1. Công cuộc khai hoang ở Nam Bộ vào thời các chúa Nguyễn
Đúng ra, việc khai hoang miền Đông Nam Bộ buổi ban đầu là do di dân người Việt tự động vượt biển vào đây tìm đất lập nghiệp không có sự can thiệp hay tổ chức gì của các chúa Nguyễn.
Chỉ từ năm 1698, khi Nguyễn Hữu Kính (có sách gọi là Cảnh) theo lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu vào "kinh dịch" (tổ chức việc quản lý hành chính, kinh tế, xã hội) thì đất Đông Phố (tên cũ gọi chung đất Biên Hòa - Gia Định ngày nay) mới bắt đầu chịu sự cai trị của các chúa Nguyễn, và dân số ở đây đã có hơn 10.000 hộ với 200.000 khẩu.
Vì vậy, nét đặc trưng độc đáo nhất của đất Nam Bộ là ngay từ đầu và trong suốt 300 năm sau, đều thuộc quyền tư hữu của nông dân hay điền chủ, chứ không bao giờ thuộc quyền sở hữu tập trung của nhà vua như ở miền Bắc, miền Trung, mặc dù về danh nghĩa quy định đất đai là tài sản của nhà vua. Không phải chỉ dưới thời các chúa Nguyễn trong các thế kỷ XVII, XVIII mà ngay cả dưới thời các vua Nguyễn từ thế kỷ XIX trở đi, để khuyến khích dân đẩy mạnh khai hoang, vua quan triều Nguyễn vẫn mặc nhiên thừa nhận quyền tư hữu đất đai của những người có công khai phá.
Trong Gia Định thành thông chí một tác phẩm được viết đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức đã phản ảnh lại tình hình này như sau: "Dân ở vùng này đều có thể tự do đi khai khẩn đất ruộng ở các vùng khác, ai muốn đến ở đâu, khai khẩn ruộng gò, ruộng thấp ở nơi nào tùy ý. Lựa chọn đất đai rồi chỉ cần khai báo với nhà cầm quyền là mình trở thành nghiệp chủ khoảnh đất ấy, chính quyền cũng không đo đạc xem diện tích bao nhiêu, không cần biết đất ấy tốt xấu thế nào. Người nghiệp chủ tùy theo điền sản mình chiếm rộng hẹp mà tự nguyện nộp thuế nhiều hay ít và nộp thuế bằng thóc dùng hộc già hay hộc non đong cũng được".
Chỉ từ thế kỷ XVIII trở đi, khi có những đợt di dân khẩn hoang lớn do chính quyền nhà Nguyễn tổ chức, do binh lính thực hiện, hay do "dân có vật lực" chiêu mộ đi khẩn hoang lập đồn điền thì tình trạng di dân tự do khai hoang mới không còn dễ dàng nữa.
Như vậy là quá trình khai hoang châu thổ Nam Bộ dưới thời nhà Nguyễn đã được tiến hành qua ba giai đoạn theo ba phương thức:
Giai đoạn đầu trong thế kỷ XVI đến năm 1698, do từng nhóm nhỏ di dân người Việt ở miền Bắc, miền Trung đi lẻ tẻ vào theo hai hướng đường biển và đường bộ, chỉ dừng lại ở miền Đông khai khẩn những vùng đất cao ven sông, nơi có nước ngọt hay ở những vùng giáp ranh con nước giữa ngọt mặn mới có thể sinh hoạt và trồng trọt.
Giai đoạn hai là dưới thời các chúa Nguyễn trong thế kỷ XVII, XVIII (từ 1698, đến cuối thế kỷ XVIII). Trong giai đoạn này phương thức từng nhóm nhỏ đi lẻ tẻ vào khai hoang vẫn còn tiếp tục, nhưng chủ yếu đã thêm hai phương thức mới:
Một là, việc khai hoang lập đồn điền của binh lính quan lại và kẻ giàu có - "dân có vật lực" - chiêu mộ dân từ Đàng Trong vào lập nên những điền sản lớn - những đồn điền quân sự hay dân sự.
Hai là, do các đoàn quân tướng người Hoa, nguyên là quan lại nhà Minh không chịu khuất phục nhà Mãn Thanh, bỏ chạy sang Việt Nam xin tị nạn làm ăn. Họ cũng tiến hành khai khẩn đất hoang phát triển nghề nông lúc đầu, nhưng chủ yếu chỉ nhằm phục vụ cho việc tồn tại của họ để về sau xây dựng chợ búa, phố xá, đô thị, đẩy mạnh việc mua bán, phát triển thành các vùng Cù Lao Phố, Nông Nại đại phố và Cảng Mang Khảm - Hà Tiên sầm uất phát đạt một thời.
Giai đoạn ba dưới các thời vua triều Nguyễn trong thế kỷ XIX(1802 - 1883) Sau khi thắng Tây Sơn, lên ngôi vua năm 1802, Gia Long vẫn tiếp tục đẩy mạnh việc khai hoang ở đồng bằng sông Cửu Long trên cơ sở các chúa Nguyễn đã đạt được trong thế kỷ XVII, XVIII với tốc độ nhanh hơn, nhất là với các công trình đào kênh lớn như kênh Rạch Giá - Hà Tiên, kênh Vĩnh Tế... Nhà Nguyễn đẩy mạnh tốc độ khai hoang trong thế kỷ XIX nhằm 3 mục tiêu:
Một là, mở mang đất đai canh tác để phát triển sản xuất lương thực, đồng thời để tăng thêm nguồn thu tô thuế.
Hai là, để bảo đảm an ninh quốc phòng nhất là vùng biên giới phía Tây, thường có quân Xiêm quấy phá và dân bản địa vùng Ba Xuyên - Tịnh Biên cũng đã từng nổi dậy chống nhà Nguyễn. Việc khai hoang, lập đồn điền, đào kênh rạch ở vùng này nhằm mục đích chính yếu là kiểm soát, đề phòng và khống chế sự xâm lược của quân Xiêm và sự chống đối của dân địa phương.
Ba là, phát triển giai cấp địa chủ làm chỗ dựa cho chính quyền nhà Nguyễn ở Nam Bộ.
Sự quan tâm đặc biệt của các vua triều Nguyễn về việc đẩy mạnh khai hoang ở Nam Bộ thể hiện rõ trong con số tỷ lệ sau đây: Từ năm 1802 đến 1855, nhà Nguyễn đã ban hành 25 sắc dụ về việc tổ chức khai hoang trên toàn quốc, trong đó có đến 16 sắc dụ cho Nam Bộ, hai ở miền Bắc, một ở Kinh kỳ và sáu ở nơi khác.
Nhà Nguyễn cũng đã có nhiều biện pháp khai hoang tích cực:
- Khuyến khích di dân tự do khai phá đất hoang bằng nhiều thủ tục dễ dãi và tự do lựa chọn nơi khai phá, thậm chí vẫn còn trợ cấp thêm tiền thóc, nông cụ, có lệ khen thưởng bằng tiền và phẩm hàm chức sắc cho những ai khai hoang nhiều với các mức cụ thể từ 20 mẫu đến 800 mẫu, và cũng có lệ phạt bằng tiền, trừ lương và phạt đánh từ 60 trượng đến 100 trượng đối với các quan chức có trách nhiệm mà để ruộng đất bỏ hoang nhiều hay ít.
- Ra lệnh cho quan lại địa phương phải bảo đảm mức khai hoang lập làng mới để phát triển nông nghiệp và bảo đảm an ninh quốc phòng, nhất là ở vùng biên giới với chính sách được miễn thuế 3 năm nay hay lâu hơn và được thưởng phạt rõ ràng nghiêm khắc.
- Bản thân triều đình cử những đại quan đứng ra tổ chức binh lính hay mộ dân khai hoang lập đồn điền, xây dựng làng ấp, và đào những công trình thủy lợi quy mô để phát triển nông nghiệp và giao thông đường thủy.
Do đó, công cuộc khai hoang đào kênh phát triển nông nghiệp ở Nam Bộ dưới thời các vua Nguyễn nổi lên 3 đặc điểm đáng chú ý sau đây:
Một là, triều đình cử đại quan trực tiếp thực hiện.
Hai là, với những công trình thủy lợi quy mô lớn bằng hệ thống kênh mương nhân tạo thích hợp để giải quyết tích cực việc dẫn thủy nhập điền phát triển nông nghiệp.
Ba là, bên cạnh lực lượng cá nhân nhóm nhỏ lẻ tẻ tiểu nông và quân lính quan lại triều đình, lực lượng "dân có vật lực" chiêu mộ người nghèo đi khai hoang lập ấp ngày càng nhiều do chính sách khen thưởng khích lệ tích cực của triều đình, tạo ra tầng lớp điền chủ mới đông đúc, đưa đến tình trạng tranh giành, kiêm tính, chiếm đoạt ruộng đất, làm cho quá trình tập trung tích tụ ruộng đất bắt đầu với những điền chủ lớn có điền trang, điền sản mênh mông.
Cộng cả 3 lực lượng với những biện pháp và phương thức năng động tích cực nói trên, công cuộc khai hoang phát triển nông nghiệp ở Nam Bộ trong thời gian này đã đạt được những thành quả to lớn hơn 2 thế kỷ trước mà chủ yếu là mở rộng thêm đồng bằng miền Tây. Theo kết quả đo đạc của các đại thần Trương Đăng Quế, Nguyễn Kim Bảng, Trương Minh Giảng vào năm 1836 để lập điền bộ chính thức đầu tiên của 6 tỉnh thuộc Gia Định thành ghi rõ trong Quốc triều chính biên toát yếu thì tổng diện tích đất đai đã khai phá được của toàn Nam Bộ lúc bấy giờ là: "Nguyên trưng điền thổ 20.197 sở, 13 giây 8 đám và linh tinh 3.464 mẫu, nay đo đạc thành điền thổ khoảng hơn 60.075 mẫu và nguyên trước là ngạch ruộng hơn 65 sở, nay khám thành ao nuôi cá cả thảy 1.017 miếng". Về sau đến năm 1869, thực dân Pháp có công bố lại về con số này là 591.100 mẫu tức là 295.550 ha (trong Annuaire de la Cochinchine).
Con số cụ thể có thể thêm bớt ít nhiều, nhưng qua ba giai đoạn khai hoang trên 300 năm đã lần lượt hình thành 5 trung tâm phát triển nông nghiệp xung quanh những trung tâm đô thị sầm uất.
Chỉ từ thế kỷ XVIII trở đi, khi có những đợt di dân khẩn hoang lớn do chính quyền nhà Nguyễn tổ chức, do binh lính thực hiện, hay do "dân có vật lực" chiêu mộ đi khẩn hoang lập đồn điền thì tình trạng di dân tự do khai hoang mới không còn dễ dàng nữa.
Như vậy là quá trình khai hoang châu thổ Nam Bộ dưới thời nhà Nguyễn đã được tiến hành qua ba giai đoạn theo ba phương thức:
Giai đoạn đầu trong thế kỷ XVI đến năm 1698, do từng nhóm nhỏ di dân người Việt ở miền Bắc, miền Trung đi lẻ tẻ vào theo hai hướng đường biển và đường bộ, chỉ dừng lại ở miền Đông khai khẩn những vùng đất cao ven sông, nơi có nước ngọt hay ở những vùng giáp ranh con nước giữa ngọt mặn mới có thể sinh hoạt và trồng trọt.
Giai đoạn hai là dưới thời các chúa Nguyễn trong thế kỷ XVII, XVIII (từ 1698, đến cuối thế kỷ XVIII). Trong giai đoạn này phương thức từng nhóm nhỏ đi lẻ tẻ vào khai hoang vẫn còn tiếp tục, nhưng chủ yếu đã thêm hai phương thức mới:
Một là, việc khai hoang lập đồn điền của binh lính quan lại và kẻ giàu có - "dân có vật lực" - chiêu mộ dân từ Đàng Trong vào lập nên những điền sản lớn - những đồn điền quân sự hay dân sự.
Hai là, do các đoàn quân tướng người Hoa, nguyên là quan lại nhà Minh không chịu khuất phục nhà Mãn Thanh, bỏ chạy sang Việt Nam xin tị nạn làm ăn. Họ cũng tiến hành khai khẩn đất hoang phát triển nghề nông lúc đầu, nhưng chủ yếu chỉ nhằm phục vụ cho việc tồn tại của họ để về sau xây dựng chợ búa, phố xá, đô thị, đẩy mạnh việc mua bán, phát triển thành các vùng Cù Lao Phố, Nông Nại đại phố và Cảng Mang Khảm - Hà Tiên sầm uất phát đạt một thời.
Giai đoạn ba dưới các thời vua triều Nguyễn trong thế kỷ XIX(1802 - 1883) Sau khi thắng Tây Sơn, lên ngôi vua năm 1802, Gia Long vẫn tiếp tục đẩy mạnh việc khai hoang ở đồng bằng sông Cửu Long trên cơ sở các chúa Nguyễn đã đạt được trong thế kỷ XVII, XVIII với tốc độ nhanh hơn, nhất là với các công trình đào kênh lớn như kênh Rạch Giá - Hà Tiên, kênh Vĩnh Tế... Nhà Nguyễn đẩy mạnh tốc độ khai hoang trong thế kỷ XIX nhằm 3 mục tiêu:
Một là, mở mang đất đai canh tác để phát triển sản xuất lương thực, đồng thời để tăng thêm nguồn thu tô thuế.
Hai là, để bảo đảm an ninh quốc phòng nhất là vùng biên giới phía Tây, thường có quân Xiêm quấy phá và dân bản địa vùng Ba Xuyên - Tịnh Biên cũng đã từng nổi dậy chống nhà Nguyễn. Việc khai hoang, lập đồn điền, đào kênh rạch ở vùng này nhằm mục đích chính yếu là kiểm soát, đề phòng và khống chế sự xâm lược của quân Xiêm và sự chống đối của dân địa phương.
Ba là, phát triển giai cấp địa chủ làm chỗ dựa cho chính quyền nhà Nguyễn ở Nam Bộ.
Sự quan tâm đặc biệt của các vua triều Nguyễn về việc đẩy mạnh khai hoang ở Nam Bộ thể hiện rõ trong con số tỷ lệ sau đây: Từ năm 1802 đến 1855, nhà Nguyễn đã ban hành 25 sắc dụ về việc tổ chức khai hoang trên toàn quốc, trong đó có đến 16 sắc dụ cho Nam Bộ, hai ở miền Bắc, một ở Kinh kỳ và sáu ở nơi khác.
Nhà Nguyễn cũng đã có nhiều biện pháp khai hoang tích cực:
- Khuyến khích di dân tự do khai phá đất hoang bằng nhiều thủ tục dễ dãi và tự do lựa chọn nơi khai phá, thậm chí vẫn còn trợ cấp thêm tiền thóc, nông cụ, có lệ khen thưởng bằng tiền và phẩm hàm chức sắc cho những ai khai hoang nhiều với các mức cụ thể từ 20 mẫu đến 800 mẫu, và cũng có lệ phạt bằng tiền, trừ lương và phạt đánh từ 60 trượng đến 100 trượng đối với các quan chức có trách nhiệm mà để ruộng đất bỏ hoang nhiều hay ít.
- Ra lệnh cho quan lại địa phương phải bảo đảm mức khai hoang lập làng mới để phát triển nông nghiệp và bảo đảm an ninh quốc phòng, nhất là ở vùng biên giới với chính sách được miễn thuế 3 năm nay hay lâu hơn và được thưởng phạt rõ ràng nghiêm khắc.
- Bản thân triều đình cử những đại quan đứng ra tổ chức binh lính hay mộ dân khai hoang lập đồn điền, xây dựng làng ấp, và đào những công trình thủy lợi quy mô để phát triển nông nghiệp và giao thông đường thủy.
Do đó, công cuộc khai hoang đào kênh phát triển nông nghiệp ở Nam Bộ dưới thời các vua Nguyễn nổi lên 3 đặc điểm đáng chú ý sau đây:
Một là, triều đình cử đại quan trực tiếp thực hiện.
Hai là, với những công trình thủy lợi quy mô lớn bằng hệ thống kênh mương nhân tạo thích hợp để giải quyết tích cực việc dẫn thủy nhập điền phát triển nông nghiệp.
Ba là, bên cạnh lực lượng cá nhân nhóm nhỏ lẻ tẻ tiểu nông và quân lính quan lại triều đình, lực lượng "dân có vật lực" chiêu mộ người nghèo đi khai hoang lập ấp ngày càng nhiều do chính sách khen thưởng khích lệ tích cực của triều đình, tạo ra tầng lớp điền chủ mới đông đúc, đưa đến tình trạng tranh giành, kiêm tính, chiếm đoạt ruộng đất, làm cho quá trình tập trung tích tụ ruộng đất bắt đầu với những điền chủ lớn có điền trang, điền sản mênh mông.
Cộng cả 3 lực lượng với những biện pháp và phương thức năng động tích cực nói trên, công cuộc khai hoang phát triển nông nghiệp ở Nam Bộ trong thời gian này đã đạt được những thành quả to lớn hơn 2 thế kỷ trước mà chủ yếu là mở rộng thêm đồng bằng miền Tây. Theo kết quả đo đạc của các đại thần Trương Đăng Quế, Nguyễn Kim Bảng, Trương Minh Giảng vào năm 1836 để lập điền bộ chính thức đầu tiên của 6 tỉnh thuộc Gia Định thành ghi rõ trong Quốc triều chính biên toát yếu thì tổng diện tích đất đai đã khai phá được của toàn Nam Bộ lúc bấy giờ là: "Nguyên trưng điền thổ 20.197 sở, 13 giây 8 đám và linh tinh 3.464 mẫu, nay đo đạc thành điền thổ khoảng hơn 60.075 mẫu và nguyên trước là ngạch ruộng hơn 65 sở, nay khám thành ao nuôi cá cả thảy 1.017 miếng". Về sau đến năm 1869, thực dân Pháp có công bố lại về con số này là 591.100 mẫu tức là 295.550 ha (trong Annuaire de la Cochinchine).
Con số cụ thể có thể thêm bớt ít nhiều, nhưng qua ba giai đoạn khai hoang trên 300 năm đã lần lượt hình thành 5 trung tâm phát triển nông nghiệp xung quanh những trung tâm đô thị sầm uất.
Khu vực dọc theo trục giao thông thủy bộ Mô Xoài - Bà Rịa - Trấn Biên (Biên Hòa - Đồng Nai) mà tâm điểm có thời là Cù Lao Phố, một thương cảng lớn nhất ở miền Nam lúc bấy giờ. Hệ thống địa điểm định cư phát triển nông nghiệp của vùng này là Bà Rịa, Đồng Môn, Long Khánh, Tân Uyên, Thủ Đức, Giồng Ông Tố, Thủ Thiêm, Nhà Bè, Thủ Dầu Một, Lái Thiêu...
Khu vực vùng Bến Nghé - Sài Gòn (Phiên Trấn). Sài Gòn hay Sài Côn mà trước là Prei Noker, mà ngày nay là Chợ Lớn. Đây là một vùng canh tác nông nghiệp lúa nước rộng lớn, kéo dài, bao trùm cả ngoại vi Bến Nghé, Sài Gòn, Cần Đước đến Gò Công, Cửa Đại, Ba Lai. Lấy tên là vùng Bến Nghé - Sài Gòn vì Bến Nghé - Sài Gòn là tâm điểm của vùng này. Suốt 300 năm qua đây là một trung tâm thương mại, một thương cảng, một đô thị lớn nhất của Nam Bộ và miền Nam. Tâm điểm này nối liền với Cù Lao Phố. Nó nằm cạnh ranh trấn Gia Định, an ninh được bảo đảm hơn, thị trường mua bán rộng rãi hơn, nên nó phát triển rất nhanh, thay thế vị trí Cù Lao Phố suốt thế kỷ XVIII, XIX trở đi.
Vùng Ba Giồng (bao gồm một phần 2 huyện Phước Long, Tân Bình và bao trùm cả vùng Vũng Cù tức Tân An và Vàm Cỏ ngày nay). Đây là vùng đất canh tác nông nghiệp rất tốt, năm 1679 chúa Hiền đã cho phép Dương Ngạn Địch đem 1.000 quân lính và gia nhân đến khai phá lập nghiệp ở đây. Đến năm 1741 vùng này đã phát triển sung túc, nhiều thóc gạo. Kho lúa Cam Lạch (một trong chín kho lớn toàn quốc) đã được thiết lập ở đây để thu tô thuế tải về kinh.
Khu vực trung tâm đồng bằng sông Cửu Long ven sông Tiền, sông Hậu đến tận ven sông Vàm Cỏ gọi là vùng Mỹ Tho - Long Hồ (Vĩnh Long - Mỹ Tho - Cần Thơ - An Giang). Vùng đất này có một tầm quan trọng đặc biệt về cả hai phương diện chiến lược: bảo đảm an ninh quốc phòng và phát triển nông nghiệp. Tiền Giang và Hậu Giang là đường chuyển quân chính yếu giữa miền Nam và Cao Miên. Đây là vùng đất phì nhiêu màu mỡ rất tốt, quanh năm có nước ngọt, mùa lũ không ngập, một vùng đất lý tưởng để làm ruộng, trồng màu, trồng dâu nuôi tằm, trồng cau, dừa và các loại cây trái đặc sản. Về sa, đã sớm trở thành vựa lúa giàu có nhất nước. Đây cũng là vùng giàu có nhất nước về cây ăn quả, về thủy hải sản. Ba nền văn minh về nông nghiệp của Nam Bộ chủ yếu cũng xuất hiện phần lớn ở vùng này. Đó là văn minh lúa nước, văn minh miệt vườn và văn minh kênh rạch Nam Bộ.
Khu vực Mang Khảm - Hà Tiên - Phú Quốc - Rạch Giá - Cà Maucòn gọi là vùng Hương Úc, Trảng Ké, Cần Bột, Gi Khê... Vùng này do quân lính và gia nhân cánh Mạc Cửu, Mạc Thiên Tứ khai khẩn và phát triển thành một thương cảng phồn vinh rất sớm. Phần nông nghiệp chỉ là thứ yếu của một số thổ dân và người Việt di cư đến đây từ trước. Còn cánh quân người Hoa của Mạc Cửu chỉ lo buôn bán và mở sòng bạc.
Nhìn chung lại, triều Nguyễn có công khai phá đất hoang, đào kênh mương, phát triển nông nghiệp ở vùng đất Nam Bộ của họ, mặc dù người thực hiện công việc này chủ yếu là nhân dân lao động, là di dân người Việt dưới sự điều hành trực tiếp của một số đại thần tài năng trung thực hết lòng vì dân vì nước như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Văn Thoại, Trần Đình Túc... Trong đó việc cần đặc biệt nhất đáng nhấn mạnh là việc tổ chức đo đạc, vẽ lại bản đồ, lên sổ địa bạ đầy đủ, rõ ràng đất khai phá được ở Nam Bộ. Có thể nói đây là một công lao to lớn đối với việc mở mang khai khẩn xây dựng đất nước, phát triển kinh tế văn hóa Việt Nam nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng.
Ngay trong những sổ địa bạ lúc bấy giờ, các vua triều Nguyễn đã sớm xác định chủ quyền đất đai của nước ta tại các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Côn Lôn, Phú Quốc. Trường Sa đã được ghi rõ thuộc địa bộ Gia Định Thành.
Khu vực vùng Bến Nghé - Sài Gòn (Phiên Trấn). Sài Gòn hay Sài Côn mà trước là Prei Noker, mà ngày nay là Chợ Lớn. Đây là một vùng canh tác nông nghiệp lúa nước rộng lớn, kéo dài, bao trùm cả ngoại vi Bến Nghé, Sài Gòn, Cần Đước đến Gò Công, Cửa Đại, Ba Lai. Lấy tên là vùng Bến Nghé - Sài Gòn vì Bến Nghé - Sài Gòn là tâm điểm của vùng này. Suốt 300 năm qua đây là một trung tâm thương mại, một thương cảng, một đô thị lớn nhất của Nam Bộ và miền Nam. Tâm điểm này nối liền với Cù Lao Phố. Nó nằm cạnh ranh trấn Gia Định, an ninh được bảo đảm hơn, thị trường mua bán rộng rãi hơn, nên nó phát triển rất nhanh, thay thế vị trí Cù Lao Phố suốt thế kỷ XVIII, XIX trở đi.
Vùng Ba Giồng (bao gồm một phần 2 huyện Phước Long, Tân Bình và bao trùm cả vùng Vũng Cù tức Tân An và Vàm Cỏ ngày nay). Đây là vùng đất canh tác nông nghiệp rất tốt, năm 1679 chúa Hiền đã cho phép Dương Ngạn Địch đem 1.000 quân lính và gia nhân đến khai phá lập nghiệp ở đây. Đến năm 1741 vùng này đã phát triển sung túc, nhiều thóc gạo. Kho lúa Cam Lạch (một trong chín kho lớn toàn quốc) đã được thiết lập ở đây để thu tô thuế tải về kinh.
Khu vực trung tâm đồng bằng sông Cửu Long ven sông Tiền, sông Hậu đến tận ven sông Vàm Cỏ gọi là vùng Mỹ Tho - Long Hồ (Vĩnh Long - Mỹ Tho - Cần Thơ - An Giang). Vùng đất này có một tầm quan trọng đặc biệt về cả hai phương diện chiến lược: bảo đảm an ninh quốc phòng và phát triển nông nghiệp. Tiền Giang và Hậu Giang là đường chuyển quân chính yếu giữa miền Nam và Cao Miên. Đây là vùng đất phì nhiêu màu mỡ rất tốt, quanh năm có nước ngọt, mùa lũ không ngập, một vùng đất lý tưởng để làm ruộng, trồng màu, trồng dâu nuôi tằm, trồng cau, dừa và các loại cây trái đặc sản. Về sa, đã sớm trở thành vựa lúa giàu có nhất nước. Đây cũng là vùng giàu có nhất nước về cây ăn quả, về thủy hải sản. Ba nền văn minh về nông nghiệp của Nam Bộ chủ yếu cũng xuất hiện phần lớn ở vùng này. Đó là văn minh lúa nước, văn minh miệt vườn và văn minh kênh rạch Nam Bộ.
Khu vực Mang Khảm - Hà Tiên - Phú Quốc - Rạch Giá - Cà Maucòn gọi là vùng Hương Úc, Trảng Ké, Cần Bột, Gi Khê... Vùng này do quân lính và gia nhân cánh Mạc Cửu, Mạc Thiên Tứ khai khẩn và phát triển thành một thương cảng phồn vinh rất sớm. Phần nông nghiệp chỉ là thứ yếu của một số thổ dân và người Việt di cư đến đây từ trước. Còn cánh quân người Hoa của Mạc Cửu chỉ lo buôn bán và mở sòng bạc.
Nhìn chung lại, triều Nguyễn có công khai phá đất hoang, đào kênh mương, phát triển nông nghiệp ở vùng đất Nam Bộ của họ, mặc dù người thực hiện công việc này chủ yếu là nhân dân lao động, là di dân người Việt dưới sự điều hành trực tiếp của một số đại thần tài năng trung thực hết lòng vì dân vì nước như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Văn Thoại, Trần Đình Túc... Trong đó việc cần đặc biệt nhất đáng nhấn mạnh là việc tổ chức đo đạc, vẽ lại bản đồ, lên sổ địa bạ đầy đủ, rõ ràng đất khai phá được ở Nam Bộ. Có thể nói đây là một công lao to lớn đối với việc mở mang khai khẩn xây dựng đất nước, phát triển kinh tế văn hóa Việt Nam nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng.
Ngay trong những sổ địa bạ lúc bấy giờ, các vua triều Nguyễn đã sớm xác định chủ quyền đất đai của nước ta tại các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Côn Lôn, Phú Quốc. Trường Sa đã được ghi rõ thuộc địa bộ Gia Định Thành.
2. Những cư dân Việt đầu tiên |
Sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết về vùng đất Nam Bộ vào thế kỷ XVII, rằng "từ cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, cửa Tiểu, cửa Đại... trở lên". Đất Sài Gòn khi những nhóm lưu dân người Việt đến khai khẩn hãy còn hoang vu, rừng rậm và đầm lầy trải dài. Rải rác đó đây trên các giồng đất cao, một vài nhóm các dân tộc Khmer, Stiêng, Mạ... cư trú, sinh sống.
Những lưu dân người Việt đầu tiên tìm đến mưu sinh nơi đất Sài Gòn thuở xa xưa là những người từ miền Bắc, miền Trung vào vì nhiều lý do. Phần lớn họ là những nông dân nghèo đói, cơ cực bởi cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến, một số khác là những quan lại, binh lính được nhà nước phong kiến phái đi đồn trú phía Nam, một số là những kẻ tội đồ trốn tránh... Họ đã vượt biển trên những chiếc thuyền và ngược sông Sài Gòn từ cửa Cần Giờ đến vùng đất Sài Gòn ngày nay.
Một địa điểm mà sử sách thường nhắc đến là Mô Xoài có lẽ là vùng đất Bà Rịa hiện nay, đã được người Việt chọn làm nơi cư trú đầu tiên. Đất đai ở đây tương đối cao, lại gần sông biển thuận lợi cho việc định cư của họ.
Từ đất Mô Xoài, các lưu dân đã nhanh chóng mở rộng phạm vi cư trú, khai khẩn đất đai sang các khu vực, nay thuộc Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh. Điều kiện tự nhiên ở những nơi này không khác mấy với đất Mô Xoài, vả lại các sông rạch nơi đây khá thuận tiện cho việc di chuyển của các lưu dân. Vào những thập kỷ giữa các thế kỷ XVII, các cư dân Việt đã hiện diện ở vùng đất Nam Vang (Phnom Penh) hiện nay. Thuở ban đầu, đứng trước thiên nhiên còn hoang dã của vùng đất Sài Gòn - Gia Định xưa, một vùng đất vừa hào phóng vừa bí ẩn, đầy bất trắc, người lưu dân Việt không khỏi cảm thấy ngại ngùng. Điều này thể hiện qua câu ca dao: Tới đây xứ sở lạ lùng. Con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh. Những con người tiên phong ấy, với nghị lực và ý chí đã cố gắng trụ bám nơi mảnh đất Sài Gòn, nhen nhúm và định hình một cuộc sống mới. Cho đến trước khi những viên quan của chúa Nguyễn được cử đi kinh lý miền đất phía Nam, thì những thế hệ đầu tiên của lưu dân đã có cuộc sống ổn định, ruộng vườn đang mở rộng, xanh tươi. Những ghi chép trong các sử sách đương thời, giữa thế kỷ XVII, đất Sài Gòn đã có gần 10.000 người.
Trong số cư dân buổi ban đầu ở Sài Gòn, có không ít người Hoa. Họ là những người Trung Hoa vùng duyên hải phía Nam, đã ra đi tìm đất sống bởi không chịu nổi cuộc sống đói nghèo, loạn lạc ở cố hương.
Năm 1679, có một đợt di cư lớn của người Hoa dưới sự thống lãnh của hai viên quan nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên với 3.000 người và 50 chiến thuyền. Một phần lớn trong đoàn di dân này đã đến trú ngụ và khai khẩn vùng đất miền Đông Nam Bộ, khu vực Biên Hòa và Sài Gòn. Thành phố Chợ Lớn đã được tạo dựng với sự góp sức của người Hoa, cùng với quá trình hội nhập của họ vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam
.3. ĐÔ THỊ Ở NAM BỘ THỜI CẬN ĐẠI
Nguyễn Thị Hậu
1. Khái quát sự hình thành các trung tâm hành chính ở Nam Bộ
1.1 Dười thời các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, công cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam được đẩy mạnh. Năm 1611 lập Dinh Phú Yên. Năm 1693 lập Dinh Bình Thuận. Đến năm 1698 Chúa Nguyễn Phước Châu sai Chưởng cơ trấn thủ Dinh Bình Khang Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống suất đem quân vào kinh lược Chân Lạp, lấy đất Đông phố lập làm Phủ Gia Định, chia vạch ranh giới, lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, lập Dinh Trấn Biên, lấy Sài Gòn làm huyện Tân Bình, lập Dinh Phiên Trấn. Mở đất được ngàn dặm, dân hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu dân từ Bố Chíng trở vào Nam tới ở, thiết lập thôn xã phường ấp, khẩn đất hoang, định tô thuế, lập sổ đinh. Sài Gòn chính thức xuất hiện trên bản đồ Việt Nam từ đó, trong một bối cảnh lịch sử có những nét đặc biệt góp phần quy định nhiều đặc điểm của tiến trình văn hóa Việt Nam ở địa phương về sau.
Năm 1679 Tổng binh Cao Châu, Lôi Châu, Liêm Châu Trần Thượng Xuyên và Tổng binh Long Môn Dương Ngạn Địch đem 50 chiến thuyềnvà 3000 người vào Quảng Nam xin quy phục Chúa Nguyễn. Chính quyền Đàng Trong tiếp nhận, cho Trần Thượng Xuyên tời Biên Hòa, Dương Ngạn Địch tời Mỹ Tho. Với kinh nghiệm hải hành và truyền thống buôn bán lâu đời, những người Hoa tỵ nạn chính trị này đã “vỡ đất hoang, lập phố xá”, thu hút thương nhân các nơi tới buôn bán, góp phần quan trọngtrong việc xây dựng cơ sở vật chất ban đầu cho quá trình khai thác Nam bộ của cộng đồng Việt Nam ở Đàng Trong.Trên phương diện giao lưu văn hóa, các đợt nhập cư với quy mô lớn của người Hoa như thế còn dẫn đến việc du nhập nhiều yếu tố văn hóa Hoa Nam vào Đàng Trong thế kỷ XVII – XVIII. Cùng với sự tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa của các dân tộc khác như Chăm, Khmer, sự giao tiếp với thương nhân Nhật Bản, phương Tây… tình hình nói trên làm hình thành trong xã hội Việt Nam ở Sài Gòn một màu sắc đa dân tộc có kết cấu mở kiểu Đông Nam Á với phương thức phát triển liên tục đổi mới, năng động và trẻ trung.
Đặc biệt, cần nhấn mạnh rằng người Việt tiến vào đồng bằng Nam bộ lúc họat động ngọai thương ở khu vực Đông Nam Á khởi sắc. Ngòai thương cảng Hội An nổi tiếng từ thế kỷ XVI, các trung tâm thương nghiệp như Hà Tiên, Vũng Tàu cũng khá phát triển, nên sau khi chính thức xuất hiện trên bản đồ Việt Nam, Sài Gòn cũng mau chóng trở thành một thương cảng lớn. Theo thời gian, thương cảng này cũng phát triển thành một trung tâm thương nghiệp trong khu vực, xuất khẩu không chỉ nông sản hang hóa của khu vực Nam bộ mà còn là đầu mối xuất khẩu nhiều lâm thổ sản của Campuchia. Tình hình nói trên cùng với mạng lưới sông rạch dày đặc ở Nam bộ đã khiến Sài gòn cũng đồng thời trở thành một trung tâm văn hóa và hành chính quan trọng, một đô thị lớn sánh ngang Thăng Long và Phú Xuân. Song khác với Thăng Long và Phú Xuân vốn là trung tâm chính trị mở rộng thành trung tâm kinh tế, Sài Gòn – Gia Định là trung tâm kinh tế (thương nghiệp, thủ công nghiệp) trước rồi mới trở thành trung tâm chính trị - văn hóa: thành phố này đã hình thành theo quy luật của các đô thị tiền tư bản, tức yếu tố “thị” có trước rồi phát triển thành yếu tố “thành” chứ không phải như các đô thị phong kiến ở đó yếu tố “thành” có trước rồi mở rộng thêm yếu tố “thị”. (Cao Tự Thanh chủ biên, 2007, tr.13-15).
1.2 Năm 1808, vua Gia Long nhà Nguyễn đổi trấn Gia Định thành Gia Định Thành, bao gồm 5 trấn: Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Hòa, Vĩnh Thanh (sau chia ra Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường (sau này là Định Tường) vàHà Tiên. Gia Định thành thông chí ghi chép như sau.
Trần thành Gia Định
Trấn Gia Định xưa có nhiều ao đầm, rừng rú, buổi đầu thời Thái Tông (Nguyễn Phúc Tần, 1648 - 1687), sai tướng vào mở mang bờ cõi, chọn nơi đất bằng rộng rãi, tức chỗ chợ Điều Khiển ngày nay, xây cất đồn dinh làm chỗ cho Thống suất tham mưu trú đóng, lại đặt dinh Phiên Trấn tại lân Tân Thuận ngày nay, làm nha thự cho các quan Giám quân, Cai bạ và Ký lục ở, được trại quân bảo vệ, có rào giậu ngăn cản hạn chế vào ra, ngoài ra thì cho dân trưng chiếm, chia lập ra làng xóm, chợ phố. Nơi đây nhà ở hỗn tạp, đường sá chỗ cong chỗ thẳng, tạm tùy tiện cho dân mà chưa kịp phân chia sửa sang cho ngăn nắp. Chức Khổn súy thay đổi lắm lần cũng để y như vậy. Đến mùa xuân năm Ất Mùi (1775), đời vua Duệ Tông (Nguyễn Phúc Thuần) thứ 11, xa giá phải chạy đến trú ở thôn Tân Khai. Mùa thu năm Mậu Thân (1788) năm thứ 11, buổi đầu đời Thế Tổ (Nguyễn Phúc Ánh) Trung hưng [2a], việc binh còn bề bộn, ngài phải tạm trú nơi đồn cũ của Tây Sơn ở phía đông sông Bình Dương để cho nghỉ quân dưỡng dân. Ngày 4 tháng 2 năm Canh Tuất thứ 13 (1790), tại chỗ gò cao thôn Tân Khai thuộc đất Bình Dương, ngài mới cho đắp thành bát quái như hình hoa sen, mở ra 8 cửa, có 8 con đường ngang dọc, từ đông đến tây là 131 trượng 2 thước ta, từ nam đến bắc cũng như thế, bề cao 13 thước ta, chân dày 7 trượng 5 thước ta, đắp làm ba cấp, tọa ngôi Càn, trông hướng Tốn. Trong thành, phía trước bên tả dựng Thái miếu, giữa làm sở hành tại, bên tả là kho chứa, bên hữu là Cục Chế tạo, xung quanh là các dãy nhà cho quân túc vệ ở. Trước sân dựng cây cột cờ ba tầng, cao 12 trượng 5 thước ta, trên có làm chòi canh vọng đẩu bát giác tòa, ở bên treo cái thang dây để thường xuyên lên xuống, trên ấy có quân ngồi canh giữ, có điều gì cần cảnh báo thì ban ngày treo cờ hiệu, ban đêm treo đèn hiệu canh gác, các quân cứ trông hiệu đó để tuân theo sự điều động. Hào rộng 10 trượng 5 thước, sâu 14 thước ta, có cầu treo thả ngang qua, bên ngoài đắp lũy đất, chu vi 794 trượng, vừa hiểm trở, vừa kiên cố tráng lệ. Ngoài thành đường sá chợ phố ngang dọc được sắp xếp rất thứ tự, bên trái là đường cái quan [2b] từ cửa Chấn Hanh qua cầu Hòa Mỹ đến sông Bình Đồng tới trấn Biên Hòa; đường cái quan bên phải gặp chỗ nào cong thì giăng dây để uốn thẳng lại, đầu từ cửa Tốn Thuận qua chùa Kim Chương, từ phố Sài Gòn đến cầu Bình An qua gò chùa Tuyên đến sông Thuận An. Bến đò Thủ Đoàn đưa qua sông Hưng Hòa, trải qua gò Trấn Định rồi đến gò Triệu. Đường rộng 6 tầm, hai bên đều trồng cây mù u và cây mít là những thứ cây thích hợp với đất này. Cầu cống thuyền bến đều luôn được tăng gia việc tu bổ, đường rộng suốt phẳng như đá mài, gọi là đường thiên lý phía nam.
Trấn Phiên An. Lỵ sở trấn Phiên An ban đầu dựng ở xóm Tân Thuận, tổng Bình Trị, sau vẫn chỗ ấy, đến niên hiệu Gia Long thứ 6 (1807), dời qua dựng ở địa phận thôn Hòa Mỹ, nằm phụ vào phía đông bắc quách ngoài thành Gia Định, mặt trông ra hướng tây nam, lưng dựa vào sông Bình Trị, 3 tòa nhà ngói, ở giữa là công thự Trấn thủ, phía tả là công thự Cai bạ, phía hữu là công thự Ký lục, là công thự của trấn cũng gọi là công dinh, ngang dọc đều 80 tầm, bề ngang chia làm ba phần, chỉ có dinh giữa rộng hơn 5 tầm. Năm thứ 18 (1819), cách sau trấn thự 6 tầm, phía ngoài đại lộ, lại dựng 5 dãy kho bằng ngói cho 4 trấn, mỗi dãy 31 gian cao rộng đẹp đẽ, đủ dùng để cất giữ, có dựng trại Thừa ty, nằm dọc theo trước sân 3 dinh, khám đường và nhà giam dựng ở phía bắc đường cái quan.
Chợ Bến Thành. Phố, chợ, nhà cửa rất trù mật, họp chợ dọc ven sông. Ở đầu bến, theo lệ tháng đầu xuân gặp nhằm ngày tế mã, có thao diễn thủy binh. Bến này có đò ngang đón chở khách buôn tàu biển lên bờ. Đầu phía bắc là ngòi Sa Ngư, có bắc cầu ván ngang qua, hai bên nách cầu có phố bằng ngói, tụ tập hàng trăm thức hàng hóa, dọc bến sông thuyền buôn lớn nhỏ đậu nối liền nhau.
Phố chợ Sài Gòn. Cách trấn về phía nam 12 dặm ở hai bên tả hữu đường cái quan, là đường phố lớn, thẳng suốt 3 đường, giáp đến bến sông, một đường ngang ở giữa, một đường đi dọc theo sông. Các đường ấy đan xuyên nhau như chữ điền, phố xá liền mái nhau, người Việt và người Tàu ở chung lộn dài độ 3 dặm. Hàng hóa trong phố bày bán có: gấm, đoạn, đồ sứ, giấy má, châu báu trang sức, hàng sách vở, tiệm thuốc, tiệm trà, tiệm hủ tíu. Hai đầu nam bắc bến sông không gì là không có. Đầu phía bắc đường lớn của bổn phố có miếu Quan Đế và 3 hội quán: Phúc Châu, Quảng Đông, và Triều Châu chia đứng hai bên tả hữu; phía tây ở giữa đường lớn có miếu Thiên Hậu, gần phía tây có hội quán Ôn Lăng, đầu phía nam đường phố lớn về phía tây có hội quán Chương Châu. Gặp ngày tốt, đêm trăng, như Tam nguyên, rằm, mùng một thì treo đèn đặt án tranh đua kỳ xảo trông như là cây lửa, cầu sao, thành gấm, hội quỳnh, kèn trống huyên náo, nam nữ dập dìu, thật là một phố lớn nơi đô hội náo nhiệt. Trong đường phố lớn có cái giếng xưa, nước ngọt tràn trề, bốn mùa không cạn. Sông nhỏ chảy ngang phố có bắc cầu ván lớn, trên có hai dãy hành lang mái ngói, treo màn che nắng, đường đi râm mát như đi dưới mái nhà cao. Giữa phố về phía đông đường lớn có chợ Bình An bán đủ sản vật quý ở núi biển và thổ sản các nơi, ban đêm còn thắp đèn mua bán.
Trấn Biên Hòa
Lỵ sở trấn Biên Hòa khi xưa đặt ở địa phận thôn Phước Lư, huyện Phước Chánh, đất thấp nên hay có lụt. Năm Gia Long 15 (1816) dời lỵ sở qua gò cao thôn Tân Lân, quy hoạch ra làm thành sở, ngang dọc đều 200 tầm, trong chia thành hình chữ tỉnh, giữa dựng Vọng cung, hai bên phải trái có lầu chuông trống, chỗ chính giữa phía sau dựng 3 công dinh, rộng 80 tầm, mà chia ra làm 3 phần, chỉ dinh giữa rộng thêm 5 tầm, dài 60 tầm, 2 con đường phải trái đều 7 tầm, chung quanh xây tường gạch, làm dãy kho chứa gồm 31 gian lợp ngói xây gạch dày chắc, hai bên phải trái làm trại quân thừa ty, chia ra từng khu vực rất chỉnh tề.
Phố lớn Nông Nại. Ở đầu phía tây của cù lao Đại Phố, lúc mới mở mang, Trần Thượng Xuyên chiêu tập người thương buôn nước Trung Quốc đến lập ra phố xá, mái ngói tường vôi, lầu quán cao ngất, dòng sông rực rỡ, ánh nhật huy hoàng, liền nhau tới 5 dặm, chia làm 3 đường phố, đường phố lớn lát đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường phố nhỏ lót đá xanh, toàn thể đường bằng phẳng như đá mài, kẻ buôn tụ tập, thuyền đi biển, đi sông đều đến cuốn buồm neo đậu, đầu đuôi thuyền đậu kế tiếp nhau, thật là một chỗ đô hội… Từ sau năm Bính Thân (1776), Tây Sơn vào chiếm, họ dỡ lấy phòng ốc, gạch đá, của cải chở về phủ Quy Nhơn, đất nầy trở thành vườn gò hoang. Sau khi Trung hưng tuy có người trở về, nhưng chưa bằng một phần trăm (mười phần ngàn) lúc trước.
Trấn Định Tường
Lỵ sở trấn Định Tường ở đất thôn Mỹ Chánh, tổng Kiến Thạnh, huyện Kiến Hòa. Ngày 18 tháng 2 mùa xuân năm Kỷ Mùi (1679) đời Thái Tông năm thứ 32 (Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần), tướng Long Môn là Dương Ngạn Địch từ nước Đại Minh sang kinh xin quy phụ. Vua sai Xá sai là Văn Trinh, Tướng thần lại là Văn Chiêu đưa dụ văn sang vua Cao Miên là Nặc Thu, bảo chia đất này cho đoàn Dương Ngạn Địch ở. Tháng 5, Văn Trinh dẫn cả binh biền Long Môn và thuyền bè đến đóng ở vùng Mỹ Tho, rồi xây dựng nhà cửa, qui tụ người Việt, người Thổ kết thành thôn xóm. Đến đời Hiển Tông (Nguyễn Phúc Chu) lập ra phủ trị ở phía bắc chợ, lệ thuộc vào dinh Phiên Trấn. Đời Duệ Tông (Nguyễn Phúc Thuần) cải đặt làm đạo Trường Đồn có một viên Cai cơ hoặc Cai đội và một Thư ký ở làm việc, sau nầy mới lập dinh trấn… Phía nam lỵ sở là chợ phố lớn Mỹ Tho, mái ngói cột chạm phủ, đình cao, nha thự rộng, thuyền bè sông biển ra vào, buồm thuyền trông như mắc cửi, thật là nơi đô hội lớn phồn hoa huyên náo.
Trấn Vĩnh Thanh
Vào tháng 2 năm Quý Dậu niên hiệu Gia Long 12 (1813), khâm mạng, Trấn thủ Lưu Phước Tường đắp thành đất. Lưng hướng Kiền (hướng tây bắc), mặt hướng Tốn (hướng đông nam), từ phía nam qua phía bắc cách 200 tầm, từ đông qua tây cũng vậy, chỗ giữa của bốn mặt thành lõm vào, phía ngoài có thành cong bao vòng chỗ cửa hình như đầu cái khuê bốn góc thành có sừng nhọn như hình kim quy, hay như hình hoa mai. Trong thành có 2 con đường dọc, 3 con đường ngang, trước dựng hành cung, ở giữa là 3 công thự, sau có kho chứa, trại quân và nhà thừa ty đều ở hai bên phải và trái. Hào rộng 10 tầm, phía trái thành là sông Long Hồ, phía phải là Ngư Câu (Rạch Cá), mặt sau là dòng sông lớn Tiền Giang, mặt trước thành có đào ngòi cừ sâu, dài 425 tầm, bề ngang 40 tầm thông với sông Long Hồ và Ngư Câu (Rạch Cá) để làm hào ngoài thành. Góc thành phía đông có đường cái quan dọc theo sông, phía trái là sứ quán, phía phải là chợ Vĩnh Thành, ngòi chảy ngang đầu đường cái quan, bắc cầu dài, đi ngang lỵ sở cũ, qua cầu sông lớn Long Hồ, đến chợ Long Hồ. Ở ngoài bờ ngòi góc phía nam là xưởng thủy quân, bên ngoài có đồn nhọn góc ba mặt bao theo, góc phía tây nam ngòi có bắc cầu thông qua, mặt sau giáp sông, có nhà cửa tiệm quán, thật là nơi trọng yếu bề thế đẹp đẽ.
Trấn Hà Tiên
Trấn thự Hà Tiên, nằm hướng Kiền (tây bắc) trông ra hướng Tốn (đông nam) lấy núi Bình Sơn làm gối, Tô Châu làm tiền án, biển cả Minh Hải làm hào phía nam, Đông Hồ làm hào phía trước, ba mặt có lũy đất từ Dương Chử đến cửa hữu dài 112 trượng rưỡi, từ cửa hữu đến cửa tả dài 153 trượng rưỡi, từ cửa tả đến xưởng Thuyền ra Đông Hồ 308 trượng rưỡi, các lũy nầy đều cao 4 thước ta, dày 7 thước ta, hào rộng 10 thước ta. Ở giữa làm công thự, vọng cung, lại ở trước công thự, hai bên đặt dãy trại quân, trước sân có cầu Bến Đá, phía trái có sứ quán, phía phải có công khố. Dinh Hiệp trấn ở chân núi Ngũ Hổ, ngoài vọng cung về phía trái có chợ trấn, phía trái công thự có đền Quan Thánh, sau thự có chùa Tam Bảo. Bên trái chùa có đền thờ Mạc công. Chợ trấn trông về đông là bến hồ, ở đó có trại cá, phía bắc công khố là miếu Hội Đồng, phía bắc miếu có xưởng sửa thuyền, chia thành khu ngang dọc, lấy đường lớn làm ranh; phía tả miếu Quan Thánh là phố Điếu Kiều, đầu [37a] bến có bắc cầu ván thông ra biển tiếp với hòn Đại Kim, phía đông phố Điếu Kiều là phố chợ cũ, qua phía đông chợ này là phố chợ Tổ Sư, kế nữa là phố lớn, tất cả đều do Mạc Tông gầy dựng từ trước. Đường sá giao nhau, phố xá nối liền, người Việt, người Tàu, người Cao Miên, người Chà Và đều họp nhau sinh sống, ghe thuyền ở sông biển qua lại nơi đây như mắc cửi, thật là nơi đại đô hội ở dọi biển vậy.
(Trịnh Hòai Đức, 1820, tái bản 1998).
1.3 Năm 1834 Vua Minh Mạng đã đặt ra Nam Kỳ và chia thành 6 tỉnh nên gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh hay Lục tỉnh. Đó là các tỉnh: Phiên An, năm 1836 đổi thành Gia Định (tỉnh lỵ là tỉnh thành Sài Gòn), Biên Hòa (tỉnh lỵ là tỉnh thànhBiên Hòa), Định Tường (tỉnh lỵ là tỉnh thành Mỹ Tho) ở miền Đông; Vĩnh Long (tỉnh lỵ là tỉnh thành Vĩnh Long),An Giang (tỉnh lỵ là tỉnh thành Châu Đốc) và Hà Tiên (tỉnh lỵ là tỉnh thành Hà Tiên) ở miền Tây.
1.4 Năm 1862, sau khi chiếm xong ba tỉnh miền Đông gồm Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, và năm 1867 chiếm ba tỉnh miền Tây gồm Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, thực dân Pháp xóa bỏ cách phân chia địa giới hành chánh cũ của triều Nguyễn.
Lúc đầu Pháp gọi département thay cho phủ, gọi arrondissement thay cho huyện. Khoảng năm 1868, Nam Kỳ có hơn hai mươi arrondissement (lúc này gọi là hạt, địa hạt, "hạt tham biện" hay "tiểu khu", do tham biện cai trị); dinh hành chánh gọi là tòa tham biện, dưới quyền Thống đốc đóng ở Sài Gòn, thư ký địa hạt cũng gọi là bang biện tức làsecrétaire d’arrondissement. Đến năm 1871 giảm còn 18 hạt, năm 1876 tăng lên 19 hạt.
Năm 1876, Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn, gọi là circonscription administrative, mỗi khu vực lại được chia nhỏ thành các "hạt" (arrondissement) như sau:
Ngày 8 tháng 1 năm 1877, Tổng thống Pháp ra Sắc lệnh thành lập thành phố cấp 1 (municipalité de première classe) Sài Gòn, đứng đầu là một viên Đốc lý (Maire). Sắc lệnh này được ban hành ngày 16 tháng 5 năm đó.
Ngày 20 tháng 10 năm 1879, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định thành lập thành phố cấp 2 (municipalité de deuxième classe) Chợ Lớn, tương đương cấp tỉnh sau này. Đứng đầu thành phố cũng là một viên Đốc lý.
Năm 1882, Thống đốc Nam Kỳ lập thêm một hạt (tiểu khu) mới là hạt Bạc Liêu thuộc khu vực Bát Xắc từ đất của 2 tổng của hạt Sóc Trăng và 3 tổng của hạt Rạch Giá. Như vậy toàn bộ Nam Kỳ có 20 hạt. Năm 1895 lập thêm thành phố tự trị (commune autonome) Cap Saint Jacques, tách từ hạt Bà Rịa (Cap Saint Jacques nhập vào hạt Bà Rịa năm 1898 để rồi năm sau lại tách ra).
Năm 1899, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định đổi tên gọi "hạt" thành "tỉnh" (province) và chia Nam Kỳ thành 3 miền. Đồng thời, chức tham biện đổi thành chủ tỉnh (chef de province), tòa tham biện gọi là tòa bố. Như vậy Nam Kỳ có tất cả 20 tỉnh, phân bố như sau:
Ngoài ra còn có 3 thành phố Sài Gòn (cấp 1), Chợ Lớn (cấp 2), thành phố tự trị Cap Saint Jacques và Côn Đảokhông thuộc tỉnh nào. Năm 1905, xóa bỏ thành phố Cap Saint Jacques, chuyển thành đại lý hành chính thuộc tỉnh Bà Rịa.
Trụ sở của Thống đốc đặt tại Sài Gòn (về sau gọi là Dinh Gia Long). Kể từ năm 1879 mới thay quan võ bằng quan văn, và Thống đốc Nam Kỳ (dân sự) đầu tiên là Le Myre de Vilers.
(Tóm lược theo Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng chủ biên, 1998).
2. Đặc điểm quá trình đô thị hóa ở Nam Bộ
2.1 Đô thị (thành thị, thành phố) là trung tâm kinh tế, chính trị, khoa học, văn hóa của quốc gia, vùng miền hay địa phương; là khu vực hành chính tập trung với mật độ cao các cơ sở hạ tầng , kinh tế, văn hóa, là nơi tập trung sinh sống, sản xuất, buôn bán, dịch vụ của đông đảo cư dân, là nơi gần các trục đường giao thông với mạng lưới giao thông hiện đại, là nơi cơ cấu công nghiệp, dịch vụ cao hơn cơ cấu nông nghiệp…Phần lớn đô thị ở nước ta là do nhà nước sản sinh ra, tức là khi có nhu cầu lập kinh đô hay trung tâm tỉnh, thành thì tìm vị trí, xây dựng công sở, hình thành dần đô thị do nhà nước quản lý, với các chức năng gốc là hành chính, kinh tế, trong đó chức năng hành chính là cơ bản.
Có ý kiến cho rằng, Việt Nam cho đến đầu thế kỷ XX vẫn chưa có đô thị và một nền văn hóa đô thị. Các kinh đô thường nặng về chức năng hành chánh và quân sự, mặc dù là trung tâm của đất nước nhưng do luôn chịu tác động mạnh mẽ từ những vùng nông thôn xung quanh nên hầu như tính chất đô thị khá mờ nhạt. Các cảng thị, dù là cảng biển hay cảng sông, thực chất chỉ là những bến chợ trung chuyển, dịch vụ mà không gắn liền với khu vực kinh tế sản xuất hàng hóa. Điều này có thể đúng với các đô thị cổ phía Bắc hay miền Trung, nhưng các đô thị ở Nam bộ hình thành có phần khác biệt so với những đô thị khác như Hà Nội, Huế hay Phố Hiến, Hội An… Tuy bước đầu hình thành các đô thị này mang tính chất là trung tâm chính trị - hành chính – quân sự nhưng không thể thiếu yếu tố là trung tâm kinh tế - yếu tố này trong quá trình phát triển ngày càng nổi bật. Điểm lại những trấn thời Nguyễn ở Nam bộ ta thấy vào nửa đầu thế kỷ XIX đây đã là những trung tâm kinh tế sầm uất. Trong sử sách bên cạnh việc ghi chép về những tòa thành mang chức năng trung tâm hành chính thì nhà cửa phố xá chợ búa luôn được nhắc đến như một thành phần quan trọng của tòa thành đó.
Vị trí của các đô thị luôn ở trung tâm của mạng lưới giao thông đường thủy từng khu vực, tận dụng sự thuận tiện của hệ thống sông, kênh rạch, đường biển… và những bến – chợ trước đó để hình thành các bến cảng trong đó có những cảng thị quan trọng như Sài Gòn, Cù Lao Phố, Mỹ Tho, Ba Vát (Bến Tre), Hà Tiên…sau này như Cần Thơ, Long Xuyên, Sa Đéc… Có thể nói tính chất của đô thị Nam bộ là những “đô thị sông nước”, người ta biết đến đô thị không chỉ là những thành quách, các công trình hành chính hay tôn giáo mà còn được biết đến ví những bến - chợ nổi tiếng với sự phong phú của hàng hóa, sự giao lưu trao đổi buôn bán trù mật, sự đông đúc đa dạng của cư dân. Ví dụ như Gia Định thành có cấu trúc giao thông đường thủy : Sông Sài Gòn là giao thông đường thủy quan trọng nhất, cảng Bến Nghé (bến Bạch Đằng), xưởng đóng tàu Ba Son là vị trí tiền tiêu, cửa ngỏ giao dịch buôn bán với những tàu nước ngoài. Hệ thống kênh rạch dày đặc như rạch Thị Nghè, kênh Bến Nghé, kênh Tẻ, rạch Cầu Kho. Kênh Tàu Hủ nối liền các tỉnh miền Tây và cảng Bến Nghé, là con đường huyết mạch để vận chuyển lúa gạo, lương thực các loại. Cùng với hệ thống đường thủy, cấu trúc giao thông đường bộ gồm 3 trục chính: đi Cao Miên chạy thẳng ra cảng Bến Nghé; đi các tỉnh miền Tây; đường đi về Đồng Nai. Nhu cầu giao thông ngày càng cao, hệ thống đường sá đi bộ và xe ngựa cũ không theo kịp đà phát triển vùng Sài gòn về các mặt kinh tế xã hội, thương mại dịch vụ, ngành công nghiệp sửa chữa tàu bè. Những con đường hiện có đi Cao Miên, Đồng Nai và các tỉnh miền Tây được nối trực tiếp về thành Bát Quái ngày càng phát uy hiệu quả.
Quá trình lịch sử vùng đất Nam bộ cũng là quá trình hình thành cư dân Nam bộ. Quy tụ từ tứ xứ, từ nhiều nguồn gốc xuất thân, từ nhiều tộc người, những lớp lưu dân đến vùng đất này trong những thời gian khác nhau, từ những hòan cảnh lý do khác nhau nhưng đều có một cách ứng xử chung, đó là luôn giao lưu tiếp xúc, cởi mở về văn hóa nói chung và về lối sống về cách thức làm ăn nói riêng đã làm cho các đô thị ở Nam bộ rất đa dạng về kinh tế và văn hóa. Nó góp phần làm nhạt đi tính chất “chính trị” của các đô thị này, đồng thời làm cho các đô thị ở Nam bộ tuy vẫn là trung tâm của một vùng nông thôn nhưng không bị “nông thôn hóa” mà ngược lại, có ảnh hưởng khá nhiều về lối sống, về sinh họat kinh tế - văn hóa đến những vùng xung quanh. Cư dân nông thôn nhập cư đến các đô thị là xu hướng tăng dân số chính của các đô thị này. Hiện tượng này còn phổ biến cả trong thời kỳ từ 1945 – 1975 và hiện nay. Một hiện tượng sau này phổ biến tại Nam bộ mà không thấy xuất hiện ở miền Trung hay miền Bắc, đó là địa danh huyện “châu thành” có ở nhiều tỉnh, đó là đơn vị hành chính trong đó có thị xã – trung tâm của tỉnh. Hiện tượng này phần nào phản ánh sự ảnh hưởng của đô thị với vùng nông thôn.
Như trên đã nói, nếu thừa nhận tính chất chủ yếu của các đô thị Nam bộ là thương mại và dịch vụ thì không thể không nói đến vai trò quan trọng của lưu dân người Hoa. Những trung tâm thương nghiệp đầu tiên như Cù Lao phố, Sài Gòn, Mỹ Tho, Hà Tiên đều do những lớp người Hoa sinh sống tập trung và hình thành nên. Trong giai đọan mới hình thành, tại các “phố chợ” này họat động thủ công nghiệp (làm gốm và nhiều nghề khác…) cũng là một họat động kinh tế chính. Nhưng quá trình phát triển đô thị đã dần tách biệt thủ công nghiệp và thương nghiệp, thủ công nghiệp lui xuống vị trí thứ yếu và sau này chuyển địa bàn sản xuất ra ngọai ô hoặc sang vùng lân cận.
2.2 Đô thị hóa là quá trình biến đổi về phân bố các lực lượng sản xuất, bố trí dân cư, những vùng không phải đô thị trở thành đô thị. Tiền đề cơ bản của đô thị hóa là sự phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ... thu hút nhiều nhân lực từ nông thôn đến sinh sống và làm việc, làm cho tỉ trọng dân cư ở các đô thị tăng nhanh. Đô thị xuất hiện làm tăng sự phát triển giao thông với các vùng nông nghiệp xung quanh và các đô thị khác; phát triển văn hoá và sự phân công lao động theo lãnh thổ, tăng cường thành phần công nhân, tiểu thủ công, trí thức, thương nhân, kĩ thuật viên, v.v. (Từ điển Bách khoa tòan thư Việt Nam).
Như vậy, căn cứ vào quá trình hình thành các trung tâm hành chánh ở Nam bộ ta có thể nhận thấy đây cũng là quá trình Đô thị hóa với 2 giai đọan:
- Giai đọan nửa đầu thế kỷ XIX: hòan chỉnh các trung tâm chính trị - quân sự đã hình thành trước đó để trở thành các trung tâm hành chính – chính trị trong thời kỳ chính quyền nhà nước đã được thiết lập và từng bước hòan thiện. Đô thị trung tâm, lớn nhất và quan trọng nhất lúc này là Gia Định thành. Diện mạo các đô thị thời này chưa thóat khỏi cấu trúc đô thị phong kiến, từ các công trình xây dựng đến cấu trúc dân cư và đời sống đô thị.
- Giai đọan nửa sau thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX: Các trung tâm hành chính – chính trị của nhà nước phong kiến chuyển biến dần thành các đô thị - thành phố kiểu châu Âu. Bộ máy chính quyền có sự thay đổi cơ cấu, tổ chức… từ đó diện mạo của các đô thị này cũng thay đổi tùy theo việc xác định vị trí chức năng của nó. Từ cảnh quan đô thị đến hạ tầng cơ sở đến cấu trúc kinh tế, thành phần và nguồn gốc dân cư thay đổi làm cho sinh họat và đời sống đô thị có sự thay đổi rõ rệt, hình thành tầng lớp thị dân (tuy không quá tách biệt nhưng có lối sống tương đối khác biệt so với lối sống đậm nét nông dân – nông thôn truyền thống).
Đến cuối thế kỷ XIX với tổ chức hành chính của Pháp. Nam bộ có 20 tỉnh và trung tâm của 20 tỉnh ấy có thể được coi là những đô thị của Nam bộ, tuy mức độ phát triển có khác nhau. Mặc dù miền Tây có nhiều tỉnh (và tỉnh lỵ) nhưng các đô thị ở miền Đông có sự phát triển và mang diện mạo “thành thị” hơn, có lẽ vì mức độ phát triển công nghiệp ở đây cao hơn do điều kiện tư nhiên thuận lợi. Mặt khác các tỉnh miền Đông lại gần cảng thị Sài Gòn nên sự giao lưu tiếp xúc về kinh tế - văn hóa cũng mạnh hơn, thường xuyên hơn.
Trong cả hai giai đọan Bến Nghé - Sài Gòn – Gia Định luôn giữ vai trò trung tâm về hành chánh - chính trị - quân sự - kinh tế - văn hóa của tòan Nam bộ, là đại diện cho Nam bộ. Thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn từ khi hình thành và trong quá trình phát triển luôn gắn liền với khu vực sản xuất thủ công nghiệp ở miền Đông Nam bộ và vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long, lúa gạo và nông sản là loại hàng hóa quan trọng bậc nhất. Chừng đó yếu tố cùng với sự hoạch định cụ thể, lâu dài đã biến Sài Gòn – Chợ Lớn trở thành một đô thị – thương cảng kiểu phương Tây: từ hạ tầng cơ sơ như đường bộ thay thế giao thông trên kênh rạch, hệ thống điện, đường cống ngầm thoát nước, xử lý chất thải và vệ sinh thành phố…) đến việc phát triển những ngành nghề dịch vụ, hình thành tầng lớp thị dân và lối sống, văn hóa đô thị, khu dân cư, khu thương mại, nhà thờ, quảng trường, công sở, các thiết chế văn hóa đô thị (thư viện, rạp hát, rạp chiếu phim, sân vận động… Những kiến trúc lớn như Trụ sở công ty vận tải biển Hoàng Gia (Bến Nhà Rồng), Nhà thờ Đức Bà, Bưu điện, Nhà hát thành phố, Bảo tàng Thành phố, Bảo tàng Lịch sử, Tòa án, Trụ sở Uỷ ban nhân dân thành phố… hợp thành khu trung tâm ngay từ khi thành phố chỉ mới có vài trăm ngàn dân, trở thành những công trình tiêu biểu do cho sự phù hợp giữa kiến trúc với công năng nhưng không hề lạc hậu dù đã hơn một thế kỷ trôi qua… Đặc biệt, Sài Gòn còn là nơi hình thành cơ sở công nghiệp đầu tiên, xưa nhất phải kể đến là công xưởng Ba Son được xây dựng trên cơ sở Xưởng Thủy từ cuối thế kỷ XVIII. Từ cuối thế kỷ XIX nhiều nhà máy, công xưởng đã được xây dựng tại đây, Sài Gòn trở thành một trung tâm công nghiệp ở phía Nam.
Trong tiến trình lịch sử không thể phủ nhận một điều, với vị thế là thương cảng trung tâm kinh tế – văn hóa, có tầm giao lưu và ảnh hưởng đến khu vực rộng hơn, Sài Gòn luôn được coi là thành phố tiêu biểu và đại diện cho Nam bộ trên tất cả các lĩnh vực. Cũng cần lưu ý rằng, trong một thời gian dài Sài Gòn là thủ phủ của chính quyền thực dân và thủ đô của chính quyền miền Nam trước năm 1975, vì vậy Sài Gòn còn có đặc điểm của một thành phố từng là trung tâm chính trị. Những yếu tố trên đây hợp thành và tạo nên một đô thị cổ Bến Nghé – Gia Định, một thành phố Sài Gòn độc đáo khác với Hà Nội hay Huế – hai thành phố cũng là trung tâm của cả nước trong những giai đọan khác. (Nguyễn Thị Hậu, 2008).
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1.Trịnh Hòai Đức: Gia Định thành thông chí, Thành trì chí. 1820. Tái bản 1998, nhà xuất bản Giáo Dục.
2. Nguyễn Thị Hậu: Đô thị Sài Gòn nhìn từ khảo cổ học, trong sách Nam bộ đất và người tập 6, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2007).
3. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng chủ biên: Địa chí văn hóa TP.HCM, tập 1: Lịch sử, nhà xuất bảnThành phố Hồ Chí Minh, tái bản 1998.
4. Cao Tự Thanh chủ biên: Lịch sử Sài Gòn – Gia Định trước 1802, tr.13-15, nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2007.
5. Từ điển bách khoa tòan thư Việt Nam. http://www.bachkhoatoanthu.gov.vn/news.aspx
3. VÙNG ĐẤT TẦM PHONG LONG
Nguyễn Hữu Hiếu
Năm Đinh Sửu (1757), Nặc - nguyên, quốc vương Chân Lạp mất, chú họ là Nặc-nhuận đang làm giám quốc, xin hiến đất Srok Kleang và Préah Trapeang (tức đất Trà Vang - Ba Thắc), cầu xin chúa Nguyễn phong làm vua Chân Lạp, chúa Võ vương Nguyễn Phước Khoát chấp thuận.
Nhưng liền san đó Nặc-nhuận bị con rể là Nặc-hinh giết và cướp ngôi. Cháu Nặc-nhuận là Nặc Tôn, chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ, tâu với chúa Nguyễn xin được phong làm vua Chân Lạp. Chúa Võ vương thuận cho, và sai tướng Thống suất ngũ dinh tại Gia Định Trương Phước Du hợp cùng Mạc Thiên Tứ mang quân đánh dẹp Nặc-hinh và đưa Nặc-tôn về nước. Nặc-tôn được phong làm phiên vương. Để tạ ơn, Nặc-tôn cắt đất Tầm Phong Long (vùng đất giữa sông Tiền và sông Hậu), phía bắc của vùng Srok Kleang và Préah Tra-peang, dâng cho chúa Nguyễn.
Theo Vương Hồng Sển, âm/ Tầm Phong Long/xuất phát từ "Kompong Luông” của tiếng Khmer, có nghĩa là bến, vũng, sông của vua.
Tiếp thu vùng đất Tầm Phong Long là một trong những sự kiện đặc biệt trong lịch sử dân tộc, nó vừa góp phần mở rộng cương vực của Tổ quốc ta về phương nam, vừa đánh dấu kết thúc diễn trình Nam tiến của dân tộc ta trong 775 năm (982-1757).
Ngay sau khi tiếp thu, đất Tầm Phong Long được Nguyễn Cư Trinh lập thành 3 đạo: Đông Khẩu đạo, Tân Châu đạo, Châu Đốc đạo và đặt dưới sự quản lý của dinh Long Hồ: Dinh Long Hồ lập năm 1732, năm 1800 đổi thành Vĩnh Trấn, năm 1808 đổi thành trấn Vĩnh Thanh. Để có phản ứng nhanh và hiệu quả trong việc bảo vệ biên cương, Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh cho dời trị sở của dinh Long Hồ từ An Bình Đông (Cái Bè) về xứ Tầm Bào (thuộc thôn Long Hồ, thành phố Vĩnh Long ngày nay), sát bờ sông Tiền, chiến thuyền dễ dàng tiến thoái hơn. Từ đây dinh Long Hồ có Đông Khẩu đạo án ngữ làm tiền đồn thứ hai sau Tân Châu đạo và đồn Châu Đốc bảo vệ. Để khai thác vùng tân cương, đồng thời để xác định biên giới rõ rệt giữa hai nước, mặc dù có sự can ngăn của quan lớn Sen Nguyễn Văn Nhơn, năm 1817, vua Gia Long vẫn lệnh cho Thoại ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại đào kinh núi Sập (sau gọi là Thoại Hà). Hai năm sau (1819), lại cho đào kênh Vĩnh Tế, kéo dài 5 năm mới xong.
Đào hai con kênh này quả có tác dụng vô cùng quan trọng trong công cuộc mở mang kinh tế và giữ yên bờ cõi. Nên chỉ hơn 10 năm sau, đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832), vùng đất mới này thành được hai phủ:
- Tuy Biên gồm 2 huyện Tây Xuyên, Phong Phú.
- Tân Thành có 2 huyện là Vĩnh An và Đông Xuyên.
Đây là cương vực ban đầu của tỉnh An Giang sau này. Đến năm 1835, lấn đất Ba Thắc lập thêm phủ Ba Xuyên, cai quản 3 huyện Phong Nhiêu, Phong Thạnh và Vĩnh Định. Đến năm l836, chia ra thành 2 tỉnh Vĩnh Long và An Giang. Lúc này Tân Châu đạo thuộc huyện Đông Xuyên và Đông Khẩu đạo thuộc huyện Vĩnh An, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang.
Tiếp theo năm 1839, lập thêm huyện An Xuyên ở phủ Tân Thành, năm 1842 lấy phủ Tịnh Biên và huyện Hà Dương của Hà Tiên sáp nhập vào. Đến năm 1844, lập thêm huyện Hà Âm. Năm 1850, giải thể phủ Tịnh Biên cùng huyện Hà Âm, lấy đất này nhập vào huyện Hà Dương(1).
Như vậy đến khi Tự Đức lên ngôi, tức là gần tròn 100 năm sau khi thuộc chủ quyền người Việt, vùng Tầm Phong Long được khai mở với tiến độ khá nhanh, thành lập 274 xã thôn, phường, bang, được quy vào 3 phủ với 10 huyện, nằm trong địa phận tỉnh An Giang, tỉnh thành đặt tại Châu Đốc:
- Phủ Tuy Biên, có 4 huyện: Tây Xuyên gồm 3 tổng với 38 xã, thôn, phố bang; Phong Phú gồm ba tổng với 31 thôn; Hà Dương (tức Lình Quỳnh) có 4 tổng với 40 thôn, phố phường; Hà Âm (tức Giang Thành) gồm 2 tổng, 40 xã thôn.
- Phủ Tân Thành có 3 huyện: Vĩnh An gồm 4 tổng với 36 xã, thôn, phố, bang, huyện lỵ đóng tại thôn Vĩnh Phước (Sa Đéc), An Xuyên gồm 3 tổng với 25 xã thôn, huyện lỵ đặt tại thôn Tân Hựu; Đông Xuyên gồm 4 tổng với 33 xã thôn, huyện lỵ đóng ở thôn Long Sơn.
- Phủ Ba Xuyên có hai huyện: Phong Nhiêu gồm 3 tổng với 17 xã thôn, huyện lỵ tại thôn An Khánh; Vĩnh Định gồm 4 tổng với 19 xã thôn, huyện lỵ tại thôn Đại Hữu.
- Năm 1867, Pháp chiếm An Giang, chia vùng này ra 5 hạt (rồi đổi hạt thành tỉnh) Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng và Sa Đéc...
- Ngày nay thuộc địa phận các: tỉnh An Giang, TP. Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng và các huyện nam sông Tiền của tỉnh Đồng Tháp.
- Vùng đất Đông Khẩu đạo gồm: các huyện Châu thành, thị xã Sa Đéc huyện Lai Vung và huyện Lấp Vò của tỉnh Đồng Tháp ngày nay. Trụ sở đồn trú tại Sa Đéc (thôn Vĩnh Phước), được lưu dân người Việt, người Hoa khai thác từ lâu, trong đó có nhiều thôn đạt diện tích khai thác thuộc loại lớn ở Nam bộ, như Tân Hưu, Tân Long, Long Hậu, Tân Lộc, Vĩnh Phước... Dân cư tập trung ngày một đông, nhiều tụ điểm cư dân hình thành về phía sông Tiền; ngoài Sa Đéc: Nha Mân(2), Cái Tàu Hạ(3), Tòng Sơn, Cái Tàu Thượng, về phía sông Hậu có Cường Oai (Lai Vung), Cường Thành (Lấp Vò)...
Người Hoa đến đây đa phần là người Phước Tiến giỏi buôn bán hơn làm ruộng, nên chỉ có thiểu số làm nghề nông chung với người Việt hai bên bờ rạch Nha Mân. Điều này được Đại Nam nhất thống chí Lục tỉnh Nam Việt chép: "Sông Nha Mân ở phía bắc huyện An Xuyên ở bờ nam sông Tiền, chảy qua hướng nam rồi chuyển lên hướng tây chẻ ra các ngã: Tam Sao/Ba Miếu, Chàng Trà/Trà Kiệt, Cổ Đồ Bà/Cha Và, Cam Phù Ly, rồi đến Bồn Giang/Cái Vồn chảy ra sông Hậu. Dọc theo hai bờ sông có nhiều ruộng vườn của người Tàu (4) mới khai phá .
Chợ Nha Mân hay rộng hơn là vùng Tân Hựu là trung tâm của vùng tập trung dân cư khá đông (Việt, Hoa, Khmer), vì vị trí nằm giữa Long Hồ và Sa Đéc, lại thêm thổ nhưỡng rất đặc biệt, nhất là nước sông Nha Mân rất ít độ phèn so với toàn vùng, rất thuận lợi cho phát triển nghề nông, làm vườn. Câu: "Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh, gái nào bảnh bằng gái Nha Mân” nhằm ngợi ca sắc đẹp người con gái Nha Mân nhất là nước da trắng. Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), huyện Vĩnh An tách ra làm hai thành lập huyện mới mang tên An Xuyên, trị sở của huyện đóng tại thôn Tân Hựu(5). Chung quanh dinh thự tại huyện lỵ tập trung nhiều dân cư buôn bán ngày một sung túc, được dân gian quen gọi là chợ Dinh, sự sung túc của chợ được ca ngợi qua mấy câu:
Đố anh con rít mấy chưn,
Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mấy người;
Chợ Dinh bán áo con trai,
Chợ Trong bán chỉ, chợ Ngoài bán kim...(6)
Trong cuộc nội chiến Tây Sơn - Nguyễn Ánh (1777-1802), sau bao nhiêu lần thảm bại trước lực lượng bách chiến bách thẳng của Tây Sơn, năm 1788, Nguyễn Ánh về lập căn cứ ở Tân Long (Long Hưng), kề cận Sa Đéc. Lợi dụng chính quyền cơ sở của Đông định vương Nguyễn Lữ (Tây Sơn) trên địa bàn này quá non yếu, chưa thực hiện được công trình kinh tế - xã hội nào nhằm cải thiện, phục vụ đời sống cho nhân dân địa phương. Nguyễn Ánh triệt để khai thác lợi thế về vị trí và vai trò của con người và vùng đất Đông Khẩu đạo. Biến nơi này thành trung tâm thu hút nhiều quan văn, võ tướng, đại điền chủ trung thành với quan niệm tôn phò "chính thống”. Thế lực này đã góp phần giúp Nguyễn Ánh đánh bật Tân Sơn ra khỏi Nam bộ. Cuộc nội chiến vô hình chung biến vùng Đông Khẩu đạo thành nơi tập trung một số môn đồ Nho học, ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi Nho học vốn chưa phổ biến sâu rộng. Điều này tác động không nhỏ đến quá trình hình thành bản sắc văn hóa địa phương.
Đạo Tân Châu gồm phần đất phía bắc sông Tiền, của các huyện Chợ Mới, Phú Tân, Phú Châu và Tân Châu của tỉnh An Giang ngày nay, trị sở lúc đầu đóng trên cù lao Gieng, sau dời về thôn Long Sơn, trên cù lao Cái Vừng. Đất Tân Châu như những chiếc chiến hạm khổng lồ, nằm án ngữ trên dòng sông Cửu Long, ngăn chặn sự xâm nhập từ hướng Chân Lạp.
Để có phản ứng nhanh và hiệu quả trong việc bảo vệ biên cương, Nguyễn Cư Trinh lấy Dinh châu làm trị sở của Tân Châu đạo(7). Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép rõ: "Dinh châu, tục gọi là cù lao Gieng ở thượng lưu sông Tiền, cách trấn về phía tây 117 dặm. Trước kia là đất thuộc đạo Tân Châu. Ở đây có dân cư của 4 thôn: Toàn Đức, Mỹ Hưng, Toàn Đức Đông, Phú Hưng. Phía tây có cù lao nhỏ cư dân của các thôn: Tân Phước, Phú An và Tân Tịch (tức cù lao Trâu, còn gọi là Ngưu châu). Phía nam có cù lao nhỏ cư dân của thôn Tân Thới”.
Tại đây có xây dựng một đồn lớn giữa hai sông làm trung tâm kiêm quản luôn cả hai thủ Chiến Sai và thủ Hùng Ngự. Do đồn Tân Châu vừa trú đóng nơi địa đầu hiểm yếu vừa cai quản hai thủ khác, nên Tân Châu không thuộc quyền cai quản của trấn địa phương là Long Hồ, rồi sau đó là Vĩnh Thanh mà trực tiếp thuộc quyền điều động của Gia Định phủ rồi Gia Định thành tức là chính quyền trung ương của Nguyễn Ánh. Điều đó cho thấy vai trò, vị thế của Tân Châu đạo trong việc bảo vệ tuyến biên giới tây nam. Trên tuyến này từ Tây Ninh đến Hà Tiên, dưới thời chúa Nguyễn và đầu nhà Nguyễn, có bố trí các đồn thủ biên phòng, như Quang Hóa (Tây Ninh), Tuyên Oai, Thông Bình, Hùng Ngự (Định Tường), Tân Châu, Chiến Sai, Châu Đốc (An Giang)... Trong đó, đồn Tân Châu nằm ở vị trí đặc biệt nhất(8).
Năm 1795, để lấy lòng người: Chân Lạp với mục đích giữ yên vùng biên giới tây nam, để tập trung vào việc chuẩn bị binh lực tiến công Tây Sơn ở miền Trung, chính quyền Gia Định trao trả 68 sở thủy lợi ở vùng biên giới (trên sông Sở Thượng và Sở Hạ) cho chính quyền Chân Lạp. Điều này càng làm cho trách nhiệm giữ yên biên giới của Tân Châu đạo nặng nề hơn, vì trước đây có các sở này làm vùng đệm, nay đồn Tân Châu phải tiếp cận sát sườn với Chân Lạp.
Đến năm Gia Long thứ 17 (1818), tình hình trong nước biên giới ổn định, triều đình ra lệnh dời đạo thủ Tân Châu đến cù lao Long Sơn, dời đạo thủ Chiến Sai đến cửa trên sông Hiệp Ân (sông Hồng Ngự ngày nay), dời đạo thủ Hùng Ngự đến cửa dưới sông Hiệp Ân(9).
Đạo Châu Đốc với đất đai trải dài dọc theo biên giới Chân Lạp, bên cạnh công lao khai hoang mở cõi các thế hệ trước còn đổ nhiều xương máu để giữ yên cương vực trong suốt một thời gian dài đương đầu chống lại âm mưu đông tiến của người Xiêm, thường tận dụng mọi cơ hội để ra tay.
Đến tháng 9 năm Tân Sửu (1841), lợi dụng khi quân ta do Trương Minh Giảng thống lĩnh, rời Chân Lạp về nước, người Xiêm dựng lên một hoàng tôn (cho là con hoàng tử Cảnh, cháu nội đích tôn của vua Gia Long, người chính thức được lên ngôi sau khi Gia Long băng hà, chứ không phải hoàng tử là Đảm, tức Minh Mạng), tập hợp một số người Lào, Chân Lạp, Việt... về nước giành lại ngôi báu, dưới sự bảo trợ của họ.
Để thực hiện âm mưu này, tháng Giêng năm Nhâm Dần (1842) Phi Nhả Chất Tri sai tướng ô Thiệt Vương cho thủy quân tấn công Phú Quốc thăm dò, trên bộ, cho khoảng 5.000 quân hộ tống hoàng tôn đến Sách Sô (thuộc hạt Nam Ninh, trấn Tây Thành) và 10 thuyền đến đồn Cần Thăng thám sát kích động người Chân Lạp nổi dậy ở phủ Ba Xuyên, Sóc Trăng, Thất Sơn... qua tháng Hai, chúng xua đại quân tràn qua kinh Vĩnh Tế kết hợp với quân nổi dậy đánh phá các đồn Thất Sơn, Tân Châu, An Lạc, Hồng Ngự, Thông Bình... cướp bóc, bắn giết... gây thảm cảnh tang tóc khắp tuyến biên giới, nhất là ở Hà Tiên. Quân triều huy động quân binh cả 6 tỉnh Nam kỳ do tổng đốc Định Biên Lê Văn Đức làm tổng thống quân vụ, thự tổng đốc Long Tường Nguyễn Tri Phương, tổng đốc An Hà Phạm Văn Điển cùng đề đốc An Giang chia đường cùng nhân dân địa phương ra sức đương cự với giặc trên một tuyến dài từ Tiền Giang qua Hậu Giang, Thất Sơn đến tận Hà Tiên. Đến tháng Năm, ta tăng cường quân số, chia làm năm mũi tiến đánh, phá tan các chiến lũy của giặc, có đến cả ngàn ra hàng trong đó phần lớn là người Hoa và Chân Lạp. Thừa thắng ta truy đuổi giặc đến tận Phnom Pênh.
Nếu trong buổi đầu Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh là người quy hoạch đất đai, thiết chế hành chánh, xây dựng đồn bảo, điều động binh lính bảo đảm an ninh vùng đất mới, thì Thoại ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại là người đã từng trực tiếp đốc suất việc đào kinh Vĩnh Tế, mở ruộng lập vườn, đắp nhiều đường, bắc cầu để phục vụ yêu cầu giao thông trong xứ và với nước láng giềng Chân Lạp, sau đó Doãn Uẩn, tổng đốc An Hà, ngoài đại công dẹp loạn, ông còn đặc biệt quan tâm ổn định đời sống nhân dân, chăm lo cả về sinh hoạt tinh thần, tín ngưỡng, tạo niềm tin, chỗ dựa tinh thần với ước vọng an lành cho cuộc vùng biên giới Tây nam Tổ quốc. Chùa Tây An được Doãn Uẩn chủ trương xây dựng trong niềm ước vọng đó.
Nhưng có một người không phải là quan chức nhà nước, không hưởng bổng lộc của triều đình, bị giam lỏng trong chùa Tân An, lại góp phần không nhỏ trong công cuộc "an tây”, từ quy dân khai hoang lập ấp đến khai sáng ra một mối đạo, mà hàng trăm năm sau có tới hàng triệu tín đồ khắp đồng bằng sông Cửu Long. Vị đó là Phật thầy Tân An Đoàn Minh Huyên, người sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.
---------------------------------------
Chú thích:
(1) Quốc sử quán (1972) Đại Nam nhất thống chí, Lục tỉnh Nam Việt, Phủ quốc Vụ khanh đặc trách văn hóa (Sài Gòn), tr.9.
(2) Nha Mân: Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký là do tiếng Oknà Mẳn. Tuy nhiên cũng có người cho rằng là do Oknà Muối vì nó gần với âm "nha mân” hơn. Oknà hay Oknha là một quan chức của người Khmer/ Chân Lạp có quyền cai quản một trấn, một hạt.
(3) Theo nhà Nam bộ học Sơn Nam, Cái Tàu là địa danh chỉ nơi có nhiều người Tàu cư ngụ. Cái Tàu Hạ để phân biệt với Cái Tàu Thượng ở Hội An (nơi giáp ranh giữa hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp. Ở Nam bộ, ngoài hai địa danh này còn có địa danh Cái Tàu và Ngã ba Tàu ở Cà Mau. Nơi đây cũng là nơi có nhiều người Tàu cư ngụ, nhưng cũng là nơi bọn cướp biển Tàu Ô thường lẩn trốn và tại ngã ba này có một doi đất hình mũi tàu nhô ra. (Xem thêm Tìm hiểu địa danh Nam bộ của Nguyễn Hữu Hiếu, Nxb. KHXH, 2005 ). Trong Bản dịch Đại Nam nhất thống chí, tập 5 của Viện sử học, Nxb Thuận Hóa, 2006, ở trang 201 và 204, dịch tên hai con rạch Cái Tàu Hạ là kênh Hạ Thuyền và rạch Cái Tàu Thượng là kênh Thượng Thuyền nghe rất xa lạ, không biết hai con rạch này trên thực địa nằm ở đâu!
(4) Quốc sử quán, Đại Nam nhất thống chí, Lục tỉnh Nam Việt, tập III, PQVKĐTVH, 1973, tr.20, 24.
(5) Quốc sử quán: Đại Nam nhất thống chí, Lục tỉnh Nam Việt, tập Hạ, PQVKĐTVH, 1973, tr.20, 24.
(6) Nhưng không biết ám chỉ chợ Dinh nào, vì có một số chợ ở nơi khác cũng mang tên chợ Dinh.
(7) Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, tập Trung, tr.16.
(8) Quốc sử quán: Đại Nam thực lục T.II, tr.126-136.
(9) Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, Nxb Đồng Nai, 2005, tr.219-220.
(10) Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, Sđd, tr.9.
(11) Dẫn lại Thawi Swangpanyankoon, trong Xưa&Nay, số 2003 (131) .
Nguồn: Xưa & Nay, số 364/2010
5. CÔNG CUỘC KHAI PHÁ VÙNG ĐẤT TẦM PHONG LONG (TỪ GIỮA THẾ KỶ XVIII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX)
* TS. Trần Thị Mai
(Trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc gia TPHCM)
1. MẢNH ĐẤT – CON NGƯỜI:
Tầm Phong Long trước thế kỷ XVIII là vùng đất rộng lớn từ biên giới Việt- Campuchia, chạy dọc theo sông Tiền và sông Hậu xuống tới Trà Vang (Trà Vinh) và Ba Thắc (Sóc Trăng và Bạc Liêu). Bề ngang từ Hà Tiên sang đến đất Tầm Bôn (Tân An) và từ Ba Thắc đến Tầm Bào (Vĩnh Long), Trấn Giang (Cần Thơ).
Tầm Phong Long là nơi có thế đất hiểm yếu, núi cao, sông dài, nhiều rừng rậm, dân cư thưa thớt. Trong suốt thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII, các thế lực chống đối ở Chân Lạp thường lợi dụng thế hiểm yếu này để chống lại triều đình và hoạt động thổ phỉ. Các thế lực phong kiến Chân Lạp khi tranh giành quyền lực lẫn nhau cũng thường dựa vào địa thế này để giữ gìn lực lượng.
Năm 1757, triều đình Chân Lạp đại loạn, để giữ được quyền lực chính trị, Nặc Ông Tôn dựa vào thế lực chúa Nguyễn, được chúa Nguyễn giúp lên ngôi và đã dâng chúa Thế Tông ( Nguyễn Phúc Khoát) đất Tầm Phong Long. Cai cơ Nguyễn Cư Trinh vâng lệnh Chúa tiếp nhận đất này và “ đặt đạo Đông Khẩu ở xứ Sa Đéc, đặt đạo Tân Châu ở xứ cù lao Diến trên Tiền Giang, đặt đạo Châu Đốc ở xứ Châu Đốc trên Hậu Giang, lấy quân dinh Long Hồ để trấn áp, chẹn giữ những nơi yếu hại ở địa đầu.”
Việc Nặc Ông Tôn cắt đất Tầm Phong Long không chỉ được ghi trong các bộ sử Việt Nam mà cũng được chép trong chính sử của Campuchia. Sách Đại Nam nhất thống chí mục tỉnh An Giang viết An Giang “xưa là đất Tầm Phong Long, năm Đinh Sửu thứ 19 (1757) đời Thế Tông, quốc vương Chân Lạp Nặc Tôn dâng đất này, đặt làm đạo Châu Đốc, vì đất ấy có nhiều chỗ bỏ hoang, đầu đời Gia Long mộ dân đến ở, gọi là Châu Đốc Tân Cương”.
Năm Kỷ Dậu 1789, Nguyễn Ánh trở về Long Xuyên, cho xâythủ Đông Xuyên, (là một đồn nhỏ tại vàm sông Tam Khê, sau đổi thành sông Đông Xuyên, nay là sông Long Xuyên) làm tiền đồn chống Tây Sơn và để giữ vùng đất đứng chân buổi đầu của lực lượng họ Nguyễn.
Năm 1808, sáu năm sau khi thống nhất thiên hạ, Gia Long tiến hành sắp xếp lại các đơn vị hành chính ở Gia Định. Nhà vua cho lập Châu Đốc Tân cương, đặt chức quản đạo để cai trị, thuộc Long Hồ dinh.
Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), trong cuộc cải cách quy mô lớn về hành chính, triều đình Huế lấy đất Tầm Phong Long, (cùng với huyện Vĩnh An, tỉnh Vĩnh Long) đặt làm phủ Tuy Biên và Tân Thành; lập tỉnh An Giang kiêm quản bốn huyện là Tây Xuyên, Phong Phú, Đông Xuyên,Vĩnh An. Từ đây tỉnh An Giang, một trong 6 tỉnh của Nam Kỳ, được thành lập, gồm có 2 phủ, 4 huyện. Nhà Nguyễn đặt chức An Hà Tổng đốc, thống lãnh hai tỉnh An Giang và Hà Tiên,lại đặt hai ty Bố chánh, án sát quản việc. Lỵ sở của tỉnh đặt tại Châu Đốc.
Không có một tài liệu nào cho biết về dân cư của vùng đất Tầm Phong Long, sau là An Giang khi ấy. Tuy nhiên, theo những ghi chép tản mạn, có thể phục dựng chủ nhân của vùng đất này từ xa xưa là những nhóm cư dân Môn Khmer cổ và Nam Đảo – chủ nhân của đế chế Phù Nam hùng thịnh một thời. Dưới thời cai quản của Quốc vương Chân Lạp, một bộ phận người Khmer và người Chăm tiếp tục tụ cư, khai thác những nguồn lợi của sông, rừng và canh tác trên những cù lao màu mỡ.
Sau khi sáp nhập vào lãnh thổ của chúa Nguyễn, một bộ phận đông đảo cư dân người Việt và người Hoa đã được chiêu mộ để khai thác vùng đất mới, làm tăng thêm tính đa dạng cộng đồng sắc tộc trên vùng đất này.
Đặc biệt, kể từ khi Thoại Ngọc Hầu nhận nhiệm vụ trấn giữ vùng đất này (1817), với nhãn quan chính trị sắc bén, ông không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một viên tướng vùng biên ải, mà còn ra sức mộ dân lập làng, cho đào những con kênh lớn vừa tăng cường an ninh quốc phòng, vừa tạo điều kiện cho dân an cư, lạc nghiệp, phát triển kinh tế. Dân cư từ các vùng khác lũ lượt kéo đến, khiến cả một dọc biên giới từ Châu Đốc đến Hà Tiên, người Việt, người Khmer, người Hoa trở nên đông đúc, hòa thuận.
Sách Đại Nam nhất thống chí có cho biết sự hiện diện của những người Việt đến sinh sống, hòa nhập với người Khmer ở vùng Bảy núi vào mấy thế kỷ trước. Họ đến để khai thác nguồn lợi thiên nhiên, lập vườn cây ăn trái, trồng hoa màu, tìm dược thảo, làm ruộng ở chân núi, bắt cá vào mùa hạn ở các ao đìa...
Núi Chân Sum người Kinh, người Trung Quốc, người Cao Mên, làm nhà ở liền nhau kết thôn họp chợ, để đón lợi chằm sông rừng núi.
2. QUÁ TRÌNH KHAI PHÁ:
Từ sau khi có được đất Tầm Phong Long, Nguyễn Cư Trinh tập trung binh lính và mộ dân đến khai thác các vùng Châu Đốc, Hồng Ngự, Tân Châu, Sa Đéc.
Những tài liệu của nhà Nguyễn đều cho biết Nguyễn Cư Trinh rất giàu sáng kiến: Ông lo thắt chặt ngoại giao với Chân Lạp; mộ dân lập ấp; đoàn kết các cộng đồng cư dân trong vùng; tổ chức an ninh trờn vùng đất mới; đảm bảo sự thông thương buôn bán trên vùng rạch hồ... . Ông còn bày ra lệ bắt thuyền các Hạt, bất luận lớn nhỏ, trước mũi phải khắc tên họ, quê quán, chủ thuyền và ghi bộ quan sở tại để tiện tra xét.
Những nỗ lực của Nguyễn Cư Trinh đã góp phần quan trọng vào công cuộc khẩn hoang, lập làng, tạo tiền đề quyết định cho sự ổn định của miền biên viễn giai đoạn tiếp sau đó.
Từ năm 1790, công cuộc khai phá vùng đất Tầm Phong Long được đẩy mạnh thêm một bước kể từ khi Nguyễn Ánh cho đặt chức Điền tuấn quan, khuyến khích khẩn hoang, lập làng, phát triển kinh tế nông nghiệp. Nguyễn Ánh cũng cho lập thêm Châu Giang thổ bảo (đồn Châu Giang), tiếp đó lại lập thêm các đồn lũy: Đồn Hồi Oa, thủ Đông Xuyên, thủ Cường Uy, để giữ gìn an ninh trật tự. Nhờ vậy, dân chúng tự động vào khai phá ở hai đạo Đông khẩu và Châu Đốc ngày càng đông.
Cũng trong năm 1790, Nguyễn Ánh cho áp dụng chế độ đồn điền ở Gia Định. Mục đích là dùng quân đội vào việc khẩn hoang, vừa gia tăng hậu cần, vừa có thể giữ đất lâu dài. Theo đó, điền tốt, dân nghèo bị bắt buộc hoặc chiêu mộ đi khẩn hoang, nhắm vào những vùng đất mới như Châu Đốc, Tân Châu.. .. chính quyền ban hành những quy định rất dễ dãi đối với người đi khẩn hoang, như: Cấp phát ruộng đất, trâu bò, nông cụ; hay như Trịnh Hoài Đức cho biết trong Gia Định thành thông chí về thuế lệ dễ dãi áp dụng cho đất Đồng Nai – Gia Định: “… nghe theo ý muốn của dân, không có bó buộc gì, cốt cho mở đất vỡ hoang thành ruộng lập xã mà thôi, lại có khi đất bùn lầy mà trưng làm ruộng nộp thuế, ruộng ở núi và gò giồng mà trưng làm ruộng cỏ, như thế nhiều lắm. Còn như sào mẫu khoảnh thửa, thì tùy theo miệng nói mà biên vào sổ, cũng không hạ thước đi khám và bổ chia tốt xấu theo thực trạng về thuế lệ nhiều ít, cái hộc đong lớn nhỏ, thì lại tùy theo lệ cũ, theo thế mà làm, rất không đều nhau. Đến đây mới tham chước mà đặt tiêu chuẩn công bằng, nhưng so sánh với các dinh trấn ở phía bắc thì Gia Định pháp chế rộng mà thuế nhẹ” Chúng ta đều biết rằng, Trịnh Hoài Đức vốn được cử làm Điền tuấn quan, trông coi đốc thúc việc khuyến nông ở Gia Định. Do vậy, những ghi chép của ông như trên là có cơ sở thuyết phục.
Thời Gia Long, hệ thống chính quyền thống nhất trên toàn quốc. Vấn đề nội trị, ngoại giao đặt ra những yêu cầu mới. Để giải quyết những khó khăn về đối nội, đối ngoại đặt ra lúc bấy giờ ở đất Gia Định, chính quyền Gia Long chủ trương dùng biện pháp khẩn hoang như một giải pháp trọng yếu giúp an dân và ổn định biên cương. Vùng đất phía tây nam, bao gồm đất Hà Tiên và Tầm Phong Long xưa được chính quyền đặc biệt coi trọng trong chiến lược khai hoang và an ninh quốc phòng.
Năm 1817, triều đình cử Nguyễn Văn Thoại (Thụy – Thoại Ngọc Hầu) làm trấn thủ Vĩnh Thanh.
Nhận rõ tầm quan trọng của vùng Châu Đốc Tân Cương về kinh tế và quốc phòng, lại nhận thấy việc giao thông thương mại ở vùng đất này gặp nhiều khó khăn, mọi trao đổi hàng hóa thời bấy giờ giữa miền duyên hải Hà Tiên, Rạch Giá (nay đều thuộc tỉnh Kiên Giang) với Châu Đốc đều phải đi vòng đường biển thật bất tiện, Nguyễn Văn Thoại đã tâu trình xin đào vét sông Ba Lạch vốn có tầm chiến lược về quân sự, nhưng “ngòi nhỏ bùn lầy, cỏ cây đầy lấp, thuyền bè không qua lại được”. Tháng 11 năm 1817, Gia Long sai Thoại Ngọc Hầu “ đem đinh phu Kinh và Thổ 1.500 người, nhà nước cấp tiền gạo cho, bắt chém chặt khơi thông, bề ngang 20 tầm, bề sâu 4 thước, một tháng làm xong bèn thông với đường sông Kiên Giang, dân Kinh, dân Di đều được lợi cả. Vua cho tên sông là Thoại Hà để tỏ lòng biết công lao của kẻ bề tôi”.
Kênh Thoại Hà dài gần 30 km, rộng hơn 5 m. Khi hoàn thành kênh, nhờ nguồn nước ngọt dồi dào, việc đi lại, giao thương thuận lợi nên vùng Châu Đốc tân Cương trở nên có sức thu hút đối với dân nghèo khẩn hoang. Kênh Thoại Hà còn đóng vai trò quan trọng trong việc tháo một phần nước lụt của sông Hậu ra biển. Với ý nghĩa này, kênh Thoại Hà (còn có tên kênh Tam Khê, kênh Đông Xuyên hay Đông Xuyên Cảng đạo) nối liền Thoại Sơn (An Giang) với Rạch Giá (Kiên Giang) được xem là công trình thoát lũ đầu tiên ở đồng bằng sông Cửu Long.
Công cuộc đào kênh Thoại Hà của Nguyễn Văn Thoại còn được ghi rõ trên Bia Thoại Sơn:
Mùa thu năm Đinh Sửu (1817), lão thần kính, được vua trao ấn phù giữ trấn Vĩnh Thanh, mùa xuân năm Mậu Dần (1818) vâng chỉ đốc suất đào kênh (kinh) Đông Xuyên.
Từ ngày thụ mệnh vua, sớm khuya kính sợ, đốn cây rậm, bới bùn lầy, đào kênh dài đến 12.410 tầm, trải qua một tháng thì xong việc, nghiễm nhiên trở thành ra một sông to, luôn luôn ghe thuyền qua lại tiện lợi.
Cùng lúc với việc đào kênh, Thoại Ngọc Hầu chú trọng lập làng, làm đường. Nhờ đó mà nối liền Long Xuyên với vịnh Rạch Giá (Kiên Giang).
Năm 1820, Nguyễn Văn Thoại lại cho đào con kênh lớn nối liền Châu Đốc với Hà Tiên. Đây là một công trình vĩ đại do ông thiết kế, huy động đến 80.000 người và phải làm gần 5 năm (1820 - 1824) mới hoàn thành. Kênh này còn là đường ranh giới giữa Việt Nam và Chân Lạp.
Trước đó, vào năm 1816, khi thành Châu Đốc được đắp xong, Trấn thủ Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường tâu lên, vua Gia Long xem địa đồ miền đất này liền truyền: Xứ này nếu mở đường thủy thông với Hà Tiên, thì hai đàng nông thương đều lợi. Trong tương lai, dân đến ở làng đông, đất mở càng rộng, sẽ thành một trấn to vậy.Biết thế, nhưng nhà vua chưa ra lệnh đào ngay vì ngại đây là vùng đất mới mở, nhân dân còn cơ cực, nếu bắt làm xâu thêm khổ sở, lòng dân sẽ không yên. Mãi đến tháng 9 năm Kỷ Mão (1819), vua Gia Long mới cho lệnh đào kênh, và công việc được bắt đầu khởi công vào tháng chạp năm ấy, trải qua mấy giai đoạn trong suốt 5 năm, đến tháng 5 năm Nhâm Thân (1824), dưới triều vua Minh Mạng thì đào xong.
Trước khi khởi đào, vua Gia Long có lời dụ cho dân chúng, vừa động viên vừa chỉ rõ sự lợi ích:
"Công trình đào sông này rất khó khăn, nhưng kế giữ nước và cách biên phòng quan hệ chẳng nhỏ, các ngươi ngày nay tuy là chịu khó, nhưng mà lợi ích cho muôn đời về sau. Vậy dân chúng cần bảo nhau cho biết, đừng nên sợ nhọc"
Năm 1822, vua Minh Mạng lại có chỉ dụ tương tự:
Đường sông Vĩnh Tế liền với Tân Cương, xe thuyền qua lại đều là tiện lợi. Đức Hoàng Khảo Thế Tổ Cao Hoàng Đế ta (ý nói vua Gia Long) mưu sâu, tính xa, chú ý việc ngoài biên. Công việc đào kênh mới bắt đầu chưa xong. Nay ta theo chí tiên hoàng, cố nghĩ cách khó nhọc một lần mà được thong thả lâu dài về sau.
Kênh đào song song với đường biên giới Việt Nam - Campuchia, bắt đầu từ bờ Tây sông Châu Đốc thẳng nối giáp với sông Giang Thành, thuộc thị xã Hà Tiên tỉnh Kiên Giang Dưới sự chỉ huy của Trấn thủ Vĩnh Thanh Thoại Ngọc Hầu cùng với 2 ông là Chưởng cơ Nguyễn Văn Tuyên (1763-1831), Điều Bát Nguyễn Văn Tồn (1763 - 1820). Sau có thêm Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt (1764 - 1832), Phó Tổng trấn thành Gia Định Trần Văn Năng, Thống chế Trần Công Lại góp sức.
Ngay trong đợt đầu đã có hơn 10.000 nhân công bao gồm: 5.000 quân dân trong vùng, 500 lính thuộc đồn Uy Viễn, 5.000 dân là người Khmer. Kênh phải qua nhiều đoạn đất cứng khó đào, lại có khi gặp phải thời tiết, khí hậu bất lợi nên có lúc công việc phải gián đoạn hoặc chậm chạp.
Biết vậy, ngay khi lên ngôi (1820), vua Minh Mạng lập tức ra lệnh cho Tổng trấn thành Gia định là Lê Văn Duyệt huy động thêm nhiều dân binh ở các đồn Uy Viễn, Vĩnh Thanh, Định Tường hơn 39.000 người, trong số đó binh và dân người Khmer 16.000 người, chia làm 3 phiên, đào đắp bằng tay với dụng cụ thô sơ hàng triệu mét khối đất đá... và có khi phải thay nhau thi công suốt ngày đêm...
Năm 1824, kênh hoàn thành với chiều dài 205 dặm rưỡi (91km), rộng 7 trượng 5 thước (25m), sâu 6 thước(3m). Ước tính, trong 5 năm, các quan phụ trách đã phải huy động đến hơn 80.000 dân binh. Kênh đào xong đã tưới tiêu cho hàng vạn mẫu ruộng miền Hậu Giang và việc đi lại bằng đường thủy vô cùng thuận lợi. Sách "Đại Nam nhất thống chí" viết rằng : "... Từ ấy, đường sông lưu thông, từ kế hoạch trong nước đến phòng giữ ngoài biên cho tới nhân dân buôn bán đều được tiện lợi vô cùng". Đến bây giờ, kênh vẫn còn giá trị lớn về các mặt trị thuỷ, giao thông, thương mại, biên phòng, thể hiện sức lao động sáng tạo xây dựng đất nước của nhân dân Việt và chính sách coi trọng thủy lợi để phát triển nông nghiệp của triều Nguyễn.
Vua Minh Mạng rất hài lòng trước sự thành công của công trình thủy lợi này nên sắc ban cho ngọn núi nhìn xuống dòng kênh cái tên Thoại Sơn (tên dân gian là núi Sập) và cho con kênh mang tên là kênh Vĩnh Tế (tên vợ ông, bà Châu Thị Vĩnh Tế). Triều Nguyễn còn nghĩ đến công lao của Nguyễn Văn Thoại nên lấy tên ông đặt cho tên làng, tên núi, tên sông: Thoại Sơn, Thoại Hà, Thoại Giang.
Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà vua cho đúc Cửu đỉnh để làm quốc bảo và tượng trưng cho sự miên viễn của hoàng gia, hình kênh Vĩnh Tế được chạm khắc vào Cao đỉnh.
3. VẤN ĐỀ XÁC LẬP CHỦ QUYỀN VÀ ĐẢM BẢO AN NINH QUỐC PHÒNG
Thật ra, từ đầu thế kỷ XVIII, vùng khai phá dần mở rộng vào sâu nội địa theo các kênh rạch và theo tiến trình xác lập chủ quyền của các chúa Nguyễn. Hệ thống chính quyền lần lượt ra đời, các đồn lũy bảo vệ đất đai, dân cư của chúa nguyễn mọc lên; hệ thống kênh rạch được nạo vét, đào mới phục vụ cho việc trị an, quốc phòng; chính sách khuyến khích khẩn hoang, lập làng của chính quyền... là những đảm bảo chắc chắn để lưu dân người Việt ngày càng vững tâm tiến vào khai phá lập nghiệp. Từ đó, khu vực miền trung Nam bộ ( bao gồm vùng bắc sông Tiền và vùng nằm giữa sông Tiền và sông Hậu) về cơ bản đã được khai khẩn xong; vùng Hà Tiên với vai trò bảo hộ của chính quyền và khả năng tổ chức khai phá hiệu quả của dòng họ Mạc cũng đã cơ bản hoàn tất công cuộc tạo dựng và trở nên phát triển.
Đất Gia Định đến năm 1756 về cơ bản đã thành hình như trên bản đồ Nam bộ ngày nay. Tuy nhiên, một số vùng dọc theo giữa hai sông, sông Tiền và sông Hậu, và phía đông dọc theo hữu ngạn Hậu Giang là Tầm Phong Long, Tầm Bôn và Xuy Lạp, người Chân Lạp vẫn quản lý. Sự kiện 1757, vua Chân Lạp Preah Outey (Nặc Ông Tôn (1758-1775)) dâng đất Tầm Phong Long, Tầm Bôn và Xuy Lạp đã chính thức hoàn tất quá trình mở đất về phương Nam của các chúa Nguyễn, đánh dấu sự sáp nhập hoàn toàn đất Nam bộ vào lãnh thổ Đại Việt.
Ngay trong năm 1757, Nguyễn Cư Trinh xin dời dinh Long Hồ lên xứ Tầm Bào (Vĩnh Long), để tiện cho việc quản lý miền đất mới lấy được. Ông sai lập đạo hai bên sông Cửu Long gần biên giới: Tân Châu đạo (Cù Lao Giêng) ở Tiền Giang và Châu Đốc đạo ở Hậu Giang; lại lập thêm Đông Khẩu đạo, ở xứ Sa Đéc, để làm hậu thuẫn. Các đạo ấy dùng binh ở Long Hồ dinh để trấn áp, giữ mặt vịnh Xiêm La, phòng Xiêm làm hỗn. Nguyễn Cư Trinh còn phối hợp với Mạc Thiên Tứ đặt ra Kiên Giang đạo ở Rạch Giá và Long Xuyên đạo ở vùng Cà Mau, nhằm đẩy mạnh khai phá và đảm bảo an ninh quốc phòng.
Xác lập chủ quyền bằng đường biên giới, khu vực chịu ảnh hưởng chỉ là bước đầu, việc đưa dân tới sinh sống, biến vùng đất thành nơi cư trú, sinh sống, sản xuất mới là yếu tố quyết định chủ quyền đối với vùng đất đó. Vì thế với vai trò của Nguyễn Cư Trinh, của Nguyễn Văn Thoại cùng với những chủ trương, biện pháp đầy sáng tạo của các ông đối với đất Tầm Phong Long; với bàn tay và khối óc lao động cần cù, dũng cảm của các cộng đồng cư dân người Việt, người Hoa, người Khmer trong hơn một thế kỷ (từ giữa thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX) là những nhân tố vô cùng có ý nghĩa trong việc khẳng định vai trò cũng như chủ quyền của người Việt tại đây.
Nhận thức của vua Gia Long và vua Minh Mạng khi cho tiến hành đào kênh Vĩnh Tế đã phản ánh nhãn quan chính trị và quyết tâm sắt đá của nhà Nguyễn đối với vấn đề chủ quyền và an ninh trật tự ở vùng biên cương tây nam "Công trình đào sông này rất khó khăn, nhưng kế giữ nước và cách biên phòng quan hệ chẳng nhỏ, các ngươi ngày nay tuy là chịu khó, nhưng mà lợi ích cho muôn đời về sau. Vậy dân chúng cần bảo nhau cho biết, đừng nên sợ nhọc" .Đường sông Vĩnh Tế liền với Tân Cương, xe thuyền qua lại đều là tiện lợi. Đức Hoàng Khảo Thế Tổ Cao Hoàng Đế ta (ý nói vua Gia Long) mưu sâu, tính xa, chú ý việc ngoài biên. Công việc đào kênh mới bắt đầu chưa xong. Nay ta theo chí tiên hoàng, cố nghĩ cách khó nhọc một lần mà được thong thả lâu dài về sau.
Đất Tầm Phong Long từ khi sỏp nhập vào lãnh thổ Đại Việt đó hoàn tất quá trình xác lập lãnh thổ trên đất Đàng Trong của các chúa Nguyễn. Từ đây, bản đồ Đàng Trong của các chúa Nguyễn đó hoàn chỉnh và phân định rạch ròi với các quốc gia láng giềng. Công cuộc khai phá đất đai, phát triển hệ thống kênh rạch, ổn định hệ thống hành chính trên vùng đất mới từ năm 1757 đến giữa thế kỷ XIX của chính quyền và nhân dân đã khẳng định chắc chắn chủ quyền lãnh thổ của Đại Việt (Việt Nam sau này ).
-------------------------
Chú thích :
(1) Nguyễn Văn Hầu – Thoại Ngọc hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, nxb Trẻ, 2006.
(2) Trịnh Hoài Đức – Gia Định thành thông chí, Viện Sử học, nxb Giáo dục, 1998, tr. 80.
(3) Quốc sử quán nhà Nguyễn – ĐạiNam nhất thống chí, tập V.
(4) Trịnh Hoài Đức – Gia Định thành thông chí, Viện Sử học, nxb Giáo dục, tr. 50,51.
(5) Trịnh Hoài Đức – Gia Định thành thông chí, Viện Sử học, nxb Giáo dục, tr.80.
(6) Trịnh Hoài Đức – Gia Định thành thông chí, Viện Sử học, nxb Giáo dục, tr.59..
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét