp
quốc phòng làm hàng dân dụng với hiệu quả thiết thực.
4- Kinh tế dịch vụ.
Mở mang kinh tế dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn, tăng tỉ trọng
trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động.
Phát triển thương nghiệp nhiều thành phần trên cơ sở tự do lưu thông
hàng hoá theo luật pháp; sắp xếp lại và củng cố thương nghiệp quốc doanh trong
kinh doanh vật tư kỹ thuật và một số mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. Phát triển
nhanh các dịch vụ vận tải, ngân hàng, bảo hiểm, khoa học và chuyển giao công
nghệ, thông tin kinh tế và quảng cáo, đầu tư, pháp lý, xuất khẩu lao động và
chuyên gia...
Khai thác sự hấp dẫn của thiên nhiên, di sản văn hoá phong phú và các
lợi thế khác của đất nước, mở rộng hợp tác với nước ngoài để phát triển mạnh du
lịch.
5- Kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội.
Cải tạo, nâng cấp và mở rộng mạng lưới giao thông vận tải.
Ưu tiên đường thuỷ, tăng năng lực cảng biển, cảng sông hiện có, xây
dựng thêm cảng biển nước sâu ở phía Bắc và phía Nam; phát triển các phương tiện
vận tải thuỷ, tăng thêm tàu viễn dương.
Củng cố và nâng cấp các tuyến đường sắt Bắc - Nam và liên vận quốc tế.
Nâng cấp một số trục đường bộ chính, trước hết là quốc lộ số 1, số 5 và
xây dựng một số cầu quan trọng trên các tuyến này; cải tạo các quốc lộ khác.
Bảo đảm giao thông thông suốt bốn mùa trên các đường liên tỉnh, liên huyện.
Phát triển giao thông nông thôn, miền núi.
Hợp tác với nước ngoài để phát triển hàng không dân dụng trong nước và
trên một số tuyến quốc tế; hiện đại hoá các sân bay quốc tế.
Hiện đại hoá và nâng cao năng lực bưu điện quốc tế và trong
nước, bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt đến nông thôn, miền núi, hải đảo;
chú trọng xây dựng công nghiệp sản xuất thiết bị bưu điện.
Coi trọng xây dựng kết cấu hạ tầng văn hoá và xã hội ở cả thành
thị và nông thôn, trước hết là nhà ở, nước sinh hoạt, cơ sở vật chất cho nghiên
cứu khoa học, giáo dục, y tế và văn hoá.
Trong sự phát triển chung của nền kinh tế, mấy ngành và lĩnh vực dưới
đây có điều kiện và cần phải tăng trưởng mạnh trong thập kỷ 90 để thúc
đẩy và hỗ trợ các ngành khác:
- Sản xuất lương thực, thực phẩm.
- Chế biến nông, lâm, thuỷ sản và hàng công nghiệp xuất khẩu.
- Thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí và một số loại khoáng sản.
- Điện, giao thông, thuỷ lợi, thông tin liên lạc.
Trong quá trình thực hiện chiến lược sẽ xác định rõ thêm những sản phẩm
mũi nhọn trong các ngành và lĩnh vực nêu trên và tuỳ theo khả năng mới về vốn,
công nghệ và thị trường mà một số ngành và sản phẩm khác có thể trở thành mũi
nhọn như điện tử -tin học, vật liệu mới, du lịch, v.v..
III. HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRÊN CÁC
VÙNG
Đồng bằng giữ vị trí hàng đầu trong sản
xuất lương thực, thực phẩm cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, chăn nuôi,
phát triển công nghiệp nông thôn, mở mang dịch vụ.
Tập trung sức phát triển lương thực, thực phẩm ở đồng bằng sông Cửu
Long và sông Hồng; ưu tiên cho những địa bàn có ưu thế về hiệu suất đầu tư và
tỉ suất hàng hoá.
Trung du và miền núi chuyển sang kinh tế hàng
hoá, phát huy thế mạnh về lâm nghiệp, hình thành vùng chuyên canh cây công
nghiệp dài ngày, cây ăn quả, gắn với công nghiệp chế biến, phát triển chăn
nuôi, khai khoáng. Huy động mọi nguồn lực tại chỗ và của cả nước đi đôi với
tranh thủ viện trợ quốc tế nhằm sử dụng triệt để và có hiệu quả đất trống, đồi
trọc. Khai thác đi đôi với bảo vệ, tái tạo các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi
trường, bảo đảm lợi ích của đồng bào các dân tộc. Đẩy mạnh việc khai thác
khoáng sản và thuỷ năng, hình thành những trung tâm công thương nghiệp và đô
thị gắn với các tổ hợp kinh tế lãnh thổ như than ở Đông Bắc, hoá chất, phân
bón, luyện kim, điện ở Tây Bắc và trung du phía bắc, thuỷ điện và khai khoáng ở
Tây Nguyên.
Đối với miền núi, Nhà nước hỗ trợ về đầu tư mở mang giao thông vận tải,
bảo vệ môi trường, tài trợ cho y tế, giáo dục và đào tạo cán bộ người dân tộc,
đồng thời thực hiện chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng, tiền lương... để
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Vùng biển và hải đảo hướng vào khai thác, nuôi
trồng và chế biến thuỷ sản, khai thác chế biến dầu khí và các sa khoáng, phát
triển các ngành sản xuất và dịch vụ về hàng hải, mở mang du lịch... Từng bước
khai thác toàn diện các tiềm năng to lớn của kinh tế biển, phát triển kinh tế ở
hải đảo, làm chủ lãnh hải và thềm lục địa, thực hiện chủ quyền đối với vùng đặc
quyền kinh tế.
Các tỉnh ven biển phát huy thuận lợi mở cửa ra bên ngoài, điều chỉnh
phương hướng sản xuất và xây dựng thích nghi với điều kiện bất lợi về thiên
tai, phát triển và bảo vệ kinh tế gắn với củng cố quốc phòng, an ninh.
Các thành phố, thị xã, thị trấn là
những trung tâm kinh tế và văn hoá, chủ yếu là trung tâm công nghiệp và thương
mại trên từng vùng lớn, nhỏ. Phương hướng phát triển đô thị là hình thành nhiều
trung tâm vừa và nhỏ, phân bố hợp lý, không tập trung dân quá đông vào các
thành phố lớn.
Một số địa bàn có vị trí quan trọng đối với từng vùng lớn và đối với cả
nước (ở phía Bắc là khu vực Hà Nội - Hải Phòng, Quảng Ninh, phía Nam là khu vực
thành phố Hồ Chí Minh, Biên Hoà - Vũng Tầu - Côn Đảo, miền Trung là Đà Nẵng và
một số thành phố cảng khác) cần thu hút đầu tư của cả nước và của nước ngoài để
phát huy mạnh mẽ vai trò trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa học và kỹ thuật, đầu
mối phát triển kinh tế đối ngoại, liên kết, thúc đẩy và lôi kéo các vùng khác
phát triển. Hình thành trên các địa bàn này một số khu có quy chế đặc biệt về
hành chính - kinh tế thuận lợi cho đầu tư hàng xuất khẩu và buôn bán với bên
ngoài.
Từng tỉnh, thành phố căn cứ vào chiến lược cả nước và chiến lược vùng
để xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn lãnh thổ, xây
dựng nông thôn, đô thị, từ địa bàn dân cư nhỏ nhất (thôn, xã) tới thị trấn, thị
xã, các khu phố và thành phố. Cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư hướng vào khai
thác các thế mạnh, động viên các nguồn lực của tất cả các thành phần kinh tế ở
địa phương và hợp tác, liên kết với các nơi khác, kể cả với nước ngoài; kết hợp
chặt chẽ kinh tế với quốc phòng. Trung ương và địa phương cùng đầu tư
vào các vùng và cơ sở sớm đưa lại hiệu quả lớn, đồng thời trung ương hỗ trợ cho
các địa bàn xung yếu về quốc phòng, một số địa phương miền núi và những nơi đang
có nhiều khó khăn ở các vùng căn cứ cũ trong kháng chiến.
Phần thứ tư
Cơ chế quản lý và các chính sách lớn
I. ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ
Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành đồng bộ
và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thiết lập
trật tự, kỷ cương theo cơ chế mới vừa là nội dung, vừa là điều kiện để ra khỏi
khủng hoảng, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
1- Thị trường trực tiếp hướng dẫn các doanh nghiệp lựa
chọn lĩnh vực hoạt động, mặt hàng, quy mô, công nghệ và hình thức tổ chức sản
xuất - kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong môi trường hợp tác và cạnh
tranh.
Hình thành thị trường hoàn chỉnh, bao gồm cả sức lao động, vốn
và tiền tệ... thông suốt trong cả nước và với thị trường thế giới. Xoá bỏ các
quan hệ hiện vật còn lại trong trả lương, sử dụng nhà, đất, phương tiện đi
lại...
Giá cả, tỉ giá hối đoái, lãi suất tín dụng hình thành theo
cơ chế thị trường. Nhà nước dùng các biện pháp kinh tế là chủ yếu
để tác động đến cung cầu trên thị trường, ổn định giá cả, chỉ định giá một số
rất ít sản phẩm thuộc diện độc quyền và thiết yếu, có chính sách bảo hiểm giá
cho một số nông sản và hàng xuất khẩu.
Hình thành thị trường ngoại hối chính thức tạo thuận lợi cho việc giao
dịch và mua bán ngoại tệ thông qua ngân hàng theo tỉ giá thị trường. Có chính
sách khuyến khích sử dụng ngoại tệ theo định hướng kế hoạch.
Phấn đấu cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, trả được nợ đến hạn. Tạo
dự trữ ngoại tệ ngày càng lớn để có thực lực điều tiết thị trường ngoại hối,
làm cho tỉ giá hối đoán phản ánh đúng hơn sức mua thực tế của đồng tiền Việt
Nam, tiến tới làm cho đồng tiền có khả năng chuyển đổi.
Gắn hệ thống giá nội địa với giá quốc tế; áp dụng chính sách bảo hộ hợp
lý, có thời hạn đối với sản xuất nội địa, trong chừng mực không dẫn đến sự ỷ
lại, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá.
Tôn trọng nguyên tắc lãi suất tín dụng cao hơn mức lạm phát, lãi suất
tiền vay cao hơn lãi suất tiền gửi, xoá bao cấp qua tín dụng, bảo đảm cho Ngân
hàng thương mại có điều kiện kinh doanh bình thường. Ngân hàng mở rộng hoạt
động không phân biệt đối xử đến tất cả các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân
cư.
Tạo môi trường và điều kiện cho sự cạnh tranh hợp pháp và sự hợp
tác, liên doanh tự nguyện, bình đẳng giữa các đơn vị thuộc mọi thành phần
kinh tế ở trong nước và với nước ngoài. Xoá bỏ độc quyền và đặc quyền ở hầu hết
các ngành và lĩnh vực kinh tế. Đối với những trường hợp không thể tránh được
độc quyền, Nhà nước có cơ chế kiểm soát để tránh cửa quyền, lũng đoạn. Chấp
nhận sự phá sản của những đơn vị làm ăn thua lỗ, ban hành luật phá sản.
Cả nước chấp hành luật kinh doanh thống nhất, áp dụng các đơn vị
đo lường và tiêu chuẩn chất lượng thống nhất. Phát triển giao thông vận tải và
mạng lưới các chợ, các điểm mua bán, các cơ sở thương nghiệp trên khắp các địa
bàn. Phá bỏ mọi hàng rào chia cắt giao lưu hàng hoá giữa các ngành, các địa
phương trong nước.
Nâng cao khả năng tiếp thị (marketing) của các doanh nghiệp. Xây
dựng các hiệp hội kinh doanh, tăng cường phòng thương mại và công nghiệp làm
đầu mối hỗ trợ quan hệ giao dịch giữa các nhà kinh doanh trong và ngoài nước.
Phát triển nhiều hình thức dịch vụ thông tin kinh tế, quảng cáo, hội chợ, triển
lãm... Tạo điều kiện thuận lợi cho người sản xuất trực tiếp tìm hiểu nhu cầu
thị trường, giao dịch với bạn hàng trong và ngoài nước.
Các cơ sở thương nghiệp, đặc biệt là thương nghiệp quốc doanh làm tốt
chức năng đại diện cho người tiêu dùng để đặt hàng cho người sản xuất. Mở rộng
quan hệ hợp đồng. Tăng cường các bảo đảm pháp lý, kinh tế và tác động của dư
luận xã hội nhằm đề cao chữ "tín" trong kinh doanh, chống hàng giả,
đầu cơ buôn lậu.
2- Trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ kinh
doanh của các doanh nghiệp, Nhà nước tập trung thực hiện tốt
những chức năng quản lý vĩ mô sau đây:
- Tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh:
Bảo đảm sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội cho mọi người yên tâm
sản xuất kinh doanh. Duy trì luật pháp, trật tự và an toàn xã hội; thi hành
nhất quán các chính sách và thể chế theo hướng đổi mới; ổn định môi trường kinh
tế vĩ mô, khống chế lạm phát, điều tiết thị trường, ngăn ngừa và xử lý những
đột biến xấu.
Xây dựng cơ sở hạ tầng bảo đảm điều kiện cơ bản cho hoạt động kinh tế:
cơ sở hạ tầng vật chất (như giao thông, điện, nước, thông tin, dự trữ quốc
gia...), hệ thống tài chính- tiền tệ, hệ thống pháp chế, cơ sở hạ tầng văn hoá
- xã hội (giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế, bảo vệ môi trường...).
- Dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển thông qua kế hoạch
và các chính sách kinh tế, sử dụng có trọng điểm các nguồn tài lực tập trung và
lực lượng dự trữ, phát huy vai trò của kinh tế quốc doanh, khai thông các quan
hệ bang giao và làm chỗ dựa cho các tổ chức và cá nhân trong kinh tế đối ngoại.
- Hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội, bảo đảm sự
thống nhất giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội.
- Quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia nhằm bảo
tồn và phát triển các tài sản đó, trong đó có bộ phận tài sản giao cho kinh tế
quốc doanh.
3- Đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản
lý vĩ mô trọng yếu của Nhà nước.
- Đổi mới việc xây dựng, ban hành và thực thi luật pháp đáp ứng
yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội theo cơ chế thị trường. Bảo đảm tính hệ thống
của luật và các văn bản dưới luật, chú ý đến luật pháp và thông lệ quốc tế.
Khẩn trương xây dựng và ban hành hệ thống luật kinh tế, luật bảo vệ môi trường,
luật dân sự... Phổ cập luật pháp cho toàn dân. Phát triển các hình thức dịch vụ
pháp lý. Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo các luật gia, nhất là về
luật kinh tế. Kiện toàn bộ máy kiểm tra và thi hành luật pháp. Nghiên cứu việc
tổ chức toà án kinh tế.
- Tăng cường kế hoạch hoá vĩ mô trên cơ sở đổi mới kế hoạch
hoá, chuyển từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu sang kế hoạch hoá định
hướng, bảo đảm các cân đối tổng thể cơ bản của nền kinh tế (cung - cầu, tiền -
hàng, thu - chi, xuất - nhập, tích luỹ - tiêu dùng...). Kế hoạch nhà nước có
phương trình, dự án đầu tư của Chính phủ bảo đảm điều kiện thực hiện các mục
tiêu lớn, đi đôi với sử dụng các chính sách đòn bẩy kinh tế là chính để hướng
dẫn và hỗ trợ các ngành, các địa phương và cơ sở phát triển theo định hướng kế
hoạch.
Xây dựng hệ thống kế toán, thống kê và thông tin kinh tế phục vụ
cho công tác quản lý nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh đáp ứng yêu cầu
kịp thời, chính xác, đầy đủ, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và từng bước hiện
đại hoá.
- Đổi mới căn bản hệ thống tài chính - tiền tệ.
Chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo vốn và sử dụng
vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc
dân, điều tiết quan hệ tích luỹ - tiêu dùng theo hướng nâng dần tỷ lệ tích luỹ,
cải thiện từng bước vững chắc đời sống của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội
phù hợp với trình độ phát triển kinh tế.
Phấn đấu cân bằng ngân sách Nhà nước một cách tích cực: nuôi dưỡng và
phát triển các nguồn thu, chống thất thu, đáp ứng nhu cầu chỉ tiêu cần thiết
phục vụ lợi ích chung của sự phát triển; nếu còn bội chi thì bù đắp bằng các
nguồn vay, không dựa vào phát hành tiền.
Hoàn chỉnh pháp chế về thuế làm đòn bẩy kích thích và hướng dẫn sản
xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn thu ngân sách và điều tiết thu nhập, thực hiện
công bằng xã hội. Giáo dục toàn dân nghĩa vụ đóng thuế. Xây dựng bộ máy và
phương thức thu thuế có hiệu lực, đúng luật.
Cải tổ hệ thống ngân hàng để hoạt động có hiệu quả, thực sự trở
thành trung tâm tiền tệ, tín dụng, thanh toán, đóng vai trò nòng cốt trên thị
trường vốn và tiền tệ.
Ngân hàng Nhà nước làm chức năng quản lý nhà nước đối với mọi hoạt động
kinh doanh tín dụng - tiền tệ, cung ứng và điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định
giá trị đồng tiền. Các ngân hàng thương mại làm chức năng đơn vị kinh doanh tín
dụng - tiền tệ, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài chính, chịu sự kiểm soát
của Ngân hàng Nhà nước về chế độ chính sách tín dụng - tiền tệ. Củng cố hoạt
động của các ngân hàng thương mại quốc doanh, phát triển các tổ chức tín dụng
nông thôn, xúc tiến hình thành các ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh với
nước ngoài. Cho phép ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh hoạt động ở Việt Nam và
tạo điều kiện cho ngân hàng Việt Nam lập chi nhánh ở nước ngoài.
4- Thực hiện chế độ tự chủ sản xuất kinh
doanh của các xí nghiệp quốc doanh.
Xí nghiệp quốc doanh có trách nhiệm tuân thủ luật pháp, bảo tồn
và phát triển vốn được Nhà nước giao, thực hiện các nghĩa vụ do Nhà nước quy
định, bao gồm cả nhiệm vụ và đơn đặt hàng mà Nhà nước giao khi thấy cần thiết.
Xí nghiệp được bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền: chủ động tổ chức sản
xuất kinh doanh; tự chủ về tài chính; tuyển chọn, sắp xếp lao động, trả lương
và cho thôi việc theo luật lao động; giao dịch với khách hàng trong và ngoài
nước; lựa chọn hình thức liên kết, liên doanh với các đơn vị kinh tế khác,
không bị hạn chế bởi địa giới hành chính.
Các liên hiệp sản xuất kinh doanh được tổ chức và hoạt động có hiệu
quả, có lợi cho các đơn vị thành viên; liên hiệp không phải là cấp quản lý hành
chính nhà nước trung gian. Các xí nghiệp có tư cách pháp nhân là đơn vị tự chủ
kinh doanh, được quyền tham gia hoặc rút khỏi liên hiệp theo điều lệ.
Mở rộng dần các hình thức doanh nghiệp cổ phần trong khu vực quốc
doanh. Phân định rõ và có tổ chức, cơ chế bảo đảm thực hiện đúng trách nhiệm,
quyền hạn của chủ sở hữu tài sản và của giám đốc điều hành. Xây dựng quy chế
hoạt động của tổ chức đảng và các đoàn thể trong các đơn vị kinh tế quốc doanh
cho phù hợp với cơ chế mới.
II. CÁC CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP
VỀ VỐN VÀ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
1- Chính sách và giải pháp về vốn.
Tích cực tạo vốn trong nước. Nguồn tích luỹ trong nước so với
thu nhập quốc dân sản xuất từ 2 - 3% năm 1990 phải nâng lên 8 - 10% vào năm
1995 và khoảng 15% vào năm 2000, bảo đảm khoảng 1/2 đến 2/3 nhu cầu vốn phát
triển trong 10 năm. Nâng dần tỷ lệ động viên thu nhập quốc dân vào ngân sách
đồng thời dành phần tích luỹ cần thiết cho các doanh nghiệp và nhân dân tự đầu
tư.
Nguồn cơ bản để tạo vốn là làm ăn có hiệu quả, cần kiệm trong
sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng. Mọi người có sức lao động có việc làm,
mọi tài năng được trọng dụng, mọi tài nguyên, tài sản, tiền nhàn rỗi được đưa
vào phát triển kinh tế, mọi doanh nghiệp hạch toán kinh doanh đầy đủ, tự trang
trải, tự phát triển và đóng góp cho Nhà nước.
Đánh giá đúng và khai thác, sử dụng có hiệu quả tài sản, tài nguyên
quốc gia. Thực hiện cơ chế bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước giao cho các
đơn vị kinh doanh. Nhà nước cho thuê hoặc nhượng bán một số tài sản, tài nguyên
chưa được khai thác hoặc sử dụng rất kém hiệu quả, để chuyển thành vốn sống,
sinh lời, đầu tư vào những lĩnh vực cần thiết.
Đi đôi với việc cải tổ hệ thống ngân hàng, xúc tiến thành lập các tổ
chức bảo hiểm, phát triển các loại doanh nghiệp cổ phần, các hình thức cổ
phiếu, trái phiếu, tạo điều kiện hình thành thị trường chứng khoán. Ngăn chặn
tệ cho vay nặng lãi, các hiện tượng lừa đảo và đầu cơ trên thị trường vốn và
tiền tệ.
Khuyến khích và bảo đảm cho mọi tổ chức và cá nhân an tâm bỏ vốn đầu tư
tự kinh doanh, mua cổ phiếu, trái phiếu, mua bảo hiểm, gửi quỹ tiết kiệm nhằm
huy động mọi nguồn vốn trong xã hội vào chu chuyển kinh tế.
Tranh thủ mọi khả năng và dùng nhiều hình thức thu hút vốn ngoài
nước.
Nắm vững nguyên tắc chính sách đối ngoại, kết hợp chính sách kinh tế
cởi mở với sách lược ngoại giao mềm dẻo để phá thế bao vây, cấm vận về kinh tế
đối với nước ta.
Tranh thủ viện trợ và vay dài hạn lãi suất thấp. Chú trọng hình thức
công ty nước ngoài đầu tư trực tiếp vào nước ta, gắn với chuyển giao công nghệ
tiên tiến và đẩy mạnh xuất khẩu.
Tạo điều kiện thuận tiện cho người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư phát
triển kinh tế, trợ giúp người thân và đóng góp xây dựng quê hương, đất nước.
Các doanh nghiệp trong nước có thể vay vốn nước ngoài để tự đầu tư với
điều kiện bảo đảm chắc chắn việc trả nợ, tranh thủ công nghệ tiên tiến.
Nhà nước quản lý chặt chẽ việc vay nợ, trả nợ nước ngoài. Điều đình với
các chủ nợ về cách giải quyết trước mắt các khoản nợ đến hạn trả, bảo đảm thực
hiện cam kết, tạo lập tín nhiệm, tranh thủ nguồn vay mới.
Nguồn vốn của Nhà nước được tập trung đầu tư cho các cơ sở chủ yếu
thuộc kết cấu hạ tầng và những công trình quan trọng khác. Các công trình đầu
tư bằng vốn của Nhà nước phải được quản lý chặt chẽ từ luận chứng kinh tế kỹ
thuật đến thiết kế, dự toán, thi công, kết toán... chống lãng phí và tham
nhũng. Hoàn thiện cơ chế đấu thầu để áp dụng phổ biến trong xây dựng.
Các doanh nghiệp và nhân dân đầu tư sản xuất kinh doanh bằng nguồn vốn
tự có, vốn cổ phần, vốn đi vay; góp phần cùng Nhà nước đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng và công trình phúc lợi.
2 - Chính sách kinh tế đối ngoại.
Đa dạng hoá và đa phương hoá quan
hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng độc
lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Củng cố và tăng cường vị trí ở các
thị trường quen thuộc và với các bạn hàng truyền thống, tích cực thâm nhập, tạo
chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các quan hệ mới.
Tăng nhanh kim ngạch và cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng
tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng
có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định. áp dụng các chính sách tỷ
giá và thuế khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm
1991-1995 gấp 2-2,5 lần so với 5 năm trước, đến năm 2000 tăng khoảng 5 lần so
với năm 1990.
Phát triển nhiều hình thức dịch vụ thu ngoại tệ, nhất là hoạt động du
lịch.
Chính sách nhập khẩu phải phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản
xuất và đổi mới công nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng
hoá, đáp ứng nhu cầu cần thiết về đời sống.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất, nhập khẩu và quản lý ngoại tệ.
Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài vào nước ta đầu
tư, hợp tác kinh doanh. Xây dựng thể chế đồng bộ, ổn định, thuận
tiện và tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh; thống nhất đầu mối giải quyết các thủ
tục và yêu cầu đầu tư của nước ngoài. Bảo đảm những điều kiện thiết yếu về cơ
sở hạ tầng, phương tiện làm việc và sinh hoạt cho người nước ngoài, trước hết
là ở các khu chế xuất và những địa bàn đầu mối trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Tổ chức tốt thông tin kinh tế và chủ động chuẩn bị các dự án gọi vốn đầu tư
nước ngoài. Đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh tế đối ngoại
theo cơ chế mới, với các đối tượng mới.
Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền hạn thành viên của nước ta trong các
tổ chức quốc tế; gia nhập các tổ chức và hiệp hội kinh tế quốc tế khác khi cần
thiết và có điều kiện.
III. CÁC CHÍNH SÁCH VỀ DÂN SỐ VÀ VIỆC
LÀM,
VỀ THU NHẬP, BẢO ĐẢM XÃ HỘI VÀ BẢO VỆ
SỨC KHOẺ
1- Chính sách dân số và việc làm.
Thực hiện đồng bộ chiến lược dân số trên cả ba mặt: quy mô dân
số, cơ cấu dân số và sự phân bố dân số; giảm tỷ lệ phát triển dân số mỗi năm
khoảng 0,4-0,6 phần nghìn.
Thực hiện chương trình kế hoạch hoá gia đình với những giải pháp mạnh
mẽ, đồng bộ dựa trên cuộc vận động xã hội rộng lớn và sâu sắc, huy động mọi lực
lượng, bằng nhiều hình thức tổ chức, bảo đảm tính tự nguyện, tính thuyết phục
gắn với lợi ích của các đối tượng, với việc bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ em,
với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Giảm tỷ lệ phát triển dân số hằng năm là một
nhiệm vụ quan trọng của các cấp chính quyền và đoàn thể, nhất là ở những nơi,
những tầng lớp dân cư đang còn tỷ lệ sinh đẻ cao. Nhà nước đầu tư đúng mức cho
chương trình này đồng thời huy động các hình thức tự nguyện góp công, góp của,
tích cực tranh thủ và sử dụng có hiệu quả nguồn tài trợ của quỹ dân số Liên hợp
quốc và các tổ chức quốc tế khác.
Giải quyết việc làm, sử dụng tối đa tiềm năng
lao động xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu của chiến lược, là một tiêu
chuẩn để định hướng cơ cấu kinh tế và lựa chọn công nghệ. Hướng ưu tiên là giải
quyết việc làm cho những người đến tuổi lao động, đặc biệt ở thành phố và bộ
đội xuất ngũ, học sinh ra trường.
Người lao động chủ động tạo việc làm và tìm việc làm. Mọi nghề mang lại
thu nhập cho người lao động và có ích cho xã hội đều được tôn trọng. Nhà nước
tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, môi trường sản xuất kinh doanh và đào tạo
nghề nghiệp. Tăng nhanh tỷ trọng lao động có nghề chuyên môn, khuyến khích biết
nhiều nghề.
Ban hành Luật lao động, bảo đảm cho mọi người làm chủ sức lao động của
mình. Trong khuôn khổ luật pháp, mọi người được tự do học nghề và hành nghề,
lựa chọn việc làm và nơi làm việc, thuê mướn nhân công. Tổ chức thị trường sức
lao động, các hình thức giao dịch về việc làm; đổi mới các chính sách cư trú và
hộ khẩu; mở rộng chế độ hợp đồng lao động; có chính sách ưu đãi người làm việc
ở những nơi điều kiện lao động và sinh hoạt khó khăn.
Chương trình quốc gia về việc làm hướng vào phát triển một số ngành và
địa bàn trọng điểm tạo được nhiều việc làm như: nuôi trồng và chế biến nông,
lâm, thuỷ sản, làm hàng xuất khẩu, các ngành công nghiệp dùng nhiều lao động,
phủ xanh và sử dụng đất trống, đồi trọc, xây dựng kết cấu hạ tầng, mở mang các
ngành dịch vụ, xuất khẩu lao động.
2 - Chính sách thu nhập và bảo đảm xã hội.
Khuyến khích mọi người làm ăn hợp pháp để tăng thu nhập. Trả công
lao động theo năng suất lao động, hiệu quả sản xuất - kinh doanh và hiệu
suất công tác; hình thành tương quan thu nhập phù hợp với thang bậc giá trị
tiến bộ trong xã hội. Nhà nước dùng thuế thu nhập để góp phần thực hiện công
bằng xã hội.
Cải cách chế độ tiền lương
trong khu vực nhà nước theo hướng bảo đảm tái sản xuất sức lao động, tiền tệ
hoá tiền lương, xoá bao cấp và khắc phục tính chất bình quân. Cải cách tiền
lương gắn với việc cải tổ bộ máy; sắp xếp lại biên chế theo cơ chế mới, cải
cách chế độ bảo hiểm. Khi giá cả biến động lớn, Nhà nước bù đắp kịp thời và
thỏa đáng cho những người hưởng lương và trợ cấp cố định.
Phát triển các dịch vụ bảo hiểm sản xuất và đời sống dựa trên đóng góp
tự nguyện, hoạt động theo phương thức hạch toán kinh doanh, được Nhà nước bảo
hộ.
Thực hiện chính sách toàn dân đóng góp để đền ơn trả nghĩa đối
với thương binh, gia đình liệt sĩ, những người có công với nước; chính sách bảo
trợ trẻ mồ côi, người tàn tật, người già cô đơn; chính sách cứu hộ
những vùng gặp thiên tai, rủi ro và những gia đình quá nghèo khổ. Nguồn kinh phí
dựa vào các quỹ xã hội, các hội từ thiện, tranh thủ sự viện trợ của các tổ chức
nhân đạo quốc tế và một phần dựa vào ngân sách Nhà nước.
Đổi mới chính sách nhà ở. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện
thuận lợi cho nhân dân xây dựng nhà theo quy hoạch. Người có nhà được quyền cho
thuê, nhượng, bán. Nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước được bán hoặc cho thuê đúng giá,
tính đủ tiền nhà vào tiền lương. Các công ty nhà ở hoạt động theo cơ chế hạch
toán kinh doanh, thu hồi vốn để tái đầu tư. Phát triển ngân hàng nhà ở.
3- Chính sách bảo vệ sức khoẻ.
Bảo vệ, nâng cao sức khoẻ và thể chất của nhân dân, chống suy dinh
dưỡng trong trẻ em, tăng chiều cao, cân nặng của thế hệ trẻ, tăng tuổi thọ
trung bình của người Việt Nam.
Xoá nạn đói kinh niên và giáp hạt còn tồn tại trên một số vùng; cải
thiện bữa ăn, tăng thức ăn giàu năng lượng, chất dinh dưỡng; phát triển sản
xuất thực phẩm chế biến sẵn; phấn đấu đến năm 2000 đạt mức ăn bình quân đầu
người 2.400 kilôcalo/ngày.
Mở rộng và nâng cao chất lượng phòng bệnh và chữa bệnh; phát
triển đồng bộ nền y học dự phòng, kết hợp y dược học truyền thống với y dược
học hiện đại, tạo một số mũi nhọn của y học Việt Nam.
Củng cố và mở rộng mạng lưới y tế cơ sở, chăm sóc sức khoẻ ban đầu đến
hộ gia đình. Thực hiện tốt các chương trình tiêm chủng miễn dịch cho trẻ em,
chống bệnh sốt rét, bướu cổ. Thanh toán trên từng vùng các bệnh nhiễm trùng, ký
sinh trùng, các bệnh xã hội nhiều người mắc, khống chế các bệnh phổ biến khác;
ngăn chặn kịp thời bệnh SIDA. Thực hiện các chương trình cung cấp nước sạch, xử
lý chất thải, xây dựng các công trình vệ sinh ở thành thị và nông thôn. Khắc
phục tình trạng xuống cấp, trang bị thêm phương tiện, nâng cao chất lượng điều
trị của các bệnh viện nhà nước. Phát triển các cơ sở điều dưỡng, phục hồi chức
năng, chăm sóc sức khoẻ người già. Xây dựng một số trung tâm y tế hiện đại.
Khuyến khích, hướng dẫn và kiểm soát hoạt động của các cơ sở dịch vụ y tế tập
thể và tư nhân. Phát triển sản xuất và đẩy mạnh xuất, nhập khẩu, đáp ứng nhu
cầu dược liệu, thuốc chữa bệnh và phương tiện y tế.
Thu phí dịch vụ y tế hợp lý; đưa kinh phí bảo vệ sức khoẻ của công
nhân, viên chức vào tiền lương; có chính sách trợ cấp trực tiếp cho một số đối
tượng cần thiết. Mở rộng hình thức mua bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm tai nạn.
Xây dựng phong trào toàn dân rèn luyện thân thể, hoạt động thể dục,
thể thao, nhất là trong thanh, thiếu niên; kết hợp phổ cập và nâng cao.
Phát triển các câu lạc bộ và hội thể dục thể thao hoạt động theo nguyên tắc tự
quản và tự bù đắp chi phí có sự quản lý và tài trợ một phần cần thiết của Nhà
nước.
IV. CÁC CHÍNH SÁCH VỀ
VĂN HOÁ, GIÁO DỤC, KHOA HỌC, TÀI NGUYÊN VÀ MÔI
TRƯỜNG
1 - Chính sách văn hoá.
Nâng cao đời sống văn hoá và tinh thần của nhân dân, xây dựng nền văn
hoá mới, lối sống mới, con người mới, bắt đầu từ mỗi gia đình.
Chọn lọc, giữ gìn và nâng cao tinh hoa văn hoá của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam và của từng dân tộc; bảo tồn và phát triển ngôn ngữ và chữ viết
của các dân tộc; tiếp thu những giá trị văn hoá, khoa học của nhân loại. Dùng
nhiều hình thức sinh động giáo dục lý tưởng, trau dồi đạo đức, bồi dưỡng tình
cảm, tâm hồn và thẩm mỹ, nâng cao trình độ hiểu biết và hưởng thụ văn hoá, nghệ
thuật của nhân dân, ngăn chặn các văn hoá phẩm và hoạt động nghệ thuật gây độc
hại. Hình thành nếp sống và tâm lý xã hội có sức đề kháng chống những lề thói,
tư tưởng lạc hậu, lối sống thấp hèn, suy đồi đạo đức. Bảo vệ nhân phẩm của phụ
nữ.
Khuyến khích tự do sáng tạo các giá trị văn hoá, vun đắp các tài năng.
Giữ gìn và nâng cao các loại hình văn hoá, nghệ thuật truyền thống, bảo vệ và
tôn tạo các di tích văn hoá, lịch sử. Nhà nước đầu tư thích đáng và có cơ chế
quản lý thích hợp với các hoạt động văn hoá, nghệ thuật.
Tăng cường và hiện đại hoá công tác thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng,
nội dung phù hợp với các loại đối tượng, các dân tộc và mở rộng tới các vùng xa
xôi hẻo lánh; phủ sóng phát thanh, truyền hình trên cả nước.
Phát triển các hình thức hoạt động văn hoá của cả Nhà nước, tập thể và
tư nhân. Khắc phục tình trạng hành chính hoá các đơn vị hoạt động văn hoá, nghệ
thuật và xu hướng thương mại hoá đơn thuần trong lĩnh vực này.
2 - Chính sách giáo dục và đào tạo.
Chính sách giáo dục và đào tạo hướng vào bồi dưỡng nguồn nhân lực, nâng
cao dân trí, đào tạo nhân tài; xây dựng đội ngũ trí thức, nhà kinh doanh, người
quản lý, chuyên gia công nghệ và công nhân lành nghề đảm đương nhiệm vụ trước
mắt và chuẩn bị tốt cho đất nước và thế hệ trẻ Việt Nam bước vào thế kỷ XXI.
Đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo theo hướng nâng cao chất lượng và
đạt hiệu quả thiết thực, mở rộng quy mô phù hợp với các mục tiêu, nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội.
Đánh giá cải cách giáo dục phổ thông trong thời gian qua để có
chủ trương phù hợp với định hướng chiến lược. Tập trung sức phổ cập giáo dục
cấp I; bảo đảm cho trẻ em đến tuổi đều đi học; đại bộ phận thanh niên có học
vấn từ cấp II trở lên; chống mù chữ và mù chữ lại; củng cố và nâng cao chất
lượng giáo dục mầm non; đẩy mạnh bổ túc văn hoá.
Phát triển nhiều hình thức hướng nghiệp, dạy và truyền nghề của Nhà
nước, tập thể và tư nhân, hình thành nền giáo dục kỹ thuật trong
xã hội. Khuyến khích các doanh nghiệp tự tổ chức đào tạo, huấn luyện và dạy
nghề. Phổ biến rộng rãi các nghề phổ thông, phát triển việc dạy các nghề kỹ
thuật, nghiệp vụ bằng các lớp học ngắn hạn và dài hạn, học chính quy và không
chính quy; đưa việc dạy nghề vào giáo dục phổ thông. Các phương tiện truyền
thông đại chúng dành thời gian truyền bá kiến thức và giảng dạy theo chương
trình.
Sắp xếp hợp lý hệ thống đào tạo đại học và giáo dục chuyên nghiệp;
đổi mới và hiện đại hoá nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy để nâng
cao chất lượng, chú trọng trau dồi đạo đức, nhân cách và năng lực thực hành.
Trường đại học đồng thời là trung tâm văn hoá, khoa học và công nghệ, đào tạo
nhân tài. Mở rộng việc đào tạo và đào tạo lại sau đại học.
Khai thác mọi tiềm năng của toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục và
đào tạo. Đề cao vai trò và trách nhiệm của gia đình trong việc giáo dục con
cái, chăm sóc và bồi dưỡng thế hệ trẻ. Tạo điều kiện và khuyến khích tự học;
người tự học có quyền dự thi để được cấp bằng hoặc chứng chỉ. Bảo đảm cho mọi
người, trong khuôn khổ pháp luật, có quyền được dạy, được học, được thi, được
chọn nghề, chọn trường, chọn thầy, được đi học nước ngoài. Hoàn chỉnh chế độ
học phí. Cấp học bổng cho những học sinh giỏi và các đối tượng cần trợ cấp xã
hội. Củng cố hệ thống trường quốc lập và mở rộng các hình thức trường, lớp dân
lập.
Có chính sách đặc biệt để phát triển giáo dục và đào tạo ở miền núi
và vùng dân tộc thiểu số; mở rộng và nâng cao chất lượng các trường, lớp
nội trú; coi trọng việc đào tạo cán bộ và trí thức người dân tộc.
Bằng vốn ngân sách và các nguồn khác, tăng kinh phí cho giáo dục và
đào tạo. Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ giáo viên; củng
cố các trường sư phạm, tôn vinh nghề dạy học và các giáo viên dạy giỏi, mẫu
mực. Xây dựng và tu bổ trường sở, bảo đảm chất lượng và số lượng sách giáo
khoa, tăng thêm phương tiện dạy và học, từng bước đưa kiến thức tin học vào nhà
trường, kể cả trường phổ thông.
3- Chính sách khoa học và công nghệ.
Khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao trình độ quản lý của Nhà nước và
năng lực lãnh đạo của Đảng.
Phát triển đồng bộ khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ
thuật, hướng vào thực hiện các chức năng cơ bản:
- Xây dựng luận cứ khoa học cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, cho Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, cho các chính sách và kế
hoạch lớn.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp
thu những thành tựu mới của thế giới, nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản,
đồng thời góp phần giải quyết các vấn đề cấp bách về kinh tế và xã hội. Chú trọng
các vấn đề thuộc khoa học nhân văn.
- Làm đòn xeo phát triển lực lượng sản xuất, từng bước hiện đại hoá đất
nước. Hướng trọng tâm vào nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ
nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Cải tạo, đổi mới và
nâng cao trình độ công nghệ của các cơ sở sản xuất hiện có, cải tiến, hiện đại
hoá công nghệ truyền thống; xây dựng có trọng điểm một số hướng công nghệ hiện
đại: điện tử và tin học, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, các dạng
năng lượng mới, công nghệ chế biến tiên tiến; hình thành một số ngành công
nghiệp và dịch vụ có trình độ công nghệ cao.
- Kết hợp chặt chẽ với giáo dục và đào tạo, không ngừng nâng cao tiềm
lực trí tuệ của dân tộc, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, xây dựng nền
khoa học và công nghệ tiên tiến đủ sức giải quyết những vấn đề do cuộc sống đặt
ra.
Đổi mới cơ chế quản lý khoa học, thoát ra khỏi phương thức hành
chính, bao cấp; mở rộng quyền chủ động của các cơ sở nghiên cứu và triển khai.
Nhà nước giao đề tài nghiên cứu theo phương thức đặt hàng, đấu thầu.
Các cơ sở nghiên cứu khoa học ký hợp đồng trực tiếp với các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế để tiến hành các hoạt động nghiên cứu khác. Sản phẩm
khoa học và công nghệ là một loại hàng hoá đặc biệt được trả giá xứng đáng. Nhà
nước bảo hộ quyền tác giả các sản phẩm khoa học và quyền sở hữu công nghiệp.
Tăng đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ bằng
nhiều nguồn vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Ngân sách Nhà nước chủ yếu được
sử dụng để xây dựng các cơ sở nghiên cứu khoa học và triển khai các nhiệm vụ
nghiên cứu có ý nghĩa quốc gia.
Khuyến khích sáng tạo và tranh luận khoa học, phát huy dân chủ, chống
độc quyền, độc tôn trong khoa học. Tổ chức tốt thông tin khoa học, đáp ứng nhu
cầu thông tin cho công tác nghiên cứu. Các tổ chức và cá nhân đều có quyền
nghiên cứu, làm dịch vụ khoa học và công nghệ theo pháp luật.
Sắp xếp lại các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ theo cơ chế mới,
liên kết khoa học với đào tạo và sản xuất - kinh doanh. Xây dựng một số tổ chức
nghiên cứu - đào tạo - sản xuất tầm cỡ quốc gia trong một số lĩnh vực công nghệ
cao, tạo ra các mũi nhọn theo kịp trình độ quốc tế.
Có chính sách và quy chế tuyển chọn, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ
xứng đáng nhân tài; bảo đảm điều kiện cho cán bộ khoa học chuyên tâm vào công
việc nghiên cứu.
Mở rộng, đa dạng hoá và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về
khoa học và công nghệ, tranh thủ sự hợp tác và tài trợ của các nước, các tổ
chức và cá nhân, các nhà khoa học người Việt sống ở nước ngoài. Khuyến khích
các quan hệ trực tiếp trong lĩnh vực khoa học và công nghệ của các tổ chức và
cá nhân với bên ngoài theo luật pháp.
Đẩy mạnh phong trào toàn dân học tập, tiếp thu, ứng dụng, làm chủ các
tiến bộ khoa học và công nghệ.
Coi trọng việc nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển kinh tế, văn hoá,
xã hội ở miền núi; đẩy mạnh việc ứng dụng kỹ thuật mới, chuyển giao công nghệ
gắn với đào tạo cán bộ kỹ thuật cho miền núi.
4- Chính sách tài nguyên và bảo vệ môi
trường
Bảo vệ và sử dụng hợp lý các tài nguyên, cải thiện môi trường, ngăn
chặn tình trạng huỷ hoại đang diễn ra nghiêm trọng, chống xu hướng chạy theo
tốc độ tăng trưởng và lợi ích trước mắt, gây hại cho môi trường. Tích cực phòng
chống thiên tai.
Mọi tài nguyên đưa vào sử dụng phải nộp thuế hoặc trả tiền thuê.
Đối với các nguồn tài nguyên tái tạo, khai thác phải đi đôi với bảo vệ,
tận dụng những ưu thế của thiên nhiên nhiệt đới để bồi dưỡng, phục hồi và phát
triển chúng; giữ gìn quỹ gien sinh vật. Giữ cho được vốn rừng, nhất là
rừng đầu nguồn và phục hồi độ che phủ của rừng lên khoảng 40% vào năm 2000. Sử
dụng hợp lý tài nguyên đất, hạn chế việc dùng đất canh tác vào các mục
đích phi nông nghiệp; chống xói mòn và thoái hoá đất. Lập quy hoạch khai thác
và sử dụng tài nguyên nước; giải quyết nguồn nước cho công nghiệp và
sinh hoạt ở thành thị và một số vùng nông thôn; thường xuyên kiểm tra các hệ
thống xử lý nước thải, khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên biển, ngăn
chặn nguy cơ làm cạn kiệt nguồn hải sản; chủ động phòng ngừa ô nhiễm biển khi
phát triển công nghiệp dầu khí. Khai thác và sử dụng tổng hợp, có hiệu quả nhất
tài nguyên khoáng sản. Tất cả các xí nghiệp phải có luận chứng xử lý
chất thải, không gây ô nhiễm hoặc gây tiếng ồn lớn cho các khu dân cư. Có biện
pháp giảm bụi trong các thành phố.
Nhà nước quy định cụ thể quyền sở hữu, quyền và trách nhiệm sử dụng tài
nguyên để chấm dứt tình trạng tài nguyên vô chủ. Ban hành Luật bảo vệ thiên
nhiên. Giáo dục và tuyên truyền sâu rộng việc bảo vệ tài nguyên và môi trường
ngay từ lứa tuổi trẻ em. Xây dựng tổ chức bảo vệ tài nguyên và môi trường từ
trung ương đến địa phương, kết hợp với phong trào quần chúng trong lĩnh vực
này. Sớm tham gia và phối hợp hoạt động với các tổ chức quốc tế và khu vực
trong việc bảo vệ tài nguyên, môi trường và cảnh quan.
V. TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VÀ CÁN BỘ
1- Cải cách bộ máy nhà nước nhằm
nâng cao hiệu lực quản lý, tăng cường pháp quyền.
Bảo đảm quyền lực nhà nước thống nhất, phân định chức năng và quyền hạn
của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; phân biệt bộ máy quản lý nhà nước
và các tổ chức kinh doanh; đổi mới quan hệ làm việc giữa bộ máy nhà nước với hệ
thống tổ chức đảng và các đoàn thể; xây dựng cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động
của bộ máy nhà nước một cách khoa học, có đội ngũ cán bộ đủ năng lực. Trọng tâm
cải cách nhằm vào hệ thống hành chính với nội dung chính là xây dựng một
hệ thống hành pháp và quản lý hành chính nhà nước thông suốt từ trung ương
xuống cơ sở, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu lực.
Các bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
ngành hoặc lĩnh vực trong phạm vi cả nước. Chức năng quản lý ngành kinh tế- kỹ
thuật đối với tất cả các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế bao gồm việc xây
dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển ngành, quản lý khoa học và
công nghệ, xây dựng và kiểm tra việc thực hiện các luật lệ, chính sách, thể chế
quản lý và đào tạo cán bộ. Giảm bớt các bộ chuyên ngành, tăng cường sự điều
phối hoạt động giữa các bộ.
Cơ quan chính quyền nhà nước ở các cấp địa phương dựa
trên hệ thống thống nhất về luật pháp, chính sách và theo định hướng của kế
hoạch nhà nước để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội đối
với mọi tổ chức và cá nhân hoạt động trên lãnh thổ, bảo đảm thi hành pháp luật
nghiêm minh, chăm lo đời sống nhân dân, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội ở địa phương, củng cố an ninh và quốc phòng.
Ngân sách nhà nước là một hệ thống thống nhất
về chính sách, chế độ thu chi; nguồn thu và nhiệm vụ chi hằng năm có hiệu lực
pháp luật, được phân cấp thực hiện tương ứng với trách nhiệm quản lý của chính
quyền từng cấp. Các cơ quan chính quyền không được lập quỹ để ngoài sổ sách kế
toán. Xoá bỏ sự chia cắt, cát cứ trong quản lý kinh tế và quản lý ngân sách.
Xoá bỏ sự phân biệt kinh tế trung ương và kinh tế địa phương.
Giảm bớt cấp quản lý hành chính từ trung ương đến cơ sở, thu gọn chức
năng và bộ máy của cấp huyện. Xác định hợp lý quy mô và địa giới các cấp hành
chính.
Cải cách tổ chức và quy chế hoạt động của các loại công sở, loại bỏ
những khâu trung gian không cần thiết, tinh giản biên chế. Cải cách các thủ tục
và nghiệp vụ hành chính, từng bước hiện đại hoá kỹ thuật hành chính.
2- Đổi mới căn bản công tác cán bộ phù hợp
với cơ chế mới.
Phân định rõ cán bộ dân cử hoạt động theo nhiệm kỳ và các loại công
chức, viên chức chuyên nghiệp.
Đối với cán bộ quản lý nhà nước do dân cử, tiêu chuẩn bầu cử bao gồm cả
phẩm chất, kiến thức và năng lực cần thiết để đảm đương được trách nhiệm khi
được bầu.
Xây dựng quy chế công chức, viên chức trong từng lĩnh vực quản lý nhà
nước, hoạt động sự nghiệp, sản xuất - kinh doanh nhằm hình thành đội ngũ cán bộ
chuyên môn có phẩm chất, có kiến thức, thành thạo nghề nghiệp, nắm vững pháp
luật.
Phát triển đội ngũ những nhà kinh doanh giỏi thuộc nhiều tầm cỡ, từ
người chủ kinh tế hộ gia đình đến người quản lý các doanh nghiệp lớn. Tạo môi
trường cho những người có khả năng kinh doanh phát huy được tài năng.
Đánh giá và sử dụng cán bộ qua hiệu quả công tác thực tiễn, không phân
biệt đối xử giữa đảng viên và người ngoài Đảng; xoá bỏ những định kiến về thành
phần xuất thân. Sửa đổi những cơ chế, chính sách tạo kẽ hở và điều kiện cho tệ
quan liêu, tham nhũng. Thanh trừng những phần tử tham nhũng, áp chế dân ở bất
cứ cương vị nào; kịp thời thay thế những người không đủ khả năng thực hành chức
trách. Thực hiện nguyên tắc người phụ trách công việc có quyền hạn và trách
nhiệm chính trong việc tuyển chọn, sử dụng cán bộ dưới quyền.
Đổi mới công tác đào tạo cán bộ. Phát triển nhiều hình thức đào
tạo lại, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ trong bộ máy quản lý nhà nước và các nhà
kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế theo kịp yêu cầu của cơ chế quản lý mới
và nắm bắt được kiến thức quản lý hiện đại.
*
* *
Chiến lược này là phương hướng hành động của nhân dân Việt Nam đến năm
2000 nhằm chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, làm giàu cho mình và cho đất nước.
Toàn Đảng, toàn dân ta khẳng định quyết tâm thực hiện thành công chiến
lược này, đáp ứng điều mong muốn cuối cùng của Bác Hồ để lại trong Di chúc là "xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và
góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".
Phụ lục
MỘT SỐ CHỈ TIÊU CHỦ YẾU ĐẾN NĂM 1995 VÀ
NĂM 2000
A- Các chỉ tiêu toàn kỳ:
Chỉ tiêu
|
Đơn vị
|
1991-1995
|
1996-2000
|
1991-2000
|
1- Nhịp độ tăng bình quân
Tổng sản phẩm trong nước (GDP)
- Phương án 1
- Phương án 2
|
%
|
5,0-5,5
6,0-6,5
|
8,0
8,5
|
6,9
7,5
|
2- Nhịp độ tăng bình quân
Tổng sản lượng nông nghiệp
- Phương án 1
- Phương án 2
|
%
|
3,7-4,0
4,0-4,5
|
4,0-4,5
4,0-4,5
|
4,0
4,2
|
3- Nhịp độ tăng bình quân
Tổng sản lượng công nghiệp
- Phương án 1
- Phương án 2
|
%
|
8,0-9,0
10-11
|
10,0-11,0
14-15
|
9,5
12,5
|
4- Tổng kim ngạch xuất khẩu
- Phương án 1
- Phương án 2
|
Tỷ
USD
|
12
15
|
25
30
|
37
45
|
5- Nhịp độ tăng quỹ tiêu dùng
|
%
|
3,5-4,1
|
5,0-6,0
|
4,5-5,0
|
6- Nhịp độ tăng quỹ tích luỹ
|
%
|
10-15
|
16-20
|
14-18
|
7- Tổng đầu tư xây dựng cơ bản
- Phương án 1
- Phương án 2
|
Tỷ
USD
|
7,7
10,5
|
27,3
34,5
|
35
45
|
a) Vốn trong nước
- Phương án 1
- Phương án 2
|
|
4,1
5,0
|
17,9
20,0
|
22
25
|
a1. Vốn Nhà nước
- Phương án 1
- Phương án 2
|
|
2,4
3,0
|
7,6
9,0
|
10
12
|
a2. Vốn các doanh nghiệp và nhân dân
- Phương án 1
- Phương án 2
|
|
1,7
2,0
|
10,3
11
|
12
13
|
b) Vốn ngoài nước
- Phương án 1
- Phương án 2
|
|
3,6
5,5
|
9,4
14,5
|
13
20
|
B- Các chỉ tiêu một số năm mốc
|
||||
Chỉ tiêu
|
Đơn vị
|
1990
|
1995
|
2000
|
1- Dân số
|
triệu người
|
67,6
|
73,2
|
80-81
|
2- Lao động
|
triệu người
|
32,7
|
37,4
|
42,0
|
3- Tỷ trọng các ngành trong thu nhập quốc dân sản xuất
- Nông nghiệp
- Công nghiệp
|
%
|
50,6
20,2
|
48,0
22,0
|
42,0
28,0
|
4- Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế
|
%
|
2,9
|
4,2-8,6
|
13-20
|
5- Cơ cấu tích luỹ tiêu dùng
- Quỹ tích luỹ
- Quỹ tiêu dùng
|
%
|
8,1
91,1
|
14-18
82-86
|
23-30
70-77
|
6- Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu trong GDP
|
%
|
14,0
|
24-26
|
27-30
|
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh
anh dũng, làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, tiến hành các cuộc kháng
chiến chống xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp
giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, đưa cả nước chuyển sang giai đoạn
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay Đảng đang lãnh đạo nhân dân tiến hành công
cuộc đổi mới toàn diện theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng được tôi luyện,
trưởng thành và đã xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất
tốt đẹp của Đảng ta. Đó là bản lĩnh chính trị vững vàng, tính kiên định cách
mạng, tinh thần độc lập sáng tạo; nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; gắn bó với nhân dân; giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế. Tuy
có những lúc Đảng phạm sai lầm, khuyết điểm nhưng do biết công khai tự phê bình
và quyết tâm sửa chữa, nên Đảng vẫn được nhân dân tin cậy và thừa nhận là đội
tiên phong chính trị, người lãnh đạo chân chính duy nhất của dân tộc.
Thực tiễn chứng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng nước ta; để lãnh đạo được cách mạng, Đảng phải
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, có trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo theo yêu cầu của
từng giai đoạn cách mạng, phải phòng và chống được những nguy cơ lớn đối với
một đảng lãnh đạo chính quyền là: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự
thoái hoá biến chất của cán bộ, đảng viên.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam và truyền thống của Đảng ta gắn liền
với tên tuổi đồng chí Hồ Chí Minh - Người sáng lập Đảng, có công lao to lớn vận
dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, đề ra những luận điểm cơ bản về đảng và dày
công xây dựng, rèn luyện Đảng ta. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là
biểu hiện tập trung nhất những truyền thống tốt đẹp của Đảng và của dân tộc.
Chúng ta tự hào về Đảng ta và những truyền thống tốt đẹp của Đảng,
quyết tâm giữ vững, kế thừa và phát triển các truyền thống đó, ra sức khắc phục
những khuyết điểm và nhược điểm, chăm lo xây dựng và bảo vệ Đảng, làm cho Đảng
đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên.
Tại Đại hội VII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã trình Đại hội
nhiều văn kiện quan trọng. Nhiệm vụ chủ yếu của báo cáo này là trình bày tình
hình Đảng và công tác xây dựng đảng từ sau Đại hội VI đến nay, nêu ra phương
hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng trong thời gian tới và những vấn đề lớn về sửa
đổi Điều lệ Đảng để Đại hội xem xét và quyết định.
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH ĐẢNG VÀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG
Thời gian từ Đại hội VI đến nay là một chặng đường có nhiều thử thách
lớn đối với Đảng ta, nhân dân ta. Trong tình hình đất nước có nhiều khó khăn,
kinh tế - xã hội khủng hoảng, thế giới có những diễn biến hết sức phức tạp,
Đảng đã kiên trì lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo nhân dân vượt mọi khó
khăn, từng bước đưa đường lối Đại hội VI vào cuộc sống và đã thu được những
thành tựu bước đầu rất quan trọng.
Bám sát yêu cầu của công cuộc đổi mới, thực hiện phương hướng xây dựng
đảng do Đại hội VI đề ra, công tác xây dựng đảng đã đạt một số kết quả :
- Trong Đảng tiếp tục có sự đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế,
bước đầu hình thành hệ thống các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi
mới ở nước ta.
Qua tổng kết hoạt động thực tiễn phong phú từ cơ sở, với tinh thần độc
lập và sáng tạo, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã cụ thể hoá và phát
triển Nghị quyết Đại hội, đề ra nhiều chủ trương, chính sách về đổi mới cơ cấu
kinh tế, cơ chế quản lý, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Việc khẳng định
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, mở rộng quan hệ với bên ngoài, mở rộng dân
chủ trong đời sống xã hội là bước chuyển rất quan trọng, đánh dấu sự tiến bộ
trong tư duy lý luận gắn liền với hoạt động thực tiễn của Đảng ta.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, Đảng đã đề ra
những nguyên tắc định hướng công cuộc đổi mới ở nước ta, trên cơ sở đó xây dựng
sự nhất trí trong Đảng, phê phán những nhận thức mơ hồ, những quan điểm lệch
lạc, nâng cao ý thức cảnh giác đối với mọi âm mưu phá hoại và chống đối.
- Thực hiện dân chủ trong Đảng và lãnh đạo thực hiện dân chủ trong
xã hội một cách đúng hướng, vừa phát huy trí tuệ tập thể, thực hiện quyền công
dân, vừa bảo đảm sự ổn định về chính trị.
Trong sinh hoạt của nhiều cấp uỷ và tổ chức đảng, đã có không khí thảo
luận thẳng thắng, phát huy trí tuệ của đông đảo cán bộ, đảng viên trong việc
chuẩn bị các đề án, nghị quyết, trong việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo. Nhiều
cấp uỷ đảng thực hiện tốt hơn chế độ kiểm điểm công tác, tự phê bình và phê bình.
Ban Chấp hành Trung ương đã kiểm điểm việc chấp hành Nghị quyết Đại hội vào
giữa nhiệm kỳ; các uỷ viên Bộ Chính trị tự phê bình trước Ban Chấp hành Trung
ương.
Với cơ chế và chính sách mới, đã bước đầu mở rộng quyền tự chủ của các
cơ sở kinh tế, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho
mọi người được tự do sản xuất, kinh doanh theo pháp luật. Đã tích cực thực hiện
việc lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến của nhân dân tham gia xây dựng các chủ
trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chú ý nâng cao vai trò của các cơ
quan dân cử và các đoàn thể nhân dân. Các phương tiện thông tin đại chúng và
các hoạt động văn hoá, văn nghệ có một số đổi mới với nội dung phong phú hơn
trước, thảo luận công khai các ý kiến khác nhau, đấu tranh phê phán các hiện
tượng tham nhũng, tiêu cực, biểu dương những nhân tố mới.
Kết quả về thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội tuy mới là bước
đầu, còn nhiều hạn chế, nhưng đã góp phần quan trọng thúc đẩy công cuộc đổi
mới.
- Đã có những cố gắng trong việc làm trong sạch và nâng cao sức
chiến đấu của đội ngũ đảng viên.
Nhiều cấp uỷ và tổ chức đảng đã triển khai thực hiện Nghị quyết 04 của
Bộ Chính trị và Nghị quyết 05 của Ban Chấp hành Trung ương, tăng cường kiểm tra
đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng; thông qua tự phê bình và phê bình, lấy ý kiến
quần chúng để đánh giá, xem xét tư cách đảng viên; giải quyết nhiều vụ việc
tiêu cực, thư tố cáo cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng và pháp luật nhà
nước; bố trí lại đội ngũ cốt cán. Từ sau Đại hội VI đến tháng 12-1990 đã thi
hành kỷ luật 206.181 đảng viên, trong đó đưa ra khỏi Đảng 78.206 người.
Đợt củng cố, làm trong sạch Đảng trước Đại hội VII gắn với đấu tranh
chống tham nhũng được chỉ đạo tích cực hơn, đạt một số kết quả. Đại hội đảng bộ
hai cấp tiến hành vào cuối năm 1988 đầu năm 1989 và đại hội đảng bộ các cấp
tiến tới Đại hội VII vừa qua thật sự là các đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng
của toàn Đảng, góp phần quan trọng nâng cao ý thức đảng, ý thức trách nhiệm của
đông đảo cán bộ, đảng viên đối với sự nghiệp cách mạng.
Từ sau Đại hội VI đến nay, các tổ chức đảng đã kết nạp 303.237 đảng
viên mới, trong đó có 68,4% là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, góp
phần tăng thêm sức chiến đấu mới cho Đảng. Đến cuối năm 1990, toàn Đảng có
2.155.022 đảng viên, sinh hoạt trong 43.088 chi bộ và đảng bộ cơ sở (dưới đảng
uỷ cơ sở có 121.311 chi bộ).
Trải qua đấu tranh cách mạng lâu dài và hơn bốn năm tiến hành công cuộc
đổi mới, số đông đảng viên mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ chủ chốt từ trung ương
đến cơ sở đã thể hiện phẩm chất chính trị vững vàng trước mọi thử thách, nhất
là trước những biến động hết sức phức tạp của tình hình thế giới; đã kiên định
và quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Trình độ nhận thức lý luận
và thực tiễn của nhiều cán bộ, đảng viên đã được nâng lên thể hiện rõ trong
việc đóng góp ý kiến vào các văn kiện Đại hội VII ở đại hội đảng bộ các cấp vừa
qua. Những cán bộ, đảng viên và những tổ chức đảng năng động, sáng tạo trong
việc thực hiện nhiệm vụ, đã đóng góp cho Đảng những kinh nghiệm tốt, góp phần
bổ sung đường lối, chính sách của Đảng.
- Đã thực hiện một bước việc kiện toàn tổ chức và đổi mới cán bộ.
Trên cơ sở nhận thức mới về chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trong
hệ thống chính trị, nhất là trong điều kiện đổi mới chính sách và cơ chế quản
lý, đã tiến hành một bước việc đổi mới cán bộ các cấp, các ngành, sắp xếp lại
một số tổ chức, tinh giản biên chế, bỏ bớt một số khâu trung gian. ở nông thôn,
phù hợp với yêu cầu tổ chức lại sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp,
nhiều chi bộ đảng được sắp xếp lại theo địa bàn dân cư (thôn, xóm, ấp, bản) kết
hợp với tổ chức theo đơn vị sản xuất, công tác.
Đã có sự cải tiến nhất định trong quan hệ làm việc giữa Trung ương Đảng
với Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng và các đoàn thể; giữa cấp
uỷ đảng với cơ quan nhà nước và đoàn thể ở các cấp; khắc phục một phần tình
trạng cấp uỷ đảng bao biện làm thay công việc của các cơ quan nhà nước và đoàn
thể. Có tiến bộ nhất định trong lãnh đạo, quản lý ở tầm vĩ mô và phát huy quyền
chủ động của các đơn vị cơ sở.
Các cấp, các ngành đã chú ý bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ những kiến
thức, kinh nghiệm mới về lãnh đạo và quản lý. Đồng thời đã điều chỉnh, sắp xếp
lại nhiều cán bộ lãnh đạo và quản lý, tăng thêm một số cán bộ trẻ được đào tạo
cơ bản, có triển vọng; thay đổi nhiều cán bộ kém năng lực và phẩm chất không
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Chú trọng bố trí cán bộ trong các cơ quan nhà nước,
cho các chương trình kinh tế, các ngành và đơn vị trọng điểm. Đã có một số đổi
mới về quan điểm đánh giá cán bộ, cải tiến một bước sự phân công, phân cấp quản
lý cán bộ. Có tiến bộ hơn về thực hiện nguyên tắc tập thể, dân chủ trong bầu cử
và bổ nhiệm cán bộ.
Cần đánh giá đúng những kết quả và chuyển biến tích cực nêu trên và khẳng
định đó là mặt cơ bản. Đồng thời phải thấy hết những yếu kém và khuyết điểm thể
hiện tập trung nhất ở các mặt:
- Trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo của Đảng ở các cấp
nói chung còn thấp, chưa chuyển kịp theo yêu cầu đổi mới.
Vẫn còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh trong công cuộc đổi
mới chưa được làm sáng tỏ. Một số quan điểm và chủ trương lớn của Đảng chưa
được cụ thể hoá một cách đồng bộ. Trình độ các mặt của cán bộ, đảng viên, nhất
là trình độ và kinh nghiệm quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, lãnh đạo sản xuất
kinh doanh theo cơ chế quản lý mới còn nhiều mặt yếu. Sự nhất trí đối với một
số chủ trương, chính sách chưa cao. Trong Đảng vừa có những biểu hiện bảo thủ,
vừa có khuynh hướng nóng vội, bắt chước cách làm của nước khác; cũng có cả tư
tưởng dao động, cơ hội về chính trị.
- Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đổi mới còn chậm, cơ cấu
tổ chức còn nhiều bất hợp lý, bộ máy vẫn cồng kềnh, kém hiệu quả.
Chuyển sang thực hiện cơ chế mới, chúng ta lúng túng trong việc xác định
chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ và lề lối làm việc giữa Đảng với các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị, nhất là giữa Đảng với Nhà nước ở tất cả các cấp.
Nhiều cấp uỷ và tổ chức đảng vẫn còn ôm đồm bao biện công việc của chính quyền
và các đoàn thể, đồng thời lại có những biểu hiện buông lỏng và xem nhẹ vai trò
lãnh đạo của Đảng trên một số lĩnh vực và ở một số loại hình cơ sở (như xí
nghiệp, cơ quan, trường học...). Công tác quần chúng của Đảng chưa được quan
tâm đúng mức và chưa có sự đổi mới cơ bản.
Còn nhiều vướng mắc trong quan hệ lãnh đạo, quản lý giữa ngành và lãnh
thổ, trong việc xác định cơ cấu bộ máy hành chính các cấp, hệ thống tổ chức
đảng từ trung ương đến cơ sở và chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức
cơ sở đảng. Tổ chức bộ máy và biên chế các cơ quan đảng, nhà nước và đoàn thể ở
các cấp vẫn nặng nề. Việc tinh giản bộ máy đạt kết quả thấp do thiếu những
phương án tổng thể khoa học, thiếu biện pháp đồng bộ, chỉ đạo không tập trung,
kiên quyết. Số tổ chức cơ sở đảng yếu kém còn nhiều, có nơi mất sức chiến đấu.
- Đội ngũ cán bộ tuy có thay đổi khá nhiều nhưng chưa tạo ra chất
lượng mới, công tác cán bộ có nhiều khuyết điểm.
Số cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực đảm đương tốt nhiệm vụ trong thời
kỳ mới chưa nhiều, hoặc chưa được phát hiện và sử dụng hợp lý. Còn thiếu nhiều
cán bộ giỏi về quản lý nhà nước, quản lý sản xuất, kinh doanh và chuyên gia đầu
ngành. Vẫn còn tình trạng "hụt hẫng", lúng túng trong bố trí hạt nhân
lãnh đạo ở các cấp, kể cả ở cấp chiến lược. Đó là do công tác quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ làm chưa tốt; quản lý cán bộ chưa khoa học, nắm cán bộ
không chắc. Trong nhận xét, đánh giá, bố trí, đề bạt cán bộ, không ít trường
hợp còn theo quan điểm cũ, thiếu dân chủ, có khi còn lệ thuộc vào ý kiến của một
vài cán bộ có thẩm quyền. Tư tưởng cá nhân, cục bộ địa phương, phong kiến còn
nặng làm cho việc đánh giá, sử dụng cán bộ nhiều khi thiếu chính xác. Chưa có
cơ chế hợp lý để phát hiện và lựa chọn nhân tài, thay đổi, bãi miễn những cán
bộ không đủ phẩm chất hoặc năng lực đảm đương nhiệm vụ. Chậm đổi mới công tác
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo yêu cầu mới. Chính sách đãi ngộ cán
bộ còn nhiều bất hợp lý nhưng vẫn chưa được cải tiến một cách căn bản.
- Dân chủ trong Đảng còn hạn chế, kỷ luật không nghiêm, một số nơi
mất đoàn kết nghiêm trọng.
Không ít cấp uỷ và tổ chức đảng thiếu tôn trọng và phát huy quyền của
đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới. Không ít cán bộ lãnh đạo chưa quen với
những thông tin ngược chiều, không thích nghe ý kiến khác với ý kiến của mình.
Còn thiếu những cơ chế cụ thể có hiệu lực bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Có những quy định trong Điều lệ
Đảng, trong các quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương và các cấp uỷ không
được chấp hành nghiêm túc. Hiện tượng cán bộ lãnh đạo độc đoán, mệnh lệnh, trù
dập, ức hiếp quần chúng còn xảy ra ở một số nơi, có khi rất trắng trợn. Trong
khi tình trạng mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức còn nặng thì những biểu hiện
dân chủ cực đoan, tự do vô kỷ luật cũng không ít. Tệ bè cánh, mất đoàn kết ở
một số cấp uỷ và cơ quan lãnh đạo rất nghiêm trọng. Công tác tư tưởng, công tác
kiểm tra chưa thường xuyên và chặt chẽ, nhiều lúc thiếu sắc bén, kịp thời, còn
hữu khuynh trong đấu tranh chống tiêu cực và các quan điểm sai trái, lệch lạc.
Vẫn còn tình trạng "ô dù" bao che lẫn nhau làm cho việc xử lý cán bộ,
đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước không nghiêm, còn "nhẹ
trên, nặng dưới", để các hiện tượng tiêu cực phát triển, gây thắc mắc, bất
bình trong Đảng và trong nhân dân.
- Nhiều đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, một bộ phận đã tha hoá,
tham nhũng, xa dân, làm giảm sút nghiêm trọng uy tín của Đảng.
Trong đội ngũ đảng viên, bộ phận thực sự tiền phong gương mẫu, đáp ứng
được yêu cầu của công cuộc đổi mới cả về năng lực, phẩm chất chiếm tỷ lệ chưa
cao. Là một Đảng có lịch sử đấu tranh trên 60 năm, số đảng viên là người hưu
trí đã chiếm 23% tổng số đảng viên; nhiều đồng chí có phẩm chất chính trị vững
vàng, vẫn tích cực tham gia sinh hoạt và công tác, nhưng hạn chế về sức khoẻ và
khả năng hoạt động. Một bộ phận đảng viên, tuổi chưa cao, được rèn luyện trong
chiến đấu, đã phát huy vai trò tích cực trong chiến tranh, nhưng ít có điều
kiện học tập, nâng cao trình độ, nay không theo kịp nhiệm vụ mới.
Nhiều đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, phai nhạt lý tưởng, không phát
huy được vai trò tích cực trong quần chúng. Tình trạng cán bộ, đảng viên vi
phạm các nguyên tắc quản lý hoặc lợi dụng những sơ hở trong cơ chế quản lý để
lấy cắp của công, ăn hối lộ, buôn lậu, làm giàu bất chính, vi phạm đạo đức, lối
sống cách mạng có chiều hướng tăng lên, nhất là trong cán bộ hoạt động sản xuất
kinh doanh, quản lý nhà nước và ngay cả trong một số cơ quan bảo vệ pháp luật,
cơ quan đảng và đoàn thể.
Tình trạng yếu kém nói trên có nhiều nguyên nhân, chủ yếu là:
- Chúng ta tiến hành xây dựng Đảng trong tình hình đất nước có rất
nhiều khó khăn với hậu quả nặng nề của chiến tranh và cơ chế quản lý tập trung
quan liêu bao cấp kéo dài. Chủ nghĩa xã hội và nhiều đảng cộng sản trên thế
giới lâm vào khủng hoảng toàn diện và sâu sắc nhất từ trước tới nay đã tác động
mạnh mẽ đến nước ta. Chúng ta còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm khi chuyển
sang giai đoạn cách mạng mới. Cơ chế quản lý kinh tế -xã hội chưa đồng bộ và có
nhiều sơ hở, chính sách tiền lương còn nhiều bất hợp lý, làm cho công tác xây
dựng đảng về tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ gặp nhiều khó khăn.
- Đảng chưa đặt đúng tầm quan trọng của việc chỉnh đốn Đảng theo Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chưa coi trọng đúng mức việc nghiên cứu lý luận
và tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và xây dựng Đảng trong điều
kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Một số
cấp uỷ đảng và cán bộ lãnh đạo chưa coi trọng đúng mức công tác xây dựng đảng,
không chăm lo đầy đủ công tác giáo dục, rèn luyện đảng viên theo phương hướng
tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng. Một bộ phận
cán bộ, đảng viên, kể cả không ít cán bộ lãnh đạo cao cấp, trung cấp thiếu sự
tu dưỡng, rèn luyện, học tập để vươn lên.
- Sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, trước hết là của Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với công tác xây dựng đảng, nhất là đối với
việc chấp hành Điều lệ Đảng, thực hiện Nghị quyết 05 của Ban Chấp hành Trung
ương, Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị và một số chủ trương lớn về tổ chức cán bộ
tuy đã có nhiều cố gắng nhưng chưa tập trung, kiên quyết và đồng bộ, thiếu kiểm
tra, đôn đốc, tổng kết rút kinh nghiệm, nhiều khi khoán trắng công việc này cho
các ban chuyên môn về xây dựng đảng. Chưa gắn chặt công tác xây dựng đảng với
việc cải cách bộ máy nhà nước và đổi mới công tác quần chúng.
Các cấp uỷ chưa tích cực chỉ đạo việc củng cố và đổi mới các cơ quan
tham mưu và nghiên cứu về xây dựng đảng, nhất là đổi mới tư duy và phương thức
công tác. Các ban của Đảng, các cơ quan nghiên cứu, các trường đảng ở cả trung
ương và địa phương còn có những biểu hiện quan liêu, bảo thủ, trì trệ, chưa nỗ
lực vươn lên nâng cao chất lượng công tác của mình đáp ứng yêu cầu của tình
hình mới.
Phần thứ hai
NHIỆM VỤ ĐỔI MỚI VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG
THỜI GIAN TỚI
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong bối cảnh quốc tế, trong nước
và tình hình Đảng ta hiện nay đòi hỏi Đảng nhất thiết phải tự
đổi mới, tự chỉnh đốn. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng và cấp bách, có ý
nghĩa quyết định đối với sự thành công của sự nghiệp đổi mới, sự ổn định và
phát triển của đất nước và đối với vận mệnh của bản thân Đảng. Đây cũng là
nguyện vọng và đòi hỏi của nhân dân.
Phương hướng cơ bản của việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng là:
Phát huy truyền thống cách mạng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính
tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, gắn liền với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, cải cách bộ máy
nhà nước, đổi mới công tác quần chúng, bảo đảm cho Đảng ta - đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc - làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Theo phương hướng trên đây, dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) trong phần
mở đầu đã khẳng định những vấn đề cơ bản về Đảng và xây dựng đảng với
những nội dung cơ bản như sau:
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí
tuệ của dân tộc và của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn của
đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp
với yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh theo con
đường xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Đảng giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, kết hợp sự
kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách
lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới.
Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân, ủng hộ sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân
dân và thường xuyên chịu sự giám sát của nhân dân, đoàn kết và lãnh đạo nhân
dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời
là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà
nước, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật, chống quan liêu, lạm quyền, đặc quyền đặc lợi.
Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ
làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện lãnh đạo tập thể và cá nhân phụ trách,
tự phê bình và phê bình, giữ vững đoàn kết, thống nhất trong Đảng trên cơ sở Cương
lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ
hội, chống mọi biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, cục bộ, địa phương, chia rẽ,
bè phái trong Đảng. Trong tình hình hiện nay, việc khẳng định những vấn đề cơ
bản trên đây có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bảo đảm cho việc đổi mới và chỉnh
đốn Đảng không đi chệch những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng.
Yêu cầu đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong những năm tới là:
Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực
lãnh đạo chính trị; đổi mới một bước cơ bản nội dụng và phương thức lãnh đạo
của Đảng; bảo đảm dân chủ, giữ gìn kỷ luật, tăng cường đoàn kết thống nhất
trong Đảng; làm trong sạch và nâng cao chất lượng đảng viên; khắc phục có hiệu
quả các hiện tượng tiêu cực, đặc biệt là tệ tham nhũng, khôi phục và nâng cao
lòng tin của nhân dân đối với Đảng; chấn chỉnh tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán
bộ; làm cho Đảng có bản lĩnh chính trị, có kiến thức, năng lực và sức chiến đấu
mới, đủ sức đoàn kết lãnh đạo toàn dân vượt mọi khó khăn, thử thách, phấn đấu
thực hiện có kết quả các nghị quyết của Đại hội VII.
Để đạt được những yêu cầu trên, cần làm tốt những nhiệm vụ chủ yếu
dưới đây:
Một là, phải tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao trình độ trí
tuệ và năng lực lãnh đạo chính trị của Đảng. Đây là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu.
Phát triển công tác lý luận gắn với tổng kết thực tiễn, chú trọng tổng
kết những cái mới đang hằng ngày nảy sinh trong đời sống đất nước và trên thế
giới.
Tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt
là về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; quán triệt, phát triển, cụ
thể hoá Cương lĩnh chính trị, Chiến lược kinh tế - xã hội và các văn kiện khác
của Đại hội một cách đúng đắn, có căn cứ khoa học, đưa công cuộc đổi mới đi vào
chiều sâu. Nghiên cứu có hệ thống tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Kịp thời nắm bắt, dự báo và giải đáp những vấn đề mới xuất hiện ở trong nước và
quốc tế.
Chấn chỉnh hệ thống thông tin, bảo đảm cho cấp uỷ đảng, đặc biệt là cấp
trung ương có điều kiện tiếp cận được những vấn đề mới nhất về lý luận và thực
tiễn. Cải tiến quy trình chuẩn bị nghị quyết, ra nghị quyết, tổ chức và kiểm
tra việc thực hiện nghị quyết, làm cho các nghị quyết thật sự phản ánh được trí
tuệ tập thể của Đảng, của nhân dân và được thực hiện đến nơi đến chốn. Có biện
pháp và tổ chức thích hợp bảo đảm cho cán bộ, đảng viên, các chuyên gia, các
nhà khoa học trong và ngoài Đảng phát huy mọi sáng kiến và sự suy nghĩ độc lập,
tích cực tham gia vào các quá trình trên. Đối với những vấn đề mới và khó, hoặc
còn nhiều ý kiến khác nhau cần chuẩn bị nhiều phương án để cân nhắc, thực hiện
chế độ làm thử, rút kinh nghiệm trước khi ra nghị quyết.
Các cơ quan tham mưu, cơ quan nghiên cứu giúp cấp uỷ chuẩn bị nghị
quyết phải được kiện toàn, bao gồm những cán bộ và chuyên gia có phẩm chất
chính trị và kiến thức khoa học, am hiểu thực tế, có khả năng tư duy độc lập,
phân tích tổng hợp, biết lắng nghe các ý kiến khác nhau, tiếp thu những ý kiến
đúng.
Hai là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng,
bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng, nâng cao trình độ kiến thức của cán bộ, đảng
viên và nhân dân.
Công tác chính trị tư tưởng có nhiệm vụ làm cho thế giới quan Mác -
Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh thấm nhuần trong Đảng và giữ vị trí chỉ
đạo trong đời sống tinh thần xã hội; nâng cao ý chí phấn đấu, xây dựng niềm tin
vững chắc vào con đường xã hội chủ nghĩa, đấu tranh không khoan nhượng với các
luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, xuyên tạc đường lối, chính sách của
Đảng; xây dựng phương pháp tư duy khoa học, chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa
kinh nghiệm và chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc. Khắc phục những biểu hiện bi
quan dao động, giảm sút ý chí phấn đấu, bảo thủ trì trệ, chủ quan nóng vội. Đặc
biệt chú trọng giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ.
Bảo vệ và phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng của Đảng, của
giai cấp công nhân và của dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân
loại. Phê phán tư tưởng coi nhẹ hoặc phủ định truyền thống và thành quả cách
mạng của Đảng và nhân dân. Nâng cao kiến thức và năng lực tổ chức thực tiễn cho
cán bộ, đảng viên, gắn liền với đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, không ngừng nâng
cao dân trí.
Bồi dưỡng đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc
đấu tranh chống tiêu cực trong Đảng và trong xã hội. Chống sự tha hoá về phẩm
chất chính trị, xa rời quần chúng, tham nhũng, làm ăn bất chính, chạy theo tiền
tài, danh vị, chia rẽ bè phái. Chống việc phục hồi các hủ tục, mê tín, dị đoan.
Nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, không mơ hồ về bản chất của chủ
nghĩa đế quốc và các lực lượng chống chủ nghĩa xã hội. Kịp thời đấu tranh chống
những luận điệu chiến tranh tâm lý, phản tuyên truyền của các thế lực thù địch
và những phần tử xấu. Tăng cường công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới mạnh mẽ phương pháp công tác tư tưởng, có nhiều hình thức thiết
thực, sinh động, phù hợp với từng đối tượng.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác thông tin, báo chí, xuất bản,
văn hoá, văn nghệ. Bố trí đúng và nâng cao trách nhiệm của những cán bộ phụ
trách các cơ quan này.
Tăng cường và từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất - kỹ thuật của các
cơ quan làm công tác tư tưởng. Có chính sách tài chính đúng đắn đối với các
hoạt động báo chí, xuất bản, thông tin cổ động, văn hoá, văn nghệ, giáo dục lý
luận, nghiên cứu khoa học.
Ba là, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hệ thống chính trị, trước hết là đối với Nhà nước; đổi mới công tác
quần chúng của Đảng.
- Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, chiến lược, cách định
hướng về chính sách và những chủ trương công tác, lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá
thành hiến pháp, pháp luật, chính sách, trên cơ sở đó Nhà nước quản lý, điều
hành mọi mặt đời sống xã hội.
Đảng kiểm tra và giám sát việc thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng
thông qua hoạt động của đảng viên và tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước và
dựa vào ý kiến của nhân dân.
Đảng chăm lo công tác cán bộ, bồi dưỡng, lựa chọn cán bộ đưa ra ứng cử
vào các cơ quan dân cử, hoặc giới thiệu với Nhà nước để đề bạt, bổ nhiệm vào
các cương vị chủ chốt ở các ngành, các cấp. Đảng tôn trọng cơ chế của Nhà nước
về bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, không gò ép, áp đặt.
Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh thực sự là
Nhà nước của dân, do dân, vì dân, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất
quyền lực, phân công phân nhiệm rõ ràng.
Đảng lãnh đạo bằng công tác tư tưởng, tổ chức, vai trò tiên phong,
gương mẫu của đảng viên và tổ chức đảng (như đảng đoàn, ban cán sự, tổ chức cơ
sở đảng).
Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không bao biện làm thay công việc của Nhà
nước. Đảng viên công tác trong cơ quan nhà nước phải nghiêm chỉnh chấp hành
nghị quyết của Đảng, làm tròn nhiệm vụ Đảng giao, gương mẫu thực hiện nghĩa vụ
công dân, tuân theo pháp luật, không được lợi dụng chức quyền làm điều sai
trái, giành đặc quyền, đặc lợi.
- Trong điều kiện lãnh đạo chính quyền, Đảng đặc biệt coi trọng đổi
mới công tác quần chúng của Đảng theo quan điểm: cách mạng là sự nghiệp của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật
thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân, làm suy yếu sức mạnh
của Đảng, của cách mạng sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận
mệnh của đất nước.
Đường lối, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng
chân chính của nhân dân. Tạo mọi điều kiện để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân. Khắc phục tình trạng vi phạm dân chủ, dân chủ hình thức; đồng thời chống
dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối trong xã hội.
Các tổ chức đảng từ trung ương đến cơ sở phải lấy công tác vận động
quần chúng và lãnh đạo công tác của các đoàn thể làm một nội dung thường xuyên
trong hoạt động của mình. Cán bộ lãnh đạo phải thường xuyên đi sát cơ sở, đi
sát nhân dân, trực tiếp trao đổi ý kiến với nhân dân, học hỏi kinh nghiệm sáng
tạo của nhân dân.
Đảng tôn trọng tính tự chủ về tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân, hướng dẫn và tạo điều kiện cho mặt trận và các đoàn
thể, nhất là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên đoàn Lao động, Hội
Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ...đổi mới nội dung và phương thức hoạt động đúng
hướng, đạt hiệu quả. Đảng lắng nghe và trân trọng ý kiến đóng góp của Mặt trận
và các đoàn thể đối với sự lãnh đạo của Đảng và cán bộ, đảng viên, khuyến khích
các đoàn thể chủ động đóng góp ý kiến xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng
và pháp luật của Nhà nước.
Bốn là, bảo đảm dân chủ, giữ gìn kỷ luật, tăng cường đoàn
kết thống nhất trong Đảng.
Có nhận thức đúng đắn và thống nhất về yêu cầu, nội dung dân chủ và
nguyên tắc tập trung dân chủ; đồng thời có cơ chế bảo đảm thực
hiện những nội dung đó. Dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) lần này có bổ sung
một số quy định chính là nhằm tạo ra cơ chế đó.
Trước hết, phải bảo đảm thực hiện các quyền của đảng viên, nhất
là quyền được thảo luận một cách thẳng thắn các vấn đề đường lối, chính sách
của Đảng, quyền được phê bình, chất vấn trong phạm vi tổ chức về hoạt động của
tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp. Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) nhấn mạnh quyền
được thông tin, quyền được bảo lưu ý kiến của đảng viên. Những quy định trên
tạo điều kiện khắc phục tình trạng cấp uỷ vi phạm quyền của đảng viên, còn đảng
viên thì thụ động tiêu cực.
Để tăng cường sự kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của
cấp uỷ, dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) yêu cầu phải thực hiện đúng
các quy định về triệu tập đại hội thường lệ và đại hội bất thường, kể cả ở cơ
sở. Đồng thời đề nghị tăng thêm quyền của hội nghị đại biểu: hội nghị đại biểu
được triệu tập giữa hai kỳ đại hội; hội nghị đại biểu có thẩm quyền bổ sung
nghị quyết của đại hội cho phù hợp với tình hình mới trên cơ sở Cương lĩnh
chính trị, đường lối của Đảng, nghị quyết của cấp trên; bầu bổ sung uỷ viên ban
chấp hành; nghị quyết của hội nghị đại biểu, kể cả ở cấp trung ương, không phải
thông qua ban chấp hành.
Trong Đảng từ trung ương đến cơ sở phải chấp hành nghiêm túc các quy
định về chế độ báo cáo, chế độ tự phê bình và phê bình. Các cơ quan được bầu
phải chịu sự giám sát của tổ chức đảng và đảng viên, phải báo cáo hoạt động
trước cơ quan đã bầu ra mình, thường xuyên thông báo tình hình và hoạt động của
mình đến các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Thực hiện chế độ Ban Chấp hành
Trung ương kiểm tra, giám sát hoạt động của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; các cấp
uỷ kiểm tra, giám sát hoạt động của ban thường vụ: các uỷ viên Bộ Chính trị, uỷ
viên thường vụ các cấp tự phê bình trước ban chấp hành. Quy định cụ thể chế độ
cấp trên tự phê bình trước cấp dưới và tổ chức việc phê bình từ dưới lên. Thực
hiện đều đặn chế độ quần chúng phê bình cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Cán
bộ lãnh đạo phải gương mẫu tự phê bình và tiếp thu phê bình. Nghiêm cấm việc
trù dập người phê bình thẳng thắn; đồng thời kiên quyết xử lý những kẻ lợi dụng
phê bình để đả kích cá nhân, vu cáo, chia rẽ.
Để nâng cao vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của uỷ ban kiểm tra
các cấp, dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị quy định: uỷ ban kiểm tra có
chức năng kiểm tra việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng,
kiểm tra việc chấp hành quy chế làm việc của tổ chức đảng cấp dưới, kiểm tra
việc giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng của đảng viên, xem xét và xử lý kỷ
luật các tổ chức đảng và đảng viên theo đúng quy định của Điều lệ Đảng.
Năm là, làm trong sạch Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên.
Đảng viên phải làm tròn những nhiệm vụ đảng viên ghi trong Điều
lệ Đảng. Trong giai đoạn cách mạng mới cần nhấn mạnh: đảng viên phải có phẩm
chất chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của
Đảng, có thái độ tích cực đối với công cuộc đổi mới, đồng thời phải có trình độ
trí tuệ, năng lực lãnh đạo để thực hiện nhiệm vụ đổi mới.
Trong cuộc đấu tranh để xoá bỏ nghèo nàn lạc hậu, thực hiện dân giàu,
nước mạnh, đảng viên hoạt động trong các thành phần kinh tế phải nêu được vai
trò tiền phong, gương mẫu; bằng lao động sáng tạo, có năng suất và chất lượng
cao của mình góp phần tích cực vào việc phát triển lực lượng sản xuất, giải
quyết việc làm cho người lao động, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, trong
đó có bản thân và gia đình mình. Đảng viên làm kinh tế phải gương mẫu chấp hành
luật pháp, chính sách của Nhà nước, có lối sống lành mạnh và giữ được quan hệ
tốt với quần chúng.
Đảng viên là công nhân, viên chức tại chức, ngoài việc hoàn thành nhiệm
vụ công tác, được khuyến khích phát triển kinh tế gia đình. Đảng viên được góp
cổ phần vào các công ty, xí nghiệp quốc doanh, tập thể. Đảng viên không ở trong
biên chế của các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, bản thân trực tiếp lao động
(lao động chân tay, lao động kỹ thuật, lao động quản lý) được đứng ra tổ chức
các đơn vị kinh tế tập thể (tổ sản xuất, hợp tác xã...); được đấu thầu, nhận
khoán đất đai, thuê tài sản của Nhà nước, của tập thể để tổ chức kinh doanh;
được làm kinh tế cá thể, tiểu chủ. Đảng viên không được làm kinh tế tư bản tư
nhân; đối với những trường hợp đặc biệt thì tổ chức đảng sẽ xem xét giải quyết
từng trường hợp cụ thể theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đội ngũ đảng
viên, cần có kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng nâng cao giác ngộ lý tưởng xã hội
chủ nghĩa và trình độ mọi mặt của đảng viên. Thực hiện nền nếp phân công đảng
viên, kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng và nhiệm vụ được giao. Thông
qua công tác thực tế, qua phong trào quần chúng để giáo dục, rèn luyện đảng
viên. Biểu dương, khuyến khích và phát huy vai trò tích cực của những đảng viên
tiên phong gương mẫu, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Chú trọng bồi dưỡng các
đảng viên mới, đảng viên trẻ.
Đối với những đảng viên già yếu, không trực tiếp sản xuất, công tác, tổ
chức đảng cần có hình thức sinh hoạt thích hợp và phân công hợp lý để các đồng
chí thuận tiện trong sinh hoạt đảng và tiếp tục đóng góp vào công việc chung.
Những đồng chí già yếu, ốm đau lâu ngày, tự nguyên xin miễn công tác và sinh
hoạt đảng, thì chi bộ xem xét quyết định.
Đối với những đảng viên tự nguyện xin ra Đảng vì những lý do khác nhau
(không phải là do vi phạm kỷ luật của Đảng), thì chi bộ xem xét, chấp nhận và
báo cáo lên cấp uỷ có thẩm quyền để kiểm tra lại. Đảng trân trọng ghi nhận
những cống hiến của đảng viên và giữ mối liên hệ tốt với các đồng chí ấy.
Đối với những đảng viên trình độ hạn chế, nhưng vẫn gắn bó với Đảng, tổ
chức đảng cần tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện để các đồng chí đó làm tốt nhiệm
vụ đảng viên.
Kiên quyết làm trong sạch đội ngũ đảng viên.
Thông qua công tác kiểm tra của Đảng và dựa vào quần chúng để nhận xét, đánh
giá đúng đảng viên, đưa ra khỏi Đảng những người không còn tư cách đảng viên,
trước hết là những đảng viên thoái hoá, biến chất, tham nhũng, cơ hội, gây chia
rẽ, bè phái, trù dập, ức hiếp quần chúng, bị quần chúng oán ghét. Kịp thời xử
lý bằng những hình thức kỷ luật thích hợp đối với những đảng viên vi phạm kỷ
luật Đảng, dù đảng viên đó là cán bộ lãnh đạo ở bất cứ cấp nào.
Xoá tên trong danh sách đảng viên những người không thiết tha với Đảng,
giảm sút ý chí phấn đấu, không tích cực làm nhiệm vụ đảng viên, không còn tín
nhiệm trong quần chúng và những đảng viên bỏ sinh hoạt đảng hoặc không đóng
đảng phí 3 tháng trong năm mà không có lý do chính đáng. Một số trường hợp xét
còn có thể giúp đỡ để tiến bộ thì định thời hạn để những đảng viên đó phấn đấu
và tổ chức đảng phải có kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng; nếu hết thời hạn mà không
tiến bộ thì cũng xoá tên trong danh sách đảng viên, hoặc khuyên rút ra khỏi
Đảng. Đây là việc phải tập trung chỉ đạo thực hiện tốt để khắc phục "sức
ỳ" lớn trong đảng hiện nay, từ đó nâng cao sức chiến đấu của đội ngũ đảng
viên.
Chỉ đạo chặt chẽ công tác kết nạp đảng viên mới nhằm
tăng thêm năng lực và trí tuệ mới, trẻ hoá đội ngũ, từng bước khắc phục tình
trạng tỉ lệ đảng viên quá thấp ở một số đơn vị (như xí nghiệp, trường học, cơ
sở tiểu, thủ công nghiệp) và một số vùng (như vùng đồng bào dân tộc, vùng tôn
giáo). Coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng, đề phòng bọn cơ hội tìm
cách vào Đảng.
Chăm lo bồi dưỡng, kết nạp vào Đảng những người ưu tú trong công nhân,
nông dân, trong trí thức, trong lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân lao
động khác. Tuỳ theo hoàn cảnh từng nơi, tỉnh uỷ, thành uỷ có thể quy định trình
độ học vấn đối với người kết nạp vào Đảng. Đặc biệt coi trọng kết nạp những
thanh niên nam nữ ưu tú vào Đảng. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phải
được các cấp uỷ đảng coi trọng giúp đỡ xây dựng để xứng đáng là đội dự bị tin
cậy của Đảng, hạt nhân nòng cốt của phong trào thanh niên và là lực lượng kế
tục sự nghiệp cách mạng của dân tộc và của Đảng. Phải đặt công tác xây dựng
đoàn trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với công tác xây dựng đảng.
Sáu là, củng cố các tổ chức cơ sở đảng và các cấp uỷ đảng.
Theo yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới nội dung và phương thức
lãnh đạo, phải nghiên cứu sắp xếp lại tổ chức của Đảng. Tổ chức cơ sở
đảng được lập theo đơn vị cơ sở hành chính, kinh tế hoặc công tác, đặt dưới sự
lãnh đạo của cấp uỷ địa phương. Không tổ chức đảng theo ngành dọc, trừ đảng bộ
quân đội theo quy định của Điều lệ Đảng và một số ngành công tác đặc biệt do
Trung ương quy định; nhưng cần tăng cường mối quan hệ giữa cấp uỷ địa phương và
cơ quan lãnh đạo ngành trong chỉ đạo các hoạt động có liên quan ở cơ sở. Trong
một số trường hợp nhất định, nếu được sự đồng ý của Trung ương, các tỉnh uỷ,
thành uỷ có thể thành lập một số đảng uỷ (hoặc ban cán sự đảng) cấp trên của
những tổ chức cơ sở chưa thể giao về trực thuộc các quận uỷ, huyện uỷ. Một số
tổ chức cơ sở đảng trong các viện nghiên cứu, trường đại học, công ty, xí
nghiệp lớn có thể đặt trực thuộc các tỉnh uỷ, thành uỷ. Sắp xếp lại và củng cố
tổ chức, tăng cường hoạt động của các đảng uỷ khối các cơ quan trung ương. Tất
cả các đảng bộ cơ sở và cấp trên của cơ sở đóng trên địa bàn lãnh thổ và những
đảng viên thuộc các đảng bộ này đều có trách nhiệm tham gia công tác xã hội,
công tác vận động quần chúng ở địa phương theo hướng dẫn của cấp uỷ địa phương.
Các tổ chức cơ sở đảng thuộc các loại hình
khác nhau như nông thôn, xí nghiệp, trường học, cơ quan, viện nghiên cứu, đơn
vị quân đội, công an... đều phải được củng cố để thật sự phát huy vai trò lãnh
đạo trong đơn vị. Căn cứ vào nhiệm vụ chung của tổ chức cơ sở đảng trong dự
thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) cần sớm cụ thể hoá nhiệm vụ, chức trách, phương
thức lãnh đạo của từng loại hình cơ sở đảng.
Cải tiến sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ. Mọi đảng viên, kể cả
đảng viên là cán bộ lãnh đạo, phải thực hiện tốt những nhiệm vụ do chi bộ phân
công, phải chịu sự giám sát của chi bộ về ý thức chấp hành đường lối, chính
sách, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng và về đạo đức, lối sống, quan hệ với
quần chúng ở nơi làm việc và nơi ở. Đảng uỷ cấp trên cần chỉ đạo chặt chẽ việc
kiện toàn tổ chức cơ sở đảng. Thu hẹp diện cơ sở yếu kém. Tổng kết để phổ biến
kinh nghiệm của những tổ chức cơ sở đảng vững mạnh. Đặc biệt chú trọng bồi
dưỡng, bố trí đội ngũ cốt cán. Nâng cao chất lượng cán bộ đảng chuyên trách;
bồi dưỡng bí thư đảng uỷ và đảng viên đủ tiêu chuẩn để giới thiệu vào các cương
vị lãnh đạo và quản lý ở cơ sở.
Một công việc hết sức quan trọng là phải nâng cao chất lượng cấp uỷ
đảng từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
theo những tiêu chuẩn cấp uỷ viên đã nêu trong dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi),
bảo đảm tập trung trí tuệ của toàn Đảng, của mỗi đảng bộ. Nâng cao năng lực
lãnh đạo của cấp uỷ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp. Thực hiện đổi
mới, nâng cao chất lượng của cấp uỷ qua mỗi kỳ đại hội và bảo đảm tính kế thừa
trong cơ quan lãnh đạo. Kịp thời thay đổi, rút ra khỏi cấp uỷ những người giảm
sút tín nhiệm do năng lực và phẩm chất kém, không chờ đến hết nhiệm kỳ, bổ sung
cấp uỷ viên khi có yêu cầu theo quy định của Điều lệ Đảng. Xây dựng và thực
hiện nghiêm túc các quy chế làm việc của cấp uỷ từ trung ương đến cơ sở.
Bảy là, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ
cán bộ đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và kế tục sự nghiệp cách mạng.
Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng.
Mục tiêu của công tác cán bộ là
xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ và có chất lượng, mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ
chủ chốt của các ngành, các cấp và cơ sở, trước hết là đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược, có đủ phẩm chất và năng lực, bảo đảm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ
của 5 năm tới và sự vững vàng của Đảng trước mọi khó khăn, thử thách, đồng thời
tích cực chuẩn bị cán bộ cho những năm tiếp theo.
Tiêu chuẩn cơ bản của cán bộ lãnh đạo trong
giai đoạn hiện nay là: có bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức trách nhiệm
và tinh thần đổi mới; trung thực và thẳng thắn; có kiến thức và năng lực tổ
chức thực tiễn; có tinh thần học tập để không ngừng nâng cao trình độ; có lối
sống lành mạnh, được nhân dân tín nhiệm. Trên cơ sở xác định tiêu chuẩn cơ bản
của cán bộ lãnh đạo và quản lý, cần khẩn trương xây dựng tiêu chuẩn cán bộ theo
từng chức danh ở các cấp, các ngành.
Xúc tiến và đổi mới công tác quy hoạch cán bộ, tích cực đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo của Đảng, cán bộ quản
lý nhà nước, cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh, chuyên gia trên các lĩnh vực
theo yêu cầu thiết thực của công cuộc đổi mới, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu và
cấp bách của công tác cán bộ. Sắp xếp lại hệ thống trường lớp; cải cách nội
dung và quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Trong bố trí, sử dụng cán bộ phải thể hiện rõ quan điểm đổi
mới. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ và căn cứ vào tiêu chuẩn cán
bộ để bố trí, sử dụng cán bộ. Phải lấy kết quả thực tế thực hiện nhiệm vụ được
giao làm căn cứ chủ yếu để nhận xét, đánh giá cán bộ; không đơn thuần theo quá
trình, bằng cấp, học vị, tuổi tác. Kiên quyết bãi miễn và đưa ra khỏi cương vị
lãnh đạo và quản lý ở mọi cấp những cán bộ kém phẩm chất và năng lực, không đảm
đương được nhiệm vụ. Bố trí lại những cán bộ phân công không hợp lý. Mạnh dạn
đề bạt cán bộ trẻ có đủ tiêu chuẩn và có triển vọng. Không điều chuyển cán bộ
từ ngành này, vị trí này sang ngành khác, vị trí khác nếu những cán bộ đó không
phù hợp với nhiệm vụ được giao.
Xoá bỏ quan niệm hễ là cấp uỷ viên thì bố trí làm cán bộ lãnh đạo ở
ngành nào, ở đơn vị nào cũng được, không kể năng lực có phù hợp không. Quan tâm
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng tốt đội ngũ trí thức, đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ dân
tộc thiểu số, cán bộ xuất thân là công nhân. Đoàn kết, sử dụng hợp lý mọi lực
lượng cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng; không hẹp hòi, định kiến về lý lịch và
thành phần xuất thân. Kịp thời phát hiện những cán bộ trẻ, có tài, đồng thời
biết sử dụng có hiệu quả những cán bộ lớn tuổi đã từng trải, có kinh nghiệm.
Chống tư tưởng phong kiến gia trưởng, cục bộ địa phương trong công tác cán bộ.
Từng bước hình thành các cơ chế phát hiện, tuyển chọn, đề bạt và bãi
miễn cán bộ một cách khoa học và có hiệu quả. Làm đúng các quy định và quy
trình dân chủ, tôn trọng ý kiến của cấp dưới và tập thể, không áp đặt ý kiến cá
nhân. Rút kinh nghiệm để làm tốt việc thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các
đơn vị kinh tế, sự nghiệp...
Sửa đổi các chính sách, chế độ đãi ngộ cán bộ, xoá bỏ các chế độ
chính sách mang tính bình quân, bao cấp và những quy định có tính đặc quyền,
đặc lợi. Có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với những cán bộ có tài, có cống
hiến xuất sắc, cán bộ có nhiều công lao với Tổ quốc, cán bộ cơ sở, kể cả cán bộ
trong và ngoài Đảng. Sớm cải tiến chế độ tiền lương và các chính sách, chế độ
xã hội khác. Thực hiện đúng đắn chính sách, chế độ đối với cán bộ hoạt động lâu
năm, cán bộ hưu.
Tăng cường sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và nâng cao
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể đối với công tác cán bộ. Cán
bộ lãnh đạo chủ chốt ở mỗi cấp, mỗi ngành phải đích thân chăm lo công tác cán
bộ và khắc phục bệnh chủ quan, thiếu công tâm trong công tác cán bộ để làm tốt
công tác quan trọng này. Kiện toàn các cơ quan tham mưu các cấp về công tác cán
bộ, không để những cán bộ không vững vàng về chính trị, không trung thực, kém
phẩm chất và năng lực làm công tác cán bộ.
*
* *
Công tác xây dựng đảng vốn đã quan trọng, lúc này càng hết sức quan
trọng. Vì vậy trong thời gian tới việc đổi mới và chỉnh đốn đảng phải được chỉ
đạo một cách kiên quyết, có bước đi vững chắc, làm từ trung ương đến cơ sở,
bằng nhiều biện pháp đồng bộ, gắn với quá trình đổi mới cơ chế quản lý, tăng
cường hệ thống chính trị, cải cách bộ máy nhà nước, dựa vào nhân dân, thông qua
phong trào cách mạng của nhân dân để đổi mới, chỉnh đốn Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương cần có kế hoạch cụ thể để chỉ đạo thực hiện có
hiệu quả các quyết định của Đại hội về công tác xây dựng đảng và Điều lệ Đảng,
tạo ra một bước chuyển biến quan trọng về đổi mới và chỉnh đốn đảng trong 5 năm
tới. Đồng thời xúc tiến tổng kết công tác xây dựng đảng trong các thời kỳ, nhất
là trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, góp phần nâng cao trình độ lý luận về xây
dựng đảng và hoàn chỉnh lịch sử Đảng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét