Từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (21-7-1954) có hiệu lực, đất nước ta tạm thời chia làm hai miền. Ở miền Nam, Mỹ ra sức phá hoại Hiệp định, hất cẳng Pháp, thiết lập chính quyền Ngô Đình Diệm và quân đội tay sai. Chúng tiến hành nhiều cuộc thảm sát đẫm máu ở Cam Lộ, Hướng Điền, Chợ Được, Củ Chi, Mỏ Cày; đồng thời, thực hiện biện pháp chiến lược mang tên :"Tố cộng, diệt cộng", coi đấy là "quốc sách" để thực hiện chủ trương loại bỏ những người cộng sản, triệt phá tổ chức và tư tưởng cộng sản. Tuy nhiên, trong những năm đầu, nhân dân ta ở miền Nam kiên trì thực hành đấu tranh chính trị trong khuôn khổ pháp lý của Hiệp định Giơ-ne-vơ. Cho đến đầu năm 1959, với việc ban hành "Luật 10/59", Mỹ - Diệm đã tăng cường sử dụng bạo lực phát xít, thẳng tay đàn áp, bắt giam và sát hại quần chúng cách mạng. Hành động khủng bố thâm độc và tàn bạo của Mỹ - Diệm chẳng những không khuất phục được nhân dân ta, không dập tắt được ngọn lửa đấu tranh của quần chúng cách mạng miền Nam, mà còn phơi bày bản chất xâm lược và bán nước của chúng. Đây là thời kỳ đen tối nhất của cách mạng miền Nam. Mặc dù chịu nhiều tổn thất về lực lượng, nhưng về căn bản, phong trào cách mạng vẫn được giữ vững, cơ sở của đảng vẫn được củng cố và phát triển. Qua thực tế đấu tranh với địch, cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng ngày càng có kinh nghiệm trong việc vận dụng phương châm và hình thức đấu tranh cách mạng, từng nơi, từng lúc, đã khéo tiến công vào chỗ yếu của địch, từng bước dồn chúng vào thế bị động. Trong vòng kìm kẹp của Mỹ - Diệm, đông đảo quần chúng cách mạng đã kết thành một khối, siết chặt đội ngũ, chờ thời cơ, sẵn sàng hành động, quyết một phen sống mái với kẻ thù. Và, đó là bước chuẩn bị về tinh thần và lực lượng cho cuộc đấu tranh quyết liệt với địch, thực hiện mong ước cháy bỏng: xoá bỏ ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ, đánh đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước!
Dõi theo tình hình miền Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ rất sớm đã nhận định: "Mỹ không những là kẻ thù của nhân dân thế giới, mà Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt - Miên - Lào"1. Từ nhận định quan trọng đó, Đảng ta từng bước có những chuẩn bị về đường lối lãnh đạo cách mạng Việt Nam ở miền Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế hết sức phức tạp, việc vạch ra đường lối đấu tranh cách mạng ở miền Nam có nhiều trở ngại. Mặc dù vậy, trong khi xác định hình thức đấu tranh của cách mạng Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 6-1956) đã chỉ rõ: "Hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải đấu tranh vũ trang. Nói như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định"2. Cũng cần thấy rằng, trên thực tế, những khó khăn, tổn thất của ta ở miền Nam trong những năm đầu sau Hiệp định Giơ-ne-vơ chủ yếu là do mặt chỉ đạo đấu tranh cách mạng, Đảng ta chưa tìm ra được phương pháp và hình thức thích hợp để chống trả sự đàn áp của địch một cách có hiệu quả. Trong lúc kẻ thù đã sử dụng toàn bộ hệ thống chính trị, đặc biệt là bộ máy quân đội và cảnh sát để đàn áp và thủ tiêu lực lượng và cơ sở cách mạng, thì việc tiến hành đấu tranh dưới hình thức chính trị đơn thuần của quần chúng nhân dân miền Nam là không hiệu quả và không còn phù hợp. Đòi hỏi của tình thế cách mạng ở miền Nam lúc bấy giờ là phải chuyển hướng đấu tranh, phải có phương pháp và hình thức đấu tranh mới.
Đầu năm 1959, trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm thực tiễn của đồng bào, chiến sĩ miền Nam trong hơn bốn năm đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh; cũng như những kiến nghị của cán bộ, đảng viên, các cấp ủy đảng và quần chúng nhân dân miền Nam; cùng với khí thế sục sôi cách mạng ở miền Nam, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 15 (khóa II, tháng 1-1959), Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước, đề ra một cách toàn diện đường lối cách mạng miền Nam, đường lối đấu tranh thống nhất nước nhà. Đảng khẳng định, con đường giải phóng miền Nam là con đường cách mạng bạo lực, trước nhất "lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang hoặc nhiều hoặc ít tuỳ tình hình, đánh đổ quyền thống trị của đế quốc, phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân"3. Trong những tháng đầu của năm 1959, bản Nghị quyết của Hội nghị 15 (sau đây gọi là Nghị quyết 15) chưa được thông qua chính thức; dù vậy, qua các bức mật điện của Trung ương Đảng và Bộ Chính trị, Xứ uỷ Nam Bộ, các đảng bộ Khu, Tỉnh và các đảng bộ cơ sở đã kịp thời nắm bắt tinh thần của Nghị quyết 15. Cán bộ, đảng viên và đông đảo quần chúng đã nhanh chóng lĩnh hội nội dung cốt yếu của Hội nghị bằng câu truyền tai giản dị: “Đảng đã cho đánh rồi!”. Nội dung “cốt yếu” ấy như một luồng sinh khí mới, thổi bùng ngọn lửa đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng và lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, mặc dù chỉ ít người nắm được một cách thấu đáo là Đảng chủ trương lấy đấu tranh chính trị hay đấu tranh vũ trang là chủ yếu, hoặc kết hợp cả hai hình thức đó...
Các cuộc nổi dậy chống địch dồn dân, phá các khu tập trung, trở về buôn làng cũ của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng rừng núi Khu 5, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, vào tháng 2-1959, như đốm lửa báo hiệu cho phong trào nổi dậy khởi nghĩa của nhân dân miền Nam. Đốm lửa ấy lớn dần lên vào mùa Thu năm 1959, khi cuộc khởi nghĩa Trà Bồng bùng nổ (28-8). Rồi từ Trà Bồng, cuộc khởi nghĩa lan nhanh sang các huyện miền Tây Quảng Ngãi, như: Ba Tơ, Sơn Hà, Minh Long. Ở những nơi này, chỉ trong một thời gian ngắn, chính quyền cách mạng đã được thành lập, các đội vũ trang lần lượt ra đời.
Trong lúc nhân dân Trà Bồng nổi dậy, thì tại đồng bằng Trung Nam Bộ, các đội vũ trang tập trung, các đội vũ trang tuyên truyền đẩy mạnh hoạt động, hỗ trợ quần chúng nổi dậy. Nổi bật và gây tiếng vang lớn là trận đánh của Tiểu đoàn 502 (chủ lực Khu 8) tại Giồng Thị Đam - Gò Quản Cung thuộc huyện Hồng Ngự, tỉnh Kiến Phong (nay là Đồng Tháp) vào ngày 26-9-1959. Trên mảnh đất mênh mang sông nước, chằng chịt kênh rạch, tháng 12 năm 1959, Liên tỉnh uỷ miền Trung Nam Bộ triệu tập đại biểu các tỉnh Kiến Phong, Long An, Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre, Kiến Tường, An Giang, tổ chức hội nghị tại Hồng Ngự, để bàn định các biện pháp thúc đẩy phong trào cách mạng ở Trung Nam Bộ tiến lên giành những thắng lợi mới. Hội nghị Liên tỉnh uỷ quyết định: phát động quần chúng khởi nghĩa ở xã, ấp.
Thực hiện chủ trương của Hội nghị Liên tỉnh uỷ Trung Nam Bộ, ngày 17-1-1960, nhân dân Bến Tre nổi dậy khởi nghĩa, bắt đầu từ 3 xã điểm: Định Thuỷ, Phước Hiệp và Bình Khánh (huyện Mỏ Cày). Phong trào Đồng khởi nhanh chóng lan rộng ra khắp tỉnh Bến Tre. Chỉ trong một tuần lễ (từ 17 đến 24-1-1960), nhân dân 47 xã thuộc các huyện Mỏ Cày, Giồng Trôm, Châu Thành, Ba Tri, Thạnh Phú nhất tề nổi dậy, giải phóng xã, ấp khỏi ách kìm kẹp của địch.
Thắng lợi trong cuộc đồng khởi của nhân dân Bến Tre làm cho địch điên đầu. Ngô Đình Diệm lập tức đến Bến Tre để khảo sát tình hình, đồng thời lệnh cho quân đội đưa 10 nghìn lính về 3 xã trên để mở cuộc vây quét lực lượng cách mạng. Quân địch đi đến đâu, chúng bắn giết, đốt phá, cướp bóc, hãm hiếp phụ nữ tới đó. Chúng chôn sống 36 thanh niên và giết hại 80 đồng bào. Nhằm ngăn chặn hành động bạo ngược đó, Tỉnh uỷ Bến Tre quyết định vận động, tổ chức quần chúng đấu tranh trực diện với địch; đồng thời, huy động tổ chức lực lượng phụ nữ kéo ra quận lỵ Mỏ Cày tố cáo tội ác của binh lính địch, đòi chúng rút quân. Ngày 1-4-1960, hàng nghìn phụ nữ với hàng trăm ghe, thuyền, đem theo lợn, gà, xoong, nồi, mùng, màn, kéo về quận lỵ lánh nạn. Cuộc tản cư ngược của phụ nữ 3 xã này nhanh chóng được bổ sung thêm lực lượng. Đến quận lỵ, chị em lớp đưa đơn, lớp nói miệng đòi Quận trưởng cho nương nhờ để chờ quân “áo rằn” rút. Trước lời lẽ có lý, có tình của chị em, địch buộc phải thừa nhận tội ác và hứa rút quân. Cuộc đấu tranh chính trị của phụ nữ Bến Tre đã giành thắng lợi lớn và từ đây xuất hiện cụm từ “Đội quân tóc dài” để chỉ cuộc đấu tranh chính trị của phụ nữ miền Nam.
Cùng với Bến Tre, nhân dân và lực lượng vũ trang ở miền Trung Nam Bộ, Tây Nam Bộ đã vùng lên mạnh mẽ, giành được những thắng lợi to lớn. Phong trào Đồng khởi nhanh chóng lan rộng và phát triển đồng loạt vào tháng 9-1960 trên khắp miền Nam: từ Đông Nam Bộ, Tây Nguyên đến các tỉnh miền Tây đồng bằng Khu 5. Cách mạng đã làm chủ được một vùng căn cứ rộng lớn, có ý nghĩa chiến lược, nối từ Tây Nguyên xuống miền Đông, miền Tây Nam Bộ và các tỉnh đồng bằng Khu 5; đồng thời, đã thúc đẩy quần chúng ở các đô thị, đặc biệt là Sài Gòn - Gia Định, đứng lên đấu tranh mạnh mẽ4.
Như vậy, dưới ánh sáng của Nghị quyết 15, nhân dân miền Nam đã nhất tề nổi dậy bằng nhiều phương pháp khởi nghĩa cực kỳ phong phú, sáng tạo, làm tan rã hàng loạt bộ máy kìm kẹp của địch ở xã, ấp, thôn, bản. Phong trào Đồng khởi (1959 - 1960) đã tạo ra điều kiện thuận lợi để Đảng bộ miền Nam được khôi phục, lực lượng vũ trang ba thứ quân và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp được thành lập; các căn cứ địa cách mạng được khôi phục, mở rộng; tuyến đường huyết mạch Trường Sơn - Hồ Chí Minh và tuyến đường biển được hình thành và phát triển5...
Có thể nói, cách mạng Việt Nam ở miền Nam từ đồng khởi và bằng đồng khởi đã vượt qua thử thách nghiêm trọng nhất, từ thoái trào và thế giữ gìn lực lượng, chuyển hẳn sang thế tiến công. Trên ý nghĩa đó, đồng khởi chính là bước thắng lợi đầu tiên, rất cơ bản trên chặng đường đấu tranh lâu dài, gian khổ của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược. Từ Nghị quyết 15 đến Phong trào Đồng khởi, Đảng ta đã có thêm những điều kiện thực tiễn quan trọng để rút ra được nhiều bài học lớn về chỉ đạo cách mạng, như: đánh giá đúng địch và ta, nắm vững quan điểm bạo lực, quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công. Đặc biệt, Phong trào Đồng khởi ở miền Nam (1959 - 1960) chính là hình ảnh sinh động nhất của sự gặp gỡ giữa ý Đảng và lòng Dân. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hơn bao giờ hết, sự gặp gỡ giữa ý Đảng và lòng Dân là nhân tố vô cùng quan trọng để thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược mà Nghị quyết các Hội nghị, Đại hội Đảng đề ra. Để có sự gặp gỡ đó, cán bộ, đảng viên, các chi bộ, đảng bộ các cấp phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực phổ biến, tuyên truyền Nghị quyết của Đảng đến mỗi người dân; khi đã thấu hiểu thì dù gặp bất cứ trở ngại nào, quần chúng cũng gắng sức vượt qua, đưa Nghị quyết đi vào cuộc sống và trở thành hiện thực.
LÊ QUANG LẠNG
Viện LSQS Việt Nam
___________
1- ĐCS VN- Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 15 (1954), Nxb CTQG, H. 2001, tr. 166.
2- ĐCS VN- Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 17 (1956), Nxb CTQG, H. 2002, tr. 225.
3- ĐCS VN- Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 20 (1956), Nxb CTQG, H. 2002, tr. 82.
4- Xem Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tập II: Chuyển chiến lược, Nxb CTQG, H.1996, tr. 269,334.
5- Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị - Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - Thắng lợi và bài học- Nxb CTQG, H. 1996, tr. 45.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét