Tinh thần Ngày toàn quốc kháng chiến luôn có ý nghĩa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc | ||
Tạp chí Ban Tuyên giáo | ||
Ngày 23-9- 1945, được sự giúp đỡ của quân Anh và quân Nhật, quân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ ở Nam Bộ. Chủ trương của ta là kiên quyết giữ vững mục tiêu cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc Việt Nam, nên chúng ta đã áp dụng nhiều biện pháp chiến lược và sách lược hết sức mềm dẻo để đưa cách mạng tiếp tục tiến lên. Khi thì tạm thời hòa hoãn với Tưởng để rảnh tay đối phó với Pháp; khi thì tạm thời hòa hoãn với Pháp để đẩy quân Tưởng và bọn tay sai ra khỏi nước ta. Riêng đối với Pháp, Chính phủ ta đã nhiều lần đàm phán với họ, ký Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 để cho 15.000 quân Pháp vào thay thế quân Tưởng ở miền Bắc nước ta, để Pháp thừa nhận Việt Nam là một nước tự do. Cho dù Pháp không chịu thực hiện cam kết, cứ lấn dần từng bước, nhưng vì thiết tha với hòa bình, độc lập, tư do và thống nhất, ta đã ký với Pháp Tạm ước 14-9-1946 nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hóa; mặt khác cũng để trì hoãn thời gian khởi chiến mà tranh thủ xây dựng lực lượng. Điều đó thể hiện quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập của đất nước vừa giành được, đồng thời biểu thị nguyện vọng hòa bình của toàn thể dân tộc Việt Nam. Chúng ta đã thực lòng muốn tránh đổ máu, tìm mọi cách để đẩy lùi cuộc chiến tranh. Chúng ta đã nhiều lần nhân nhượng, nhưng càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Chúng đòi hỏi nhân dân ta phải đầu hàng. Nếu chúng ta không cầm vũ khí đứng dậy bảo vệ chủ quyền đất nước, thì chỉ còn cách cam chịu làm nô lệ một lần nữa như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân tộc việt Nam nay bị đặt trước hai đường, một là khoanh tay, cúi đầu trở lại nô lệ, hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập”(1). Quân Pháp liên tục mở các cuộc hành binh lấn chiếm ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Ở Bắc Bộ, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và cuối tháng 11- 1946 bắt đầu mở rộng chiến tranh trên quy mô lớn. Đầu tháng 12 - 1946, tình hình càng nghiêm trọng hơn. Sau khi tăng thêm quân, chiếm đóng trái phép Đà Nẵng và Hải Dương, Pháp đưa thêm viện binh đến Hải Phòng, mở rộng đánh chiếm Đồ Sơn, Đình Lập và liên tiếp gây ra nhiều vụ xung đột, khiêu khích ở Hà Nội. Trước tình hình đó, Chính phủ nước ta vẫn kiên trì tìm cách duy trì hòa bình, tránh cuộc chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: ''Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh .. . Nước Việt Nam cần kiến thiết, nước Việt Nam không muốn là nơi chôn vùi hàng bao nhiêu sinh mạng. Nhưng cuộc chiến tranh ấy, nếu người ta buộc chúng tôi phải làm thì chúng tôi sẽ làm . .. Nước Pháp có những phương tiện ghê gớm và cuộc chiến đấu sẽ khốc hại, nhưng dân tộc Việt Nam đã sẵn sàng chịu đựng tất cả, chứ không chịu mất tự do” (2). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã gửi thư kêu gọi các nước Anh, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Liên Xô và các thành viên của Liên Hiệp Quốc, trong đó nêu rõ thiện chí hòa bình và ý chí quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước và mong mỏi Liên Hiệp Quốc chấp nhận những yêu cầu chân chính của Việt Nam để vãn hồi hòa bình và để khôi phục lại những quyền cơ bản của Việt Nam là được thừa nhận độc lập dân tộc và thống nhất lãnh thổ''. Người cũng đã liên tiếp gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp và cử phái viên đến gặp gỡ với những người cầm đầu Pháp ở Đông Dương, tìm cách cứu vãn hòa bình, tránh đổ máu. Song mọi cố gắng của Việt Nam đều vô hiệu. Quân đội Pháp đã liên tiếp nổ súng, ném lựu đạn vào nhiều nơi ở Hà Nội trong các ngày 15, 16 tháng 12 năm 1946. Ngày 17- 12- 1946, quân Pháp cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, đặc biệt chúng đã gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún và phố Yên Ninh. Ngày l 8- 12- 1946, tướng Moóclie gửi cho ta hai tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự và chướng ngại vật trên các đường phố, đòi để chúng làm nhiệm vụ giữ gìn trị an ở Hà Nội. Chúng tuyên bố nếu các yêu cầu trên không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì chậm nhất vào sáng ngày 20- 12- 1946 quân Pháp sẽ chuyển sang hành động. Đất nước ta đứng trước một tình thế khẩn cấp đòi hỏi Đảng, Nhà nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu phải có một sự lựa chọn lịch sử, phải kịp thời có một quyết định chiến lược để chuyển xoay vận nước đang lâm nguy. Ngày 18 và 19/12/1946, tại làng Vạn Phúc, Hà Đông, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định chủ trương phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước và đề ra đường lối, chủ trương kháng chiến của Đảng. Vào hồi 20 giờ ngày 19 - 12 - 1946, quân dân Thủ đô Hà Nội đã nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc. Ngay trong đêm l 9- 12- 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hoàn thành bản thảo và sáng 20 – 12 - 1946 Người đã đọc Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến: “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không? Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên? Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp để cứu nước. Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm! Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc ta đại đoàn kết đứng lên kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược. Thủ đô Hà Nội, nơi có cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến, cũng là nơi đối phương đặt bộ chỉ huy xâm lược đã trở thành chiến trường chính. Sau đòn tiến công chủ động, đồng loạt và bất ngờ vào lúc 20 giờ ngày 19- 12- 1946, quân dân Thủ đô tiếp tục triển khai thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc. Trải qua 60 ngày đêm chiến đấu kiên cường, anh dũng, sáng tạo, quân dân Hà Nội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho cơ quan đầu não, tản cư được phần lớn nhân dân, đưa được hàng ngàn tấn máy móc, thiết bị công nghiệp ra An toàn khu; tiêu hao sinh lực địch, kìm chân chúng dài ngày để hậu phương có điều kiện tổ chức và triển khai thế trận chiến đấu lâu dài. Quân và dân các thành phố, thị xã khác cũng đã kịp thời đứng lên chiến đấu. Phối hợp với cuộc chiến đấu của quân và dân miền Bắc, quân và dân Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đã tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh phá kế hoạch bình định, kiềm chế không cho địch đưa lực lượng và tài sản chiếm được ở phía Nam ra đánh ở Trung và Bắc Bộ. Sau cuộc Tổng di chuyển lên các An toàn khu nhằm bảo toàn lực lượng, xây dựng thực lực để tiến hành kháng chiến trường kỳ, tháng 3- 1947, các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính phủ, Quân đội, Mặt trận đã được chuyển lên Việt Bắc - Thủ đô của cuộc kháng chiến. Quân Pháp mở cuộc hành quân lên Việt Bắc vào Thu - Đông 1947 nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt quân chủ lực của ta với ảo vọng mau chóng kết thúc chiến tranh nhưng đã bị thảm bại hoàn toàn sau 75 ngày đêm (từ 7- 10 đến 2 l- 12- 1947) chiến đấu ngoan cường của quân ta; chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của chúng bị phá sản. Thực dân Pháp buộc phải chuyển hướng sang “đánh kéo dài” với chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” và thực hiện chiến lược “chiến tranh tổng lực”. Chúng ta đã tiến hành phát triển dân quân, du kích, thành lập bộ đội địa phương, lập làng chiến đấu, khu chiến đấu, căn cứ du kích, đánh vận động bằng tiểu đoàn tập trung rồi tiến lên bằng trung đoàn dã chiến; biến hậu phương địch thành tiền phương của ta với các chiến dịch Đông Bắc, Sông Đà, Sông Thao; chiến dịch Hồ Chí Minh ở Tây Nguyên; chiến dịch Lê Lai ở Quảng Bình, Quảng Trị; chiến dịch Cầu Kè ở Nam Bộ. . .gây cho địch nhiều thiệt hại. Năm 1950, ta chủ động mở chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng một phần vùng biên giới, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Sau 29 ngày đêm chiến đấu kiên cường, chiến dịch Biên giới đã kết thúc thắng lợi, tạo chuyển biến cơ bản cho cuộc kháng chiến, ta nắm quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ. Giữa lúc đó, Mỹ tăng thêm viện trợ cho Pháp và can thiệp sâu hơn vào chiến tranh Đông Dương. Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (2- 1951) xác định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này là “tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập và thống nhất hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới”. Sau một loạt chiến dịch bản lề trên chiến trường chính Bắc Bộ và các chiến trường Trung, Nam Bộ, cuối cùng ta đã giành toàn thắng trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, kết thúc oanh liệt cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 - 1954 của quân và dân ta, tạo điều kiện thuận lợi cho đấu tranh ngoại giao, đi đến ký kết Hiệp định Giơnevơ. Cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ đấu tranh mới: thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Phát huy tinh thần và ý chí quật khởi của Toàn quốc kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta đã anh dũng chiến đấu, tiếp tục tạo nên một kỳ tích lịch sử - đánh bại sự xâm lược của đế quốc Mỹ hùng mạnh, lập nên chiến thắng oai hùng nhất trong lịch sử Việt Nam, thống nhất đất nước, cả nước tiến lên CNXH. 63 năm đã trôi qua những tinh thần và ý chí quật khởi Toàn quốc kháng chiến luôn có ý nghĩa và sẽ mãi mãi là động lực tinh thần- ý chí quyết thắng đối với mỗi chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN ngày nay ./. TH ____________________(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 483 (2) Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của báo Paris - Sài Gòn. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị. 2. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, một áng hùng văn thời đại Hồ Chí Minh
Tạp chí Cộng sản
Việt Nam có một nền văn hóa dân tộc mà hạt nhân là chủ nghĩa yêu nước. Chính nhờ sức mạnh của nền văn hóa đó mà dưới ách đô hộ hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc, dân tộc Việt Nam không hề bị đồng hóa và cuối cùng đã vùng lên giành lại nền độc lập.
Trong một nghìn năm độc lập tự chủ, dân tộc ta đã đánh thắng mọi kẻ địch xâm lược lớn mạnh hơn nhiều lần. Lịch sử chống ngoại xâm oanh liệt của dân tộc đã để lại những áng thiên cổ hùng văn như: “Nam quốc sơn hà nam đế cư” của Lý Thường Kiệt, “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo, “Bình Ngô Đại cáo” của Nguyễn Trãi…
Dưới thời đại Hồ Chí Minh, bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một áng hùng văn kiệt xuất. Tiếp đó, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến cũng là áng hùng văn mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kéo dài chín năm kết thúc bằng thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ. Lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một lời hịch của non sông đất nước cổ vũ tinh thần yêu nước của toàn dân đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược. Nội dung Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến gồm năm điểm: 1. Vì sao ta phải kháng chiến? Thời gian qua, có ý kiến cho rằng: nếu Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn một con đường khác, con đường thương lượng hòa bình chẳng hạn thì đất nước ta đã tránh được hai cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, đỡ hao tổn xương máu… Đây là một ý kiến không tính đến thực tiễn lịch sử. Thực tiễn lịch sử lúc ấy như thế nào? Hãy nghe lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.Lúc ấy nước ta vừa giành được độc lập thì nạn ngoại xâm đã ập tới. Ngày 23- 9-1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp quân Nhật đầu hàng, đã nổ súng đánh ta ở Nam Bộ. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh một mặt kêu gọi nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đứng lên kháng chiến, mặt khác ra sức đàm phán với Chính phủ Pháp để cứu vãn hòa bình. Người ký với đại diện Chính phủ Pháp tại Hà Nội Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946. Tiếp đó, Người qua Pháp chỉ đạo phái đoàn Chính phủ ta đàm phán với Chính phủ Pháp ở Fontainebleau. Cuộc đàm phán thất bại do lập trường phía Pháp vẫn theo đuổi chính sách thống trị Việt Nam. Còn nước còn tát, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp Tạm ước ngày 14-9-1946. Ngày 16-9-1946, Người rời cảng Toulon (Pháp) trở về nước. Ngày 16-10 Người gặp D'Argenlieu ở vịnh Cam Ranh. Thỏa thuận ngừng bắn trong Tạm ước 14-9 không được thực hiện ở Nam Bộ. Tại Bắc Bộ, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng ngày 23-11-1946. Tại Hà Nội, những hành động khiêu khích của quân Pháp ngày càng trắng trợn. Dã tâm gây hấn của Pháp ở Thủ đô bộc lộ rõ rệt khi quân đội Pháp gửi tối hậu thư buộc ta phải hạ vũ khí. Trước tình hình đó, ngày 18 và19-12-1946 tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì đã quyết định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi toàn quốc. Từ ngày 3 đến 19-12, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về làng Vạn Phúc (Hà Đông) sống trong nhà ông Nguyễn Văn Dương, tại đây ngày 19 tháng 12, trên căn gác xép, Người viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đúng 20 giờ ngày 19-12-1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Ngày 20-12 tại Hang Trầm (Chương Mỹ - Hà Đông), Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch. Như vậy, mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách ngăn chặn chiến tranh nhưng thực dân Pháp “quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”. Không còn con đường nào khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh buộc phải dùng chiến tranh chính nghĩa chống lại chiến tranh phi nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chút ảo tưởng về lòng nhân từ của bọn xâm lược:“Độc lập tự do không thể cầu xin mà có được”. Trong cuộc đấu tranh chống kẻ xâm lược, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng. Đó là quan điểm cơ bản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nắm vững trong cuộc khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 cũng như trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ. Đó cũng là quan điểm mấu chốt trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. 2. Quyết tâm kháng chiến của nhân dân ta Khi đã buộc phải kháng chiến thì Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết động viên toàn dân đứng lên chiến đấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố quyết tâm của nhân dân ta: Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Tiếp theo bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là văn kiện thứ hai đề cập đến mục tiêu chính trị của cuộc cách mạng và cuộc kháng chiến. Đó là độc lập, tự do, hạnh phúc là những khát vọng của một dân tộc bị mất nước, bị nô lệ 80 năm. Bởi vậy ta có thể hiểu vì sao toàn dân Việt Nam, từ đời cha đến đời con đã tự nguyện hy sinh chiến đấu đến cùng cho những mục tiêu ấy. 3. Đánh như thế nào? Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.Trong lời kêu gọi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày quan điểm chiến tranh toàn dân một cách vô cùng giản dị và hào hùng. Có thể nói nét độc đáo, đặc sắc nhất trong đường lối quân sự của Đảng và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là ở hai chữ toàn dân. Kế thừa truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vai trò quần chúng trong lịch sử. Người luôn luôn nhắc nhở vai trò của dân: Dựa vào dân, có dân là có tất cả. Trong lịch sử dân tộc ta, Nguyễn Trãi đã từng nói: Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân. Tư tưởng chiến tranh toàn dân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên năm 1944 trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, khi Người nói, cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, phải động viên toàn dân và vũ trang toàn dân. Chỉ thị này được coi như một văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự về khởi nghĩa toàn dân, kháng chiến toàn dân và lực lượng vũ trang ba thứ quân. Tiếp theo Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là văn kiện thứ hai mang tính cương lĩnh quân sự về kháng chiến toàn dân. “Toàn dân” theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là toàn dân tộc. 4. Lời kêu gọi dành cho bộ đội, tự vệ, dân quân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến! Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.Hưởng ứng lời kêu gọi này, mùa đông năm 1946, quân và dân Hà Nội đã nêu cao tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” nay đã trở thành truyền thống của Thủ đô. Xây dựng bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, bồi dưỡng ý chí chiến đấu, xây dựng và phát huy nhân tố chính trị tinh thần, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở cho mọi mặt xây dựng quân đội là một quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội cách mạng. 5. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định niềm tin tất thắngKết thúc lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định niềm tin tất thắng: Dù gian lao kháng chiến nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định sẽ về dân tộc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!Chín năm sau, lời tiên đoán này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành sự thật với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Ba mươi năm sau, đội quân bách chiến bách thắng của Người đã cắm lá cờ chiến thắng lên nóc Dinh Độc lập, kết thúc cuộc chiến tranh mười nghìn ngày, đem lại độc lập thống nhất cho đất nước./. |
Thứ Sáu, 22 tháng 6, 2012
Tinh thần Ngày toàn quốc kháng chiến luôn có ý nghĩa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét