Ngày 24-7-1953, Hội đồng Quốc phòng Pháp họp tại Paris, dưới sự chủ trì của Tổng thống Vanh-xăng Ôri-ôn để thông qua kế hoạch Na-va. Theo đó, trong Đông Xuân 1953-1954 tại Bắc bộ, Pháp thực hiện phòng ngự chiến lược, tránh giao chiến lớn với ta; còn ở Nam bộ chúng thực hiện chiến lược tấn công nhằm bình định miền Nam và miền Trung Đông Dương. Đến mùa thu năm 1954, sẽ chuyển sang thế tiến công Bắc bộ, hòng tạo ra một cục diện quân sự mới có lợi cho Pháp. Để thực hiện điều này, Pháp tích cực tăng quân và xin viện trợ Mỹ. Ngày 1-8-1953, Na-va đã sang Đông Dương để thực thi kế hoạch.
Lúc này, về phía ta, trên cơ sở phân tích tình hình chiến trường một cách khách quan, ngày 10-8-1953, Tổng Quân ủy trình lên Bộ Chính trị bản đề án "Tình hình địch, ta ở Bắc bộ sau khi địch rút khỏi Nà Sản và chủ trương tác chiến của ta trong Thu Đông 1953". Đến tháng 9-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta họp tại Tỉn Keo dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi bàn về nhiệm vụ và phương án tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953-1954 đã quyết định "Lấy Tây Bắc làm hướng chính, các hướng khác là phối hợp".
Ngày 12-11-1953, Na-va gửi chỉ lệnh đặc biệt cho tướng Cô-nhi, chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Bắc bộ: "Chuẩn bị chiếm đóng Điện Biên Phủ". Thực hiện mệnh lệnh ấy, từ 20 đến 22-11, dưới sự chỉ huy của tướng Gin, Pháp mở cuộc hành quân mang tên "Con hải ly", nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ. Tiếp đó, Na-va quyết định bỏ Lai Châu, rút lực lượng về tăng cường cho Điện Biên Phủ và lệnh cho Cô-nhi phải bảo vệ Điện Biên Phủ bằng bất cứ giá nào. Ngày 7-12-1953, Na-va cử đại tá Đờ Cát-xtơ-ri lên Điện Biên Phủ chỉ huy binh đoàn tác chiến Tây Bắc thay cho tướng Gin và tiếp tục đưa thêm lực lượng, tăng cường phòng ngự, xây dựng Điện Biên Phủ thành một "pháo đài bất khả xâm phạm".
Điện Biên Phủ là một thung lũng lớn ở phía Tây vùng rừng núi Tây Bắc, cách Hà Nội khoảng 300km đường chim bay, tại đây có cánh đồng Mường Thanh (rộng 8km, dài 20km); có dòng sông Nậm Rốm chảy theo hướng Bắc - Nam đổ vào sông Nậm Hu; có sân bay Mường Thanh được xây dựng từ năm 1889. Dưới con mắt của các nhà hoạch định chiến lược quân sự Pháp, Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược đặc biệt trọng yếu ở khu vực miền Bắc Đông Dương.
Được sự "đầu tư", chi viện tối đa của cấp trên, Đờ Cát-xtơ-ri đã xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm, có hệ thống phòng ngự kiên cố và đã nhiều lần diễn tập phương án phòng ngự và phản công, với sự "phối hợp tuyệt đẹp" của bộ binh, pháo binh, xe tăng và máy bay. Đến khi ta nổ súng tiến công (ngày 13-3-1954), lực lượng địch ở Điện Biên Phủ đã lên đến gần 12.000 tên, gồm 12 tiểu đoàn, 7 đại đội bộ binh, 2 tiểu đoàn lựu pháo 105mm (20 khẩu), 1 đại đội trọng pháo 155mm (4 khẩu), 12 khẩu cối 102mm, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng (10 chiếc), 1 đại đội xe vận tải (200 chiếc) và một phi đội máy bay thường trực (14 chiếc). Với lực lượng trên, Pháp bố trí thành 49 cứ điểm, những cứ điểm gần nhau lại được tổ chức thành cụm cứ điểm (trung tâm đề kháng). Tập đoàn cứ điểm có 8 trung tâm đề kháng và được chia thành 3 phân khu. Phân khu trung tâm là phân khu quan trọng nhất, nằm giữa Mường Thanh, chiếm gần 2/3 lực lượng với 5 trung tâm đề kháng, bao bọc lấy cơ quan chỉ huy của tập đoàn cứ điểm. Phân khu Bắc gồm 2 trung tâm đề kháng, phòng ngự ở hướng Bắc. Phân khu Nam có một trung tâm đề kháng, phòng ngự từ phía Nam.
Pháo binh địch được bố trí thành 2 căn cứ: một căn cứ ở Mường Thanh và một căn cứ ở Hồng Cúm. Đại đội xe tăng được bố trí ở phân khu trung tâm (7 chiếc) và phân khu Nam (3 chiếc). Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ còn được trang bị nhiều vũ khí, phương tiện hiện đại khác (súng phun lửa, mìn napan, mìn điện, kính hồng ngoại ngắm bắn ban đêm…) và đã sử dụng hơn 3.000 tấn dây thép gai để tạo thành những "rừng rào cản" nhiều kiểu, chằng chịt, thay cho những rừng cây xanh đã bị địch phá trụi.
Với lực lượng đông, hỏa lực mạnh, hệ thống công sự, vật cản được xây dựng vững chắc, hoàn chỉnh và tận dụng được lợi thế của địa hình, bộ chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương coi Điện Biên Phủ là một "pháo đài không thể công phá" và tin chắc "sẽ gây cho Việt Minh một thất bại nghiêm trọng" ở đây. Nhiều quan, tướng Pháp, Mỹ đến thăm quân đội đồn trú ở Điện Biên Phủ đã nói: "Đây là một Véc-đoong ở châu Á", "Đây là một hình thức phòng ngự rất mạnh, ngay trong đại chiến thứ hai cũng không sánh kịp", "Đây sẽ là tử địa nếu cộng sản dám đụng đến"… Đờ Cát-xtơ-ri nhiều lần huênh hoang tuyên bố: "Mục đích của Điện Biên Phủ là để nghiền nát ý muốn điên rồ của Việt Minh". Bằng sự chủ quan, kiêu ngạo ấy, ngày 3-2-1954, giặc Pháp đã rải truyền đơn, thách ta đánh Điện Biên Phủ và đã phải chuốc lấy thất bại lịch sử.
. Trịnh Đổng Hoài
(383 Hoàng Diệu – Đà Nẵng)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét