Chủ Nhật, 10 tháng 6, 2012

Tư liệu về cuộc Nam tiến của Chúa Nguyễn, phần 1

Tư liệu về cuộc Nam tiến của Chúa Nguyễn
1. Tiến Trình Mở Cõi Về Phía Nam
GS.TS. Song Jung Nam
Trường Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc




I. MỞ ĐẦU
Việc mở rộng lãnh thổ của Việt Nam được tiến hành chủ yếu về phía Nam bởi hai nguyên nhân chính là dùng triết lý sức mạnh và do yếu tố địa chính học. Nguyên nhân thứ nhất cụ thể là sự hùng mạnh của Trung Quốc, nguyên nhân thứ hai là dãy Trường Sơn.
Với mục đích chính trị – kinh tế, khi tiến hành quá trình mở mang lãnh thổ và tăng cường sức mạnh của mình, Việt Nam đã không thể tiến lên phía Bắc vì có Trung Quốc mạnh hơn mình. Vô hình trung, Việt Nam không còn cách nào khác là phải chống lại quá trình mở mang lãnh thổ về phía Nam của Trung Quốc và kết quả là Việt Nam đã phải trải qua một quá trình lịch sử đấu tranh lâu dài.
Mặt khác, Việt Nam cũng đã mấy lần thử tiến về phía Tây là nước Lào với mục đích và nguyên nhân như đã nêu trên nhưng giữa hai nước có dãy núi dài hiểm trở nên không được như mong muốn. Kết quả là Việt Nam và Lào tiếp tục duy trì mối quan hệ hữu nghị truyền thống bất chấp quy luật lịch sử “giữa các nước láng giềng không có quan hệ tốt”.

Dù thế, trong lịch sử, quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Lào không hẳn đều tốt đẹp. Dưới triều đại Hậu Lê hay triều đại nhà Nguyễn, Việt Nam đã hợp nhất một phần lãnh thổ ở phía Đông Bắc Lào với vùng biên giới của mình. Tuy nhiên, mức độ và số lần căng thẳng về chính trị không nhiều và sâu sắc, đất chiếm lĩnh thì chưa được khai thác, dân số của Lào ít nên sau khi chiếm lĩnh được cũng không đủ lực lượng lao động tại chỗ để khai thác. Hơn nữa, có nhiều lý do nên không thu hút được dân nước mình khai thác vùng đất đó nên việc tiến sang Lào của Việt Nam không dễ dàng. Tương tự, triều Nguyễn đã lấy đất của Lào và nhập vào lãnh thổ của mình 6 trấn là Trấn Man, Trấn Biên, Trấn Ninh, Trấn Tĩnh, Trấn Định, Lạc Biên và rồi trả lại cho Lào khi Pháp tiến vào (2).
Vì khó tiến lên phía Tây Bắc nên Việt Nam tiến về phía Nam là một kết quả tất yếu. Ở đây, so với các nước ở phía Nam, Việt Nam chiếm ưu thế về sức mạnh, so với phía Tây Bắc thì không tồn tại trở ngại nào, sau khi chiếm lĩnh có thể khai thác mở rộng bằng lực lượng lao động phong phú tại chỗ. Không những thế, về mặt địa lý, phía Nam nối liền với đường biển rất thuận tiện nên dễ tiến hơn đường bộ. Việc chinh phục được Champa hiếu chiến là đỉnh cao của vị thế và sự phát triển của Việt Nam. 
Cũng như lịch sử trường kỳ của Việt Nam, việc mở rộng lãnh thổ mất thời gian dài. Trong thời gian đó, việc mở rộng lãnh thổ bắt đầu từ triều nhà Lý. Bài nghiên cứu này xem xét việc mở rộng lãnh thổ về phía Nam của triều đại hậu Lê, thời kỳ mà công cuộc mở mang lãnh thổ được tiến hành sâu rộng và mạnh mẽ nhất trong lịch sử Việt Nam. 
Nhà Lý là triều đại tồn tại lâu nhất trong lịch sử Việt Nam, ngoại trừ 100 năm hưng thịnh, còn lại đều là thời kỳ bất ổn. Việc mở rộng lãnh thổ dưới triều đại Lý được hoàn thành trong 260 năm, thời kỳ bất ổn định bởi Trịnh – Nguyễn phân tranh, tức là thời kỳ đối lập và phân chia Nam Bắc.
Tài liệu tham khảo của bài nghiên cứu này là Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh, Việt Nam quốc hiệu và cương vực qua các thời đại của Nguyễn Đình Đầu, Khảo sát chế độ đất đai và mở rộng lãnh thổ phía Nam Việt Nam và Quốc hiệu và lãnh thổ của Việt Nam của Song Jung Nam (3). 
Khác với các bài nghiên cứu trước, bài nghiên cứu này mang tính phức hợp và xem xét đến các vấn đề lịch sử trong giới hạn một thời đại và một chủ đề, đồng thời có mục đích phân tích tính chất thời đại trong việc mở rộng lãnh thổ – vấn đề chưa được đề cập trong các bài nghiên cứu trước. Để thực hiện mục đích này, bài viết phân chia thời kỳ trước và sau khi chúa Trịnh và chúa Nguyễn – 2 nhà quyền lực dưới 1 triều đại trong 1 quốc gia – phân tranh quyền lực và xem xét bối cảnh, quá trình triển khai, tính chất của việc mở rộng lãnh thổ trong từng thời kỳ. Ở thời kỳ trước khi Trịnh Nguyễn phân tranh, trong mối liên hệ với thời kỳ sau, chúng tôi xem xét đến thời điểm việc mở rộng lãnh thổ được triển khai; Thời kỳ sau Trịnh Nguyễn phân tranh, bài viết sẽ xem xét đến khi Pháp tiến vào ngăn chặn việc mở rộng lãnh thổ của Việt Nam.
II. THỜI KỲ TRƯỚC KHI PHÂN CHIA NAM BẮC
Ngay sau thời kỳ Bắc thuộc tức là sau thời kỳ thuộc địa của Trung Quốc thì ranh giới phía Nam của Việt Nam là Hà Tĩnh. Lợi dụng lúc nước Đường khó giữ được An Nam bởi tình hình hỗn loạn nghiêm trọng cuối thời Đường như sự xâm chiếm Java, Chiêm Thành, Nam Triều, Campuchia và sự nổi dậy của An Nam… cũng là lúc mà Chiêm Thành đang ở trong thời kỳ hưng thịnh mở rộng lãnh thổ từ Ai Vân (còn gọi là Hải Vân) đến Hoành Sơn, nay được phỏng đoán là đã quyết định Indrapura của huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam làm thủ đô (4).


Việc mở rộng lãnh thổ về phía Nam được bắt đầu từ thời kỳ Việt Nam có vương triều độc lập. Nhưng vì thời gian tồn tại của Ngô, Đinh, Tiền Lê ngắn và chưa được vững vàng, thiếu chuẩn bị nên lãnh thổ không có thay đổi gì kể cả phía Nam. Trong 3 triều đại kể trên thì triều đại Tiền Lê đã viễn chinh đến thủ đô của Chiêm Thành nhưng không thể mở rộng được lãnh thổ. Nhưng kể từ đấy, Chiêm Thành đã trở thành nước triều cống của Việt Nam (5).
Trong lịch sử Việt Nam, việc mở rộng lãnh thổ về phía Nam được bắt đầu từ năm 1069 dưới triều đại Lý – triều đại đầu tiên có thời gian tồn tại lâu nhất. Kết quả là Chiêm Thành đã nhường 3 châu Bố Chánh, Địa Lý, Ma Linh (6). Căn cứ vùng đất thuộc Địa Lý ở huyện Lê Ninh, tỉnh Quảng Bình, Ma Linh ở huyện Bến Hải, tỉnh Quảng Trị, Bố Chính ở huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình thì có thể nói là triều đại Lý đã mở rộng lãnh thổ phía Nam đến tỉnh Quảng Trị ngày nay. Năm 1075, Địa Lý và Ma Linh đã đổi tên thành châu Lâm Bình và Minh Linh (7). Năm 1104, với sự xâm lược của Chiêm Thành 3 châu này bị chiếm mất nhưng ngay sau đó với sự tấn công của Lý Thường Kiệt, Việt Nam đã giành lại được (8).
Năm 1307, thông qua cuộc hôn nhân với Chế Mân –vua của Chiêm Thành, Trần Nhân Tông đã nhận được châu Ô, Lý. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi “Trước đây vua Chiêm Thành là Chế Mân đem đất đó làm lễ vật dẫn cưới, dân các thôn La Thủy, Tác Hồng, Đà Bồng không phục, vua bèn sai Đoàn Nhữ Hài đến đó để tuyên thị đức ý của triều đình, chọn dân ở đấy ban cho chức quan, cấp cho ruộng vườn, miễn tô thuế 3 năm để vỗ về” (9).
Trong lịch sử chinh phục Chiêm Thành của Việt Nam, việc nhận được lãnh thổ do nhà trai cho nhà gái là việc lấy lãnh thổ thông qua quan hệ hữu nghị (10). Chúng tôi sẽ đề cập sau, trong lịch sử cũng có sự kiện tương tự như thế nhưng lại kết thúc bởi sự di trú của người dân thông qua quan hệ hôn nhân. Năm sau đó, triều đại nhà Trần đã đổi vùng đất này thành Thuận Châu (bây giờ là Quảng Trị), Hóa Châu (bây giờ là Thừa Thiên Huế) (11). Triều đại nhà Trần vì phải đương đầu với 3 cuộc xâm lược kéo dài và quyết liệt của quân Mông Cổ nên cũng như các triều đại trước và sau đó, ngoài trường hợp trên, Việt Nam không nhận được một tất đất nào từ Champa. Ngược lại, do bị tổn thất nặng nề trong thời kỳ chiến tranh chống Mông Cổ và sự mạnh lên của Chiêm Thành, Thăng Long đã vài lần phải lâm vào thế tự vệ và thậm chí năm 1368 còn bị Chiêm Thành yêu cầu trả lại châu Hóa – một phần trong lãnh thổ là lễ vật hôn thú trước đây.
“Tháng 2 năm 1368, Chiêm Thành sai Mục Bà Ma sang đòi lại đất biên giới Hóa Châu” (12).
Với yêu cầu này của Chiêm Thành, trước hết nhờ sức mạnh sẵn có nhưng Việt Nam còn có tư cách đòi phạt hay bồi thường đối với một phần lễ hôn thú bị mất. Kết hôn chưa được một năm thì vua Chiêm Thành mất, theo phong tục Suttee của Ấn Độ, công chúa phải chết cùng với vua, phía Việt Nam đã dùng mưu lược phục thù nhằm cứu công chúa (13).
Việc mở rộng lãnh thổ về phía Nam cũng được tiếp tục với triều Hồ. Năm 1402, nhà Hồ xâm chiếm Chiêm Thành và nhận được Chiêm Động chia thành hai châu Thăng và Hóa; đồng thời nhận được Cổ Lũy chia thành 2 châu Tư và Nghĩa 14. Châu Thăng và Hóa ngày nay thuộc huyện Duy Sơn, Quế Sơn, Tam Kỳ Thăng Bình của tỉnh Quảng Nam, Châu Tư và Nghĩa nay thuộc huyện Đức Phổ, Mộ Đức, Tư Nghĩa, Sơn Tịnh, Bình Sơn của tỉnh Quảng Ngãi. Điều này có nghĩa là lãnh thổ phía Nam Việt Nam được mở rộng đến Quảng Nam và Quảng Ngãi.
Nhưng khi nhà Minh cai trị thì khu vực này bị Chiêm Thành chiếm lại. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi “Minh Vĩnh Lạc thứ 12, Phủ Thăng Hoa tuy có đặt quan, nhưng Chiêm Thành vẫn có trưởng lộ chiếm giữ, nên nhà Minh chỉ ghi tên không mà thôi (15). Đào Duy Anh đã lấy ở Hoàng Minh thực lực và đưa ra bằng chứng về điều này “Năm Vĩnh Lạc thứ 13, tháng 11, vua nước Chiêm Thành là Chiêm Ba Dịch Lai… lại xâm đoạt đất 4 châu 11 huyện thuộc phủ Thăng Hoa đuổi cướp nhân dân” (16).
Trong lịch sử Việt Nam, triều đại hậu Lê là triều đại có được nhiều lãnh thổ nhất. Kết quả là Việt Nam có lãnh thổ gồm phần phía Nam ngày nay. Việc mở rộng lãnh thổ của triều đại hậu Lê có thể chia thành 100 năm hưng thịnh và 260 năm suy vong. Ở chương này chủ yếu tập trung vào thời kỳ hưng thịnh.
Năm 1470, Lê Thánh Tông đem 26 vạn đại quân chiếm Chiêm Thành và năm 1471 đã lấy lại 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa bị mất trong thời gian cai trị của nhà Minh đặt tên gọi là Quãng Nam thừa tuyên (17). Ngoài ra, qua cuộc viễn chinh này, vua Lê Thánh Tông đã chiếm được vùng đất từ Hoài Nhân đến đèo Cù Mông (18). Do đó, Việt Nam đã mở rộng lãnh thổ đến Bình Định ngày nay, và năm 1490 đưa Quảng Nam và Thăng Hoa nhập vào lãnh thổ đã chiếm được (19).
Cuộc viễn chinh lớn vào năm 1470 đã giúp cho Việt Nam sau này có bàn đạp để có thể dễ dàng hợp nhất Chiêm Thành. Ngoài lãnh thổ chiếm được, Việt Nam chia Chiêm Thành thành 3 khu vực Nam Bàn, Hoa Anh, Phiên Lung vốn đã chịu nhiều thất bại nặng nề (20) để có thể dễ dàng hợp nhất khu vực này vào bất cứ lúc nào. Cụ thể là Việt Nam cho Nam Bàn nhập vào Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc; Hòa Anh vào Phú Yên, Khánh Hòa; Phiên Luân vào Ninh Thuận thuộc Phan Rang. Việt Nam đã phân ly Chiêm Thành thành 3 vùng ban sắc phong cho 3 vua và đặt nền móng cho việc hợp nhất Chiêm Thành. Ngoài ra, trong thời kỳ hưng thịnh triều đại hậu Lê cũng đã mở rộng lãnh thổ về phía Tây. Khác với cách xâm lược và hợp nhất như khi mở rộng lãnh thổ ở phía Nam, ở đây có tính chất lệ thuộc và hợp nhất nhiều hơn.
Vào năm 1353, Angcowat độc lập, ở vương quốc Lan Xang của Lào có bộ lạc Bồn Man ở khu vực trung tâm Quảng Bình thuộc Sơn La – vùng tiếp giáp với biên giới Việt Nam. Tộc họ Câm cai trị khu vực này nhiều đời và có quan hệ đối ngoại với Việt Nam từ thế kỷ 15. Năm 1447, theo đề nghị quy phục của Bồn Man, Việt Nam đã tiếp thu điều này và đổi thành châu Quy Hợp (21) nhập vào phủ Lâm An (22). Cho dù bị quy phục Việt Nam nhưng cũng như lúc quy phục Lan Xang, vùng này vẫn được công nhận là tự trị như trước (23). Đất này bị hợp nhất cho đến khi Việt Nam bị Pháp xâm chiếm.
Sau vương triều độc lập, đến thời kỳ hưng thịnh của triều đại hậu Lê, việc mở rộng lãnh thổ của Việt Nam được tiến hành trong điều kiện năng lực quốc gia yếu kém. Cho dù là triều đại độc lập, nhưng thời kỳ Ngô, Đinh, tiền Lê ở trong tình thế bị đóng khung trong một quốc gia, thời nhà Trần thì tuy là một đất nước có một không hai trên thế giới có khả năng đẩy lùi quân Mông Cổ 3 lần nhưng vì hậu quả chiến tranh, gặp phải nhiều khó khăn nên không thể tiến hành mở rộng lãnh thổ bằng vũ lực.
Việc mở rộng lãnh thổ có tính cách hợp nhất vĩnh viễn đã đẩy mạnh sự phát triển của Việt Nam thông qua sự di trú của người Việt và chính sách phái quan lại người Việt làm quản lý và tiến hành Việt Nam hóa người bản địa. Với sự lệ thuộc của Bồn Man, lãnh thổ của Lào được sát nhập vào lãnh thổ Việt Nam và tuy chính sách phát triển thông qua sự di trú của người dân như ở phía Nam cho dù không được thực hiện nhưng Việt Nam phái người quản lý tới địa phương để trực tiếp quản lý đã cho thấy tính chất chiếm lĩnh vĩnh viễn ở đây. Để dàn xếp sự chống đối của Bồn Man, từ năm 1460 Lê Thánh Tông đã nhiều lần gửi quân đội đến trấn áp, thậm chí tháng 8 năm 1479 đã điều động 18 vạn đại quân bình định đến Luang Prahang (24). Năm 1474, chính sách di trú người Việt tới khu vực Chiêm Thành ra sắc chỉ rằng: Tù nhân bị tội lưu, ở châu gần thì sung làm quân vệ Thăng Hoa, ở châu ngoài thì sung làm quân vệ Tư Nghĩa, ở châu gần thì sung làm quân vệ Hoài Nhân, những kẻ được tha tội cũng sung làm quân vệ Hoài Nhân (25).
Đặc trưng của việc mở rộng lãnh thổ trong thời gian này có khác với thời kỳ suy thoái là đối tượng mở rộng lãnh thổ là ngoài một phần của Lào ra chỉ giới hạn trong khu vực Chiêm Thành. Kết quả là Chiêm Thành ở vùng đệm nên có thể duy trì quan hệ đối ngoại giữa Thái Lan, Campuchia với Việt Nam. Nhưng thời kỳ sau, đối tượng mở rộng lãnh thổ đến cả Campuchia, quan hệ giữa Việt Nam – Campuchia hay Việt Nam – Thái Lan trở thành mối quan hệ đối lập sâu sắc, thậm chí Campuchia là trục chiến lược trong sự cạnh tranh của Việt Nam và Thái Lan. 
III. THỜI KỲ SAU PHÂN CHIA NAM BẮC 
Việc mở rộng lãnh thổ trong lịch sử Việt Nam được thực hiện sôi động, nhanh và trong phạm vi rộng lớn nhất là vào thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh. Việc mở rộng lãnh thổ trong thời kỳ này hay được triển khai với mục đích cơ bản vốn có nhưng có thể thấy được sự khác nhau với thời kỳ trước ở chỗ được tiến hành trong sự chia rẽ và đối lập sâu sắc về quyền lực. Việc mở rộng lãnh thổ trong thời gian này không được triển khai qua thời gian lâu dài như thời kỳ trước mà được thực hiện trong thời gian ngắn khoảng 250 năm. Dĩ nhiên có khả năng là vì đã chuẩn bị bàn đạp trong thời kỳ trước. Giống như khi xem xét thời gian tồn tại dài hay ngắn của một vương quốc, thông qua việc mở rộng lãnh thổ cũng có thể nhìn thấy được sức mạnh của quốc gia và tổn thất của Chiêm Thành.
Một mặt, việc mở rộng lãnh thổ ở thời kỳ sau phân chia Nam Bắc được thực hiện thông qua việc hợp nhất hoàn toàn Chiêm Thành và sự mở rộng về phía Campuchia đã kéo theo sự căng thẳng sâu sắc trong quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia và dĩ nhiên ảnh hưởng tới cả quan hệ Campuchia và Thái Lan. Kết quả là ngày nay, đối ngoại giữa 3 nước, đặc biệt Việt Nam – Campuchia hay Thái Lan – Campuchia vẫn còn chịu ảnh hưởng không nhỏ (26).
Để thoát khỏi sự uy hiếp của chúa Trịnh, chúa Nguyễn đi xuống phía Nam thúc đẩy chính sách một cách năng động như chính sách đối ngoại thông thương, chính sách mở rộng lãnh thổ để xây dựng sức mạnh nhằm khôi phục quyền lực đã mất(27). 
Do đó, việc mở rộng lãnh thổ của chúa Nguyễn tiếp tục được thúc đẩy không quan tâm đến thời gian 7 lần phân tranh với chúa Trịnh như trích đoạn dưới đây.
“Năm 1611, quân Chiêm Thành xâm lấn biên giới. Chúa sai chủ sự là Văn Phong (không rõ họ) đem quân đi đánh lấy được đất ấy, bèn đặt làm một phủ, cho hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa lệ thuộc vào. Nhân sai Văn Phong làm lưu thủ đất ấy (28). 

Sự kiện năm 1611 đã chứng minh rằng khác với thời kỳ đầu, đặc trưng của thời kỳ sau là chiếm lĩnh đồng thời sát nhập và hợp nhất lãnh thổ. Đặc trưng này cũng có thể thấy được qua sự kiện xảy ra vào năm 1653. “Vua nước Chiêm Thành là Bà Tấm quấy rối đất Phú Yên. Sai cai cơ Hùng Lộc hầu làm tổng binh và xá sai Minh võ làm tham mưu đem 3000 quân đi đánh. Đến phủ Phú Yên, ngày 3 tháng 4, nhân đêm qua đèo Hổ Dương núi Thạch Bi, ruổi thẳng đến trại của Bà Tấm, phóng lửa đánh gấp, phá tan, đuổi dài đến sông Phan Lang. Bà Tấm sai con là Xác Bà Ân nộp lễ xin hàng. Phúc Tần cho, bắt chia đại giới, lấy đất tự phía đông sông ấy đến Phú Yên đặt làm hai phủ Thái Khang và Diên Ninh, đặt dinh trấn thủ Thái Khang, phía Tây sông vẫn là nước Chiêm Thành, khiến giữ bờ cõi mà nộp cống”. (29) Thái Khang và Diên Ninh bây giờ là Ninh Hòa và Diên Khánh, lúc này lãnh thổ của Việt Nam được mở rộng đến Khánh Hòa.
Tháng 8 năm 1692, chúa Nguyễn chiếm Chiêm Thành và nhân cơ hội chiếm Diên Ninh của Chiêm Thành và tháng 3 năm sau đã bắt được vua Chiêm Thành là Bà Tranh. Lúc này, chúa Nguyễn đã đổi tên Chiêm Thành là Thuận Thành. Chúa Nguyễn đã sai cai đội Nguyễn Trí Thắng, cai cơ Nguyễn Tân Lễ, cai đội Chu Kiêm Thắng đến Phố Hài, Phan Rí, Phan Rang thuộc Bình Thuận ngày này để phòng ngự tàn đảng của Thuận Thành (30).
Đất nước Chiêm Thành đến bây giờ đã hoàn toàn bị biến mất trên bản đồ. Chiêm Thành đã bị hợp nhất hoàn toàn vào Việt Nam năm 1697 nhưng trên thực tế, với tư cách là một quốc gia thì đã bị xóa bỏ vào năm 1693.

Tháng 8 năm 1693, đổi trấn Thuận Thành làm phủ Bình Thuận, lấy tả trà viên Kế Bà Tử làm khám lý, ba người con Bà Ân làm đề đốc, đề lãnh và cai phủ, bắt mặc quần áo theo lối người kinh và sai về để vỗ yên lòng dân” (31) Việc lấy người Chiêm Thành cai trị người Chiêm Thành thế này là hình thức mà lịch sử Việt Nam đã đối xử với tất cả các dân tộc thiểu số từ trước đến nay. Công nhận sự tự trị nhưng có nghĩa là tự trị dưới cơ cấu cai trị dạng piramid trong quốc gia. Do đó, kể từ bây giờ Chiêm Thành đã trở thành một dân tộc thiểu số của Việt Nam.
Nhưng việc loại trừ hoàn toàn Chiêm Thành làm chúa Nguyễn gặp nhiều khó khăn và trở thành gánh nặng. Từ tháng 12 năm 1693 đến tháng 2 năm sau, người Thanh A Ban và người Chiêm Thành Oc Nha That liên kết với nhau gây ra phản loạn ở Thuận Thành; Tháng 9 năm 1695 người lái buôn Lính đã liên kết Quy Ninh và Quảng Phú ở Quảng Ngãi gây phản loạn; tháng 3 năm 1697, 5 sách huyện Phú Vang nổi dậy… là những ví dụ có thật gây khó khăn cho chúa Nguyễn (32).
Sau khi chiếm Chiêm Thành vào năm 1693, chúa Nguyễn đã thi hành một số chính sách để giảm thiểu gánh nặng và những mối lo lắng đó. Thứ nhất, hợp nhất hoàn toàn đất chiếm lĩnh Thuận Thành vào lãnh thổ của mình, đặt theo hình thức trấn hơn là đơn vị hành chính. Cho dù đã đặt lãnh, phủ, huyện, tổng, tư là đơn vị hành chính địa phương đối với khu vực đồng bằng của chúa Nguyễn lúc đó nhưng chúa Nguyễn đã không áp đặt mà đặt Thuận Thành là trấn. Đây cũng là hình thức cai trị dân tộc thiểu số trong quá khứ. Do đó, ngoài việc dùng phương pháp cực đoan là đàn áp phản loạn, vào tháng 8 năm 1693, chúa Nguyễn đã đổi trấn Thuận Thành thành phủ Bình Thuận rồi tháng năm năm sau lại đổi thành trấn Thuận Thành (33).
Thứ hai, như đã viết ở trên, chúa Nguyễn đã thi hành chính sách đồng hóa hay lấy người Chiêm Thành cai trị người Chiêm Thành. Với phương pháp cụ thể hơn đối với điều này chúa Nguyễn đã dùng Kế Ba Tư làm tả đô đốc của phủ Thuận Thành và tiếp tục cai trị nơi này, đã nộp cống ông ta bởi phiên vương của trấn Thuận Thành và thu thập quân dân nộp cống hằng năm, và đã trả lại những vật lấy được trong cuộc chiến như ấn, gươm, yên, ngựa và những người bị bắt trước đây. Lúc này chúa Nguyễn đã chỉ định những danh sách nộp cống cho Việt Nam là voi đức 2 thớt, bò vàng 20 con, ngà voi 6 cái, sừng tê 10 tòa, khăn vải trắng 500 bức, sáp ong 50 cân, da cá 20 tấm, cát sủi 400 thúng, chiếu tre trắng 500 lá, gỗ mun 200 cây, thuyền dài 1 chiếc (34). 
Việc quy định đối với các vật nộp cống và dâng phiên vương có thể nói là một điển hình trong việc nâng cao vị thế so với các nước nhỏ xung quanh của Việt Nam. Cho đến bây giờ khi xem xét đến thông lệ ban sắc phong cho các tù trưởng các dân tộc thiểu số thì có thể thấy đó là mắt xích trong chính sách hợp nhất Chiêm Thành như đã nêu. Khi so sánh thời gian tồn tại hay diện tích lãnh thổ, chính sách thôn tính một quốc gia có thế lực không thua kém mình là một sách lược chính trị khổ nhục.
Nhưng vào năm 1697, Việt Nam đổi trấn Thuận Thành thành Bình Thuận và sát nhập vào một đơn vị hành chính của Việt Nam đồng thời hợp nhất lãnh thổ còn lại của Chiêm Thành từ Phan Rang đến Phan Rí đổi thành 2 huyện An Phuc và Hoa Da rồi sát nhập vào Bình Thuận nên dấu tích của Chiêm Thành hoàn toàn đã bị xóa bỏ trên bản đồ (35). 
Việc hợp nhất hoàn toàn Chiêm Thành thể hiện sự vững vàng của một quốc gia thống trị nhưng cũng cho thấy đây là một mắt xích trong việc thực hiện ý định hợp nhất Campuchia có chung đường biên giới. Kể từ trước đó rất lâu, khi trấn Thuận Thành và Phan Rang, Phan Rí vẫn còn là khu vực tự trị của Chiêm Thành, sự tiến vào Campuchia của Việt Nam đã được thúc đẩy qua việc lợi dụng những người di cư của nước Minh để phát triển lãnh thổ Campuchia nhưng lúc này thì Việt Nam không còn lý do gì để tiếp tục giữ chế độ tự trị ở khu vực này. Việc chia rẽ mục đích chính sách này mất cân bằng đối với nhiều dân tộc thiểu số và dân tộc Khơme của Campuchia.
Tham vọng mở rộng lãnh thổ của Chúa Nguyễn không dừng lại ở Chiêm Thành. Điều đó có thể nhìn thấy được vào năm 1621, chúa Nguyễn đã có quan hệ hôn thú với đời thứ 2 Chey Chettha của Campuchia (36). Lúc đó, chúa Nguyễn đã yêu cầu vua Campuchia cho người Việt Nam di trú tự nhiên, di trú Thủy Chấn Lạp với những hình thức miễn thuế, thương mại, phát triển. Kết quả là việc di trú đến Campuchia của người Việt Nam được bắt đầu từ tỉnh Đồng Nai và Mỗi Xoài thuộc Bà Rịa, Vũng Tàu bây giờ (37).
Lúc đó Campuchia lệ thuộc vào vương quốc Ayuthaya của Thái Lan đã mượn sức mạnh của Việt Nam để thoát khỏi sự cai trị của Thái, Việt Nam đã có được cơ hội tiến vào Campuchia một cách hợp pháp và đồng thời trên cơ sở đó, đã có được cơ hội tuyệt vời để có thể cản trở sự tiến vào Campuchia của Thái và xâm chiếm lãnh thổ Campuchia (38). Sau đó, dưới chính sách ngoại giao cận Việt viễn Thái của Campuchia (chữ Hán), năm 1658, lần đầu tiên Việt Nam có cơ hội gửi quân đội theo yêu cầu của Campuchia để giải quyết phân tranh vương vị và kết quả là nhận được sự cư trú hợp pháp ở Mỗi Xoài, Đồng Nai và nộp cống, thần phục từ Campuchia (39).
Vào năm 1674, Việt Nam đã gửi quân đội đến Campuchia lần thứ hai để giải quyết tranh chấp vương vị và có thể bước một bước sâu hơn vào việc hợp nhất lãnh thổ Campuchia bằng cách đặt ra chế độ chính vương và phó vương (chữ Hán). Lúc này, phó vương sống ở Sài Gòn. Trên cơ sở này, vào tháng 1 năm 1679 Việt Nam đã đem 50 chiến thuyền với hơn 3 nghìn quân, lợi dụng những người quản lý của nước Minh Trung Quốc đầu hàng như Dương Ngan Địch, Hoàng Tiến, Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình … tiến hành thực hiện việc phát triển Mỹ Tho và Biên Hòa (40). Những khu vực này là kết quả chiến thắng trong cuộc phân tranh vũ lực với Thái trên lãnh thổ Campuchia của Việt Nam, vì một phần thuộc khu vực mà Nạc Ông Nộn được bổ nhiệm cai trị, nên Việt Nam có thể định cư ở đó. Năm 1679, do chính vương và phó vương của Campuchia xung đột, Việt Nam và Thái đều gửi quân đội can thiệp nên chiến tranh đã xảy ra, Việt Nam đã hoàn toàn không thể đưa ra các giải quyết vấn đề này.
Những người có thế lực khai phá đất, xây dựng thành Đông Phố và biến nơi đây thành nơi thương mại quốc tế đông đúc với những chiếc thuyền của nhà Thanh – phương Tây – Nhật – Java. Thời điểm này, có thể nói ngoài người Việt Nam ra, người Trung Quốc cũng phát triển Thủy Chân Lạp. Vào năm 1680, việc phát triển Thủy Chân Lạp dựa vào Mạc Cửu người Quảng Đông Trung Quốc. Ông ta được bổ nhiệm làm quản lý của Campuchia và đã phát triển Phú Quốc, Cần Bọt, Gia Khê, Luỗng Cây, Hương Úc, Cà Mau (41). Ở đây, vào năm 1810 đã đổi thành trấn Hà Tiên rồi năm 1831 đổi thành tỉnh Hà Tiên.
Năm 1688, với cuộc phản loạn của Hoàng Tiến đã trở thành cơ hội cho Việt Nam thực hiện hợp nhất lãnh thổ Campuchia. Hoàng Tiến gây ra phản loạn, quốc vương của Campuchia Nặc Ông Thu đã từ chối thần phục và nộp cống cho Việt Nam và dương ngọn cờ phản loạn. Việt Nam đã gửi quân vào Sài Gòn để bình định việc này nhưng không thành công. Tuy nhiên, trong trong một thời gian dài nắm giữ, Việt Nam thực sự đã có ảnh hưởng ở khu vực này. Tiếp đó, năm 1691, người có thực quyền ở đây là phó vương Nặc Ông Nộn tử vong đã tạo ra một khoảng trống quyền lực đã xúc tiến quá trình hợp nhất của Việt Nam ở khu vực này. Trên cơ sở đó, từ năm 1698, bắt đầu hợp nhất khu vực Gia Định khai thác được dựa vào người Trung Quốc và người bản xứ trước đây. 
Năm 1698 là năm sau khi Việt Nam hoàn toàn hợp nhất Chiêm Thành. Điều này rất quan trọng vì thể hiện được tính quan hệ tương hỗ trong việc hợp nhất Chiêm Thành và Campuchia của Việt Nam. Tức là, trước năm 1698, Việt Nam có thể lợi dụng khoảng trống cai trị của Campuchia trên mảnh đất do người Trung Quốc và người bản xứ khai phát và hợp nhất nhưng trong khi chưa hợp nhất hoàn toàn Chiêm Thành nên có thể gặp nhiều khó khăn; hoặc trong trường hợp đã hợp nhất hoàn toàn Chiêm Thành nhưng có khả năng xảy ra phản loạn và chống đối nên có thể cho rằng sức lực sẽ bị phân tán nên đã không thực hiện và chuẩn bị cho đến năm 1698 mới tiến hành hợp nhất Campuchia.
“Bắt đầu đặt phủ Gia Định. Sai thống suất Nguyễn Hữu Kính kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và cơ độ thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất được nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ những dân xiêu dạt từ Bố Chính trở về nam cho đến ở cho đông. Thiết lập xã thôn phường ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệ thuế to dung, làm sổ đinh điền. Lại lấy người Thanh đến buôn bán ở xã Minh Hương. Từ đó người Thanh ở buôn bán đều thành dân hộ của ta” (42). 
Nội dung trên cho thấy việc hợp nhất lãnh thổ Campuchia của Việt Nam khác với phương pháp hợp nhất Chiêm Thành trong thời kỳ trước. Khi hợp nhất lãnh thổ của Chiêm Thành, đa số dùng phương pháp chiếm bằng vũ lực nhưng khi hợp nhất lãnh thổ Campuchia thì lợi dụng người trong nước hay người nước ngoài trước hết là khai thác rồi lợi dụng khi quyền lực cai trị của Campuchia yếu đi thì hợp nhất một cách tự nhiên. Không những thế, ở đây còn cho thấy sự ưu tiên phương pháp nhận lãnh thổ bằng cách hỗ trợ giải quyết nội chiến của Campuchia hơn là dùng vũ lực trực tiếp.
Vào năm 1708, Mạc Cửu cảm thấy bất an với nội tình của Campuchia, nhờ thần phục Việt Nam mới có được đường biên giới của Campuchia bây giờ còn Việt Nam thì có được khu vực ở phía cực nam bao gồm đảo Phú Quốc, Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu (43). Khu vực này là một trong 6 tỉnh thuộc tỉnh Hà Tiên thời nhà Nguyễn. Điều này cũng như đã đề cập ở trên cho thấy hình thức hợp nhất không liên quan đến vũ lực của Việt Nam.
Do đó, trong 6 tỉnh, Việt Nam đã hợp nhất 3 tỉnh là Biên Hòa, Gia Định, Hà Tiên. Ba tỉnh còn lại vẫn trong tình trạng chưa hợp nhất được là Định Tường, Vĩnh Long, An Giang. Ba tỉnh này ở trong địa thế hình răng cưa, nằm xem kẽ giữa hai tỉnh Biên Hòa – Gia Định và tỉnh Hà Tiên. Vì thế, để bảo tồn tỉnh Hà Tiên ở vị trí xa nên việc hợp nhất 3 tỉnh còn lại là một việc cần thiết. Do đó qua 3 lần liên tiếp thực hiện hợp nhất, khu vực này được hợp nhất với phương pháp khác với trước đây là bằng vũ lực.
Lần thứ 1, năm 1732, Việt Nam đã gửi quân đội tới, lấy Mỹ Tho, Sa Đéc ở phía Tây Gia Định, và đặt châu Định Viễn, lĩnh Long Hồ (44). Những khu vực này thuộc tỉnh Định Tường. Những khu vực này bây giờ thuộc tỉnh Tiền Giang, Đồng Tháp. Với cơ hội này, vào năm 1744 chúa Nguyễn đã xác lập khu vực hành chính với cơ cấu 12 lĩnh và 1 trấn (45).
Lần thứ 2 cũng dành được thành quả bằng vũ lực. Chúa Nguyễn đã hai lần viễn chinh Campuchia vào năm 1753 và 1755 do hiệp ước quan hệ của chúa Trịnh và YuRin Côn Man của Nạc Ông Nguyên là vua Campuchia. Lúc này Nạc Ông Nguyên tị nạn ở Hà Tiên và năm 1756, đưa Mạc Thiên Tứ đề nghị thần phục và nộp cống cho chúa Nguyễn và đã dâng 2 phủ Tam Bon, Loi Lap (46). Nơi này giáp với tỉnh Định Tường thuộc tỉnh Vĩnh Long.
Lần cuối cùng, năm 1757, trong quá trình lên ngôi, vua Cao Miên nhận sự giúp đỡ đã nhận từ Nạc Ông Tôn 2 phủ Trà Vinh, Ba Thắc và Tầm Phong Long (47). Trong 6 tỉnh, những khu vực này thuộc tỉnh An Giang. Do đó, Việt Nam đã xác lập được lãnh thổ phía Nam bây giờ.
Đối với sự kiện của năm 1757, khi xem xét biên giới lãnh thổ Việt Nam qua ghi chép là “Năm 1757, Nạc Ông Nguyên nước Chân Lạp chết. Người chú họ là Nạc Nhuân Tạm coi việc nước. Biên thần tâu xin nhân đó lập Nhuận để tỏ ân nghĩa, cho vững biên cương. Chúa bắt phải hiến hai phủ Trà Vinh, Ba Thắc, rồi sau mới y cho …” (48) chúng ta có thể thấy rõ hơn. Nói cách khác, cho dù đã hợp nhất Định Tường và Vĩnh Long nhưng dưới thời chúa Nguyễn, không có tỉnh An Giang nên Châu Đốc, Cần Thơ, Sóc Trăng có địa thế như răng rụng nên Việt Nam cần có được vùng này với cái giá là phải can thiệp chính trị.
Ngoài ra, cùng năm 1757, Việt Nam đã được vua Camphuchia Nạc Ông Tôn dâng 5 phủ Hương Úc, Cần Bọt, Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh (49). Khu vực này tiếp giáp với Hà Tiên nhưng trong thời gian vua Tự Đức tại vị đã trả lại cho Campuchia (50).
Việc mở rộng lãnh thổ phía Nam của chúa Nguyễn đã gặp phải một số yếu tố nên phải tạm dừng ở đây. Thứ nhất, do sức lực quốc gia của chúa Nguyễn bị yếu đi nên không đủ nội lực để mở rộng lãnh thổ hơn nữa. Thứ hai, trong thời gian ngắn không đủ năng lực để khai thác quản lý lãnh thổ tăng nhiều (51).
Việc mở rộng lãnh thổ về phía nam của Việt Nam cũng được tiếp tục dưới triều đại cuối cùng trong lịch sử Việt Nam là triều đại nhà Nguyễn. Như đã đề cập ở trên, Việt Nam đã hợp nhất một phần lãnh thổ của Lào tiếp giáp với khu vực từ Quảng Bình tới Lạng Sơn, đã gửi quân đi 6 phủ và bổ nhiệm làm tộc trưởng ở đây theo hình thức cai trị gián tiếp. Khi xem xét đến nhiều điều kiện như chính trị – kinh tế – địa chính học, Việt Nam tiếp tục thúc đẩy hợp nhất Cao Miên để dành lợi cho quốc gia, và kết quả là năm 1835, Chân Lạp – quốc hiệu của Cao Miên đã đổi thành Chân Tây Thành và lập 2 huyện, 32 phủ (52). Nhưng cuộc xung đột dành quyền cai trị Campuchia giữa Việt Nam và Thái kéo dài, cộng với việc phản đối sự cai trị của Việt Nam trên toàn Campuchia và các cuộc phản loạn trong nước nên đã đẩy Việt Nam vào thế bất lợi. Cho nên, năm 1847, Việt Nam đã ký hiệp định với Thái và rút quân. Do đó, cho đến khi Việt Nam và Campuchia đều trở thành thuộc địa của Pháp thì Campuchia chỉ duy trì mối quan hệ nộp cống cho Việt Nam (53). Qua đây, có thể thấy việc mở rộng lãnh thổ của Việt Nam được điều khiển bởi Thái và Pháp. Nếu giả định trường hợp Pháp không tiến hành xâm lược hay không có mâu thuẫn với Thái thì Việt Nam đã có được một vùng rộng lớn trong lãnh thổ của Lào và Campuchia. 

IV. KẾT LUẬN 
Việc mở rộng lãnh thổ của Việt Nam cho thấy một quy luật điển hình trong lịch sử nhân loại là cá lớn nuốt cá bé. Việt Nam đã không ngừng đấu tranh trong trường kỳ lịch sử để sinh tồn bên cạnh một Trung Quốc mạnh hơn mình nhưng ngược lại cũng tiến hành chinh phục Chiêm Thành và Campuchia yếu hơn. Điều này thể hiện hai mặt trong đặc trưng lịch sử của Việt Nam là chủ nghĩa dân chủ đấu tranh và chủ nghĩa dân chủ xâm lược.
Việt Nam đã trải qua quá trình dân chủ đấu tranh và bồi dưỡng sức mạnh quốc gia rồi trên cơ sở đó hướng đến chủ nghĩa dân chủ xâm lược và kết quả là xác lập được lãnh thổ phía Nam bây giờ. 
Việc mở rộng lãnh thổ về phía Nam đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là trong việc sản xuất ngũ cốc. Ngoài khí hậu nhiệt đới gió mùa có lượng mưa và lượng nắng nhiều thì vùng này còn có tài nguyên phong phú và đất đai màu mỡ và rộng lớn. 
Ở đây cũng không thể bỏ qua sự đóng góp của người dân di trú Trung Quốc. Trong khi không đủ nhân lực phát triển thì việc tham gia của người dân Trung Quốc đã giảm bớt đi gánh nặng cho người dân Việt Nam, thúc đẩy sự phát triển thương mại của phía Nam và đã tăng cường tính đặc trưng đa văn hóa – đa dân tộc của Việt Nam. 
Liên quan đến việc tăng cường tính đặc trưng đa văn hóa – đa dân tộc của Việt Nam không thể loại trừ vai trò của Campuchia. Việc hợp nhất Thủy Chân Lạp tức 6 tỉnh phía Nam dành được ngoài mảnh đất màu mỡ và rộng lớn còn có được dân tộc Khơme đông nhất trong 54 dân tộc đã biến Việt Nam từ một nước có văn hóa Phật giáo Đại thừa sang một nước văn hóa Phật giáo Tiểu thừa. 
Đồng thời, việc mở rộng lãnh thổ của Việt Nam cũng là một trường hợp điển hình minh chứng cho quy luật lịch sử “giữa các nước láng giềng không có quan hệ tốt ”. Nếu như quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc mới được tái lập vào năm 1991 thì quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Campuchia cũng không được mặn mà khi 20 vạn quân Việt Nam rút lui khỏi Campuchia dưới áp lực của chủ nghĩa tư bản đứng đầu là Mỹ vào năm 1989. Quan hệ giữa Việt Nam và Thái cũng đối lập sâu sắc trong việc gây ảnh hưởng trên đất Campuchia. Xét trên quan điểm địa chính học, quan hệ giữa Việt Nam và Lào có thể là một dị biệt nhưng xét cho cùng thì có thể cũng không khác với những mối quan hệ nước láng giềng đã nêu trên. **

2. Sài Gòn Năm Xưa, Vương Hồng Sển
PHẦN THỨ NHỨT

NHẮC LẠI CUỘC NAM TIẾN
VĨ ĐẠI CỦA DÂN VIỆT


Nối dõi tổ tiên, trong cuộc Nam tiến vĩ đại


Đến bây giờ, còn phân phân bất nhứt: các học giả vẫn bàn cãi không thôi chung quanh hai tiếng "Sài" "Gòn", chẳng biết từ đâu, bởi đâu mà có. Kẻ nói vầy, người nói khác, không ai chịu ai. Tranh luận mãi càng thêm rối trí, không bổ ích vào đâu. Một điều an ủi chung cho hạng gàn như tôi là chính trong tập khảo cứu năm 1885, nhà bác học uyên thâm trong Nam, cụ Trương Vĩnh Ký, cũng tỏ ra bối rối như ai !

*

Để dọn đường tìm hiểu thêm về nguồn gốc "Sài Gòn" của người Việt, chúng tôi trước tiên, xin tóm tắt cuộc Nam tiến như sau:

Căn cứ theo tài liệu lịch sử để lại, đại cương cuộc Nam tiến không ngừng của dân tộc Việt Nam gồm có những năm nầy, quan trọng nhứt:

- 939, tổ tiên Việt còn ở vùng Thanh Hoá, và nhờ có ông Ngô Quyền, cởi được ách Bắc thuộc, mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần, về sau được tự chủ ở cõi Nam.

- 1069, xuống đến Quảng Bình, Quảng Trị;

- 1307, nhà Trần gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chàm, mở rộng cõi bờ thêm hai châu Ô Lý (Thừa Thiên);

- 1425, đến Thuận Hoá;

- 1471, đến Quy Nhơn;

- 1611, đến Phú Yên;

- 1653, đến Nha Trang;

- 1658, Cao Miên xin thần phục chúa Nguyễn, nhìn nhận quyền của triều đình Huế;

- 1680, Nguyễn chúa cho bọn tàn binh nhà Minh khai khẩn hoang địa vùng Đồng Nai;

- 1693, đến Phan Thiết;

- 1698, đến Biên Hoà và Gia Định (Sài Gòn);

- 1708, MẠC CỬU dâng Hà Tiên cho chúa Nguyễn, Mạc được phong làm tổng binh đời đời vĩnh trấn Hà Tiên;

- 1755, Cao Miên quốc vương nhượng đất Tân Bôn và Lôi Lạp cho Võ Vương. Trong Nam, ông Nguyễn Cư Trinh với những kế hoạch khẩn hoang, dinh điền ở miền Nam. Vào cuối thế kỷ XVIII, tại Gia Định, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh, Lê Quang Định, ba người cùng lập thị xã nâng cao đuốc văn hiến một thời:

- 1780, MẠC THIÊN TỨ (con MẠC CỬU) mất, không con nối hậu. Từ đây, đất Hà Tiên sát nhập cơ đồ Nguyễn chúa: cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, đến đây đã hoàn thành.

Bản đại lược tóm tắt như trên, gọn thì có gọn, nhưng quá vắn tắt nên khó tránh sự tối nghĩa, và kém sáng suốt, nhứt là đối với những người không nằm lòng lịch sử nước nhà.

Về tổ chức đồn điền, xét ra đã có từ đời Hồng Đức (Lê Thánh Tôn) (1), từ ngày vua Lê Lợi đuổi được quân Tàu, thế nước rất mạnh, hiềm vì đất đai chật hẹp không đủ cho dân cày cấy, nên Lê Thánh Tôn thi hành chánh sách bành trướng vào Nam, lập kế đồn điền. Tổ chức nầy có hai phương lợi: một là trấn an biên thùy, hai là mở rộng bờ cõi một cách hoà bình. Nhơn thế, một chức quan được đặt ra, gọi quan Thu ngự kinh lược sứ, với nhiệm vụ chiêu tập những lưu dân (gồm những dân tình nguyện, những người phải tội lưu trú ngoài biên cương, hoặc những người bỏ làng để trốn lính và tránh sưu thuế... ). Những người ấy được đưa đi khai khẩn đất hoang, và được quan kinh lược giúp đỡ và ủng hộ. Họ lấn sang đất Chiêm Thành rồi sau này đất Thủy Chân Lạp và vẫn yên tâm mở rộng khu vực vì sẵn bên có quân đội bảo vệ an ninh.

Sau một hai đời, thì những hạt mới được sung nhập lãnh thổ Việt. Lần lần, những lưu dân miền Bắc, miền Trung, dùng phương pháp "tàm thực" ấy mà mở rộng đất đai bờ cõi Việt từ sông Cả đến tận mũi Cà Mau. Sự bành trướng nầy đến ngày chạm súng với Lang Sa mới ngưng.

________________

(1) Lê Thánh Tôn (1460-1497);
Niên hiệu:Quang Thuận (1460-1469), Hồng Đức (1470-1497) 

 

3. Vũ Dương Huân, GÓP PHẦN ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VÀ NGOẠI GIAO THỜI NGUYỄN

Lịch sử nhà Nguyễn có hai giai đoạn khác biệt nhau. Giai đoạn thứ nhất là lịch sử của các chúa Nguyễn với 204 năm bắt đầu từ chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558 đến chúa Nguyễn Phúc Ánh đánh bại Tây Sơn và xưng đế năm 1802. Mặc dù 5 vị  tổ tiên đầu tiên của nhà Nguyễn vẫn nhận quan tước nhà Lê và Nguyễn Phúc Chu năm 1702 mới xưng chúa, song ý đồ cát cứ đã bắt đầu từ Nguyễn Hoàng nên cả 9 vị đều có thể gọi là các chúa Nguyễn. Giai đoạn thứ hai là triều Nguyễn với 143 năm từ khi Nguyễn Ánh đăng quang kéo dài đến năm 1945, khi Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố thoái vị trong Cách mạng tháng Tám. Lịch sử các chúa Nguyễn và triều Nguyễn là thời kỳ rất đặc biệt, vô cùng phc tạp, đầy mâu thuẫn trong lịch sử nước nhà. Chính sách đối ngoại và ngoại giao của các chúa Nguyễn và triều Nguyễn cũng nằm trong cái phức tạp, mâu thuẫn đó. Cùng một vấn đề, cùng một sự kiện, nhưng đánh giá của giới nghiên cứu rất khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Có người thì khẳng định là công, song có người lại cho là tội. Đánh giá như thế nào cho khách quan, khoa học, thỏa đáng, đúng tinh thần “công minh sử học”?
Trong chính sách của quốc gia, chính sách đối nội gắn bó hữu cơ với chính sách đối ngoại.  Mặc dù, chính sách đối ngoại có sự độc lập nhất định, tác động trở lại chính sách đối nội, song chính sách đối ngoại là sự tiếp tục và phục vụ chính sách đối nội. Ngoại giao là công cụ hòa bình, công cụ quan trọng nhất thực hiện chính sách đối ngoại của quốc gia. Chính sách đối ngoại và ngoại giao của bất cứ quốc gia nào dù to dù nhỏ, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây đều phải thực hiện ba nhiệm vụ bao trùm là: góp phần bảo vệ và củng cố độc lập chủ quyền quốc gia, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển đất nước, góp phần phát huy ảnh hưởng của nước mình trong khu vực và quốc tế.
Với cách hiểu về chính sách đối ngoại, ngoại giao như vậy, tác giả bài viết xin góp thêm vài ý kiến đánh giá chính sách đối ngoại, ngoại giao của các chúa Nguyễn và triều Nguyễn với tư cách là người nghiên cứu quan hệ quốc tế và ngoại giao.
1.  Điểm lại một số đánh giá về các chúa Nguyễn và triều Nguyễn
Từ sau khi hòa bình lập lại, việc nghiên cứu giai đoạn lịch sử của các chúa Nguyễn ở Đàng trong và các vua Nguyễn đã được triển khai ở miền Bắc. Các công trình được đăng trên các tạp chí nghiên cứu nhưVăn sử địa (Đại học Sư phạm), tạp chí Nghiên cứu Lịch sử và trong các bộ sử, lịch sử văn học Việt Nam, sách giáo khoa, giáo trình về lịch sử Việt Nam. Các tác giả đều có chung một đánh giá là phê phán các chúa Nguyễn chia cắt đất nước, cầu viện nhà Xiêm chống lại Tây Sơn, có chính sách sai lầm “bế quan tỏa cảng”, nhu nhược, đầu hàng thực dân Pháp… Ví dụ: Trong lời giới thiệu “Đại Nam thực lục” của Viện Sử học, các tác giả viết “Bọn sử thần nhà Nguyễn làm công việc biên soạn Đại Nam thực lục đã cố gắng rất nhiều để tô son vẽ phấn cho triều đại nhà Nguyễn… nhưng bọn sử thần ấy vẫn không che giấu nổi các sự thật của lịch sử. Dưới ngòi bút của họ, sự thật lịch sử vẫn phơi bày cho mọi người biết tội ác của bọn vua chúa phản động, không những đã “cõng rắn cắn gà nhà” mà chúng còn cố kìm hãm, đầy đọa nhân dân Việt Nam trong một đời sống tăm tối đầy áp bức”.[1] Một bộ sử lớn khác dành cho nhà Nguyễn những đánh giá rất cay nghiệt khi viết “vương triều Nguyễn tàn ác và ngu xuẩn”, “tên chúa phong kiến bán nước số một là Nguyễn Ánh… Nguyễn Ánh cầu cứu các thế lực ngoại bang giúp hắn thỏa mãn sự phục thù giai cấp”.[2] Ngay cả trong các bộ sử gần đây, khuynh hướng đánh giá các chúa Nguyễn, nhà Nguyễn vẫn hết sức nặng nề, không khác các đánh giá trước đây là mấy. “Mọi chính sách chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội triều Nguyễn ban hành đều nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn”.
Bộ máy chính trị triều Nguyễn ngay từ đầu đã mang tính chất quan liêu, độc đoán và sâu mọt. Đó là một nhà nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối, tập trung cao độ với một chế độ chính trị lạc hậu, phản động.[3]“Về đối ngoại, chúng ra sức đẩy mạnh thủ đoạn xâm lược đối với các nước láng giềng như Cao Miên, Lào làm cho quân lực bị tổn thất, tài chính quốc gia và tài lực nhân dân bị khánh kiệt”.[4] Từ những năm 1990 trở lại đây đã có gần 20 cuộc hội thảo khoa học, kể cả hội thảo tổ chức gần đây tại Thanh Hóa (18-19/10/2008) về các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn từ thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 19, các cuộc tranh luận vẫn tiếp tục và cũng không kém phần gay gắt..
2.  Mặt tích cực trong chính sách đối ngoại, ngoại giao của các chúa Nguyễn, triều Nguyễn
Các chúa Nguyễn, vương triều Nguyễn, nhất là các chúa Nguyễn có những đóng góp đáng kể về đối ngoại. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, lãnh thổ là một trong các yếu tố quan trọng tạo nên quốc gia và sức mạnh quốc gia. Các chúa Nguyễn đã có công góp phần mở mang bờ cõi nước ta. Đất nước lớn hơn, quốc gia mạnh hơn, ảnh hưởng đối với khu vực và quốc tế sẽ mạnh hơn. Lúc Nguyễn Hoàng vào làm Tổng  trấn Thuận Hóa năm 1558, cương vực nước ta mới đến Quảng Nam. Các chúa Nguyễn đã có công mở rộng cương vực nước ta từ Quảng Ngãi đến Cà Mau. Diện tích của khu vực mở rộng này là 136.131 km2, chiếm hơn 40% diện tích nước ta hiện nay. Thật là một kỳ tích!
Có nhận xét cho rằng, không có các chúa Nguyễn, công cuộc Nam tiến của chúng ta đã vẫn sẽ diễn ra, thậm chí nhanh chóng hơn, hòa bình hơn, nhân đạo hơn trong một quốc gia thống nhất… Nhận xét đó đúng một phần. Thời Đinh - Tiền Lê, biên giới cực Nam nước Đại Cồ Việt là Nhật Nam.[5] Năm 982, sau khi chiến thắng quân Tống, Hoàng đế Lê Đại Hành hành quân vào Chiêm Thành trừng trị tội bắt giam sứ giả Đại Cồ Việt, song Nghệ Tĩnh vẫn là biên giới cực Nam của nước ta. Năm 1044, do Chiêm Thành không chịu thông sứ và cho quân quấy nhiễu nhiều vùng biển, vua Lý Thái Tông đích thân đem quân đi đánh. Vua Thái Tông tiến đến tận kinh đô Phật Thệ (Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế), tướng Chiêm Thành là Quách Gia Di chém quốc vương Sạ Đẩu, đem quân xin hàng. Đến thế kỷ 11, thời Lý Thánh Tông (năm 1069), lãnh thổ Đại Việt mở thêm được ba châu: Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh (Quảng Bình - Quảng Trị ngày nay) do vua Chiêm là Chế Củ dâng để tạ tội và xin được trả tự do, sau khi thua Đại Việt và bị bắt làm tù binh. Đến thế kỷ 14, đời Trần năm 1305, triều Trần Anh Tông vua Chiêm Thành là Chế Mân dâng thêm hai châu Ô, châu Lý (Nam Quảng Trị và Thuận Hóa) để xin cưới công chúa Huyền Trân. Dưới thời Hồ Quý Ly, năm 1402, biên giới của Đại Việt mở rộng đến Nam Quảng Nam, Quảng Ngãi. Năm 1470, vua Lê Thánh Tông đánh Chiêm Thành vì vua Chiêm sai sứ sang cầu viện nhà Minh và xâm phạm biên giới nước ta đồng thời đánh chiếm vùng Thị Nại (Bình Định). Biên giới nước ta mở đến đèo Cù Mông, phía bắc tỉnh Phú Yên. Đây là biên giới nước ta vào thời điểm Nguyễn Hoàng làm Tổng trấn Thuận - Quảng năm 1558.
Các vùng Bình - Trị -Thiên, Thuận Hóa - Quảng Nam, những đất lấy được của Chiêm Thành thực sự chưa được khai khẩn vì thiếu chính quyền và thiếu dân. Chỉ đến thời các chúa Nguyễn mới có điều kiện để khai phá thực sự các vùng này. Nếu tính cả các vùng này, diện tích đất đai mà các chúa Nguyễn mở rộng là 179.000 km2, chiếm khoảng 54,4 % lãnh thổ nước ta hiện nay. Trong hai thế kỷ 17 - 18, các chúa Nguyễn từ chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613) đến chúa Võ Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), cương vực nước ta đã được mở rộng từ Quảng Nam đến Châu Đốc - Hà Tiên. Các triều đại trước chúa Nguyễn phải mất sáu thế kỷ mới mở rộng được thêm 42.229 kmtừ Nghệ Tĩnh đến Quảng Nam, trong khi các chúa Nguyễn chỉ mất không đầy hai thế kỷ đã mở được 136.131 km2..    
Có nguyên nhân khách quan và chủ quan trong việc các chúa Nguyễn thúc đẩy mở mang bờ cõi xuống phía Nam. Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa có mưu đồ tranh bá đồ vương nhằm độc chiếm quyền thống trị phương Nam, chống lại chúa Trịnh. Chính điều đó cũng gây ra cuộc cát cứ, nội chiến phân tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài hai thế kỷ. Chúa Trịnh cũng chịu trách nhiệm đó. Dù với mục đích nào, với việc mở rộng cương vực nước ta, các chúa Nguyễn đã có công lớn. Do có mục đích cát cứ, chống lại nhà Trịnh mà công cuộc mở rộng và khai phá phương Nam đã diễn ra khẩn trương hơn, mạnh mẽ hơn, quyết liệt và nhanh hơn vì đó là yêu cầu sống còn của các chúa Nguyễn.
Các cuộc mở mang bờ cõi đều phải trả bằng xương máu dù dưới thời các chúa Nguyễn cũng như dưới thời các vua chúa khác trước đó. Các cuộc hành quân của Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Thường Kiệt, Trần Thánh Tông, Trần Duệ Tông… cũng đều phải trả bằng xương máu để mở mang bờ cõi. Đương nhiên đó là công sức của nhân dân miền Bắc cũng như miền Nam. Song vai trò cá nhân của các chúa Nguyễn với tư cách là những người tổ chức, lãnh đạo việc mở rộng bờ cõi vô cùng quan trọng. Ở đây cũng cần nhấn mạnh vai trò của Công chúa Ngọc Vạn, con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên, người được gả cho Vua Chân Lạp Chey Chettha II. Với tư cách là Hoàng hậu Chân Lạp, trong 11 năm (1618-1629), bà đã có vai trò không nhỏ để có nhiều cuộc di dân hòa bình của người Việt vào đến tận Đồng bằng sông Cửu Long. Chiến tích của Ngọc Vạn công chúa khác gì chiến công của Huyền Trân công chúa thời Trần.
Thứ hai, nếu như Quang Trung - Nguyễn Huệ có công lao to lớn mở đường cho sự thống nhất đất nước sau nhiều năm nội chiến, chia cắt thì quá trình hoàn tất và củng cố sự nghiệp thống nhất đất nước được tiếp nối từ Gia Long đến Minh Mệnh… Đi đôi với việc thống nhất đất nước là sự củng cố chủ quyền quốc gia, trong đó có chủ quyền biển đảo. Một trong các chiến công lớn của các vua triều Nguyễn là khẳng định chủ quyền đất nước, trong đó có chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Ngay từ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) đã lập ra đội Hoàng Sa và Bắc Hải. Việt Nam dưới triều Nguyễn đã cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền, xây dựng miếu Hoàng Sa với tên gọi chung là Vạn Lý Trường Sa, thực hiện chiếm hữu Hoàng Sa và Trường Sa mang tính nhà nước, liên tục và hòa bình[6]cho mãi đến những năm đầu thế kỷ 19 chưa hề vấp phải sự phản đối của bất kỳ quốc gia nào.[7]  Năm 1909, chính quyền Quảng Đông của nhà Thanh, Trung Quốc cho Tây Sa (Hoàng Sa) là “vô chủ” nên  tìm cách tổ chức chiếm hữu. Họ đã nhầm, thực tế Hoàng Sa đã có chủ từ rất lâu là nhà Nguyễn. Chúng ta có không ít tài liệu, tư liệu hùng hồn khẳng định việc triều Nguyễn thực hiện chủ quyền liên tục ở hai quần đảo này.[8]
Thứ ba, có ý kiến cho rằng chính sách đối ngoại của nhà Nguyễn là mù quáng, thiển cận như thần phục nhà Thanh, xâm lược, bắt nạt Cao Miên, Ai Lao. Song tác giả bài viết này có suy nghĩ khác. 
Ứng xử với người láng giềng, vô cùng quan trọng trong chính sách đối ngoại của quốc gia. Người  ta chỉ có thể thay đổi được bạn thù, song không ai thay đổi được láng giềng. Nhà sử học Phan Huy Chú rất đúng khi nhận xét rằng “Trong việc trị nước, hòa hiếu với láng giềng là việc lớn, mà những khi ứng thù lại rất quan hệ, cho nên nghĩa tu hiếu (việc giao hiếu) chép ở Kinh Xuân Thu, đạo giao lân (giao thiệp với các nước láng giềng) chép ở Hiền truyện (sách Mạnh Tử), chính là đem lòng tin thực mà kết giao, người có quyền trị nước phải nên cẩn thận”.[9] Trung Quốc luôn là người láng giềng lớn mạnh của Việt Nam. Trung Quốc phong kiến lại có tư tưởng bành trướng, bá quyền đối với nước ta và nhiều lần xâm lược Việt Nam. Cũng như các triều đại trước đó, ứng xử với Trung Quốc luôn là sợi chỉ đỏ trong chính sách đối ngoại quốc gia. Nhà Nguyễn cũng vẫn phải thực hiện chính sách thần phục Mãn Thanh, nhận phong tước của nhà Thanh, thậm chí thời kỳ đầu phải ra Thăng Long để thụ phong, vì sứ thiên triều không chịu vào Huế. Mặt khác, nhà Nguyễn vẫn có ý thức đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, giữ vững biên giới quốc gia. Đồng thời, thúc đẩy quan hệ thương mại Đại Nam - Trung Quốc. Đó là chính sách ngoại giao đúng đắn, mềm mỏng nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia.
Trong quan hệ với các nước láng giềng như Cao Miên, Lào, chính sách của triều Nguyễn là luôn tìm cách phát huy ảnh hưởng, buộc họ thần phục, cống nạp, khi có cơ hội thì sát nhập vào lãnh thổ nước mình, khi không có cơ hội thì gây ảnh hưởng để tạo thành “phên dậu” của mình.[10] Chính sách trên có điều kiện thuận lợi để triển khai do nội bộ các nước đó luôn có chia rẽ, xung đột và thường có lực lượng tìm đến Đại Nam, cũng như nước Xiêm láng giềng để nhờ cậy với mục đích thoán đoạt quyền lực và được bảo hộ. Đó cũng là bản chất của giai cấp phong kiến nói chung, trong đó có phong kiến Việt Nam, là đặc điểm “cá lớn nuốt cá bé” của quan hệ quốc tế lúc bấy giờ. Đó chính là lý do giải thích tại sao nước Đại Nam hùng mạnh của Minh Mệnh vào các năm 1827 và 1835 đem quân sang Ai Lao và Cao Miên…
Thứ tư, các chúa Nguyễn và triều Nguyễn đã có chính sách giao thương với nước ngoài đúng đắn, nhất là các chúa Nguyễn ở Đàng trong. Bắt đầu từ chúa Nguyễn Hoàng đã thực thi chính sách thúc đẩy thương mại với các nước trước hết là Nhật Bản, Trung Quốc. Số thương thuyền buôn bán với Đàng trong vào đầu thế kỷ 17 đã vượt xa số thương thuyền đến Xiêm, Cao Miên. Đàng trong đứng đầu danh sách các nước Đông Nam Á trong buôn bán với Nhật Bản nhờ chính sách thông thoáng và vị trí địa lý thuận lợi. Đó cũng chính là nhân tố quan trọng giúp kinh tế Đàng trong phát triển mạnh.
Đi liền với ngoại thương, việc bang giao với nước ngoài của Đàng trong cũng khá sôi động. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã gả con gái cho thương gia Nhật, nhận một thương gia Nhật làm con nuôi, thường xuyên trao đổi thư từ, tiếp xúc với Nhật Bản. Người phương Tây được đối xử tốt nhất: Thiên chúa giáo không bị cấm đoán, thừa sai được sử dụng ngay trong Phủ Chúa, làm bác sĩ riêng, làm thầy giáo dạy toán, thiên văn, cố vấn cho các chúa Nguyễn…
Triều Nguyễn cũng có chính sách thúc đẩy thương mại với Trung Quốc, Nhật Bản. Quan hệ buôn bán khá phát triển với vai trò thương nhân người Hoa.[11]
3.  Tiêu cực, thiếu sót trong chính sách đối ngoại, ngoại giao của triều Nguyễn
Đâu là thiếu sót, tiêu cực trong chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn? Vấn đề này đã được nhiều học giả phân tích. Có lẽ những sai lầm trong chính sách ngoại giao bắt đầu từ khi chúa Nguyễn đánh bại Tây Sơn lập ra nhà Nguyễn. Các thiếu sót có thể khái quát như sau.
Thứ nhất, một trong các sai lầm nghiêm trọng có thể coi là tội ác là việc Nguyễn Ánh sang Xiêm xin vua Xiêm đem quân giúp đánh Tây Sơn vì lợi ích dòng họ của mình. Đó là hành động “cõng rắn cắn gà nhà”. Dù với mục đích gì cũng không thể biện minh cho việc rước quân xâm lược giầy xéo quê hương. Đó là tội ác lớn đối với dân tộc. Cuối tháng 7/1784, tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2 vạn thủy quân, 300 chiến thuyền và tướng Chiêu Thù Biên đem 3 vạn bộ binh cùng Nguyễn Ánh đánh Gia Định. Cuối năm đó, gần một nửa đất Gia Định đã thuộc về Xiêm - Nguyễn Ánh. Quân Xiêm đã cướp của, giết người tàn bạo, gây ra bao tội ác đối với nhân dân ta. Nguyễn Huệ đã đánh tan quân xâm lược và quân Nguyễn Ánh tại trận Rạch Gầm - Xoài Mút lịch sử vào ngày 19/1/1785, rửa hận cho dân tộc. Chính sử nhà Nguyễn sau này cũng phải thừa nhận: “Người Xiêm sau trận thua năm Giáp Thìn (1785) ngoài miệng tuy nói khoác nhưng trong bụng thì sợ quân Tây Sơn như sợ cọp”.
Thứ hai, các vua Nguyễn đã để đất nước rơi vào tay thực dân Pháp, khiến nhân dân ta lâm vào vòng nô lệ hơn 80 năm. Nguyên nhân thất bại trong việc chống xâm lược nằm ở đường lối, chính sách của vua quan nhà Nguyễn, trước hết là vua Tự Đức. Họ đi từ sai lầm này đến sai lầm khác như quá cảnh giác với bọn thực dân nên đã tiến hành chính sách cấm đạo, bế quan tỏa cảng, không tổ chức toàn dân chống giặc, mà còn quá nhu nhược, ngoài ra lại dựa vào nhà Thanh để chống Pháp. Song nhà Thanh đã thỏa hiệp với thực dân Pháp trên số phận của Đại Nam, đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác (Hòa ước năm Nhâm Tuất 1862, Hòa ước Giáp Tuất năm 1874 và cuối cùng là Hòa ước Patơnốt năm 1884). Với Hòa ước 1884, Đại Nam hoàn toàn mất độc lập, bị xóa tên trên bản đồ thế giới, trở thành thuộc địa của Pháp, bị Pháp đô hộ.
Trước đó, do bị Tây Sơn đánh tả tơi, Nguyễn Ánh đã đi cầu viện nước Pháp. Ngày 28/11/1787, tại Paris, đại diện của Nguyễn Ánh và chính phủ Pháp đã ký Hiệp ước 10 điểm, theo đó Pháp cam kết giúp binh thuyền, quân đội và chiến cụ theo yêu cầu của chúa Nguyễn. Còn Nguyễn Ánh cam kết sẽ nhường chủ quyền cửa Hàn (Đà Nẵng) và đảo Côn Lôn cho Pháp. Nước Pháp được lập xưởng trên đất liền để sửa chữa tàu thuyền… Mặc dù Hiệp ước không được thực hiện song chính là cái cớ để Pháp xâm lược nước ta. Đó thực sự là tội tày trời của triều Nguyễn. Đánh giá về triều Nguyễn, trong “Lịch sử nước ta” (năm 1941), lãnh tụ Hồ Chí Minh đã viết:
“Bị Tây Sơn đuổi chạy ra nước ngoài.
…..
Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây.
Nay ta mất nước thế này,
Cũng là vua Nguyễn rước Tây vào nhà.
Khác gì cõng rắn cắn gà,
Rước voi dầy mả, thật là ngu si.
….
Ngàn năm gấm vóc giang san,
Bị vua họ Nguyễn đem hàng cho Tây!
Tội kia càng đắp càng đầy,
Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng”.[12]
Nước ta có thể tránh được cuộc xâm lăng của thực dân Pháp không? Có hai quan điểm trái ngược nhau về vấn đề này. Quan điểm thứ nhất là chúng ta không thể tránh khỏi việc rơi vào vòng đô hộ của chủ nghĩa thực dân vì thực dân hóa là xu thế lúc bấy giờ, nhiều dân tộc ở Á, Phi đều không tránh nổi. Quan điểm thứ hai là Việt Nam có thể tránh được việc bị Pháp xâm lược, có thể chống xâm lược thắng lợi bởi dân ta có truyền thống đoàn kết, yêu nước chống ngoại xâm. Hơn nữa, Đại Nam là nước có tầm cỡ trung bình, tương đối phát triển trong khu vực còn nước Pháp ở xa và có không ít khó khăn…
Thứ ba, về việc chia cắt đất nước, đây là vấn đề đối nội song có liên quan đến đối ngoại vì chủ quyền quốc gia bị chia cắt đã làm suy yếu sức mạnh quốc gia. Trong phân tranh Trịnh - Nguyễn và trong cuộc nội chiến giữa Đàng trong và Đàng ngoài có trách nhiệm của cả họ Trịnh cũng như họ Nguyễn.  Ích kỷ, vì lợi ích dòng tộc là bản chất của giai cấp phong kiến đồng thời cũng là xu thế trên thế giới từ trước khi hình thành các quốc gia dân tộc. Tất cả những hành động trên đều đáng phê phán, song đó là hạn chế của giai cấp và lịch sử.
Giai đoạn các chúa Nguyễn, triều Nguyễn cùng với các vấn đề về đối ngoại, ngoại giao là giai đoạn phức tạp trong lịch sử dân tộc. Chúng ta cần có quan điểm khách quan, “công minh lịch sử” trong việc đánh giá mặt tích cực, cũng như mặt  tiêu cực của các chúa Nguyễn, triều Nguyễn. Trong đánh giá phải có quan điểm lịch sử và quan điểm giai cấp. Trên đây là vài suy nghĩ cá nhân, do vấn đề rất phức tạp nên cần được tiếp tục nghiên cứu làm rõ.

PGS.TS. Vũ Dương Huân,  Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Viễn Đông, Liên bang Nga

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.             Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999, t.1.
2.             Đặng Trung Hội, “Lý Sơn - Bảo tàng Hoàng Sa giữa biển”, báo Quân đội nhân dân, ngày 4-8/6/2009.
3.             Học viện Quan hệ Quốc tế, Ngoại giao Việt Nam từ thuở dựng nước đến Cách mạng tháng Tám 1945, Hà Nội, 2001.
4.             Lịch sử Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985, t. 2.
5.             Nguyễn Lương Bích, “Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước”, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000.
6.             Nguyễn Nhã, “Dùng luận án tiến sĩ đấu tranh cho chủ quyền nước nhà”, báo Tiền Phong, ngày 21/6/2009.
7.             Nhiều tác giả, Lịch sử nhà Nguyễn - Một cách tiếp cận mới, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2005.
8.             Nguyễn Xuân Diện, “Hai bản đồ quý khẳng định chủ quyền Việt Nam ở Trường Sa và Hoàng Sa”, báo Lao Động, ngày 19/3/2009.
9.             Phan Huy Lê, Hội thảo khoa học “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19”, Tạp chí Cộng sản, số 799, tháng 5/2009.
10.           Tiến Dũng, “Thêm hai bằng chứng khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa”, báo Quân đội nhân dân, ngày 2/4/2009.
11.           Vũ Kim Biên, “Góp thêm ý kiến xung quanh “hậu hội thảo” về nhà Nguyễn”, Tạp chí Cộng sản, số 797, tháng 3/2009.



[1] Viện  Sử học: Đại Nam thực lục, Nxb. Giáo dục, 1961, t.1
[2] Lịch sử Việt Nam, Nxb, Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985,  t.II
[3] Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999, t.2, tr.12.

[4] Sđd, tr.15.
[5] Nhật Nam ở vùng Nghệ Tĩnh, có biên giới giáp Lâm Ấp (thuộc Chiêm Thành - một nước lớn, mạnh và hiếu chiến có lãnh thổ kéo dài đến Bình Thuận ngày nay).
[6] Nguyễn Nhã, “Dùng luận án tiến sĩ đấu tranh cho chủ quyền nước nhà”, báo Tiền Phong, số 172, ngày 21/6/2009.
[7] Nguyễn Xuân Diện, “Hai bản đồ quý khẳng định chủ quyền Việt Nam ở Trường Sa và Hoàng Sa”, báo Lao động, ngày 19/3/2009.
[8]Nguyễn Xuân Diện, “Hai bản đồ quý khẳng định chủ quyền Việt Nam ở Trường Sa và Hoàng Sa”, báo Lao Động, ngày 19/3/2009; Tiến Dũng, “Thêm một bằng chứng khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa”, báo Quân độinhân dân, ngày 2/4/2009; Thanh Hải, “Lặng lẽ vì Hoàng Sa”, báo Lao Động, ngày 8/5/2009; Đặng Trung Hội, “Lý Sơn - Bảo tàng Hoàng Sa giữa biển”, báo Quân đội nhân dân,  ngày 4-8/6/2009; Nguyễn Nhã, “Dùng luận án tiến sĩ đấu tranh cho chủ quyền nước nhà”, báo Tiền Phong, ngày 21/6/2009…
[9] Phan Huy Chú, “Lịch triều hiến chương loại chí’, Bang giao chí, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 2007, tập II, tr.533.
[10] Học viện Quan hệ Quốc tế, Ngoại giao Việt Nam từ thuở dựng nước đến cách mạng tháng Tám 1945, Hà Nội, 2001, tr.251.
[11] Học viện Quan hệ Quốc tế, Ngoại giao Việt Nam từ thuở dựng nước đến Cách mạng tháng Tám 1945, Hà Nội, 2001, tr.252.
[12]  Hồ Chí Minh toàn tập, Hà Nội, 1996, t.3, tr. 226-227.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét