1. Nhận thức lại về chúa Nguyễn và triều Nguyễn
- GS Phan Huy Lê -
Đi sâu vào thời kỳ Nguyễn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu thảo luận, nhưng quan điểm trong hội thảo này sẽ xích lại gần nhau qua không khí học thuật tự do, tranh luận cởi mở, để qua cọ xát sẽ tiếp cận sự thật trung thực nhất.
Đến giờ chúng ta mới tổ chức hội thảo để nhìn nhận, đánh giá lại một thời kỳ lịch sử đã bị ứng xử không công bằng, liệu có muộn không? Nhất là khi, rất nhiều thế hệ học sinh, sinh viên đã học qua SGK và có cái nhìn lệch lạc, một chiều về các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn.
Nói chậm thì cũng đúng, vì quan điểm phê phán thời kỳ chúa Nguyễn, nhà Nguyễn gần như trở thành quan điểm chính thống. Quan điểm này xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1954, đỉnh cao là năm 1960 - 1962, từ đó thành quan điểm ảnh hưởng đến tất cả những công trình nghiên cứu, kể cả sách giáo khoa phổ thông cũng như đại học, dù không có sự chỉ đạo cụ thể nào như thế, nhưng một số cuốn sách được xem là chính thống đưa ra quan điểm đó và nhiều người cứ hướng theo.
Quan điểm này có bối cảnh khách quan, hình thành trong thời kỳ chiến tranh, khi mục tiêu sống còn là dành độc lập và thống nhất tổ quốc. Bối cảnh chính trị đó tác động mạnh đến nhận thức của giới Sử học, nhưng bản thân giới sử học cũng phải chịu trách nhiệm về mặt phương pháp luận.
"Hy vọng hội thảo này gây được chuyển biến khá căn bản trong nhận thức đánh giá, cả về mặt công tích lẫn hạn chế về thời kỳ chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Đứng về phương diện khoa học thì đây là thời điểm chín mùi cho cuộc hội thảo tầm quốc gia, vì đã có quá trình chuẩn bị, vài thập kỷ nghiên cứu..." |
Có những cuộc hội thảo quan điểm xung đột khá gay gắt (nhất là thời kỳ đầu), nhưng tiếng nói của những kết quả nghiên cứu mới càng ngày càng thu hút sự quan tâm của giới khoa học tuy chưa thật sự có hệ thống để khẳng định một xu hướng mới trong nhận thữc.
Hy vọng hội thảo này gây được chuyển biến khá căn bản trong nhận thức đánh giá, cả về mặt công tích lẫn hạn chế về thời kỳ chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Đứng về phương diện khoa học thì đây là thời điểm chín mùi cho cuộc hội thảo tầm quốc gia, vì đã có quá trình chuẩn bị, vài thập kỷ nghiên cứu, để trên cơ sở các thành quả đó, đi tới nhìn nhận có tính chất tổng hợp, hệ thống trên một số vấn đề cơ bản, còn dĩ nhiên một số vấn đề cụ thể còn phải tiếp tục thảo luận, nhưng có định hướng chung.
Nghĩa là, ta chính thức thừa nhận quan điểm phê phán và phủ định trước đây là không khách quan?
Đúng vậy, có thể nhìn thấy những thành tựu rất rõ ràng và to lớn của nhà Nguyễn. Di sản rất lớn không phải của một cá nhân chúa Nguyễn, vua Nguyễn nào, mà của cả thời kỳ lịch sử trên 3 thế kỷ đó để lại là xác lập lãnh thổ toàn vẹn của Việt Nam, trên cơ sở đó đi tới sự thống nhất lãnh thổ trong một quốc gia độc lập. Đây là mốc cực kỳ quan trọng trong lịch sử mỗi quốc gia. Đến giữa TK XVIII thì chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ đến đồng bằng Sông Cửu Long, qua thời Tây Sơn đến Nguyễn Ánh đã thống nhất lãnh thổ trên một quốc gia trải rộng từ Bắc đến Nam, từ đất liền tới hải đảo.
Thứ hai là những thành tựu văn hóa của thời Nguyễn. Có tới 3 di sản văn hóa được công nhận có giá trị toàn cầu thuộc về thời kỳ này: Cố đô Huế, Hội An và Nhã nhạc cung đình Huế. Cố đô Huế tuy thời gian tòn tại chỉ từ 1802 - 1945, trước đó là Phú Xuân của chúa Nguyễn, Phú Xuân của Tây Sơn, nhưng về phương diện khác thì là trung tâm chính trị, văn hóa, quyền lực của một nhà nước Việt Nam thống nhất từ Bắc đến Nam, phản ánh được bước phát triển cao hơn của lãnh thổ quốc gia, quy tụ được các giá trị văn hóa của cả lãnh thổ rộng lớn. Hội An cũng là sản phẩm của thời kỳ này, nhưng là một thương cảng, trung tâm kinh tế, mậu dịch đối ngoại, giao lưu quốc tế trong thời kỳ hội nhập mạnh.
Chưa có Quốc sử quán nào hoạt động hiệu quả như triều Nguyễn, để lại cho ta di sản cực kỳ đồ sộ. Di sản văn hóa chữ viết vô cùng phong phú với khối lượng lớn các bộ quốc sử, địa chí, hội điển, văn bia, châu bản, địa bạ, gia phả... Một phần rất quan trọng nữa là các di sản văn hóa vật thể không những của thời kỳ này mà của cả bao thời đại đều được bảo tồn, trùng tu vào thời Nguyễn, kể cả những di sản lâu đời (có từ thời Lý đến Hậu Lê) như chùa Một Cột, chùa Trấn Quốc... nhờ đó lưu giữ được nhiều di sản trước Nguyễn.
Tất nhiên đi sâu vào thời kỳ Nguyễn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu thảo luận, nhưng quan điểm trong hội thảo này sẽ xích lại gần nhau qua không khí học thuật tự do, tranh luận cởi mở, để qua cọ xát sẽ tiếp cận sự thật trung thực nhất. Ví dụ như công lao thống nhất đất nước là của nhà Nguyễn nhưng còn có vai trò của Tây Sơn? Trước đây có hai xu hướng đối nghịch nhau, có lúc nhìn nhận tất cả công cho nhà Tây Sơn, sau lại phủ nhận Tây Sơn, ghi công hết cho nhà Nguyễn. Cả hai quan điểm cục đoan đều không đúng, vì lịch sử là sự tiếp nối và phát triển trong mâu thuẫn và có lúc có vẻ như nghịch lý.
Thành Gia Định (Sài Gòn) vẽ theo tư liệu của bản đồ Bruyn 1795, Trần Văn Học 1815 |
Đúng là trong cuộc đấu tranh chống Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã đưa quân Xiêm vào. Trước đây có quan điểm cực đoan gọi đây là hành động "cõng rắn cắn gà nhà", là "bán nước". Đúng là không thể biện hộ cho hành động "không sáng" này trong sự nghiệp của Nguyễn Ánh, nhưng phải nhìn nhận công bằng. Trong những cuộc đấu tranh bên trong quyết liệt, việc nhờ đến ngoại viện là chuyện thường xẩy ra trong lịch sử. Nhưng điều quan trọng nhất là người cầu ngoại viện phải giữ được độc lập chủ quyền của dân tộc, đưa lại lợi ích cho đất nước, còn nếu cầu viện mà bất lực để mất nước thì có tội lớn.
Trong tình thế của Nguyễn Ánh lúc đó, bị đánh bật khỏi đất Gia Định, lưu vong, nên phải nhờ ngoại viện để chống Tây Sơn. Có thực tế là thế lực Nguyễn Ánh yếu, không kiềm chế nổi quân Xiêm, chính ông đã có lúc than thở: Ta đưa quân Xiêm vào thế này, giờ nó cướp bóc giết hại nhân dân, nhân dân oán thán như vậy, ta được nước còn có nghĩa gì? Cũng có thực tế nữa là quân Xiêm đã bị quân Tây Sơn đánh tan trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút. Nhưng người ta có thể suy luận rằng, nếu quân Xiêm không bị Tây Sơn đánh bại, thì chắc gì Nguyễn Ánh đã kiềm chế được quân Xiêm, nhất là đặt trong tham vọng của vương triều Xiêm lúc bấy giờ đang muốn khóng chế cả Chân Lạp và Gia Định. Hành động của Nguyễn Ánh là không thể biện hộ được nhưng cần phân tích và đánh giá một cách công minh.
Một vấn đề nữa cũng phải thảo luận, là việc nhà Nguyễn (thời Tự Đức) để mất nước trước cuộc xâm lăng của đế quốc Pháp. Kết luận trước đây cho rằng Tự Đức bạc nhược đầu hàng, phản bội dân tộc là chưa thỏa đáng, chưa khách quan. Ông và triều Nguyễn đã tìm mọi cách giữ vương triều đến cùng, nhưng do năng lực và nhãn quan chính trị nên không đề ra được đối sách đúng để chống kẻ xâm lược hoàn toàn mới, mà lịch sử trước đây chưa để lại kinh nghiệm.
Trong cả khu vực Đông Nam Á và Đông Á, tất cả các quốc gia đều mất nước, hoặc thành thuộc địa, hoặc thành nửa thuộc địa. Chỉ riêng Nhật Bản và Thái Lan giữ được độc lập. Nhật Bản thời Minh Trị thực hiện cuộc cải cách lớn, nhưng tình hình kinh tế xã hội của Nhật có khác các nước phương Đông, bắt đầu từ TK XVII khi đóng cửa với bên ngoài nhưng bên trong phát triển kinh tế rất mạnh, tạo lập những tiền đề cho công cuộc cải cách.
Thái Lan thì có vị vua rất khôn ngoan, tận dụng được vị thế vùng đệm nằm giữa 2 thế lực đế quốc rất mạnh, Anh ở phía Ấn Độ, Pháp ở phía Đông Dương, lợi dụng được mâu thuẫn và cạnh tranh gay gắt này để duy trì thế độc lập tương đối, thực hiện được đường lối mềm mỏng trong bảo vệ chủ quyền quốc gia, tuy cũng có lúc phải chấp nhận sự lệ thuộc nào đó với thế lực đế quốc này hay đế quốc khác nhưng không bị mất nước. Vương triều Thái Lan sau đó cũng cải cách khá mạnh, duy trì chế độ quân chủ nhưng đi vào khuynh hướng phát triển tư bản chủ nghĩa khá sớm. Chỉ hai quốc gia đó thoát khỏi sự xâm chiếm và thống trị của đế quốc phương Tây. Chúng ta cần có cái nhìn so sánh để làm sáng rõ hơn nguyên do mất nước cuối thế kỷ XIX.
Nghĩa là, trong việc mất nước cuối TK XIX không thể phủ nhận trách nhiệm của triều Nguyễn vì là nhà nước quản lý đất nước, nhưng lúc phân tích nguyên nhân mất nước thì phải hết sức khách quan, toàn diện, đặt trong bối cảnh lịch sử mới của khu vực và thế giới, không nên quy kết một cách giản đơn.
Có xu hướng nhìn nhận rằng nhà Nguyễn không "mặn mà" với canh tân, đi ngược lại xu thế của thời đại thì sao, thưa GS?
Hiện nay cũng có vấn đề rất lớn đặt ra, là thái độ của triều Nguyễn trước nhu cầu canh tân, nước ta vào TK XIX trong bối cảnh mới của thời đại thì canh tân là nhu cầu rất bức xúc. Chế độ nhà Nguyễn vẫn là quân chủ, trên hệ tư tưởng Nho giáo, nên trên bình diện phát triển của thời đại đã bộc lộ sự chậm tiến, nếu không canh tân thì không đưa đất nước vượt ra khỏi tình trạng lỗi thời, không đủ tiềm lực để tồn tại độc lập. Canh tân thành nhu cầu quyết định sự tồn vong của đất nước, khi ta phải đầu đương đầu với một thế lực xâm lược hoàn toàn mới chưa từng có trong lịch sử dân tộc trước đó, đấy là các đế quốc phương Tây ở trình độ cao hơn hẳn ta, chế độ chủ nghĩa tư bản, văn minh công nghiệp.
Trong những đề nghị cải cách thời nhà Nguyễn cần phân biệt làm hai loại. Một loạt cải cách trên nền tảng không có gì đụng chạm tới kết cấu kinh tế xã hội đương thời, như khai hoang, làm thủy lợi, chẩn cứu dân nghèo... nghĩa là một số sửa đổi trên nền tảng bảo tồn của chế độ phong kiến, rất cần thiết nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước phù hợp với xu thế của thời đại..
Có những đề xuất canh tân vượt quá tầm nhìn trên, vươn tới những phát triển cao của thời đại, tập trung chủ yếu thời Tự Đức, như những điều trần của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ, ba nhà cải cách có hệ thống nhất. Những cải cách đó không phủ định triều Nguyễn, chưa đụng chạm gì đến sự tồn tại của chế độ quân chủ, những người đề xuất cải cách đều trung thành với vương triều Nguyễn. Họ đề nghị mở cửa thông thưong, học tập công nghệ phương Tây, cải cách giáo dục, củng cố quốc phòng...Những đề nghị canh tân đó sẽ tạo nên những chuyển biến về kinh tế xã hội để đưa đất nước vượt qua tình trạng lạc hậu và mở ra xu thế phát triển mới. Nhưng rất tiếc những đề nghị đó không được chấp nhận.
Trong các vua nhà Nguyễn, người có ý tưởng canh tân cao tương đối sớm với những suy tư về tình hình trong nước và cả tầm nhìn khu vực là Minh Mạng. Ông gửi nhiều phái đoàn ra ngoài, lý do là để mua hàng hóa, nhưng những nơi tới đều là cát cứ xâm lược của phương Tây. Ông có tầm nhìn hướng biển, có những thử nghiệm thành công như đóng tàu chạy hơi nước, dịch nhiều sách kỹ thuật phương Tây ra chữ Hán, mua vũ khí, củng cố hệ thống thành lũy... , rất chủ ý đến việc phòng vệ ven biển. Đó là tầm nhìn chiến lược, nhưng Minh Mạng mới có những ý tưởng chứ chưa cụ thể hóa thành chủ trương chính sách, chưa tập hợp được đội ngũ giỏi trong cận thần, nên ông có vẻ cô đơn.
Còn những vấn đề khác nữa cũng sẽ được đề cập trong hội thảo, nhưng thời gian không cho phép đi sâu, chẳng hạn như về vai trò Nho giáo trong bối cảnh TK 19 thì đánh giá thế nào? Hay việc nhà Nguyễn có những thành tựu trong việc thống nhất đất nước, cải cách bộ máy hành chính tiến bộ,... nhưng lại không thu phục được lòng dân, tình hình xã hội bất ổn định triền miên, khởi nghĩa nông dân nhiều nhất so với các thời kỳ trước đây... Hay chính sách của nhà Nguyễn với tôn giáo thế nào? Còn rất nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Nhưng trong hội thảo này, không tham vọng giải quyết quá nhiều vấn đề, mà tập trung vào những vấn đề lớn để tạo sự chuyển biến trong nhận thức, còn những vấn đề khác sẽ tiếp tục nghiên cứu và thảo luận.
So với thời vương triều Nguyễn đang cần sự định hướng lại, thời kỳ chúa Nguyễn có vẻ ít được quan tâm hơn? Tư liệu về các chúa Nguyễn dường như khuyết thiếu?
Thật ra thời kỳ này rất quan trọng. Nước ta trước thời các chúa Nguyễn mới đến dinh Quảng Nam (đơn vị hành chính rộng gồm từ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định vào đến Bắc Phú Yên), giữa thế kỷ 16 chúa Nguyễn Hoàng tập trung khai phá vùng đất Thuận Quảng cho sự tồn tại của chính quyền mới, vừa lo đối phó với Trịnh ở Đàng Ngoài. Công cuộc mở rộng vào đồng bằng sông Cửu Long được đẩy mạnh trong TK XVII, đầu TK XVIII, đến giữa thế kỷ XVIII thì đến toàn bộ vùng đất Nam Bộ hiện nay, xác lập chủ quyền trên vùng đất mới. Những chúa Nguyễn như Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Thái, Nguyễn Phúc Chu... tư tưởng không bị Nho giáo ảnh hưởng nặng nề, nên mang tính chất thực tế, cởi mở, khai phóng, cái gì có lợi cho xứ sở của mình, cho sự tồn tại và phát triển của vương triều thì thực thi ngay, không bị ràng buộc.
"Đúng là trước đây ta ít nghiên cứu thời kỳ chúa Nguyễn, nhưng gần đây tập trung khá nhiều, vì nghiên cứu Nam Bộ thì phải đi sâu vào thời các chúa Nguyễn cũng như triều đình nhà Nguyễn... " |
Thị dân được quyền tham gia vào quản lý đô thị, hội đồng thành phố... Nước ta không có thành thị tự do, nhưng riêng Hội An có được tính tự quản ở mức độ nhất đinh, hình thành 2 khu phố của người nước ngoài là phố người Nhật và phố người Hoa, trưởng khu do người nước ngoài cử ra, họ được quản lý khu phố đó và phải hoàn thành nhiệm vụ với nhà nước (chủ yếu là thuế), cư dân nước ngoài trong khu phố đó được sống theo tập quán, phong tục, lối sống như tại quê hương. Đó là chính sách cuốn hút người nước ngoài, là chỗ dựa cho những chuyến buôn theo gió mùa, vì ở đây họ là phiên dịch, tích trữ hàng hóa, bán sản phẩm của thuyền buôn chở tới, tạo cơ sở từ bên trong hấp thu lực lượng bên ngoài, làm Hội An sớm trở thành trung tâm mậu dịch quốc tế phát đạt.
Đúng là trước đây ta ít nghiên cứu thời kỳ chúa Nguyễn, nhưng gần đây tập trung khá nhiều, vì nghiên cứu Nam Bộ thì phải đi sâu vào thời các chúa Nguyễn cũng như triều đình nhà Nguyễn...
Thời các chúa Nguyễn thì ít đánh giá trái chiều, chỉ có việc kết tội chúa Nguyễn, Chúa Trịnh là hai thế lực phong kiến cát cứ, chia cắt đất nước. Nhưng không thể nhìn nhận vấn đề đơn giản như thế, vì TKXVI trong nước kinh tế hàng hóa mới phát triển, trị thường cả nước chưa có, giao thông thủy bộ mang tính chất địa phương, nên khả năng quản lý của triều định trung ương ở Thăng Long với dải đất phía Nam rất yếu thì việc xuất hiện các thế lực địa phương là chuyện khó tránh khỏi. Tình hình đât nước từ chỗ thống nhất lâm vào chỗ phân liệt là điều đáng tiếc, nhưng đó là không phải hành vi muốn chia cắt đất nước, mà do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội bấy giờ, khả năng quản lý của trung ương với lãnh thổ mở rộng, điều kiện giao thông kinh tế chưa gắn kết chặt chẽ.
Liệu ta có chấm dứt được cách nhìn nhận lịch sử theo góc nhìn chính trị? Còn nhiều nhân vật, nhiều triều đại khác phải nhìn nhận lại?
Giờ thì không ai ép buộc, nhưng có "chính trị hóa" hay không thì tùy thuộc vào bản lĩnh và năng lực của các nhà khoa học, có thể giữ vai trò chủ động trong sáng tạo khoa học, và chính những kết quả nghiên cứu khoa học bảo đảm tính khách quan và chân xác đó là những cơ sở khoa học đáng tin cậy để nhà quản lý đưa ra các chủ trương và giải pháp chính trị cũng như kinh tế, văn hóa, xã hội hữu hiệu nhất. Đấy mới là mới quan hệ đúng đắn giữa khoa học và chính trị.
Sử học là quá trình nhận thức lại lịch sử, vấn đề này chưa xong thì vấn đề khác đặt ra, thời gian vừa qua, không chỉ thời kỳ chúa Nguyễn và triều Nguyễn mà cả thời kỳ nhà Hồ, thời nhà Mạc.. đều được nhìn nhận và đánh giá lại một cách khách quan hơn. Đối với thời kỳ chúa Nguyễn và triều Nguyễn, ngoài mổt số vấn đề cơ bản liên quan đến định hướng nhận thức chung, còn rất nhiều vần đề cần tiếp tục đặt ra và tiếp tục công việc nghiên cứu, thảo luận...
GS có hy vọng, hội thảo lần này sẽ thay đổi định hướng chung cho cách nhìn nhận, đánh giá lịch sử?
Tôi hy vọng hội thảo quy mô lớn, hiện đã có 91 báo cáo khoa học (trong đó có 8 báo cáo của nước ngoài), quy tụ tất cả những chuyên gia hàng đầu nghiên cứu về triều Nguyễn, đại diện cho giới khoa học cả nước, sẽ đưa ra định hướng trong nhận thức về thời kỳ lịch sử của chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn. Sẽ có những vấn đề có thể kết luận được, có những vấn đề chưa hoàn toàn nhất trí nhưng nhận thức có thể xích lại gần nhau, tạo nên nền tảng chung để tiếp tục nghiên cứu. Từ kết quả nghiên cứu về thời kỳ này có thể rút ra những kinh nghiệm để giới sử học nâng cao trình độ lý luận và phương pháp luận trong nghiên cứu lịch sử nói chung.
Xin cảm ơn GS.
2. 'Quyền lực mềm' giúp Chúa Nguyễn mở cõi thành công
Trong cuộc mở cõi trải dài về hạ lưu sông Cửu Long (Sài Gòn bây giờ), chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên là người đặt nền móng vững chắc ban đầu khi biến 2 công nữ Ngọc Vạn và Ngọc Hoa (con gái chúa) thành thứ "quyền lực mềm" đối với các hoàng đế lân bang.
Đồng lòng vì quốc gia đại sự
Ngọc Khoa và Ngọc Vạn không chỉ xinh đẹp mà còn tài chí, một lòng giúp phụ thân hoàn tất sứ mệnh mở mang cõi Việt.
Năm 1613, Nguyễn Phúc Nguyên lên thay Nguyễn Hoàng. Ông cho cải tổ lại bộ máy theo phiên chế của họ Nguyễn, bắt đầu ly khai chính quyền Lê Trịnh. Lúc này, Hạ lưu sông Cửu Long vốn là một vùng đất mênh mông, hoang vu hứa hẹn nhiều tiềm năng, vị chúa Nguyễn nổi tiếng tinh anh, từ lâu nung nấu sử dụng đường lối “dân đi trước, làng nước theo sau” để mở mang bở cõi. Ông cũng hy vọng biến nơi đây thành kho lương thực, tài sản quí giá cho người dân và “quốc gia” bé nhỏ của mình. Và ông suy tính, chỉ có thể dùng kế mỹ nhân mới ít phải hao tài, tốn lực.
Ngọc Khoa và Ngọc Vạn không chỉ xinh đẹp mà còn tài chí, một lòng giúp phụ thân hoàn tất sứ mệnh mở mang cõi Việt.
Năm 1613, Nguyễn Phúc Nguyên lên thay Nguyễn Hoàng. Ông cho cải tổ lại bộ máy theo phiên chế của họ Nguyễn, bắt đầu ly khai chính quyền Lê Trịnh. Lúc này, Hạ lưu sông Cửu Long vốn là một vùng đất mênh mông, hoang vu hứa hẹn nhiều tiềm năng, vị chúa Nguyễn nổi tiếng tinh anh, từ lâu nung nấu sử dụng đường lối “dân đi trước, làng nước theo sau” để mở mang bở cõi. Ông cũng hy vọng biến nơi đây thành kho lương thực, tài sản quí giá cho người dân và “quốc gia” bé nhỏ của mình. Và ông suy tính, chỉ có thể dùng kế mỹ nhân mới ít phải hao tài, tốn lực.
Đèo Hải Vân. (Ảnh minh họa) |
Đúng thời điểm đó, vua Chân Lạp Chey Chetta 2 muốn tìm một đối lực để chống lại lân bang Xiêm La nên xin cưới một công nữ, con chúa Nguyễn, làm hoàng hậu. Chúa Sãi chỉ đợi có thế ưng gả ngay nàng Ngọc Vạn, người con gái thứ 2, cho vị vua lân bang này. Và vào năm 1620, cuộc hôn thú có tầm "chính trị" này đã được thực hiện, có ảnh hưởng lớn lao đến vận mạng Chân Lạp sau này.
Không chỉ dừng lại ở đó, ông cho cô con gái út là Ngọc Khoa, vị công nương út, vốn nổi tiếng đẹp nhất trong các công nương, giả làm người đi buôn vào đất Chiêm Thành. Danh tiếng cô lái buôn xinh đẹp đến tai vua xứ này là Po Romé. Vua lập tức cho mời nàng đến. Vừa trông thấy Ngọc Khoa, Po Romé lập tức say mê, rước về làm vợ và phong tước là nàng Bia Út (hoàng hậu Út).
Giống như chị gái, Ngọc Khoa chấp nhận cuộc hôn nhân này và về sau hết lòng phụng sự công cuộc mở cõi của vua cha.
Quyền lực mềm của những mỹ nhân
Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635) là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong (ở ngôi từ 1614 đến 1635) sau chúa Tiên Nguyễn Hoàng.
Trong thời gian ở ngôi chúa, ông đã xây dựng một vương triều độc lập, từng bước mở rộng nước Nam xuống tận vùng hạ lưu sông Cửu Long như bây giờ. |
Nhờ ảnh hưởng của mình, hoàng hậu Ngọc Vạn xin cho nhiều người Việt Nam vào giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình. Bà cũng lựa lời xin cho nhiều người Việt Nam lập hãng xưởng và buôn bán gần kinh đô Oudong.
Năm 1623, lấy cớ để giúp chính quyền Miên gìn giữa trật tự, một sứ bộ của chúa Nguyễn đến Oudong yêu cầu được lập cơ sở ở Prey Kôr (tức Sài Gòn ngày nay) và được mở ở đó một sở thu thuế hàng hóa. Vua Chey Chetta cũng dễ dàng chấp thuận và triều đình Thuận Hóa khuyến khích người Việt di cư đến đấy làm ăn.
Ngoài ra, chúa Sãi còn pháo một tướng khác đến đóng ở Prey Kôr. Khi Chey Chatta mất, vùng đất từ Prey Kôr trở ra Bắc đến biên giới Chiêm Thành (tức là Sài Gòn, Bà Rịa, Biên Hòa ngày nay), đã có nhiều người Việt đến ở và khai thác đất đai.
Đổi lại, chúa Sãi hai lần giúp con rể (Chey Chetta 2) đẩy lui quân Xiêm sang xâm lược. Giáo sĩ người Italy tên Christopho Borri ở Quy Nhơn đã nhìn thấy viện binh từ Đàng Trong tiến sang Cao Miên, nên đã ghi lại trong cuốn hồi ký của mình (xuất bản năm 1631) như sau: “Chúa Nguyễn luôn luyện tập binh sĩ và gởi quân đội giúp vua Cao Miên, tức chàng rể chồng của con chúa. Chúa viện trợ cho vua Cao Miên thuyền bè, binh lính để chống lại vua Xiêm...”.
3. Thuỷ quân thời chúa Nguyễn đã từng làm chủ toàn bộ vùng biển Đàng Trong
Cũng nhờ những bước di dân đi trước này của chúa Sãi, trong đó người có công đầu là nàng công nữ Ngọc Vạn, mà công cuộc sáp nhập Cao Miên về với lãnh thổ Việt sau này có nhiều thuận lợi hơn.
Cũng giống như chị gái, Ngọc Khoa ở đất Chàm 20 năm đã giúp cho tình thân hữu hai nước khăng khít. Bà từng bước đưa người dân Việt vào khai khẩn, lập nghiệp. Nhưng năm 1651, đất nước này xảy ra một cuộc nội loạn, chia phe phái giết hại lẫn nhau, Hoàng hậu Ngọc Khoa và đức vua đều bị sát hại. Hiền Vương (sau này là vị chúa Nguyễn thứ 4 của chính quyền Đàng Trong) phải đưa quân vào cứu, dẹp tan loạn, rồi đặt người Việt giữ đất trị an. Từ đó, Chiêm Thành sáp nhập vào lãnh thổ Việt thành những tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Phan Rang, Phan Thiết.
Ca ngợi công lao của hai nàng, Á Nam Trần Tuấn Khải đã chấp bút đề thơ: “Hồng Lạc ta đâu hiếm nữ tài/Nghìn xưa Trưng Triệu đã từng oai/Noi gương Khoa, Vạn, hai công chúa/Một sớm ra đi mở đất đai”…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét