Thứ Bảy, 23 tháng 6, 2012

Thế trận chiến tranh toàn dân trong Chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông 1947


Thế trận chiến tranh toàn dân trong Chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông 1947

Tạp chí Quốc phòng toàn dân


Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), để đánh thắng một đế quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự hơn hẳn, có đạo quân viễn chinh xâm lược nhà nghề, được tổ chức tốt, trang bị hiện đại, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo quân, dân ta tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, thực hiện khẩu hiệu: “Toàn dân đoàn kết. Quân dân một lòng. Kháng chiến khắp nơi. Triệt để dùng chiến thuật du kích. Mỗi phố là một mặt trận. Mỗi làng là một pháo đài”, hình thành thế trận chiến tranh toàn dân trên từng khu vực, chiến trường và trên địa bàn cả nước, thực hiện đánh bại từng bước chiến tranh xâm lược của địch, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Chiến dịch Việt Bắc- Thu Đông 1947 không chỉ là chiến dịch phản công đầu tiên của quân dân ta trong 30 năm tiến hành chiến tranh giải phóng chống Pháp và Mỹ xâm lược. mà còn đánh dấu sự hình thành và phát triển nghệ thuật tổ chức xây dựng và chuyển hoá thế trận chiến tranh toàn dân trong chiến dịch của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam. Ta có thể nghiên cứu khái quát những nội dung cơ bản, diễn biến chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông 1947 để thấy rõ vấn đề này.
Về địch, trước Thu Đông 1947, sau khi chiếm được các thành thị, phần lớn vùng đồng bằng, một phần vùng trung du và Tây Bắc, Đông Bắc Bắc Bộ, thực dân Pháp ra sức củng cố vùng đã chiếm; đồng thời, xúc tiến việc chuẩn bị một cuộc tiến công lớn lên Việt Bắc hòng tiêu diệt lực lượng chủ lực và cơ quan đầu não kháng chiến của ta bằng chiến lược “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.
Để thực hiện kế hoạch tiến công Việt Bắc, địch sử dụng 12.000 quân tinh nhuệ (cả hải, lục, không quân) gồm 5 trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo binh, một thuỷ đội 40 tàu và một số lính thuỷ đánh bộ, do tướng Xa-lăng (Salan), Tư lệnh chiến trường Bắc Đông Dương, chỉ huy, hình thành ba mũi tiến công chính. Hai mũi tiến công theo hướng đường số 4 và sông Lô, bao vây toàn bộ căn cứ Việt Bắc. Mũi thọc sâu nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn và vùng xung quanh - nơi được coi là “Thủ đô kháng chiến” - để “bắt gọn Chính phủ Hồ Chí Minh”. Sau đó, càn quét tiêu diệt lực lượng kháng chiến và chiếm đóng cả vùng Việt Bắc. Phạm vi chiến dịch đã mở rộng tới 12 tỉnh với những gọng kìm dài ba, bốn trăm ki-lô-mét, hình thành thế bao vây lớn và mũi thọc sâu bất ngờ bằng quân dù vào ngay sau lưng ta.
Sáng 7 - 10 - 1947, địch bắt đầu cho quân nhảy dù xuống Bắc Cạn. Trong hai ngày 7 và 8 tháng 10, gần 2.000 quân địch nhảy dù xuống khu vực Thị xã, Chợ Mới, Chợ Đồn. Sau đó, từ thị xã Bắc Cạn chúng kéo lên chiếm Phủ Thông rồi chiếm đóng huyện lỵ Chợ Rã. Đồng thời, binh đoàn bộ binh thuộc địa theo đường số 4, từ Lạng Sơn lên Cao Bằng, vòng xuống Bắc Cạn, bao vây Việt Bắc ở phía đông và phía bắc.
Binh đoàn hỗn hợp bộ binh thuộc địa và lính thuỷ đánh bộ từ Hà Nội ngược sông Hồng và sông Lô lên Việt Trì, Phú Thọ, Tuyên Quang, Chiêm Hoá, bao vây Việt Bắc ở phía tây.
Địch còn cho một lực lượng quân nhảy dù xuống Thái Nguyên để bao vây Việt Bắc từ phía nam.
Với ưu thế về binh lực và vũ khí, phương tiện chiến tranh, với một kế hoạch hoàn bị và bất ngờ, Bộ chỉ huy chiến tranh thực dân tin chắc vào thắng lợi.
Về  ta, yêu cầu chiến lược đặt ra lúc này là phải kiên quyết đánh bại cuộc tiến công chiến lược của địch, bảo vệ vững chắc căn cứ địa kháng chiến của cả nước, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và làm thất bại chủ trương “ đánh nhanh, giải quyết nhanh” của địch, buộc chúng phải chấp nhận đánh kéo dài theo đúng ý định chiến lược của ta đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta sang một giai đoạn mới. Để thực hiện yêu cầu, các trận đánh riêng lẻ không thể đảm đương nổi mà tất yếu phải tổ chức chiến dịch. Nhận rõ, lực lượng vũ trang tập trung là lực lượng chủ yếu để tiến hành chiến dịch, song nếu chỉ có bộ đội chủ lực mà không có bộ đội địa phương và dân quân, du kích phát triển cân đối thì nghệ thuật chiến dịch cũng không có điều kiện phát triển và hoàn thành tốt những nhiệm vụ do chiến lược đề ra. Nếu không hình thành được thế trận chiến tranh toàn dân trong chiến dịch, không có các lực lượng vũ trang địa phương tác chiến rộng khắp để phân tán và dàn mỏng lực lượng địch, thì bộ đội chủ lực khó có thể tập trung lực lượng đánh những đòn tiêu diệt địch ở nơi và vào lúc quyết định. Chính vì thế, từ tháng 9 - 1947, Trung ương Đảng đã dự báo về hoạt động quân sự của địch và chỉ thị “Sửa soạn phá những cuộc tấn công lớn của địch". Cả Việt Bắc hình thành thế trận toàn dân rộng khắp, vững chắc. Trong đó, các đơn vị bộ đội chủ lực là lực lượng chủ yếu, phối hợp chặt chẽ cùng lực lượng dân quân, du kích làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Cụ thể được bố trí như sau: ở Mặt trận đường số 3 có Trung đoàn 121, Trung đoàn 72, Trung đoàn 165; ở Mặt trận đường số 4 có Trung đoàn 74, Trung đoàn 11; ở Mặt trận sông Lô có Trung đoàn của Khu 10 và một tiểu đoàn chủ lực của Bộ. Các địa phương thành lập Uỷ ban bảo vệ cách mạng và các tổ chức Tỉnh đội, huyện đội, xã đội dân quân. Tính đến giữa năm 1947, hầu hết các xã thuộc Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang đã xây dựng được những trung đội, đại đội dân quân, trong đó có cả đại đội nữ dân quân. Có huyện trọng điểm như Bạch Thông (Bắc Cạn) có tới 6 đại đội dân quân1. Địa phương nào cũng tổ chức các đội du kích thoát ly sản xuất. Dân quân, du kích được huy động canh phòng khu căn cứ, các địa bàn trọng điểm, các điểm xung yếu. Hệ thống giao thông liên lạc được tổ chức theo cách báo động dây chuyền xã nối xã, huyện nối huyện.
Nhân dân các địa phương, cả nông thôn và đô thị, theo chỉ thị “Tiêu thổ kháng chiến" của Chính phủ đã tiến hành “vườn không nhà trống”, cất giấu, tích trữ lương thực, thực phẩm, chuẩn bị đánh địch. Tại thị xã Bắc Cạn và vùng xung quanh, đề phòng địch nhảy dù, nhân dân đã cắm chông trên các ruộng, bãi trống trải. Mặc dù đời sống còn túng đói, nhưng trước yêu cầu của cuộc kháng chiến, đồng bào các dân tộc Việt Bắc vẫn hăng hái quyên góp tiền bạc, trâu, bò, lợn, gạo đóng góp cho kháng chiến. Chị em các dân tộc còn khâu túi đựng quân trang, quân dụng ủng hộ bộ đội.
Sáng 7 tháng 10, binh đoàn đổ bộ đường không do Sô-va-nhắc (Sauvagnac) chỉ huy nhảy dù xuống Bắc Cạn. Tối hôm đó, Thường vụ Trung ương Đảng đã điện ra lệnh cho các Khu uỷ, Quân khu uỷ chỉ huy bộ đội đánh mạnh để chia cắt lực lượng địch và phá kế hoạch của chúng. Ngày 8 tháng 10, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi toàn thể đồng bào đoàn kết kháng chiến, ra sức giết giặc. Người phân tích, địch đánh ta tạo ra hai gọng kìm bao vây và hội quân ở Bắc Cạn, tạo cái ô cụp lấy Việt Bắc. Nhưng địch chỉ mạnh ở hai gọng kìm, gọng kìm mà gẫy thì cái ô cụp xuống sẽ thành cái ô rách ...
Ngày 15 - 10 - 1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp". Chỉ thị nêu rõ: Cuộc tiến công này của địch không tỏ ra chúng mạnh, mà tỏ ra chúng yếu, chỉ ồ ạt lúc đầu. Chúng ta không sợ địch nhưng cũng không được khinh địch. Chỉ thị đề ra nhiệm vụ quân sự cho các chiến trường toàn quốc, trong đó nhấn mạnh phát động chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ, giam chân, bao vây và đột kích các cứ điểm địch, khiến cho địch không thể tập trung quân đánh Việt Bắc; chặt đứt giao thông liên lạc, không cho chúng tiếp ứng và tiếp tế cho nhau; ra sức chế tạo vũ khí thô sơ cấp cho dân quân và các làng chiến đấu; củng cố các căn cứ địa về mọi mặt.
Để thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ trên, bản Chỉ thị đặt ra một yêu cầu quan trọng là xây dựng tình đoàn kết giúp đỡ và phối hợp đánh giặc giữa bộ đội, dân quân du kích với nhân dân. Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chỉ thị của Trung ương Đảng và quyết tâm chiến dịch của Bộ Tổng chỉ huy, quân dân Việt Bắc với khí thế và ý chí quyết chiến, quyết thắng đã đồng loạt đánh địch trên tất cả các hướng tiến công của chúng.
Ở Bắc Cạn, ta có phần bị bất ngờ về chiến thuật của địch, nên gặp một số  tổn thất, nhưng khi địch vừa nhảy dù, bộ đội và dân quân du kích đã đổ ra đánh địch. Đoàn cảnh vệ Bắc Cạn, đại đội độc lập huyện Bạch Thông, dân quân du kích Thanh Mai, Yên Đĩnh, Cao Hoà, tự vệ chiến đấu các công binh xưởng C4, C6 toả đi chặn đánh các toán quân địch đi lùng sục, diệt những tên nhảy dù bị lạc, quấy rối các nơi giặc chốt lại. Trung đoàn Vệ quốc quân Cao Bằng bắn rơi tại chỗ máy bay địch, diệt quan năm Lăm-be (Lambert) cùng cơ quan tham mưu chiến dịch của địch. Toàn bộ bản kế hoạch tiến công của giặc Pháp rơi vào tay ta. Quân Pháp tuy chiếm được thị xã và một số huyện lỵ ở Bắc Cạn nhưng không đạt được mục tiêu “bắt gọn”  Chính phủ Hồ Chí Minh, diệt quân chủ lực Việt Minh, lại bị tiêu hao nặng nề và bị bao vây, cô lập giữa núi rừng trùng điệp trong khu căn cứ kháng chiến.
Trên Mặt trận đường số 4, binh đoàn bộ binh thuộc địa do Bô-phơ-rê (Beaufré) chỉ huy từ Lạng Sơn tiến lên Cao Bằng, đã bị các đơn vị bộ đội chủ lực phối hợp cùng dân quân du kích địa phương phục kích, tập kích đánh địch trên suốt đường hành quân của chúng, diệt hàng trăm tên, phá huỷ nhiều xe quân sự. Đường số 4 trở thành “con đường máu” của giặc Pháp.
Trên Mặt trận Sông Lô, binh đoàn hỗn hợp bộ binh thuộc địa và lính thuỷ đánh bộ do Com-muy-nan (Commuynan) chỉ huy, ngược sông Hồng, sông Lô tiến quân cũng bị bộ đội cùng dân quân, du kích phục kích, gây cho chúng thất bại nặng nề. Ta bắn chìm tàu chiến địch ở bến Bình Ca, Đoan Hùng, Khe Lau và đánh bộ binh địch trên bờ, cắt đứt đường tiếp tế của địch từ Hà Nội lên. Gọng kìm Sông Lô của chúng bị bẻ gãy.
Trên trục đường số 3, các đơn vị chủ lực đã phối hợp với tự vệ quân giới và dân quân địa phương tập kích nhiều vị trí đóng quân của địch, diệt hàng trăm tên. Đường tiếp viện của địch từ Cao Bằng xuống Bắc Cạn bị cắt đứt.
Chiến dịch Việt Bắc- Thu Đông 1947 diễn ra và giành thắng lợi trong thời gian tương đối ngắn trong cuộc kháng chiến trường kỳ, đã khẳng định đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, cùng nghệ thuật quân sự đặc sắc của Đảng ta, trong đó nổi bật là nghệ thuật xây dựng, tạo lập thế trận toàn dân đánh giặc rộng khắp, vững chắc ngay từ đầu và suốt quá trình chiến tranh. Thế trận đó, đã tạo điều kiện có lợi cho các mặt trận và các lực lượng: cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân, du kích đều phát huy cao nhất khả năng tác chiến, phối hợp chặt chẽ với nhau để đánh địch, hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ chiến dịch. Chiến dịch cũng đã khơi dậy vai trò to lớn của nhân dân. Nhân dân không chỉ trực tiếp đánh giặc mà còn phục vụ chiến đấu hiệu quả,  góp hàng chục vạn ngày công phá đường, dựng vật chướng ngại ngăn cản bước tiến công của địch. Kết quả, trong chiến dịch, ta đã diệt, làm bị thương và bắt trên 7000 tên , bắn chìm 38 ca nô, 16 tàu chiến, hạ nhiều máy bay địch. Việt Bắc trở thành “mồ chôn giặc Pháp”.
 Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 là chiến dịch phản công lớn đầu tiên của quân và dân ta trong kháng chiến chống Pháp, giành thắng lợi to lớn. Đây là mốc khởi đầu sự thay đổi trong tương quan lực lượng giữa ta và địch, làm phá sản hoàn toàn chiến lược “đánh nhanh, giải quyết nhanh” của thực dân Pháp, đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước sang giai đoạn mới. Có được thắng lợi to lớn đó (trong điều kiện tương quan lực lượng quân sự bất lợi cho ta), điều căn bản là do Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo quân và dân ta xây dựng được thế trận toàn dân đánh giặc trên nền tảng vững chắc của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, để triệt phá thế trận áp đảo về quân sự của địch. Đây cũng là một bài học thắng lợi được vận dụng trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho đất nước. Kỷ niệm 60 năm chiến thắng Việt Bắc- Thu Đông 1947, bài học về xây dựng thế trận chiến tranh toàn dân vẫn tiếp tục soi sáng sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
Đại tá, PGS , TS. Vũ Như Khôi
Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn quân sự
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét