Chủ Nhật, 10 tháng 6, 2012

tư liệu về Mạc Cửu khai phá trấn Hà Tiên (1708), phần 1

tư liệu về Mạc Cửu khai phá trấn Hà Tiên (1708)



1. Công cuộc khai phá trấn Hà Tiên và vai trò của họ Mạc

Nói đến công cuộc khai phá vùng đất trấn Hà Tiên trong giai đoạn ban đầu - vào những thập kỷ cuối thể kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII, một vấn đề đặt ra là nên đánh giá vai trò và công lao của họ Mạc - Mạc Cửu và con là Mạc Thiên Tích - như thế nào cho đúng. Về vấn đề này trước nay đã có nhiều ý kiến nêu lên, tuy có khác nhau về sắc thái, nhưng tựu trung đều nhấn mạnh hoặc ra sức đề cao vai trò và công lao của hai cha con họ Mạc, coi đó là nhân tố quyết định đối với công cuộc khai phá vùng đất thuộc trấn Hà Tiên lúc mới bắt đầu, quy kết tất cả công lao khai phá Hà Tiên về cho Mạc Cửu và con là Mạc Thiên Tích.
Nổi bật nhất là Trần Kinh Hoà, một học giả nghiên cứu và giảng dạy Sử ở Đài Loan, trong diễn văn “Họ Mạc và chúa Nguyễn ở Hà Tiên” đọc tại trụ sở Hội Nghiên cứu liên lạc văn hoá Á châu của chính quyền Sài Gòn ngày 7-9-1958, đã khẳng định rằng “Hà Tiên dưới thiện chí của Mạc Cửu ngày một thịnh vượng, nhân dân được an cư lạc nghiệp, xã hội Hà Tiên là một xã hội văn nhã”(1). Trần Kinh Hoà còn cho là về phương diện chính trị, họ Mạc ở Hà Tiên lúc nào cũng giữ được thực quyền của một tiểu bang - một chính quyền tự chủ đã từng đóng vai trò “nước hoãn xung” giữa ba nước Việt Nam - Xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn, Xiêm La và Chân Lạp.
Một vài người khác cũng có quan điểm đề cao vai trò của Mạc Cửu như Trần Kinh Hoà. Họ cho rằng sau khi đến Hà Tiên, Mạc Cửu đã tổ chức chiêu mộ những người dân lưu tán từ khắp nơi hoặc nông dân định cư tại chỗ tập trung vào việc khai thác. Không những thế, Mạc Cửu còn chia đất và mau sắm những nông cụ cần thiết cho những lưu dân tiến hành khai thác ruộng đất, nhờ đó mà vùng đất Hà Tiên vốn khắc nghiệt sớm trở thành một vùng đất trù phú. Sự thật có phải thế không?
Khi đề cập đến công cuộc khai thác, cần có sự phân biệt rạch ròi giữa việc xây dựng và phát triển về mặt kinh tế - chủ yếu là kinh doanh buôn bán - vùng phố thị Hà Tiên (tức thị xã Hà Tiên ngày nay) với việc mở mang khai phá vùng đất thuộc trấn Hà Tiên nói chung. Đó là hai công việc hoàn toàn khác nhau về nội dung, quy mô và địa bàn. Nói cách khác, cần có sự phân biệt giữa việc đứng ra tổ chức xây dựng và phát triển vùng phố thị Hà Tiên của Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích với việc mở mang khai phá cả vùng đất thuộc trấn Hà Tiên của những lưu dân và cư dân địa phương.
Trước hết cần tìm hiểu việc xây dựng và mở mang vùng lỵ sở Hà Tiên mà sử cũ gọi là Mang Khảm hay Phương Thành.
Theo sử cũ thì vùng lỵ sở Hà Tiên tục xưng là Mang Khảm, tiếng Trung Quốc gọi là Phương Thành, trước khi Mạc Cửu đến ở và kinh dinh, đã là một cảng khẩu có tàu bè nước ngoài đến buôn bán hoặc ghé qua trên đường di chuyển. Việc buôn bán ở đây đã có sự tấp nập ở một mức độ nhất định. Chính yếu tố này đã kích thích Mạc Cửu, vốn là một thương nhân buôn bán lớn trên mặt biển(2), nhanh chóng chuyển từ Nông Pênh về phủ Sài Mạt để hoạt động. Và sau khi đặt chân đến Hà Tiên, việc làm đầu tiên và chủ yếu của ông ta là mở tiệm hút, trưng mua việc thu thuế hoa chi các sòng bạc lớn để làm giàu, mà điều này chỉ có thể làm được một khi Mang Khảm đã là một trung tâm giao dịch buôn bán lớn có nhiều thương nhân giàu có.
Sau khi trở nên giàu có nhờ việc mở tiệm hút, tổ chức sòng bạc thu hoa chi, đào được hầm bạc, Mạc Cửu liền nghĩ tới và bắt tay ngay vào việc phát triển công cuộc kinh doanh buôn bán của Hà Tiên, nhất là việc buôn bán với nước ngoài, mở mang phố chợ, xây dựng thành quách, theo Gia Định thành thông chí là thành đất, còn theo Văn hiến thông khảo của nhà Thanh thì đó là thành cây. Nhiều tài liệu cho thấy Mạc Cửu đã kêu gọi và đón nhận thuyền buôn các nước đến buôn bán(3), đồng thời cũng chủ động đặt quan hệ buôn bán với các nước. Năm 1728 và năm 1729, Mạc Cửu phái Lưu Vệ Quân và Huỳnh Tập Quan mang hai thương thuyền sang Nhật Bản liên hệ việc mậu dịch, được chính phủ Nhật Bản - Mạc Phủ Đức Xuyên - cấp giấy phép buôn bán. Năm 1731 và năm 1732, lại phái thương thuyền sang Nhật. Việc buôn bán với Trung Quốc cũng được bắt đầu từ năm 1729, từ đó những thổ sản của Hà Tiên như hải sâm, cá khô, tôm khô v.v… lục tục xuất cảng sang Trung Quốc(4).
Để khuyến khích tàu buôn nước ngoài đến buôn bán, Mạc Cửu đã cho thi hành một chính sách thuế hàng hoá khá ưu đãi. Hàng hoá buôn bán chỉ phải chịu một món thuế nhỏ mà thôi(5).
Đến thời Mạc Thiên Tích, kế tục sự nghiệp của Mạc Cửu, Thiên Tích càng ra sức đẩy mạnh việc thông thương với nước ngoài. Năm 1740 và 1742, Thiên Tích hai lần phái hai thuyền chủ Ngô Chiêu Viên và Lâm Thiên Trường cùng thuyền buôn sang Nagasaki để xúc tiến việc mậu dịch với Nhật Bản. Đi đôi với việc mở rộng buôn bán với các nước, Thiên Tích còn khuếch trương việc xây dựng phố chợ, đường xá, xây cất dinh thự, đền miếu, trại quân, kho tàng, công xưởng (xưởng sửa chữa tàu thuyền), thành luỹ v.v… làm cho bộ mặt của phố cảng Hà Tiên càng được đổi mới, càng trở nên sầm uất với cảnh “đường lối tiếp giáp, phố xá liền lạc, người Việt, người Tàu, người Cao Miên, người Đồ Bà đều theo chủng loại cư trú, ghe thuyền ở sông biển qua lại nơi đây không dứt, thật là một đại đô hội nơi góc biển vậy!”
Toàn bộ những hoạt động nói trên của Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích đã nhanh chóng mang lại sự mua bán sầm uất, trù mật cho phố cảng Hà Tiên, từ đó đã thu hút thêm nhiều lưu dân đến ở trong đó có người Việt, người Hoa, người Giava và dân cư Khơme gần bên. Chúng ta có thể coi đó làm một sự đóng góp trực tiếp và to lớn của hai cha con Mạc Cửu vào sự thịnh vượng của phố cảng Hà Tiên vào những thập niên đầu thế kỷ XVIII. Đó là điều cần được khẳng định và không phải bàn cãi. Song, ngoài việc mở mang phố cảng Hà Tiên, điều chúng ta muốn biết nhiều hơn, đó là tình hình khai phá trên toàn địa bàn trấn Hà Tiên nói chung đã diễn ra như thế nào dưới thời Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích và vai trò của cha con họ Mạc ở đây ra sao?
Mở mang trấn Hà Tiên
Chúng ta biết rằng từ những thập niên cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, một số khá đông những người nông dân nghèo lưu tán vùng Thuận Quảng đã lần lượt di chuyển vào vùng Đồng Nai – Gia Định để trốn tránh sự áp bức bóc lột, nạn binh dịch, sưu thuế của giai cấp thống trị phong kiến Đàng Trong. Trên con đường đi tìm đất sống, một số đã dừng chân ở vùng Mô Xoài, Bà Rịa, Đồng Nai, Bến Nghé, Mỹ Tho, Bến Tre…, một số theo đường biển dọc theo vịnh Xiêm La. Điều đó có nghĩa là trước khi Mạc Cửu đặt chân đến Hà Tiên, những lưu dân người Việt, người Hoa… đã đến định cư tại đây cùng với cư dân địa phương - người Khmer, làm ăn sinh sống và Mạc Cửu chỉ là người có công đứng ra nhóm họp họ lập thành làng xóm mà thôi. Về điểm này, chúng tôi cho rằng Trịnh Hoài Đức đã rất đúng khi viết: “…hựu chiêu Việt Nam lưu dân ư (tôi nhấn mạnh - H.L) Phú Quốc, Lũng Ký, Cần Bột, Vũng Thơm, Rạch Giá, Càu Mau đẳng xứ, lập thất xã thôn dĩ sở cư”. (Tạm dịch là: lại nhóm họp - chữ “chiêu” trong câu này phải hiểu là chiêu tập, có nghĩa là nhóm họp lưu dân người Việt ở Phú Quốc, Lũng Ký, Cần Bột, Vũng Thơm, Rạch Giá, Cà Mau lập làm bảy thôn để ở)(7). Rất tiếc đã có không ít người có thể do quên mất chữ “cư”, mà ngộ nhận rằng Mạc Cửu đã đứng ra chiêu mộ lưu dân người Việt từ các nơi khác đưa họ đến vùng dải đất ven biển và tổ chức công cuộc khai phá ở đây, gắn cho Mạc Cửu một công lao to lớn mà ông không hề có.
Rõ ràng là Mạc Cửu không hề đứng ra chiêu mộ những người lưu tán từ các nơi khác, đưa về an sáp nơi đây, càng không có việc Mạc Cửu đứng ra tổ chức công cuộc khai phá vùng đất hoang mạc này. Trái lại chính là những người dân tự mình đến đây định cư và họ cũng tự mình đứng ra khai thác các nguồn lợi nơi đây, trong đó có việc khai phá đất đai để trồng trọt, giải quyết cái ăn cái mặc cho mình.
Công cuộc khai phá khu vực trấn Hà Tiên bao gồm cả dải đất ven biển từ trấn lỵ Hà Tiên chạy dài xuống Cà Mau và sang phía Hậu Giang trong những thập niên cuối thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII, tức là dưới thời Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích đã diễn ra khá chậm chạp và kết quả đạt được còn rất hạn chế.
Tóm lại, dưới thời Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích, cả một vùng rộng lớn thuộc trấn Hà Tiên, công cuộc khai phá mở mang đất đai nông nghiệp trồng lúa chưa tiến triển mấy do môi trường tự nhiên nhiều khó khăn, nhưng cái chính vẫn là do trình độ kỹ thuật khai thác đất đai còn bị hạn chế. Những người dân lưu tán Việt, người Hoa, người Giava… và cư dân địa phương mà dân số hãy còn quá ít ỏi, phần lớn hoặc sống bằng nghề buôn bán hoặc sống bằng nghề chài lưới (những người ở phố chợ Hà Tiên và cảng Hà Tiên, những người ở phố chợ Rạch Giá và cảng Kiên Giang, những người ở cảng Đại Môn thuộc đạo Kiên Giang, ở cảng Đốc Huỳnh, cảng Gành Hào, thuộc đạo Long Xuyên, những người ở dọc theo ven biển). Chỉ có số ít nông dân ở Rạch Giá và Cà Mau là chuyên sống về nghề nông trồng lúa, do đó đất đai ở đây được khai phá tương đối chậm so với các vùng khác. Đến đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức vẫn còn ghi nhận về trấn Hà Tiên như sau: “Trấn Hà Tiên phong tục tập quán theo Trung Hoa, mà ít có hạng thân sĩ. Người Kinh (tức là người Việt - HL), người Thượng ở xen lộn, chuyên việc buôn bán, người Trung Quốc, người Cao Miên (tức người Khơme - HL), người Đồ Bà (tức người Giava - HL) phần đông ở theo bờ biển, địa lợi chưa khẩn trưng, nhân dân không có đất đai, nên dời đổi chỗ ở bất thường. Duy có hai đạo Long Xuyên (tức Cà Mau - HL) và Kiên Giang (tức Rạch Giá HL) có số nông dân biết chăm lo căn bản, cho nên các địa hạt thuộc trấn này thường nhờ lúa gạo của hai đạo ấy để cấp dưỡng”(10). “Và ruộng ở huyện Long Xuyên và huyện Kiên Giang thuộc trấn Hà Tiên cũng tương tự ruộng (trấn) Vĩnh Thanh mà địa lợi chưa khẩn hết”(11).
Mặc dù công cuộc khai phá đất đai ở trấn Hà Tiên trong nửa đầu thế kỷ XVIII chưa tiến triển mấy, nhưng những kết quả khiêm tốn mà những người dân lưu tán đã thu lượm được bằng chính công sức, mồ hôi nước mắt của mình đã đặt nền móng cho công cuộc khai thác vùng đất đai rộng lớn phía Tây Nam của Tổ quốc trong các thời kỳ sau.
Tìm hiểu công cuộc khai phá và sự phát triển về kinh tế văn hoá của vùng đất Hà Tiên trong những thập niên cuối thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII, là một việc làm có ý nghĩa to lớn trong việc khai thác và phát huy truyền thống của địa phương. Nhưng khi đề cập đề tài này thì một vấn đề được đặt ra ngay tức khắc là xác định như thế nào cho đúng đắn vai trò của họ Mạc cụ thể là Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích trong sự nghiệp ấy. Đó là một vấn đề có tầm quan trọng to lớn bởi vì nó là một vấn đề lịch sử nhưng lại mang ý nghĩa chính trị thực tiễn sâu sắc.
________________________
(1) Xem Văn hoá Á châu số 6 tháng 10-1958, tr. 33.
(2) (3) Theo Trần Kinh Hoà, trước khi chạy sang Chân Lạp, Mạc Cửu đã là một chủ thuyền buôn rất hoạt động, luôn luôn sang Philippin và Batavia buôn bán. Và Mạc Cửu cũng đã từng giúp Trịnh Thành Công ở Đài Loan, khuếch trương mậu dịch giữa Đài Loan và hải ngoại (Văn hoá Á châu số 6, tháng 10-1938).
(4) Xem Trần Kinh Hoà, tài liệu đã dẫn.
(5) Xem Un Chinois des Mers du Sud, Le fondateur de Hà Tiên, Journal Asiatique, 1953, p. 24.
(6) Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả. Bản dịch của Tân Việt Điều, Văn hoá nguyệt san, Số 61, tháng 6-1961, tr. 554.
(7) Gia Định thành thông chí, Q. III, Cương vực chí, tờ 636.
(8) Gia Định thành thông chí, Q. IV. Phong tục chí, từ 15a.
(9) Sách trên, Q. V. Sản vật chí, tờ 30b, nt.
(10) Gia Định thành thông chí.
(11) Mạc thị gia phả: bản dịch của Tân Việt Điều, Văn hoá nguyệt san số 61, tháng 6-1961, tr. 554
Nguồn: Xưa và Nay, số 226, tháng 12 -2004
2. Họ Mạc và khu kinh tế biển tây đầu tiên
SGTT Xuân 2012 - Đầu thế kỷ 19, khi Trịnh Hoài Đức vào trấn Hà Tiên, thấy cảnh kho, chành, vựa được Mạc Cửu đặt dưới chân núi Phù Dung (nay là núi Đề Liêm), đã thốt lên: “chân núi, tiếng chuông mõ pha trộn tiếng kệ kinh lẫn tiếng ồn ào của phố thị, chợ búa, thật là cảnh nửa tăng nửa tục”. Đó là thời điểm hơn 100 năm sau ngày Mạc Cửu về đất Hà Tiên.
Biển Tây, một thời là biển đẹp... Ảnh: TLCK
Tổng trấn nhà buôn
“Chúa Hiển Tông (Nguyễn Phước Chu – NV) thấy ông tướng mạo khôi kiệt, lui tới kính cẩn, khen là người trung thành, sắc cho làm thuộc quốc, đặt tên trấn là trấn Hà Tiên, cho ông làm chức tổng binh, ban cho ấn thụ và sai nội thần tiễn chân tới quốc môn” – Đại Nam liệt truyện tiền biên. Người được tả trên là tổng binh Mạc Cửu, vào mùa thu năm 1708, ông cùng thuộc hạ dong thuyền ra Phú Xuân dâng biểu xưng thần và trao đất Hà Tiên cho nhà Nguyễn. Kể từ đó, một vùng đất – biển hoang sơ đã trở thành phố thị, thương cảng lớn bậc nhất xứ Đàng Trong, in đậm dấu chân trong hành trình tiến ra Biển Tây của dân tộc Việt.
Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức viết: “Mạc Cửu gốc xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông. Vào thời Đại Thanh (1680) nhà Minh mất hẳn. Mạc Cửu (lúc này khoảng 23 tuổi – NV) không khuất phục… mới chừa tóc rồi chạy sang phương Nam, trú tại phủ Nam Vang, nước Cao Miên”. Nhiều nguồn sử khác cho biết, lúc 17 tuổi ông đã bôn ba khắp nơi buôn bán, chỉ năm năm sau đã làm chủ một đội thuyền giao thương với nhiều nước vùng Đông Nam Á và đảo Đài Loan.
Trong vòng hai chục năm lưu lạc, Mạc Cửu khi làm quan cho nước Cao Miên, lúc giao dịch ngoại thương cho vua Cao Miên… tựu trung các việc của ông đều không nằm ngoài hoạt động thương mại, kể cả khi ông chạy sang Xiêm La tị nạn. So với hai vị tổng binh Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên cũng chạy qua Đàng Trong (1679) đầu phục chúa Nguyễn, khai khẩn đất Mỹ Tho và Biên Hoà, Mạc Cửu không xuất thân binh nghiệp. Dưới con mắt một nhà buôn, sau nhiều năm bôn ba các xứ Cao Miên (Nam Vang, Kampot, Oudong) và Xiêm La, đến khoảng năm 1700, ông chọn đất Hà Tiên làm chỗ dừng chân, một nơi có rừng có biển, đồng bằng mênh mông, sản vật dồi dào, bộ – thuỷ tiếp giáp đất Campuchia, Thái Lan ngày nay, có thể mở thương cảng quốc tế.
Khẩn hoang đồng bằng
Xứ Hà Tiên, ngày Mạc Cửu định cư và bắt đầu khai khẩn, rộng lớn hơn bây giờ nhiều: trấn Hà Tiên tây giáp Xiêm La, bắc giáp Cao Miên, tây nam trông ra biển... Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt (Hà Tiên) cho biết, trấn Hà Tiên xưa bao gồm tỉnh Kampong Som (hiện thuộc Campuchia) dài xuống Rạch Giá, Long Xuyên, ven biển từ Lũng Kỳ (khu vực giữa Réam và Sré Cham, phía tây bắc đảo Phú Quốc) kéo dài đến Cà Mau. Trấn Hà Tiên được tạm chia thành hai vùng: phía trên từ Rạch Giá, Long Xuyên đến Bạc Liêu… phần nam sông Hậu có đồng bằng lớn, thuận tiện cấy cày; phía biển từ Phú Quốc chạy đến mũi Cà Mau hợp đánh bắt thuỷ hải sản, đặc biệt là giao thương với các nước xung quanh.
Cầu tạm qua sông Tô Châu thời xưa nay đã được thay bằng cầu bêtông kiên cố. Ảnh: TLCK
Trước khi Mạc Cửu định cư ở Hà Tiên, cùng với người Hoa người Việt đã có mặt rải rác ở vùng này, kể cả Cao Miên và Xiêm La. Họ khai khẩn ruộng nương và đánh bắt thuỷ hải sản, sống ngoài vòng ảnh hưởng của biến động chính trị các quốc gia trên. Với họ, “ông lại chiêu mộ lưu dân Việt Nam ở Phú Quốc, Lũng Kỳ, Cần Bột, Rạch Giá, Cà Mau lập thành bảy xã thôn” (Gia Định thành thông chí). Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt cho biết thực ra, từ thời còn làm quan bên Cao Miên, Mạc Cửu đã chiêu tập người Việt, nên sau này lưu dân Việt – Hoa theo ông về trấn Hà Tiên rất đông. Kẻ làm ruộng, ông chia vùng cấp đất để khẩn hoang, cung cấp nông cụ thiết yếu (cày, cuốc, dao, rựa… kể cả trâu), phân phối giống (những thứ này Mạc Cửu đi buôn mà có). Ngay cả những tù phạm bị lưu đày nơi khác, ông cũng đưa về cấp đất, nông cụ cho khai hoang, trồng cấy. Thêm nữa, Mạc Cửu còn buộc những lưu dân Việt giỏi canh tác, khẩn hoang dạy nghề nông cho người Miên (người Miên không giỏi làm nông). Phần đầu ra, ông thu mua toàn bộ lúa gạo, hồ tiêu. Với nghề đánh bắt, các sản vật biển (cá, tôm, đồi mồi, yến sào…) được khuyến khích khai thác bằng chế độ thu mua. Với chính sách bao tiêu đầu vào lẫn đầu ra như vậy, người làm ruộng, kẻ đi biển đã dần định cư khắp nơi trong trấn Hà Tiên. Chính những sản vật nông – ngư nghiệp đó góp phần làm hoạt động thương mại – kinh tế biển của họ Mạc sau này phát triển rực rỡ.
Kinh tế thị trường
Vốn có khả năng và điều kiện kinh tài từ trước khi về lập trấn, Mạc Cửu đã biến Hà Tiên thành một trung tâm thương mại, giải trí bậc nhất của đất Đàng Trong. Vốn có một vị trí đắc địa, nhiều đầu mối hoạt động giao thương, trấn thủ Hà Tiên (khu vực thị xã bây giờ) mặt hướng ra Biển Đông, rất gần với Thái Lan, Malaysia, Indonesia… Cửa biển sâu, rộng gọi là cảng khẩu Hà Tiên. Nối cảng khẩu là một cái hồ lớn (Đông Hồ) và sâu có thể chứa hàng ngàn thuyền bè, là nơi neo đậu lên xuống hàng. Nối với Đông Hồ là sông Giang Thành, con sông đi thẳng qua Campuchia, đến đất Sài Mạt (nơi ngày trước Mạc Cửu làm quan) – một tuyến giao thương quan trọng với Cao Miên ngày ấy. Từ Sài Mạt có đường bộ đi đến thẳng Oudong (kinh đô cũ của Cao Miên). Như vậy, xét về địa lợi, ở Hà Tiên có đủ (cảng biển, sông, sản vật…)
Đôi câu đối trước cổng tam quan Mạc công miếu: “Nhất môn trung nghĩa gia thanh trọng/ Thất diệp phiên hàn quốc lũng vinh” Ảnh: Doãn Khởi
Ngoài việc làm tổng trấn (được quyền thu thuế), họ Mạc còn là một nhà buôn lớn nhất vùng Hà Tiên lúc bấy giờ. Theo nhiều sách sử, ông mua từ Cao Miên ngà voi, sừng tê, đậu khấu (vị thuốc quý), gỗ… đổi lại, ông bán các đồ vật dụng (gốm, sành, sứ), gạo, muối… Đối với các nước giao thương đường biển, hàng bán là cá, tôm khô, gạo, hồ tiêu và những sản vật từ Cao Miên về. Không chỉ bán hàng tại chỗ cho các thương thuyền ngoại quốc (Đông Nam Á và cả châu Âu), họ Mạc thời ấy còn có ba chiếc thuyền lớn được chúa cấp (long bài), đủ sức buôn bán tận Nhật Bản. Chưa hết, Mạc Cửu còn mở thêm sòng bạc kinh doanh. Không sử sách nào chép chi tiết lượng hàng hoá giao thương lúc ấy, chỉ biết vào năm 1718, khi Xiêm La đánh Hà Tiên, phá kho của họ Mạc đốt 200 tấn ngà voi, gạo và các hàng hoá khác, phải mang nhiều tàu lớn vào mới chở đi hết.
Đến thời Mạc Thiên Tích (con Mạc Cửu – từ năm 1736) việc buôn bán còn tấp nập hơn. Cảng Hà Tiên (Đông Hồ) tàu bè đậu kín, ngược xuôi tấp nập. Hai bên bờ, phố thị đông đến nỗi không còn chỗ cho chành vựa. Lúc này họ Mạc được phép đúc tiền riêng (lấy tên là Thái Bình) và trở thành đồng tiền có thể giao dịch quốc tế. Hơn 100 năm sau ngày họ Mạc về khai phá, khi Trịnh Hoài Đức vào trấn Hà Tiên, ông thấy cảnh tượng ở núi Phù Dung (nay là núi Đề Liêm) chợ đầu mối xô bồ, tấp nập kế chùa, cho nên vị đại thần họ Trịnh mới thốt “cảnh nửa tăng nửa tục”. Hay như nhận xét của ông khi nhìn thấy sự sầm uất nơi xưởng đóng thuyền ở chân núi Ngũ Hổ (cách Đông Hồ vài trăm trượng): “Thuyền biển, thuyền sông đi lại như mắc cửi, thật là một nơi đô hội miền biển”. Thời điểm ấy, sau nhiều biến thiên, chiến tranh, ly tán, hoạt động giao thương đã giảm sút rất nhiều so với gần trăm năm trước mà còn như vậy, mới biết vào kỳ cực thịnh, trấn Hà Tiên sầm uất thế nào.
***
Bên trong khu Mạc Công miếu. Ảnh: Doãn Khởi
Về Hà Tiên bây giờ, những dấu tích của cảnh “đô hội miền biển” không còn. Đầm Đông Hồ, sau một dự án lấn biển làm khu đô thị, nay hiền lành như một con kênh đào. Đứng trên cầu Tô Châu nhìn ra, cảng khẩu nay bị bồi lắng nên nhỏ nhoi và nông sè. Phía tay trái cảng khẩu, Nam phố (một trong “Hà Tiên thập vịnh” của Tao Đàn Chiêu Anh) đang được thay bằng một dự án lấn biển khác, chẳng còn: “Vực thẳm cá rồng còn ẩn náu/Êm đềm nước ngậm bóng trăng soi” (Nam phố trừng ba). Lư Khê (rạch Vược) chẳng thấy cá vược rau thuần vì bị Pháp lấp từ giữa thế kỷ trước. Núi Phù Dung xưa, nay chẳng còn nghe “tiếng kệ kinh lẫn ồn ào chợ phố thị”…
Như lời của nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt: “Nhờ có Mạc Cửu, người Việt mới bước qua bờ nam sông Tiền”. Nhiều lần dẹp yên giặc cướp, mấy bận phò chúa lâm nguy, đánh đuổi ngoại bang giữ gìn bờ cõi… võ công họ Mạc khai khẩn đất phương Nam có ai bằng. Có lúc phải chọn cái chết ở xứ người để tận trung báo quốc, họ Mạc xứng với đôi câu đối trước cổng tam quan Mạc công miếu, chân núi Bình San (người đời thường gọi là lăng Mạc công), tương truyền của Trịnh Hoài Đức:
Nhất môn trung nghĩa gia thanh trọng
Thất diệp phiên hàn quốc lũng vinh.
DOÃN KHỞI
Năm 1975, lần đầu tiên khi đặt chân đến Hà Tiên, đứng trên đỉnh pháo đài nhìn ra biển, nhà thơ Chế Lan Viên rất đỗi ngạc nhiên và cho rằng vùng biển vịnh Thái Lan đẹp không thua gì Hạ Long. Rất ít người biết được rằng, trong hải phận của tỉnh Kiên Giang có đến 105 hòn đảo.
Không chỉ đẹp, đây còn là vùng biển có trữ lượng hải sản lớn nhất nước. Là vùng thềm lục địa nước nông, độ sâu trung bình chỉ 46m, nên biển yên, ít bị ảnh hưởng bởi sóng triều và bão tố khu vực Biển Đông. Về khí hậu, vịnh Thái Lan là vùng biển ấm, nhiệt độ tầng đáy so với Biển Đông vào mùa gió đông bắc thường cao hơn 5 – 8 độ. Đây chính là cái nôi lý tưởng cho tôm cá từ Biển Đông và Thái Bình Dương vào sinh đẻ và trưởng thành. Góp vào sự giàu có trữ lượng hải sản của vùng biển này còn phải kể đến hệ rừng ngập mặn rộng hơn trăm ngàn hecta kéo dài từ mũi Cà Mau đến Hà Tiên. Người ta đã tổng kết có đến 67% các loài thuỷ sản có giá trị thương mại đánh bắt được trên thế giới phụ thuộc vào rừng ngập mặn cửa sông và ven bờ.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét