Chủ Nhật, 17 tháng 6, 2012

Bác Hồ ở Sài Gòn (1911)

1. Từ Sài Gòn, Bác ra đi tìm đường cứu nước
báo Sài Gòn giải phóng

Cuối năm 1910, Bác Hồ (khi đó là Nguyễn Tất Thành) rời Trường Dục Thanh ở Phan Thiết vào Sài Gòn tiếp tục cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Ngày đó phương tiện đi lại còn rất thô sơ. Xe lửa mới chỉ chạy loanh quanh Sài Gòn từ Chợ Cũ đi Tân Định và Chợ Cũ đi Chợ Lớn... Cả Sài Gòn lúc bấy giờ chỉ có chừng 5- 7 chiếc ô tô, vì vậy, 200 cây số từ Phan Thiết vào Sài Gòn, Bác vẫn phải đi bằng thuyền buồm.
Anh chị em ở Hội Liên Thành cho biết, ngày trước có nghe các cụ tiền bối nói từ Phan Thiết, Bác theo ghe bầu (loại thuyền lớn) chở nước mắm của Công ty Liên Thành - chuyến đó đến Vũng Tàu bị sóng to gió lớn, ghe không vào cửa được phải đậu ở Gành Rái. Bác đã lên bờ đi qua Bà Rịa lên Long Thành để đến Sài Gòn.
Bác Hồ tới Sài Gòn. Lúc đó, Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định còn tách riêng bởi nhiều ruộng, kinh rạch, ao hồ và đầm lầy. Tuy dân cư thưa thớt, chợ Bến Thành chưa xây xong, chợ Sài Gòn còn rất nhỏ, nhóm họp trên nền Tổng Ngân khố ở đường Nguyễn Huệ bây giờ, nhưng Sài Gòn đã có nước máy, có đèn điện. Nhà ga xe lửa nằm giữa đường Hàm Nghi. Trên các phố chủ yếu là xe ngựa gọi là “xe kiếng”, xe thổ mộ, xe song mã và xe kéo tay... Hải cảng Sài Gòn cho hạm thuyền 3 buồm hạng lớn và tàu thủy chạy bằng hơi nước mới xây dựng.
Tàu Admiral Latouche Tréville, nơi Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp khi rời Tổ quốc đi tìm đường cứu nước tháng 6-1911.
Những năm đó, Sài Gòn là thành phố Viễn Đông tráng lệ của thực dân Pháp. Với Bác, đây vẫn là thành phố của bất công và nghèo đói. Về sau, trong những bài báo, diễn văn viết, nói ở nước ngoài, Người đã đơn cử rất nhiều trường hợp về cái gọi là khai hóa, là văn minh, là công lý của bọn thực dân ở thành phố này...
Đến Sài Gòn, đầu tiên Bác tìm đến nhà người anh em bạn dì của cụ Nghè Mô là ông Lê Văn Đạt tại xóm cầu Rạch Bần, nay là số nhà 185/1 đường Cô Bắc, khi ấy là vựa chiếu. Một thời gian sau, cụ Nghè Mô và ông Hồ Tá Bang đưa Bác đến ở nhà 1-2-3 đường Tecxa, Chợ Lớn, hồi ấy là trụ sở của Thương quán Liên Thành phân cuộc.
Những người kế tục của Công ty Liên Thành cho biết, ngày trước 3 gian nhà này chỉ là nhà một tầng, lợp ngói âm dương. Bác ở đây cho đến ngày xuống tàu. Sau ngày miền Nam giải phóng (tháng 4-1975), nơi đây được đổi thành nhà số 3 và 5 đường Châu Văn Liêm (Chợ Lớn), trong đó nhà số 5 được giữ làm di tích nơi Bác Hồ rời Sài Gòn xuống tàu ra đi tìm đường cứu nước (được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích lịch sử ngày 16-11-1988).
Trong thời gian ở đây, Người thường đi thăm cụ thân sinh đang làm nghề bốc thuốc ở cầu Ông Lãnh. Các cụ ở Liên Thành kể lại rằng, tết năm đó thầy Thành nói: “Tôi về ăn tết với cha”. Thành phố Sài Gòn đã có một mùa xuân in đậm trong Bác. Mùa xuân đó Sài Gòn chưa có bình minh. Trong đêm đen nô lệ, chắc chắn Bác và cụ Phó bảng - thân sinh của Bác - cũng chỉ đón tết với lòng xót xa thương dân, thương nước.
Đầu tháng 3, Bác xin vào học ở trường dạy nghề mở gần Chợ Cũ - trường này đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son. Có phải Bác muốn có một cái nghề để ra đi không?
Đồng chí Hà Huy Giáp kể lại, có lần Bác nói: “Bác đâu có ý định học thợ, nhưng trong lúc lang thang để tìm cách sang phương Tây, mà có nơi cho mình học, có cái ăn là mình vô thôi”.
Bác học tại trường được 3 tháng. Trong ngót 100 ngày đó, Bác đã dành nhiều thời gian quan sát Sài Gòn. Cái gì đối với Bác cũng mới lạ, từ nhà cửa đến đèn điện, máy nước, xe cộ, chiếu bóng... nhưng điều lạ hơn cả là trong bối cảnh như vậy sao dân mình vẫn khổ sở và bị khinh rẻ. Phải làm gì để cứu dân, cứu nước? Trong một lần đến thăm cha, Bác được cụ Phó bảng dạy: “Tìm thăm cha là tốt, nhưng cái cần hơn vẫn là tìm đường cứu dân tộc”...
Suy nghĩ đúc kết những bước đi của các vị tiền bối, Bác khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Trần Quý Cáp… Các cụ đã giúp thêm cho Bác quyết tâm, ý chí và nghị lực. Nhưng Bác “không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào”.
Bác phân tích: Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương, Bác nhận thấy điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương. Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Cụ Hoàng Hoa Thám thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến… (1)
Người thấy rõ và quyết định con đường nên đi. Đồng chí Hà Huy Giáp kể rằng, có lần Bác nói: “Cách mạng là con chim đại bàng có 2 cánh, một cánh vỗ ở các nước thuộc địa, một cánh vỗ ở các nước chính quốc. Có 2 cánh vỗ thì đại bàng mới bay được”. Trong đêm đen nô lệ của đất nước, Bác đã là cánh chim đại bàng - “cánh chim không mỏi”.
Khi quyết tâm ra đi, Bác rủ một người bạn:
- Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thực ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm... Anh muốn đi với tôi không?
Người bạn ngạc nhiên sửng sốt hỏi:
- Nhưng... lấy đâu ra tiền mà đi?
Bác giơ 2 bàn tay lên cả quyết:
- Đây, tiền đây. Chúng ta sẽ làm việc, ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Anh cùng đi với tôi chứ?
Trước lòng quyết tâm của Bác, anh bạn đã đồng ý, nhưng sau đó anh không đủ can đảm thực hiện lời hứa. (2)
Tháng 4-1862, Công ty Vận tải đường biển Hoàng gia Pháp Messageries Impériales (MI) bắt đầu hoạt động tuyến đường từ Pháp đi Sài Gòn - Hồng Công... Trụ sở của công ty ở Sài Gòn là ngôi nhà 3 tầng nằm ở hữu ngạn vàm rạch Bến Nghé (3), trên nóc có 2 con rồng quay đầu vào chầu mặt trăng theo kiểu “Lưỡng long chầu nguyệt”. Sau này (khoảng năm 1920), khi hãng MI đổi thành hãng Messageries Maritimes, mặt trăng được thay bằng phù hiệu của hãng có hình đầu ngựa, mỏ neo, vương miện, hai bên có 2 con rồng chầu, nhưng lại đặt đầu quay ra hai bên, bốn góc có 4 con cá hóa rồng chầu ra bốn hướng theo cung cách đình chùa Việt Nam. Một nhà báo Pháp viết rằng, đó là cách điệu của người Pháp để nói các con tàu ra đi từ xứ Á châu này. Coi mặt đặt tên, nhân dân ta gọi đó là Nhà Rồng. Tên gọi bến Nhà Rồng cũng xuất phát từ đó.
Bên này vàm rạch Bến Nghé có cột cờ Thủ Ngữ để làm mốc cho tàu buôn ra vào. Cột cờ dựng ở trước Sở thuế của cảng Sài Gòn (khi đó còn gọi là Sở Thủ ngự như tên gọi dưới thời Vua Tự Đức). Cũng như vậy, ngày 15-8-1862, tại Vũng Tàu, khánh thành ngọn hải đăng dẫn đường cho tàu vào cửa Cần Giờ.
Sau MI, có thêm hãng tàu Chargeurs Resunis (mới thành lập, chạy đường Pháp và Đông Dương từ năm 1901), chạy trên đường này. Hãng có đội tàu 7 chiếc. 6 tàu lớn chia nhau chạy các tuyến giữa hải cảng Pháp và Đông Dương. Chiếc Chợ Lớn nhỏ hơn, chạy bổ túc quanh năm. Từ Đông Dương đi Pháp có 2 nơi khởi hành: từ Hải Phòng vào ngày 27 mỗi tháng, từ Sài Gòn vào ngày 5 mỗi tháng. Hãng này có huy hiệu 5 ngôi sao nên người Việt Nam thường gọi là hãng Năm Sao. Tàu Amiral Latouche Tréville là một trong 7 chiếc tàu của hãng Năm Sao, do xưởng đóng tàu La Loire sản xuất ở vùng Saint Nazaire, hạ thủy ngày 21-3-1903, đăng ký tại cảng Le Havre năm 1904. Đây là một trong những tàu cỡ lớn đầu thế kỷ 20, vừa chở người vừa chở hàng. Hãng tàu Năm Sao có bến trong thương cảng Sài Gòn - ngày đó dài chừng 600m, nối tiếp với quân cảng kể từ công trường Mê Linh tới cầu Khánh Hội bên này rạch Bến Nghé, khi ấy gọi là Quai Francis Garnier, nay cũng là một phần đường Tôn Đức Thắng.
Thương cảng Sài Gòn năm 1911 khá tấp nập, trang bị đầy đủ và ở vào đầu mối giao thông rất thuận lợi, chỉ dài 600m mà có nhiều đại lộ châu đầu vô bến. Đó là các đường Paul Blanchy (nay là đường Hai Bà Trưng), Catinat (nay là đường Đồng Khởi), Charner (nay là đường Nguyễn Huệ), Krantz và Duperré (nay là đường Hàm Nghi). Nhà ga đường sắt đi Mỹ Tho và Phan Thiết đặt ở đầu đường Hàm Nghi tiếp cận với thương cảng. Nhà ga tàu hơi (tramway) cũng ở ngay đầu đường Nguyễn Huệ. Tàu hơi chạy dọc suốt thương cảng và quân cảng, một phía đi Gia Định rồi Hóc Môn, phía kia đi Chợ Lớn. Chợ Bến Thành (cũ) nằm gần đầu đường Nguyễn Huệ, nay là kho bạc. Qua thương cảng, khối lượng chuyên chở hành khách và hàng hóa của cảng ngày càng gia tăng (riêng lúa gạo, năm 1861 xuất khẩu 80.000 tấn, năm 1891 xuất khẩu 440.000 tấn, năm 1911 xuất khẩu trên 1,1 triệu tấn).
Thương cảng Sài Gòn khi ấy có 5 cầu tàu: 3 cầu tàu nhỏ ở đầu đường Đồng Khởi dành cho các hãng chuyên chở đường sông, 1 cầu tàu lớn ở đầu đường Nguyễn Huệ dành cho các tàu viễn dương và 1 cầu tàu nhỏ ở đầu đường Hàm Nghi dành cho hãng tàu người Hoa. Brébion đã mô tả Thương cảng Sài Gòn hồi 1911: “Trên bến Francis Garnier (nay là bến Bạch Đằng), phía bờ sông có nhiều loại cầu tàu chiếm chỗ. Một trong số cầu tàu lớn nhất là nơi cập bến các tàu lớn thuộc hãng Chargeurs Resunis (hãng Năm Sao).
Chúng ta có thể khẳng định bến đậu tàu Amiral Latouche Tréville là cầu tàu lớn của Thương cảng Sài Gòn nơi đầu đường Nguyễn Huệ. Đây là một vị trí khang trang và thoáng đãng hạng nhất thành phố: Nhìn vào đất liền qua đường Nguyễn Huệ rộng rãi thấy trụ sở Ủy ban Nhân dân thành phố (nhà Xã Tây cũ với kiến trúc đặc sắc ghi dấu một thời), nhìn sang phía sông thấy ngôi Nhà Rồng đồ sộ với dáng vẻ Âu Á pha trộn dễ gây ấn tượng.(4)
Sau này khi Chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra, ở Việt Nam là cuộc kháng chiến chống Pháp, hãng tàu Năm Sao không hoạt động ở Việt Nam và bến cảng bỏ phế. Các tàu bè ra vào chỉ cập cảng Nhà Rồng là chủ yếu. Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Thương cảng Sài Gòn trở thành bến sông cho các thuyền dịch vụ và thành phố chỉ còn 1 thương cảng là bến Nhà Rồng. Do đó ngày nay chúng ta gọi Bác Hồ ra đi từ bến Nhà Rồng vẫn được, bởi vì bến cảng Nhà Rồng ngày nay là hiện thân tiêu biểu cho các thương cảng của Sài Gòn những năm đầu thế kỷ 20.
Những tháng đầu năm 1911, Bác tìm đến Thương cảng Sài Gòn để tìm hiểu, làm quen và kiếm việc làm. Công nhân bến cảng và các nhà máy thời đó thường đi guốc mộc, mặc áo bà ba hoặc áo bành tô bằng vải ka ki màu vàng nhạt.

Trong những hãng tàu ra vào đó, Bác làm quen được với một số người Việt Nam làm ở hãng Năm Sao, vốn chạy tuyến Sài Gòn- Đà Nẵng, Hải Phòng và đi Singapore, Cô-lôm-bô, Đoong-két, Boóc-đô, Mác-xây, Lơ Ha-vrơ, Po Xa-ít, Gi-bu-ti. Hai người “bồi” Việt Nam mà Bác Hồ quen là bác Nguyễn Văn Hùm và Bùi Văn Viên. Hai ông này cho Bác biết là hãng đang tuyển “bồi”. Bác và mấy người Việt Nam nữa xuống xin việc.

Trưa 2- 6- 1911, chiếc tàu Amiral Latouche Tréville của hãng Năm Sao từ Hải Phòng cập cảng Sài Gòn. Bác xuống tàu và gặp viên thuyền trưởng. Nhìn thân hình mảnh khảnh của Bác, thuyền trưởng hỏi:

- Anh có thể làm được việc gì?

- Tôi có thể làm bất cứ công việc gì- Bác đáp với lòng tự tin.

Nhìn thấy nét cương nghị và thông minh của Bác, viên thuyền trưởng mỉm cười (sau này biết tên ông ta là Lui E-du-a Mai-sen, quê ở miền Bắc nước Pháp):

- Được, tôi đồng ý nhận anh làm phụ bếp, sáng mai anh xuống đây nhận việc. Anh tên là gì?

Lúng túng một chút, Bác đáp:

- Văn Ba!

Trên tàu khi đó đã có một thủy thủ làm việc từ trước có tên là Nguyễn Văn Ba.

Ngày 3-6-1911, Bác chính thức xuống tàu làm phụ bếp. Đây là một trong những tàu lớn hồi đó vừa chở hàng, vừa chở khách. Theo hồ sơ còn lưu ở Bảo tàng hàng hải bên Pháp, tàu dài 124,1m, rộng 15,2m, chạy máy hơi nước, 2.800 mã lực, với tốc độ 13 hải lý/giờ, trọng tải 5.572 tấn và có đủ nhiên liệu để chạy một mạch 12.000 hải lý. Trong hồ sơ lưu còn có sổ lương và sổ thủy thủ. Lương tháng 6-1911 của Bác là 50 phơ-răng Pháp, trong khi những người bồi Pháp làm việc rất nhàn nhã lãnh lương gấp 3 lần lương của Bác.

Trưa 5-6-1911, con tàu Amiral Latouche Tréville đã rời bến sông Sài Gòn với 72 thủy thủ trên tàu. Sài Gòn hôm đó đã thay mặt đất nước tiễn Bác. Trong chuyến hành trình đầu tiên đó, Bác đến Singapore, Cô-lôm-bô, Po Xa-ít, rồi Đa-răng, Mác-xây và ngày 15-7, Bác đến Lơ Ha-vrơ, cảng chính ở miền Bắc nước Pháp.

Bác ra đi giữa mùa bão tố tháng 6 với một trái tim vĩ đại mang trọn tình yêu quê hương đất nước. Từ buổi trưa đó, Bác bước vào cuộc đời của một người lao động cực khổ. Trong tác phẩm “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, có kể lại lúc Bác Hồ làm thủy thủ trên tàu như sau: Mỗi ngày anh Ba phải làm từ 4 giờ sáng, quét dọn sạch sẽ nhà bếp lớn trên tàu, rồi đốt lửa trong các lò. Khi thì đi khuân than, rồi xuống hầm lấy rau, thịt, cá, nước đá... Công việc khá nặng nhọc, lại gặp nhiệt độ luôn thay đổi vì dưới bếp rất nóng, còn trong hầm thì rất lạnh. Đôi khi vừa phải vác một bao nặng vừa leo lên những bậc thang, trong khi tàu chòng chành lắc lư rất nguy hiểm.

Xong công việc ấy, phải dọn cho chủ bếp Pháp ăn. Sau đấy, lặt rau, rửa nồi, chảo và đun lò lại. Công việc kéo dài suốt ngày.

Nhà bếp lo ăn cho cả 700- 800 người cả nhân viên và hành khách. Có nhiều cái chảo bằng đồng lớn và nặng quá, đến nỗi anh Ba phải kéo lê trên sàn. Với những cái nồi cao quá, anh phải leo lên ghế để chùi nồi. Luôn luôn nghe tiếng:

- Ba, đem nước đây!

- Ba, dọn chảo đi!

- Ba, thêm than vào!

Suốt ngày anh Ba người đẫm hơi nước và mồ hôi, mình đầy bụi than. Người ta thấy anh Ba phải dùng hết tinh thần và sức lực để làm cho xong mọi việc. Và hơn nữa, anh còn phải gọt cho xong đống củ cải và khoai tây... Mỗi ngày, đến 9 giờ tối, công việc mới xong. Anh Ba mệt lử. Nhưng trong khi chúng tôi nghỉ hoặc đánh bài, anh Ba học hay viết đến khuya...

Một lần dọc đường, anh Ba suýt chết đuối. Bể nổi sóng. Sóng cao như những quả núi chồm lên, đổ xuống. Hầu hết mọi người say sóng. Như mọi ngày, anh Ba lên bếp lại xuống hầm. Không thể vác những rổ rau lên vai vì tàu chòng chành dữ quá, anh phải buộc rổ rau vào dây sắt để kéo đi. Chuyến thứ 2, một ngọn sóng lớn thình lình phủ lên sàn tàu và cuốn xuống bể mọi vật trên sàn tàu, cả những rổ rau và anh Ba nữa. May là anh bị đẩy vào giữa cột buồm và dây xích, nhờ vậy mà thoát chết...(5)
Nguyễn Ái Quốc ở Pháp năm 1920.
Theo những bức thư của Bác gửi cho cụ Phó bảng thông qua nhà chức trách Anh còn lưu trong tài liệu mật thám Pháp, ngày 30-10-1911 Bác đã đến Cô-lôm-bô và ngày 15-12-1912 Người đến New York. Một nhà sử học Mỹ nổi tiếng, dành gần như cả cuộc đời để nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã cung cấp cho chúng ta tư liệu rất quý khi Bác Hồ đến Hoa Kỳ và đi thăm Tượng Nữ thần tự do. Bà đã lật xem những trang ghi cảm tưởng của mọi chính khách khi đến thăm và chiêm ngưỡng Tượng Nữ thần tự do.
Bà viết: “Tất cả họ đều ghi cảm tưởng bằng những lời ca ngợi ngôi sao tỏa sáng trên vòng nguyệt quế là ánh sáng tự do... Duy chỉ có Nguyễn Tất Thành nhìn xuống dưới chân tượng và ghi: Ánh sáng trên đầu Thần Tự do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thì người da đen đang bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng như người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới”.

Từ ngày 5-6-1911, Bác đã trải qua bao gian nan, cực khổ của các nghề “bồi” ở dưới tàu, “bồi” ở khách sạn, làm nghề rửa ảnh, vẽ sơn mài… và làm nghề cào tuyết cho một trường học để sống, để đi, để hiểu và hoạt động cách mạng.
Tám năm sau, tháng 6-1919, Cảng sông Sài Gòn lại chuyển về nhân dân Việt Nam bản Yêu sách 8 điểm của nhân dân Việt Nam mà Bác đã đại diện gởi đến Hội nghị Verseille, văn kiện đó như một quả bom nổ giữa thủ đô của nước chính quốc, là tiếng thét của hàng triệu người Việt Nam. Bác đã bỏ tiền ra để in tài liệu này gởi đi các nơi và gởi về Việt Nam. Nhân dân ta biết Nguyễn Ái Quốc từ đó. Nhiều nhà Nho yêu nước ở Việt Nam đã nói: “Bầu trời Việt Nam đã xuất hiện một vì sao mới, là Nguyễn Ái Quốc”.

Từ ngày 5-6-1911, Bác rời Sài Gòn và đã đi qua gần đủ năm châu, bốn biển trên thế giới và tìm ra con đường giải phóng dân tộc, để mùa xuân của 30 năm sau (tháng 2-1941), Bác trở về Pắc Pó, lãnh đạo cách mạng Việt Nam và sau đó khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa… Và rồi ngày 30-4-1975, con cháu Bác với chiến dịch mang tên Bác, với đường lối và tư tưởng quyết thắng của Bác đã tiến vào giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Ý chí quyết tâm và lòng tin của Bác trước sau như một. Ngày Bác ra đi chỉ có 2 bàn tay. Khi Bác về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam cũng chỉ có 2 bàn tay. Trong bài thơ “Pắc Pó hùng vĩ”, Bác viết:

“Non xa xa, nước xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là
Đây suối Lênin, kia núi Mác,
Hai tay xây dựng một sơn hà”.


Tất nhiên 2 bàn tay mà Bác nói đây là 2 bàn tay của ngót 25 triệu đồng bào Việt Nam (6). Bác tin tuyệt đối ở nhân dân, tin ở sự “đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” (thơ Bác Hồ năm 1941) của tất cả mọi người Việt Nam.

Sài Gòn, thành phố phía Nam của Tổ quốc, nơi Bác tập làm quen với cách sống của thành thị trước lúc ra đi, nơi đã in sâu vào tâm trí Bác nhiều ấn tượng sâu sắc về chế độ thực dân và về những người dân nghèo bị áp bức. Nếu có dịp đọc lại những bài viết của Bác trong những năm 1920 trên các báo Người Cùng Khổ (Le Paria), Đời Sống Công Nhân (La Vie Ouvrière), Nhân Đạo (L’Humanité) xuất bản ở Pháp, cũng như tác phẩm “Bản án chủ nghĩa thực dân Pháp” của Bác, chúng ta sẽ thấy Bác luôn luôn nhắc đến Sài Gòn.
Bác theo dõi từng bước đi, từng nhịp thở của nhân dân Sài Gòn ngay từ lúc Bác mới xa Tổ quốc. Bác lên án “bọn người Âu mắng phụ nữ Việt Nam là “con đĩ, con bú dù” và “ngay giữa chợ Bến Thành Sài Gòn- mà người ta bảo là một thành phố Pháp, bọn gác chợ người Âu cũng không ngần ngại dùng roi gân bò, dùi cui đánh phụ nữ bản xứ để bắt họ tránh khỏi làm nghẽn lối”. Trong bài “Khai hóa giết người” đăng trên báo Le Paria ngày 1-8-1922, Bác đã tố cáo trường hợp bọn Pháp giết chết anh công nhân ở Sở hỏa xa Sài Gòn một cách cực kỳ dã man. Nhiều và rất nhiều những đơn cử như thế của Bác về Sài Gòn trên báo chí ở Pháp.

Ở xa Tổ quốc, Bác biết những vụ bạo động, những cuộc biểu tình đổ máu của người Việt Nam phản đối việc bị bắt đi lính cho Pháp ở Biên Hòa, ở Sài Gòn. Bác biết rõ tháng 11-1922, 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn vì bị bớt lương nên đã quyết định bãi công đấu tranh (Nguyễn Ái Quốc- Bản án chủ nghĩa thực dân Pháp- NV). Bác biết và Bác hiểu rõ tâm tư của mọi người dân lao động Sài Gòn. Vì suốt thời gian Bác lưu lại ở Sài Gòn, Bác cũng là người lao động sống cực khổ.
Sau này, khi làm Chủ tịch nước, mỗi lần tiếp các đại biểu Sài Gòn về thăm, Bác thường nhắc về những kỷ niệm lúc Bác ở Sài Gòn. Bác nhớ rõ cảnh những người nghèo không nhà không cửa sống nhờ trên hè phố và các móng cầu. Một lần khi nữ anh hùng Tạ Thị Kiều về thăm Bác, Bác có nhắc lại một kỷ niệm nhỏ khi Bác ở Sài Gòn:

- Sài Gòn hồi đó có “nhà che cơm tấm”, Bác hay ăn lắm, họ nấu cơm tấm rất giỏi, không nhão mà ăn với tép rang hoặc tôm kho tàu rất ngon, lại rẻ tiền.

Hôm đó Bác nói: “Bác nhớ miền Nam, nhớ Sài Gòn lắm. Bác mong miền Nam mau giải phóng để Bác vô thăm”.
Sài Gòn, miền Nam đã luôn luôn trong tim Bác và hơn thế đã để lại những rung động đầu đời của một tình yêu tuổi đôi mươi.

Sài Gòn có vinh dự tiễn Bác ra đi. Sài Gòn mấy chục năm qua gan vàng dạ sắt, chiến đấu anh hùng. Sài Gòn xứng đáng được mang tên Bác. Sài Gòn đã từng đi trước về sau, ngày nay thành phố đang nỗ lực xây dựng để luôn luôn là trung tâm kinh tế văn hóa xã hội đi trước và cùng cả nước đi lên với ý chí quyết tâm thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sài Gòn đã và đang xứng đáng là thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng.

(1) và (2) Theo “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” của Trần Dân Tiên.
(3) Vàm rạch: cửa sông Bến Nghé.
(4) Theo tài liệu của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu.
(5) Theo “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” của Trần Dân Tiên.

(6) Năm 1945, dân số Việt Nam là 25 triệu người.
Ký của Trình Quang Phú

2. Từ Vinh (1905) đến Sài Gòn (1911) - Hành trình kết tụ hoài bão cứu nước của Nguyễn Tất Thành
Sở Khoa học - Công nghệ tỉnh Nghệ An
Trước ngày Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc với tâm nguyện tìm kiếm con đường mới cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nhiều miền đất Trung Kỳ và Nam Kỳ đã chứng kiến và khắc ghi những dấu ấn quan trọng, đánh dấu những chuyển biến có tính bước ngoặt trong nhận thức và hành động của người thanh niên yêu nước. Đó cũng chính là hành trình kết tụ hoài bão lớn để đi đến quyết định dứt khoát của Nguyễn Tất Thành sau những chặng đường trải nghiệm, khởi đầu từ Vinh (năm 1905) và kết thúc ở Sài Gòn (năm 1911).
Trước ngày Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc với tâm nguyện tìm kiếm con đường mới cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nhiều miền đất Trung Kỳ và Nam Kỳ đã chứng kiến và khắc ghi những dấu ấn quan trọng, đánh dấu những chuyển biến có tính bước ngoặt trong nhận thức và hành động của người thanh niên yêu nước. Đó cũng chính là hành trình kết tụ hoài bão lớn để đi đến quyết định dứt khoát của Nguyễn Tất Thành sau những chặng đường trải nghiệm, khởi đầu từ Vinh (năm 1905) và kết thúc ở Sài Gòn (năm 1911).
1. Mùa hè năm 1905, Nguyễn Tất Thành cùng anh trai Nguyễn Tất Đạt từ bỏ việc học chữ Hán để theo học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp (lớp dự bị - préparatoire) tại trường Tiểu học Pháp - Việt ở Vinh1. Đây có thể xem là bước ngoặt quan trọng đầu tiên trên con đường tiếp nhận và thực hành tri thức, hơn thế nữa, trên con đường cách mạng của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sau này.
Tại Vinh - một trung tâm công nghiệp, cũng là nơi tập trung nhiều cơ quan hành chính của người Pháp, trước và trong thời gian theo học ở trường Tiểu học Pháp - Việt, Nguyễn Tất Thành học tiếng Pháp và bắt đầu làm quen với văn hóa phương Tây. Chịu ảnh hưởng của thầy giáo yêu nước, cấp tiến như Nguyễn Quý Song, Lê Văn Miến2... (và trước đó từ các thầy Vương Thúc Quý, Trần Thân3....), tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh của Nguyễn Tất Thành càng được đắp bồi thêm từ những suy nghĩ tiến bộ, mạnh dạn của các bậc sĩ phu khả kính. Khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của cách mạng dân chủ tư sản Pháp được nghe từ vài năm trước, nay có thêm điều kiện để tìm hiểu sâu sắc hơn, đầy đủ hơn. Thành phố Vinh trở thành nơi thôi thúc mạnh mẽ quyết tâm của Nguyễn Tất Thành: “muốn làm quen với nền văn minh Pháp” và “tìm hiểu tận nơi xem đằng sau những từ ngữ ấy ẩn dấu cái gì”.
2. Chưa hết năm học ở trường Tiểu học Pháp - Việt tại Vinh, tháng 2/1906, hai anh em Nguyễn Tất Đạt, Nguyễn Tất Thành lại cùng cha vào Huế, khi Nguyễn Sinh Sắc được bổ nhiệm làm Thừa biện Bộ Lễ. Tại Huế có những cơ quan đầu não của bộ máy cai trị thực dân ở Trung Kỳ như Tòa Khâm sứ, Sở Mật thám,...; nhưng Huế cũng là nơi hưởng ứng sôi nổi các phong trào Đông Du, Duy Tân do Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh... khởi xướng.
Tháng 9/1906, Nguyễn Sinh Sắc xin cho Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành vào học lớp dự bị trường Tiểu học Pháp - Việt tỉnh Thừa Thiên (thường gọi là trường Đông Ba). Đến tháng 8/1908, sau khi hoàn thành chương trình tiểu học, cùng với 6 bạn đạt điểm xuất sắc, Nguyễn Tất Thành được bỏ qua năm thứ nhất để vào thẳng năm thứ hai Trường Quốc học Huế. Một lần nữa, những ngôi trường và môi trường xã hội trên đất Huế tiếp tục hun đúc chí khí và hoài bão của người thanh niên yêu nước.
Quãng thời gian ở trường Đông Ba và trường Quốc học, Nguyễn Tất Thành học thầy Hoàng Thông và tiếp tục học thầy Lê Văn Miến, được thầy Hoàng Thông4 giao nhiệm vụ làm liên lạc cho các hoạt động Đông Du, Duy Tân. Bên cạnh đó, Nguyễn Tất Thành còn tham gia phong trào Duy Tân ở Huế với vai trò thông ngôn cho các cuộc đấu tranh chống thuế của đồng bào.
Chính trong những tháng ngày sôi động ở Huế (1907 - 1908), Nguyễn Tất Thành đã nghe, đã biết, đã chứng kiến Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa, phong trào Đông Du bị dập tắt, phong trào Duy Tân và Kháng thuế Trung Kỳ bị đàn áp dã man… Các nhà yêu nước tiêu biểu như Phan Châu Trinh bị kết án tử hình; Trần Quý Cáp, Nguyễn Hằng Chi bị xử chém; Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế… bị đày ra Côn Đảo; hàng ngàn người khác bị giết, hoặc bị cầm cố, lưu đày. Ở Huế, các sỹ phu Hoàng Thông, Lê Đình Mộng, Lê Kiệt, Nguyễn Bình, Phạm Toản, Nguyễn Mạnh, Phan Đạm… đều bị kết tội khổ sai, hoặc bị giam cầm tại nhà lao Thừa Phủ hoặc phát vãng đi Lao Bảo. Tình cảnh ấy càng thôi thúc ý chí tìm đường cứu nước, đồng thời giúp Nguyễn Tất Thành nhận thức rõ hơn về sự bất thành trong phương thức đấu tranh mà các bậc tiền bối đã lựa chọn và thực hiện. Trong tác phẩm Ho, nhà báo Mỹ David Halberstam viết: “Tư tưởng yêu nước của Hồ (tức Nguyễn Tất Thành) được tăng cường ở Huế… Trong khi đang học ở Huế, Hồ tiếp tục các công việc yêu nước một cách tích cực và cuối cùng ông đã rời bỏ trường này trước khi có một mảnh bằng. Đây là một thời gian đặc biệt may mắn, và ông là một con người muốn học thêm nữa bằng cách chu du ra nước ngoài hơn là học trong trường khắt khe do thực dân đỡ đầu”.
Vậy là tiến thêm một bước, trong hơn ba năm trên đất Huế, không chỉ tìm hiểu và chiêm nghiệm, Nguyễn Tất Thành đã trực tiếp tham gia các phong trào yêu nước, làm dày thêm hành trang nhận thức chính trị và hoạt động thực tiễn của mình, chuẩn bị đầy đủ hơn cho cuộc dấn thân vì Tổ quốc, vì dân tộc.
3. Giữa năm 1909, Nguyễn Sinh Sắc được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Bình Định, rồi nhậm chức Tri huyện Bình Khê - một huyện hẻo lánh vùng bán sơn địa thuộc tỉnh Bình Định. Đang học năm thứ hai trường Quốc Học, Nguyễn Tất Thành theo cha rời Huế. Được cha gửi ăn học tại nhà ông Phạm Ngọc Thọ (cha của bác sỹ Phạm Ngọc Thạch) đang dạy tại trường Tiểu học Pháp - Việt Quy Nhơn, Nguyễn Tất Thành tiếp tục theo chương trình “cours supérieur”, đồng thời nhận dạy tiếng Pháp và các môn khoa học sơ đẳng cho các thí sinh chuẩn bị thi Hương khoa Kỷ Dậu (1909).
Qua phối kiểm các nguồn tài liệu (không nhiều lắm), có thể xâu chuỗi một số sự kiện có ảnh hưởng đến Nguyễn Tất Thành trong thời gian sống và học tập ở Quy Nhơn. Ngay khi đến Bình Khê, Nguyễn Sinh Sắc dẫn con đi thăm các sĩ phu trong vùng và di tích lịch sử ở Tây Sơn. Thời gian Nguyễn Sinh Sắc nhậm chức Tri huyện Bình Khê cũng là lúc Nguyễn Quý Song - thầy giáo cũ của Nguyễn Tất Thành bị cách chức Tri phủ Phù Cát (Bình Định) vì “không làm tròn phận sự”. Cuối năm 1909, Thành dự khoa thi lấy Tổng sư ở Quy Nhơn, nhưng không có kết quả vì bị gạch tên6. Đáng chú ý nhất là sự kiện sau khi Nguyễn Sinh Sắc bị bãi chức (tháng Giêng năm 1910) và bị triệu hồi về kinh, trong khi Nguyễn Tất Đạt theo cha thì Nguyễn Tất Thành xin ở lại, rồi sau đó tìm cách đi tiếp vào Nam. Bước ngoặt đầu năm 1910 ở Quy Nhơn chính là thời điểm đánh dấu sự trưởng thành trọn vẹn với những suy nghĩ và quyết định hết sức tự chủ của người thanh niên 20 tuổi Nguyễn Tất Thành trên hành trình thực hiện hoài bão cứu nước.
4. Chặng đường tiếp theo của Nguyễn Tất Thành gắn với Phan Thiết - Bình Thuận, vùng đất cực nam Trung Kỳ mà từ năm 1899, báo cáo của Công sứ Phan Thiết gửi  Khâm sứ Trung Kỳ nhấn mạnh: “Vị trí của dư địa Bình Thuận khiến nó trở thành một nơi ẩn náu tự nhiên của tất cả những phần tử phiêu bạt từ Nam kỳ lánh ra cũng như từ các tỉnh phía Bắc của Trung Kỳ chạy vào thành một địa bàn tụ hội cả Trung - Nam - Bắc”7. Lý giải về việc Nguyễn Tất Thành dừng chân ở Bình Thuận, tác giả Hà Huy Giáp cho biết: “Bác Hồ có lần nói với tôi: trên đường từ Huế vào Sài Gòn, hễ nơi nào có thể vừa kiếm sống, vừa tìm được tàu ra nước ngoài thì Bác vào”8. Tác giả Vũ Kỳ cho biết thêm: Nguyễn Tất Thành lúc đầu không có ý định dừng lại ở Phan Thiết, song đến đó thì tiền lộ phí đã cạn mới quyết định ở lại tìm việc để tiếp tục cuộc hành trình9.
Tại Bình Thuận, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc và gặp gỡ nhiều chí sĩ yêu nước, cấp tiến như: Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang, Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn Quý Anh,...- những nhà sáng lập và điều hành Công ty Liên Thành (bao gồm Liên Thành thương quán, Liên Thành thư xã và Dục Thành học hiệu)10. Nguyễn Tất Thành cũng rất quan tâm thu thập thông tin về việc đi ra nước ngoài, tìm hiểu mối liên hệ giao dịch của Liên Thành thương quán với các chuyến tàu biển11...
Có thể khẳng định rằng, nửa năm ở Bình Thuận và dạy học ở trường Dục Thanh (từ tháng 9/1910 đến tháng 2/1911) là thời đoạn có ý nghĩa rất quan trọng trong hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành. Từ Bình Thuận, Nguyễn Tất Thành đã nhận được “sự chuẩn bị của một đại gia đình bao nhiêu bậc đàn anh trong thế hệ nho sĩ lớp trước”, để “đến thành phố Sài Gòn không bị đơn độc và mau chóng làm quen với thành phố Âu hóa này12.
5. Tháng 2/1911, với sự bảo trợ chu đáo của các thành viên Công ty Liên Thành13, Nguyễn Tất Thành rời Bình Thuận vào Sài Gòn. Bốn tháng ở Sài Gòn (từ tháng 2 đến đầu tháng 6 năm 1911) là chặng thời gian ngắn ngủi, nhưng Sài Gòn lại chính là nơi đánh dấu sự chín muồi cả về nhận thức và hành động, để Nguyễn Tất Thành quyết định dứt khoát sự lựa chọn của mình.
Tại Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành có dịp gặp gỡ các nhà yêu nước gắn bó với Hội Liên Thành và đã từng tham gia các phong trào Đông Du, Duy Tân. Một số tài liệu còn cho biết Nguyễn Tất Thành cũng đã gặp Phan Châu Trinh tại Sài Gòn trước khi lên đường sang Pháp. Những buổi đàm luận về thời cuộc, về phương thức đấu tranh cứu nước cùng các bậc cha anh càng đốt nóng hơn hơn bầu nhiệt huyết luôn sôi sục những ngày còn ở Vinh, ở Huế, ở Bình Định và Bình Thuận.
Cũng tại Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành đã chứng kiến cảnh tượng “ngay giữa chợ Bến Thành - mà người ta bảo là một thành phố Pháp, bộn gác chợ người Âu cũng không ngần ngại dùng roi gân bò, dùi cui đánh phụ nữ bản xứ để bắt họ tránh khỏi làm nghẽn lối”14. Nỗi khổ nhục ấy của người dân (mà đoạn dẫn trên chỉ là một trường hợp thường thấy) càng thôi thúc thêm ý chí đi nước ngoài của Nguyễn Tất Thành, như tác giả W.J.Duiker viết: “Không nghi ngờ gì, khi rời Sài Gòn tháng 6 năm 1911, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành đã hoàn toàn nhận thức được những bất công mà đất nước mình đang phải gánh chịu và trong nước không có lời giải. Biết đâu, anh có thể tìm kiếm được những lời giải ở nước ngoài”15. Trong những ngày tháng ở Sài Gòn, việc Nguyễn Tất Thành đi vào các xóm thợ, làm quen với những thanh niên đang làm thợ hoặc học nghề ở các trường kỹ nghệ, rồi bản thân theo học nghề thợ máy; cũng như việc tiếp cận các hiệu giặt ở gần cảng Nhà Rồng (chuyên nhận giặt quần áo cho các thủy thủ trên tàu Pháp...) - tất cả đều hướng tới mục tiêu nung nấu suốt 6 năm qua: tìm cách “sang Pháp và các nước phương Tây, xem người ta làm như thế nào rồi về giúp đồng bào của mình”.
Qua các chặng hành trình Vinh - Huế - Bình Định - Bình Thuận - Sài Gòn, có thể xem Vinh là điểm khởi đầu và Sài Gòn là nơi kết tụ hoài bão của người thanh niên yêu nước trước ngày rời Tổ quốc.
Vinh là nơi khơi nguồn cho định hướng đi ra nước người tìm con đường mới. Hoàn toàn có thể khẳng định điều này, khi đọc lại bài trả lời phỏng vấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với một nhà báo Pháp đăng trên báo Nhân dân (số ra ngày 18/5/1965): “Nhân dân Việt nam, trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau rằng ai là người sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người khác nghĩ là Anh, có người khác nữa nghĩ là Mỹ. Tôi thì thấy phải đi ra nước ngoài để xem cho rõ”.
Còn Sài Gòn chính là nơi trả lời rõ thêm những câu hỏi tồn nghi của Nguyễn Tất Thành về bản chất của chế độ thực dân, nơi củng cố quyết tâm và góp phần quyết định để Nguyễn Tất Thành lựa chọn dứt khoát phải sang Pháp và các nước phương Tây, chứ không phải hướng về phương Đông như một số nhà yêu nước tiền bối. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nêu giả thuyết mà cũng là đáp án: “Phải chăng thành phố ít nhiều mang tính chất công nghiệp đã góp phần vào sự lựa chọn quyết định của Bác?”16. Sài Gòn cũng là nơi góp phần tạo điều kiện và có vinh dự thay mặt cả nước tiễn Nguyễn Tất Thành lên chiếc tàu Amiral Latouche Tréville17, bắt đầu một hành trình mới mà thực tế lịch sử đã chứng minh là con đường đúng đắn nhất để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc 18.

Tài liệu tham khảo:
1. Theo Wiliiam J. Duiker - Ho Chi Minh - a life (bản dịch của Nguyễn Thành Nam, file PDF, 2000, tr. 13), vào mùa hè năm 1905 Nguyễn Tất Thành theo học tiếng Pháp với một người bạn của cụ Nguyễn Sinh Sắc. Tháng 9 năm này, Nguyễn Sinh Sắc xin cho con học trường Pháp - Việt (Vinh).
2. Nguyễn Quý Song là một nhà khoa bảng Nho học nhưng có tinh thần duy tân. Ông từng đến thăm và nói với ông Nguyễn Sinh Sắc: “Phải đánh Tây, nhưng muốn đánh được Tây thì phải hiểu người Tây. Mà muốn hiểu rõ người Tây thì phải học chữ Tây (theo Chu Trọng Huyến - Hồ Chí Minh thời trẻ, NXB Nghệ An, 2007, tr. 102).
Lê Văn Miến từng được Đào Tấn - Tổng đốc Nghệ An - mời làm thư ký cho mình, đến năm 1902 ông được Đào Tấn tiến cử về làm Hành tẩu Bộ Công. Lê Văn Miến có hai lần làm Đốc giáo trường Pháp - Việt ở Vinh: lần một từ 1899 đến 1902, lần hai từ 1904 đến 1907; sau đó dạy vẽ ở trường Quốc học Huế (theo Nguyễn Khắc Phê - Lê Văn Miến - người họa sĩ đầu tiên, người thầy đầu tiên, NXB Thuận Hóa, Huế, 1995, tr. 100). Ông còn là một trong những người đã lập ra Hoan Châu học hội và góp tiền cho Triêu Dương thương điếm - những cơ sở kinh tài của Duy Tân hội do Phan Bội Châu sáng lập.
3. Vương Thúc Quý (1862-1907) là con của Vương Thúc Mậu - thủ lĩnh nghĩa binh chống Pháp, là bạn đồng chí của Phan Bội Châu. Có tài liệu cho rằng Vương Thúc Quý đã xây dựng tủ sách tân thư và thành lập phân hội của Đông Kinh Nghĩa Thục tại Kim Liên.
Trần Thân (1839-1917) là một nhà nho sống thanh bạch, khẳng khái, trọng nghĩa khinh tài.
4. Hoàng Thông đỗ cử nhân, làm quản giáo kiêm dạy Hán văn tại trường Quốc học Huế từ năm 1896. Ông là đồng chí của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh..., là người đứng đầu một hội buôn ở Huế để làm tài chính cho các phong trào Đông Du, Duy Tân (theo Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng - Vàng trong lửa, NXB Tổng Hợp TP.HCM, 2009, tr. 52).
5. Dẫn theo Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh Thừa Thiên Huế - Âm vang thời Bác Hồ ở Huế, NXB Thuận Hóa, 2003, tr 125. David Halberstam (1934-2007) là nhà báo Mỹ đoạt giải Pulizer, phóng viên chiến trường và là tác giả nổi tiếng về đề tài chiến tranh Việt Nam. Tác phẩm Ho của ông được NXB McGraw-Hill ấn hành năm 1971.
6. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và Ban Khoa học Kỹ thuật Bình Đinh - Nguyễn Tất Thành ở Bình Định, 1991, tr.24.
7. Dẫn theo Vàng trong lửa, sđd, tr.68.
8. Dẫn theo Nguyễn Tất Thành ở Bình Định, sđd, tr. 64 - 65.
9. Viện Hồ Chính Minh, Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 1 (1890 - 1929), NXB CTQG, H, 2006, tr. 34.
10. Trương Gia Mô (quê Ba Tri, Bến Tre) từng giữ chức vụ Hàn lâm đãi chiếu tại Bộ Công cùng thời với Nguyễn Sinh Sắc, sau khi gửi bán điều trần 5 điểm nhưng không được triều đình chấp nhận đã từ quan về ở ẩn tại Hà Thủy, huyện Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận. Năm 1907, ông bị bắt giam vì liên quan đến vụ án Trần Quý Cáp. Ông là một trong những người sáng lập Công ty Liên Thành ở Bình Thuận. Hồ Tá Bang là người cùng làng (huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên) và là học trò của Nguyễn Lộ Trạch. Năm 1910, ông bị đổi ra làm ký lục ở Hội An, nhưng không thích nên bỏ về lại, được bầu làm Tổng lý trong Công ty Liên Thành. Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn Quý Anh - hai con trai của Nguyễn Thông - là những sáng lập viên đầu tiên của Công ty Liên Thành. Năm 1905, các nhà yêu nước Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng từ Quảng Nam đã vào Phan Thiết bàn việc “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” với Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn Quý Anh. Kết quả của cuộc gặp gỡ này là sự ra đời Công ty Liên Thành vào năm 1906.
11. Các tác giả Vàng trong lửa (sđd, tr.76) cho biết: “Trong thời gian dạy học ở trường Dục Thanh, thành Thành rất hay trò chuyện với thầy Hải... là một người Việt lai, cha là một công nhân Pháp và có lần được cha đưa về nước Pháp... Qua thầy Hải, thầy Thành còn muốn tìm hiểu thêm về việc đi ra nước ngoài. Thầy Thành thích nghe thầy Hải kể những chuyện mới lạ về xã hội Pháp, về con người Pháp ở nước Pháp và nhất là những nhận xét trong chuyến đi tàu biển ở cảng Sài Gòn sang cảng Marseille hàng tháng trời lên đênh trên mặt biển”.
12. Theo Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng - Vàng trong lửa, sđd, tr.69, 78.
13. Nhiều tài liệu cho biết: Trương Gia Mô là người trực tiếp tạo phương tiện đi lại cho Nguyễn Tất Thành. Căn nhà đầu tiên Nguyễn Tất Thành trú ngụ trên đất Sài Gòn là nhà ông Lê Văn Đạt - anh em con bạn dì của Trương Gia Mô (ở đường Cô Bắc, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay). Các địa chỉ tiếp theo cũng gắn với Liên Thành: trụ ở Liên Thành phân cục (số 5 đường Châu Văn Liêm, quận 5 thành phố Hồ Chí Minh); đại lý hàng của Công ty Liên Thành (đường Nguyễn Tất Thành, quận 4, thành phố Hồ Chí Minh) v.v...
14. Nguyễn Ái Quốc - Bản án chế độ thực dân Pháp - NXB CTQG, Hà Nội, 2008, tr.148.
15. Wiliam j.Duiker - Hồ Chí Minh - a life, sđd, tr.19. Wiliam j.Duiker từng là viên chức Bộ Ngoại giao Mỹ, và là giáo sư sử học trường Đại học Penn States.
16. Nguyễn Văn linh - Thành phố Hồ Chí Minh 10 năm - NXB Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.29.
17. Có tài liệu cho biết Nguyễn Tất Thành được ông Trương Cao Nho - làm trưởng bếp trên tàu của hãng Chargeurs Réunis, nhà ở đường Võ Thị Sáu (quận 3, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay) - giới thiệu làm phụ bếp trên tàu Amiral Latouche Tréville (Xem Vàng trong lửa, sđd, tr.86).
18. Bài viết có tham khảo một số tư liệu trong luận văn thạc sĩ sử học của Huỳnh Bá Lộc - Quá trình tiếp xúc của Nguyễn Tất Thành với các sĩ phu Việt Nam trước khi ra đi tìm đường cứu nước (1895 – 1911), bảo vệ tại Trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc gia TP. HCM, 2010.

LÊ HỮU PHƯỚC TS. Phó Hiệu trưởng, Trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc gia TP.HCM

3. Sài Gòn với Nguyễn Tất Thành

Ngày 5-6-1911, Sài Gòn ghi dấu một sự kiện có ý nghĩa như một trong những cột mốc khởi đầu đặc biệt của lịch sử cách mạng Việt Nam thời kỳ cận - hiện đại: Từ Bến Nhà Rồng, Bác Hồ quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
Mùa hè năm 1905, Nguyễn Tất Thành cùng anh trai Nguyễn Tất Đạt theo học chữ quốc ngữ và chữ Pháp tại Trường Tiểu học Pháp - Việt ở Vinh.Tại Vinh trước và trong thời gian theo học ở Trường Tiểu học Pháp - Việt, Nguyễn Tất Thành học tiếng Pháp và bắt đầu làm quen với văn hóa phương Tây.   
Chịu ảnh hưởng các thầy giáo yêu nước, cấp tiến như Nguyễn Quý Song, Lê Văn Miến… (và trước đó từ các thầy Vương Thúc Quý, Trần Thân…), tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh của Nguyễn Tất Thành càng được đắp bồi.   
Khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của cách mạng dân chủ tư sản Pháp được nghe từ vài năm trước, nay có thêm điều kiện để tìm hiểu sâu sắc hơn, đầy đủ hơn.   
Thành phố Vinh trở thành nơi thôi thúc mạnh mẽ quyết tâm của Nguyễn Tất Thành: “Muốn làm quen với nền văn minh Pháp” và “tìm hiểu tận nơi xem đằng sau những từ ngữ  ấy ẩn giấu cái gì”.
Hun đúc tư tưởng yêu nước ở Huế 
Chưa hết năm học ở Trường Tiểu học Pháp - Việt tại Vinh, tháng 5-1906, hai anh em Nguyễn Tất Đạt, Nguyễn Tất Thành cùng cha vào Huế, khi ông Nguyễn Sinh Sắc được bổ nhiệm làm Thừa biện Bộ Lễ.  
Tại Huế có những cơ quan đầu não của bộ máy cai trị thực dân ở Trung Kỳ nhưng Huế cũng là nơi hưởng ứng sôi nổi các phong trào Đông Du, Duy Tân do Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… khởi xướng.
Bến Nhà Rồng đầu thế kỷ XX. Ảnh: Tư liệu
Tháng 9-1906, ông Nguyễn Sinh Sắc xin cho Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành vào học lớp dự bị Trường Tiểu học Pháp - Việt tỉnh Thừa Thiên (thường gọi là trường Đông Ba). Đến tháng 8-1908, Nguyễn Tất Thành được bỏ qua năm thứ nhất để vào thẳng năm thứ hai Trường Quốc học Huế.  
Quãng thời gian học ở Huế, Nguyễn Tất Thành học thầy Hoàng Thông và tiếp tục học thầy Lê Văn Miến, được thầy Hoàng Thông giao nhiệm vụ làm liên lạc cho các hoạt động Đông Du, Duy Tân.   
Bên cạnh đó, Nguyễn Tất Thành còn tham gia phong trào Duy Tân ở Huế với vai trò thông ngôn cho các cuộc đấu tranh chống thuế của đồng bào.   
Chính trong những tháng ngày sôi động ở Huế (từ 1907 đến 1908), Nguyễn Tất Thành đã nghe, đã biết, đã chứng kiến Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa, phong trào Đông Du bị dập tắt, phong trào Duy Tân và Kháng thuế Trung Kỳ bị đàn áp dã man…   
Các nhà yêu nước tiêu biểu như Phan Châu Trinh bị kết án tử hình; Trần Quý Cáp, Nguyễn Hằng Chi bị xử chém; Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế… bị đày ra Côn Đảo... Tình cảnh ấy càng thôi thúc ý chí tìm đường cứu nước.   
Trong tác phẩm Ho, nhà báo Mỹ David Halberstam viết: “Tư tưởng yêu nước của Hồ (tức Nguyễn Tất Thành) được tăng cường ở Huế… Đây là một thời gian đặc biệt may mắn, và ông là một con người muốn học thêm nữa bằng cách chu du ra nước ngoài hơn là học trong trường khắt khe do thực dân đỡ đầu”.
Từ Quy Nhơn, bước ngoặt của sự trưởng thành
Giữa năm 1909, ông Nguyễn Sinh Sắc được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Bình Định, rồi nhậm chức Tri huyện Bình Khê - một huyện hẻo lánh thuộc tỉnh Bình Định. Đang học năm thứ hai Trường Quốc học, Nguyễn Tất Thành theo cha rời Huế.   
Được cha gửi ăn học tại nhà ông Phạm Ngọc Thọ (cha của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch) đang dạy tại Trường Tiểu học Pháp - Việt Quy Nhơn, Nguyễn Tất Thành tiếp tục theo chương trình “cours supérieur”.   
Ngay khi đến Bình Khê, ông Nguyễn Sinh Sắc dẫn con đi thăm các sĩ phu trong vùng và di tích lịch sử ở Tây Sơn. Thời gian Nguyễn Sinh Sắc nhậm chức Tri huyện Bình Khê cũng là lúc Nguyễn Quý Song - thầy giáo cũ của Nguyễn Tất Thành - bị cách chức Tri huyện Phù Cát (Bình Định) vì “không làm tròn phận sự”.    
Đáng chú ý nhất là sự kiện sau khi Nguyễn Sinh Sắc bị bãi chức (tháng giêng năm 1910) và bị triệu hồi về kinh, trong khi Nguyễn Tất Đạt theo cha thì Nguyễn Tất Thành xin ở lại, rồi sau đó tìm cách đi tiếp vào Nam.   
Bước ngoặt đầu năm 1910 ở Quy Nhơn chính là thời điểm đánh dấu sự trưởng thành trọn vẹn với những suy nghĩ và quyết định hết sức tự chủ của người thanh niên 20 tuổi Nguyễn Tất Thành trên hành trình thực hiện hoài bão cứu nước.      
Chặng đường tiếp theo của Nguyễn Tất Thành gắn với Phan Thiết - Bình Thuận, vùng đất cực Nam Trung Kỳ. Lý giải về việc Nguyễn Tất Thành dừng chân ở Bình Thuận, tác giả Hà Huy Giáp cho biết: “Bác Hồ có lần nói với tôi: Trên đường từ Huế vào Sài Gòn, hễ nơi nào có thể vừa kiếm sống vừa tìm được tàu ra nước ngoài thì Bác vào”.      
Tại Bình Thuận, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc và gặp gỡ nhiều chí sĩ yêu nước, cấp tiến như Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang, Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn Quý Anh… - những nhà sáng lập và điều hành Công ty Liên Thành.   
Nguyễn Tất Thành cũng rất quan tâm thu thập thông tin về việc đi ra nước ngoài, tìm hiểu mối liên hệ giao dịch của Liên Thành thương quán với các chuyến tàu biển…   
Từ Bình Thuận, Nguyễn Tất Thành đã nhận được “sự chuẩn bị của một đại gia đình bao nhiêu bậc đàn anh trong thế hệ nho sĩ lớp trước” để “đến thành phố Sài Gòn không bị đơn độc và mau chóng làm quen với thành phố Âu hóa này” - theo tác phẩm Vàng trong lửa của Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng.
Sài Gòn, nơi quyết định sự chọn lựa của Nguyễn Tất Thành
Bốn tháng ở Sài Gòn (từ tháng 2 đến đầu tháng 6-1911) là chặng thời gian ngắn ngủi, nhưng Sài Gòn lại chính là nơi đánh dấu sự chín muồi cả về nhận thức và hành động để Nguyễn Tất Thành quyết định dứt khoát sự lựa chọn của mình. Tại Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành có dịp gặp gỡ các nhà yêu nước gắn bó với Hội Liên Thành và đã từng tham gia các phong trào Đông Du, Duy Tân.
Cũng tại Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành đã chứng kiến cảnh tượng “ngay giữa chợ Bến Thành - mà người ta bảo là một thành phố Pháp, bọn gác chợ người Âu cũng không ngần ngại dùng roi gân bò, dùi cui đánh phụ nữ bản xứ để bắt họ tránh khỏi làm nghẽn lối” (Nguyễn Ái Quốc - Bản án chế độ thực dân Pháp. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.148).
100 năm sau nhìn lại, càng thấy rõ hơn vị thế của Sài Gòn - mảnh đất kết tụ hoài bão lớn của Nguyễn Tất Thành sau nhiều trải nghiệm trên những chặng hành trình bắt đầu từ năm 15 tuổi cho đến năm 21 tuổi.
Nỗi khổ nhục ấy của người dân  càng thôi thúc thêm ý chí đi ra nước ngoài của Nguyễn Tất Thành.Trong bài trả lời phỏng vấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với một nhà báo Pháp đăng trên báo Nhân Dân (số ra ngày 18-5-1965): “Nhân dân Việt Nam, trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau rằng ai là người sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người khác nghĩ là Anh, có người khác nữa nghĩ là Mỹ. Tôi thì thấy phải đi ra nước ngoài để xem cho rõ”.
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trong tác phẩm Thành phố Hồ Chí Minh 10 năm, NXB Sự thật, 1985 nêu giả thuyết mà cũng là đáp án: “Phải chăng thành phố ít nhiều mang tính chất công nghiệp đã góp phần vào sự lựa chọn quyết định của Bác?”
Qua các chặng hành trình Vinh - Huế - Bình Định - Bình Thuận - Sài Gòn, Sài Gòn đã trở thành nơi kết tụ hoài bão lớn của người thanh niên yêu nước trước ngày rời Tổ quốc.
Các học giả Trần Văn Giàu và Trần Bạch Đằng trong tác phẩm Vàng trong lửa - NXB Tổng hợp TPHCM, 2009 nhận định: “Sài Gòn, nơi tuy Bác dừng chân ngắn nhất, lại có vai trò quyết định đối với sự lựa chọn con đường cứu nước”, là “chốn giải tỏa cho Bác nhiều nghi vấn mà chỗ khác không đủ điều kiện giúp Bác giải tỏa”; từ đó đi đến kết luận: “Nếu Sài Gòn không phải là chỗ gợi ý thì cũng là nơi định đoạt dứt khoát thái độ của Bác”, để Nguyễn Tất Thành quyết định dứt khoát phải sang Pháp và các nước phương Tây, chứ không phải hướng về phương Đông như một số nhà yêu nước tiền bối.
TS Lê Hữu Phước (Phó Hiệu trưởng Trường Đại học KHXH&NV - ĐH Quốc gia TPHCM



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét