Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
của Đảng Cộng sản Việt Nam ,
ngày 20 tháng 12 năm 1976
Ngày 7/3/2011. Cập
nhật lúc 10h 44'
Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 14 đến ngày 20
tháng 12 năm 1976 nhất trí và hoàn toàn tán thành Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương do đồng chí Lê Duẩn trình bày.
Đại hội nhất trí nhận định rằng, trong
16 năm qua, Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị đã lãnh đạo toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta thực hiện thắng lợi cùng một lúc hai nhiệm vụ chiến lược
do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra là "tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước
nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước". Giương cao hai ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã kết hợp sức mạnh chiến đấu của
tiền tuyến lớn với tiềm lực của hậu phương lớn, đã động viên đến mức cao nhất
lực lượng của toàn dân vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đã phát huy đến
cao độ những truyền thống cách mạng của Đảng ta và nhân dân ta.
Thắng lợi của nhân
dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là một trong những trang chói
lọi nhất của lịch sử dân tộc và là một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn
và có tính chất thời đại sâu sắc.
I
1. Sau Chiến tranh
thế giới thứ hai, tình hình quốc tế biến đổi sâu sắc. Hệ thống thế giới của chủ
nghĩa xã hội ra đời; phong trào độc lập dân tộc và phong trào công nhân dâng
lên mạnh mẽ. Lực lượng của chủ nghĩa đế quốc suy yếu nghiêm trọng. Đế quốc Mỹ
trở thành tên sen đầm quốc tế, ra sức thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách
mạng.
Tiến hành chiến
tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ mưu toan áp đặt chủ nghĩa thực dân mới trên
đất nước ta, phá hoại sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta, đẩy
lùi chủ nghĩa xã hội và bao vây, uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam
châu á. Đế quốc Mỹ muốn chứng tỏ rằng lực lượng quân sự và kinh tế khổng lồ của
chúng có thể đè bẹp mọi phong trào giải phóng dân tộc và chặn đứng bước tiến của
chủ nghĩa xã hội ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Để thực hiện âm mưu ấy, Mỹ đã
huy động một lực lượng quân sự to lớn, thực hiện nhiều chiến lược, chiến thuật,
sử dụng nhiều vũ khí hiện đại đi đôi với những thủ đoạn ngoại giao xảo quyệt.
Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, vượt qua muôn vàn khó khăn, đồng bào và chiến sĩ cả nước ta đã đoàn kết
chiến đấu vô cùng anh dũng, trải qua phong trào "đồng khởi" cuối năm
1959 đầu năm 1960, đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân
đầu năm 1968, cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và cuộc chiến đấu đập tan trận
tập kích chiến lược bằng B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng, đã lần lượt làm thất bại
các chiến lược chiến tranh của Mỹ, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Với cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử,
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã toàn thắng.
Thắng lợi oanh liệt của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước mở ra một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Nó
kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ
quốc bắt đầu từ Cách mạng Tháng Tám, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị hơn một
thế kỷ của chủ nghĩa đế quốc trên đất nước ta, làm cho Tổ quốc ta vĩnh viễn độc
lập, thống nhất và đưa cả nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi ấy làm
thất bại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới quy mô lớn nhất và dài ngày
nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của
tên đế quốc đầu sỏ, đẩy Mỹ vào tình thế khó khăn chưa từng thấy, thu hẹp và làm
suy yếu hơn nữa hệ thống đế quốc chủ nghĩa, củng cố tiền đồn của chủ nghĩa xã
hội ở Đông Nam châu á, mở rộng và tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa, tăng
thêm sức mạnh và thế tiến công của các lực lượng cách mạng trên thế giới.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước là thắng lợi của sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, đội tiền phong dày
dạn của giai cấp công nhân Việt Nam, người đại biểu trung thành và đầy đủ những
lợi ích sống còn, những nguyện vọng sâu xa và chính đáng của nhân dân Việt Nam,
của cả dân tộc Việt Nam, người kết hợp nhuần nhuyễn và thành công khoa học cách
mạng của giai cấp công nhân là chủ nghĩa Mác - Lênin với nghị lực chiến đấu phi
thường và sức sáng tạo vô tận của nhân dân ta, với những tinh hoa trong truyền
thống bốn ngàn năm của dân tộc Việt Nam ta.
Đó là thắng lợi của cuộc chiến đấu đầy
gian khổ, hy sinh, ngoan cường và bền bỉ, anh dũng và thông minh của nhân dân
và quân đội cả nước, đặc biệt là của các đảng bộ miền Nam, các cán bộ, chiến sĩ
công tác và chiến đấu ở miền Nam, và hàng chục triệu đồng bào yêu nước trên
tuyến đầu Tổ quốc đã nêu cao tấm gương kiên cường, bất khuất hơn ba mươi năm
dưới ách quân xâm lược. Đó là thắng lợi của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
thắng lợi của đồng bào miền Bắc vừa xây dựng, vừa chiến đấu để bảo vệ căn cứ
địa chung của cả nước, đồng thời động viên ngày càng nhiều sức người, sức của
để đánh Mỹ, cứu nước ở miền Nam, một lòng một dạ vì miền Nam ruột thịt.
Đại hội nhiệt liệt biểu dương lòng yêu
nước nồng nàn và chủ nghĩa anh hùng cách mạng tuyệt vời của đồng bào, chiến sĩ,
cán bộ, đảng viên thuộc tất cả các dân tộc anh em từ Nam đến Bắc đã đoàn kết
chiến đấu không mệt mỏi vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc!
Đại hội nhiệt liệt biểu dương cán bộ,
chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng, suốt mấy chục năm ròng đã
chiến đấu cực kỳ anh dũng, lập được những chiến công oanh liệt từ trận Điện
Biên Phủ đến Chiến dịch Hồ Chí Minh, làm rạng rỡ truyền thống vẻ vang của quân
đội ta, cùng với toàn dân viết nên bản anh hùng ca kỳ diệu của chiến tranh cách
mạng Việt Nam.
Đại hội ghi nhớ công
ơn các liệt sĩ đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản, vì nghĩa vụ thiêng liêng đối với dân tộc và nghĩa
vụ quốc tế cao cả. Nhân dân ta tự hào về những người con trung hiếu mẫu mực đã
đem máu đào tô thắm lá cờ quang vinh của Tổ quốc.
Thắng lợi to lớn của
sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước cũng như những trang sử chói lọi của cách mạng
Việt Nam ngót nửa thế kỷ nay mãi mãi gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, người khai sinh nền Cộng hoà Dân chủ
Việt Nam, người vun trồng khối đại đoàn kết dân tộc và xây dựng lực lượng vũ
trang cách mạng, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân ta,
người anh hùng dân tộc vĩ đại, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế. Đại biểu tình cảm sâu sắc nhất của đồng bào và chiến sĩ
cả nước, Đại hội kính dâng lên Chủ tịch Hồ Chí Minh chiến công thắng Mỹ, bày tỏ
lòng biết ơn vô hạn đối với Bác, Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp
giải phóng nhân dân, thống nhất Tổ quốc, cho sự nghiệp của Đảng và của dân tộc,
làm rạng rỡ non sông đất nước ta, để lại cho chúng ta và các thế hệ mai sau
những di sản bất diệt!
Thắng lợi của chúng
ta là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu không gì lay chuyển nổi của nhân
dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Đại hội nhiệt liệt chào mừng thắng lợi
lịch sử vĩ đại của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia anh em, coi đó như thắng
lợi của chính mình, và xin gửi đến các bạn chiến đấu cùng chiến hào lòng biết
ơn vô hạn và tình đoàn kết trước sau như một của nhân dân Việt Nam ta.
Thắng lợi của chúng
ta là thắng lợi của các lực lượng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc, dân chủ và
hoà bình trên thế giới đã ủng hộ nhân dân ta đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm
lược. Đại hội bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đối với Liên Xô, Trung Quốc và
các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, đã vì tình nghĩa quốc tế vô sản, dành
cho nhân dân ta sự ủng hộ và giúp đỡ toàn diện, to lớn và quý báu, và hiện đang
tiếp tục giúp đỡ chúng ta hàn gắn các vết thương chiến tranh, xây dựng lại đất
nước. Đại hội nhiệt liệt cảm ơn các Đảng cộng sản và giai cấp công nhân các
nước trên thế giới, các phong trào giải phóng dân tộc, các nước dân tộc chủ
nghĩa, các nước yêu chuộng hoà bình, các tổ chức dân chủ quốc tế và cả loài
người tiến bộ, trong đó có nhân dân tiến bộ Mỹ, đã đồng tình, ủng hộ và cổ vũ
mạnh mẽ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, và đang dành cho
chúng ta sự ủng hộ và giúp đỡ nhiệt tình trong giai đoạn mới.
Nhân tố quyết định
thắng lợi quan trọng nhất là sự lãnh đạo của Đảng ta với đường lối chính trị,
đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo. Đó là đường lối giương
cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ cách mạng quan hệ chặt chẽ với nhau: cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhằm mục tiêu chung là
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, hoàn thành thống
nhất nước nhà, tạo điều kiện để đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Với
đường lối ấy, Đảng ta đã động viên được đến mức cao nhất lực lượng nhân dân
hùng hậu cả nước, kết hợp tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, kết hợp sức mạnh
nhân dân ta với sức mạnh ba dòng thác cách mạng của thời đại, tạo thành sức
mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Đó là thắng lợi của chiến lược tiến
công; luôn luôn giữ vững thế tiến công, đồng thời biết kéo địch xuống thang
từng bước, thắng địch từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Đó là thắng lợi của
phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách mạng tổng hợp bao gồm lực lượng
chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân; tiến hành khởi nghĩa từng
phần ở nông thôn và từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng; kết
hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; kết hợp
khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, tiến
công và nổi dậy; đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng
bằng và thành thị; đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh
vận; kết hợp ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du
kích; kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; kết hợp đánh lớn,
đánh vừa, đánh nhỏ; thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm
chủ; nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời biết tạo thời cơ
và nắm vững thời cơ mở những cuộc tiến công chiến lược làm thay đổi cục diện
chiến tranh, tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy đè bẹp quân địch
giành thắng lợi cuối cùng.
Đó là thắng lợi của
sự chỉ đạo chiến lược sắc bén của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của Bộ Chính
trị, là thắng lợi của nghệ thuật tổ chức chiến đấu của đảng bộ các cấp và các
cấp chỉ huy quân đội.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam chứng
minh rằng: trong thời đại ngày nay, khi các lực lượng cách mạng thế giới ở thế
tiến công, một dân tộc nước không rộng, người không đông, song đoàn kết chặt
chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một Đảng Mác - Lênin có đường
lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội
chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới, thì hoàn
toàn có thể đánh thắng mọi thế lực đế quốc xâm lược, dù đó là tên đế quốc đầu
sỏ.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là
một kho kinh nghiệm rất phong phú và quý báu. Cần tổ chức tốt việc tổng kết
kinh nghiệm chiến tranh để củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc chế độ xã hội
chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới.
2. Nhân dân cả nước ta rất tự hào về
những thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc hơn hai mươi năm qua.
Thắng lợi có ý nghĩa
lịch sử là đã xoá bỏ các giai cấp bóc lột và chế độ người bóc lột người, đã xây
dựng chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể. Giai cấp công nhân lớn lên cả về số lượng và chất lượng. Nông dân
đã trở thành giai cấp nông dân tập thể. Đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa hình
thành và ngày càng phát triển. Quyền nam nữ bình đẳng và quyền dân tộc bình
đẳng được thực hiện. Miền Bắc trở thành xã hội của những người lao động làm chủ
tập thể, ngày càng đoàn kết và nhất trí về chính trị và tinh thần.
Cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội được xây dựng một bước. Đã có những cơ sở đầu tiên
của công nghiệp nặng. Năng lực các ngành công nghiệp, giao thông, xây dựng đều
tăng so với trước chiến tranh. Trong nông nghiệp, có cố gắng lớn về phát triển
thuỷ lợi, về tăng vụ, tăng năng suất trồng trọt và chăn nuôi, về áp dụng những
thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến. Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá, nghệ
thuật, thể dục thể thao đều phát triển nhanh. An ninh chính trị và trật tự xã
hội được giữ vững. Đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ổn định và có
nhiều mặt được cải thiện.
Những thành tựu to lớn ấy đã đạt được
trong hoàn cảnh miền Bắc phải đánh trả hai lần chiến tranh phá hoại ác liệt,
phải tập trung sức người, sức của cho sự nghiệp giải phóng miền Nam và gánh vác
nghĩa vụ quốc tế. Điều đó chứng tỏ tính ưu việt và sức mạnh vô địch của chủ
nghĩa xã hội, khẳng định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đại hội toàn
quốc lần thứ III đề ra và được các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương cụ thể hoá
và phát triển là hoàn toàn đúng đắn.
Tuy nhiên, miền Bắc
còn nhiều nhược điểm và khó khăn, nhất là về mặt kinh tế. Cơ sở vật chất - kỹ
thuật còn yếu kém; cơ cấu kinh tế còn nhiều mặt chưa cân đối; quan hệ sản xuất
mới chưa hoàn thiện và có nơi chưa được củng cố thật vững chắc; cấp huyện chậm
được tăng cường; năng suất lao động thấp, sản xuất chưa bảo đảm nhu cầu đời
sống và tích luỹ; công nghiệp nặng còn nhỏ bé, chưa đồng bộ, chưa đủ sức làm
nền tảng vững mạnh cho nền kinh tế quốc dân; sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp
đủ lương thực, thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp, hàng hoá
cho xuất khẩu; lực lượng lao động xã hội chưa được phân bố và sử dụng hợp lý;
tài nguyên phong phú của đất nước chưa được khai thác đúng mức. Nguyên nhân sâu
xa của tình trạng trên đây là nền kinh tế nước ta còn là sản xuất nhỏ, lại bị
chiến tranh tàn phá nặng nề. Song, công tác chỉ đạo thực hiện và quản lý kinh
tế của Đảng và Nhà nước có thiếu sót. Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa chưa
được kịp thời cụ thể hoá và vận dụng thật tốt vào các kế hoạch phát triển kinh tế,
văn hoá, vào phương hướng, nhiệm vụ và công tác cụ thể của từng ngành, từng địa
phương và cơ sở; quản lý kinh tế còn mang nặng tính chất quan liêu, hành chính;
năng suất, chất lượng, hiệu quả chưa được coi trọng đầy đủ; bộ máy quản lý cồng
kềnh, tổ chức thủ công, phân tán, tổ chức thực hiện kém hiệu lực, kỷ luật không
nghiêm, cách làm việc chưa sát thực tế, sát quần chúng, thiếu tính chiến đấu
cách mạng. Công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ, công tác tư tưởng chưa đáp
ứng kịp yêu cầu ngày càng cao của cách mạng. Hoạt động của các đoàn thể quần
chúng chưa bám thật sát nhiệm vụ chính trị, chưa phục vụ thật đắc lực sản xuất
và đời sống.
3. Với thắng lợi
hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng Việt Nam chuyển
sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất và làm nhiệm vụ chiến
lược duy nhất là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay, nước nhà
đã hoàn toàn độc lập thì Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội là một. Chỉ có chủ nghĩa
xã hội mới làm cho nhân dân ta vĩnh viễn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, có cuộc
sống văn minh, hạnh phúc. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại cho nhân dân ta
quyền làm chủ đầy đủ, mới làm cho Tổ quốc ta độc lập, tự do vững chắc và ngày
càng giàu mạnh.
Nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, thành quả vĩ đại của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của
nhân dân ta, có lịch sử hết sức vẻ vang, có tiềm lực dồi dào, có tiền đồ xán
lạn, là một tiền đồn bất khả xâm phạm của hệ thống xã hội chủ nghĩa, là nhân tố
quan trọng của hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội ở Đông Nam
châu á và trên thế giới.
II
1. Bước sang giai
đoạn mới, cách mạng nước ta phát triển với những đặc điểm lớn như sau:
Một là, nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh
tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Hai là, Tổ quốc ta đã hoà bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến
lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi rất lớn, song cũng còn nhiều khó khăn
do hậu quả của chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra.
Ba là, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn
cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh "ai thắng ai" giữa thế
lực cách mạng và thế lực phản cách mạng trên thế giới còn gay go, quyết liệt.
2. Để đưa cách mạng
xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng, điều kiện quyết định trước tiên là phải
thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không
ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta là một quá trình biến đổi cách mạng toàn diện, liên tục, sâu
sắc và triệt để. Đó là quá trình kết hợp cải tạo với xây dựng, mà xây dựng là
chủ yếu. Đó là quá trình xoá bỏ cái lạc hậu, phát huy cái tiến bộ, cải tạo cái
cũ, xây dựng cái mới. Phải xây dựng cả lực lượng sản xuất mới lẫn quan hệ sản
xuất mới; xây dựng cả cơ sở kinh tế mới lẫn kiến trúc thượng tầng mới; xây dựng
cả đời sống vật chất mới lẫn đời sống tinh thần và văn hoá mới. Đó là quá trình
đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp và lâu dài giữa giai cấp công nhân và giai
cấp tư sản, giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa. Đó
là quá trình nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động, đẩy mạnh ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản
xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật và cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó
cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt. Đó là quá trình hình thành từng
bước chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa, nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa. Ba cuộc cách mạng nói
trên phải được tiến hành đồng thời, gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động
sâu sắc lẫn nhau. Chế độ làm chủ tập thể, nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa,
nền văn hoá mới và con người mới, toàn bộ chủ nghĩa xã hội cũng như từng bộ
phận của chủ nghĩa xã hội chỉ có thể ra đời bằng kết quả tổng hợp của toàn bộ
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Nắm vững chuyên
chính vô sản là nắm vững đường lối của Đảng, tăng
cường sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực hiện và phát huy quyền làm chủ
tập thể của nhân dân lao động, xây dựng Nhà nước vững mạnh, tập hợp các tầng
lớp nhân dân đông đảo chung quanh giai cấp công nhân, để tiến hành ba cuộc cách
mạng, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội; củng cố và tăng cường lực lượng quốc phòng, giữ
vững an ninh chính trị và trật tự xã hội, đập tan mọi sự phản kháng và mọi hành
động xâm lược của kẻ thù; củng cố và phát triển quan hệ hợp tác tương trợ với
các nước xã hội chủ nghĩa anh em; cùng nhân dân thế giới tích cực đấu tranh vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng chế độ làm
chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là xây dựng một xã
hội trong đó người làm chủ là nhân dân lao động có tổ chức, mà nòng cốt là liên
minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Nội dung làm chủ tập
thể xã hội chủ nghĩa bao gồm nhiều mặt: làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội; làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân, làm chủ trong
phạm vi cả nước, trong mỗi địa phương, mỗi cơ sở. Quyền làm chủ tập thể bao gồm
quyền tự do chân chính của cá nhân.
Xây dựng chế độ làm
chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là một quá trình phát triển không ngừng từ thấp
đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Chế độ làm chủ tập
thể xã hội chủ nghĩa thể hiện một cách tập trung ở sự làm chủ tập thể của nhân
dân lao động (mà nòng cốt là liên minh công nông), chủ yếu bằng Nhà nước xã hội
chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Vì vậy, việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể đòi hỏi,
trước hết phải xây dựng một hệ thống các quan hệ đúng đắn giữa Đảng, Nhà nước
và nhân dân. Phải ra sức xây dựng một Nhà nước kiểu mới, Nhà nước thật sự của
dân, do dân, vì dân, thông qua đó Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với
xã hội. Nhà nước ấy phải đủ tư cách và năng lực để tổ chức và quản lý mọi mặt
hoạt động của đời sống xã hội. Phải ra sức xây dựng Đảng thật vững mạnh, đủ
năng lực lãnh đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo
Nhà nước, nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước.
Phải thông qua hoạt
động của Nhà nước và của các đoàn thể quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng mà
phát huy vai trò chủ động và óc sáng tạo của nhân dân, dấy lên những phong trào
thi đua lao động, sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, khiến mọi hoạt
động của quần chúng đều trở thành hoạt động có tổ chức trên quy mô lớn, phù hợp
với quy luật khách quan, kết hợp chặt chẽ tính cách mạng với tính khoa học, tạo
nên sức mạnh tổng hợp to lớn, xoá bỏ cái cũ, sáng tạo cái mới.
Sau khi lật đổ ách
thống trị của bọn áp bức, bóc lột, xây dựng chế độ làm chủ tập thể về chính
trị là thiết lập quyền lực của nhân dân lao động lấy liên minh công nông
làm nòng cốt và do giai cấp công nhân lãnh đạo, là xây dựng các mối quan hệ
đúng đắn giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân để bảo đảm cho nhân dân lao động thật
sự làm chủ xã hội, hiểu rõ và biết sử dụng quyền lực chính trị của mình.
Làm chủ tập thể về
chính trị đòi hỏi phải bảo vệ vững chắc chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa đi đôi với xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải luôn luôn đề
cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại và xâm lược
của bất cứ kẻ thù nào.
Làm chủ tập thể về
chính trị bao gồm cả nghĩa vụ và quyền lợi; nghĩa vụ đi đôi với quyền lợi. Mỗi
công dân có nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, nghĩa vụ bảo vệ an ninh
chính trị và trật tự xã hội, nghĩa vụ bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, nghĩa vụ
tôn trọng và thi hành pháp luật của Nhà nước, các quy tắc của đời sống tập thể,
v.v.. Phải bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ, quyền bình đẳng giữa các dân
tộc. Mọi công dân đều được hưởng đầy đủ các quyền tự do dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
Làm chủ tập thể về
kinh tế bao gồm làm chủ tập thể những tư liệu
sản xuất chủ yếu, làm chủ tập thể lực lượng lao động, làm chủ tập thể trong
việc tổ chức và quản lý sản xuất và trong lĩnh vực phân phối.
Để xây dựng quyền
làm chủ tập thể về kinh tế, phải xoá bỏ chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và cải
tạo chế độ sở hữu cá thể, xác lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới hai hình
thức: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, bằng những phương pháp và bước đi
thích hợp.
Mọi tư liệu sản xuất
chủ yếu trong xã hội phải được sử dụng theo phương hướng và nhiệm vụ của kế
hoạch nhà nước, nhằm phục vụ lợi ích của toàn xã hội.
Đối với các nguồn
lao động xã hội, phải có kế hoạch và biện pháp tổ chức, phân công và bố trí hợp
lý, để sử dụng với hiệu quả cao nhất trên quy mô cả nước, cũng như trong từng
địa phương, từng cơ sở.
Cần tổ chức lại nền sản xuất xã hội,
xây dựng một hệ thống quản lý và kế hoạch hoá có hiệu lực nhằm sử dụng hợp lý
và phát huy tốt mọi năng lực sản xuất, làm cho sản xuất và tái sản xuất được
thực hiện một cách có kế hoạch, với năng suất ngày càng cao, chất lượng ngày
càng tốt, hiệu quả ngày càng lớn.
Phải xây dựng một chế độ phân phối
công bằng, hợp lý, có tổ chức, có kế hoạch và ngày càng đầy đủ, phù hợp với
trình độ phát triển sản xuất, nhằm thoả mãn các nhu cầu vật chất và văn hoá của
toàn xã hội. Chế độ phân phối phải thực hiện đúng nguyên tắc: "Làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có sức lao động mà không làm thì không
hưởng". Đồng thời, tuỳ theo trình độ phát triển sản xuất mà tăng phúc lợi
xã hội. Đặc biệt chú ý mở rộng dần việc xã hội đảm nhiệm chăm sóc, nuôi dạy trẻ
em.
Xây dựng chế độ làm chủ tập thể về
văn hoá là tạo cho mọi người một cuộc sống tinh thần phong phú; là biến mọi
giá trị văn hoá thành tài sản của nhân dân và tạo điều kiện để nhân dân trực
tiếp sáng tạo ra các giá trị văn hoá; là làm cho các quan hệ đối xử giữa người
và người thể hiện lẽ sống tốt đẹp: "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì
mỗi người". Nhằm mục đích ấy, cần ra sức xây dựng nền văn hoá mới, từng
bước xây dựng nước ta thành một xã hội văn hoá cao.
Xây dựng mối quan hệ đúng đắn giữa tập
thể và cá nhân là một nội dung rất quan trọng
của việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm sự nhất trí
giữa tập thể và cá nhân. Trên cơ sở những đòi hỏi tất yếu của cuộc sống cộng
đồng, của quyền làm chủ tập thể, phải tôn trọng và bảo đảm các quyền của công
dân, bảo đảm sự phát triển phong phú của nhân cách, bồi dưỡng và phát huy sở
trường và năng khiếu cá nhân.
Chế độ làm chủ tập
thể xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế của nó là nền sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa. Việc xây dựng và phát triển nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa phải
nhằm mục đích thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hóa ngày
càng tăng của toàn xã hội, bằng cách không ngừng phát triển và hoàn thiện sản
xuất, trên cơ sở chế độ làm chủ tập thể và một nền khoa học kỹ thuật hiện đại.
Muốn thế, điều có ý
nghĩa quyết định là phải thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, tạo
ra một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp hiện đại. Con đường cơ bản để
tạo ra cơ cấu ấy là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên
cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, làm cho công nghiệp và
nông nghiệp kết hợp chặt chẽ thành một thể thống nhất, cùng phát triển nhịp
nhàng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và luôn luôn gắn bó với nhau, thúc đẩy
lẫn nhau, phục vụ cho nhau; công nghiệp là nền tảng chủ yếu của nền kinh tế
quốc dân, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, và nông nghiệp là cơ
sở để phát triển công nghiệp.
Cơ cấu kinh tế ấy là
cơ cấu thống nhất cả nước bao gồm kinh tế trung ương và kinh tế địa phương. Phải
tập trung cao độ năng lực của cả nước để xây dựng kinh tế trung ương bao gồm
những ngành và những cơ sở kinh tế then chốt có tác dụng quyết định nhất đối
với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân; đồng thời, phát triển mạnh
kinh tế địa phương; làm cho mỗi tỉnh, thành phố có một cơ cấu kinh tế hợp lý,
một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân, từng bước xây dựng huyện thành
đơn vị kinh tế nông - công nghiệp (ở miền núi và miền biển thì huyện có cơ cấu
kinh tế phù hợp với điều kiện của địa phương) theo quy hoạch của cả nước và của
tỉnh.
Phải kết hợp đúng
đắn kinh tế với quốc phòng. Xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ đất
nước. Đi đôi với việc xây dựng đất nước về mọi mặt, phải ra sức xây dựng nền
quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng
công nghiệp quốc phòng, bảo đảm cho đất nước sẵn sàng đánh bại mọi cuộc tiến
công của bọn xâm lược. Phải kết hợp chặt chẽ nghĩa vụ lao động với nghĩa vụ
quân sự để vừa đẩy mạnh xây dựng kinh tế, vừa bảo đảm củng cố quốc phòng một
cách vững chắc.
Dựa vào sức mình là
chính, thực hiện phân công lao động hợp lý, nâng cao hiệu quả lao động và phát
huy năng lực sản xuất trong nước; đồng thời tăng cường quan hệ kinh tế với
các nước xã hội chủ nghĩa anh em, thực hiện sự phân công, hợp tác, tương
trợ trên tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa. Phát triển quan hệ kinh tế với
các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có
lợi. Thông qua các quan hệ quốc tế mà tranh thủ kỹ thuật tiên tiến.
Quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất luôn luôn gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Trong cách mạng về quan hệ sản xuất, phải gắn liền sự biến
đổi của chế độ sở hữu với sự biến đổi của chế độ phân phối, của tổ chức sản
xuất và kinh doanh, của hệ thống quản lý. Kết hợp chặt chẽ thành phần quốc
doanh với thành phần tập thể, lấy thành phần quốc doanh làm lực lượng nòng cốt
và lãnh đạo, tăng cường thành phần tập thể, hướng dẫn tốt thành phần cá thể.
Trong cách mạng khoa học - kỹ thuật, cần nắm vững khâu trung tâm là cơ khí hoá;
kết hợp tốt cơ khí, nửa cơ khí với thủ công; kết hợp quy mô lớn với quy mô vừa
và quy mô nhỏ, tích cực xây dựng quy mô lớn và lấy quy mô lớn làm nòng cốt. Ra
sức xây dựng đội ngũ công nhân kỹ thuật, tích cực đào tạo và bồi dưỡng cán bộ
quản lý kinh tế và cán bộ khoa học, kỹ thuật.
Xây dựng mối quan hệ
đúng đắn giữa tích luỹ và tiêu dùng, để vừa bảo đảm xây dựng nhanh chóng
cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, vừa cải thiện từng bước đời
sống của nhân dân. Tiết kiệm phải trở thành một chính sách lớn của Đảng
và Nhà nước, thành hành động cách mạng của đông đảo quần chúng. Tiết kiệm trong
sản xuất và trong tiêu dùng, thi hành chính sách tiêu dùng hợp lý, nêu cao tinh
thần cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nâng cao không ngừng
năng suất lao động xã hội, chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất
và kinh doanh. Có kế hoạch và biện pháp thích hợp để phát động phong trào thi
đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Coi trọng công
tác tổ chức và quản lý lao động, nhất là khi phần lớn lao động còn là thủ công.
Nền văn hoá mới là
nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Đó là nền
văn hoá có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc. Nền văn hoá ấy được xây dựng
trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa,
vừa kết tinh truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa hấp thụ có chọn lọc những
thành quả của văn minh loài người. Nền văn hoá ấy là sự kết hợp hài hoà những
tinh hoa và phong cách riêng của các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc
Việt Nam. Xây dựng nền văn hoá mới là quá trình bồi đắp tư tưởng của giai
cấp công nhân, những tình cảm lành mạnh, những phong tục, tập quán tốt đẹp của
dân tộc, đồng thời đấu tranh quét sạch ảnh hưởng của văn hoá thực dân,
phong kiến, tư sản và những nhân tố lạc hậu trong xã hội.
Chế độ làm chủ tập
thể xã hội chủ nghĩa đòi hỏi có những con người mới phù hợp với nó. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa". Hoàn cảnh nước ta đòi hỏi và cho phép
xây dựng sớm, xây dựng từng bước con người mới, không phải chờ đến sau khi đã
có sự phát triển cao của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Con người mới xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có những đặc trưng nổi bật là: làm chủ tập thể, lao động,
yêu nước xã hội chủ nghĩa và có tinh thần quốc tế vô sản.
Con người mới là con
người có tư tưởng đúng và tình cảm đẹp, có tri thức, có thể lực để làm chủ xã
hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân.
Con người mới là con
người lao động với tinh thần tự giác cao, với đầy đủ nhiệt tình cách mạng,
trung thực, thật thà, quý trọng và bảo vệ của công, lao động có kỷ luật, có kỹ
thuật, có sáng tạo và đạt năng suất cao.
Con người mới là con
người có lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa nồng nàn kết hợp nhuần nhuyễn với tinh
thần quốc tế vô sản trong sáng.
Con người mới là con
người có tình thương yêu sâu sắc đối với nhân dân lao động, biết đoàn kết, hợp
tác, giúp đỡ nhau trong lao động, chiến đấu và xây dựng cuộc sống mới.
Con người mới Việt
Nam là con người phát triển toàn diện, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá
nhân hài hoà, phong phú.
Phải xây dựng con
người mới từ lúc mới lọt lòng và ở mọi lứa tuổi, trong tất cả các tổ chức quần
chúng, các cơ sở kinh tế, văn hóa, các hoạt động xã hội, ở mọi ngành, mọi cấp,
trong từng khu phố, thôn xóm và gia đình. Phải xây dựng con người mới từ những
con người ra đời trong chế độ mới và những con người do chế độ cũ để lại.
3. Đường lối chung
của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta là:
Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách
mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng
tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy
mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn
và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ
gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam
hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội.
Đường lối xây dựng
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta là:
Đẩy mạnh công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông
nghiệp cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung
ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế
địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực
lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế
với quốc phòng; tăng cường quan hệ hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ
nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát
triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền
và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ
nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học, kỹ thuật
tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh và hạnh phúc.
Phấn đấu hoàn thành
về cơ bản quá trình đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa trong khoảng 20 năm.
Đó là nội dung cơ
bản của cuộc đấu tranh giai cấp gay go và phức tạp nhằm giải quyết vấn đề
"ai thắng ai" giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, giữa con
đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa ở nước ta, để giành thắng
lợi hoàn toàn cho chủ nghĩa xã hội.
4. Căn cứ vào đường
lối chung và đường lối phát triển kinh tế trên đây, từ nay đến năm 1980, phải
ra sức phấn đấu tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng, kiện
toàn Nhà nước chuyên chính vô sản, phát động phong trào cách mạng của quần
chúng, chủ yếu là phong trào thi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ
nghĩa xã hội; cơ bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam,
hoàn chỉnh việc thống nhất nước nhà về mọi mặt, tạo ra một chuyển biến mới
trong việc tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng; xây dựng một bước chế độ mới,
nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người mới; đẩy mạnh khôi phục, phát
triển và cải tạo kinh tế, văn hoá, đưa việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội tiến lên một bước mới; cố gắng cải thiện một bước đời sống
của nhân dân; ra sức bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ.
III
Kế hoạch 5 năm 1976
- 1980 phát triển và cải tạo kinh tế, văn hoá, phát triển khoa học, kỹ thuật
nhằm cùng một lúc hai mục tiêu vừa cơ bản, vừa cấp bách: xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, cải thiện một bước đời sống vật chất và
văn hoá của nhân dân.
Chúng ta có nhiều
thuận lợi rất cơ bản: lực lượng lao động dồi dào, trong đó có lực lượng đáng kể
của quân đội nhân dân làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế, đội ngũ công nhân và cán
bộ khoa học - kỹ thuật khá đông đảo; tiềm lực to lớn của nền nông nghiệp và lâm
nghiệp nhiệt đới, của ngư nghiệp và tài nguyên thiên nhiên phong phú, những cơ
sở hiện có về công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm; sự
giúp đỡ quý báu và hợp tác to lớn về kinh tế và kỹ thuật của các nước xã hội
chủ nghĩa anh em và các nước khác. Với những thuận lợi ấy, chúng ta phải động
viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, ý chí tự
lực tự cường, hăng hái vươn lên, khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ trước
mắt.
Nhiệm vụ cơ bản của
kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 là:
- Tập trung cao độ
lực lượng của cả nước, của các ngành, các cấp, tạo ra một bước phát triển vượt
bậc về nông nghiệp; ra sức đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp; phát
triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm (bao gồm cả thủ công
nghiệp và tiểu công nghiệp), nhằm giải quyết vững chắc nhu cầu của cả nước về
lương thực, thực phẩm và một phần quan trọng hàng tiêu dùng thông thường; cải
thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, tạo tích
luỹ cho công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
- Phát huy năng lực
sẵn có và xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là
cơ khí, nhằm phục vụ trước hết cho nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp
và công nghiệp nhẹ, chuẩn bị cho bước trang bị kỹ thuật trong thời kỳ tiếp theo;
tích cực mở mang giao thông vận tải; tăng nhanh năng lực xây dựng cơ
bản; đẩy mạnh công tác khoa học - kỹ thuật. Chuẩn bị về mọi mặt để
triển khai xây dựng lớn trong những kế hoạch dài hạn sau này.
- Sử dụng hết lực
lượng lao động xã hội; tổ chức và quản lý tốt lao động; phân bố lại lao
động giữa các vùng và các ngành trong cả nước nhằm tăng rõ rệt năng suất lao
động xã hội. Hình thành bước đầu cơ cấu kinh tế mới công - nông nghiệp, kết hợp
kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, từng bước xây dựng huyện
thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp (đối với miền núi là đơn vị lâm - nông
- công nghiệp); kết hợp kinh tế với quốc phòng, tăng cường nền quốc phòng
toàn dân.
- Hoàn thành về cơ
bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố và hoàn thiện quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; cải tiến mạnh mẽ công tác thương
nghiệp, giá cả, tài chính, ngân hàng.
- Tăng nhanh nguồn
hàng xuất khẩu, trước hết là sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; mở
rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
- Ra sức phát triển
sự nghiệp giáo dục, văn hoá, xã hội, tiến hành cải cách giáo dục, đẩy
mạnh đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật, thanh toán hậu quả của chiến tranh
và ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân mới.
- Thực hiện một sự
chuyển biến sâu sắc trong tổ chức và quản lý kinh tế, xây dựng hệ thống
mới về quản lý kinh tế trong cả nước.
Sự bố trí chiến lược
trên đây trong kế hoạch 5 năm này là hết sức cần thiết và thuận lợi; nó đáp ứng
những yêu cầu rất cấp bách, đồng thời nó phát huy những thế mạnh nhất của ta là
nguồn lao động dồi dào, đất đai và tài nguyên thiên nhiên phong phú. Sự bố trí
chiến lược đó đòi hỏi tổ chức lại nền sản xuất, phân bố lại lực lượng lao
động trên phạm vi cả nước.
Phấn đấu đến năm
1980 đạt mấy chỉ tiêu lớn sau đây: 21 triệu
tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 1 triệu hécta khai hoang, 1 triệu 200 ngàn
hécta rừng mới trồng, 16 triệu 500 ngàn con lợn, sản lượng cơ khí tăng 2 lần
rưỡi so với năm 1975, 10 triệu tấn than sạch, 5 tỷ kilôoát/giờ điện, 2 triệu
tấn xi măng, 1 triệu 300 ngàn tấn phân hoá học, 250 - 300 ngàn tấn thép, 3
triệu 500 ngàn mét khối gỗ, 450 triệu mét vải, 130 ngàn tấn giấy, 14 triệu mét
vuông nhà ở (không kể phần nhân dân tự làm).
A- Phương hướng phát
triển của các ngành kinh tế quốc dân
1. Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp
Phát triển toàn diện
cả trồng trọt và chăn nuôi, đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp theo hướng
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nhằm sớm bảo đảm đủ lương thực, thực phẩm cho
toàn xã hội và có lương thực dự trữ; cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp, tăng
nhanh nguồn hàng xuất khẩu. Tiến hành phân vùng, quy hoạch sản xuất để phát
triển tất cả các vùng: đồng bằng, trung du, miền núi và miền biển, sớm hình
thành những khu vực lớn sản xuất tập trung và chuyên môn hoá. Coi trọng cả ba
mặt: thâm canh, tăng vụ và mở rộng diện tích. Tập trung đầu tư lớn và phát động
phong trào quần chúng để đẩy mạnh thuỷ lợi; đẩy mạnh việc sản xuất các loại
phân bón ruộng và chú trọng cải tạo đất; xây dựng hệ thống giống quốc gia cung
ứng các loại giống mới có năng suất cao; mở rộng địa bàn cơ khí hoá.
Về lương thực,
đẩy mạnh thâm canh đi đôi với mở rộng diện tích trồng lúa bằng tăng vụ và khai
hoang, xây dựng những vùng lúa trọng điểm lớn; phát triển mạnh màu (ngô, khoai,
sắn, khoai tây, cao lương), hình thành những vùng màu tập trung thâm canh, sản
xuất đi đôi với chế biến. Phát triển cây thực phẩm, sản xuất tập trung
thành những vùng chuyên môn hoá, những vành đai quanh thành phố, khu công
nghiệp, đồng thời phát triển rộng trong các gia đình. Xây dựng những vùng cây
công nghiệp tập trung, đặc biệt là ở trung du và miền núi. Phát triển trên
quy mô lớn các loại cây có sợi (bông, đay, gai, dâu tằm), các loại cây có dầu
(lạc, đậu tương, dừa, sở...), mía, các cây cao su, chè, thuốc lá, cà phê, dứa,
chuối, v.v. các loại cây làm thuốc.
Chăn nuôi phải nhanh chóng trở thành ngành sản xuất chính, cân đối
với trồng trọt. Đẩy mạnh chăn nuôi lợn, trâu bò, gia cầm, chú ý đúng mức chăn
nuôi ngựa, dê, thỏ, ong. Giải quyết chu đáo và theo quy mô lớn cả ba vấn đề:
giống, thức ăn và thú y. Kết hợp chăn nuôi quốc doanh với chăn nuôi tập thể và
chăn nuôi gia đình.
Phát triển mạnh công nghiệp chế biến
lương thực, thực phẩm ở khắp các địa phương, gắn chặt với sản xuất nông nghiệp.
Phát triển lâm
nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa. Coi trọng tất cả các khâu: trồng rừng, tu bổ, bảo vệ rừng và khai thác
rừng. Phủ kín các đồi trọc và đồi cát ven biển trong khoảng vài ba kế hoạch 5
năm; xây dựng những khu rừng trồng tập trung cho nhu cầu công nghiệp và rừng
cây đặc sản theo hướng chuyên môn hoá và thâm canh. Phát động liên tục phong
trào "trồng cây, gây rừng và bảo vệ rừng". Làm tốt cuộc vận động định
canh, định cư, giải quyết đúng đắn vấn đề lương thực cho đồng bào miền núi,
chấm dứt nạn đốt, phá rừng; hết sức bảo vệ rừng đầu nguồn. Mở mang lâm nghiệp
quốc doanh, đồng thời giao rừng cho hợp tác xã quản lý, kinh doanh theo quy
hoạch, kế hoạch và chính sách của Nhà nước. Đẩy mạnh việc khai thác, chế biến
gỗ và các lâm sản khác.
Khôi phục và phát
triển ngư nghiệp; đẩy mạnh đánh bắt, nuôi thuỷ sản ở các vùng nước mặn,
nước lợ và nước ngọt. Tăng nhanh lực lượng đánh cá biển và chế biến hải sản của
trung ương và của địa phương; tổ chức lại các lực lượng đánh cá, xây dựng ngành
hải sản nước ta thành một ngành công nghiệp quan trọng; sử dụng hết các mặt
nước hồ ao, sông ngòi, đầm lạch. Xây dựng công nghiệp bảo quản và chế biến thuỷ
sản; tiến hành điều tra và nghiên cứu khoa học để nắm chắc các nguồn thuỷ sản.
Phát triển nghề muối và thực hiện từng bước cơ khí hoá việc làm muối.
2. Công nghiệp nhẹ, thủ công
nghiệp và tiểu công nghiệp
Tận dụng mọi năng
lực sản xuất, mọi hình thức tổ chức để sản xuất ngày càng nhiều hàng tiêu dùng,
sớm chấm dứt tình trạng thiếu hàng tiêu dùng thông thường. Tập trung sức phát
triển những ngành thuộc nhu cầu thiết yếu của đời sống vật chất và văn hoá của
nhân dân; coi trọng việc làm thêm nhiều mặt hàng bảo hộ lao động. Phải chủ động
giải quyết vấn đề nguyên liệu, thiết bị và kỹ thuật; nâng cao chất lượng sản
phẩm, mỹ thuật công nghiệp và hạ giá thành sản phẩm. Trang bị hiện đại cho
những cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, bảo đảm làm ra sản phẩm đạt trình độ quốc
tế. Nhanh chóng nắm chắc và sử dụng tốt lực lượng công nghiệp nhẹ trong cả nước
của quốc doanh trung ương và địa phương, của hợp tác xã và nghề phụ gia đình;
mở rộng năng lực sản xuất của những cơ sở cũ, xây dựng thêm một số cơ sở mới
cần thiết. Thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp có vị trí quan trọng lâu dài
trong nền kinh tế quốc dân, cần được đặc biệt chú ý phục hồi và phát triển
mạnh, nhất là những nghề thủ công cổ truyền và mỹ nghệ ở các địa phương.
3. Công nghiệp nặng
Trong kế hoạch 5 năm
1976-1980, công nghiệp nặng phải phát huy vai trò chủ yếu trong việc phục vụ và
thúc đẩy nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng.
Ngành cơ khí
phải được nhanh chóng xây dựng lớn mạnh. Hoàn thành sớm việc quy hoạch xây dựng
và sản xuất cơ khí trong cả nước; đẩy mạnh chuyên môn hoá và hiệp tác hoá sản
xuất giữa cơ khí của các ngành và các địa phương. Sắp xếp, cải tạo và mở rộng
những xí nghiệp hiện có; tập trung sức xây dựng một số xí nghiệp mới quan
trọng. Cung ứng đủ công cụ thường và công cụ cải tiến với chất lượng tốt; bảo
đảm phần lớn nhu cầu sửa chữa máy móc, thiết bị và nhu cầu phụ tùng của các
ngành kinh tế; sản xuất nhiều máy công cụ, động cơ, máy kéo, bơm, máy móc nông
nghiệp; lắp ráp xe vận tải, đóng tàu vận tải biển, tàu đánh cá, tàu hút bùn,
tuốcbin thuỷ điện cỡ nhỏ; sản xuất hàng loạt thiết bị toàn bộ cỡ vừa và nhỏ cho
các nhà máy gạch, ngói, xi măng, đường, chè, xay xát gạo...; cung ứng một phần
thiết bị lạnh, thiết bị mỏ, thiết bị điện, máy móc xây dựng. Bắt đầu xây dựng
công nghiệp điện tử.
Về năng lượng,
kết hợp thuỷ điện với nhiệt điện; xây dựng lưới điện cân đối với nguồn điện; mở
rộng một số nhà máy điện cũ và xây dựng một số nhà máy mới; xây dựng nhiều trạm
thuỷ điện nhỏ ở trung du và miền núi. Triệt để phát huy các mỏ than cũ, xây
dựng nhanh nhiều mỏ mới. Bảo đảm các khâu vận chuyển, sàng rửa, bến cảng cân
đối với nhịp độ khai thác. Phát triển công nghiệp chế biến than. Đẩy mạnh tìm
kiếm, thăm dò để sớm khai thác dầu mỏ và khí thiên nhiên, chuẩn bị xây dựng cơ
sở lọc dầu và hoá dầu; xúc tiến nghiên cứu để khai thác và sử dụng các dạng
năng lượng khác.
Phát triển luyện
kim từng bước, cân đối với sản xuất cơ khí và quy mô xây dựng cơ bản. Hoàn
thành xây dựng và mở rộng các cơ sở luyện thép hiện có; xây dựng nhiều lò thép
điện trong các nhà máy cơ khí; chuẩn bị khởi công xây dựng cơ sở luyện thép cỡ
lớn. Mở rộng sản xuất cờrômít, thiếc; chuẩn bị xây dựng các cơ sở luyện chì,
kẽm, v.v. tìm kiếm những nguồn quặng mới.
Đẩy mạnh công nghiệp
hoá chất phát triển toàn diện, bao gồm hoá chất vô cơ và hữu cơ. Phát
triển phân bón hoá học và các hoá chất khác để phục vụ nông nghiệp; sớm khởi
công xây dựng cơ sở sợi nhân tạo, các nhà máy xút và một số nhà máy hoá chất cơ
bản; phát triển hoá dược; chế biến các sản phẩm từ cao su, hương liệu, tinh
dầu, v.v..
Đẩy mạnh điều tra
cơ bản, nghiên cứu địa chất và tìm kiếm, thăm dò tài nguyên. Tăng cường cán
bộ và cơ sở vật chất - kỹ thuật cho ngành địa chất và các công tác điều tra cơ
bản khác.
4. Xây dựng
Phải nhanh chóng
phát triển ngành xây dựng cả về số lượng và chất lượng. Nâng cao năng lực của
ngành xây dựng; trang bị đủ công cụ cho công nhân, phấn đấu để cơ khí hoá các
khâu nặng nhọc, có khối lượng lớn, thực hiện một bước công xưởng hoá xây dựng.
áp dụng các phương pháp xây dựng tiên tiến; tiết kiệm đất đai, vật liệu và thời
gian xây dựng; quản lý chặt chẽ các định mức kinh tế - kỹ thuật.
Phát triển mạnh công
nghiệp vật liệu xây dựng, vừa xây dựng những xí nghiệp lớn hiện đại, vừa phát
triển rộng rãi những xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ ở các địa phương. Tích cực
phát triển xi măng, gạch, ngói và các vật liệu cơ bản khác; tăng nhanh vật liệu
trang trí, chống ẩm, cách nhiệt... Tiến tới bảo đảm đủ các loại vật liệu xây
dựng.
Hết sức coi trọng
việc tăng cường công tác chuẩn bị đầu tư và chuẩn bị xây dựng. Đẩy mạnh công
tác xây dựng quy hoạch và tăng nhanh năng lực khảo sát, thiết kế. Phát triển
nghệ thuật kiến trúc xã hội chủ nghĩa có tính hiện đại và tính dân tộc.
Tăng cường lực lượng
của Bộ Xây dựng, bao gồm cả lực lượng của trung ương và lực lượng của địa
phương, thành lực lượng trụ cột của toàn ngành xây dựng; phát triển đúng mức
lực lượng xây dựng chuyên môn hoá của các ngành; phát triển các đội xây dựng
của hợp tác xã, các đội bảo quản và sửa chữa nhà cửa. Sử dụng tốt lực lượng bộ
đội trong việc xây dựng cơ bản. Cải tạo và sử dụng hợp lý các hãng thầu xây
dựng tư nhân ở miền Nam.
5. Giao thông vận tải và bưu
điện
Phát triển toàn diện
giao thông vận tải, bảo đảm một tỷ lệ hợp lý giữa xây dựng đường sá, bến
cảng, kho tàng... với sản xuất và sửa chữa phương tiện bốc xếp và vận tải. Tăng
cường cơ khí chế tạo và sửa chữa các phương tiện bốc xếp và vận tải.
Phát triển nhanh đội
tàu biển, xây dựng, mở rộng và quản lý tốt hệ thống cảng biển; phát triển công
nghiệp đóng tàu và toa xe. Cơ khí hoá vận tải đường sông; xây dựng các cảng
sông có trình độ cơ khí hoá cao, có mức bốc xếp lớn. Hiện đại hoá một bước
đường sắt Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh; mở thêm một số tuyến đường sắt mới.
Bảo dưỡng, nâng cấp và xây dựng mới đường bộ; đẩy mạnh sản xuất phương tiện và
phụ tùng. Tổ chức lại giao thông vận tải thành phố; phát triển giao thông vận
tải ở nông thôn đồng bằng, trung du, miền núi và các vùng kinh tế mới. Mở rộng
hệ thống đường ống. Xây dựng hàng không dân dụng.
Phát triển công
nghiệp thông tin; hiện đại hoá từng bước mạng lưới thông tin bưu điện,
bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt, nhanh chóng, bí mật, an toàn.
6. Lưu thông, phân phối, xuất
khẩu và nhập khẩu
Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa phải tổ chức tốt việc lưu thông và phân
phối hàng hoá, phục vụ đắc lực đời sống, thúc đẩy phát triển sản xuất, mở rộng
phân công lao động. Làm tốt việc thu mua, nắm nguồn hàng bằng hợp đồng hai
chiều và giá cả hợp lý. Bảo đảm phân phối hàng một cách công bằng, hợp lý,
thuận tiện cho người tiêu dùng; xây dựng thái độ phục vụ tốt khách hàng; chống
thái độ cửa quyền, gây phiền hà cho nhân dân. Đặc biệt coi trọng mở rộng và
nâng cao chất lượng phục vụ ăn uống công cộng, phát triển mạng lưới phục vụ
sinh hoạt của nhân dân. ở miền Nam, phát triển nhanh thương nghiệp quốc doanh
và hợp tác xã mua bán; Nhà nước phải nắm trọn bán buôn và chi phối được bán lẻ,
quản lý được thị trường và giá cả, tạo điều kiện cơ bản để thống nhất thị
trường cả nước.
Cải tiến quản lý và
cung ứng vật tư, từng bước bảo đảm đưa vật tư đến tận đơn vị sản xuất,
hoặc gần nơi sản xuất một cách kịp thời, đầy đủ và đồng bộ, với chi phí ít
nhất. Thực hiện bán buôn tư liệu sản xuất một cách đúng đắn, xoá bỏ lối bao
cấp, chống tệ cửa quyền. Khuyến khích sản xuất vật tư trong nước; tận dụng mọi
vật tư sẵn có và phế liệu, phế phẩm; tổ chức tốt việc thu nhặt, thu mua vật tư
cũ; giảm mức tiêu hao vật tư. Xây dựng thêm và bố trí hợp lý mạng lưới kho
tàng trên các khu vực, cân đối với yêu cầu về khối lượng và luân chuyển các
loại vật tư, hàng hoá.
Chính sách giá cả
phải có tác dụng bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước, thúc
đẩy sản xuất và phân công lao động, khuyến khích tăng năng suất lao động, đẩy
mạnh tiến bộ khoa học - kỹ thuật, bảo đảm và nâng cao dần thu nhập thực tế của
người lao động, điều tiết cung cầu, tham gia phân phối và phân phối lại thu
nhập quốc dân một cách đúng đắn. Trong việc xác định giá cả, cần tính toán đúng
mức và chặt chẽ, sát với thực tế, bảo đảm cho giá cả bù đắp được chi phí sản
xuất và có lợi nhuận cho cơ sở sản xuất để tái sản xuất mở rộng và cải thiện
đời sống của người lao động. Cần nghiên cứu xây dựng một hệ thống giá hợp lý
hơn, nhất là giá thu mua nông, lâm, hải sản và giá bán hàng tiêu dùng và tư
liệu sản xuất cho khu vực kinh tế tập thể. Nhanh chóng xây dựng hệ thống giá
thành, giá bán buôn xí nghiệp và giá bán buôn công nghiệp để thực hiện chế độ
hạch toán kinh tế. Quản lý tốt thị trường, ổn định giá cả, tiến tới giảm giá
một số hàng trên cơ sở phát triển sản xuất và nâng cao năng suất lao động. Đấu
tranh để ổn định giá cả ở miền Nam, tiến hành khẩn trương việc thống nhất giá
cả trong cả nước.
Nhiệm vụ cơ bản về tài
chính là làm chủ các nguồn vốn, để bảo đảm thực hiện đường lối và kế hoạch
phát triển kinh tế; xây dựng một quan hệ hợp lý giữa quỹ tiêu dùng và quỹ tích
luỹ. Tài chính phải làm tốt vai trò kiểm tra mọi hoạt động sản xuất và kinh
doanh, phát huy tác dụng tích cực của tài chính thúc đẩy phát triển sản xuất,
tăng năng suất lao động xã hội. Xây dựng một ngân sách tích cực, nhằm bảo đảm
tốt kế hoạch phát triển kinh tế, mở mang các hoạt động văn hoá, xã hội, bảo đảm
quốc phòng và giữ gìn an ninh. Quản lý chặt chẽ việc thu, chi tài chính thống
nhất trong các cấp ngân sách, đồng thời xác định đúng đắn quyền hạn về thu, chi
tài chính của các cấp chính quyền địa phương, tương ứng với nhiệm vụ về quản lý
kinh tế, quản lý nhà nước của mỗi cấp.
Nhiệm vụ cơ bản về ngân
hàng là thông qua hoạt động tín dụng, tiền tệ mà tham gia xây dựng và thúc
đẩy thực hiện kế hoạch kinh tế, cung ứng vốn tín dụng, kiểm soát bằng đồng tiền
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhằm thúc đẩy sản xuất và tăng cường chế độ
hạch toán kinh tế. Phát triển mạnh tín dụng, bảo đảm vốn sản xuất kinh doanh
đối với khu vực kinh tế quốc doanh; mở rộng việc cho vay đối với kinh tế tập
thể để phát triển sản xuất theo kế hoạch nhà nước. Thu hút tiền tiết kiệm và
vốn nhàn rỗi trong xã hội. Xây dựng ngân hàng thành trung tâm thanh toán có
hiệu lực. Quản lý chặt chẽ tiền mặt và lưu thông tiền tệ.
Mở rộng phân công
và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế và khoa học, kỹ thuật, đẩy
mạnh hoạt động ngoại thương. Tăng nhanh xuất khẩu bằng cách phát huy khả
năng lớn của nông nghiệp, lâm nghiệp nhiệt đới, tận dụng khả năng của công
nghiệp nhẹ, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp; đẩy mạnh khai thác một số hải
sản và khoáng sản có trữ lượng khá, tiến tới xuất khẩu một số mặt hàng công
nghiệp nặng. Việc nhập khẩu phải bảo đảm yêu cầu của cách mạng khoa học - kỹ
thuật, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Dưới sự quản lý
thống nhất của Nhà nước, các ngành và các địa phương có trách nhiệm tham gia
tích cực vào hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu.
7. Lao động, tiền lương
Phải tổ chức và phân
công lại lao động trong phạm vi cả nước, trong từng ngành, từng địa phương và
từng cơ sở. Chuyển một khối lượng lớn lao động nông nghiệp từ những vùng đông
dân tới những vùng thưa dân để tạo thêm đất canh tác. Mở mang sản xuất để thanh
toán nạn thất nghiệp ở các vùng mới giải phóng, bảo đảm cho mọi người đến tuổi
lao động đều có việc làm. Chủ động dùng mọi hình thức tổ chức, mọi phương pháp
lao động để sử dụng hết các nguồn lao động. Thi hành chế độ nghĩa vụ lao động,
buộc mọi người có sức lao động đều phải lao động. Sử dụng tốt lực lượng quân
đội nhân dân trong công cuộc xây dựng kinh tế. Làm tốt công tác tiêu chuẩn hoá
và công tác định mức kinh tế - kỹ thuật, nghiên cứu áp dụng khoa học tổ chức
lao động, áp dụng những phương pháp tiên tiến về tổ chức và quản lý lao động.
Đẩy mạnh giáo dục tư tưởng, thi hành đúng đắn chính sách tiền lương, tiền
thưởng, phúc lợi; đề cao kỷ luật lao động. Sớm ban hành luật lao động, coi
trọng việc cải thiện điều kiện lao động, bảo đảm an toàn lao động, tích cực
chống tai nạn lao động, chú ý vệ sinh lao động và bảo vệ sức khoẻ của người lao
động. Trang bị đủ công cụ cho lao động, đẩy mạnh cơ khí hoá lao động, trước hết
ở những khâu nặng nhọc. Đào tạo công nhân kỹ thuật, nâng cao tay nghề của người
lao động một cách có hệ thống.
Cải tiến chế độ tiền lương nhằm thực
hiện đầy đủ hơn nguyên tắc phân phối theo lao động. Tiền lương cùng với phúc
lợi tập thể phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động, bảo đảm đời sống của người
lao động và gia đình họ. Lao động có kỹ thuật, lao động ở những ngành, nghề
nặng nhọc, tiếp xúc với môi trường độc hại, ở những vùng có nhiều khó khăn cần
được đãi ngộ thích đáng.
8. Cải thiện một bước đời sống
của nhân dân
Ra sức phấn đấu để giảm dần những khó
khăn trong đời sống của nhân dân lao động thành thị và nông thôn, đặc biệt chú
trọng các vùng bị chiến tranh tàn phá, các vùng dân tộc ít người, các vùng xa
xôi, hẻo lánh, vùng biên giới. Ra sức phát triển sản xuất, bảo đảm cho xã hội
có đủ mọi nhu yếu phẩm. Coi trọng công tác tổ chức đời sống. Trong 5 năm tới,
phải bảo đảm cho mọi người có đủ lương thực, rau đậu, có thêm cá, thịt, nước
chấm, đường, trứng, trái cây... Bảo đảm mặc lành, đủ ấm. Giảm bớt khó khăn về
nhà ở tại các thành phố và khu công nghiệp, làm thêm nhiều nhà ở, giếng nước,
nhà tắm, nhà vệ sinh tại nông thôn; tăng nhanh vật liệu và lực lượng xây dựng
nhà ở; xây dựng các khu dân cư theo quy hoạch và thiết kế mẫu, cung ứng hàng
tiêu dùng thông dụng. Bảo đảm nhu cầu đi lại của nhân dân thông suốt trong cả
nước, giữa miền xuôi, miền núi và các vùng kinh tế mới, giữa thành thị và nông
thôn. Chú ý tăng cường các cơ sở phúc lợi tập thể. Coi trọng việc tổ chức đời
sống văn hoá tươi vui và lành mạnh của nhân dân. Săn sóc gia đình thương binh,
liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng gặp khó khăn. Chú ý thích đáng đời sống
của những người già không con cháu và những người tàn tật. Chăm sóc, nuôi dạy
tốt trẻ mồ côi.
B- Phát triển khoa
học, kỹ thuật
Phát triển khoa học và kỹ thuật nhằm
phục vụ sản xuất, đời sống và quốc phòng. Phát huy tinh thần cách mạng tiến
công, tự lực tự cường, chủ động, sáng tạo, đồng thời ra sức vận dụng những
thành tựu khoa học, kỹ thuật hiện đại trên thế giới. Tập trung lực lượng và
phương tiện để giải quyết dứt điểm những vấn đề quan trọng nhất. Đề cao tinh
thần hợp tác xã hội chủ nghĩa. Kết hợp tốt việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học
với hoạt động sản xuất. Đẩy mạnh phong trào quần chúng tiến quân vào khoa học,
kỹ thuật. Xây dựng chế độ quản lý khoa học đúng đắn.
Về khoa học tự nhiên và kỹ thuật, phấn
đấu để sau ba - bốn kế hoạch 5 năm, tạo được một nền khoa học, kỹ thuật hiện
đại cho đất nước. Trước mắt, phải giải quyết những vấn đề đặt ra trong sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải.
Phải làm cho khoa học, kỹ thuật trở thành căn cứ của kế hoạch và hoạt động kinh
tế. Kế hoạch phát triển và ứng dụng khoa học kỹ thuật là một bộ phận hợp thành
của kế hoạch nhà nước.
Đưa công tác quản lý kỹ thuật vào nền
nếp, bổ sung hệ thống tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật, làm tốt công tác
đo lường, kiểm tra kỹ thuật, kiểm tra chất lượng sản phẩm, quản lý sáng chế,
phát minh.
Chú trọng nghiên cứu
ứng dụng, triển khai nhanh các kết quả nghiên cứu vào sản xuất, đồng thời quan
tâm đầy đủ đến nghiên cứu cơ bản. áp dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật
mới vào công tác quản lý. Phát triển khoa học và kỹ thuật liên quan đến điều
kiện nhiệt đới. Cần xác định các đề tài trọng điểm của cả nước, của từng ngành
và từng địa phương; xây dựng hệ thống viện nghiên cứu, thí nghiệm và thiết kế;
đào tạo và sử dụng tốt cán bộ khoa học, kỹ thuật.
Các ngành khoa
học xã hội, trước hết là triết học, chính trị kinh tế học, chủ nghĩa xã hội
khoa học, phải tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lớn trong đường lối, chính
sách của Đảng, tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau đây: các quy luật của chủ
nghĩa xã hội; con đường từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa;
chuyên chính vô sản và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; ba cuộc
cách mạng; xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người
mới; công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa; tổ chức và quản lý kinh tế; xây dựng
Đảng trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, v.v.. Tuyên truyền, giáo dục
chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin chiếm địa vị thống trị
trong đời sống tinh thần của xã hội; đấu tranh chống mọi quan điểm sai lầm và
thù địch. Mở rộng và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu trên các lĩnh vực
luật học, xã hội học, sử học, khảo cổ học, dân tộc học, ngôn ngữ học, văn học,
nghệ thuật,...
C- Cải tạo quan hệ
sản xuất cũ, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
Ở miền Bắc, trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, tiếp
tục củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, xây dựng và cải tiến chế độ
quản lý và chế độ phân phối. Mở rộng thành phần quốc doanh, củng cố các cơ sở
quốc doanh về mọi mặt. Làm tốt cuộc vận động tổ chức lại sản xuất và cải tiến
quản lý trong nông nghiệp. Đưa kỹ sư, kỹ thuật viên và cán bộ về tăng cường cho
bộ máy quản lý của huyện và hợp tác xã. Củng cố và tăng cường hợp tác xã tiểu
công nghiệp, thủ công nghiệp, làm cho sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công
nghiệp phát triển mạnh mẽ và phù hợp với phương hướng của kế hoạch nhà nước.
Đối với kinh tế cá thể, cần hướng dẫn và quản lý phát triển đúng hướng.
Ở miền Nam, xoá bỏ triệt để quyền chiếm hữu phong kiến về ruộng đất và
những tàn tích bóc lột phong kiến; quốc hữu hoá những cơ sở công thương nghiệp
của tư sản mại bản, bọn phản quốc và bọn tư sản chạy ra nước ngoài; tiến hành
cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tư bản tư doanh; hợp tác hoá nông nghiệp, tổ
chức lại thủ công nghiệp và thương nghiệp nhỏ. Kết hợp cách mạng về quan hệ sản
xuất với cách mạng khoa học - kỹ thuật và cách mạng tư tưởng và văn hoá, gắn
chặt với quá trình tổ chức lại sản xuất và lưu thông trong cả nước, đưa miền
Nam tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở phát triển thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa, cần tận dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế
khác để phát triển sản xuất, bảo đảm cung ứng tốt nhu cầu của xã hội.
Xây dựng kinh tế quốc doanh lớn mạnh
nhanh chóng, chiếm ưu thế trong sản xuất và lưu thông, phân phối. Đối với xí
nghiệp tư bản tư doanh, phải cải tạo xã hội chủ nghĩa chủ yếu bằng con đường
công tư hợp doanh. Đi đôi với cải tạo quan hệ sản xuất, cần sắp xếp lại lực
lượng sản xuất cho hợp lý trong phạm vi toàn ngành; tăng cường quản lý, bổ sung
thiết bị để mở rộng sản xuất.
Đối với nông nghiệp, tiến hành hợp tác
hoá đi đôi với thuỷ lợi hoá và cơ giới hoá; coi trọng cả xây dựng hợp tác xã và
xây dựng nông trường quốc doanh; gắn liền xây dựng hợp tác xã với xây dựng
huyện. Trước mắt, phải quy hoạch, phân vùng sản xuất, củng cố nông hội, phát
triển tổ đổi công, tổ đoàn kết sản xuất, xây dựng hợp tác xã thí điểm; kiện
toàn ngay cấp huyện để đủ sức lãnh đạo ba cuộc cách mạng ở nông thôn, chuẩn bị
những điều kiện cần thiết để mở rộng hợp tác hoá.
Trong ngư nghiệp, phát triển thành
phần quốc doanh; xác lập mối liên hệ trực tiếp giữa Nhà nước với ngư dân, giúp
đỡ ngư dân thoát khỏi mọi sự bóc lột và tiến dần lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa bằng những hình thức thích hợp.
Đối với tiểu công nghiệp, thủ công
nghiệp và những ngành dịch vụ cần thiết cho xã hội, phải sắp xếp lại theo ngành
dưới sự quản lý của Nhà nước. Tuỳ theo đặc điểm của từng ngành, nghề mà áp dụng
những hình thức tổ chức và cải tạo thích hợp. Việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp phải đưa đến kết quả phát triển sản
xuất, giữ gìn và nâng cao kỹ thuật sản xuất, làm phong phú mặt hàng và bảo đảm
chất lượng sản phẩm.
Xoá bỏ ngay thương
nghiệp tư bản chủ nghĩa. Chuyển phần lớn tiểu thương sang sản xuất. Đối với số
còn được phép kinh doanh, phải tăng cường quản lý bằng những chính sách và biện
pháp thích hợp.
IV
Nhiệm vụ trung tâm
của cách mạng tư tưởng và văn hoá là xây dựng nền văn hoá mới và con
người mới xã hội chủ nghĩa; tuyên truyền, giáo dục sâu rộng chủ nghĩa Mác -
Lênin và đường lối chính sách của Đảng; đấu tranh chống tư tưởng và văn hoá
phản động, lạc hậu của các giai cấp bóc lột. Trước mắt, cần phổ biến sâu rộng
các nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng; tiến hành cải cách giáo dục,
phát triển văn học, nghệ thuật; giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa, chống tư
tưởng tư sản và tàn dư tư tưởng phong kiến, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, quét
sạch ảnh hưởng của tư tưởng và văn hoá thực dân mới ở miền Nam.
Trong công tác văn
hoá, phải luôn luôn bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phải nhằm phục vụ Tổ quốc,
phục vụ nhân dân, phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; kế thừa có chọn
lọc, có phê phán và có sáng tạo những giá trị tinh thần và văn hoá của dân tộc
cũng như của nền văn minh loài người; kết hợp xây dựng với cải tạo, áp dụng
phương pháp phê bình và tự phê bình.
Tiến hành cải
cách giáo dục trong cả nước, làm cho hệ thống giáo dục quốc dân gắn chặt
hơn nữa với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của cải cách giáo
dục là đào tạo có chất lượng tốt những người lao động mới; trên cơ sở đó, đào
tạo và bồi dưỡng với quy mô ngày càng lớn đội ngũ công nhân kỹ thuật và cán bộ
quản lý, cán bộ khoa học, kỹ thuật và nghiệp vụ. Cải cách giáo dục phải làm cho
giáo dục thấu suốt hơn nữa nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với
lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Nâng cao chất lượng toàn
diện của nội dung giáo dục: hiện đại hoá chương trình học tập khoa học và kỹ
thuật, mở rộng kiến thức quản lý kinh tế; tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác -
Lênin, đường lối, chính sách của Đảng và đạo đức cách mạng; bồi dưỡng kỹ năng
lao động sản xuất và năng lực nghiên cứu khoa học, kỹ thuật; coi trọng đúng mức
giáo dục thẩm mỹ, thể dục thể thao và luyện tập quân sự. Để triển khai và bảo
đảm cuộc cải cách này, cần cải cách hệ thống sư phạm, đẩy mạnh đào tạo, bồi
dưỡng và sử dụng hợp lý đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, biên soạn
sách giáo khoa, xây dựng trường sở, sản xuất đủ thiết bị giảng dạy và nghiên
cứu khoa học.
Phát triển giáo
dục phổ thông; sớm thanh toán nạn mù chữ; bảo đảm cho tất cả thanh niên,
thiếu niên được học đầy đủ bậc phổ thông cơ sở và từng bước đạt bậc phổ thông
trung học; mở các loại trường vừa học, vừa làm; tăng cường công tác bổ túc văn
hoá cho những người lao động lớn tuổi, nhất là những cán bộ và thanh niên ở
miền Nam đã trải qua đấu tranh cách mạng, ở các vùng dân tộc, vùng cao.
Phát triển mạng lưới mẫu giáo, nâng
cao chất lượng mẫu giáo.
Sắp xếp, từng bước
mở rộng và hoàn chỉnh mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và trung
học chuyên nghiệp. Xây dựng hệ thống học tại chức với nhiều hình thức linh
hoạt. Kết hợp tốt giảng dạy, học tập với lao động sản xuất, thực nghiệm và
nghiên cứu khoa học, kỹ thuật.
Phát triển rộng rãi
các trường dạy nghề. Xây dựng quy hoạch dài hạn về đào tạo công nhân,
nâng cao chất lượng đào tạo. Mở rộng việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên dạy
nghề, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các trường dạy nghề.
Đẩy mạnh phong trào
thi đua "dạy tốt, học tốt" theo gương các điển hình tiên tiến; cải
tiến bộ máy quản lý và công tác quản lý từ cấp Bộ đến trường học, phát động và
tổ chức giáo viên và học sinh làm chủ tập thể sự nghiệp giáo dục, tạo điều kiện
cho các đoàn thể quần chúng thật sự tham gia quản lý nhà trường.
Các ngành báo
chí, thông tấn, xuất bản, thông tin, truyền thanh, truyền hình, điện ảnh, nhiếp
ảnh, v.v. phải kịp thời làm sáng tỏ quan điểm của Đảng về những sự kiện
quan trọng trong nước và trên thế giới, góp phần nâng cao tinh thần yêu nước xã
hội chủ nghĩa, ý thức tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy tắc, thể lệ về trật tự, an ninh, nâng cao
nhiệt tình lao động của quần chúng, hướng dẫn kịp thời và đúng đắn dư luận xã
hội, làm phong phú đời sống văn hoá và tinh thần của nhân dân. Mở rộng và nâng
cao hơn nữa nội dung và phương pháp thể hiện của các báo, đài, phim ảnh và các
xuất bản phẩm. Tăng cường cán bộ và cung ứng đủ những phương tiện và vật tư cần
thiết cho các ngành đó.
Nền văn học, nghệ
thuật xã hội chủ nghĩa cần ra sức sáng tạo
những hình tượng nghệ thuật cao đẹp, phong phú về xã hội mới và về con người
mới trong sản xuất, chiến đấu, công tác và học tập, phản ánh cuộc đấu tranh vì
thắng lợi hoàn toàn của công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Miêu tả
những tập thể và cá nhân tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc
ta trong hai cuộc kháng chiến, miêu tả những tập thể và cá nhân lao động ưu tú,
những đơn vị và anh hùng, chiến sĩ thi đua. Phải khẳng định mạnh mẽ trật tự
mới, lối sống mới, đạo đức mới, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc. Không chỉ ca ngợi những con người mới, những việc làm tốt, mà còn phải phê
phán nghiêm khắc những hiện tượng tiêu cực trong đời sống, những di hại của văn
hoá, văn nghệ tư sản, phong kiến, thực dân cũ và mới; đứng trên lập trường cách
mạng và bằng phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, vạch đúng nguồn gốc của
cái xấu, bồi đắp lòng tin tưởng tuyệt đối vào chủ nghĩa xã hội.
Phát triển văn hoá
tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, đẩy mạnh phong trào văn hoá, văn
nghệ quần chúng. Nâng cao không ngừng trình độ thưởng thức và năng lực sáng
tạo nghệ thuật của quần chúng; thoả mãn ngày càng đầy đủ nhu cầu thưởng thức và
hoạt động văn hoá của nhân dân trên khắp mọi miền đất nước.
Văn nghệ sĩ phải
được bồi dưỡng về thế giới quan Mác - Lênin, về đường lối, chính sách của Đảng,
về kiến thức văn hoá; phải luôn luôn gắn bó với quần chúng lao động, đi sâu vào
phong trào cách mạng của quần chúng. Giúp đỡ văn nghệ sĩ vùng mới giải phóng
tiến bộ về chính trị và tư tưởng, gắn bó với cách mạng, đem tài năng phục vụ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân.
Phát triển công tác bảo
tồn, bảo tàng, triển lãm và thư viện. Củng cố những viện bảo tàng
hiện có, xây dựng những viện bảo tàng mới ở trung ương và các tỉnh; xây dựng các
tượng đài kỷ niệm, các nhà lưu niệm hoặc nhà truyền thống ở các địa phương; bảo
vệ tốt các di tích lịch sử. Tổ chức các cuộc triển lãm cố định hoặc lưu động.
Phát triển hệ thống thư viện từ trung ương, tỉnh, thành đến huyện, cơ sở.
Xây dựng nếp sống
mới văn minh, trật tự, tươi vui, lành mạnh trong xã hội, đưa cái đẹp vào đời
sống hàng ngày, vào lao động sản xuất. Xây dựng nhiều công viên, cung văn
hoá, cung thiếu nhi, câu lạc bộ, nhà văn hoá. Chú ý tổ chức tốt đời sống
văn hoá ở các vùng kinh tế mới, ở các nông trường, công trường, lâm trường, ở
các vùng dân tộc, ở miền núi và hải đảo.
Công tác y tế và
công tác thể dục thể thao phải tích cực góp phần nâng cao sức khoẻ và
bồi dưỡng thể lực của nhân dân; nhanh chóng khắc phục những hậu quả của chiến
tranh, những di hại của chế độ thực dân mới về mặt xã hội.
Kiên trì phương
hướng y học dự phòng, phối hợp chặt chẽ vệ sinh phòng bệnh với thể dục thể
thao. Làm sạch môi trường sống, thực hiện nghiêm ngặt vệ sinh thực phẩm, vệ
sinh lao động, vệ sinh trường học và tổ chức tốt việc tiêm phòng; ngăn ngừa và
kịp thời dập tắt các bệnh dịch. Thanh toán các bệnh xã hội, trước hết là sốt
rét, lao... Giải quyết tốt các di chứng vết thương chiến tranh. Chủ động đề
phòng nạn ô nhiễm môi trường trong quá trình phát triển công nghiệp; phòng và
chống có hiệu quả những bệnh nghề nghiệp.
Nâng cao chất lượng
khám bệnh và chữa bệnh; coi trọng việc chăm sóc sức khoẻ của trẻ em, phụ nữ,
đồng bào dân tộc ít người và người già. Vận động nhân dân bỏ những tập quán lạc
hậu, mê tín dị đoan, có hại đến sức khoẻ, xây dựng nếp sống vệ sinh, lành mạnh.
Kết hợp chặt chẽ y
học hiện đại với y học cổ truyền của dân tộc, xây dựng nền y học Việt Nam. Phát
triển nguồn dược liệu phong phú trong nước, nhanh chóng xây dựng ngành công
nghiệp dược phẩm, đẩy mạnh việc sản xuất thiết bị và dụng cụ y tế.
Củng cố và hoàn
thiện mạng lưới y tế nhân dân, nhất là y tế cơ sở và y tế huyện, chú ý miền núi
và vùng kinh tế mới. Tăng cường các cơ sở nghiên cứu y học và dược học, đẩy
mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ y và dược thấm nhuần lời dạy của Hồ
Chủ tịch: "Thầy thuốc như mẹ hiền".
Phát triển mạnh mẽ
phong trào thể dục thể thao quần chúng. Mở rộng công tác đào tạo và bồi dưỡng
hướng dẫn viên, huấn luyện viên, vận động viên và cán bộ quản lý. Xúc tiến công
tác nghiên cứu khoa học thể dục thể thao, tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật
của thể dục thể thao.
Làm tốt công tác bảo
vệ bà mẹ và trẻ em. Đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, ra
sức phòng và chống các bệnh phụ khoa và các bệnh nghề nghiệp của phụ nữ. Tổ
chức tốt việc nuôi dạy trẻ, phát triển rộng khắp mạng lưới nhà trẻ, sản xuất và
cung ứng đủ những phương tiện phục vụ và đồ chơi cho trẻ em; đào tạo tốt và đãi
ngộ thích đáng đội ngũ cô nuôi trẻ, dạy trẻ.
Thực hiện tốt các
chính sách đối với cán bộ, công nhân viên chức về hưu, nhất là đối với
cán bộ đã đóng góp nhiều cho cách mạng.
Săn sóc và giúp đỡ
chu đáo thương binh, gia đình liệt sĩ và gia đình có công với cách
mạng. Tích cực chữa bệnh và thương tật, bồi dưỡng sức khoẻ của thương binh,
cung cấp phương tiện và dụng cụ chuyên dùng cần thiết; tổ chức tốt việc dạy
nghề và bố trí công việc thích hợp cho thương binh. Thực hiện đầy đủ các chính
sách, chế độ đối với thương binh và gia đình liệt sĩ. Những người và những gia
đình có công với cách mạng cần được nêu gương và khen thưởng thích đáng, và
được giúp đỡ chu đáo những khi gặp khó khăn.
Những trẻ mồ côi,
những người già neo đơn, những người tàn tật gặp nhiều khó khăn
và những nạn nhân khác của chiến tranh xâm lược và của chủ nghĩa thực
dân mới cần được quan tâm đầy đủ, làm cho ai nấy đều có cuộc sống ổn định, lành
mạnh, yên vui.
V
1. Để thực hiện
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, phải kiện toàn Nhà nước xã hội
chủ nghĩa của cả nước, tăng cường hiệu lực của Nhà nước về mặt tổ chức và quản
lý kinh tế, văn hoá và xã hội, nhanh chóng xây dựng và kiện toàn bộ máy chính
quyền nhà nước các cấp ở miền Nam, tiếp tục hoàn thiện bộ máy chính quyền Nhà
nước các cấp ở miền Bắc. Nhà nước chuyên chính vô sản của ta phải là Nhà nước
của dân, do dân và vì dân, một tổ chức đủ năng lực tiến hành ba cuộc cách mạng,
xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người mới, bảo vệ
lợi ích của tập thể và lợi ích chính đáng của cá nhân, đủ sức giữ vững an ninh
chính trị và trật tự xã hội, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và những thành quả
của cách mạng.
Phải tiếp tục xây
dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống quản lý kinh tế, nhằm vào những
vấn đề quan trọng nhất là tổ chức lại nền sản xuất xã hội trong phạm vi cả
nước; cải tiến phương thức quản lý kinh tế lấy kế hoạch hoá làm chính; kiện
toàn bộ máy quản lý kinh tế.
Tổ chức lại tất cả các ngành sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải, xây
dựng... trong cả nước theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ tình
trạng phân tán, cục bộ, hình thành những ngành kinh tế - kỹ thuật thống nhất và
phát triển trên phạm vi cả nước, những vùng kinh tế và những cơ cấu kinh tế địa
phương thích hợp với điều kiện tự nhiên ở địa phương và yêu cầu của cả nước. Tổ
chức lại các ngành cung ứng vật tư và lưu thông phân phối nhằm phục vụ tốt hơn
nữa sản xuất và đời sống nhân dân trong cả nước.
Công tác kế hoạch
hoá cần được cải tiến theo phương hướng sau đây: cải tiến kế hoạch hoá thống
nhất của Nhà nước trên cơ sở đề cao trách nhiệm và phát huy sáng tạo của các
ngành, các địa phương và các cơ sở; kế hoạch của các ngành, các địa phương và
các cơ sở phải kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ chung với điều kiện và khả năng cụ thể
của mình; coi trọng việc tăng năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả kinh
tế; quan tâm đầy đủ cả sản xuất lẫn lưu thông, phân phối.
Trong công tác quản
lý kinh tế, phải coi trọng giá trị sử dụng, đồng thời coi trọng quy luật giá
trị; phải thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, sử dụng tốt thị trường và những
đòn bẩy kinh tế: giá cả, tín dụng, tiền lương, lợi nhuận, v.v..
Bộ máy quản lý kinh
tế cần được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc kết hợp
quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và theo vùng lãnh thổ; thi hành
chế độ thủ trưởng ở tất cả các cơ quan quản lý.
Quy định cụ thể và
thực hiện đầy đủ hơn nữa chức năng, nhiệm vụ của các bộ quản lý ngành kinh tế -
kỹ thuật, trong đó có trách nhiệm và quyền hạn của bộ trưởng; làm rõ hơn nữa
mối quan hệ giữa bộ quản lý ngành với Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, các bộ tổng hợp
và Hội đồng Chính phủ.
Tổ chức những chuyên
ngành kinh tế - kỹ thuật mà trình độ tích tụ, chuyên môn hóa và liên hiệp hoá
sản xuất đã chín muồi; tiến hành gấp việc phân cấp quản lý kinh tế giữa trung
ương và địa phương, phân định trách nhiệm quản lý cụ thể giữa các bộ, tổng cục
với các cấp chính quyền địa phương; xúc tiến công tác phân vùng kinh tế.
Xây dựng mỗi tỉnh,
thành phố thành một đơn vị kinh tế công - nông nghiệp phát triển phù hợp với
thế mạnh từng địa phương và với yêu cầu chung của cả nền kinh tế quốc dân.
Xây dựng huyện vững
mạnh, thật sự trở thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp; lấy huyện làm địa
bàn tổ chức lại sản xuất, tổ chức và phân công lại lao động một cách cụ thể và
kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, kinh tế toàn dân với kinh tế tập thể, công
nhân với nông dân. Xây dựng chính quyền cấp huyện thành một cấp Nhà nước quản
lý kế hoạch toàn diện và có ngân sách, một cấp quản lý sản xuất, quản lý lưu
thông và đời sống ở huyện.
Đối với cấp xã
cần quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm quản lý hành chính ở xã.
Để tổ chức và quản lý tốt các đơn vị
cơ sở, phải xác định đúng đắn phương hướng sản xuất; kiện toàn bộ máy quản lý;
làm tốt kế hoạch kinh tế - kỹ thuật, tổ chức và sử dụng lao động một cách hợp
lý, chặt chẽ, cung ứng kịp thời vật tư cho sản xuất; tăng cường quản lý sản
xuất, lao động, tài chính, vật tư; thực hiện hạch toán kinh tế; bảo đảm chất
lượng sản phẩm; cải tiến quan hệ giữa các đơn vị cơ sở với nhau và với cấp trên
của đơn vị cơ sở. Đẩy mạnh chuyên môn hoá, tổ chức tốt việc hợp tác hoá và liên
hiệp hoá trong sản xuất, tạo điều kiện để tổ chức các nhóm sản phẩm, công ty,
xí nghiệp liên hợp, liên hiệp các xí nghiệp.
Trong nông nghiệp,
ta đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm về quản lý hợp tác xã, phải căn cứ vào
những kinh nghiệm ấy để cải tiến quản lý các hợp tác xã nông nghiệp, đi đôi với
phát triển kinh tế trên địa bàn huyện và tăng cường cấp huyện.
Phải tăng cường tổ
chức và cải tiến lưu thông, phân phối, nhằm phục vụ tốt việc mở rộng phân công
lao động, phát triển lực lượng sản xuất, cải tạo quan hệ sản xuất và phục vụ
đời sống nhân dân.
Thi hành nghiêm
chỉnh chế độ trách nhiệm cá nhân; gắn chặt trách nhiệm với quyền lợi, kỷ luật
của tổ chức với tinh thần tự giác của từng người thành một cơ chế có hiệu lực
buộc mọi người phải làm tròn trách nhiệm, khuyến khích người lao động nhiều hơn
và tốt hơn. Trách nhiệm và quyền hạn của từng người phải được quy định rõ ràng;
mỗi nhiệm vụ, mỗi loại công việc phải có tiêu chuẩn, định mức cụ thể. Phải quy
định rõ thưởng và phạt về vật chất và tinh thần. Thưởng, phạt phải công minh.
Tăng cường hiệu lực của Nhà nước về
mặt tổ chức và quản lý văn hoá, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân
về văn hoá, giáo dục, y tế, v.v.; bảo đảm quyền làm chủ tập thể về văn hoá của
nhân dân, thúc đẩy cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng và văn hoá.
Luôn luôn coi trọng nhiệm vụ củng cố
quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội, bảo đảm cho đất nước
luôn luôn sẵn sàng và đủ sức đập tan mọi hành động xâm lược và mọi hoạt động
phản cách mạng.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân
vững mạnh. Nhiệm vụ xây dựng và củng cố quốc phòng là nhiệm vụ của toàn dân,
toàn quân, của cả hệ thống chuyên chính vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lực
lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh của chúng ta có lực lượng thường trực mạnh và
lực lượng hậu bị rộng rãi được huấn luyện tốt; có quân đội nhân dân chính quy,
hiện đại gồm các quân chủng, binh chủng cần thiết; có bộ đội chủ lực, bộ đội
địa phương, có lực lượng dân quân du kích và dân quân tự vệ hùng hậu. Chừng nào
còn chủ nghĩa đế quốc trên thế giới thì chúng ta còn phải chú ý đầy đủ hiện đại
hoá lực lượng quốc phòng và khả năng phòng thủ của đất nước. Trong giai đoạn
mới, các lực lượng vũ trang có hai nhiệm vụ: luôn luôn sẵn sàng chiến đấu bảo
vệ Tổ quốc và tích cực làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Trên tinh thần đó, phải
thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự và chế độ quân đội làm nghĩa vụ xây dựng kinh
tế; phải ra sức phát triển công nghiệp quốc phòng.
Bảo vệ an ninh chính trị và trật tự
xã hội là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Nhà nước, là một trong những công
tác lớn ở vùng mới giải phóng miền Nam.Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu hoạt động của bọn gián điệp đế quốc, tư bản; kịp
thời và kiên quyết trấn áp bọn phá hoại hiện hành; đập tan mọi mưu mô ngóc đầu
dậy của các giai cấp bóc lột và của bọn phản động; ra sức đấu tranh chống các
tội phạm khác; tích cực bài trừ các tệ nạn xã hội; ngăn ngừa và làm giảm tới
mức thấp nhất các tai nạn xã hội. Xây dựng công an nhân dân thành một lực lượng
vũ trang sắc bén, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, có
lực lượng chuyên trách chính quy, hiện đại, vững về chính trị, giỏi về nghiệp
vụ, có trình độ khoa học, kỹ thuật khá, được trang bị chuyên môn cần thiết, có
lực lượng bán chuyên trách vững mạnh, có cơ sở quần chúng rộng khắp. Giáo dục
nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho quần chúng nhân dân, phát động
phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và trật tự, an toàn xã hội. Củng
cố, tăng cường các cơ quan kiểm sát, toà án và tư pháp; cải tiến và phối hợp
tốt các hoạt động giữa các ngành công an nhân dân, kiểm sát nhân dân và toà án
nhân dân.
Nêu cao vị trí của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp. Quốc hội quyết định những công việc quan trọng nhất
của Nhà nước; các Hội đồng nhân dân địa phương quyết định những công việc quan
trọng của chính quyền nhà nước ở địa phương. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các
cấp giám sát toàn bộ hoạt động của bộ máy chính quyền nhà nước các cấp. Trách
nhiệm của Hội đồng Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp trước Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp phải được quy định rõ ràng. Quy định chế độ và tạo điều
kiện để các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân có thể thu thập và phản ánh
ý kiến của nhân dân cho các cơ quan nhà nước và theo dõi cách giải quyết của
các cơ quan ấy. Xây dựng và ban hành các quy định bảo đảm sự kiểm tra và quyền
bãi miễn của cử tri đối với đại biểu do họ bầu ra.
Phải tổ chức kiểm
tra chặt chẽ sự hoạt động của các cơ quan nhà nước. Củng cố và hoàn thiện cơ
cấu kiểm tra bao gồm hệ thống tự kiểm tra trong bộ máy nhà nước và sự kiểm tra
của các tổ chức quần chúng. Tất cả các cơ quan nhà nước, từ trung ương đến cơ
sở, phải trả lời kịp thời và đầy đủ những vấn đề do quần chúng nhân dân nêu ra.
Xây dựng Hiến pháp
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể chế hoá bằng đạo luật cơ bản
của Nhà nước, quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động, dựa
trên cơ sở liên minh công nông, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước đi vào quy chế
chặt chẽ, thật sự tôn trọng quyền làm chủ tập thể và bảo đảm quyền lợi của nhân
dân, đồng thời đòi hỏi mọi công dân làm tròn nghĩa vụ và tuân theo pháp luật.
Cán bộ, nhân viên
nhà nước phải nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân không điều kiện. Chống tham ô,
lãng phí, hách dịch, cửa quyền, vô trách nhiệm; ngăn ngừa một số cán bộ và nhân
viên nhà nước biến thành một lớp người có đặc quyền đặc lợi.
Cần phải tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước một
cách toàn diện, quyết định đường lối, chính sách, phương hướng hoạt động của
Nhà nước; quyết định những vấn đề quan trọng về hệ thống quản lý, về bộ máy tổ
chức và cán bộ; chăm lo xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước vững mạnh, xây
dựng lực lượng cán bộ của Đảng có năng lực làm nòng cốt trong các cơ quan nhà
nước. Đảng dựa vào các tổ chức Đảng và các đoàn thể quần chúng để kiểm tra hoạt
động của các cơ quan nhà nước trên tất cả các lĩnh vực. Tất cả những việc đó là
nhằm bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng, quyền làm chủ tập thể của nhân
dân lao động được thực hiện triệt để. Thông qua Nhà nước, đường lối, chính sách
của Đảng biến thành quyết định của bản thân quần chúng, thành hành động hàng
ngày của quần chúng, Đảng bắt buộc tất cả các tổ chức, các cán bộ, đảng viên
của Đảng tôn trọng quyền lực của cơ quan nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành pháp
luật và các quyết định, chỉ thị của cơ quan nhà nước, coi đó là kỷ luật của
Đảng.
2. Công tác cách
mạng phải được tiến hành bằng phong trào cách mạng.
Để tạo ra phong
trào cách mạng sâu rộng và liên tục của quần chúng, phải khéo kết hợp các
biện pháp chính trị và kinh tế, giáo dục và hành chính, tư tưởng và tổ chức,
phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng hoạt động của các tổ chức Đảng, các tổ chức kinh
tế và xã hội. Phát huy và không ngừng mở rộng đội ngũ tiên tiến trong phong
trào quần chúng, thu hẹp diện những người lạc hậu.
Cùng với việc thực
hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động chủ yếu bằng Nhà nước, phải
thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động bằng các đoàn thể quần
chúng.
Các đoàn thể có
nhiệm vụ chung là bảo đảm cho quần chúng tham gia và kiểm tra công việc của Nhà
nước, đồng thời là trường học về chủ nghĩa xã hội của quần chúng.
Ra sức xây dựng giai
cấp công nhân không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, xứng đáng với
vai trò giai cấp tiên phong lãnh đạo cách mạng. Hoàn thiện và thực hiện đầy đủ
các quy chế nhà nước, tạo những hình thức thích hợp để bảo đảm cho công nhân
tham gia tích cực và có hiệu quả vào việc quản lý xí nghiệp, quản lý kinh tế,
quản lý xã hội.
Công đoàn là tổ chức quần chúng rộng lớn nhất của giai cấp công nhân,
là trường học của chủ nghĩa cộng sản, trường học quản lý kinh tế, quản lý nhà
nước. Công đoàn có nhiệm vụ tham gia công việc của Nhà nước và kiểm tra hoạt
động của Nhà nước, tham gia quản lý xí nghiệp; công đoàn phải coi trọng việc
giáo dục công nhân về thái độ lao động xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ
chính trị, văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ, rèn luyện tư tưởng, tác phong đại công
nghiệp; đào tạo từ trong công nhân những cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý
giỏi; tổ chức phong trào thi đua lao động sản xuất. Công đoàn cùng với cơ quan
nhà nước chăm lo giải quyết các vấn đề thiết thực về đời sống, về phúc lợi tập
thể, về điều kiện lao động, học tập, nghỉ ngơi..., bảo đảm những quyền lợi
chính đáng của công nhân, viên chức, đặc biệt chú trọng làm tốt công tác bảo hộ
lao động, đề phòng và khắc phục tai nạn lao động; thi hành tốt luật công đoàn.
ở miền Nam, công đoàn có nhiệm vụ giáo dục những công nhân trước đây làm việc
trong chế độ cũ thành người công nhân xã hội chủ nghĩa, cần thu hút đông đảo
công nhân vào tổ chức công đoàn. Trong các xí nghiệp tư nhân và các xí nghiệp
công tư hợp doanh, công đoàn còn có nhiệm vụ bảo đảm vai trò và quyền lợi của
công nhân, hướng các xí nghiệp ấy sản xuất và kinh doanh theo đúng chính sách
và pháp luật của Nhà nước.
Công tác vận động
nông dân ở miền Bắc phải tập trung vào việc tổ chức lại sản xuất nông
nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ mới và con
người mới ở nông thôn. Hợp tác xã là tổ chức sản xuất và cũng là tổ chức quần
chúng rộng rãi của nông dân tập thể, có nhiệm vụ đoàn kết, giáo dục, nâng cao ý
thức và năng lực làm chủ tập thể của nông dân, không ngừng nâng cao trình độ
giác ngộ xã hội chủ nghĩa của giai cấp nông dân tập thể.
Ở nông thôn miền Nam
hiện nay, phải xây dựng và củng cố nông hội ở ấp, xã để thu hút đông đảo nông
dân lao động; giáo dục, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, vận động
nông dân khôi phục và phát triển sản xuất, xây dựng lại làng xóm, tăng cường
đoàn kết, giúp nhau trong sản xuất và đời sống, xoá bỏ các tàn dư phong kiến,
đấu tranh chống các thủ đoạn bóc lột, đầu cơ trong nông thôn, đưa nông thôn
tiến nhanh và tiến vững chắc vào con đường hợp tác hoá nông nghiệp và sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng một đội ngũ
trí thức đông đảo, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã
hội, đủ sức làm chủ và vận dụng sáng tạo những thành tựu văn hoá, khoa học, kỹ
thuật hiện đại để giải quyết những vấn đề cụ thể của đất nước. Bố trí, sử dụng
trí thức một cách hợp lý, tạo cho trí thức những điều kiện vật chất và tinh
thần thuận lợi, trước hết là phương tiện làm việc, phương tiện nghiên cứu. Sử
dụng tốt những cán bộ khoa học, kỹ thuật đã làm việc dưới chế độ cũ ở miền Nam,
giúp anh chị em đó mau chóng trở thành những người trí thức xã hội chủ nghĩa.
Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh phải được xây dựng và củng cố
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xứng đáng là trường học cộng sản
chủ nghĩa của lớp người trẻ tuổi, là cánh tay đắc lực và đội hậu bị tin cậy của
Đảng. Đoàn phải giáo dục, rèn luyện thanh niên một cách toàn diện trong thực tế
đấu tranh cách mạng; phát huy những truyền thống tốt đẹp của thanh niên; bồi
dưỡng thanh niên cả nước thành những con người mới xã hội chủ nghĩa, có lý
tưởng cao đẹp, có khí phách anh hùng, "sống, chiến đấu, lao động và học
tập theo gương Bác Hồ vĩ đại"; làm tròn vai trò xung kích trong ba cuộc
cách mạng, trong phong trào thi đua lao động sản xuất và bảo vệ Tổ quốc; thành
lớp người kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng
và của dân tộc.
Tích cực đào tạo,
bồi dưỡng thanh niên về văn hoá, khoa học và kỹ thuật, về quản lý, về nghề
nghiệp. Quan tâm đến quyền lợi của tuổi trẻ, điều kiện lao động, học tập, hoạt
động văn hoá, thể dục thể thao, v.v. của thanh niên; hướng dẫn thanh niên giải
quyết đúng các vấn đề về lối sống, về tình bạn, tình yêu, hôn nhân và gia đình.
Hình thức và phương
pháp giáo dục thanh niên phải sinh động, thích hợp với đặc điểm của tuổi trẻ.
Cần có những hình thức tổ chức rộng rãi để thu hút đông đảo thanh niên ngoài
Đoàn vào các hoạt động xã hội.
Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh có trách nhiệm phụ trách Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh
và Đội Nhi đồng Hồ Chí Minh, chăm lo giáo dục thiếu niên, nhi đồng theo 5 điều
Bác Hồ dạy. Các cơ quan nhà nước cần dành những phương tiện tốt cho nhu cầu
hoạt động, luyện tập của thiếu niên, nhi đồng.
Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam có nhiệm vụ giáo dục các tầng lớp phụ
nữ về vai trò và trách nhiệm của người phụ nữ đối với Tổ quốc, xã hội và gia
đình, và nâng cao ý thức làm chủ tập thể, tinh thần phấn đấu vươn lên trong mọi
lĩnh vực hoạt động, thực hiện nam nữ bình đẳng, làm tròn nghĩa vụ người công
dân và chức trách người mẹ cao quý, dưới khẩu hiệu: "giỏi việc nước, đảm
việc nhà". Hội Liên hiệp Phụ nữ cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nhà
nước và các đoàn thể nhân dân khác để động viên phong trào phụ nữ, phát động
mạnh mẽ phong trào phụ nữ thi đua lao động, sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ
nghĩa xã hội, và giải quyết tốt các quyền lợi thiết thực của phụ nữ, phát huy
lực lượng và khả năng của phụ nữ trong mọi hoạt động xã hội, trong quản lý kinh
tế, văn hoá, quản lý nhà nước.
Chúng ta cần đấu
tranh nhằm xoá bỏ những quan điểm lạc hậu về vai trò và khả năng của phụ nữ,
nhất là xoá bỏ những tàn dư tư tưởng phong kiến trọng nam khinh nữ; nâng cao
trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật, nghề nghiệp của phụ nữ, tích cực đào tạo
và bồi dưỡng cán bộ nữ; cải thiện điều kiện lao động, chăm lo sức khoẻ và đời
sống của phụ nữ. Phải có những biện pháp và những hình thức vận động thích hợp
với phụ nữ ở các lứa tuổi, các ngành nghề, các khu vực cư trú và hoạt động khác
nhau.
Chính sách của Đảng
về vấn đề tôn giáo là tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do không tín
ngưỡng của nhân dân, đoàn kết tất cả những người yêu nước và tiến bộ trong các
tôn giáo, đoàn kết đồng bào có đạo và không có đạo, để cùng nhau xây dựng và
bảo vệ đất nước, xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phục, chống những hoạt động
làm hại đến lợi ích của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội.
Giải quyết đúng đắn
vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của
cách mạng Việt Nam.
Phải tăng cường khối
đoàn kết không gì lay chuyển nổi giữa các dân tộc trong cả nước, phát huy tinh
thần cách mạng và năng lực sáng tạo của các dân tộc ít người trong sự nghiệp
xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chính sách dân tộc của Đảng là thực
hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những điều kiện
cần thiết để xoá bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hoá giữa dân
tộc ít người và dân tộc đông người; đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao
tiến kịp vùng thấp; làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, văn minh
và hạnh phúc, đoàn kết, giúp nhau tiến bộ, cùng làm chủ tập thể Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng, vấn đề mấu chốt là đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế
và văn hoá ở các vùng dân tộc, nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc. Tích
cực đào tạo và bồi dưỡng cán bộ dân tộc ít người.
Phải làm tốt công
tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho đồng bào các dân tộc, đông người cũng như
ít người, hiểu rõ rằng cuộc sống ấm no, văn minh, hạnh phúc của tất cả các dân
tộc gắn liền với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, tất cả các dân tộc đều có
khả năng và có nghĩa vụ đem hết sức mình đóng góp vào sự nghiệp vẻ vang ấy.
Khắc phục những tư tưởng có hại cho việc đoàn kết dân tộc, trái với chính sách
dân tộc của Đảng. Giữ gìn và phát huy những phong tục, tập quán, những truyền
thống văn hoá tốt đẹp, tiến bộ của các dân tộc ít người; lãnh đạo, hướng dẫn
đồng bào các dân tộc xây dựng nếp sống mới.
Ngày nay, Mặt trận Dân tộc thống
nhất trong cả nước bao gồm nhiều chính đảng, đoàn thể, giai cấp, tầng lớp khác
nhau, lấy liên minh công nông làm cơ sở, do Đảng ta lãnh đạo, mang tính chất
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; mục tiêu chung của mọi thành viên trong Mặt
trận là xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ
nghĩa. Mặt trận có nhiệm vụ củng cố khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết các dân
tộc anh em, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội, phát
huy nhiệt tình cách mạng và tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, động viên toàn dân thi đua xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
VI
1. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng
Mười thắng lợi là bước nhảy vọt vĩ đại đầu tiên mở ra thời đại mới, thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Chiến thắng oanh liệt của Liên Xô cùng
các lực lượng cách mạng và tiến bộ khác trong Chiến tranh thế giới thứ hai mở
ra một thời kỳ phát triển mới của cách mạng thế giới. Sau khi chủ nghĩa phát
xít Hítle bị đánh bại, một loạt nước dân chủ nhân dân ra đời. Thắng lợi to lớn
của cách mạng Trung Quốc làm cho cán cân lực lượng nghiêng hẳn về phía cách
mạng. Chủ nghĩa xã hội vượt ra khỏi phạm vi một nước, trở thành hệ thống thế
giới. Với những thành tựu to lớn về mọi mặt, hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày nay
đã có một sức mạnh tổng hợp hơn hẳn lực lượng của chủ nghĩa đế quốc. Cuộc sống
chứng tỏ rằng hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ngày càng phát huy tác dụng
là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người. Đó là thành trì
kiên cố của cách mạng vô sản thế giới, là chỗ dựa vững chắc của phong trào đấu
tranh cách mạng của nhân dân các nước.
Bão táp cách mạng của phong trào giải
phóng dân tộc làm rung chuyển châu á, châu Phi và Mỹ latinh, lôi cuốn hơn hai
nghìn triệu người ở hầu khắp các nước vốn là thuộc địa và phụ thuộc, đó là sự
kiện lớn thứ hai của thời đại chúng ta sau sự hình thành hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới. Phong trào độc lập dân tộc có xu thế ngày càng gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, đóng vai trò rất quan trọng trong việc đưa thế giới quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa ngày càng phát triển với quy mô rộng lớn và
tính tổ chức cao, làm nổi bật năng lực cách mạng vô cùng to lớn của giai cấp
công nhân đang cùng với các lực lượng dân chủ khác giáng những đòn tiến công
mãnh liệt vào chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước. Nhất định giai cấp công nhân
sẽ đánh bại mọi thế lực phản động và sớm muộn sẽ vĩnh viễn loại trừ chủ nghĩa
tư bản ra khỏi đời sống xã hội.
Ba dòng thác trên đây hợp thành cao
trào cách mạng vĩ đại và đang ở thế tiến công, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào chủ
nghĩa đế quốc.
Để đối phó lại, chủ nghĩa đế quốc do
Mỹ cầm đầu ra sức chuẩn bị chiến tranh thế giới mới, thi hành chủ nghĩa thực
dân mới, tìm mọi cách phản kích phong trào cách mạng. Chúng hòng giành lại
những vị trí đã mất, đè bẹp phong trào giải phóng dân tộc và ngăn chặn sự phát
triển của chủ nghĩa xã hội, kìm giữ các nước mới trỗi dậy trong quỹ đạo của chủ
nghĩa tư bản, giành giật lại thị trường, nguồn nguyên liệu, nhiên liệu và khu
vực đầu tư. Đó là chính sách cơ bản của đế quốc Mỹ nhằm thực hiện âm mưu làm bá
chủ thế giới.
Đế quốc Mỹ mưu toan đẩy lùi cách mạng
Việt Nam hòng đảo ngược cục diện chung của thế giới. Nhưng sau hai mươi năm
dính líu vào Việt Nam và sau gần mười năm đế quốc Mỹ và chư hầu đã đưa hàng
chục vạn quân trực tiếp xâm lược nước ta, chúng đã bị đánh bại và phải rút quân
về nước. Thất bại hoàn toàn của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam đánh dấu
một bước ngoặt đi xuống của đế quốc Mỹ. Suy yếu nhiều về quân sự, chính trị và
kinh tế, chúng đã kéo cả thế giới tư bản chủ nghĩa lún sâu vào tổng khủng hoảng
toàn diện, không phương cứu chữa.
Ba mươi năm sau Chiến tranh thế giới
thứ hai, nhất là sau thắng lợi của cách mạng ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia,
trên thế giới đã xuất hiện một biến đổi mới trong sự so sánh lực lượng có lợi
cho cách mạng, một bước phát triển mới trong cuộc đấu tranh của nhân dân thế
giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Sức mạnh của thời đại chúng ta là sức
mạnh tổng hợp của ba dòng thác cách mạng, những lực lượng đang quyết định nội
dung chủ yếu, phương hướng chủ yếu và những đặc điểm chủ yếu của lịch sử phát
triển của xã hội loài người, đang thúc đẩy sự quá độ của thế giới từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Dựa vào lực lượng
của ba dòng thác cách mạng đó, tiếp tục vận dụng đúng đắn chiến lược tiến công,
giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước nhất định sẽ đưa cao trào cách
mạng lên một bước mới, giành những thắng lợi to lớn hơn nữa trong cuộc đấu
tranh cho những mục tiêu cao cả của thời đại.
Cuộc đấu tranh đó đòi hỏi phải xây
dựng và phát triển một mặt trận thống nhất của nhân dân thế giới chống chủ
nghĩa đế quốc, mặt trận hết sức rộng lớn, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào tên đế
quốc đầu sỏ là Mỹ. Trong cuộc đấu tranh nhằm giải quyết vấn đề "ai thắng
ai" giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới,
việc khôi phục và củng cố sự đoàn kết trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và
chủ nghĩa quốc tế vô sản, là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Thắng lợi trọn vẹn của nhân dân ta
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước gắn liền với sự ủng hộ chí tình và sự
giúp đỡ to lớn của anh em, bầu bạn khắp năm châu. Thắng lợi của nhân dân ta góp
phần xứng đáng vào thắng lợi chung của các dân tộc, vào sự lớn mạnh không ngừng
của các lực lượng cách mạng trên thế giới. Nó cũng tạo ra những thuận lợi mới
cho Đảng ta, Nhà nước ta và nhân dân ta tiếp tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế của
mình.
Trong giai đoạn mới, Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta cần ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh
chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, củng cố quốc phòng; tiếp tục kề vai sát cánh với các nước
xã hội chủ nghĩa anh em và tất cả các dân tộc trên thế giới đấu tranh vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội chống chủ nghĩa đế quốc đứng
đầu là đế quốc Mỹ.
Chính sách đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta là:
a) Ra sức tăng cường tình đoàn kết
chiến đấu và quan hệ hợp tác giữa nước ta với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa
anh em, làm hết sức mình để góp phần cùng các nước xã hội chủ nghĩa anh em và
phong trào cộng sản quốc tế khôi phục và củng cố đoàn kết, tăng cường ủng hộ và
giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản,
có lý, có tình, làm cho lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa Mác - Lênin ngày càng
thắng lợi rực rỡ.
b) Ra sức bảo vệ và phát triển mối
quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia,
tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, lòng tin cậy, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ
lẫn nhau về mọi mặt giữa nước ta với hai nước anh em trên nguyên tắc hoàn toàn
bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn
trọng lợi ích chính đáng của nhau; làm cho ba nước vốn đã gắn bó với nhau trong
công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ mãi mãi gắn bó với nhau trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, vì độc lập và phồn vinh của mỗi nước.
c) Hoàn toàn ủng hộ sự nghiệp đấu
tranh chính nghĩa của nhân dân các nước Đông Nam châu á vì độc lập dân tộc, dân
chủ, hoà bình và trung lập thật sự, không có căn cứ quân sự và quân đội của đế
quốc trên đất nước mình; sẵn sàng thiết lập và phát triển quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các nước trong khu vực này trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược nhau, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, cùng tồn tại trong hoà bình.
d) Hoàn toàn ủng hộ cuộc đấu tranh của
nhân dân các nước châu á, châu Phi, Mỹ latinh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ
nghĩa thực dân cũ và mới, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, vì độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội; thắt chặt tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác,
giúp nhau về mọi mặt giữa nước ta với các nước đang phát triển; góp phần tích
cực vào cuộc đấu tranh của phong trào các nước không liên kết chống chính sách
xâm lược và lũng đoạn của chủ nghĩa đế quốc, nhằm bảo vệ độc lập, tự do, giành
lại quyền làm chủ vĩnh viễn tài nguyên thiên nhiên của nước mình và thiết lập
một trật tự kinh tế quốc tế mới trên cơ sở tôn trọng chủ quyền dân tộc.
đ) Hoàn toàn ủng hộ sự nghiệp chính
nghĩa của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước tư bản chủ nghĩa
đang ra sức xây dựng mặt trận thống nhất rộng rãi, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào
bọn tư bản lũng đoạn trong nước và nước ngoài, giành quyền dân sinh, dân chủ,
tiến bộ xã hội, bảo vệ độc lập dân tộc và bảo vệ hoà bình thế giới, giành thắng
lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn cho chủ nghĩa xã hội.
e) Thiết lập và mở rộng quan hệ bình
thường giữa nước ta với tất cả các nước khác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
g) Kiên quyết cùng các nước anh em và
nhân dân tiến bộ trên thế giới tiếp tục chung sức đấu tranh chống chính sách
xâm lược và gây chiến của bọn đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ, góp phần tích cực
vào sự nghiệp gìn giữ và củng cố hoà bình trên thế giới.
Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin,
Đảng ta không ngừng giáo dục đảng viên và nhân dân ta thấm nhuần những tình cảm
cách mạng trong sáng của Hồ Chủ tịch, tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với
chủ nghĩa quốc tế vô sản, chống mọi khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa và mọi biểu
hiện của chủ nghĩa dân tộc tư sản và tiểu tư sản, giữ vững độc lập, tự chủ, ra
sức làm tròn nhiệm vụ đối với dân tộc và làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với nhân
dân các nước.
VII
1. Đảng ta lãnh đạo nhân dân làm nên
sự nghiệp cách mạng vĩ đại, trước hết là nhờ nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin,
tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta luôn luôn thấu suốt
thực chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin trong đường
lối và phương pháp cách mạng, trong toàn bộ cuộc đấu tranh của Đảng ở tất cả
các thời kỳ.
Nhiệm vụ lịch sử xây dựng nước ta
thành một nước xã hội chủ nghĩa giàu mạnh và cuộc đấu tranh để thực hiện thắng
lợi các nghị quyết của Đại hội, đặt Đảng ta trước những trách nhiệm mới hết sức
nặng nề, đòi hỏi Đảng ta phải vững mạnh hơn nữa. Đảng ta, toàn thể cán bộ, đảng
viên chẳng những phải có đạo đức, phẩm chất và trình độ nhận thức ngày càng cao
hơn, đặc biệt là về lý luận và phương pháp luận, về các quy luật kinh tế và quy
luật đấu tranh giai cấp trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, mà còn phải
có năng lực mới trong lĩnh vực tổ chức cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, lĩnh
vực mà hiện nay Đảng ta còn nhiều nhược điểm.
Nhiệm vụ chung của công tác xây dựng
Đảng trong giai đoạn hiện nay là phải nắm vững hơn nữa học thuyết Mác - Lênin
về xây dựng Đảng và thực tiễn xây dựng Đảng ta, quán triệt sâu sắc đường lối,
nhiệm vụ chính trị do Đại hội vạch ra, vận dụng và phát triển những bài học
kinh nghiệm đã được tổng kết; làm cho công tác xây dựng Đảng vừa bám chắc hơn
nữa những nhiệm vụ chính trị trước mắt của Đảng, vừa sẵn sàng đáp ứng những yêu
cầu của nhiệm vụ lâu dài. Nâng cao tính giai cấp công nhân và chất lượng lãnh
đạo toàn diện của Đảng, kết hợp tính cách mạng và tính khoa học, bảo đảm cho
đường lối của Đảng luôn luôn đúng đắn, sáng tạo và được tổ chức thực hiện thắng
lợi; bảo đảm cho Đảng luôn luôn đoàn kết nhất trí, gắn bó chặt chẽ với quần
chúng để trong bất cứ tình huống nào Đảng cũng có thể làm tròn nhiệm vụ lịch sử
của mình.
Phải tiến hành công tác xây dựng Đảng
theo những phương châm sau đây:
Thứ nhất, phải xây dựng Đảng vững mạnh về cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Trong xây dựng Đảng, công tác tư tưởng và công tác tổ chức phải kết hợp
chặt chẽ với nhau, và phải xuất phát từ đường lối và nhiệm vụ chính trị, đồng
thời bảo đảm cho đường lối và nhiệm vụ chính trị được xác định đúng đắn, được
thấu suốt và thực hiện đầy đủ.
Thứ hai, phải xây dựng Đảng trong phong trào cách mạng của quần chúng. Tổ chức
cho quần chúng tham gia xây dựng Đảng, góp phần kiểm tra sự hoạt động của Đảng,
kiểm tra công tác và phẩm chất của cán bộ, đảng viên.
Thứ ba, việc xây dựng Đảng phải gắn liền với việc kiện toàn tổ chức và nâng
cao năng lực quản lý của Nhà nước, gắn liền với việc xây dựng và củng cố các tổ
chức quần chúng.
Thứ tư, việc nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên phải kết hợp với việc nâng
cao chất lượng của chi bộ và đảng bộ cơ sở, với việc tăng cường cơ quan lãnh
đạo từng cấp, từng ngành.
Thứ năm, trong công tác phát triển Đảng, phải coi trọng chất lượng, chống
khuynh hướng chạy theo số lượng; phát triển Đảng luôn luôn đi đôi với củng cố
Đảng. Một mặt, kết nạp những người ưu tú, đủ tiêu chuẩn; mặt khác, kịp thời đưa
ra khỏi Đảng những phần tử thoái hoá, biến chất. Phải cảnh giác đề phòng những
phần tử cơ hội và những phần tử gián điệp, phản động chui vào Đảng.
2. Tăng cường các tổ chức cơ sở của
Đảng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Chi bộ,
đảng bộ cơ sở là những đơn vị chiến đấu cơ bản, là những tế bào của Đảng.
Trên cơ sở những nguyên tắc chung
thống nhất của Đảng, các tổ chức cơ sở Đảng ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau
phải có những hình thức tổ chức, nội dung và phương pháp lãnh đạo khác nhau,
phù hợp với tính chất và phạm vi công tác của từng đơn vị.
Để cải tiến phương thức hoạt động của
đảng bộ cơ sở, cần giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và quần
chúng ở cơ sở; phát huy quyền lực của các cơ quan chính quyền, tôn trọng chế độ
quản lý của Nhà nước, tôn trọng và phát huy tác dụng của các đoàn thể trong
việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cụ thể. Cải tiến sinh hoạt của các chi bộ
và đảng bộ cơ sở, làm cho các cuộc hội nghị của chi bộ và đảng bộ cơ sở có nội
dung chính trị cụ thể và phong phú.
Kiện toàn đảng uỷ các cấp. Các
cấp uỷ Đảng ở tỉnh, thành phải mạnh, có khả năng vận dụng đúng đắn và sáng tạo
đường lối, chính sách của Đảng và có năng lực góp phần với Trung ương xây dựng
đường lối, chính sách. Các huyện uỷ phải đủ sức lãnh đạo xây dựng và phát triển
kinh tế, văn hoá, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nâng cao
đời sống nhân dân trong huyện.
Thực hiện triệt để nguyên tắc tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong cấp uỷ. Tạo điều kiện để mỗi cấp uỷ
viên có thể tham gia đầy đủ vào việc bàn bạc, quyết định các chủ trương; định
rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của từng người. Chống tệ cá nhân
độc đoán, chuyên quyền; đồng thời, tránh ỷ lại vào tập thể, sợ trách nhiệm,
không dám quyết đoán. Các cấp uỷ cần cải tiến phương pháp công tác, khắc phục
lối làm việc thủ công nghiệp; xây dựng và ngày càng hoàn thiện hệ thống thông
tin nội bộ, làm tốt công tác điều tra, nghiên cứu, làm thử, xây dựng điển hình,
tổng kết kinh nghiệm, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính
sách.
Đảng viên phải là người có giác ngộ lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa, tuyệt đối trung thành với cách mạng, tự nguyện suốt
đời hy sinh, phấn đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản.
Đảng viên phải có hiểu biết nhất định
về chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm được đường lối, chính sách của Đảng, có năng lực
đảm nhiệm công việc được giao, có năng lực lãnh đạo quần chúng và góp phần vào
công tác lãnh đạo của tổ chức Đảng. Vì vậy, đảng viên phải không ngừng học tập
và tích cực rèn luyện về mọi mặt.
Đảng viên phải tôn trọng và ra sức góp
phần xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động, liên hệ chặt chẽ
với quần chúng, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, tổ chức quần chúng.
Đảng viên phải chăm lo xây dựng Đảng,
có ý thức tổ chức và kỷ luật, có tinh thần tự phê bình và phê bình, bảo vệ
Đảng, bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất của Đảng.
Đảng viên phải nêu cao tinh thần quốc
tế vô sản, góp phần làm tròn nghĩa vụ quốc tế của Đảng.
Cần chỉ đạo chặt chẽ công tác phát
triển Đảng. Qua phong trào cách mạng của quần chúng, phát hiện những người
ưu tú; giáo dục, bồi dưỡng để kết nạp vào Đảng những người đủ tiêu chuẩn. Trước
hết phải nhằm vào những người ưu tú trong giai cấp công nhân, nhất là công nhân
công nghiệp. Đồng thời, lựa chọn những người ưu tú trong nông dân lao động,
trong các lực lượng vũ trang nhân dân, và những người trí thức ưu tú đã được
rèn luyện, thử thách trong thực tiễn cách mạng. Tránh hẹp hòi, nhưng tỉnh táo
đề phòng những phần tử cơ hội và những phần tử phản cách mạng chui vào Đảng.
Việc kết nạp đảng viên nhất thiết phải theo đúng thủ tục được quy định trong
Điều lệ.
Kiên quyết và kịp thời loại ra khỏi
Đảng những phần tử thoái hoá, biến chất và những người không đủ tư cách đảng
viên.
Xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo
cán bộ. Cải tiến công tác lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và cất nhắc cán
bộ, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần
chúng, mạnh cả về chất lượng và số lượng, đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ của
Đảng và Nhà nước giao cho.
Chất lượng của người cán bộ là sự
thống nhất giữa phẩm chất chính trị và năng lực công tác, thể hiện ở kết quả
hoàn thành nhiệm vụ.
Tổ chức việc giáo dục lý luận và chính
trị, nâng cao nhanh chóng trình độ và năng lực công tác của các loại cán bộ,
trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý và những cán bộ đã hoạt động cách
mạng nhiều năm mà chưa có điều kiện học tập.
Gấp rút đào tạo, bổ sung cán bộ mới,
trẻ, xuất thân từ công nhân, nông dân lao động và trí thức xã hội chủ nghĩa.
Tăng thành phần công nhân trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý. Coi
trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ dân tộc ít người, cán bộ nữ.
Những cán bộ mà phẩm chất chính trị
hoặc năng lực công tác không tương xứng với trách nhiệm cần được sắp xếp lại
cho hợp lý.
Kiện toàn bộ máy giúp việc cấp uỷ và
cơ quan chính quyền về công tác cán bộ; nâng cao tính khoa học, tính kế hoạch
trong công tác cán bộ. Cần có những hình thức thích hợp để thu thập ý kiến của
cán bộ, đảng viên và quần chúng về công tác cán bộ; khắc phục tư tưởng bảo thủ,
hẹp hòi, cục bộ, bè phái, tránh thành kiến hoặc cảm tình riêng.
Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn
kết, thống nhất trong Đảng; thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
"giữ gìn sự thống nhất của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình".
Về mặt tư tưởng, sự đoàn kết, thống
nhất trong Đảng dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện trong đường lối
của Đảng, trên cơ sở sự giác ngộ của toàn thể đảng viên về lý tưởng của Đảng.
Sự thống nhất về tư tưởng phải được bảo đảm bằng sự thống nhất về tổ chức. Nhờ
đó mới có được sự thống nhất trong hành động. Phải nghiêm chỉnh thực hiện chế
độ tập trung dân chủ, bảo đảm vững chắc về mặt tổ chức sự thống nhất của Đảng.
Thảo luận, tranh luận một cách dân chủ
là những tiền đề và phương pháp không thể thiếu được để thực hiện đoàn kết và
thống nhất trong Đảng. Đảng viên có quyền bàn bạc và tham gia quyết định công
việc của Đảng, có quyền trình bày trong tổ chức Đảng ý kiến của mình về các vấn
đề thuộc lợi ích cách mạng.
Song, dân chủ phải dưới sự chỉ đạo tập
trung; dân chủ đầy đủ nhất phải kết hợp với tập trung cao nhất. Vi phạm nguyên
tắc tập trung dân chủ là phá hoại kỷ luật của Đảng, phá hoại sự thống nhất của
Đảng.
Phải giữ vững kỷ luật nghiêm minh của
Đảng.
Luôn luôn tăng cường sự liên hệ giữa
Đảng và quần chúng. Cán bộ và đảng viên phải lắng nghe ý kiến và nguyện vọng
của quần chúng, kiên quyết chống bệnh quan liêu.
Mọi đảng bộ, mọi cấp uỷ, mọi đảng viên
đều phải thường xuyên tự phê bình và phê bình. Đó là một quy luật phát
triển và tiến bộ của Đảng, là một phương pháp cơ bản để tăng cường đoàn kết,
thống nhất trong Đảng.
Để giữ gìn và phát huy truyền thống
đoàn kết, thống nhất của Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải chân thành và cởi mở,
thương yêu và tôn trọng lẫn nhau, hết lòng giúp nhau hoàn thành nhiệm vụ.
Cải tiến và tăng
cường công tác tư tưởng trong Đảng.
Phải làm cho cán bộ, đảng viên thấu
suốt các nghị quyết của Đại hội Đảng, nâng cao một cách cơ bản trình độ chính
trị và phát huy tính tự giác trong hoạt động của cán bộ, đảng viên. Cải tiến
các hình thức và phương pháp giáo dục trong Đảng: nâng cao chất lượng sinh hoạt
chính trị; tổ chức tốt hệ thống thông báo thời sự, chính sách; định kỳ mở những
lớp bồi dưỡng ngắn ngày về đường lối và chính sách của Đảng; cải tiến công tác
giáo dục lý luận và chính trị,...
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận
nhằm làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa,
đồng thời tổng kết những kinh nghiệm phong phú của cách mạng Việt Nam.
Phương hướng công tác tư tưởng trong
Đảng là: giáo dục sâu sắc tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, làm
thấu suốt tính cách mạng và tính khoa học, tinh thần độc lập, tự chủ và sáng
tạo của Đảng ta. Kiên quyết khắc phục tư tưởng tiểu tư sản, chống mọi ảnh hưởng
của tư tưởng tư sản và những tàn dư tư tưởng phong kiến trong cán bộ, đảng
viên.
Giai đoạn mới của cách mạng đòi hỏi
toàn thể cán bộ, đảng viên phải luôn luôn ghi nhớ và quyết tâm làm đúng lời dạy
của Hồ Chủ tịch: "Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".
*
* *
* *
Đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới
của lịch sử dân tộc. Đó là kỷ nguyên một nước Việt Nam độc lập, thống nhất hoàn
toàn và vĩnh viễn, một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang tiến tới giàu mạnh,
văn minh, góp phần quan trọng vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội ở Đông Nam châu á và trên thế giới.
Nhân dân ta bắt đầu một cuộc tiến quân
vĩ đại trong thời kỳ hoà bình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng ta quyết
"xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" như Hồ Chủ tịch
hằng mong ước. Chúng ta sẽ biến đất nước ta thành một nước có nền kinh tế công
- nông nghiệp hiện đại, có quốc phòng vững mạnh, có văn hoá, khoa học kỹ thuật
tiên tiến, có cuộc sống văn minh và hạnh phúc, có vị trí xứng đáng trên thế
giới.
Chúng ta biết rõ con đường đi tới không
chỉ có thuận lợi mà còn nhiều khó khăn, trong đó có cả những thiếu sót và sự
non kém của chúng ta nữa. Nhưng nhìn về tương lai với lòng tin mãnh liệt và
nghị lực tràn đầy, nhất định chúng ta vượt qua được mọi khó khăn và giành được
thắng lợi ngày càng to lớn hơn.
Những nghị quyết của Đại hội toàn quốc
lần thứ IV này mở ra chân trời rộng lớn cho sự phát triển toàn diện của đất
nước ta, cho sự nảy nở của trí tuệ và tài năng của mọi người Việt Nam ta.
Thực hiện những nghị quyết của Đại hội
là nghĩa vụ, danh dự và lợi ích của những người cộng sản Việt Nam và của tất cả
nhân dân Việt Nam.
Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng, mỗi
cấp đảng bộ, mỗi đơn vị tổ chức của Đảng phải nhận rõ trách nhiệm và vinh dự
của mình trong giai đoạn mới, ra sức thực hiện Nghị quyết của Đại hội, tăng
cường liên hệ với quần chúng và xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh.
Toàn thể nhân dân ta: công nhân, nông
dân, quân đội, thanh niên, phụ nữ, trí thức, tất cả các tầng lớp và các dân tộc
anh em trong đại gia đình Việt Nam hãy chuyển chủ nghĩa anh hùng cách mạng
trong chiến đấu cứu nước thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong lao động sáng
tạo xây dựng Tổ quốc! Cách mạng xã hội chủ nghĩa là ngày hội của chúng ta. Hãy
biến cả nước ta và mỗi địa phương, mỗi đơn vị thành những công trường xây dựng
vĩ đại, tràn ngập khí thế cách mạng tiến công, tràn ngập chủ nghĩa anh hùng
cách mạng!
Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã
hội, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hãy hăng hái tiến lên!
- Đảng Cộng sản Việt Nam, người
tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam muôn năm!
- Nhân dân
Việt Nam anh hùng muôn năm!
- Nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quang vinh muôn năm!
- Chủ nghĩa
Mác - Lênin vô địch muôn năm!
- Vô sản tất
cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!
- Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!
|
1- Lê Duẩn
2- Tôn Đức Thắng
3- Lê Thanh Nghị
4- Nguyễn Lương Bằng
5- Phạm Văn Đồng
6- Nguyễn Duy Trinh
7- Xuân Thuỷ
8- Hoàng Văn Thái
9- Võ Nguyên Giáp
10- Trần Quốc Hoàn
11- Lê Quang Đạo
12- Lê Văn Lương
13- Chu Huy Mân
14- Nguyễn Đức Thuận
15- Nguyễn Đức Tâm
16- Đỗ Mười
17- Trần Lương
18- Lê Đức Thọ
19- Văn Tiến Dũng
20- Nguyễn Lam
21- Đồng Sĩ Nguyên
22- Đàm Quang Trung
23- Lê Văn Nhung (Việt Thắng)
24- Tố Hữu
25- Nguyễn Quyết
26- Võ Toàn (Võ Chí Công)
27- Trần Sâm
28- Phan Ngọc Sến (Mười Kỷ)
29- Lê Văn Hiền (Tám Hiền)
30- Nguyễn Thị Thập
31- Vũ Ngọc Linh
32- Lê Văn Phẩm (Chín Hải)
33- Trần Hữu Dực
34- Nguyễn Hữu Mai
35- Đoàn Khuê
36- Nguyễn Thanh Bình
37- Bùi Quang Tạo
38- Ngô Duy Đông
39- Song Hào
40- Nguyễn Cơ Thạch
41- Vũ Lập
42- Hoàng Quốc Việt
43- Võ Văn Kiệt (Sáu Dân)
44- Dương Quốc Chính
2- Tôn Đức Thắng
3- Lê Thanh Nghị
4- Nguyễn Lương Bằng
5- Phạm Văn Đồng
6- Nguyễn Duy Trinh
7- Xuân Thuỷ
8- Hoàng Văn Thái
9- Võ Nguyên Giáp
10- Trần Quốc Hoàn
11- Lê Quang Đạo
12- Lê Văn Lương
13- Chu Huy Mân
14- Nguyễn Đức Thuận
15- Nguyễn Đức Tâm
16- Đỗ Mười
17- Trần Lương
18- Lê Đức Thọ
19- Văn Tiến Dũng
20- Nguyễn Lam
21- Đồng Sĩ Nguyên
22- Đàm Quang Trung
23- Lê Văn Nhung (Việt Thắng)
24- Tố Hữu
25- Nguyễn Quyết
26- Võ Toàn (Võ Chí Công)
27- Trần Sâm
28- Phan Ngọc Sến (Mười Kỷ)
29- Lê Văn Hiền (Tám Hiền)
30- Nguyễn Thị Thập
31- Vũ Ngọc Linh
32- Lê Văn Phẩm (Chín Hải)
33- Trần Hữu Dực
34- Nguyễn Hữu Mai
35- Đoàn Khuê
36- Nguyễn Thanh Bình
37- Bùi Quang Tạo
38- Ngô Duy Đông
39- Song Hào
40- Nguyễn Cơ Thạch
41- Vũ Lập
42- Hoàng Quốc Việt
43- Võ Văn Kiệt (Sáu Dân)
44- Dương Quốc Chính
45- Lê Trọng Tấn
46- Trường Minh
47- Trần Lê (Năm Hoà)
48- Trường Chinh
49- Hoàng Cầm
50- Nguyễn Thành Lê
51- Nguyễn Xuân Hữu (Bẩy Hữu)
52- Hoàng Văn Kiểu
53- Bùi Phùng
54- Đinh Đức Thiện
55- Trần Quang Huy
56- Lê Đức Anh
57- Nguyễn Hữu Khiếu
58- Nguyễn Vịnh
59- Trần Đông
60- Phan Trọng Tuệ
61- Trần Văn Long (Mười Dài)
62- Võ Thúc Đồng
63- Trần Văn Trà
64- Nguyễn Như ý (Năm Chữ)
65- Nguyễn Văn Chí (Sáu Chí)
66- Đỗ Văn Nuống (Tư Nguyện)
67- Nguyễn Tuấn Tài (Trần Kiên)
68- Vũ Đình Liệu (Tư Bình)
69- Hoàng Minh Thi
70- Phạm Hùng
71- Hoàng Anh
72- Lê Quốc Thân
73- Trần Quỳnh
74- Hà Kế Tấn
75- Đặng Quốc Bảo
76- La Lâm Gia (Bảy Máy)
77- Nguyễn Ngọc Trìu
78- Hà Thị Quế
79- Nguyễn Côn
80- Nguyễn Thị Định (Ba Định)
81- Lê Quang Hoà
82- Trần Văn Sớm
83- Trần Quyết
84- Mai Chí Thọ (Năm Xuân)
85- Đặng Thí
86- Bùi San
87- Phan Văn Đáng (Hai Văn)
88- Trần Văn Hiển
89- Võ Văn Thạnh
90- Phạm Văn Kiết (Năm Vận)
91- Trần Ngọc Ban (Mười Hương)
92- Tạ Hồng Thanh
93- Nguyễn Thị Bạch Tuyết (Sáu Tuyết)
94- Trần Độ
95- Nguyễn Quang Lâm (Tám Tú)
96- Nguyễn Thành Thơ (Mười Thơ)
97- Nguyễn Văn Cúc (Nguyễn Văn Linh)
98- Đặng Hữu Khiêm
99- Vũ Tuân
100- Hoàng Tùng
101- Nguyễn Thị Như
102- Vũ Oanh
103- Nguyễn Văn Chính (Chín Cần)
104- Đào Duy Tùng
105- Lương Văn Nghĩa
106- Trần Hanh
107- Vũ Thị Hồng
108- Cao Đăng Chiếm (Sáu Hoàng)
109- Nguyễn Chấn
110- Nguyễn Tường Lân
111- Trần Hữu Dư
112- Trần Phương
113- Lê Khắc
114- Nguyễn Đình Tứ
115- Trần Lâm
116- Hoàng Minh Thảo
117- Lê Ngọc Hiền
118- Lê Văn Tri
119- Hoàng Thế Thiện
120- Đặng Vũ Hiệp
121- Đỗ Chính
122- Trần Vỹ
123- Nguyễn Ngọc Cừ
124- Nguyễn Hữu Thụ
125- Hoàng Văn Hiều
126- Trương Văn Kiện
127- Bùi Thanh Khiết
128- Nguyễn Đáng (Năm Trung)
129- Lê Phước Thọ (Sáu Hậu)
130- Hồ Nghinh (Phước)
131- Nguyễn Văn Sĩ (Ksor Kron)
132- Y một (Y Pah)
133- Y Ngông Niêđk Đam (Y Ngông)
a) Bộ Chính trị:
- 14 Uỷ viên chính thức, gồm các đồng chí:
1. Lê Duẩn
2. Trường Chinh
3. Phạm Văn Đồng
4. Phạm Hùng
5. Lê Đức Thọ
6. Võ Nguyên Giáp
7. Nguyễn Duy Trinh
8. Lê Thanh Nghị
9. Trần Quốc Hoàn
10. Văn Tiến Dũng
11. Lê Văn Lương
12. Nguyễn Văn Cúc (Nguyễn Văn Linh)
13. Võ Toàn (Võ Chí Công)
14.Chu Huy Mân
- 3 Uỷ viên dự khuyết, gồm các đồng chí:
1. Tố Hữu
2. Võ Văn Kiệt (tức Sáu Dân)
3. Đỗ Mười
b) Ban Bí thư, gồm các đồng chí:
1. Lê Duẩn
2. Lê Đức Thọ
3. Nguyễn Duy Trinh
4. Nguyễn Văn Cúc (tức Nguyễn Văn Linh)
5. Tố Hữu
6. Xuân Thuỷ
7. Nguyễn Lam
8. Song Hào
9. Lê Quang Đạo
46- Trường Minh
47- Trần Lê (Năm Hoà)
48- Trường Chinh
49- Hoàng Cầm
50- Nguyễn Thành Lê
51- Nguyễn Xuân Hữu (Bẩy Hữu)
52- Hoàng Văn Kiểu
53- Bùi Phùng
54- Đinh Đức Thiện
55- Trần Quang Huy
56- Lê Đức Anh
57- Nguyễn Hữu Khiếu
58- Nguyễn Vịnh
59- Trần Đông
60- Phan Trọng Tuệ
61- Trần Văn Long (Mười Dài)
62- Võ Thúc Đồng
63- Trần Văn Trà
64- Nguyễn Như ý (Năm Chữ)
65- Nguyễn Văn Chí (Sáu Chí)
66- Đỗ Văn Nuống (Tư Nguyện)
67- Nguyễn Tuấn Tài (Trần Kiên)
68- Vũ Đình Liệu (Tư Bình)
69- Hoàng Minh Thi
70- Phạm Hùng
71- Hoàng Anh
72- Lê Quốc Thân
73- Trần Quỳnh
74- Hà Kế Tấn
75- Đặng Quốc Bảo
76- La Lâm Gia (Bảy Máy)
77- Nguyễn Ngọc Trìu
78- Hà Thị Quế
79- Nguyễn Côn
80- Nguyễn Thị Định (Ba Định)
81- Lê Quang Hoà
82- Trần Văn Sớm
83- Trần Quyết
84- Mai Chí Thọ (Năm Xuân)
85- Đặng Thí
86- Bùi San
87- Phan Văn Đáng (Hai Văn)
88- Trần Văn Hiển
89- Võ Văn Thạnh
90- Phạm Văn Kiết (Năm Vận)
91- Trần Ngọc Ban (Mười Hương)
92- Tạ Hồng Thanh
93- Nguyễn Thị Bạch Tuyết (Sáu Tuyết)
94- Trần Độ
95- Nguyễn Quang Lâm (Tám Tú)
96- Nguyễn Thành Thơ (Mười Thơ)
97- Nguyễn Văn Cúc (Nguyễn Văn Linh)
98- Đặng Hữu Khiêm
99- Vũ Tuân
100- Hoàng Tùng
101- Nguyễn Thị Như
102- Vũ Oanh
103- Nguyễn Văn Chính (Chín Cần)
104- Đào Duy Tùng
105- Lương Văn Nghĩa
106- Trần Hanh
107- Vũ Thị Hồng
108- Cao Đăng Chiếm (Sáu Hoàng)
109- Nguyễn Chấn
110- Nguyễn Tường Lân
111- Trần Hữu Dư
112- Trần Phương
113- Lê Khắc
114- Nguyễn Đình Tứ
115- Trần Lâm
116- Hoàng Minh Thảo
117- Lê Ngọc Hiền
118- Lê Văn Tri
119- Hoàng Thế Thiện
120- Đặng Vũ Hiệp
121- Đỗ Chính
122- Trần Vỹ
123- Nguyễn Ngọc Cừ
124- Nguyễn Hữu Thụ
125- Hoàng Văn Hiều
126- Trương Văn Kiện
127- Bùi Thanh Khiết
128- Nguyễn Đáng (Năm Trung)
129- Lê Phước Thọ (Sáu Hậu)
130- Hồ Nghinh (Phước)
131- Nguyễn Văn Sĩ (Ksor Kron)
132- Y một (Y Pah)
133- Y Ngông Niêđk Đam (Y Ngông)
a) Bộ Chính trị:
- 14 Uỷ viên chính thức, gồm các đồng chí:
1. Lê Duẩn
2. Trường Chinh
3. Phạm Văn Đồng
4. Phạm Hùng
5. Lê Đức Thọ
6. Võ Nguyên Giáp
7. Nguyễn Duy Trinh
8. Lê Thanh Nghị
9. Trần Quốc Hoàn
10. Văn Tiến Dũng
11. Lê Văn Lương
12. Nguyễn Văn Cúc (Nguyễn Văn Linh)
13. Võ Toàn (Võ Chí Công)
14.
- 3 Uỷ viên dự khuyết, gồm các đồng chí:
1. Tố Hữu
2. Võ Văn Kiệt (tức Sáu Dân)
3. Đỗ Mười
b) Ban Bí thư, gồm các đồng chí:
1. Lê Duẩn
2. Lê Đức Thọ
3. Nguyễn Duy Trinh
4. Nguyễn Văn Cúc (tức Nguyễn Văn Linh)
5. Tố Hữu
6. Xuân Thuỷ
7. Nguyễn Lam
8. Song Hào
9. Lê Quang Đạo
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét