Thứ Hai, 18 tháng 6, 2012

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ tư (1976), phần 2


6. Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam về Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 20 tháng 12 năm 1976
Ngày 6/2/2006. Cập nhật lúc 13h 51'
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam,

Sau khi thảo luận bản Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất, trình bày,

Quyết nghị:

1. Hoàn toàn tán thành toàn bộ nội dung bản Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

2. Tất cả các tổ chức của Đảng phải lấy những kết luận nêu trong bản Báo cáo chính trị về đường lối chung, đường lối xây dựng kinh tế và về những chủ trương, chính sách các mặt làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn của mình.


 7. Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Lao động Việt Nam về đổi tên Đảng, ngày 20 tháng 12 năm 1976

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Lao động Việt Nam,

Sau khi xem xét đề nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc đổi tên Đảng,

Quyết nghị:

Đổi tên Đảng lao động Việt Nam thành Đảng cộng sản Việt Nam.

8. Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV thông qua
9. Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng
10. Phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của Kế hoạch 5 năm 1976-1980

Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV  do đồng chí Phạm Văn Đồng trình bày

Ngày 16 tháng 12 năm 1976

Thưa Đoàn Chủ tịch,

Thưa các đồng chí đại biểu,

Tôi xin trình bày bản Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về: Phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976-1980.

Phần thứ nhất

Phương hướng, nhiệm vụ

và mục tiêu chung

Giai đoạn mới của sự nghiệp cách mạng đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội mở đầu bằng kế hoạch 5 năm 1976-1980.

Đây là lúc chúng ta càng thấm thía những lời Di chúc của Hồ Chủ tịch mang lòng thương yêu vô hạn đối với quần chúng nhân dân, vạch ra trách nhiệm của Đảng và Nhà nước ta:

"Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh.

Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.

Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân".

Kế hoạch 5 năm 1976-1980 phải là một kế hoạch thật tốt.

Muốn vậy, kế hoạch 5 năm 1976-1980 phải có sự bố trí chiến lược đúng, phát huy các lực lượng sản xuất bao gồm lực lượng lao động và phương tiện sản xuất, khai thác các tiềm năng, khơi động lực lượng của quần chúng, một sự bố trí chiến lược hợp cho 5 năm này và thuận với hướng tiến lên lâu dài. Đồng thời phải có tổ chức và biện pháp thực hiện có hiệu lực mạnh mẽ, rút được kết luận từ ưu điểm và khuyết điểm trong thời gian vừa qua, đáp ứng những yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân và của đời sống nhân dân.

*
*     *
Bước sang giai đoạn mới của sự nghiệp cách mạng, nhìn lại chặng đường lịch sử đã qua, chúng ta phấn khởi và tự hào với những thành tích xuất sắc trên mọi lĩnh vực.

Thực tiễn cách mạng rất phong phú chứng minh đường lối của Đảng vạch ra từ Đại hội III và được các hội nghị Trung ương từng bước bổ sung và cụ thể hoá phù hợp với những bước đi lên của cách mạng nước ta là rất đúng đắn.

Sau 20 năm cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà phần lớn thời gian phải làm đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược, ngày nay trên miền Bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, nhân dân ta đã xây dựng một cách vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, với cơ sở vật chất - kỹ thuật bước đầu của chủ nghĩa xã hội, với hệ tư tưởng và nền văn hoá mới, với cuộc sống mới và những con người mới.

Thực tiễn cách mạng trên miền Bắc đã làm nổi bật tác dụng lãnh đạo của Đảng, chế độ làm chủ tập thể của nhân dân, vai trò quản lý của Nhà nước, đã chứng minh sự tất yếu phải tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, đã vạch rõ nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, đã cho thấy tác động qua lại giữa xây dựng và cải tạo, giữa cải tạo và xây dựng, đã soi sáng sự gắn bó chặt chẽ, thành cơ cấu, giữa công nghiệp và nông nghiệp, đã đặt ra vấn đề tổ chức và quản lý với tất cả ý nghĩa quan trọng của nó.

Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, chúng ta có thêm nhiều năng lực sản xuất mới rất phong phú; kinh tế hai miền hỗ trợ và bổ sung cho nhau; tiềm lực kinh tế và tiềm lực mọi mặt của nước ta tăng lên gấp bội đã tạo ra những triển vọng rất to lớn, mở ra tiền đồ xán lạn cho Tổ quốc ta.

Những bài học và những kinh nghiệm về xây dựng và quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cùng với những kinh nghiệm trong xây dựng và quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước kể từ sau ngày chiến thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, là vô cùng quý báu đối với chúng ta.

Cũng như trước đây trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, ngày nay trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm 1976-1980, chúng ta ra sức phát huy truyền thống và bản lĩnh của dân tộc, động viên mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, tranh thủ sự ủng hộ của anh em và bè bạn, vận dụng một cách thông minh những bài học lớn vào việc phát triển kinh tế và văn hoá.

Như bản Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Lê Duẩn trình bày đã vạch rõ, đường lối chung xây dựng chủ nghĩa xã hội là: "Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội".

Đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học, kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc".

Kế hoạch 5 năm 1976-1980 phải vận dụng đường lối chung và đường lối kinh tế của Đảng hợp với tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội hiện nay, đồng thời mở ra hướng tiến lên tốt đẹp của cả nước ta.

ánh sáng của đường lối của Đảng làm nổi bật những thuận lợi to lớn và cơ bản, những khó khăn tạm thời trong bước trưởng thành, cho thấy rõ nền kinh tế của chúng ta là một nền kinh tế đang trên đà lớn mạnh, bản thân nó có sức sống mãnh liệt, với những khả năng dồi dào cho phép đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh.

Chúng ta có đội ngũ 22 triệu người lao động, mỗi năm tăng thêm chừng 1 triệu người lao động mới; trong đội ngũ đó hiện có nửa triệu cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, kỹ thuật và một triệu công nhân có nghề. Chúng ta có một diện tích đất nông nghiệp có thể mở rộng đến hơn 10 triệu hécta và làm nhiều vụ trong năm; 3.200 kilômét bờ biển và vùng biển rộng lớn; hàng chục triệu hécta rừng và đất rừng; nguồn năng lượng đa dạng và nhiều loại khoáng sản đủ để xây dựng một nền công nghiệp hiện đại; đường giao thông thuận lợi cho giao lưu trong nước và với nước ngoài. Chúng ta có một số cơ sở công nghiệp nặng, một hệ thống công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm, một khối lượng thiết bị, máy móc, vật tư mà hiện nay chúng ta chưa tận dụng hết khả năng.

Lao động dồi dào, tài nguyên phong phú và những cơ sở vật chất - kỹ thuật nói ở trên, hiện nay phân bố chưa hợp lý, chưa thành một cơ cấu kinh tế cân đối và đồng bộ, chưa được quản lý tốt, cho nên nguồn tạo của cải thì nhiều mà khối của cải được sản xuất ra chưa tương xứng. Trong tình trạng đó đã nảy sinh nhiều sự lãng phí, nhiều điều khó khăn và những hiện tượng kinh tế, xã hội tiêu cực mà chúng ta phải đấu tranh để khắc phục.

Những khó khăn và những chỗ yếu, kém kể trên bắt nguồn từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh nhiều năm và chủ nghĩa thực dân mới phá hoại nặng nề.

Để thực hiện đường lối chung và đường lối kinh tế của Đảng, kế hoạch 5 năm 1976-1980 phải thực hiện một sự bố trí chiến lược đúng đắn, nhằm hai mục tiêu cơ bản:

1. Xây dựng một bước cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp.

2. Cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động.

Làm tốt hai việc đó là chuẩn bị cơ sở và tiền đề, tạo ra bàn đạp để đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những kế hoạch tiếp sau.

Xây dựng một bước cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong 5 năm 1976-1980 đòi hỏi phải tổ chức lại nền sản xuất xã hội, phân bố lại lao động, đi đôi với một chính sách đầu tư đúng hướng nhằm sử dụng tốt nhất lực lượng lao động, các thiết bị, máy móc, vật tư, tác động ngay đến các loại tài nguyên cần khai thác trước nhất và nhanh nhất, tăng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo một nhịp độ nhanh. Đồng thời, phải bước đầu hình thành một cơ cấu kinh tế phù hợp với đường lối của Đảng, quán triệt nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, cho phép giải quyết tốt các mối quan hệ lớn của nền kinh tế quốc dân, như đã được nêu rõ trong đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Cải thiện một bước đời sống của nhân dân (đặc biệt chú trọng nhân dân các vùng bị chiến tranh tàn phá nặng nề) là nhằm trước hết những nhu cầu thông thường về ăn, mặc, ở, đồ dùng hàng ngày, về học tập, bảo vệ sức khoẻ..., thực hiện phân phối công bằng, hợp lý, thuận tiện cho nhân dân, chú trọng những tầng lớp nhân dân lao động hiện đang làm những việc khó khăn, nặng nhọc, đòi hỏi kỹ thuật cao, sản xuất nhiều sản phẩm quý, xây dựng những công trình quan trọng. Đi đôi với việc chăm lo đời sống vật chất, phải chú trọng cải thiện đời sống văn hoá của nhân dân, tạo ra cuộc sống mới, với những quan hệ xã hội tốt đẹp, là nguồn phấn khởi và niềm vui của người lao động.

Theo hai mục tiêu trên đây, những nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm 1976-1980 là:

1. Tập trung cao độ sức của cả nước, của các ngành, các cấp tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp; ra sức đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp; phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm (bao gồm cả thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp) nhằm giải quyết vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và một phần quan trọng hàng tiêu dùng thông dụng; cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, tạo tích luỹ cho công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.

2. Phát huy năng lực sẵn có và xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí, nhằm phục vụ trước hết cho nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp nhẹ, chuẩn bị cho bước trang bị kỹ thuật trong thời kỳ tiếp theo. Tích cực mở mang giao thông vận tải; tăng nhanh năng lực xây dựng cơ bản; đẩy mạnh công tác khoa học - kỹ thuật. Chuẩn bị về mọi mặt để triển khai xây dựng lớn trong những kế hoạch dài hạn sau này.

3. Sử dụng hết mọi lực lượng lao động xã hội; tổ chức và quản lý tốt lao động, phân bố lại lao động giữa các vùng và các ngành nhằm tăng rõ rệt năng suất lao động xã hội. Hình thành bước đầu cơ cấu kinh tế mới công - nông nghiệp, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, từng bước xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

4. Hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; cải tiến mạnh mẽ công tác thương nghiệp, giá cả, tài chính, ngân hàng.

5. Tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, trước hết là sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.

6. Ra sức phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế, tiến hành cải cách giáo dục, đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân; thanh toán hậu quả của chiến tranh và chủ nghĩa thực dân mới về mặt xã hội.

7. Thực hiện một sự chuyển biến sâu sắc trong tổ chức và quản lý kinh tế, xây dựng một hệ thống mới về quản lý kinh tế trong cả nước.

Sự bố trí chiến lược trên đây trong 5 năm này là hết sức cần thiết và thuận lợi; nó đáp ứng những yêu cầu rất cấp bách, đồng thời nó phát huy những thế mạnh nhất của chúng ta là nguồn lao động dồi dào, đất đai và những tài nguyên thiên nhiên phong phú của nước ta.

Nhưng, có thể có những đồng chí lo ngại rằng trong kế hoạch 5 năm 1976-1980, chúng ta tập trung lực lượng phát triển nông nghiệp và một số ngành như đã trình bày, thì có coi nhẹ công nghiệp nặng không? Không một chút nào, vì rằng:

1. Tập trung lực lượng phát triển nông nghiệp chủ yếu là tập trung lực lượng các ngành công nghiệp nặng để trang bị cho nông nghiệp; nếu không như vậy thì nông nghiệp nhất định không thể nào vươn lên được.

2. Nông nghiệp cùng lâm nghiệp, ngư nghiệp và các ngành sản xuất hàng tiêu dùng phát triển nhanh chóng sẽ là cơ sở cho sự phát triển với nhịp độ nhanh của các ngành công nghiệp nặng.

Khâu trung tâm của toàn bộ sự lớn lên của nền kinh tế quốc dân là cơ cấu công - nông nghiệp ngày càng hiện đại, gắn liền với sự kết hợp kinh tế trung ương và kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Có thể ví cơ cấu công - nông nghiệp ngày càng hiện đại như bộ xương của cơ thể con người, bộ xương có lớn lên vững mạnh và cân đối thì toàn bộ cơ thể mới phát triển đều đặn và tráng kiện.

Nội dung chính của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 gồm hai bộ phận liên quan chặt chẽ với nhau, một bên đóng vai trò cơ sở là nông nghiệp, cùng với lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng, một bên đóng vai trò chủ đạo là công nghiệp nặng, trước hết là cơ khí cùng các ngành công nghiệp nặng khác.

Muốn đẩy mạnh các ngành cơ sở phát triển bao nhiêu, thì phải phát huy vai trò chủ đạo của công nghiệp nặng bấy nhiêu, đồng thời cơ sở càng phát triển, thì càng đòi hỏi công nghiệp nặng vươn lên, cung ứng tư liệu sản xuất, trang bị kỹ thuật cho các ngành cơ sở.

Cơ cấu những ngành chủ yếu đó phải được bố trí hợp lý trên quy mô cả nước cũng như ở từng vùng lãnh thổ, từng tỉnh, huyện, kết hợp chặt chẽ kinh tế trung ương và kinh tế địa phương. Đó là chính sách cơ cấu đúng đắn, nó mở đường cho sự phát triển mạnh mẽ và vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

Như vậy, những chủ trương lớn của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 thể hiện nội dung cách mạng và khoa học của đường lối của Đảng vận dụng đúng đắn và sáng tạo quy luật phát triển kinh tế xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, từ sản xuất nhỏ tiến thẳng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.

Trong quá trình tiến lên của nền kinh tế quốc dân, công nghiệp nặng sẽ phát triển với tốc độ ngày càng cao, quy mô ngày càng lớn. Công nghiệp nặng ngày càng được cung ứng nhiều hơn về vốn đầu tư, lực lượng lao động và các lực lượng sản xuất khác, sẽ phát triển nhanh hơn các ngành khác, để trang bị kỹ thuật mới cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong khi đó, nông nghiệp tiếp tục được coi trọng, cũng lớn lên không ngừng dưới tác động chủ đạo của công nghiệp nặng, để luôn luôn làm cơ sở cho sự phát triển của công nghiệp nặng.

Trong suốt quá trình tăng cường lực lượng sản xuất, hai mặt xây dựng và cải tạo gắn liền nhau, tác động qua lại với nhau, làm cho quan hệ sản xuất ngày càng được củng cố và hoàn thiện, kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã đều lớn lên.

Đồng thời, đó cũng là quá trình giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ cả về lượng và về chất, nông dân xã viên ngày càng chuyển theo quan điểm tư tưởng của giai cấp công nhân và phong cách lao động công nghiệp, người lao động dần dần được công nhân hoá, con người mới nảy nở dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, về tư tưởng, chính trị cũng như mọi mặt của đời sống, ngày càng hấp thụ và thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin.

Tương lai tươi sáng đó mở đầu từ kế hoạch 5 năm này. Những viên đá nền tảng được đặt đúng chỗ và xây vững vàng, thì trên cơ sở đó cả sự nghiệp sẽ lớn lên.

Có đồng chí lo ngại: hiện nay chúng ta gặp khó khăn vì thiếu vật tư, và đây là các loại vật tư nhập khẩu từ nước ngoài (nhất là đối với những cơ sở sản xuất ở miền Nam). Khó khăn đó mọi người chúng ta đều biết, và xét cho cùng, đó là khó khăn của bước đường đi lên. Đứng trước vấn đề này, chúng ta phải nhìn một cách rộng lớn hơn những vướng mắc cụ thể của từng ngành, từng đơn vị sản xuất. Hiện nay, chúng ta đang đứng trước biết bao công việc hoàn toàn có thể làm được với vật tư trong nước hoặc vật tư ta đang nhập khẩu, với lực lượng lao động và đội ngũ người làm khoa học - kỹ thuật của nước ta. Trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, các ngành, nghề sản xuất hàng tiêu dùng, cho đến các ngành công nghiệp nặng như cơ khí, hoá chất, năng lượng, vật liệu xây dựng, khả năng tự lực cánh sinh, sáng chế phát minh, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta thật là rộng lớn. Chỉ cần tinh thần dám nghĩ, dám làm, quyết chiến quyết thắng, thì thông minh và sáng tạo sẽ nảy nở và chiến công sẽ đến với những người chiến sĩ kiên cường. Cũng phải thấy rằng chỉ có dựa vào sức mình là chính để phát triển kinh tế, phát triển nhanh hơn mức bình thường các ngành, nghề sản xuất hàng xuất khẩu, thì chúng ta mới có khả năng nhập khẩu những mặt hàng mà chúng ta phải nhập, và ngày càng phải nhập nhiều hơn, nhất là các loại thiết bị và vật tư mà ta chưa sản xuất được.

Cũng có đồng chí lo ngại về trình độ và năng lực, trình độ lý luận Mác - Lênin, trình độ chính trị, năng lực quản lý, năng lực tổ chức. Đúng, chỗ yếu đáng lo nhất của chúng ta hiện nay là năng lực quản lý, năng lực tổ chức. Nhưng chúng ta hãy nhớ lại bài học của hai cuộc kháng chiến. Phải đánh 9 năm mới thắng trận Điện Biên Phủ. Phải đánh hơn 15 năm mới có Chiến dịch Hồ Chí Minh. Trình độ và năng lực về mọi mặt của chúng ta trong việc thực hiện đường lối chung và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ lớn lên trong quá trình phấn đấu nhằm biến những chỉ tiêu của kế hoạch thành hiện thực sinh động.

Lịch sử chỉ đặt ra những vấn đề mà điều kiện giải quyết đã sẵn có hoặc đang xuất hiện. Nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 đòi hỏi chúng ta phải lớn lên nhanh chóng về mọi mặt, phải tiến nhanh, phải cố gắng tiến rất nhanh về năng lực và trình độ quản lý nền kinh tế quốc dân.

Tóm lại, kế hoạch 5 năm đầu tiên sau chiến tranh ở nước ta đặt nhiệm vụ kết hợp phát triển công nghiệp với nông nghiệp trong một cơ cấu kinh tế thống nhất, trên phạm vi cả nước và trên địa bàn từng địa phương, là bước đi hợp lý nhất; tất nhiên, trong quá trình thực hiện phải tuỳ điều kiện địa lý và tài nguyên thiên nhiên từng nơi, mà kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lâm nghiệp, hoặc kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và ngư nghiệp.

Một loạt vấn đề trọng yếu và cấp bách đang và sắp được giải quyết trong kế hoạch 5 năm này, đồng thời một loạt vấn đề mới khác, to lớn hơn, sẽ đặt ra trước mắt chúng ta và phải tiếp tục được giải quyết trong những năm sau. Đây chính là tính liên tục của quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nền văn hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, chúng ta không một chút nào coi nhẹ tăng cường quốc phòng, và tăng cường quốc phòng gắn liền với phát triển kinh tế, phát huy tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, trang bị cho mọi người dân ý chí chiến đấu để bảo vệ thành quả của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa vĩ đại tự tay mình đã dựng lên.

Sự bố trí chiến lược của kế hoạch 5 năm đòi hỏi tổ chức lại nền sản xuất xã hội, phân bố lại lực lượng lao động, biến cả nước ta thành một công trường. Đó là công trình tổ chức và quản lý có quy mô to lớn và tính chất phức tạp chưa từng có, đặt ra biết bao yêu cầu cấp bách, đòi hỏi giải quyết biết bao vấn đề mới mẻ.

Các cơ quan quản lý nền kinh tế quốc dân từ trung ương đến địa phương và cơ sở phải biết sử dụng một cách hợp lý lực lượng sản xuất hiện có và khả năng tiềm tàng có thể sử dụng được trong việc phát triển ngành, nghề, phát triển sản xuất theo chiều sâu và chiều rộng, thu hút toàn bộ lực lượng lao động của xã hội vào sản xuất và vào mọi công việc cần thiết khác; hàng năm thu hút thêm gần một triệu sức lao động mới. Đây là nguồn vốn quý báu nhất làm ra mọi của cải vật chất và văn hoá, làm thay đổi hàng ngày, hàng giờ bộ mặt của đất nước ta, làm nên những thành tựu kỳ diệu mà chúng ta chưa lường hết được, đưa nước ta, từ một nước có nền kinh tế kém phát triển, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, thành một nước giàu mạnh, văn minh, với nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trên đà phát triển mạnh mẽ.

Phần thứ hai

Nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu phát triển

các ngành kinh tế và văn hoá

Thưa các đồng chí,

Theo những nhiệm vụ và mục tiêu nêu ở phần trên, kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 phải tận dụng hợp lý nhất và càng nhanh càng tốt mọi lực lượng sản xuất hiện có, bao gồm lực lượng lao động, các nguồn lợi thiên nhiên và phương tiện vật chất, trong đó quan trọng nhất là lao động và đất đai.

Việc tận dụng các lực lượng sản xuất theo tinh thần đó đòi hỏi tất yếu phải đặt lên hàng đầu công cuộc phát triển nền nông nghiệp một cách toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc. Phấn đấu đạt một bước tiến vượt bậc về nông nghiệp là nhiệm vụ cao nhất và cấp bách nhất của kế hoạch 5 năm này.

Một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lâm nghiệp, ngư nghiệp, đề ra những yêu cầu rất lớn đối với các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất và các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, đối với xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, lưu thông phân phối, thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển cân đối, nhịp nhàng và với tốc độ cao, một bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và cải thiện đời sống của nhân dân, tạo điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong kế hoạch 5 năm tiếp sau.

Triển vọng mới, tốt đẹp, mở ra trên lãnh thổ nước ta, từ Bắc đến Nam, từ Tây sang Đông, với sự xuất hiện những vùng nông nghiệp chuyên môn hoá và thâm canh, những vùng kinh tế mới có cơ cấu thích hợp với đồng bằng, trung du, miền núi và ven biển, đưa tới sự hình thành và phát triển nhiều ngành,nghề mới rất phong phú.

Trọng tâm của toàn bộ công cuộc tổ chức lại nền sản xuất xã hội là phân bố lại và sử dụng tốt 22 triệu người lao động; cùng với sự phân bố lại lao động và dân cư, là sự bố trí lại tương ứng các thiết bị, máy móc, vật tư hiện có, và sự phân phối tương ứng các nguồn vốn đầu tư trong kế hoạch 5 năm này.
Với tổng số vốn khoảng 30 tỷ đồng đầu tư trong thời kỳ kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, chúng ta dành gần 30% cho nông nghiệp; 35% cho công nghiệp.

Một triệu hécta đất canh tác được mở rộng, cùng với những cơ sở vật chất - kỹ thuật trong nông nghiệp được xây dựng mới; tăng thêm ba triệu hécta đất gieo trồng. Hơn một triệu hécta rừng được trồng mới hoặc được tu bổ, cải tạo. Nhiều cơ sở mới tăng lên trong công nghiệp rừng, ngư nghiệp, công nghiệp thực phẩm và công nghiệp hàng tiêu dùng. Một số cơ sở công nghiệp nặng có nhu cầu cấp bách được xúc tiến xây dựng để phát huy tác dụng trong 5 năm này, một số cơ sở quan trọng khác sẽ được bắt đầu khởi công, để phát huy tác dụng trong kế hoạch sau.

Dự kiến bình quân hàng năm sản phẩm xã hội tăng từ 14 - 15%, thu nhập quốc dân tăng 13 - 14%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 8 - 10%, giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 16-18%. Năng suất lao động xã hội tăng 7,5 - 8%. Trong quá trình chỉ đạo thực hiện, cần phấn đấu đạt tốc độ phát triển cao hơn các chỉ tiêu đó, nhất là về những lĩnh vực có điều kiện, đặc biệt trong nông nghiệp.

Nhằm đạt các chỉ tiêu tổng hợp trên đây, nhiệm vụ phát triển các ngành kinh tế và văn hoá như sau:

1. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là tập trung cao độ mọi lực lượng của chúng ta để đưa nông nghiệp phát triển một cách toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc; đồng thời đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng

Trong kế hoạch 5 năm này, chúng ta tập trung lực lượng của cả nước, của tất cả các ngành, các địa phương phục vụ cho nông nghiệp, làm cho nông nghiệp phát triển rất mạnh mẽ cả về trồng trọt và chăn nuôi, trên khắp các vùng của đất nước để giải quyết vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực và thực phẩm, tăng nguồn cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp và tăng nhanh hàng xuất khẩu.

Xuất phát từ yêu cầu cấp bách và cơ bản hiện nay về lương thực (cho người và cho chăn nuôi), cả nước ta phải đẩy mạnh cao trào sản xuất lương thực, đồng thời đẩy mạnh sản xuất các loại thực phẩm, cả về thực vật và động vật, để đến năm 1980 đạt ít nhất 21 triệu tấn lương thực quy thóc, 1 triệu tấn thịt hơi các loại.

Trên địa bàn cả nước, các địa phương ở đồng bằng và trung du cần tăng nhanh diện tích cây lương thực đi đôi với thâm canh để có sản lượng lương thực cao nhất, bảo đảm đủ cho nhu cầu của nhân khẩu nông nghiệp ở địa phương mình, làm tốt nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước; các địa phương ở miền núi, trong khi phát huy ba thế mạnh về lâm nghiệp, cây công nghiệp và chăn nuôi, vẫn phải rất coi trọng việc trồng các loại cây lương thực trên những diện tích thích hợp, nhằm tăng thêm sức giải quyết lương thực tại chỗ cho địa phương mình.

Phải rất coi trọng hoa màu. Đẩy mạnh sản xuất hoa màu phải gắn liền với việc tổ chức lại sản xuất nông nghiệp ở từng vùng. Các địa phương phải có kế hoạch trồng cây hoa màu các loại: ngô, khoai, sắn, khoai tây, cao lương, dong riềng, các loại cây có bột khác..., phấn đấu đưa tỷ trọng hoa màu lên 30% sản lượng lương thực như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 19 của Trung ương đã nhấn mạnh. Đi đôi với sản xuất, phải tổ chức tốt việc chế biến hoa màu, việc vận chuyển và phân phối hoa màu đã chế biến, làm cho việc dùng hoa màu trong bữa ăn hàng ngày trở thành một tập quán của nhân dân các vùng trên đất nước ta.

Tăng cường hơn nữa diện tích và sản lượng rau, đậu các loại. Đậu tương, một nguồn đạm quan trọng cho người và gia súc, cần được phát triển mạnh ở khắp nơi; tăng nhanh diện tích cây có dầu như lạc, vừng, dừa, sở, cọ dầu, v.v. để cung ứng dầu và đạm thực vật cho bữa ăn.

Phải rất coi trọng việc trồng cây công nghiệp cây ăn quả theo hướng sản xuất tập trung và trên quy mô lớn nhằm phục vụ cho công nghiệp và xuất khẩu. Kiên quyết dành diện tích trồng mía để đẩy mạnh sản xuất đường. Phát triển thêm diện tích mía ở một vài địa phương trên miền Bắc, trồng tập trung trên diện tích lớn ở miền Đông Nam Bộ và một phần ở Tây Nguyên. Ưu tiên dành diện tích ở những vùng có điều kiện khí hậu và đất đai thích hợp (Phú Khánh, Thuận Hải, Cheo Reo) cho cây bông. Chăm sóc diện tích đã trồng cao su để có thu hoạch tốt, đồng thời mở rộng diện tích trồng loại cây nguyên liệu quan trọng này ở miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Phát triển mạnh diện tích trồng đay, cói ở các tỉnh phía Bắc và Nam Bộ, đồng thời phát triển những cây có sợi khác như gai, lanh, gòn, dứa dại... Mở thêm diện tích trồng cà phê ở Tây Nguyên, phát triển trồng chè thuốc lá ở các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc và một phần ở phía Nam. Tăng nhanh diện tích các loại cây ăn quả, nhất là dứa, chuối..., phát triển mạnh các loại cây làm thuốc, cây tinh dầu nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Tận dụng mọi khả năng để đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, đưa chăn nuôi thành một ngành chính, từ đó mà tăng thêm thực phẩm giàu chất dinh dưỡng, tăng nhanh nguồn phân bón hữu cơ, tăng thêm sức kéo cho nông nghiệp và lâm nghiệp. Sớm hình thành các vành đai thực phẩm xung quanh các thành phố lớn, các khu công nghiệp để có thịt, cá, rau các loại cung ứng trực tiếp và thuận lợi cho nhu cầu ngày càng lớn của các khu dân cư này. Đẩy mạnh chăn nuôi phải bắt đầu từ việc lập kế hoạch bố trí cơ cấu cây trồng. Kiên quyết dành diện tích trồng cây thức ăn cho gia súc đi đôi với việc tổ chức chế biến thức ăn gia súc. Đàn lợn phải được tăng cả về số lượng và trọng lượng đầu con; coi trọng phát triển đàn lợn gia đình, đồng thời tăng nhanh đàn lợn của tập thể và đàn lợn của quốc doanh. Tích cực khôi phục và phát triển đàn trâu, bò; xây dựng các vùng chăn nuôi bò sữa, bò thịt ở Mộc Châu, Lâm Đồng, Tuyên Đức...; từng bước mở rộng việc nuôi trâu sữa ở các vùng có điều kiện. Phát triển mạnh việc nuôi theo kiểu công nghiệp, đặc biệt là ở các vùng quanh thành phố, khu công nghiệp; phát triển nhanh đàn vịt ở các vùng đồng bằng và ven biển. ở những nơi có điều kiện thì phát triển chăn nuôi dê, thỏ, ngựa, ong...

Với cơ cấu nông nghiệp như trên đây, chúng ta từng bước cải tiến cơ cấu bữa ăn cho có thành phần dinh dưỡng tốt hơn, phù hợp với khả năng và tập quán từng vùng.

Để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, chúng ta vừa thâm canh, tăng vụ, vừa mở rộng diện tích trồng trọt. Diện tích đất nông nghiệp của chúng ta trong tương lai dù có tăng đến trên 10 triệu hécta (gần gấp đôi mức năm 1975), thì tính theo đầu người diện tích đất nông nghiệp vẫn rất thấp. Do đó thâm canh cao độ là con đường cơ bản và lâu dài trong nông nghiệp nước ta. Trước mắt, để tăng thêm đất canh tác, phải ra sức phục hoá và khai hoang, diện tích được mở đến đâu phải thâm canh ngay đến đó. Trong 5 năm này, chúng ta phấn đấu khai hoang 1 triệu hécta, nhằm chủ yếu vào Đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ, ngoài ra là một số vùng ở Tây Nguyên, duyên hải Trung Bộ và những nơi có điều kiện ở các tỉnh phía Bắc.

Phát triển nông nghiệp gắn liền với việc đẩy mạnh ba cuộc cách mạng trong nông nghiệp.

Phải ra sức củng cố và hoàn thiện việc quản lý các hợp tác xã nông nghiệp và các nông trường quốc doanh ở các tỉnh phía Bắc, ra sức xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp ở các tỉnh phía Nam. Nông nghiệp phía Nam có những điều kiện tốt để đi thẳng và đi nhanh lên sản xuất lớn với những nông trường chuyên canh được trang bị tốt, với những hợp tác xã nông nghiệp có khả năng phát triển nhanh về nhiều mặt.

Cần nắm vững ưu thế về thời tiết và khí hậu của đất nước ta để đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật trong nông nghiệp, nghiên cứu sâu những vấn đề đặc thù của nông nghiệp nước ta, ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật của thế giới, phục vụ ngày càng thiết thực sự nghiệp phát triển nông nghiệp.

Kinh nghiệm bao đời nay của nhân dân ta chứng tỏ thuỷ lợi bao giờ và ở đâu cũng là biện pháp hàng đầu để mở rộng diện tích, để thâm canh, tăng vụ, cải tạo đất. Là mũi nhọn quyết định thắng lợi của toàn bộ công cuộc phát triển sản xuất nông nghiệp, khối lượng xây dựng các công trình thuỷ lợi trong 5 năm này của cả nước dự kiến sẽ gấp đôi tổng khối lượng đã thực hiện trong 20 năm qua ở các tỉnh phía Bắc. Khởi công sớm, hoàn thành nhanh và tốt các công trình thuỷ lợi, chúng ta sẽ tận dụng được đất đai sẵn có với hiệu quả cao, thu hút được nhiều lao động vào sản xuất, có thêm nhiều sản phẩm, trước hết là lương thực. Chúng ta phải có những biện pháp đặc biệt mạnh mẽ, nhanh chóng phát triển màng lưới thuỷ lợi ở khắp các địa phương, trước hết ở các vùng trọng điểm lúa và cây công nghiệp quan trọng. Bộ thuỷ lợi phải giúp các tỉnh lực lượng khảo sát, quy hoạch, thiết kế, chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho việc động viên quần chúng làm thuỷ lợi. Các ngành công nghiệp phải ưu tiên sản xuất các loại công cụ, phương tiện và vật liệu cần thiết cho công tác này. Chúng ta không chờ đợi và ỷ lại vào máy móc, phải triệt để tận dụng lao động thủ công, tận dụng những khả năng sẵn có để tự làm nhiều công trình ở địa phương. Phải dấy lên một phong trào cách mạng rộng lớn, thu hút hàng triệu quần chúng ở nông thôn, thành thị, quân đội, học sinh, công nhân, viên chức tiến quân mạnh mẽ vào mặt trận thuỷ lợi bằng những ngày công lao động xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, phải tính toán rất kỹ, không để có tình trạng huy động nhân lực ồ ạt mà không chuẩn bị phương tiện và dụng cụ thi công, dẫn đến lãng phí sức người, của cải và đất đai; cố gắng hết sức tránh không để các công trình được xây dựng có thể gây trở ngại cho các quy hoạch phát triển kinh tế lâu dài. Chúng ta phải dành sự chú ý đúng mức đối với Đồng bằng sông Cửu Long, nơi có những điều kiện địa lý và khí hậu rất thuận lợi để trở thành một vựa lúa quan trọng của nước ta. Chúng ta phải động viên và tổ chức ở đó một phong trào quần chúng hào hứng làm thuỷ lợi, nạo vét hệ thống kênh cũ và đào thêm nhiều kênh, rạch mới, đắp đập ngăn nước mặn và giữ nước ngọt, mau chóng đem lại hiệu quả kinh tế to lớn của vùng đất phì nhiêu này. Các tỉnh phía Nam Trung Bộ cần khôi phục các công trình thuỷ lợi cũ, xây dựng hàng loạt công trình chống hạn, giải quyết nước ăn, nước tưới và nước chăn nuôi gia súc ở các vùng kinh tế mới. Các tỉnh miền Trung cần xây dựng thêm các công trình chống hạn và chống úng. Các tỉnh miền Bắc cần sớm hoàn chỉnh hệ thống thuỷ nông, kiên quyết thanh toán diện tích úng ở đồng bằng Bắc Bộ. Trên địa bàn cả nước, cần mở rộng màng lưới điện phù hợp với kế hoạch xây dựng thêm các trạm bơm điện cỡ lớn. Phát triển đào giếng ở các vùng, bảo đảm có nước ăn và nước tưới.

Thâm canh đòi hỏi phải làm tốt việc cải tạo đất. Phải sản xuất đủ vôi, đá vôi nghiền, phân lân, apatít nghiền để bón ruộng và cải tạo đất, nhất là ở đồng bằng Nam Bộ và các vùng đất chua mặn khác. Nhà nước cần tăng mức cung ứng than đá cho nông dân làm chất đốt và sản xuất ngói lợp nhà, tích cực vận động nông dân để lại rạ cho ruộng.

Phân hữu cơ là nguồn phân bón chủ yếu của chúng ta. Sau này, khi ta có nhiều phân đạm thì phân hữu cơ vẫn là một nguồn phân không thể thiếu. Chúng ta hoàn toàn có khả năng làm ra nhiều phân hữu cơ (phân chuồng, phân xanh, phân mùn rác...) để thay thế phân hoá học phải nhập khẩu. Cần đưa kinh nghiệm dùng phân hữu cơ vào các tỉnh phía Nam. Đi đôi với phát triển chăn nuôi để tăng nguồn phân bón, cần trồng nhiều cây phân xanh và rất coi trọng bèo hoa dâu.

Đẩy mạnh cơ giới hoá nông nghiệp, đó là biện pháp rất quan trọng để thực hiện thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất lao động, đồng thời góp phần thúc đẩy quá trình đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Việc cơ giới hoá đồng bộ đòi hỏi phải hoàn chỉnh thuỷ lợi, cải tạo và xây dựng đồng ruộng, quy hoạch các điểm dân cư, quy hoạch đường giao thông nông thôn. Trước mắt, chúng ta phấn đấu để bảo đảm đủ sức kéo cho các tỉnh ở đồng bằng Nam Bộ, các vùng mới khai hoang, tích cực mở rộng diện cơ giới hoá tại các vùng sản xuất lúa tập trung ở đồng bằng phía Nam và phía Bắc; riêng phía Bắc thì ưu tiên mở rộng diện cơ giới hoá ở những vùng có điều kiện tăng vụ và rút bớt lao động đi xây dựng các vùng kinh tế mới. Ngoài việc cơ giới hoá khâu làm đất, cố gắng đẩy mạnh việc cơ giới hoá các khâu gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch, v.v.. Tiến hành thí điểm cơ giới hoá đồng bộ ở một số huyện, chú ý một số huyện ở đồng bằng Bắc Bộ, để có kinh nghiệm mở nhanh ra các huyện khác. Ngành cơ khí phải đẩy mạnh sản xuất các loại thiết bị đi theo máy kéo, các máy cày loại nhỏ, đặc biệt chú trọng sản xuất phụ tùng, tổ chức tốt màng lưới sửa chữa.

Đẩy mạnh việc xây dựng hệ thống giống cây trồng và giống gia súc, gia cầm của Nhà nước và hợp tác xã, nhằm bảo đảm có đủ giống tốt và được chọn lọc cho các cây trồng và các gia súc, gia cầm.

Tăng cường trang bị và cung ứng đủ thuốc cho công tác thú y, bảo vệ thực vật, phòng, trừ sâu, bệnh.

Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp phải kết hợp với việc xây dựng nông thôn mới. Vì vậy, phải lập quy hoạch xây dựng nông thôn xã hội chủ nghĩa, sắp xếp lại các khu dân cư trên tinh thần tiết kiệm đất nông nghiệp, bố trí hợp lý các công trình sản xuất và công trình văn hoá. Việc chuyển các khu dân cư lên đồi núi để có thêm đất trồng trọt phải bàn bạc dân chủ với nhân dân và phải được nhân dân đồng tình; khi thực hiện phải làm từng bước vững chắc, tránh vội vã, gây nên những ảnh hưởng tiêu cực trong sản xuất và đời sống.

Bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp là kết quả của sự lãnh đạo tập trung của Đảng và sự quản lý có hiệu lực của Nhà nước. Tất cả các ngành kinh tế, văn hoá, giáo dục, quốc phòng, tất cả các cơ quan quản lý tổng hợp và toàn thể đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật phải coi việc đáp ứng các nhu cầu của nông nghiệp, thuỷ lợi là nhiệm vụ hàng đầu của mình. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, các đơn vị sản xuất, kinh doanh cần tạo mọi điều kiện cho nông nghiệp và thuỷ lợi phát triển nhanh.

Phải tăng cường năng lực quản lý và chỉ đạo nông nghiệp cho các tỉnh mới giải phóng, cho cấp huyện; đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho huyện, cho các hợp tác xã nông nghiệp và cho tổ chức nông hội các cấp ở các tỉnh phía Nam.

Phát triển mạnh lâm nghiệp

Một yêu cầu hết sức quan trọng trước mắt và lâu dài của nền kinh tế nước ta là ra sức phát triển lâm nghiệp. Rừng và đất rừng là nguồn tài nguyên to lớn và quý giá nằm trên hơn nửa phần diện tích của đất nước, ở đó mật độ dân số đang còn rất thấp. Phải mau chóng chuyển bớt lực lượng lao động quá đông ở đồng bằng lên góp phần khai thác những tiềm lực kinh tế rất phong phú ở trung du và miền núi. Làm như vậy là tạo ra những lợi ích to lớn và quý báu về nhiều mặt: lợi ích về điều hoà khí hậu và thời tiết, đặc biệt là lợi ích đối với nguồn nước và môi trường sống, lợi ích về nguồn sản phẩm phục vụ cho đời sống nhân dân, cho công nghiệp và xuất khẩu, lợi ích về phân bố lao động và phân bố dân cư, lợi ích về kết hợp kinh tế với quốc phòng.

Công cuộc phát triển lâm nghiệp đòi hỏi chúng ta coi trọng cả ba khâu: trồng rừng, bảo vệ và tu bổ rừng, khai thác và chế biến lâm sản.

Bằng mọi biện pháp tích cực, cần phủ kín đồi trọc trong khoảng hai hoặc ba kế hoạch 5 năm. Phải có quy hoạch và kế hoạch dài hạn trồng rừng; phát động liên tục, sâu rộng phong trào "trồng cây gây rừng". Gắn chặt công cuộc phát triển lâm nghiệp với việc vận động đồng bào ở miền núi định canh, định cư và tổ chức lại sản xuất lâm nghiệp và nông nghiệp ở miền núi để chấm dứt nạn phá rừng làm rẫy. Đối với đồng bào hiện du canh, du cư, cần giúp đồng bào đẩy mạnh sản xuất lương thực và trong điều kiện cần thiết thì cung ứng thoả đáng lương thực cho đồng bào để tổ chức đồng bào thành những người thợ rừng, những người bảo vệ tài nguyên rừng, hoặc làm các ngành, nghề khác. Phải xem chính sách định canh, định cư ổn định và cải thiện đời sống cho đồng bào miền núi là một chính sách kinh tế có nội dung chính trị to lớn, thể hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.

Trong 5 năm này, phấn đấu trồng ít nhất 1,2 triệu hécta rừng. Khẩn trương quy hoạch các khu vực đất rừng để trồng rừng, bảo vệ và tu bổ, cải tạo rừng. Xây dựng các cơ sở chọn giống, các vườn ươm, khoanh vùng khai thác giống và tận thu giống nhằm bảo đảm cung ứng đủ giống cây cho các lâm trường quốc doanh, hợp tác xã và nhân dân trồng rừng. Hướng trồng rừng là nhằm hình thành các vùng rừng cây tập trung cho nhu cầu công nghiệp như gỗ trụ mỏ, gỗ cho công nghiệp giấy, sợi, nhất là ở trung du và miền núi phía Bắc. Trong thời gian sớm nhất, phải phủ xanh các đồi trọc, ra sức khôi phục và trồng kín rừng ở vùng bờ biển, khoanh nuôi và gây trồng các khu rừng đầu nguồn. Phát triển rừng cây đặc sản ở những nơi thích hợp. Khoanh những khu rừng nguyên thuỷ thành các rừng quốc gia, ở đó nghiêm cấm mọi hoạt động khai thác và săn bắn để bảo vệ những loại thực vật và muông thú quý.

Phải tăng cường sự chỉ đạo của các cấp đối với công tác lâm nghiệp, làm cho các cấp đủ sức chỉ đạo tốt công tác trồng rừng, bảo vệ rừng. Sử dụng lực lượng quân đội, thu hút nhiều lao động tại chỗ và thu hút ngày càng đông đảo lao động ở đồng bằng lên trung du, miền núi làm lâm nghiệp. Cùng với việc phát triển mạnh quốc doanh lâm nghiệp, xây dựng các lâm trường trồng rừng và khai thác rừng, phải rất coi trọng vai trò của các hợp tác xã và lực lượng nhân dân trong công cuộc phát triển lâm nghiệp. Phải mạnh dạn giao rừng và đất rừng cho hợp tác xã quản lý kinh doanh theo quy hoạch, kế hoạch, và chính sách của Nhà nước. Nhà nước cần có chính sách đãi ngộ đối với nhân dân trồng rừng như đãi ngộ đồng bào đi xây dựng kinh tế mới. Các huyện miền núi phải được từng bước xây dựng thành những đơn vị kinh tế nông nghiệp - lâm nghiệp - công nghiệp, kinh doanh tổng hợp nghề rừng, kết hợp trồng cây công nghiệp với chăn nuôi, ở những nơi có điều kiện thì tận dụng khả năng làm thêm lương thực.

Phải khẩn trương củng cố lực lượng kiểm lâm nhân dân để làm nhiệm vụ bảo vệ rừng có hiệu quả. Phải kiên quyết ngăn chặn nạn phá rừng và nạn cháy rừng, hết sức bảo vệ rừng đầu nguồn.

Đi đôi với công tác trồng rừng trên quy mô lớn và bảo vệ rừng, phải đẩy mạnh việc khai thác, chế biến gỗ và các lâm sản khác. Phấn đấu đưa sản lượng gỗ khai thác năm 1980 lên 3,5 triệu m3 bằng nhiều biện pháp, trong đó chú ý việc làm thêm đường lâm nghiệp, tăng thêm thiết bị khai thác, vận chuyển, tận dụng những phương tiện khai thác và vận chuyển thô sơ. Tổ chức việc khai thác rừng một cách hợp lý và khoa học, quản lý tốt việc sử dụng và chế biến tổng hợp gỗ nhằm tiết kiệm gỗ. Tận dụng số gỗ cành, ngọn, sơ chế ngay tại nơi khai thác để đưa nửa thành phẩm về nơi sử dụng. Chấn chỉnh các khâu kinh doanh khai thác, vận xuất, chế biến, cung ứng gỗ, khắc phục những chỗ không hợp lý. Hình thành mạng lưới chế biến và cung ứng gỗ ở khắp nơi trong nước, đáp ứng kịp thời yêu cầu của các ngành xây dựng và sản xuất, đáp ứng yêu cầu của nhân dân để làm nhà cửa, phương tiện lao động và sinh hoạt. Phấn đấu hạ giá thành sản xuất để hạ giá bán gỗ và đồ gỗ.

Phát triển mạnh ngư nghiệp (hải sản và thuỷ sản)

Với điều kiện thiên nhiên và khí hậu thuận lợi của ta, phát triển mạnh nghề nuôi, đánh bắt và chế biến hải sản và thuỷ sản là một nhiệm vụ quan trọng để tăng nhanh nguồn thực phẩm giàu chất đạm cho bữa ăn của người, tăng nguồn thức ăn cho gia súc và tăng nguồn hàng xuất khẩu.

Đẩy mạnh nghề đánh cá biểnchế biến hải sản. Phấn đấu đến năm 1980 khai thác được 1 triệu tấn cá biển trở lên, chế biến khoảng 40.000 tấn tôm và cá ướp đông cho xuất khẩu, khoảng 3-4 vạn tấn bột cá làm thức ăn gia súc. Hiện nay sản lượng cá lớn nhất là do khu vực tập thể và cá thể cung ứng. Phải sớm củng cố các hợp tác xã đánh cá và quốc doanh đánh cá ở các tỉnh phía Bắc, đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa ngành đánh cá ở các tỉnh phía Nam, tổ chức lại các lực lượng đánh cá, phát triển và tăng cường lực lượng đánh cá quốc doanh, đưa ngành hải sản nước ta thành một ngành công nghiệp quan trọng.

Xây dựng thêm các bến cá, kho lạnh, các cơ sở đóng và sửa chữa tàu, thuyền ở các địa phương, trang bị đồng bộ các khâu hậu cần và chế biến để phát huy tốt nhất năng lực sản xuất. Tổ chức lực lượng chuyên xây dựng cho ngành hải sản để đảm nhận khối lượng xây dựng rất lớn của ngành.

Trang bị các tàu cá cỡ vừa và cỡ lớn và tàu đánh tôm cho các cơ sở quốc doanh; tăng thêm thiết bị thăm dò nguồn cá, tăng cường hệ thống thông tin liên lạc, chỉ huy trong nghề cá. Phát triển những tàu cỡ vừa và cỡ lớn làm trạm nổi, thu mua cá, cung ứng dịch vụ ngoài khơi. Xây dựng các công ty quốc doanh liên hiệp đánh bắt và chế biến cá.

Vùng biển nước ta, nhất là vùng biển phía Nam, có những điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ và toàn diện công nghiệp khai thác và chế biến hải sản. Nhà nước cần dành số vốn đầu tư tương xứng để nhanh chóng phát triển ngành công nghiệp còn non trẻ nhưng rất có triển vọng này. Các ngành công nghiệp phải cung ứng ngày càng đầy đủ vật tư, phương tiện, thiết bị cho nghề khai thác và chế biến hải sản.

Cùng với nghề cá biển, phải tích cực đưa nghề nuôi cá, tôm, nuôi các thuỷ sản nước ngọt và nước lợ thành một nghề chăn nuôi quan trọng trong các cơ sở quốc doanh nuôi thuỷ sản, các hợp tác xã nông nghiệp và trong nhân dân. Phải tận dụng các hồ, đầm, sông cụt, các công trình thuỷ lợi lớn và các mặt nước khác để nuôi cá, tôm và các loại thuỷ sản. Mở rộng mạng lưới gây cá giống áp dụng kỹ thuật tiến bộ, sớm bảo đảm đủ cá giống cho khắp các vùng trong nước. Phấn đấu đến năm 1980 đạt sản lượng 35 vạn tấn trở lên cá nước ngọt và nước lợ.

Đẩy mạnh phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng

Nhiều nguyên liệu nông sản, lâm sản, thuỷ sản tăng lên tạo điều kiện thúc đẩy công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phát triển nhanh. Chúng ta đang có những nhu cầu rất to lớn và bức thiết về hàng tiêu dùng, vừa để cải thiện đời sống của nhân dân, vừa để thúc đẩy sự giao lưu giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, kích thích sản xuất nông nghiệp, và tăng nguồn hàng xuất khẩu.

Phải khai thác các năng lực sản xuất trong cả nước của công nghiệp quốc doanh, của tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, của hợp tác xã và nghề phụ gia đình để làm ra nhiều mặt hàng phong phú.

Các ngành sản xuất và kinh doanh hàng tiêu dùng phải quán triệt quan điểm kinh doanh xã hội chủ nghĩa, phục vụ nhân dân, kiên quyết khắc phục xu hướng kinh doanh bản vị, cục bộ, kiên quyết đả phá tư tưởng chạy theo lợi nhuận đơn thuần.

Đồng thời với việc ra sức thực hiện kế hoạch sản xuất hàng tiêu dùng do Nhà nước giao cho, mỗi địa phương cần tận dụng nguyên liệu và lao động tại chỗ, làm thêm nhiều sản phẩm phù hợp với thị hiếu và tập quán tiêu dùng của địa phương.

Ngoài việc tận dụng và mở rộng các cơ sở hiện có, chúng ta xây dựng một số nhà máy mới để sản xuất các mặt hàng thiết yếu.
Để có vải may mặc và để gia công hàng dệt cho nước ngoài, chúng ta xây dựng thêm cơ sở kéo sợi, bổ sung thêm máy dệt, tận dụng năng lực dệt của tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, đưa sản lượng vải và lụa năm 1980 lên khoảng 450 triệu mét. Mở rộng sản xuất hàng dệt kim, hàng may sẵn, quần áo ấm, bít tất, hàng bằng da và giả da, giầy dép, mũ, áo mưa, trong đó cần chú ý các mặt hàng cho trẻ em, phụ nữ và các trang phục bảo hộ lao động. Phát triển mạnh nghề dệt thảm len và thảm đay, các mặt hàng làm bằng tre, mây, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác, dành chủ yếu cho xuất khẩu.

Đi đôi với đẩy mạnh khôi phục và xây dựng các nhà máy giấy lớn, phát triển thêm các cơ sở làm giấy nhỏ, tận dụng mọi nguồn nguyên liệu, kể cả việc thu hồi giấy loại để chế biến lại, đưa sản lượng giấy năm 1980 lên khoảng 13 vạn tấn. Chuẩn bị xây dựng những nhà máy giấy và nhà máy bìa cứng khi có điều kiện.

Phấn đấu cung ứng ngày càng nhiều cho nhân dân các đồ dùng sinh hoạt thông thường, nhất là những đồ dùng làm bằng nguyên liệu trong nước. Phát triển mạnh các mặt hàng làm bằng tre, gỗ (bàn, ghế, giường...), các đồ dùng làm bằng sành, sứ, thuỷ tinh. Đẩy mạnh sản xuất các dụng cụ gia đình bằng kim loại, như nồi, xoong, ấm, v.v.. Tăng mức sản xuất xe đạp, quạt điện, đồng hồ báo thức. Coi trọng làm thêm nhiều mặt hàng bảo hộ lao động. Quan tâm đầy đủ đến các đồ dùng phục vụ đời sống văn hoá của nhân dân như đồ dùng giảng dạy, dụng cụ học tập, đồ chơi trẻ em, nhạc cụ, văn hoá phẩm, đồ dùng cho thể dục, thể thao, v.v., đặc biệt chú ý sản xuất các mặt hàng phục vụ nhu cầu của các cơ sở sinh hoạt công cộng và phúc lợi tập thể.

Để phát triển nhanh các ngành công nghiệp hàng tiêu dùng, phải chủ động giải quyết vấn đề nguyên liệu bằng việc xây dựng các cơ sở nguyên liệu trong nước đi đôi với việc sử dụng tổng hợp nguyên liệu, tận dụng phế liệu, phế phẩm và nguyên liệu tái sinh. Đối với các mặt hàng thiết yếu cho đời sống nhân dân và cho xuất khẩu, chúng ta tranh thủ nhập thêm nguyên liệu.

 Ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng cần phấn đấu nâng cao chất lượng, mỹ thuật công nghệhạ giá thành sản phẩm.
Công nghiệp thực phẩm phải bảo đảm chế biến tốt nguồn nông sản và thuỷ sản, góp phần cải tiến bữa ăn của nhân dân.

Trong 5 năm tới phải phát triển công nghiệp chế biến lương thực, bảo đảm xay xát đại bộ phận thóc của Nhà nước, chế biến hết số lúa mì và bột mì nhập khẩu, phát triển rộng rãi việc chế biến các loại màu, nhất là sắn, khoai, ngô. Chú ý sản xuất các loại bột cho trẻ em.

Tận dụng các nguồn nguyên liệu thuỷ sản và nông sản, đẩy mạnh sản xuất nước mắm nước chấm. Tổ chức rộng rãi việc chế biến thức ăn làm sẵn, phát triển việc chế biến các loại dầu thực vật, các loại nước giải khát. Mở rộng các nhà máy đường hiện có, xây dựng thêm một số nhà máy cỡ 1-2 nghìn tấn mía/ngày trở lên và nhiều cơ sở nhỏ làm đường, mật, sản xuất thêm đường nha, đường gờluycô, đưa sản lượng đường và mật năm 1980 đạt khoảng 22-25 vạn tấn.

Phát triển công nghiệp chế biến rau quả xuất khẩu, xây dựng thêm nhiều cơ sở đông lạnh để sản xuất rau quả ướp đông, đặc biệt là dứa ướp đông. Phát triển chế biến chè, thuốc lá.

Nghề muối phải thoả mãn nhu cầu muối ăn và muối nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp.

2. Xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp nặng

Phải đẩy mạnh xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp nặng trước hết là ngành cơ khí, để phát huy vai trò chủ đạo của công nghiệp nặng, phục vụ tốt nhu cầu rất lớn trước mắt của nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành kinh tế khác, đồng thời chuẩn bị khả năng đáp ứng nhu cầu trang bị kỹ thuật lớn hơn cho nền kinh tế trong kế hoạch sau.

Cơ khí là ngành then chốt có nhiệm vụ trang bị kỹ thuật và nâng cao năng suất lao động của gần 22 triệu lao động hiện nay. Phát triển mạnh ngành cơ khí là một trọng tâm của kế hoạch 5 năm này.

Phải kết hợp chặt chẽ lực lượng sản xuất cơ khí của các ngành kinh tế và quốc phòng, của quốc doanh, hợp tác xã và của các thành phần kinh tế khác. Tổ chức lại sản xuất trong toàn ngành cơ khí, phân công hợp lý giữa các lực lượng cơ khí trong cả nước, bổ sung thiết bị, đồng bộ hoá một bước năng lực sản xuất cơ khí. Ra sức phát huy công suất của các nhà máy hiện có, tích cực xây dựng thêm một số nhà máy cơ khí quan trọng. Trong kế hoạch 5 năm này, ngành cơ khí phải phấn đấu đáp ứng những nhu cầu chủ yếu sau đây:

- Nhanh chóng cung ứng đủ công cụ thường và công cụ cải tiến cho các ngành kinh tế, trước hết là cho nông nghiệp và xây dựng.

- Cung ứng một phần quan trọng máy móc, thiết bị lẻ phục vụ nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, xây dựng cơ bản và giao thông vận tải, nhất là về các loại sản phẩm như máy công cụ, máy kéo nhỏ, máy bơm, tàu hút bùn, tàu cá, tàu ven biển, toa xe...

- Bước đầu sản xuất một số loại thiết bị toàn bộ cho các ngành công nghiệp sản xuất gạch, ngói, xi măng, chế biến phân lân, sản xuất đường, chè, xay xát gạo, chế biến màu...

- Đáp ứng phần lớn nhu cầu phụ tùng thông thường của các ngành công nghiệp; nâng cao đáng kể mức đáp ứng nhu cầu phụ tùng ô tô, máy kéo; đáp ứng phần lớn nhu cầu sửa chữa máy móc, thiết bị của các ngành.

Phải rất coi trọng nâng cao chất lượng các sản phẩm cơ khí.

Để có năng lực đáp ứng nhu cầu lớn hơn về trang bị kỹ thuật cho nền kinh tế trong kế hoạch sau, cần tích cực chuẩn bị và khởi công xây dựng một số công trình cơ khí rất quan trọng như nhà máy sản xuất máy kéo cỡ vừa, các nhà máy sản xuất máy mài, nhà máy sản xuất máy rèn dập, nhà máy rèn đúc tập trung, nhà máy cơ khí nặng và một số nhà máy cơ khí phục vụ chuyên ngành quan trọng khác.

Hiện nay và trong nhiều năm tới, chúng ta đặc biệt quan tâm phát triển ngành điện, ngành than và tích cực xây dựng công nghiệp khai thác và chế biến dầu mỏ, khí đốt.

Để đưa sản lượng điện đến năm 1980 đạt 5 tỷ kwh trở lên, đồng thời chuẩn bị nguồn điện cho các năm sau, phải khẩn trương xây dựng nhiều nhà máy điện vừa và lớn, trong đó có các Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại, Đáp Cầu, Đông Hà, Nhà máy Thủy điện Đa Nhim mở rộng, chuẩn bị khởi công Nhà máy Thuỷ điện Cốc San (Hoàng Liên Sơn). Chúng ta sẽ khởi công xây dựng công trình thuỷ điện lớn trên sông Đà. Khi công trình này hoàn thành và phát huy đầy đủ công suất thiết kế, chúng ta sẽ có thêm hàng năm khoảng 7,5 tỷ kwh điện với giá thành rẻ, việc chống lũ cho đồng bằng Bắc Bộ sẽ được giải quyết một bước rất quan trọng. Phải phát triển mạng lưới điện cân đối với nguồn điện, mở rộng mạng lưới điện phục vụ nông nghiệp, thuỷ lợi, nhất là ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tận dụng khả năng xây dựng thêm các trạm thuỷ điện nhỏ và vừa, đồng thời rất coi trọng việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm điện.

Phấn đấu đưa sản lượng than năm 1980 lên 10 triệu tấn. Ngoài nhiệm vụ cung ứng than cho nhu cầu công nghiệp, phải bảo đảm có đủ than cho nông dân làm chất đốt thay rạ và sản xuất ngói. Xây dựng một số mỏ than công suất cỡ 1 đến trên 2 triệu tấn/năm, chú trọng xây dựng nhanh mỏ Cao Sơn; đồng thời tích cực xây dựng nhiều mỏ vừa và nhỏ, khai thác thêm than địa phương, thu hồi và tận dụng triệt để các loại than nhiệt lượng thấp. Đẩy mạnh việc chế biến các loại than. Thực hiện phân phối than chặt chẽ, tăng cường quản lý và cải tiến kỹ thuật để sử dụng than hợp lý và tiết kiệm.

Đặc biệt coi trọng đẩy mạnh công tác thăm dò và tiến tới khai thác dầu mỏ, khí đốt ở cả phía Bắc và phía Nam, đồng thời chuẩn bị các điều kiện để xây dựng nhà máy chế biến dầu mỏ đầu tiên ở nước ta.

Nhìn chung, nguồn năng lượng trong thời gian tới chưa tăng được nhiều, vì vậy càng cần tiết kiệm năng lượng trong sản xuất và tiêu dùng, tích cực nghiên cứu sử dụng thêm các nguồn năng lượng khác như trồng cây lấy củi, dùng khí sinh vật, dùng năng lượng mặt trời, sức gió, v.v..

Hết sức coi trọng phát triển công nghiệp sản xuất nguyên liệu, vật liệu trong nước, trước hết là tăng sản xuất thép, phân bón, hoá chất và vật liệu xây dựng.

Để đáp ứng được một phần nhu cầu cấp bách về thép, phải hoàn chỉnh các cơ sở gang thép ở khu vực Lưu Xá, Gia Sàng, tăng thêm năng lực sản xuất thép ở các tỉnh phía Nam, phát triển sản xuất thép đúc trong các nhà máy cơ khí. Tổ chức phong trào quần chúng thu nhặt thép vụn và các phế liệu kim loại khác, tích cực thu hồi phế liệu kim loại, cung ứng cho các cơ sở luyện kim. Phấn đấu năm 1980 đạt sản lượng thép cán 30 vạn tấn. Để tăng sản xuất thép vào kế hoạch 5 năm sau, cần chuẩn bị và khởi công xây dựng nhà máy gang thép mới ở khu vực Thái Nguyên với công suất 25 vạn tấn thép/năm. Mở rộng sản xuất crômít, thiếc. Tích cực chuẩn bị cho việc xây dựng khu gang thép mới và một số cơ sở luyện kim màu khác khi có điều kiện.

Trong công nghiệp hoá chất, sản lượng các loại phân bón hoá học năm 1980 tăng lên 1,3 triệu tấn, chủ yếu là phân lân và apatít nghiền. Mở rộng sản xuất thuốc trừ sâu, trừ cỏ, các hoá chất kích thích cây trồng và gia súc sinh trưởng. Ra sức phát huy năng lực sản xuất săm lốp ô tô và đắp lại lốp ô tô hiện có, đồng thời tăng thêm công suất mới. Đẩy mạnh sản xuất thuốc chữa bệnh. Tận dụng khả năng của các cơ sở công nghiệp hoá chất, đặc biệt là khả năng của lực lượng tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, dùng nguyên liệu trong nước làm ra các loại hoá chất công nghiệp thông thường.

Để tăng đáng kể năng lực của công nghiệp hoá chất vào những năm sau, trong kế hoạch 5 năm này sẽ khởi công xây dựng một số nhà máy hoá chất quan trọng, trong đó có Nhà máy phân đạm (công suất 80 vạn tấn phân tiêu chuẩn/năm), công trình mở rộng khai thác và làm giàu quặng apatít, Nhà máy sợi Vítcô (công suất 2 vạn tấn/năm), Nhà máy xút cốttích (công suất 6,6 vạn tấn/năm) và một số nhà máy hoá chất khác.

Trong những năm tới, việc phát triển mạnh mẽ và rộng khắp công nghiệp sản xuất các loại vật liệu xây dựng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, tạo điều kiện mở rộng xây dựng trong cả nước. Đi đôi với việc xây dựng một số nhà máy xi măng lớn cỡ trên dưới 1 triệu tấn/năm, cần phát triển nhiều cơ sở xi măng vừa và nhỏ ở các địa phương, sản xuất thêm các chất kết dính cấp thấp dùng cho các công trình ít chịu lực và xây dựng ở nông thôn. Phấn đấu đến năm 1980 sản xuất được 2 triệu tấn xi măng.

Quy mô xây dựng rộng lớn trong cả nước đòi hỏi mở rộng sản xuất gạch, ngói, tấm lợp, bê tông đúc sẵn, kính xây dựng, đồ sứ vệ sinh, đồ gốm xây dựng, gạch lát các loại, v.v.. Đồng thời với việc phát triển các xí nghiệp quốc doanh sản xuất trung ương, phải phát triển mạnh các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng của địa phương, của hợp tác xã, tận dụng mọi nguồn vật liệu địa phương để phục vụ xây dựng ở địa phương. Coi trọng cung ứng vật liệu xây dựng cho nông nghiệp, thuỷ lợi, cho xây dựng nông thôn. Chú trọng mở rộng khai thác đá và nung vôi, vừa để đáp ứng nhu cầu xây dựng, vừa để cung ứng cho nhu cầu bón ruộng và cải tạo đất.

3. Phát triển giao thông vận tải. Đẩy mạnh xây dựng cơ bản

Giao thông vận tải và xây dựng cơ bản gắn liền với sự phát triển của công nghiệp và nông nghiệp, nối liền hoạt động của các ngành sản xuất công - nông nghiệp và phục vụ cho các ngành sản xuất công - nông nghiệp thực hiện các mục tiêu của kế hoạch.

Quy mô phát triển kinh tế và việc phân bố lại lực lượng sản xuất đòi hỏi mở rộng hoạt động của giao thông vận tải và thông tin liên lạc trong phạm vi cả nước, cũng như trong từng vùng kinh tế, đáp ứng nhu cầu trước mắt rất lớn của các ngành kinh tế, đồng thời chuẩn bị đáp ứng những nhu cầu to lớn hơn trong kế hoạch sau. Muốn vậy, phải kiên quyết sớm khắc phục tình trạng năng lực giao thông vận tải và thông tin liên lạc không cân đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và không cân đối giữa các bộ phận trong nội bộ ngành.

Phát huy những thuận lợi lớn của vận tải đường biển, trong 5 năm này, xúc tiến cải tạo và phát triển một bước các cảng biển (chú ý cảng Hải Phòng), mở rộng các cảng than, xây dựng cảng mới ở Cửa Lò, tăng cường có trọng điểm năng lực thông qua của các cảng ở miền Trung và miền Nam. Đẩy mạnh công tác nạo vét các luồng lạch. Tăng thêm tàu biển và sà lan.

Vận tải đường sắt giữ vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tiếp tục củng cố các tuyến đường đã thông xe, cải tạo, mở rộng và trang bị hệ thống thông tin tín hiệu nửa tự động cho một số tuyến đường quan trọng. Chấn chỉnh tổ chức quản lý để tăng năng lực vận chuyển trên các trục đường chính. Chú ý làm thật tốt những công trình lớn trong 5 năm này là khu đầu mối Hà Nội, cầu Thăng Long, mở rộng đường Hà Nội, Hải Phòng lên 1,435m, bắt đầu mở rộng đường sắt Bắc - Nam.

Trong thời gian tới, để tận dụng hệ thống sông, ngòi, kênh, rạch rất thuận lợi cho vận tải đường sông, ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng Bắc Bộ, cần cải tạo và phát triển hệ thống cảng sông, nạo vét luồng lạch, cơ giới hoá khâu bốc dỡ, phát triển rộng rãi việc đóng các phương tiện vận tải cơ giới và thô sơ trên sông và phương tiện vừa đi sông vừa đi ven biển.

Về đường bộ, đi đôi với việc cải tạo, mở rộng, nâng cấp hệ thống đường quốc lộ, chú trọng xây dựng và mở rộng hệ thống đường giao thông ở nông thôn, đường giao thông miền núi và đường ra vào các vùng kinh tế mới. Sắp xếp lại lực lượng ô tô vận tải hiện có để sử dụng hợp lý. Phát triển thêm các loại phương tiện vận tải thô sơ và cải tiến để phục vụ nông thôn, phục vụ miền núi.
Cải tạo và xây dựng hệ thống đường ống vĩnh cửu với lưu lượng lớn hơn. Phát triển một bước ngành hàng không dân dụng để phục vụ việc đi lại trong nước và với các nước ngoài.

Ngành vận tải hành khách phải tăng thêm thích đáng phương tiện vận tải công cộng, coi trọng cải tiến tổ chức quản lý và nâng cao chất lượng phục vụ.

Cùng với việc phát triển giao thông vận tải trên các tuyến do trung ương quản lý, cần hết sức coi trọng phát triển giao thông vận tải địa phương ở từng tỉnh, từng huyện và xã, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và tổ chức lại sản xuất ở địa phương.

Trong giai đoạn mới, phải coi trọng phát triển bưu điện, tăng cường hệ thống thông tin đường dài, đặc biệt là hệ thống thông tin từ trung ương đến các tỉnh phía Nam, song song với việc tăng cường mạng lưới thông tin trong các thành phố, khu công nghiệp. Từng bước mở rộng trang bị điện thoại đến các huyện, đến phần lớn xã ở đồng bằng, trung du, đến các nông trường và các hợp tác xã nông nghiệp lớn.

Quy hoạch hợp lý hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc trong cả nước cho phù hợp với quy hoạch phân bố lực lượng sản xuất.

Nâng cao trình độ tổ chức và quản lý để phát huy hơn nữa hiệu quả của phương tiện vận tải và phương tiện thông tin hiện có.
Trong kế hoạch 5 năm, quy mô phát triển sản xuất và xây dựng đòi hỏi công tác xây dựng cơ bản tăng lên vượt bậc. Bên cạnh khối lượng xây dựng của trung ương, khối lượng xây dựng của địa phương, của hợp tác xã, của nhân dân rất lớn. Ngành xây dựng giữ vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc hoàn thành những nhiệm vụ chủ yếu của các ngành kinh tế, nhất là của nông nghiệp và thuỷ lợi. Phải bảo đảm đưa vào sản xuất đúng hạn nhiều công trình quan trọng đáp ứng sự phát triển cân đối giữa ngành này với ngành khác. Phải xây dựng nhanh nhà ở cho dân để mọi người được an cư lạc nghiệp và có đời sống gia đình yên vui. Phải quy hoạch các khu vực dân cư ăn khớp với sự phân bố mới của lực lượng sản xuất. Từng bước xây dựng theo quy hoạch đã định Thủ đô của nước nhà thống nhất và xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng các khu công nghiệp, các thành thị phải tiến hành đồng bộ, vừa có các cơ sở kinh tế, vừa có đủ kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt của dân cư.

Để thực hiện những nhiệm vụ quan trọng đó, trong những năm tới, ngành xây dựng phải được phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, lớn mạnh cả về lực lượng khảo sát, thiết kế, thi công, lực lượng sản xuất vật liệu và lực lượng nghiên cứu khoa học. Ngoài lực lượng xây dựng của Bộ Xây dựng, phải phát triển lực lượng xây dựng của các ngành kinh tế khác, lực lượng xây dựng chuyên nghiệp của quân đội và lực lượng xây dựng của các địa phương, của các hợp tác xã nông nghiệp.

Tăng cường nghiên cứu khoa học, kỹ thuật trong xây dựng, tăng cường lực lượng cán bộ nghiên cứu và tăng cường trang bị cho các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu mới về khoa học, kỹ thuật xây dựng của thế giới vào điều kiện nước ta, sáng tạo ra những kinh nghiệm của ta về xây dựng ở vùng nhiệt đới.

Xây dựng nhanh, có hiệu quả, với chất lượng tốtgiá thành rẻ là những yêu cầu cấp bách hiện nay. Vì vậy, phải tập trung lực lượng làm dứt điểm và đồng bộ từng công trình, nhất là những công trình quan trọng về kinh tế và phục vụ đời sống nhân dân. Càng rút ngắn thời gian thi công, đưa nhanh công trình vào sử dụng, nâng cao chất lượng của công trình bao nhiêu, càng đem lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế bấy nhiêu.

Cả nước cũng như từng ngành, từng địa phương phải có kế hoạch xây dựng cơ bản vững chắc. Kế hoạch đầu tư xây dựng công trình phải dựa trên cơ sở làm tốt các khâu chuẩn bị ban đầu, phải cân đối kế hoạch thiết kế, kế hoạch thi công, kế hoạch cung ứng vật liệu xây dựng và thiết bị lắp đặt vào công trình. Hết sức chống xu hướng bố trí phân tán vốn đầu tư và vật tư trong xây dựng cơ bản, gây ra lãng phí, kéo dài thời gian xây dựng và chậm phát huy hiệu quả.

Đặc biệt coi trọng cải tiến tổ chức quản lý thi công, mở rộng việc áp dụng các phương pháp tổ chức lao động khoa học, các phương pháp quản lý thi công theo sơ đồ mạng.

Coi trọng đúng mức công nghiệp hoá ngành xây dựng. Trang bị đủ công cụ với chất lượng ngày càng tốt cho đội ngũ lao động xây dựng. Nâng cao hiệu suất sử dụng thiết bị thi công hiện có, tăng cường việc trang bị máy thi công, chủ yếu cho các công việc xây dựng nặng nhọc, có khối lượng lớn, trước hết là trong xây dựng các công trình đầu mối về thuỷ lợi, các công trình công nghiệp lớn.

Để góp phần khắc phục khó khăn về vật liệu xây dựng, phải quản lý chặt chẽ việc sử dụng vật liệu xây dựng từ thiết kế đến thi công, tích cực tìm các giải pháp kỹ thuật để tiết kiệm vật liệu, nhất là thép, gỗ, xi măng, tích cực dùng vật liệu thay thế được sản xuất trong nước.

Một khâu có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng của kế hoạch 5 năm là gấp rút tăng cường công tác chuẩn bị đầu tư và chuẩn bị xây dựng, trước hết là tăng cường các công tác khảo sát, quy hoạch, thiết kế. Ra sức tăng cường đội ngũ thăm dò, khảo sát, trang bị thêm thiết bị khảo sát, đo đạc, nghiên cứu, thử nghiệm...

4. Chuyển hướng mạnh công tác lưu thông, tài chính, ngân hàng theo yêu cầu cải tạo, xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa

Trong 5 năm này, phải chuyển hướng mạnh công tác lưu thông, phân phối, phù hợp với yêu cầu tổ chức lại nền sản xuất xã hội, phân bố lại lực lượng sản xuất, cải tạo và xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Các ngành làm công tác lưu thông phải chuyển biến căn bản về quan điểm, tổ chức, phương thức và chất lượng kinh doanh để nối liền sản xuất với tiêu dùng, công nghiệp với nông nghiệp, làm người hậu cần tốt cung ứng vật tư kỹ thuật cho sản xuất và xây dựng, làm người nội trợ giỏi cung ứng hàng tiêu dùng cho toàn dân.

Hệ thống cung ứng vật tư hiện nay còn gây nhiều trở ngại cho sản xuất và xây dựng, cần được cải tiến mạnh. Sự phân công về cung ứng vật tư, tổ chức màng lưới và phương thức cung ứng vật tư, cần được đổi mới theo hướng thực hiện bán buôn tư liệu sản xuất một cách đúng đắn, khắc phục lối quản lý bao cấp, chống tệ cửa quyền, móc ngoặc, phục vụ tốt các cơ sở sản xuất và xây dựng, từng bước thực hiện đưa vật tư kịp thời, đúng với yêu cầu về số lượng và chất lượng, đến tận xí nghiệp, tận hợp tác xã hoặc đến địa điểm gần nơi sản xuất. Cải tiến việc cung ứng vật tư, đáp ứng tốt các nhu cầu về công cụ lao động, các phương tiện làm việc, hiện nay là nhân tố có tác dụng rất quan trọng để nuôi dưỡng phong trào quần chúng thi đua lao động và sản xuất với nhiệt tình cao. Trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều thành phần, ngành nội thương còn phải đảm nhận chức năng cung ứng một số vật tư, bán một phần tư liệu sản xuất. Phương thức hoạt động của ngành nội thương trong lĩnh vực này phải đáp ứng yêu cầu khuyến khích tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp phát triển các mặt hàng phong phú và đa dạng, thoả mãn các nhu cầu nhiều mặt của nhân dân mà kế hoạch nhà nước không bao quát hết.

Về cung ứng hàng tiêu dùng cho nhân dân, ngành thương nghiệp phải nhạy cảm trước yêu cầu của quần chúng, tìm cách tác động, kích thích phát triển thêm nguồn hàng, tăng rất mạnh những mặt hàng thiếu để thoả mãn thị trường, bảo đảm phục vụ tốt nhất, kịp thời nhất các nhu cầu của nhân dân, bảo đảm phân phối hàng hoá thuận tiện đến tay mọi người lao động.

Bằng những mối quan hệ bán tư liệu sản xuất và hàng công nghiệp tiêu dùng, ký hợp đồng hai chiều, thương nghiệp phải kích thích sản xuất nông nghiệp và thu mua nắm nguồn hàng nông sản. Thông qua việc cải tiến rõ rệt cách gia công, bán nguyên liệu, thu mua thành phẩm, bằng chính sách giá cả hợp lý, thương nghiệp phải nắm phần lớn nhất hàng công nghiệp tiêu dùng của tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp.

Nhà nước phải có kế hoạch nắm và điều động hàng hoá trong phạm vi cả nước, tổ chức lưu thông hàng hoá giữa các vùng kinh tế. Các địa phương phải đề cao tinh thần trách nhiệm, làm tốt nghĩa vụ thu mua, giao nộp sản phẩm và điều động hàng hoá, nhất là lương thực và nông sản thực phẩm, theo kế hoạch của trung ương. Khắc phục tình trạng lỏng lẻo và xu hướng cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa hiện nay trong việc thu mua, giao nộp sản phẩm và điều động hàng hoá.

Với việc phân bố lại lao động và dân cư trên nhiều vùng kinh tế mới, màng lưới thương nghiệp phải trải rộng ra, đi sâu vào nông thôn, các khu vực công trường, nông trường, lâm trường mới. Mở rộng và sắp xếp lại màng lưới thu mua, màng lưới bán lẻ, tăng thêm nhiều điểm thu mua, bán hàng và quầy hàng lưu động.

Bố trí hợp lý thời gian thu mua và bán hàng, dùng nhiều hình thức thu mua và bán hàng thuận tiện nhất cho người sản xuất, cho khách hàng, nâng cao nghiệp vụ thương nghiệp, xây dựng thái độ phục vụ đúng đắn, chống thái độ cửa quyền, gây phiền hà cho người sản xuất và người tiêu dùng.

Đặc biệt coi trọng mở rộng và nâng cao chất lượng phục vụ ăn uống công cộng, phát triển màng lưới phục vụ sinh hoạt cho nhân dân.

Phát triển mạnh thành phần thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, đồng thời đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp tư nhân, tiếp tục chuyển phần lớn những người buôn bán nhỏ sang sản xuất, đấu tranh chống đầu cơ, tích trữ và quản lý tốt thị trường tự do, nhất là ở vùng mới giải phóng. Tăng cường chỉ đạo và hướng dẫn các hoạt động lưu thông ở chợ nông thôn, duy trì chợ nông thôn làm nơi trao đổi trực tiếp sản phẩm kinh tế phụ gia đình giữa nông dân với nhau và với những người tiêu dùng khác.

Tuỳ theo tình hình phát triển sản xuất, từng bước thu hẹp các mặt hàng bán theo định lượng. Trong việc phân phối hàng hoá phục vụ nhân dân, ngành thương nghiệp phải kiên quyết thực hiện phân phối công bằng, hợp lý, luôn luôn ghi nhớ lời dạy của Hồ Chủ tịch: "Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên".

Dự kiến đến năm 1980, tổng mức hàng hoá bán lẻ toàn xã hội tăng trên 50% so với năm 1976, trong đó mức bán lẻ của thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã sẽ tăng gần gấp đôi và chiếm 80% tổng doanh số bán lẻ.

Trong khi tổ chức lại nền sản xuất xã hội, hệ thống tài chính phải bảo đảm huy động đầy đủ và sử dụng tốt tất cả mọi nguồn vốn trong nước để đáp ứng nhu cầu của sản xuất và tích luỹ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, cũng như nhu cầu nâng cao phúc lợi cho nhân dân.

Để làm được nhiệm vụ đó, cần kiểm kê, nắm vững và kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng mọi nguồn tài sản cố định và tài sản lưu động hiện có, kiểm tra nghiêm ngặt việc chấp hành chế độ hạch toán kinh tế và các chế độ, thể lệ tài chính khác, thúc đẩy các cơ sở sản xuất và kinh doanh tận dụng hết mọi nguồn dự trữ về sức lao động, thiết bị, vật tư và tiền vốn hiện có, nâng cao hiệu quả kinh tế trên một đồng vốn sản xuất. Vận dụng tốt để phát huy tác dụng tích cực của chế độ thu quốc doanh, chế độ nộp lợi nhuận và phân phối lợi nhuận, trích lập ba quỹ của xí nghiệp quốc doanh, các chế độ thưởng, phạt... Nghiên cứu cải tiến và thực hiện đầy đủ chế độ thuế công bằng, hợp lý đối với khu vực kinh tế tư doanh, tập thể và cá thể, góp phần điều tiết đúng đắn nguồn thu nhập của các tầng lớp dân cư. Tóm lại, tài chính phải tìm mọi cách tạo ra những nguồn tích luỹ mới từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, chủ yếu là tích luỹ từ nguồn lao động dồi dào, tài nguyên phong phú và năng lực sản xuất sẵn có.

Trong kế hoạch 5 năm, phải xây dựng được một ngân sách tích cực, thống nhất cả nước, bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách các địa phương. Phải quản lý chặt chẽ việc thu chi tài chính thống nhất trong tất cả các cấp ngân sách, bảo đảm sử dụng tập trung, đúng hướng mọi nguồn vốn của Nhà nước vào việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và củng cố quốc phòng. Đồng thời, cần xác định đúng đắn quyền hạn về thu, chi tài chính của các cấp chính quyền địa phương, tương ứng với nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho mỗi cấp tỉnh, huyện, xã. Trong việc phân phối vốn, nhất là vốn đầu tư, cần hết sức chặt chẽ, tập trung cao để tránh lãng phí và phát huy được hiệu quả lớn. Phải tiết kiệm các khoản chi, nhất là chi về quản lý hành chính.

Quản lý tốt việc sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài, ra sức tiết kiệm ngoại tệ.

Nghiên cứu để chuyển một phần chế độ cấp phát tài chính không hoàn lại hiện nay sang chế độ cấp phát dưới hình thức tín dụng, nhằm nâng cao trách nhiệm của các ngành, các đơn vị sản xuất đối với việc sử dụng có hiệu quả tiền vốn.

Vai trò của ngân hàng trong hệ thống quản lý kinh tế là hết sức quan trọng. Ngân hàng cần phát huy hết các chức năng của mình để thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng cường chế độ hạch toán kinh tế trong mọi lĩnh vực sản xuất, kinh doanh.

Công tác quan trọng nhất của ngân hàng là sử dụng mạnh mẽ đi đôi với cải tiến chế độ tín dụng. Cần nâng cao hơn nữa tỷ lệ vốn tín dụng trong vốn lưu động của xí nghiệp quốc doanh, thực hiện chế độ lãi suất có phân biệt, có thưởng, phạt, để khuyến khích các tổ chức quốc doanh và hợp tác xã quay vòng vốn nhanh và thanh toán đúng thời hạn. Từng bước thực hiện cho vay vốn đầu tư đối với các công trình dưới hạn ngạch, cũng như đối với một số công trình trên hạn ngạch. Mạnh dạn cho vay đối với các thành phần kinh tế tập thể và tư doanh để mở mang sản xuất và lưu thông theo đúng kế hoạch nhà nước.

Ra sức vận động cán bộ và nhân dân gửi tiền tiết kiệm, cải tiến thủ tục gửi và rút tiền tiết kiệm.

Quản lý chặt chẽ tiền mặt và việc lưu thông tiền tệ nói chung, bảo đảm sự cân đối tích cực giữa khối lượng tiền lưu hành với nhu cầu sản xuất và lưu thông, ổn định tiền tệ và giữ vững sức mua của đồng tiền.

Là trung tâm thanh toán, ngân hàng cần tăng cường quản lý và đề cao kỷ luật thanh toán, thông qua đồng tiền để giám đốc sát các hoạt động của mọi cơ sở kinh tế, góp phần thúc đẩy quay vòng vốn nhanh và đưa lại hiệu quả lớn của tiền vốn.

Trong công tác quản lý ngoại tệ, ngân hàng cần phát huy chức năng của mình nhằm tác động tốt đến việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại.

5. Mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế với nước ngoài

Trong khi dựa vào sức mình là chính để phát huy tới mức cao nhất năng lực sản xuất hiện có, chúng ta ra sức tăng cường quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em và với các nước khác.

Muốn nhập được những thiết bị và vật tư cần thiết cho việc phát triển sản xuất và đẩy mạnh nhịp độ xây dựng trong nước, phải chủ động có kế hoạch, có chính sách, có tổ chức tốt để tạo nguồn hàng xuất khẩu có khối lượng lớn, giá trị cao, mở rộng khả năng hợp tác kinh tế của nước ta với nước ngoài. Thực hiện đúng các hiệp nghị và hợp đồng kinh tế giữa nước ta với các nước.
Tất cả các ngành, các địa phương, các cơ sở sản xuất phải phấn đấu hết sức mình đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu, coi đó là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của mình trong kế hoạch 5 năm này. Để hỗ trợ cho việc đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước phải bổ sung hàng loạt chính sách khuyến khích xuất khẩu.

Nguồn xuất khẩu chủ yếu là các mặt hàng nông sản và nông sản chế biến, thuỷ sản, lâm sản, hàng công nghiệp tiêu dùng và hàng mỹ nghệ, hàng may mặc, đồ thêu ren, thảm len, thảm đay, một phần khoáng sản và hàng công nghiệp nặng.

Coi trọng phát triển kinh doanh du lịch, tổ chức tốt việc cung ứng cho tàu biển nước ngoài và các dịch vụ khác.

Đi đôi với việc đẩy mạnh xuất khẩu, phải quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu, sử dụng nguồn ngoại tệ của chúng ta một cách hợp lý, tập trung vào việc nhập những vật tư kỹ thuật và hàng hoá thiết yếu nhất cho sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Dùng thiết bị, vật tư nhập khẩu phải tính toán chặt chẽ hiệu quả kinh doanh, phải xem xét thời gian thu hồi vốn đầu tư và khả năng trả nợ. Cần nghiên cứu, lựa chọn nhập đúng những thiết bị kỹ thuật hiện đại cần thiết cho nền kinh tế quốc dân. Đối với những loại nguyên liệu, vật liệu, thiết bị mà trong nước có khả năng vươn lên sản xuất được, Nhà nước và các ngành cần phải có kế hoạch đẩy mạnh sản xuất để giảm nhập hoặc tiến tới không phải nhập.

Trong giai đoạn mới, chúng ta phải ra sức tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Chúng ta rất coi trọng tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế, và giúp đỡ lẫn nhau với các nước láng giềng anh em Lào và Campuchia. Chúng ta mở rộng quan hệ kinh tế và kỹ thuật với các nước dân tộc chủ nghĩa và với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi.

6. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, phát huy vai trò then chốt của cách mạng khoa học - kỹ thuật

Gắn liền với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng tư tưởng và văn hoá, cách mạng khoa học - kỹ thuật là một nhân tố góp phần quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Công tác khoa học và kỹ thuật phải phục vụ đắc lực việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế và văn hoá, củng cố quốc phòng.

Trong kế hoạch 5 năm, phải tiến một bước thực sự trong việc gắn chặt khoa học, kỹ thuật với sản xuất và quản lý kinh tế, phát huy tác dụng của khoa học và kỹ thuật (bao gồm các ngành khoa học - kỹ thuật và khoa học xã hội quan hệ chặt chẽ với nhau và thâm nhập vào nhau). Phải làm cho khoa học - kỹ thuật trở thành căn cứ của kế hoạch và hoạt động kinh tế, thể hiện trong việc chuẩn bị các quyết định chiến lược cho nhiều năm cũng như trong việc điều hành sản xuất hàng ngày, trong công tác của các cơ quan lãnh đạo, của những người thủ trưởng, cũng như trong lao động của quần chúng. Kế hoạch phát triển khoa học - kỹ thuật, bao gồm chỉ tiêu ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, phải gắn liền với kế hoạch phát triển các ngành, các đơn vị cơ sở và là một bộ phận hợp thành của kế hoạch phát triển nền kinh tế quốc dân.

Kiên quyết tập trung lực lượng cán bộ khoa học, kỹ thuật, hoàn thành dứt điểm một số công trình nghiên cứu có tính chất liên ngành, đem lại giải đáp khoa học, kỹ thuật cho những bài toán kinh tế lớn đang đặt ra theo đúng nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch 5 năm. Trước hết, khoa học, kỹ thuật phải bảo đảm sự phát triển vượt bậc của nông nghiệp. Khoa học, kỹ thuật phải góp phần quan trọng đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp cơ khí, công nghiệp hàng tiêu dùng, góp phần giải quyết các khó khăn về nguyên liệu, vật liệu và năng lượng, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng nhanh khả năng xuất khẩu, tăng nhanh năng lực xây dựng cơ bản và phát triển giao thông vận tải.

Trong những năm trước mắt, để thúc đẩy việc tổ chức lại sản xuất, phải đặc biệt coi trọng công tác điều tra cơ bản tài nguyên và điều kiện thiên nhiên, điều tra cơ bản về kinh tế và xã hội, làm căn cứ chắc chắn cho việc lập các quy hoạch và kế hoạch. Chú ý đẩy mạnh điều tra địa chất, tìm kiếm, thăm dò, đánh giá trữ lượng tài nguyên địa chất phục vụ việc phát triển kinh tế, nhất là việc xây dựng công nghiệp nặng.

Trên cơ sở phát huy tinh thần tự lực tự cường, cần tranh thủ nhập khẩu những thiết bị và kỹ thuật hiện đại của thế giới, phấn đấu mau chóng làm chủ những thiết bị và kỹ thuật đó, hướng vào mục tiêu phấn đấu trước mắt của kế hoạch nhà nước.

Chú trọng nghiên cứu ứng dụng, triển khai nhanh các kết quả nghiên cứu vào sản xuất, đồng thời quan tâm đầy đủ đến nghiên cứu cơ bản, đặc biệt là những vấn đề khoa học, kỹ thuật nhiệt đới. Rất coi trọng nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu về khoa học quản lý vào việc cải tiến công tác quản lý kinh tế của chúng ta.

Ra sức chấn chỉnh nền nếp quản lý kỹ thuật trong sản xuất và lưu thông, phân phối, bổ sung hệ thống tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật, tăng cường công tác đo lường, kiểm tra chất lượng sản phẩm, quản lý sáng kiến phát minh. Cải tiến các chính sách, chế độ và hệ thống tổ chức quản lý công tác khoa học, kỹ thuật trong cả nước, bộ phận hợp thành quan trọng của hệ thống quản lý kinh tế. Chú trọng thực hiện chính sách bồi dưỡng cán bộ khoa học, kỹ thuật cả về kiến thức, tinh thần và vật chất.
Để phát huy tác dụng của đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, phải sớm tập hợp lực lượng khoa học và kỹ thuật của cả nước, kể cả lực lượng trí thức Việt kiều ở nước ngoài, tham gia nghiên cứu những vấn đề cấp bách của sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở nước ta, theo một kế hoạch thống nhất, có tổ chức, phân công và lãnh đạo chặt chẽ.

Ra sức xây dựng tiềm lực khoa học, kỹ thuật, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ và công nhân (kể cả việc đào tạo trên đại học trong nước). Tăng cường năng lực quản lý của Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước. Nâng cao năng lực nghiên cứu của Viện Khoa học Việt Nam, của các viện, các trạm, trại nghiên cứu, thí nghiệm và điều tra cơ bản. Sắp xếp lại mạng lưới các cơ quan nghiên cứu khoa học - kỹ thuật và các trường đại học trong cả nước, kết hợp chặt chẽ các lực lượng nghiên cứu - giảng dạy - sản xuất ở các ngành và địa phương.

Phát triển mạnh công tác thông tin khoa học - kỹ thuật và mở rộng hợp tác quốc tế về khoa học và kỹ thuật.

Phát động một phong trào quần chúng sôi nổi, liên tục tiến quân vào mặt trận khoa học - kỹ thuật, không ngừng cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, đạt chất lượng tốt và năng suất cao, đưa cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật thật sự đi sâu vào quần chúng, vào đời sống.

7. Xây dựng, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước

Cách mạng về quan hệ sản xuất có vai trò to lớn trong việc thực hiện những nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 1976-1980. Trong cả nước, kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa cần mở rộng trận địa, thể hiện tính hơn hẳn và vai trò chủ đạo của mình. ở các tỉnh phía Bắc, phải tiếp tục củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, trong tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp. ở các tỉnh phía Nam tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách tích cực và vững chắc để hoàn thành về cơ bản trong thời gian kế hoạch 5 năm này việc hợp tác hoá nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, tổ chức lại những người thợ thủ công và những người buôn bán nhỏ. Công cuộc xác lập, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước gắn liền với quá trình tổ chức lại sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

Nông nghiệp hợp tác hoá ở các tỉnh phía Bắc tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thông qua việc tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý từ hợp tác xã và trên địa bàn huyện, theo quy hoạch chung của cả nước và của tỉnh. Tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp hợp tác hoá ở phía Bắc phát huy tác dụng quan trọng lâu dài của mình bằng cách tổ chức lại sản xuất, tăng cường trang bị kỹ thuật và cải tiến quản lý, coi trọng củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, khắc phục các khuyết điểm của lối làm ăn sản xuất nhỏ và thói xấu của kinh doanh cá thể. Nói chung, đối với khu vực kinh tế tập thể, ở các tỉnh phía Bắc, những chủ trương và biện pháp đẩy mạnh cách mạng về quan hệ sản xuất đã được khảo nghiệm trong thực tiễn và được xác định trong nhiều nghị quyết của Đảng và Chính phủ. Phải phấn đấu thực hiện nghiêm chỉnh các nghị quyết đó, đạt kết quả thiết thực.

Trong toàn bộ hoạt động kinh tế ở các tỉnh phía Bắc, cả kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, cần tích cực cải tiến chế độ quản lý, cải tiến chế độ phân phối, để đạt hiệu quả cao.

các tỉnh phía Nam, tiến lên chủ nghĩa xã hội là tiến hành đồng thời cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh phía Nam là phát động quần chúng xoá bỏ tư sản mại bản và tàn dư bóc lột phong kiến, xoá bỏ giai cấp tư sản, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, chống đầu cơ và làm ăn phi pháp, mở đường cho những người tư sản tiếp thu con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của đất nước; xoá bỏ bất công trong đời sống xã hội, thực hiện một sự phân phối mới, công bằng, tạo điều kiện cho nền kinh tế của cả nước sớm thống nhất trong chủ nghĩa xã hội. Đây thực sự là một sự chuyển biến cách mạng sâu rộng ở các tỉnh phía Nam, mở đường đưa lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, có ý nghĩa to lớn chẳng những về kinh tế, mà cả về chính trị, tư tưởng và xã hội, đem lại sự đổi mới toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống và đối với mọi tầng lớp nhân dân ở các tỉnh phía Nam.

Điều cực kỳ quan trọng là tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa phải kết hợp với xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tổ chức lại sản xuất là khâu nối liền cải tạo quan hệ sản xuất với phát triển lực lượng sản xuất. Tổ chức lại sản xuất đi đôi với cải tiến quản lý, xây dựng chế độ quản lý kinh tế mới ở các tỉnh phía Nam.

Trong nông nghiệp, nhanh chóng cắt đứt quan hệ của giai cấp tư sản với nông dân, kịp thời tổ chức các mối quan hệ giữa Nhà nước với nông dân, dùng các mối quan hệ ấy để giúp đỡ nông dân phát triển sản xuất, đồng thời đề cao nghĩa vụ của nông dân bán lương thực và nông sản khác cho Nhà nước. Việc hợp tác hoá nông nghiệp ở các tỉnh phía Nam phải tiến hành tích cực, vững chắc và khẩn trương. Vấn đề quan trọng nhất là đào tạo cán bộ quản lý, làm thí điểm để mở rộng nhanh khi đã tạo được các điều kiện cần thiết.

Đối với những vùng đất đai rộng lớn, trên diện tích của các đồn điền cũ cũng như trên diện tích mới được khai hoang, sẽ thành lập những nông trường quốc doanh.

Tại các vùng phục hoang và các vùng kinh tế mới, cần quy hoạch các khu vực sản xuất kết hợp tổ chức các khu vực dân cư, tạo thuận lợi cho việc tiến lên sản xuất lớn trong nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

Đối với những xí nghiệp tư bản tư doanh, tuỳ theo tình hình cụ thể của từng ngành sản xuất, tổ chức công tư hợp doanh hoặc để tồn tại kinh doanh tư nhân dưới sự quản lý của Nhà nước và theo yêu cầu của kế hoạch nhà nước.

Đối với tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, dùng nhiều hình thức linh hoạt, từ những người làm thủ công cá thể được đăng ký kinh doanh sản xuất, đến tổ sản xuất, hợp tác xã cung tiêu, hợp tác xã sản xuất và thông qua các chính sách thuế, tín dụng, giá cả, cung ứng vật tư, hợp đồng kinh tế, gia công đặt hàng và thu mua sản phẩm để giúp đỡ và cải tạo, đưa họ vào con đường làm ăn đúng đắn, phát triển sản xuất đúng hướng, phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Trong xây dựng, ra sức phát triển lực lượng xây dựng của Nhà nước, đồng thời sử dụng tốt các lực lượng thi công của tư nhân, có quy chế kiểm soát của Nhà nước, bảo đảm quyền lợi của công nhân xây dựng và của người giao thầu. Tuỳ theo tình hình cụ thể, sẽ thu hút những người làm công tác xây dựng vào các công ty xây dựng công tư hợp doanh hoặc tổ chức những hợp tác xã xây dựng.

Trong vận tải, nhanh chóng sắp xếp lại màng lưới vận tải theo hướng phát triển mạnh vận tải quốc doanh, tổ chức lực lượng vận tải đường bộ và đường sông thành các công ty công tư hợp doanh hoặc hợp tác xã vận tải, có phân công hợp lý trên từng tuyến, từng khu vực, tổ chức liên vận giữa các phương thức vận chuyển.

Trong các ngành phục vụ, Nhà nước nắm kinh doanh khách sạn và các công ty du lịch, nhanh chóng quy hoạch lại màng lưới các cơ sở du lịch, nghỉ mát, tổ chức thành những đơn vị kinh doanh.

Đối với thương nghiệp, phát triển thương nghiệp quốc doanh, sớm tổ chức và nắm chắc khâu thu mua và bán buôn. Nhà nước giữ trọn quyền thu mua, phân phối và cung ứng lương thực cho nhân dân. Nhà nước thu mua đại bộ phận hàng công nghiệp và tổ chức việc bán buôn hàng công nghiệp. Mở rộng màng lưới thương nghiệp quốc doanh bán lẻ, nhất là đối với những mặt hàng thiết yếu, tổ chức các hợp tác xã mua bán, đồng thời sớm tiến hành cải tạo thương nghiệp tư bản tư doanh và tiểu thương, chuyển phần lớn tiểu thương sang sản xuất.
Đối với ngoại thương, Nhà nước nắm độc quyền.

8. Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa, phát triển công tác văn hoá, xã hội, đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hoá

Phải làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin từng bước thấm nhuần trong quần chúng, trang bị cho nhân dân những tư tưởng lớn của đường lối của Đảng, những tư tưởng lớn của kế hoạch 5 năm 1976-1980, khiến cho công cuộc phấn đấu thực hiện những mục tiêu của kế hoạch thực sự là sự nghiệp của quần chúng. Phải đưa công tác giáo dục, văn hoá, nghệ thuật tiến lên một bước mạnh mẽ, xây dựng nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân.

Trước hết phải phát triển mạnh màng lưới mẫu giáo, thu nhận phần lớn các cháu hết tuổi nhà trẻ. Tất cả thanh niên, thiếu niên đều phải được học đầy đủ bậc giáo dục phổ thông. Từng bước phổ cập giáo dục theo độ tuổi. Để tăng số học sinh phổ thông lên 13 triệu 70 vạn em năm 1980, Nhà nước đầu tư và huy động sự đóng góp của nhân dân, xây dựng thêm 14 vạn phòng học mới. Việc soạn thảo và xuất bản sách giáo khoa tăng gấp 1,6 lần so với hiện nay để có đủ sách giáo khoa phát không cho học sinh. Đội ngũ giáo viên tăng gấp 1,5 lần và được bồi dưỡng, nâng cao chất lượng. Trong 5 năm, bắt đầu thực hiện cuộc cải cách giáo dục sâu rộng trong cả nước theo hướng kết hợp nhà trường với xã hội, kết hợp giáo dục với lao động, đưa giáo dục kỹ thuật vào chương trình phổ thông, phát triển hình thức vừa học vừa làm.

Hệ thống các trường đại học và trung học chuyên nghiệp phải được sắp xếp lại, hoàn chỉnh và mở rộng từng bước, bố trí khớp với sự bố trí các ngành, các vùng kinh tế trong cả nước. Tăng thêm thiết bị giảng dạy và thí nghiệm, nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô đào tạo. Trong 5 năm, để đào tạo 20 vạn cán bộ có trình độ đại học và 34 vạn cán bộ kỹ thuật trung học, sẽ mở rộng, cải tạo và xây dựng mới 32 trường đại học và trung học chuyên nghiệp.

Đồng thời cần hết sức coi trọng đào tạo công nhân kỹ thuật với trình độ lành nghề ngày càng cao, phù hợp với phương hướng phát triển các ngành kinh tế, khắc phục sự mất cân đối hiện nay giữa lực lượng cán bộ và đội ngũ công nhân. Mở rộng hệ thống các trường công nhân ở trung ương và địa phương cũng như các trường dạy nghề bên cạnh xí nghiệp, đẩy mạnh đào tạo và bồi dưỡng các giáo viên dạy nghề và sử dụng hợp lý những thiết bị, phương tiện hiện có trong các cơ sở sản xuất vào công tác đào tạo.

Ngoài việc đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật tại các trường tập trung, cần phát triển hình thức học hàm thụ, học tại chức và kèm cặp trong sản xuất.

Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thanh toán nạn mù chữ và bổ túc văn hoá cho những người lao động lớn tuổi. Ngoài việc tổ chức những lớp bình dân và bổ túc văn hoá ở các khu phố, thôn, xã và ở cơ quan, xí nghiệp, cần tổ chức các trường, lớp bổ túc văn hoá tập trung ở huyện, tỉnh, trước hết cho những cán bộ cách mạng và thanh niên miền Nam đã tham gia kháng chiến.

Như vậy, nếu tính số người đi học, ở các lứa tuổi, ở tất cả các cấp và theo các hình thức, thì đến năm 1980 ở nước ta cứ ba người dân có một người đi học.

Trên cơ sở nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, cần phát triển đều khắp các hoạt động văn hoá, nghệ thuật nhằm tuyên truyền, giáo dục sâu rộng đường lối, chính sách của Đảng, động viên khí thế cách mạng và dấy lên phong trào thi đua sôi nổi thực hiện thắng lợi những mục tiêu của kế hoạch 5 năm.

Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng của công tác xuất bản sách, báo, truyền thanh, truyền hình, điện ảnh chiếu phim, biểu diễn nghệ thuật, hoạt động thể dục thể thao. Các ngành, các cấp và các đoàn thể phải thực sự tạo điều kiện đẩy mạnh phong trào văn nghệ quần chúng, xây dựng các đội văn nghệ nghiệp dư làm hạt nhân cho phong trào. Nhà nước cùng với sự đóng góp của nhân dân sẽ xây dựng nhiều trung tâm văn hoá ở các tỉnh, thành phố, huyện và các cơ sở văn hoá nông thôn, với thư viện, nhà văn hoá, câu lạc bộ..., làm cho việc đọc sách, báo, nghe đài, xem phim, sinh hoạt văn nghệ trở thành nếp sống hàng ngày ở khắp mọi nơi, kể cả những miền xa xôi hẻo lánh nhất. Dự kiến đến năm 1980 số sách xuất bản tăng hơn 2 lần, số lượt người xem chiếu bóng tăng gấp 1,6 lần. Hơn 80% số hộ thành thị và 50% số hộ nông thôn sẽ có phương tiện nghe đài. Đồng thời cần chăm lo tổ chức những hoạt động giải trí, vui chơi lành mạnh khác cho nhân dân lao động.

Làm tốt công tác bảo tồn bảo tàng, xây dựng những tượng đài kỷ niệm cách mạng và kháng chiến, giữ gìn và tu bổ các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, tổ chức tốt việc triển lãm và các cuộc tham quan nhằm giáo dục truyền thống đấu tranh, lòng yêu nước và tự hào dân tộc.

Sau nhiều năm chiến tranh gian khổ, hiện nay mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước và toàn dân là bảo vệ và nâng cao sức khoẻ của nhân dân, giải quyết tốt những bệnh tật do chiến tranh và xã hội cũ để lại.

Nắm vững phương châm phòng bệnh là chính, cần gây một phong trào thể dục vệ sinh rộng rãi trong toàn dân theo khẩu hiệu "khoẻ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", kết hợp với các biện pháp bảo đảm vệ sinh công cộng, chống ô nhiễm môi trường. Kiểm tra nghiêm ngặt việc thực hiện các chế độ vệ sinh thực phẩm, vệ sinh lao động, tổ chức tiêm chủng phòng dịch rộng rãi trong nhân dân. Thanh toán bệnh sốt rét trong cả nước, từng bước giải quyết các bệnh xã hội. ở nông thôn, phát triển phong trào ăn sạch, ở sạch, có đủ giếng nước, nhà tắm và hố xí hợp vệ sinh.

Để đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám bệnh và chữa bệnh của nhân dân, Nhà nước đầu tư và huy động sự đóng góp của nhân dân, xây dựng và mở rộng hơn 60 bệnh viện, lập xong màng lưới y tế cơ sở ở các xã, quận, huyện. Trong 5 năm, tăng thêm 53 nghìn giường bệnh ở các bệnh viện và trạm xá từ trung ương đến xã. Tăng cường đội ngũ thầy thuốc giỏi về chuyên môn và có tinh thần phục vụ tận tuỵ người bệnh, biết kết hợp tốt tây y với đông y. Sử dụng rộng rãi nguồn thuốc trong nước, đẩy mạnh sản xuất tân dược và chế biến thuốc nam. Xây dựng và phát triển nền y học và dược học dân tộc. Thừa kế và phát huy những kinh nghiệm cổ truyền của dân tộc ta về chữa bệnh và làm thuốc, kết hợp với kinh nghiệm của y học và dược học thế giới. Tiến tới thực hiện chính sách chữa bệnh không phải trả tiền thuốc cho toàn thể nhân dân.

Tổ chức tốt việc điều dưỡng, nghỉ ngơi cho công nhân, viên chức và nhân dân lao động. Chăm lo chu đáo việc bảo vệ bà mẹ và trẻ em, phát triển rộng rãi màng lưới nhà trẻ theo nơi cư trú và nâng cao chất lượng nuôi dạy trẻ, bảo đảm đến năm 1980 thu nhận được ít nhất 80% trẻ em ở các thành phố và khu công nghiệp, 50% trẻ em ở các vùng nông thôn. Đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, kiên quyết giảm dần tốc độ tăng dân số hàng năm, phấn đấu đến năm 1980 tỷ lệ tăng dân số là trên 2% một ít. Mọi ngành, mọi cấp phải coi cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch là một công tác có tầm quan trọng to lớn, có ý nghĩa chính trị, kinh tế và xã hội, góp phần tích cực vào việc nâng cao đời sống của nhân dân ta.

Nhà nước và toàn dân có trách nhiệm chăm lo sức khoẻ và đời sống của thương binh và gia đình liệt sĩ. Tổ chức tốt việc nuôi dạy trẻ mồ côi, săn sóc chu đáo những người già không nơi nương tựa và những người tàn tật vì chiến tranh.

9. Cải thiện một bước đời sống của nhân dân

Cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, là mục tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm 1976-1980 này, bởi vì nhân dân cả nước ta đã trải qua một cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt trong suốt 30 năm, bởi vì con người là vốn quý nhất để xây dựng nền kinh tế và văn hoá xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta phải ra sức phấn đấu bảo đảm việc làm cho mọi người trong tuổi lao động và có khả năng lao động, sắp xếp cho mỗi người có công việc hợp lý và đòi hỏi mỗi người làm việc chăm chỉ, có kỷ luật, có năng suất lao động cao, để có thu nhập xứng đáng với cống hiến của mình.

Để cải thiện bữa ăn, mức bán lẻ một số thực phẩm chủ yếu trên thị trường có tổ chức từng năm đều tăng, đến năm 1980 sẽ tăng nhiều so với năm 1976, như thịt các loại, cá tươi, trứng, nước chấm, rau quả. Trước mắt trong khi mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm chưa tăng được nhiều, điều có thể làm được và có tác dụng rất lớn để cải thiện bữa ăn là tổ chức tốt việc chế biến và phân phối, nâng cao chất lượng phục vụ ăn uống công cộng, phục vụ tốt bữa ăn ca ba và giữa ca cho cán bộ và công nhân.

Để giảm bớt khó khăn về nhà ở, nhất là ở thành thị, các khu công nghiệp, những vùng bị chiến tranh tàn phá nặng nề, trong 5 năm, Nhà nước đầu tư và huy động sự đóng góp của nhân dân, xây dựng và cải tạo khoảng 14 triệu m2 nhà ở, trong đó 6 triệu m2 ở các thành phố và khu công nghiệp thuộc các tỉnh phía Bắc. Huy động rộng rãi công nhân, viên chức và nhân dân tham gia sản xuất và khai thác vật liệu địa phương, xây dựng nhiều nhà ở một tầng, hai tầng bằng vật liệu địa phương. Cần khuyến khích các hình thức hợp tác xã xây dựng nhà ở và nhân dân tự xây dựng với sự giúp đỡ của tập thể hoặc của Nhà nước về vật liệu và về cho vay vốn.

ở các thành thị, chú ý xây dựng đồng bộ các công trình vệ sinh, điện, nước, cống rãnh và phục vụ công cộng, để xây dựng xong là có thể ở được ngay.

ở nông thôn, phấn đấu đến năm 1980 hầu hết các hộ nông thôn có đủ giếng nước, nhà tắm, hố xí hợp vệ sinh.

Trong khi chưa có điều kiện tăng nhanh mức tiêu dùng vải, hướng cải thiện về mặc tập trung vào việc nâng cao chất lượng vải và hàng may mặc sẵn, có nhiều cỡ loại, nhất là quần áo trẻ em, phụ nữ. Phấn đấu để mọi người đều mặc lành, đủ ấm và có đủ quần áo lao động.

Trong vài năm tới, cố gắng đáp ứng nhu cầu về những hàng tiêu dùng thông thường mà trong nước có sẵn nguyên liệu và khả năng sản xuất. Dự kiến đến năm 1980 sẽ tăng đáng kể mức bán xà phòng, giấy viết, đồ sứ và các hàng thông thường khác. Ngoài ra, phấn đấu để từng bước cung ứng cho nhiều gia đình có quạt điện, máy thu thanh, các gia đình nông dân có đủ màn, phích nước, đồng hồ để bàn, xe đạp... Công nghiệp địa phương chú ý sản xuất và cung ứng cho các vùng dân tộc ít người những hàng hoá cần thiết phù hợp với đặc điểm và tập quán sinh hoạt của đồng bào.

Sau khi đất nước đã thống nhất và hoà bình, phải bảo đảm nhu cầu đi lại của nhân dân thông suốt trong cả nước, giữa miền xuôi, miền núi và các vùng kinh tế mới, giữa thành thị và nông thôn. Giao thông công cộng trong các thành phố và khu công nghiệp phải được tổ chức lại cho thuận tiện và hợp lý...

Trên cơ sở phát triển sản xuất và tăng năng suất lao động, cần cải tiến chế độ tiền lương và tăng lương cho công nhân, viên chức nhằm thực hiện đầy đủ hơn nữa nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa theo số lượng và chất lượng lao động. Đồng thời, chú trọng tăng các quỹ phúc lợi xã hội. Tổng số các khoản trợ cấp và phúc lợi xã hội do ngân sách nhà nước đài thọ năm 1980 gấp 2,6 lần so với năm 1976. Nếu kể cả các khoản phúc lợi do quỹ xí nghiệp, quỹ hợp tác xã, quỹ công đoàn đài thọ, và khoản giảm giá một số mặt hàng tiêu dùng, thì thu nhập thực tế của công nhân, viên chức tăng khoảng 30 - 35%, của nông dân tăng 15 - 20%.
*
*     *

Theo những nhiệm vụ và mục tiêu chung và trong từng lĩnh vực như trình bày trên đây, việc thực hiện kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 sẽ tăng cường một bước cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa lại một sự bố trí mới các lực lượng sản xuất trên địa bàn cả nước với nhiều ngành, nghề mới, với những vùng kinh tế mới, những khu vực dân cư mới kết hợp thành phố và nông thôn, kết hợp hoạt động và đời sống của con người với điều kiện thiên nhiên và cảnh đẹp của đất nước.

Trong sự bố trí chiến lược đó, ăn khớp với các khu vực sản xuất là những khu vực dân cư, có địa điểm và số dân hợp lý, gồm những khu vực dân cư hiện có được điều chỉnh lại và những khu vực dân cư mới, ở đồng bằng, trung du, miền núi và ven biển. Các khu vực dân cư đó đều được tổ chức thuận lợi cho lao động sản xuất, cho đời sống của nhân dân, cho việc bảo vệ môi trường.

Bố trí kinh tế và đời sống xã hội theo khu vực sản xuất và khu vực dân cư như vậy tiêu biểu rõ rệt tính hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa, thể hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân ta đối với xã hội, đối với tự nhiên và đối với bản thân mình. Đó là điều chủ nghĩa tư bản dẫu có bao nhiêu phương tiện vật chất và tiền bạc cũng không bao giờ làm được, trái lại, chính trong những nước tư bản phát triển nhất, sự phân bố tự phát và hỗn loạn các khu vực sản xuất và khu vực dân cư đã gây ra biết bao hậu quả khốc hại về kinh tế và đời sống, phá hoại môi trường, khoét sâu các mâu thuẫn xã hội.

Việc tổ chức hợp lý các khu vực dân cư và chăm lo đời sống của nhân dân ở từng nơi là trách nhiệm trực tiếp của các cấp chính quyền địa phương tỉnh, huyện, dưới sự chỉ đạo và giúp đỡ của các cơ quan nhà nước có trách nhiệm ở trung ương. Theo quy hoạch chung của cả nước, từng địa phương phát huy sức lao động và tài nguyên thiên nhiên tại chỗ, giải quyết các vấn đề về ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, giữ gìn sức khỏe, vui chơi, giải trí của nhân dân. Bất kỳ tại vùng nào của đất nước, đều có thể từng bước tạo ra đời sống tốt đẹp, dùng khả năng của địa phương, theo truyền thống và tập quán địa phương, từ cơ cấu bữa ăn, vật liệu và kiểu xây nhà, loại vải và cách may mặc, chủng loại và quy cách hàng tiêu dùng, các thứ thuốc chữa bệnh bằng dược liệu địa phương.

Đời sống văn hoá thể hiện trong các mối quan hệ xã hội từ quy mô cả nước đến từng gia đình, và diễn ra toàn diện tại các khu vực dân cư, với những cơ sở vật chất và phương tiện hoạt động văn hoá bố trí chung cho dân cư trong khu vực, với nội dung sinh hoạt văn hoá có màu sắc địa phương.

Chính trong từng khu vực dân cư, nhân dân lao động trực tiếp thực hiện quyền làm chủ tập thể về sản xuất và phân phối, về đời sống vật chất và văn hoá, kiểm tra công tác của các cơ quan nhà nước, trực tiếp phê bình, nhận xét các cán bộ có trách nhiệm ở địa phương. Mặc dầu đời sống vật chất chưa thể cải thiện nhanh, trong từng khu vực dân cư, đời sống văn hoá có thể có sự đổi mới rõ rệt ngay trong kế hoạch 5 năm này, một đời sống văn hoá lành mạnh, tươi vui, với những giá trị tinh thần cao quý, mọi người đều chăm chỉ lao động, mọi người thân ái hợp tác, giúp đỡ nhau, bài trừ các thói hư, tật xấu và các hiện tượng tiêu cực.
Trong những năm qua ở các tỉnh phía Bắc, và từ ngày giải phóng ở các tỉnh phía Nam, ngày càng xuất hiện những địa phương biết theo tinh thần trên đây mà tổ chức lao động và đời sống của nhân dân với những thành tựu đáng phấn khởi.

Trong kế hoạch 5 năm này, tất cả các địa phương cần phấn đấu làm được như vậy, khiến cho đất nước ta, từ Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, cho đến những vùng xa xôi nhất, đâu đâu cũng có cuộc sống mới, xã hội chủ nghĩa, phong phú, đa dạng, như sự phong phú của con người, và sự đa dạng của đất, rừng, trời, biển nước ta.

Phần thứ ba

Những biện pháp lớn để thực hiện

kế hoạch 5 năm 1976 - 1980:

Tổ chức và quản lý
Thưa các đồng chí,

Theo những nhiệm vụ và mục tiêu đề ra trên đây cho các ngành kinh tế và văn hoá trong kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, chúng ta thực hiện một cuộc tái sản xuất mở rộng về lực lượng sản xuất, về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, về cơ cấu của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và cả về tổ chức đời sống xã hội.

Để thực hiện những mục tiêu đó, nhất thiết phải có sự chuyển hướng rất mạnh mẽ trong các lĩnh vực, công tác, trong các ngành, các cấp, ở khắp mọi nơi. Chúng ta phải chuyển từ nhận thức để quán triệt đường lối, chuyển trong việc bố trí chiến lược, chuyển các mặt quản lý kinh tế, quản lý xã hội, tổ chức bộ máy nhà nước, để cuối cùng thể hiện trong phong trào lao động sản xuất của quần chúng nhân dân, bao gồm cả phong trào trong các lực lượng vũ trang.

Chúng ta phải thực hiện sự chuyển hướng mạnh mẽ từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, bắt đầu từ các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, từ cơ quan làm kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, từ cơ quan nghiên cứu chính sách, chế độ, mà thúc đẩy, lôi cuốn tất cả các ngành, các cấp và tác động mạnh mẽ tới cơ sở. Mọi nỗ lực đều nhằm hình thành thế chiến lược mới của nền kinh tế quốc dân, đáp ứng những yêu cầu trước mắt, đồng thời tạo cơ sở cho những bước phát triển sau này.

Sự chuyển hướng mạnh mẽ ngay từ năm 1977 sẽ đem lại bộ mặt mới cho xã hội ta; những sức mạnh mới cho nền kinh tế của chúng ta; nền nếp suy nghĩ, cung cách quản lý và khí thế lao động mới cho cán bộ, công nhân và mọi tầng lớp lao động trên đất nước ta.

I- Tổ chức lại nền sản xuất xã hội, phân bố lại lực lượng sản xuất trong cả nước

Tổ chức lại nền sản xuất xã hội, phân bố lại lực lượng sản xuất vừa là một nhiệm vụ cơ bản nằm trong nội dung kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, vừa là biện pháp có tính chất chiến lược để thực hiện kế hoạch. Tận dụng những khả năng về tài nguyên thiên nhiên như đất đai, rừng, biển, khoáng sản... và những khả năng về sức lao động, là nhằm đáp ứng yêu cầu bức thiết của nền kinh tế quốc dân và của đời sống nhân dân, đồng thời tạo tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của lực lượng sản xuất, và của sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong thời gian tiếp theo.

Đối với nước ta hiện nay, tận dụng khả năng về đất nông nghiệp càng sớm càng tốt là một đòi hỏi to lớn, cấp bách và có tác dụng quý báu nhất; và phải sử dụng đất nông nghiệp theo quy hoạch và kế hoạch hợp lý để đẩy mạnh nông nghiệp phát triển toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc.

Cũng phải có chủ trương như vậy đối với đất trồng rừng theo một quy hoạch và kế hoạch dài hạn, tập trung việc trồng rừng ở các vùng trung du và miền núi Bắc Bộ, vùng phía Tây Trung Bộ và vùng Tây Nguyên...

Vùng biển của chúng ta giàu hải sản và biết bao nguồn lợi thiên nhiên khác chưa lường hết và chưa được khai thác đúng mức, có khả năng thu hút không ít lao động các loại và cung ứng sớm những sản phẩm phong phú và quý giá.

Những việc trên đây đòi hỏi phân bố lại lao động (trong đó có đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật) và trang bị cho người lao động những công cụ cần thiết tuỳ theo khả năng của nước ta, nhằm thực hiện kế hoạch sản xuất càng sớm càng tốt.

Việc tổ chức lại nền sản xuất xã hội, phân bố lại lực lượng sản xuất như vậy có tầm quan trọng cơ bản trước mắt và lâu dài, nhằm sử dụng một cách hợp lý nhất "hai nguồn làm nảy sinh mọi của cải: đất và người lao động", như Các Mác đã nói.

Đây là sự kết hợp ngay từ trong kế hoạch 5 năm đầu tiên của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở cả nước ta sau chiến tranh, nông nghiệp với công nghiệp hoặc công nghiệp với nông nghiệp, bước đầu hình thành cơ cấu công - nông nghiệp, thực hiện liên minh công nông dưới nhiều hình thức: kinh tế, chính trị, văn hoá...

Chúng ta phải thấy hết ý nghĩa quan trọng của chủ trương trên đây về lý luận và thực tiễn, kết quả của một sự tổng kết kinh nghiệm của nước ta và của nhiều nước trên thế giới về quá trình phát triển công nghiệp và nông nghiệp.

Phân bố lại lực lượng sản xuất một cách có quy hoạch và kế hoạch tức là bố trí cân đối những lực lượng ấy thành những ngành và những vùng chuyên môn hoá lớn hoặc nhỏ, nhằm đáp ứng nhu cầu về tiêu dùng trong nước và về xuất khẩu.

Bố trí lực lượng sản xuất thành ngành và thành vùng để hình thành cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp, xây dựng các vùng chuyên môn hoá và thâm canh kết hợp sản xuất và chế biến, nhằm tạo khối lượng sản phẩm hàng hoá ngày càng lớn với giá thành hạ và chất lượng tốt, là sự thể hiện điển hình quá trình đưa sản xuất nhỏ, phân tán trong nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở nước ta, dưới nhiều hình thức khác nhau về phương tiện sản xuất (cơ khí và thủ công), về quan hệ sản xuất (quốc doanh, hợp tác xã, kinh tế phụ gia đình), về quy mô (lớn, vừa và nhỏ).

Trong sự bố trí lực lượng sản xuất theo vùng, chúng ta có ý thức tạo ra những điều kiện cơ bản để phát triển kinh tế và văn hoá miền núi với tốc độ nhanh, làm cho kinh tế miền núi gắn với nền kinh tế cả nước, làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, hoà nhịp cùng nhau xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa phồn vinh và vững mạnh.

Quá trình phân bố lại lực lượng sản xuất là quá trình thực hiện ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, bởi vì đó là đòn bẩy của lực lượng sản xuất, của trang bị kỹ thuật, của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.

Một mặt, chúng ta ra sức trang bị kỹ thuật hiện đại cho nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp đến mức cao nhất, mặt khác chúng ta ra sức tận dụng mọi khả năng sẵn có cung ứng cho người sản xuất công cụ thô sơ và cải tiến, nửa cơ giới. Đây là cách dùng ba thứ quân trên mặt trận sản xuất, và dùng giỏi ba thứ quân sẽ có thể đánh lớn và thắng lớn.

Để thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp với quy mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng nhanh, phải thấy rõ hai luồng trong sự chi viện của các ngành công nghiệp đối với nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp: một là, cung ứng vật tư và trang bị kỹ thuật cần thiết cho sản xuất và chế biến; hai là, cung ứng hàng tiêu dùng cần thiết cho đời sống như vật liệu làm nhà, các loại hàng thông thường, các đồ dùng cho đời sống vật chất và văn hoá... Các ngành có trách nhiệm ở trung ương phải phối hợp chặt chẽ với các địa phương, có quy hoạch và kế hoạch sản xuất và cung ứng các mặt hàng ấy một cách vững chắc và kịp thời. Đây là cơ hội tốt nhất để kết hợp kinh tế trung ương và kinh tế địa phương cùng nhau lớn lên về mọi mặt.

Đi đôi với việc phân bố lại lực lượng sản xuất phải bố trí các khu vực dân cư thuận lợi đối với sản xuất, nhất là thuận lợi đối với đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động. Muốn vậy, phải có sự tính toán về nhiều mặt và phải có sự chỉ đạo và quản lý chặt chẽ. Nhưng chúng ta không cầu toàn. Toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi nhiều năm công phu nghiên cứu và xây dựng, chúng ta phải làm từng bước, từng phần. Ngay từ đầu, chúng ta phải đặt vấn đề xây dựng những khu vực dân cư, gắn liền với những vùng sản xuất nhất định, ở khu công nghiệp, ở nông thôn, ở vùng ven biển, hoặc ở vùng rừng núi, và phải thấy những vấn đề cần giải quyết ở từng vùng đó. Như vậy trên toàn bộ lãnh thổ nước ta, sẽ có những khu vực dân cư khác nhau về điều kiện thiên nhiên, kinh tế và xã hội, trong đó các vấn đề ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, bảo vệ sức khỏe, đời sống văn hoá đều có những nét khác nhau, phong phú và đa dạng, nhưng nói chung là thuận tiện cho sản xuất và đáp ứng yêu cầu của nhân dân.

Phải thực hiện ngay từ năm 1977 một cuộc phân bố lại lực lượng lao động với quy mô non 4 triệu người trong 4 năm, và trong những năm kế tiếp sẽ tăng lên hơn nữa, để đưa vợi bớt lao động từ những thành thị lớn ở phía Nam, những vùng đồng bằng quá đông dân và thừa sức lao động ở các tỉnh phía Bắc đến những nơi sẵn có đối tượng lao động (nhất là đất đai) mà không có người làm. Cần phải tập trung sự cố gắng của Nhà nước, của các ngành có trách nhiệm, của các tỉnh có người đi và các tỉnh có người đến, để làm tốt cuộc phân bố lớn lao này. Các cơ quan có trách nhiệm phải tổ chức chu đáo việc di chuyển dân, bố trí chu đáo sản xuất và đời sống ở các vùng kinh tế mới, làm cho đời sống sớm ổn định và ngày càng tươi vui, sản xuất ngày càng phát triển. Cùng với việc di chuyển lớn này, phải thu hút hàng triệu lao động khác vào công việc xây dựng, sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp và các ngành dịch vụ. Phải tạo điều kiện cho các lực lượng của quân đội làm tốt nhiệm vụ tham gia xây dựng kinh tế, nhất là xây dựng các cơ sở sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, các công trình thuỷ lợi, xây dựng cơ bản, giao thông và các công trình khác. Quân đội phải giữ vai trò xung kích và nòng cốt trên những địa bàn chiến lược, ở các vùng có nhiều khó khăn. Phải tận dụng mọi lực lượng đến tuổi lao động tham gia xây dựng kinh tế, phát triển sản xuất.

Để đặt cơ sở cho việc tổ chức lại nền sản xuất xã hội, phân bố lại lực lượng sản xuất, cần xúc tiến nghiên cứu các quy hoạch phát triển dài hạn của các ngành kinh tế, dự kiến phân vùng kinh tế cơ bản, lập sơ đồ chung về phân bố lực lượng sản xuất trong cả nước và đối với từng vùng, từ đó mà có quy hoạch dài hạn về phát triển kinh tế, văn hoá cho từng tỉnh, từng huyện.

Tổ chức lại nền sản xuất xã hội, phân bố lại lực lượng sản xuất trong phạm vi cả nước đòi hỏi sự phối hợp của nhiều ngành, khai thác kết quả của nhiều công trình nghiên cứu. Vì vậy, phải thành lập một cơ quan chuyên trách của Hội đồng Chính phủ để triển khai công việc ngay từ đầu năm 1977.

Cần chủ động thúc đẩy nền kinh tế tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa từ hai phía liên quan mật thiết với nhau: một phía từ sự phân bố lại lực lượng sản xuất, làm xuất hiện nhiều ngành, nghề mới, nhiều vùng kinh tế mới, khiến cho nền kinh tế lớn lên về quy mô và cơ cấu sản xuất; phía khác, từ sự tích tụ sản xuất diễn ra trong bản thân mỗi đơn vị, mỗi ngành, mỗi vùng sản xuất. Quá trình tích tụ, chuyên môn hoá, hợp tác và liên hiệp sản xuất gắn liền với ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt. Các ngành, các cấp phải chủ động thanh toán tình trạng chia cắt, phân tán, không đồng bộ hiện nay giữa các ngành sản xuất, giữa kinh tế trung ương và kinh tế địa phương, giữa các đơn vị, giữa các cơ sở sản xuất với các tổ chức cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm.

Theo quy hoạch và kế hoạch chung của cả nước, các ngành kinh tế phải vạch ra quy hoạch và kế hoạch phát triển của ngành mình, tổ chức lại sản xuất của ngành, thực hiện sự kết hợp giữa kinh tế trung ương và kinh tế địa phương, thực hiện sự hợp tác và liên hiệp sản xuất trong ngành và giữa các ngành với nhau. Cần xác định đúng đắn quy mô và cơ cấu của từng ngành, chọn hình thức liên hiệp sản xuất thích hợp (liên hiệp các xí nghiệp; công ty; xí nghiệp liên hợp; nhóm sản phẩm, v.v..), hình thành ngành kinh tế - kỹ thuật một cách vững chắc, có chuẩn bị điều kiện và tiền đề chu đáo, bảo đảm nâng cao hiệu quả kinh tế.
Như vậy, chúng ta xây dựng và tăng cường sức mạnh của các ngành kinh tế, và từ đó, các ngành có điều kiện phục vụ tốt hơn cho các địa phương và cơ sở.

Là một bộ phận hết sức trọng yếu của nền kinh tế quốc dân, phần kinh tế do địa phương trực tiếp quản lý hiện nay đang là nguồn cung ứng một phần lớn lương thực, thực phẩm, nguyên liệu nông sản, lâm sản, hải sản và hàng loạt hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Với nguồn lao động dồi dào, với tiềm lực về đất đai, rừng, biển, các địa phương có thuận lợi to lớn để vươn lên phát triển sản xuất nhanh chóng, cùng với kinh tế do trung ương trực tiếp quản lý tạo nên thế cân đối mới và cái đà phát triển mới cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Phải đặt kinh tế địa phương trong lãnh thổ quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước, đồng thời các ngành trung ương phải hết lòng hết sức giúp đỡ địa phương, tăng cường sức mạnh cho địa phương, qua đó mà thúc đẩy sự phát triển của chính bản thân ngành mình.

Theo quy hoạch và kế hoạch chung của cả nước, phải chủ động hình thành trên địa bàn mỗi tỉnh một cơ cấu kinh tế kết hợp công nghiệp và nông nghiệp, kết hợp kinh tế trung ương và kinh tế địa phương, phát huy thế mạnh của từng tỉnh về tài nguyên và sức lao động.

Trên địa bàn huyện, phải tổ chức sản xuất kết hợp nông nghiệp và công nghiệp, thực hiện chuyên môn hoá và thâm canh nông nghiệp theo cơ cấu hợp lý, phân bố và sử dụng tốt lực lượng lao động, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật trên quy mô ngày càng lớn. Đồng thời địa bàn huyện là nơi thực hiện mối quan hệ mật thiết giữa sản xuất và lưu thông, phân phối.

Theo quy hoạch phân vùng và phương án sản xuất của huyện, các hợp tác xã nông nghiệp hoặc nông - lâm nghiệp, nông - ngư nghiệp cần tổ chức lại sản xuất, tận dụng đất đai và mọi khả năng về lực lượng sản xuất, tăng cường quản lý lao động, đất đai, tài sản, chấn chỉnh việc phân phối trong nội bộ hợp tác xã. Các ngành công nghiệp phải hết sức giúp đỡ các hợp tác xã nông nghiệp về trang bị kỹ thuật cho sản xuất và chế biến, qua đó giúp cho hợp tác xã tăng cường lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất và từng bước đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Đối với các xí nghiệp công nghiệp, nội dung của việc tổ chức lại sản xuất là căn cứ theo quy hoạch và phương án sản xuất của ngành mà xác định nhiệm vụ và quy mô sản xuất, sắp xếp hợp lý dây chuyền sản xuất theo quy trình công nghệ tiến bộ, cải tiến tổ chức và quản lý lao động, phấn đấu ổn định việc cung ứng vật tư, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm, đặt các mối quan hệ hợp lý của xí nghiệp với các đơn vị kinh tế khác có liên quan.

Để phục vụ việc tổ chức lại nền sản xuất xã hội, phân bố lại lực lượng sản xuất, Nhà nước cần có kế hoạch, chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi người có sức lao động đều có việc làm có ích cho xã hội, đồng thời đòi hỏi mỗi người làm tốt nghĩa vụ lao động của mình. Các ngành quản lý kinh tế, nội chính, văn hoá, y tế, giáo dục phải phục vụ tốt công tác phân bố lại lực lượng sản xuất.

Từng ngành, từng địa phương, từng cơ sở, phải soát xét lại sự phân bố lực lượng sản xuất trong ngành, trong địa phương, trong cơ sở mình, từ đó mà bố trí lại lao động một cách hợp lý, xác định biên chế. Đối với số lao động không cần thiết trong các cơ quan, xí nghiệp, cần kiên quyết chuyển sang sản xuất, hoặc làm một việc gì thật sự có ích cho xã hội. Đối với số lao động thừa ở địa phương sau khi cân đối lao động, cần kiên quyết chuyển đi các vùng kinh tế mới, hoặc chuyển sang các ngành, nghề đang cần lao động.

II- Cải tiến phương thức quản lý

Chính là nhằm yêu cầu tổ chức lại nền sản xuất xã hội và phân bố lại lực lượng sản xuất trong mấy năm qua, nhất là trong năm 1976, Đảng ta và Nhà nước ta đã đề ra những chủ trương và biện pháp cải tiến quản lý trong nhiều nghị quyết quan trọng. Đó là những văn bản đánh dấu một bước tiến rõ rệt của chúng ta về kiến thức và kinh nghiệm quản lý, có nội dung thiết thực, phù hợp với nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1976-1980. Cần tiếp tục phấn đấu thực hiện các nghị quyết đó, từ kinh nghiệm thực tiễn mà bổ sung và cụ thể hoá các biện pháp quản lý kinh tế, mau chóng thống nhất quản lý và kế hoạch hoá nền kinh tế trong cả nước, tiến lên xây dựng phương thức quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa của nước ta.

1. Cải tiến phương thức quản lý, trước hết phải cải tiến công tác kế hoạch hoá

Đây là một sự cải tiến đồng bộ, từ việc thể hiện đường lối của Đảng thành phương hướng phát triển dài hạn về kinh tế - văn hoá - xã hội của cả nước, phân vùng và quy hoạch phân bố lực lượng sản xuất, xác định nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch đến phương pháp, trình tự kế hoạch hoá, từ việc xây dựng kế hoạch đến việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch.

Phải quán triệt trong các kế hoạch dài hạn và hàng năm đường lối của Đảng về xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Phải thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, vừa bảo đảm việc kế hoạch hoá tập trung và thống nhất của Nhà nước, vừa mở rộng quyền chủ động của các đơn vị cơ sở, đề cao trách nhiệm kế hoạch hoá toàn ngành của các bộ, tổng cục, và trách nhiệm kế hoạch hoá của các cấp chính quyền địa phương. Thi hành những biện pháp thiết thực, làm cho kế hoạch nhà nước thực sự là sản phẩm của trí tuệ tập thể của đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, kỹ thuật và đội ngũ đông đảo nhân dân lao động. Cần nhấn mạnh một điều rất quan trọng, một vấn đề có tính nguyên tắc trong quá trình xây dựng kế hoạch dài hạn và kế hoạch hàng năm: phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu cho đến các chỉ tiêu của kế hoạch phải gắn với những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện thực và vững chắc. Phải làm cho kế hoạch phát triển khoa học kỹ thuật trở thành một bộ phận hợp thành của kế hoạch nhà nước về phát triển kinh tế và văn hoá. Phải làm như vậy để thể hiện chủ trương của Đảng coi cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt trong ba cuộc cách mạng.

Kế hoạch ở mỗi cấp đều phải được cân đối tích cực, vững chắc linh động trong chừng mực cho phép. Cần dựa trên kết quả điều tra, nghiên cứu về kinh tế và kỹ thuật, sử dụng thành tựu nghiên cứu khoa học và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào các ngành kinh tế, để xác định đúng đắn kế hoạch đầu tư và sản xuất, làm cho căn cứ của kế hoạch thực sự vững chắc và khoa học. Mặt khác, kết hợp chặt kế hoạch với phong trào quần chúng, phát huy sức sáng tạo của quần chúng, bằng công tác tư tưởng, chính trị gắn liền với chế độ khuyến khích vật chất và kích thích kinh tế thích hợp. Tranh thủ mọi nhân tố thuận lợi, tạo thêm những khả năng mới trong quá trình thực hiện kế hoạch, vươn lên đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế.

Để thực hiện tốt chủ trương "vừa xây dựng kinh tế trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất", phải vận dụng đúng đắn nguyên tắc kết hợp quản lý và kế hoạch hoá theo ngành với quản lý và kế hoạch hoá theo địa phương và theo vùng lãnh thổ. Các bộ, tổng cục cần tích cực và chủ động lập kế hoạch toàn ngành, thống nhất quản lý toàn ngành trên những mặt chủ yếu, tác động mạnh mẽ và đúng đắn vào hoạt động của ngành ở địa phương. Các cấp tỉnh, thành phố cần chủ động lập kế hoạch, bao gồm phần kinh tế trực thuộc địa phương quản lý và phần nhiệm vụ của địa phương đối với kinh tế trung ương trên địa bàn của tỉnh, thành phố. Trong kế hoạch của cấp tỉnh, thành phố, phải cân đối theo lãnh thổ về sức lao động, lực lượng xây dựng, vật liệu xây dựng, vận tải, điện, nước trong tỉnh, thành phố, lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng bảo đảm đời sống của dân cư ở địa phương. Về đầu tư xây dựng cơ bản, phải kết hợp tốt và chặt chẽ kế hoạch đầu tư theo ngành với kế hoạch đầu tư ở từng địa phương, thực hiện nghiêm chỉnh việc các bộ, tổng cục cùng bàn bạc, thống nhất ý kiến với Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố về những phần trong quy hoạch và kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của ngành có liên quan đến các mặt đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội trong tỉnh, thành phố.

Với việc từng bước xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp, nội dung kế hoạch hoá ở cấp huyện có nhiều vấn đề rất mới đặt ra. Phải sớm xác định nội dung quản lý kinh tế và kế hoạch hoá ở cấp huyện để các huyện thực hiện được trách nhiệm của mình về sản xuất và tổ chức đời sống, chỉ đạo được việc xây dựng và thực hiện kế hoạch theo nội dung mới. Trong tương lai, kế hoạch nhà nước phải được xây dựng và tổng hợp từ huyện lên.

Đi đôi với việc cải tiến công tác kế hoạch hoá ở các ngành, các cấp, phải chuyển biến mạnh mẽ công tác kế hoạch hoá ở đơn vị cơ sở. Hướng cơ bản là mở rộng hơn nữa quyền chủ động của xí nghiệp, thúc đẩy xí nghiệp hợp lý hoá sản xuất, cải tiến kỹ thuật, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của mình, xí nghiệp có điều kiện thì xây dựng và thực hiện kế hoạch cao hơn mức kế hoạch nhà nước, có lợi cho Nhà nước, cho xí nghiệp và cho người lao động.

Đối với các xí nghiệp quốc doanh, các ngành, các cấp phải giúp các xí nghiệp xây dựng tốt kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính, cân đối kế hoạch toàn diện, thống nhất hai mặt hiện vật và giá trị; gắn chặt kế hoạch sản xuất với kế hoạch tiêu thụ, với hợp đồng kinh tế; gắn chặt kế hoạch với các đòn bẩy kinh tế như: giá cả, tiền lương, tiền thưởng, lợi nhuận, tín dụng; nâng cao các chỉ tiêu chất lượng và đưa thành chỉ tiêu pháp lệnh; bảo đảm mỗi chỉ tiêu đều được tính toán, so sánh hiệu quả với chi phí bỏ ra.
Đối với các hợp tác xã nông nghiệp, phải gắn công tác kế hoạch hoá với cuộc vận động tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý, định các chính sách khuyến khích, các biện pháp nhằm phát huy tác động tích cực của Nhà nước, của công nghiệp, đối với hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.

Đối với các hợp tác xã thủ công nghiệp, cũng như đối với các hợp tác xã nông nghiệp, ngư nghiệp, kế hoạch cung ứng tư liệu sản xuất phải ăn khớp với kế hoạch thu mua và giao nộp sản phẩm, tăng cường trách nhiệm của Nhà nước đối với kinh tế tập thể, đồng thời đòi hỏi hợp tác xã làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.

Các ngành, các cấp chính quyền cần tăng cường giúp đỡ, hướng dẫn các hợp tác xã xây dựng và cân đối tốt kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính theo những thể thức đơn giản, chú trọng đến kế hoạch trang bị kỹ thuật, và cải tiến kế hoạch phân phối trong nội bộ hợp tác xã.

Theo hướng mở rộng quyền chủ động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị cơ sở đồng thời vẫn bảo đảm sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của Nhà nước, cần cải tiến hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh đối với xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, đối với các hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp.

Chúng ta cần vận dụng đúng đắn các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan hệ thị trường, vào việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch.

Dưới chế độ ta, sản xuất là để thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế quốc dân và của nhân dân, tức là sản xuất giá trị sử dụng. Đó là điều cần làm nổi bật. Đồng thời cũng rất cần thiết nói ngay ở đây rằng dưới chế độ ta, công tác quản lý kinh tế phải biết vận dụng quy luật giá trị, tính toán chặt chẽ, không ngừng hạ giá thành và nâng cao chất lượng, thoả mãn yêu cầu của thị trường. Về mặt này chúng ta chưa biết coi trọng đúng mức. Và một loạt những ngành có liên quan đều không có sự phối hợp chặt chẽ để cùng nhau nghiên cứu và đề ra những chính sách và biện pháp nhằm vận dụng một cách hợp lý quy luật giá trị và những phạm trù có liên quan như giá (giá thành, giá bán), tiền lương, lợi nhuận, đầu tư (cho vay), chính sách và chế độ khuyến khích vật chất, v.v.. Đây là những đòn bẩy mà một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải biết dùng một cách chủ động, đúng đắn, và có hiệu quả. Ngay từ bước đầu của chính quyền Xôviết, Lênin đã dạy chúng ta, nhất là những người quản lý nền kinh tế quốc dân, phải biết tính toán từng đồng xu, phải biết kiểm kê, kiểm soát mọi tài sản của Nhà nước, và đó là chủ nghĩa xã hội, phải biết buôn bán, phải biết kinh doanh. Đối với chúng ta đây là một sự chuyển hướng rất quan trọng trong ý thức, trong lý thuyết và trong thực tiễn về quản lý và kinh doanh. Hiện nay chúng ta lệch ở cả hai hướng: sản xuất không nhằm nhu cầu một cách thiết thực, đồng thời ham "kinh doanh" một cách vô tội vạ, không tính toán hiệu quả kinh tế. Nói chung các cơ quan tài chính, ngân hàng, vật giá, lao động, tiền lương... đều không thấy hết vấn đề và chuyên tâm nghiên cứu và đề xuất chính sách và biện pháp để giải quyết vấn đề. Trong thời gian tới, đây là một trong nhiều vấn đề quản lý mà chúng ta phải đặc biệt coi trọng.

Hợp đồng kinh tế phải thực sự trở thành cơ sở để xây dựng và thực hiện kế hoạch thành phương tiện quan trọng để kết hợp kế hoạch hoá với sử dụng quan hệ thị trường, thành nếp quan hệ thường xuyên giữa các đơn vị kinh tế cơ sở. Hội đồng trọng tài các cấp phải xét xử nghiêm túc mọi việc tranh chấp về hợp đồng và vi phạm hợp đồng. Đối với các bên vi phạm - kể cả cán bộ thuộc cơ quan quản lý cấp trên - cần phải xử phạt nghiêm túc.

Theo phương hướng cải tiến công tác kế hoạch hoá nói trên, phải kiên trì và tích cực đưa chế độ kế hoạch hoá vào nền nếp, tăng cường công tác điều tra cơ bản, xây dựng hệ thống định mức, tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật, chấn chỉnh hệ thống thông tin kinh tế, nghiên cứu áp dụng toán kinh tế và điều khiển học trong công tác kế hoạch. Xúc tiến xây dựng và ban hành các luật lệ ngày càng hoàn chỉnh về kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân.

2. Trong hệ thống quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa, chế độ hạch toán kinh tế là một nhân tố cơ bản, giúp xoá bỏ lối bao cấp. Tuy chế độ hạch toán kinh tế thực hiện tại các đơn vị sản xuất và kinh doanh, nhưng đó là kết quả tổng hợp của sự hoạt động của cả hệ thống quản lý, của toàn thể bộ máy quản lý.

Chế độ hạch toán kinh tế đòi hỏi các đơn vị sản xuất và kinh doanh bù đắp đủ các chi phí sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm thặng dư, thu được lợi nhuận, làm tốt nghĩa vụ với Nhà nước, đồng thời đem lại lợi ích cho tập thể và cho người lao động. Đó là cách quản lý quán triệt đầy đủ nhất nguyên tắc hiệu quả kinh tế, cũng tức là nguyên tắc tiết kiệm. Chế độ hạch toán kinh tế phải có căn cứ khoa học, phải dựa trên hệ thống tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật đúng đắn và hệ thống thông tin kinh tế chính xác.
Trong kế hoạch 5 năm 1976-1980, phải phấn đấu để sau chừng vài ba năm, thay chế độ tài chính "thu đủ chi đủ" bằng chế độ hạch toán kinh tế thực sự trong các đơn vị kinh tế cơ sở và mọi tổ chức sản xuất và kinh doanh, của kinh tế quốc doanh, cũng như kinh tế tập thể.

Tiền đề chủ yếu của hạch toán kinh tế trong khu vực quốc doanh là:

1- Ban hành và thực hiện Điều lệ xí nghiệp, mở rộng thích đáng các quyền hạn và xác lập tư cách pháp nhân của đơn vị sản xuất và kinh doanh, khuyến khích xí nghiệp vì lợi ích của Nhà nước và của bản thân, phấn đấu đạt lợi nhuận cao, và được hưởng quyền lợi tuỳ thuộc vào mức độ hoàn thành kế hoạch Nhà nước.

2- Ban hành và thực hiện chế độ thủ trưởng quản lý xí nghiệp, gắn liền với sự lãnh đạo của đảng uỷ, đồng thời phát huy quyền làm chủ tập thể của công nhân, viên chức, lôi cuốn quần chúng tham gia tự giác và tích cực vào việc thực hiện chế độ hạch toán kinh tế.

Cơ chế hạch toán kinh tế được hình thành bằng cách ban hành và thực hiện các chính sách, chế độ:
- Nhà nước giao kế hoạch cho xí nghiệp gồm một số chỉ tiêu hạn chế hơn, trong đó chú ý thay chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng bằng chỉ tiêu giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện.

- Trên cơ sở chấp hành các nguyên tắc quản lý, các chỉ tiêu pháp lệnh và các định mức, tiêu chuẩn Nhà nước, xí nghiệp có quyền chủ động sử dụng các năng lực sản xuất của mình và bố trí kế hoạch sản xuất, kinh doanh cho sát với nhu cầu của người tiêu thụ.

- Chế độ khấu hao tài sản cố định, chế độ quản lý tiền vốn, chế độ trích nộp lợi nhuận cho ngân sách, chế độ lợi tức tiền vay cần được cải tiến nhằm thúc đẩy xí nghiệp khai thác và sử dụng tiết kiệm các nguồn vốn, kể cả vốn do ngân sách nhà nước cấp cũng như vốn vay của ngân hàng.

- Chế độ quản lý giá thành, giá bán buôn xí nghiệp và giá bán buôn công nghiệp, đòi hỏi xí nghiệp ra sức phấn đấu hạ giá thành, vì lợi nhuận của xí nghiệp chủ yếu tuỳ thuộc vào kết quả hạ giá thành.

- Chính sách, chế độ tiền lương và tiền thưởng phải quán triệt đầy đủ nguyên tắc phân phối theo lao động.

- Chế độ phân phối lợi nhuận và trích lập các quỹ của xí nghiệp, để xí nghiệp dùng vào việc mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, tăng phúc lợi tập thể, tăng lương và tiền thưởng cho công nhân, viên chức.

- Theo đúng các quy định của Nhà nước, các xí nghiệp có quyền chủ động đặt quan hệ trực tiếp mua vật tư và bán sản phẩm, ký hợp đồng kinh tế với nhau, trong quá trình xây dựng kế hoạch từ dưới lên và sau khi có kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước giao xuống.

Bằng cách cải tiến công tác kế hoạch hoá và bằng các chính sách (nghĩa vụ giao nộp sản phẩm, thu mua, cung ứng vật tư, giá, tín dụng...), Nhà nước chỉ đạo và khuyến khích các hợp tác xã thực hiện chế độ hạch toán kinh tế. Phải vừa bảo đảm sự quản lý tập trung của Nhà nước, vừa tôn trọng và phát huy đầy đủ quyền tự chủ của hợp tác xã và quyền làm chủ tập thể của xã viên; khắc phục lối quản lý bao cấp cũng như thái độ cửa quyền của các cơ quan nhà nước và các tổ chức kinh tế quốc doanh, làm cho hợp tác xã bị động, ỷ lại, thiếu tích cực và sáng tạo.

Muốn thực sự thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, cần tạo những điều kiện và tiền đề cần thiết, song không thể cầu toàn, đòi hỏi có thật đầy đủ mọi điều kiện và tiền đề rồi mới bắt đầu thực hiện chế độ hạch toán kinh tế. Phải bắt tay ngay vào việc nghiêm chỉnh hạch toán kinh tế, vừa làm vừa tạo điều kiện và tiền đề, từng bước cải tiến và hoàn thiện chế độ hạch toán kinh tế.

3. Trong hệ thống quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa các chính sách kinh tế có tác dụng rất lớn, vừa bảo đảm thực hiện tốt kế hoạch nhà nước, vừa bảo đảm thúc đẩy quản lý kinh doanh theo chế độ hạch toán kinh tế. Các chính sách quản lý kết hợp chặt với kế hoạch, tác động cùng một hướng vào mục tiêu chung.

Để phục vụ tốt việc tổ chức lại nền sản xuất xã hội, mau chóng thống nhất quản lý kinh tế trong cả nước, cần soát xét lại toàn bộ hệ thống các chính sách kinh tế, làm cho những công cụ này quán triệt đường lối của Đảng và phù hợp với các quy luật kinh tế.
Theo yêu cầu đó, trong kế hoạch 5 năm này phải cải tiến chính sách giá cả, chính sách tiền lương và thu nhập, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giá cả, tiền lương và sức mua của đồng tiền, cải tiến chính sách đầu tư, cải tiến các chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, cải tiến tổ chức và phương thức hoạt động của thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, v.v.. Tất cả những việc cải tiến này phải được tiến hành đồng bộ và phải nhằm phục vụ sản xuất, thực hiện sự phân phối công bằng, hợp lý, góp phần khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong quản lý kinh tế và đời sống xã hội.

Chính sách giá cả và tiền lương phải quán triệt những quan điểm cơ bản đã nêu trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Lê Duẩn trình bày. Chính sách giá cả phải khuyến khích mạnh mẽ sản xuất, nhất là khuyến khích đẩy mạnh những ngành trọng điểm của kế hoạch 5 năm: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất cơ khí..., phải phát huy tác dụng hỗ trợ đắc lực cho sự phân phối lực lượng sản xuất. Giá cả phải khuyến khích mạnh mẽ việc hình thành các vùng chuyên môn hoá, vùng kinh tế mới, vùng vành đai thực phẩm, có tác dụng rõ rệt thúc đẩy sự phân công lao động mới, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, làm ra nhiều hàng hoá xuất khẩu. Trong việc xác định giá cả, phải có quan điểm toàn diện, tính toán đúng mức và chặt chẽ, sát với thực tiễn, bảo đảm cho giá cả bù đắp được chi phí sản xuất và có lợi nhuận cho cơ sở sản xuất để từ đó cải thiện đời sống của người lao động và thực hiện tái sản xuất mở rộng. Cần nghiên cứu giảm giá bán lẻ một số hàng tiêu dùng trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành.

Chế độ tiền lương phải quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động, bảo đảm tái sản xuất sức lao động. Cần cải tiến chế độ tiền lương một cách cơ bản, chuyển dần chế độ nửa cung cấp sang tiền lương. Kết hợp với tăng lương, việc cải tiến tiền lương phải nhằm khuyến khích trau dồi nghề nghiệp, đãi ngộ tốt hơn các ngành, nghề đòi hỏi kỹ thuật cao, lao động nặng nhọc, tiếp xúc với môi trường độc hại. áp dụng rộng rãi hình thức trả lương theo sản phẩm đi đôi với quản lý chặt chẽ các định mức lao động và tiêu chuẩn chất lượng trên cơ sở ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và hợp lý hoá sản xuất.

Cùng với việc vận dụng đúng đắn nguyên tắc phân phối theo lao động, thể hiện qua chính sách giá cả, tiền lương phải chú ý tăng cường các mặt phúc lợi xã hội, phúc lợi tập thể cho nhân dân.

III- Tăng cường hiệu lực của bộ máy nhà nước

Việc thực hiện các nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 đòi hỏi gấp rút tăng cường hiệu lực của bộ máy nhà nước.

Bản Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương, do đồng chí Lê Duẩn trình bày, đã vạch rõ:

"Tăng cường và hoàn thiện Nhà nước là tăng cường hiệu lực của bộ máy hành chính, của tổ chức quản lý kinh tế và văn hoá. Song, vì hoạt động kinh tế là hoạt động làm nền tảng cho những hoạt động xã hội khác, đồng thời là một nhiệm vụ tương đối mới mẻ và khó khăn đối với Nhà nước ta, cho nên trước hết phải đặc biệt chú ý tăng cường hiệu lực của Nhà nước về mặt tổ chức quản lý kinh tế".

Muốn vậy, cần có sự chuyển biến cơ bản về nhận thức, tổ chức và tác phong của từng ngành, từng cấp, từng cán bộ của bộ máy nhà nước.

Trong quản lý kinh tế, cần kết hợp tốt giữa quản lý hành chính kinh tế và quản lý sản xuất, kinh doanh, không lẫn lộn giữa hai mặt ấy, để đạt hiệu quả kinh tế cao.

Quản lý hành chính - kinh tế là lập các quy hoạch, kế hoạch của cả nền kinh tế quốc dân, của từng ngành hoặc từng địa phương, ban hành các chính sách kinh tế, các chế độ quản lý, xây dựng các bộ máy quản lý, quyết định các chủ trương về phát triển khoa học - kỹ thuật trong từng ngành, chỉ đạo và kiểm tra thực hiện các kế hoạch, chủ trương, chính sách, chế độ ấy. Như vậy, là giải quyết những vấn đề nhằm đặt phương hướng đúng đắn, vạch ra quỹ đạo phát triển, hướng dẫn chặt chẽ và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, đồng thời ngăn chặn và trừng phạt mọi việc làm trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Các đồng chí bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan trung ương, các đồng chí chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh làm tốt việc quản lý hành chính - kinh tế, là tác động một cách cơ bản đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, và do đó, làm tròn trách nhiệm của mình về kết quả sản xuất, kinh doanh của toàn ngành, toàn lĩnh vực kinh tế mà mình được giao phụ trách.

Theo đúng quỹ đạo và dựa trên các điều kiện đã được sự quản lý hành chính - kinh tế của cấp trên tạo ra, thủ trưởng các đơn vị sản xuất trực tiếp quản lý sản xuất - kinh doanh, sử dụng tốt sức lao động và các lực lượng vật chất được Nhà nước giao cho, giải quyết mọi vấn đề cụ thể đặt ra trong quá trình hoạt động của đơn vị, và trực tiếp chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất, kinh doanh của đơn vị.

Hiện nay nhiều khi người đứng đầu các ngành, các cấp chính quyền can thiệp quá sâu và một cách sự vụ có tính chất tác nghiệp vào sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, trong khi đó lại không quan tâm đầy đủ đến trách nhiệm làm tốt việc quản lý hành chính - kinh tế.

Trong kế hoạch 5 năm này, bắt đầu ngay từ kế hoạch 1977, Hội đồng Chính phủ cũng như các đồng chí bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan trung ương, chủ tịch các Uỷ ban nhân dân địa phương cần tập trung sức nghiên cứu giải quyết hàng loạt vấn đề về quản lý hành chính - kinh tế, như: xây dựng kịp thời các quy hoạch và kế hoạch dài hạn của từng ngành, trong đó nhiệm vụ sản xuất và phương hướng tiến lên của từng đơn vị cơ sở được xác định rõ; cải tiến một cách thiết thực những chế độ, thể lệ và thủ tục quản lý không còn phù hợp nữa, nghiên cứu và ban hành những chế độ quản lý mới sát với điều kiện và nhiệm vụ hiện nay. Trong việc này cần có sự cộng tác chặt chẽ giữa các ngành, giữa trung ương với địa phương, các ngành và các địa phương cần đề xuất ý kiến với Nhà nước. Nhấn mạnh tăng cường quản lý hành chính - kinh tế, khắc phục lối quản lý bao biện, không có nghĩa là khoán trắng mọi việc cho cơ sở, đi vào lối quản lý quan liêu. Trái lại, các ngành, các cấp càng phải đi sát cơ sở, tăng cường kiểm tra, đưa công việc quản lý ở cơ sở vào nền nếp, tìm mọi biện pháp có hiệu lực giúp cho cơ sở khắc phục những khó khăn về cung ứng vật tư, về sắp xếp lao động thừa, về vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm, về tổ chức đời sống của người lao động...

Về phần mình, với những nhiệm vụ, quyền hạn được tăng cường một cách thích đáng, từng đơn vị cơ sở, từng tổ chức sản xuất phải vươn lên, từ người thủ trưởng đến cả đội ngũ cán bộ và công nhân phải phát huy sáng kiến, chủ động tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý, đảm đương trách nhiệm trực tiếp quản lý sản xuất và kinh doanh.

Công tác quản lý kinh tế và các hoạt động sản xuất, kinh doanh chỉ có thể tiến hành thuận lợi trong điều kiện bảo đảm tốt an ninh chính trị và trật tự xã hội, thực hiện tốt các quyền tự do, dân chủ và nghĩa vụ của người lao động.

Đây chính là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước ta, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 23 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh:

"Đi đôi với các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, Nhà nước phải kiểm tra nghiêm ngặt việc thi hành pháp luật, đề cao kỷ luật Nhà nước, cưỡng bức những người không thi hành nghĩa vụ công dân, trừng phạt những kẻ phạm pháp. Trong các cơ quan nhà nước, phải kiên quyết tẩy trừ những hiện tượng cán bộ, nhân viên lạm dụng chức quyền, xâm phạm tài sản của Nhà nước và của tập thể, vi phạm quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa của nhân dân, kiên quyết chống bệnh quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, nghiêm khắc thi hành kỷ luật những trường hợp vi phạm kỷ luật lao động, không chấp hành quyết định của tổ chức. Đó cũng là một biện pháp cấp thiết để củng cố tổ chức Đảng, nâng cao chất lượng cán bộ và đảng viên".

Bằng luật pháp nhà nước và dư luận xã hội, chúng ta cần biểu dương khen thưởng người tốt, việc tốt, đồng thời ngăn chặn những việc làm xấu, kiên quyết trừng trị những hành động ăn cắp, buôn lậu, côn đồ, những kẻ phá hoại trật tự và an ninh xã hội, làm thiệt hại đến nền kinh tế quốc dân và tài sản xã hội chủ nghĩa.

Mỗi cán bộ, nhân viên nhà nước, từ người thủ trưởng cấp cao đến người giữ kho, người bán hàng, người gác cổng... đều phải ghi nhớ và theo đúng lời dạy của Hồ Chủ tịch: Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, làm người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Làm được như vậy, Nhà nước chuyên chính vô sản tỏ rõ bản chất ưu việt của mình, đáp ứng được yêu cầu to lớn và bức thiết của đông đảo quần chúng, khiến cho mỗi người lao động đều phấn khởi, hồ hởi, thấy rõ mình là người chủ, với tất cả các quyền và các nghĩa vụ của mình từ đó khơi dậy mãnh liệt lòng hăng hái và tài năng của nhân dân lao động.

Làm được như vậy, Nhà nước tăng cường được pháp chế xã hội chủ nghĩa, thực hiện một nhiệm vụ cơ bản của mình, là thể chế hoá quyền làm chủ tập thể của nhân dân, thể chế hoá sự lãnh đạo của Đảng, thể chế hoá vai trò quản lý của Nhà nước đối với toàn bộ đời sống xã hội.

Hội đồng chính phủ phải tăng cường trách nhiệm chỉ đạo tập trung thống nhất của mình đối với công việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội trong cả nước, đúng với chức năng là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực cao nhất và là cơ quan hành chính cao nhất trong cả nước.

Phải nâng cao quyền hạn và trách nhiệm của bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan trung ương theo đúng Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Chính phủ, cụ thể hoá những quyền hạn và trách nhiệm ấy, nhất là về quyết định các phương tiện vật chất - kỹ thuật, xây dựng bộ máy quản lý, lựa chọn cán bộ, theo tinh thần quyền hạn tương xứng với trách nhiệm. Mỗi bộ phải nghiêm chỉnh chấp hành các nghị quyết của Hội đồng Chính phủ, phải tôn trọng quyền quản lý của bộ khác và của các Uỷ ban nhân dân tỉnh. Nhà nước giao quyền hạn cụ thể và phương tiện đầy đủ cho mỗi bộ trưởng, Nhà nước cũng đòi hỏi mỗi bộ trưởng sử dụng đúng những quyền hạn và phương tiện được giao và làm tốt mọi trách nhiệm của mình. Phải đẩy mạnh quan hệ hợp tác, tương trợ, phối hợp chặt chẽ giữa các bộ với nhau và giữa bộ với các Uỷ ban nhân dân chống bản vị, cục bộ, đồng thời chống ỷ lại, dựa dẫm vào nhau, đùn đẩy trách nhiệm cho người khác. Bộ máy quản lý của các bộ cần được chấn chỉnh và tăng cường để làm tốt công việc quản lý hành chính nhà nước đối với các ngành kinh tế, văn hoá trong phạm vi cả nước.

Phải tăng cường bộ máy quản lý của chính quyền cấp tỉnh, thành phố, đặc biệt chú trọng các tỉnh, thành phố thuộc vùng mới giải phóng, để cấp tỉnh có đủ sức thực hiện những quyền hạn và trách nhiệm rất quan trọng đã được Nhà nước giao cho, đủ sức quản lý kinh tế trên một địa bàn lớn, gồm từ 1 triệu đến vài triệu dân, nhất là chỉ đạo nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chăm lo đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân trong tỉnh, thành phố.

Phải quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm quản lý, đồng thời tăng cường bộ máy quản lý của chính quyền cấp huyện, để cấp huyện có đủ quyền hạn và phương tiện, kể cả phương tiện vật chất - kỹ thuật, tài chính, tổ chức lại sản xuất và quản lý các đơn vị kinh tế trong huyện.

Đối với cấp xã, Nhà nước cần quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm quản lý hành chính nhà nước ở xã. Phải phân rõ quyền hạn, trách nhiệm của chính quyền cấp xã với quyền hạn, trách nhiệm của hợp tác xã nông nghiệp. Uỷ ban nhân dân xã phải làm toàn bộ công tác quản lý hành chính nhà nước ở địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho các hợp tác xã tập trung vào công việc sản xuất, kinh doanh tập thể.

Cùng với việc tăng cường bộ máy quản lý, phải đề cao kỷ luật nhà nước, đề cao trách nhiệm cá nhân trong tất cả các ngành, các cấp, các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Kỷ luật nhà nước và trách nhiệm cá nhân phải được thi hành nghiêm túc ngay từ Hội đồng Chính phủ, trong các cơ quan lãnh đạo của bộ và chính quyền các tỉnh, thành phố, để từ đó dẫn đến sự nghiêm túc ở các cấp dưới và ở đơn vị cơ sở. Kỷ luật nhà nước cần được mọi cấp uỷ Đảng, mọi đảng viên tôn trọng và triệt để tuân theo, coi đó là kỷ luật của Đảng, như đã ghi rõ trong Điều lệ Đảng.

Đề cao kỷ luật nhà nước, đề cao trách nhiệm cá nhân gắn liền với việc thực hiện chế độ thủ trưởng trong tất cả các bộ, tổng cục và các đơn vị sản xuất, kinh doanh của Nhà nước. Người thủ trưởng của mỗi cơ quan, đơn vị thuộc bất cứ cấp nào cũng phải có đầy đủ quyền hạn và phương tiện, phải dám quyết định, dám chịu và phải chịu trách nhiệm về những công việc thuộc thẩm quyền của cơ quan, đơn vị mình. Chế độ thủ trưởng gắn liền với chế độ lãnh đạo tập thể của cấp uỷ Đảng, với chế độ làm việc tập thể trong bộ máy nhà nước. Cần kiên quyết chấm dứt tình trạng vô trách nhiệm, vô kỷ luật, dân chủ một chiều, cũng như tình trạng thiếu dân chủ tập thể, quan liêu độc đoán, chuyên quyền trong công việc quản lý nhà nước, quản lý kinh tế.

Tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trong kế hoạch 5 năm đòi hỏi phải đẩy mạnh việc bồi dưỡng, đào tạo, sắp xếp, điều chỉnh đội ngũ cán bộ của cả nước. Phải có kế hoạch đào tạo một cách có hệ thống cán bộ làm công tác quản lý hành chính và cán bộ quản lý kinh tế, giúp cho cán bộ ở các ngành, các cấp có đầy đủ kiến thức và nghiệp vụ về quản lý hành chính và quản lý kinh tế. Hết sức coi trọng việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ các tỉnh mới giải phóng. Về phần mình, mỗi cán bộ của Đảng và Nhà nước ở bất cứ cấp nào, ngành nào đều phải cố gắng tự nâng cao trình độ và năng lực công tác bằng cách ra sức học tập. Trong những năm trước mắt, cần điều chỉnh lại cán bộ trong phạm vi cả nước, để tăng cường lực lượng cho các tỉnh mới giải phóng, cho các vùng kinh tế mới, cho cấp huyện. Phải cải tiến chế độ sử dụng và đề bạt cán bộ, bảo đảm cho cán bộ ở mỗi cương vị công tác đều có đủ những tiêu chuẩn chính trị, đạo đức, và có đủ khả năng hoàn thành tốt chức vụ được giao. Mạnh dạn đề bạt những cán bộ trẻ, cán bộ khoa học, kỹ thuật có phẩm chất tốt và đã qua thử thách, kết hợp đúng đắn giữa các loại cán bộ, theo tinh thần Nghị quyết 225 của Bộ Chính trị. Toàn bộ công tác cán bộ cần được tiến hành với nhận thức sâu sắc rằng cuối cùng đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với mọi thắng lợi của việc thực hiện kế hoạch nhà nước, thực hiện đường lối của Đảng.

Để phù hợp với bước chuyển biến mới trong công tác quản lý, phải đổi mới tác phong lề lối làm việc của chúng ta. Phải bỏ lối làm việc đại khái, quan liêu, xa thực tế; rèn luyện tác phong làm việc thiết thực, có tính toán, có tổ chức, có kế hoạch cụ thể, để thực hiện các nhiệm vụ kế hoạch và nhiệm vụ công tác. Khắc phục tác phong lề mề, làm ăn vô trách nhiệm, xây dựng tác phong khẩn trương, có kỷ luật, là tác phong của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Phải biết tổ chức công việc (như công việc làm kế hoạch, công việc sản xuất, công việc nghiên cứu) một cách khoa học: cải tiến quá trình chuẩn bị quyết định, ra quyết định, tổ chức thực hiện và kiểm tra. Tất cả những điều kể trên là nhằm nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý.

Cán bộ phụ trách ở mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi đơn vị đều phải nhìn bao quát công việc của ngành, của địa phương, của đơn vị mình, và phải hiểu biết yêu cầu của cả nước, lo lắng cho yêu cầu của cả nước, khắc phục cách nhìn hẹp hòi, thiển cận và cục bộ.

Phải đi sát quần chúng, đi sát cấp dưới để thấy rõ thực tế, gắn đường lối, chính sách của Đảng với thực tế và phát hiện những điều mới, những nhân tố tích cực. Kiên quyết chống quan liêu, cửa quyền, sửa chữa và xoá bỏ mọi thủ tục gây phiền hà cho cấp dưới, cho cơ sở và cho nhân dân.

Đối với Đảng ta, Nhà nước có vị trí và chức năng đặc biệt quan trọng. Trong hệ thống Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, chức năng và tác dụng của Nhà nước một mặt thể hiện đường lối của Đảng và sự lãnh đạo của Đảng, một mặt thể hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân, và Nhà nước thể hiện cả hai mặt đó trong mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải nhận thức một cách sâu sắc rằng đường lối của Đảng, sự lãnh đạo của Đảng là hoàn toàn nhất trí với lợi ích của quần chúng nhân dân, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Như vậy, Nhà nước có khả năng phát huy nguồn sức mạnh to lớn và sâu xa của mình, làm tròn trách nhiệm của mình, là người quản lý mọi hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, ngoại giao, đúng với đường lối của Đảng và vì lợi ích của nhân dân. Đội ngũ cán bộ của cơ quan nhà nước, từ Trung ương đến cơ sở, phải quán triệt quan điểm trình bày trên đây trong tư tưởng và công tác để làm tốt công việc quản lý của mình, làm người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

IV- Phát động một phong trào quần chúng sôi nổi, rộng khắp nhằm thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch

Thực hiện sự chuyển biến sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế và xã hội nước ta nhằm hoàn thành những nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch 5 năm là một cuộc đấu tranh cách mạng gay go, phức tạp giữa hai con đường, và chúng ta nhất định giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Đó là ý chí sắt đá của Đảng ta và Nhà nước ta, của nhân dân Việt Nam ta. Cách mạng bao giờ cũng là sự nghiệp của quần chúng. Sự nghiệp cách mạng trong thời gian sắp tới đòi hỏi ý chí đấu tranh, đòi hỏi bàn tay và khối óc của hàng chục triệu người lao động Việt Nam. Sự nghiệp ấy chỉ có thể thực hiện được bằng cách động viên và tổ chức quần chúng, tạo ra phong trào cách mạng sôi nổi, mạnh mẽ, liên tục. Đường lối của Đảng do Đại hội lần thứ IV của Đảng vạch ra, những mục tiêu phấn đấu của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, Điều lệ mới của Đảng sẽ đem lại cho nhân dân nước ta niềm phấn khởi và những mục tiêu phấn đấu to lớn, thúc đẩy mọi người hăng hái hơn bao giờ hết, góp phần xứng đáng nhất của mình vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Đó là những thuận lợi để chúng ta tổ chức phong trào lao động, sản xuất sôi nổi, mạnh mẽ và liên tục, thi đua lập thành tích trên mặt trận kinh tế và văn hoá.

Chúng ta có những căn cứ lịch sử để tin tưởng vào sức mạnh vĩ đại của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhân dân ta đã và sẽ làm nên những việc lay trời chuyển đất. Phải làm cho nhân dân cả nước ai ai cũng hiểu rõ đường lối của Đảng, hiểu rõ con đường của dân tộc trong giai đoạn cách mạng mới, biến đường lối, chủ trương của Đảng thành ý chí và hành động cách mạng của mình. Phải động viên và tổ chức quần chúng tiến lên với tinh thần phấn khởi và khí thế cách mạng tiến công, hưởng ứng và hăng hái thực hiện việc tổ chức lại nền sản xuất xã hội, phân bố lại lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ba cuộc cách mạng để hoàn thành vượt mức những nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch.

Hãy tưởng tượng hơn hai mươi triệu người lao động ở khắp nước ta, mỗi người một việc, mỗi người là một người lao động xã hội chủ nghĩa, một chiến sĩ trên mặt trận sản xuất, mọi người làm việc với tất cả nhiệt tình và năng lực của mình, tập trung vào các ngành trọng yếu và cấp bách, là nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, đồng thời ra sức đẩy mạnh các ngành công nghiệp nặng, đẩy mạnh xây dựng cơ bản, giao thông vận tải và các ngành kinh tế khác... Thật khó mà lường hết tầm quan trọng và hiệu quả về mọi mặt của một phong trào lao động, sản xuất rộng lớn và mạnh mẽ như vậy. Trước đây chúng ta đã chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược bằng một sức mạnh tổng hợp. Giờ đây, với một sức mạnh tổng hợp có thể còn lớn hơn, được tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ hơn, nhất định chúng ta làm nên những thành tựu to lớn trên mặt trận kinh tế và văn hoá.

Phải luôn luôn nhấn mạnh một điều rất có ý nghĩa: chúng ta nêu cao quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Quyền làm chủ tập thể đó, trước hết và chủ yếu là làm chủ quyền lao động, làm chủ nghĩa vụ lao động, làm chủ sức lao động của mình để sản xuất ra các loại sản phẩm: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, vì lợi ích của mình, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội cũng như lợi ích về không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam ta đã là người làm chủ giỏi trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước vừa qua. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta sẽ là người làm chủ giỏi trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết trong việc sản xuất ra ngày càng dồi dào các loại sản phẩm cần thiết, đúng với các chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước, kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm.

Ngay sau khi Đại hội này kết thúc, cùng với việc phổ biến các văn kiện của Đại hội, tất cả các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở phải phát động phong trào cách mạng của quần chúng theo khẩu hiệu "Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội, tất cả vì Tổ quốc giàu mạnh, vì hạnh phúc của nhân dân". Nội dung cơ bản của phong trào là tổ chức mọi người lao động đem hết nhiệt tình và tài năng của mình, với ý thức trách nhiệm đầy đủ và tinh thần kỷ luật nghiêm túc, phấn đấu đạt năng suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý. Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng đây là một phong trào cách mạng, và là một phong trào cách mạng có tổ chức.

Trong nông nghiệp, phải phát động các phong trào tổ chức lại sản xuất, làm thuỷ lợi, đi xây dựng vùng kinh tế mới, khai hoang, phục hoá, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, thâm canh, tăng vụ, làm nghĩa vụ bán nông sản cho Nhà nước, xây dựng nông thôn mới.
Trong lâm nghiệp, phải phát động phong trào trồng rừng, tu bổ và bảo vệ rừng, khai thác và chế biến lâm sản. Trong ngư nghiệp, phải phát động phong trào đánh bắt, nuôi thả và chế biến các loại hải sản và thuỷ sản.

Trong công nghiệp, xây dựng, vận tải, phải phát động các phong trào tổ chức lại sản xuất, cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng, tiết kiệm vật tư và hạ giá thành, tận dụng nguyên liệu, vật liệu trong nước.

Trong các ngành lưu thông, phân phối, trong các cơ quan khoa học - kỹ thuật, văn hoá, giáo dục, nội chính, phải phát động phong trào mỗi người làm tốt công việc của mình, phục vụ tốt nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, phục vụ tốt các ngành công nghiệp, phục vụ tốt những người lao động ở cơ sở sản xuất.

Giao chỉ tiêu kế hoạch đến từng tổ, đội lao động và từng cá nhân, để từng tổ, đội, từng cá nhân có kế hoạch và biện pháp thi đua thực hiện vượt mức kế hoạch.

Làm cho mỗi người lao động biết rõ mình phải làm gì, phải làm như thế nào và làm bao nhiêu để góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời cải thiện đời sống cho mình. Động viên mọi người mỗi ngày làm việc tốt trong 8 giờ quy định, ngoài ra còn làm việc thêm 1-2 giờ cho bản thân và tập thể, như xây nhà ở, chăm lo phúc lợi công cộng, tăng gia sản xuất, góp phần cải thiện đời sống,v.v..
Để bảo đảm phong trào lao động, sản xuất của quần chúng đạt hiệu quả cao, các cơ quan có trách nhiệm phải cố gắng hết sức cung ứng kịp thời công cụ lao động, nguyên liệu, vật tư, quyết không để người lao động phải ngừng việc vì thiếu tư liệu sản xuất. Các ngành, các cấp và nhất là thủ trưởng đơn vị cơ sở phải thi hành đúng các chính sách động viên, khuyến khích, nhằm khen thưởng thích đáng, kịp thời những người làm giỏi, những đơn vị làm giỏi. Nêu cao gương những người tốt, việc tốt trong lao động sản xuất, phổ biến rộng rãi những kinh nghiệm tốt cho tất cả mọi người học tập và làm theo.

Phải chăm lo đầy đủ đến đời sống vật chất và văn hoá của người lao động, điều đó là nguồn cổ vũ tinh thần hăng say lao động, đồng thời là một yếu tố rất quan trọng góp phần nâng cao năng suất lao động và hiệu suất công tác của mọi người. Các ngành có trách nhiệm như thương nghiệp, y tế, văn hoá, giáo dục... phải đi sát cơ sở, phục vụ tốt cho người lao động, đặc biệt chú trọng những vùng ở xa, miền núi và hải đảo.

Để thúc đẩy phong trào thi đua không ngừng phát triển phải kết hợp đúng đắn ba loại biện pháp: giáo dục tư tưởng, khuyến khích vật chất, tăng cường kỷ luật.

Phải thường xuyên bồi dưỡng trình độ chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật cho người lao động, làm cho mỗi người ngày càng có năng lực cống hiến tốt hơn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Từ trung ương đến cơ sở, phải tổ chức sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước và các đoàn thể quần chúng, nhất là Công đoàn, Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ, và Nông hội (ở miền Nam), để giải quyết mọi vấn đề cụ thể nhằm thúc đẩy phong trào quần chúng. ở các xí nghiệp quốc doanh, việc ký kết hợp đồng tập thể giữa giám đốc xí nghiệp và công đoàn phải được coi là kỷ luật bắt buộc để bảo đảm những điều kiện vật chất - kỹ thuật cho phong trào quần chúng phát triển.

Các cơ quan quản lý cũng như các cán bộ quản lý ở mọi ngành, mọi cấp phải thâm nhập phong trào quần chúng, phát huy tác dụng qua lại giữa cơ quan quản lý và phong trào quần chúng. Cơ quan quản lý, cán bộ quản lý càng ra sức phục vụ phong trào, ra sức cải tiến chế độ quản lý, sửa đổi cách làm việc, thì phong trào quần chúng càng có điều kiện phát triển tốt. Ngược lại phong trào quần chúng càng phát triển, thì càng làm sáng tỏ nhiều vấn đề trong công tác quản lý, giúp cho cơ quan quản lý và cán bộ quản lý nâng cao trình độ, giải quyết được nhiều vấn đề nảy sinh trong phong trào mà ngoài những kinh nghiệm rút ra từ phong trào thì không thể giải quyết nổi.

Đảng viên của Đảng phải là người tiên phong, gương mẫu, là đầu tàu trong mọi phong trào cách mạng. Thực hiện đúng lời dạy của Hồ Chủ tịch: "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau", trong kế hoạch 5 năm này, mỗi đảng viên của Đảng phải là một chiến sĩ hăng hái nhất trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước, tổ chức và lãnh đạo quần chúng tiến lên mạnh mẽ thực hiện cho được những mục tiêu to lớn của kế hoạch.

Thưa các đồng chí,

Việc xây dựng cũng như việc thực hiện kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 đòi hỏi chúng ta phải nắm vững đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới cũng như đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, và vận dụng đường lối đó trong mọi hoạt động của toàn bộ hệ thống chuyên chính vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng. Muốn vậy, mọi người chúng ta phải quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng đã được trình bày sáng tỏ trong bản Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, do đồng chí Lê Duẩn trình bày trước Đại hội lần thứ IV của Đảng.

Chúng ta thường nói rất đúng rằng đường lối của Đảng ta là đường lối độc lập tự chủ, thông minh và sáng tạo. Đường lối của Đảng là ánh sáng soi đường cho nhân dân ta, hơn lúc nào hết, đứng lên làm chủ vận mệnh của mình, thực hiện ước mơ của mình, biến lý tưởng xã hội chủ nghĩa thành hiện thực sinh động trên quê hương thân yêu của mình. Đường lối của Đảng vạch rõ con đường nhân dân làm nên lịch sử, nghĩa là cùng một lúc làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên và làm chủ bản thân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản.

Kế hoạch nhà nước - kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm - là sự thể hiện tập trung và có ý nghĩa toàn diện đường lối của Đảng và lợi ích mọi mặt của nhân dân. Nhà nước phải chứng tỏ tác dụng của mình một cách nổi bật và thiết thực trong việc xây dựng kế hoạch từ trên xuống và từ dưới lên, cũng như trong việc tổ chức thực hiện vượt mức và toàn bộ các chỉ tiêu của kế hoạch. Đây là vấn đề hiệu lực của hệ thống quản lý, một chỗ yếu của chúng ta hiện nay, mà chúng ta phải suy nghĩ, nghiên cứu, từng bước có biện pháp tích cực để khắc phục, làm cho hệ thống quản lý ngày càng phát huy tác dụng của nó. Trong các chỉ tiêu trọng yếu nhất của kế hoạch, cần nhấn mạnh các chỉ tiêu về sản xuất nông nghiệp, về lương thực và thực phẩm, những chỉ tiêu ghi trong các kế hoạch nhà nước (cho cả nước) và những chỉ tiêu ghi trong kế hoạch của từng tỉnh và từng huyện cho đến cơ sở. ở đây, cần nhấn mạnh một lần nữa tầm quan trọng của cấp huyện với chức năng quản lý kinh tế, quản lý cơ cấu nông - công nghiệp của nó, một khâu quan trọng trong quá trình đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tất nhiên các ngành ở trung ương cũng như các tỉnh trong khắp nước ta đều phải cố gắng hết sức mình góp phần từng bước xây dựng huyện thành một đơn vị kinh tế nông - công nghiệp. Đó là bước tiến có tầm quan trọng to lớn về nhiều mặt trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân ở nước ta.

Có kế hoạch tốt là điều rất quan trọng. Chỉ đạo, thực hiện kế hoạch lại càng quan trọng.

Bác Hồ thường dạy chúng ta:

"Đường lối chủ trương có rồi, phải có biện pháp thực hiện cho tốt. Kế hoạch một phần, biện pháp hai phần, quyết tâm phải ba phần. Có như thế thì mới hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước".

Các đồng chí lãnh đạo các ngành ở trung ương và các địa phương (tỉnh, huyện) cho đến cơ sở cần phải căn cứ vào mục tiêu phấn đấu của kế hoạch, đề ra những biện pháp cụ thể và thiết thực (bao gồm các biện pháp về tư tưởng, tổ chức và chính sách) nhằm bảo đảm thực hiện vượt mức và toàn diện kế hoạch của Nhà nước. Chúng ta phải luôn nhớ rằng, thực hiện kế hoạch là một cuộc đấu tranh cách mạng, cuộc đấu tranh giữa ý chí tiến công với sức ỳ của tư tưởng ngại khó và bảo thủ, giữa tinh thần tập thể, chí công vô tư với tư tưởng bản vị và cục bộ. Vì vậy, chúng ta phải vũ trang cho mình ý chí quyết chiến quyết thắng và tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa, không ngừng vươn lên hoàn thành xuất sắc kế hoạch của ngành và địa phương mình, đồng thời góp phần tích cực nhất vào việc hoàn thành toàn bộ kế hoạch nhà nước.

Kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 là một công trình vĩ đại, nó vĩ đại ở chỗ nó bắt đầu giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên địa bàn cả nước, nó vĩ đại ở chỗ nó thể hiện quyết tâm của chúng ta thực hiện một bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, một bước cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, chuẩn bị điều kiện thuận lợi để tiến những bước lớn hơn trong thời gian tiếp theo.

Phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 là một sự nghiệp to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Sự nghiệp đó đòi hỏi chúng ta phải ra sức phát động, tổ chức và đẩy mạnh phong trào cách mạng mạnh mẽ và rộng khắp của quần chúng, phong trào thi đua lao động, sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mỗi đảng viên chúng ta, mỗi người dân Việt Nam chúng ta có nghĩa vụ lao động vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, lao động có tổ chức, có kỷ luật, thông minh và sáng tạo để đạt năng suất cao trong sản xuất và hiệu quả thiết thực trong công tác. Chúng ta quyết phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng, toàn thể dân tộc Việt Nam ta hãy hăng hái tiến lên hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, thực hiện những biến đổi to lớn về mọi mặt, làm cho nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tổ quốc thân yêu của chúng ta mau chóng trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, vững mạnh và hạnh phúc, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội của nhân dân thế giới.
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV do đồng chí Lê Đức Thọ trình bày Ngày 17 tháng 12 năm 1976;

Thưa các đồng chí đại biểu thân mến,

Tại Đại hội này, bản Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương do đồng chí Lê Duẩn trình bày đã tổng kết một cách sâu sắc tình hình cách mạng Việt Nam từ sau Đại hội Đảng lần thứ III đến nay, đồng thời đã vận dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, vạch ra một cách hoàn chỉnh và sáng tạo đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước, chỉ rõ những nhiệm vụ của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn mới. Trên cơ sở bản Báo cáo ấy, nghị quyết mà Đại hội sẽ thông qua chắc chắn là ngọn cờ cổ vũ nhân dân ta tiến tới những thắng lợi mới to lớn hơn nữa, xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Tiếp sau Báo cáo chính trị, Đại hội xem xét bản Báo cáo về công tác xây dựng Đảng, nhằm:

- Kiểm điểm công tác xây dựng Đảng trong 16 năm qua, một thời kỳ mà công tác xây dựng Đảng đã diễn ra với nội dung rất phong phú, đã trải qua những chuyển hướng rất quan trọng gắn liền với quá trình tiến triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm quý báu soi sáng công tác xây dựng Đảng từ nay về sau.

- Xuất phát từ đường lối, nhiệm vụ mà Báo cáo chính trị đã đề ra, vạch rõ những phương hướng, nhiệm vụ về công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn mới, giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước, tăng cường hơn nữa sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho Đảng làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình.

- Đề nghị sửa đổi và bổ sung những điểm trong Điều lệ Đảng, làm cho Điều lệ phản ánh được bước trưởng thành mới, những kinh nghiệm của Đảng trong thời gian qua, và phù hợp với những biến đổi về nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ tổ chức của Đảng trong giai đoạn mới.
Được sự uỷ nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương, tôi xin trình bày bản Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng.

Phần thứ nhất

Công tác xây dựng đảng từ sau đại hội

lần thứ III đến nay và một số bài học

kinh nghiệm

I

Tình hình Đảng ta và những ưu điểm, khuyết điểm của công tác xây dựng Đảng trong thời gian qua
Trong lịch sử Đảng ta, khoảng thời gian từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III đến nay, sẽ được ghi lại như một thời kỳ đấu tranh vô cùng gian khổ, phức tạp, đầy thử thách, hy sinh và cũng chói lọi biết bao chiến công và thắng lợi huy hoàng. Trong những năm ấy, theo phương hướng mà Nghị quyết Đại hội lần thứ III vạch ra, Đảng đã giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo cùng một lúc hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: một mặt, tổ chức và động viên toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cuộc kháng chiến lâu dài, khó khăn và vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc, chống tên đế quốc xâm lược đầu sỏ hiếu chiến, ngoan cố, có tiềm lực kinh tế và quân sự hùng mạnh nhất; một mặt, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc từ một cơ sở kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, lại trong điều kiện không ổn định, khi hoà bình, khi chiến tranh. Những nhiệm vụ cách mạng ấy càng khó khăn, phức tạp bao nhiêu thì thắng lợi giành được càng có ý nghĩa to lớn, sâu sắc bấy nhiêu.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước toàn thắng đã đập tan nền thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang và trọn vẹn nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên phát triển rực rỡ của một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, xã hội chủ nghĩa, đồng thời đẩy tới quá trình khủng hoảng toàn diện của đế quốc Mỹ, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước gắn liền với thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, căn cứ địa vững chắc của cách mạng cả nước. Quá trình tăng cường nền chuyên chính vô sản và thúc đẩy ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, đã dẫn tới những biến đổi sâu sắc trong mọi mặt đời sống xã hội, nhờ đó miền Bắc đã đứng vững qua hai cuộc chiến tranh phá hoại tàn khốc của giặc Mỹ, đáp ứng yêu cầu chi viện sức người, sức của trên một quy mô rộng lớn cho cách mạng miền Nam, cũng như đã làm tròn nghĩa vụ quốc tế.

Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và có tính chất thời đại của cách mạng Việt Nam, những thắng lợi do Đảng ta tổ chức và cổ vũ, đã chứng minh đầy đủ rằng: Đảng ta, đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến sáng lập, giáo dục và rèn luyện, là một đảng Mác - Lênin vững mạnh, đã trải qua nhiều thử thách, có nhiều kinh nghiệm, xứng đáng là đội tiên phong lãnh đạo của giai cấp công nhân, của dân tộc Việt Nam anh hùng, và là một đội ngũ kiên cường của phong trào cộng sản quốc tế.

1. Quá trình xây dựng và trưởng thành của Đảng ta trước hết là quá trình tăng cường lãnh đạo chính trị và lãnh đạo tổ chức, xây dựng đường lối, chính sách đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối ấy.

Đảng đã phân tích chính xác lực lượng so sánh giữa địch và ta, những điều kiện trong nước và quốc tế, và với niềm tin vô hạn vào sức mạnh của nhân dân, của dân tộc, đã hạ quyết tâm tiến hành kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đảng đã kế thừa và phát huy một cách rực rỡ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, đặc biệt là đã tổng kết những kinh nghiệm phong phú về đường lối và phương pháp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến chống Pháp, vận dụng và tiếp tục phát triển những kinh nghiệm đó trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong suốt cuộc kháng chiến, Đảng đã theo dõi chặt chẽ và phân tích một cách sắc bén mọi diễn biến của tình hình, định rõ mục tiêu, phương châm, phương pháp đấu tranh trong từng thời kỳ nhất định; luôn luôn thực hiện chiến lược cách mạng tiến công, đồng thời biết giành thắng lợi từng bước, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền với phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn đánh Mỹ và thắng Mỹ. Về mặt tổ chức và chỉ đạo chiến tranh, Đảng đã động viên được mọi khả năng tiềm tàng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức Đảng, Nhà nước và quần chúng, khéo phối hợp mọi lực lượng từ tiền tuyến đến hậu phương, sử dụng mọi phương tiện từ thô sơ đến hiện đại, xây dựng được lực lượng vũ trang hùng mạnh bao gồm ba thứ quân ở cả ba vùng chiến lược, đã tổ chức cuộc chiến tranh nhân dân với quy mô rộng lớn và trình độ phát triển rất cao.

Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trên cơ sở Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã căn cứ vào tình hình thực tế mà từng bước bổ sung và phát triển đường lối, từng bước cụ thể hoá nội dung và bước đi của ba cuộc cách mạng cho phù hợp với điều kiện của nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đảng đã chỉ ra nhiệm vụ, phương hướng phát triển kinh tế, văn hoá cho từng thời kỳ, đã kịp thời có chủ trương đúng đắn chuyển hướng các mặt công tác khi bước vào chiến tranh cũng như khi hoà bình lập lại.

Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Đảng đã kịp thời nhận định tình hình, đề ra chủ trương rất sáng suốt, sớm hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, đã phân tích và giải quyết hàng loạt vấn đề cơ bản của cách mạng nước ta nói chung và của miền Nam nói riêng, kết hợp hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ với tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, kết hợp giữa cải tạo xã hội chủ nghĩa với xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trên lĩnh vực quan hệ quốc tế, trong tình hình rất phức tạp, đường lối đúng đắn của Đảng đã phát huy sức mạnh tổng hợp của ba dòng thác cách mạng, đoàn kết và tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, của các dân tộc bị áp bức, của phong trào công nhân quốc tế và của mọi lực lượng tiến bộ trên thế giới. Bằng cuộc chiến đấu anh dũng sáng ngời chính nghĩa của mình, chúng ta đã góp phần tích cực vào việc động viên mọi lực lượng cách mạng và tiến bộ của thời đại, hình thành trên thực tế một mặt trận rộng rãi của nhân dân thế giới chống đế quốc Mỹ phối hợp nhịp nhàng với cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Trên những vấn đề chiến lược và sách lược của phong trào cộng sản quốc tế, Đảng đã có những quan điểm đúng đắn và độc lập của mình, đã góp phần vào cuộc đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chống những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa hữu và "tả".

Nhìn lại chặng đường đã qua, chúng ta rất tự hào nhận thấy rằng, trong những điều kiện vô cùng khó khăn, phức tạp của cách mạng nước ta và cách mạng thế giới, đường lối, chính sách của Đảng luôn luôn đúng đắn, sáng tạo, cả trên lĩnh vực đối nội và đối ngoại, về cách mạng dân tộc dân chủ, chống Mỹ, cứu nước cũng như về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đường lối ấy vừa quán triệt tinh thần cách mạng tiến công, cách mạng triệt để, vừa thấm nhuần tính khoa học nghiêm túc trong việc phân tích lực lượng so sánh giữa ta và địch trong phạm vi nước ta và trên thế giới, vừa có sự chuyển hướng mạnh bạo, kịp thời nhằm mục tiêu cụ thể, vừa có sách lược và phương pháp đấu tranh thích hợp. Đường lối chính trị đúng đã tạo ra và nhân lên nhiều lần sức mạnh tổng hợp của Đảng ta về mọi mặt: sự thống nhất tư tưởng và tổ chức; sức chiến đấu của các tổ chức Đảng và Nhà nước, của cán bộ, đảng viên, sức mạnh của quần chúng làm chủ tập thể; sự đoàn kết và ủng hộ quốc tế. Đường lối ấy đã được cụ thể hoá và phát triển phong phú, được chứng minh là đúng và trở thành hiện thực là nhờ ở hoạt động thực tiễn đầy sáng tạo, ở cuộc chiến đấu hy sinh, dũng cảm của đông đảo cán bộ, đảng viên, của quân và dân, của các đảng bộ ở các ngành, các địa phương, các đơn vị cơ sở.

2. Quá trình xây dựng và trưởng thành của Đảng ta trong những năm qua gắn liền với quá trình xây dựng Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản, tổ chức và phát huy cao độ tinh thần làm chủ tập thể của quần chúng. Đó cũng là quá trình không ngừng thắt chặt mối liên hệ gắn bó giữa Đảng với quần chúng.

Đảng ta đã chăm lo xây dựng Nhà nước vững mạnh với một cơ cấu hoàn chỉnh từ trung ương đến cơ sở. Nhiều cán bộ cốt cán của Đảng đã được cử vào hoạt động trong các cơ quan nhà nước, đồng thời với việc thu hút những đại biểu ưu tú trong quần chúng ngoài Đảng. Đảng đã lãnh đạo bộ máy nhà nước làm tốt nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức chiến đấu giỏi, bảo đảm mọi nhu cầu của chiến tranh. Cơ cấu quản lý kinh tế đã từng bước được kiện toàn, đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế đã phát triển mạnh và bắt đầu phát huy tác dụng.

ở miền Nam, trong những năm kháng chiến, Chính phủ Cách mạng lâm thời được thành lập đã có ảnh hưởng và uy tín to lớn trên trường quốc tế. Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hệ thống chính quyền được mau chóng xây dựng và từng bước kiện toàn, đã phát huy vai trò của nó trong việc trấn áp bọn phản cách mạng, xây dựng quyền làm chủ tập thể của nhân dân, tổ chức cuộc sống mới.

Vừa qua, chúng ta đã tiến hành thắng lợi rực rỡ cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung cả nước. Quốc hội đã cử ra Chính phủ và các cơ quan lãnh đạo khác của Nhà nước. Việc thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước đã được hoàn thành tốt đẹp, bộ máy nhà nước được củng cố một bước.

Lực lượng chính trị của quần chúng ngày càng lớn mạnh. Hệ thống các đoàn thể quần chúng ở miền Bắc cũng như ở miền Nam nay đã thống nhất, tập hợp được quần chúng đông đảo, góp phần tích cực vào việc giáo dục và động viên quần chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng.

Bằng hoạt động trực tiếp của mình và thông qua các tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản, Đảng đã phát huy được vai trò làm chủ tập thể của quần chúng trên nhiều lĩnh vực, củng cố mối liên hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân đông đảo, nên đã tập hợp được lực lượng và giành được sự ủng hộ mạnh mẽ của quần chúng để đấu tranh ngay trong những hoàn cảnh gay go, ác liệt, đòi hỏi phải chịu đựng những hy sinh và thử thách nặng nề nhất. Trong những năm chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã triển khai công tác giáo dục, động viên tinh thần trên một quy mô lớn với nhiều hình thức phong phú, gắn liền giáo dục yêu nước với giáo dục xã hội chủ nghĩa, phát động phong trào cách mạng sôi nổi và rộng rãi trong quần chúng, thu hút mọi tầng lớp, mọi giới, mọi lứa tuổi. Qua đó, tư tưởng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" và khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng" thấm sâu vào quần chúng; truyền thống yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng được cổ vũ mạnh mẽ; lòng dũng cảm và trí sáng tạo của quần chúng được phát huy cao độ. Nhiều phần tử ưu tú, nhiều anh hùng, chiến sĩ thi đua đã nảy nở và trưởng thành.

Sau ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng, ở miền Nam, nhân dân đang xây dựng quyền làm chủ của mình; khí thế cách mạng của quần chúng tiến bộ rõ rệt qua cuộc Tổng tuyển cử bầu cử Quốc hội chung của cả nước, xây dựng chính quyền và trấn áp bọn phản cách mạng, qua các phong trào thuỷ lợi, tăng vụ, khai hoang và các phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng, xây dựng nếp sống mới... Trên miền Bắc, trong việc tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý kinh tế, trong việc chăm lo đời sống và giáo dục, động viên nhiệt tình yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, phong trào quần chúng lao động sản xuất cũng đang có đà đi lên.

3. Dựa trên đường lối chính trị đúng đắn và trong quá trình phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng trong cuộc đấu tranh để hoàn thành những nhiệm vụ cách mạng ấy, Đảng đã được xây dựng và trưởng thành thêm về tư tưởng và tổ chức. Theo phương hướng Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III, công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức đã có nhiều cố gắng nhằm tăng cường tính chất đảng của giai cấp công nhân, và bám sát yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, bảo đảm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng.

Trong những năm qua, sinh hoạt tư tưởng và sinh hoạt tổ chức của Đảng ta có nội dung vô cùng phong phú, sôi nổi. Đó là những năm đã diễn ra mấy lần chuyển hướng lớn về nhiệm vụ chính trị của Đảng. Những năm đầu sau Đại hội lần thứ III, miền Bắc chuyển mạnh vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội với việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, trong khi đó cách mạng miền Nam chuyển sang thế tiến công, dấy lên phong trào đồng khởi và đập tan cuộc Chiến tranh đặc biệt của địch. Từ năm 1965, cả nước chuyển vào chiến tranh, nhân dân ta đứng lên kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng thời bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Từ sau khi ký Hiệp định Pari, tháng 1 năm 1973, Mỹ phải rút quân khỏi miền Nam, chúng ta vừa chiến đấu để bảo vệ thành quả cách mạng, vừa ra sức tăng cường lực lượng, tiến tới cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đại thắng mùa Xuân 1975. Từ sau khi hoàn toàn giải phóng miền Nam, cách mạng lại bước vào một giai đoạn mới: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước.

Những chuyển hướng ấy đã đặt ra biết bao yêu cầu to lớn và phức tạp đối với công tác tư tưởng và tổ chức. Thích ứng với tình hình đó, công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức đã có những chuyển hướng rất quan trọng trên một quy mô rộng lớn và nói chung đã đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của nhiệm vụ chính trị.

Công tác tư tưởng được tăng cường. Qua việc học tập lý luận, qua các đợt sinh hoạt chính trị, các cuộc nghiên cứu nghị quyết của Đại hội, của Ban Chấp hành Trung ương, và với nhiều hình thức khác, Đảng đã đem những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối, chính sách của Đảng giáo dục cho cán bộ, đảng viên, nhờ đó đã giúp các đồng chí xây dựng lập trường, quan điểm đúng đắn, nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tăng cường ý chí chiến đấu cách mạng, bồi dưỡng kiến thức và năng lực công tác. Những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa hữu và "tả" trong một số cán bộ và đảng viên, đã bị phê phán và ngăn chặn.

Tổ chức của Đảng được chăm lo củng cố. Các cấp uỷ đảng, kể cả bộ máy các ban, từng bước được kiện toàn. Việc xây dựng bộ máy được tiến hành gắn liền với việc xây dựng chức trách, cải tiến lề lối làm việc và nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên. Tổ chức cơ sở Đảng tiếp tục được mở rộng. ở miền Bắc, từ 31.448 chi bộ, 16.340 đảng bộ cơ sở năm 1960, ngày nay Đảng đã có 95.486 chi bộ, 34.545 đảng bộ cơ sở ở khắp các địa phương, các ngành. ở miền Nam, trong chiến đấu ác liệt, kẻ địch đã dùng trăm phương nghìn kế từ bắn giết, tra tấn dã man đến những thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc, nhưng đông đảo đảng viên đã tỏ rõ lòng trung thành không bờ bến với Đảng, với cách mạng. Tuy cơ sở Đảng bị nhiều tổn thất, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên đã bị hy sinh, tù đày, nhưng cơ sở Đảng vẫn ăn sâu, bám chắc trong quần chúng, và từ sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, tổ chức cơ sở đã được mau chóng mở rộng và xây dựng ở hầu khắp các xã, xí nghiệp, v.v.. Các cuộc vận động xây dựng chi bộ và đảng bộ cơ sở bốn tốt ở miền Bắc, xây dựng chi bộ tự động công tác ở miền Nam, cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên gắn liền với các phong trào cách mạng của quần chúng đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng.

Trong công tác tổ chức, nhằm quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng đã phê phán nghiêm khắc những biểu hiện quan liêu, độc đoán cũng như những hiện tượng buông lỏng kỷ luật. Sự nhất trí cao về đường lối chính trị được bảo đảm và tăng cường bằng nguyên tắc tổ chức. Trong Đảng không có chia rẽ về chính trị. Khối đoàn kết, thống nhất của Đảng được củng cố là một yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh của Đảng. Trong chiến đấu gian khổ và trước những biến chuyển phức tạp của tình hình trong nước và trên thế giới, toàn Đảng luôn luôn vững vàng, đoàn kết chặt chẽ chung quanh Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch. Truyền thống đoàn kết, thống nhất của Đảng được phát huy...

Bộ máy tổ chức và lực lượng cán bộ, đảng viên đã được sắp xếp thích ứng với nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng thời kỳ. Sau Đại hội lần thứ III của Đảng, Đảng tiếp tục tăng cường cán bộ cho các mặt trận kinh tế và văn hoá để đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Trong những năm chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã tăng cường hàng vạn cán bộ cho quân đội, cho giao thông vận tải, cho miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế, điều động hàng chục vạn đảng viên ưu tú trẻ tuổi gia nhập quân đội; phân công lại cán bộ, đảng viên, sắp xếp lại một số tổ chức để bảo đảm hai nhiệm vụ chính là sản xuấtchiến đấu. Sau khi giải phóng miền Nam, đã sửa đổi lại hệ thống tổ chức, hợp nhất tỉnh, giải thể cấp khu và Trung ương Cục, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất, mau lẹ từ trung ương xuống địa phương phù hợp với điều kiện mới, từng bước kiện toàn các tỉnh uỷ, huyện uỷ, đảng uỷ cơ sở về số lượng, cơ cấu và chất lượng để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ mới. Vừa sắp xếp, phân công lại cán bộ, đảng viên tại địa phương, vừa điều động một lực lượng lớn cán bộ từ miền Bắc vào để đáp ứng yêu cầu tiếp quản các thành phố, xây dựng chính quyền và quản lý các ngành, các cơ sở kinh tế, văn hoá.

Đảng ta đã xây dựng được đội ngũ đảng viên đông đảo, gồm trên 1.553.500 người, chiếm 3,13% dân số. Qua đấu tranh cách mạng ở cả hai miền, số đông đảng viên biểu lộ phẩm chất tốt, hàng chục vạn đảng viên đã hy sinh rất oanh liệt vì sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và hiện nay lớp lớp đảng viên đang nối bước, tận tuỵ phấn đấu, gương mẫu dẫn đầu quần chúng trong công cuộc hàn gắn những vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới.

Trong những năm chiến đấu quyết liệt chống Mỹ, cứu nước, đội ngũ đảng viên ở miền Bắc đã tăng lên mau chóng. Việc mở rộng hàng ngũ lúc ấy là cần thiết. Nó đã thu hút được nhiều phần tử ưu tú nảy nở trong phong trào quần chúng, thiết thực tăng cường lực lượng nòng cốt cho những nhiệm vụ chiến đấu và sản xuất, và nhờ vậy đã xây dựng thêm hàng vạn chi bộ và tổ chức cơ sở Đảng ở khắp các ngành, các đơn vị. Nhưng một khuyết điểm lớn ở nhiều nơi là đã chạy theo số lượng, kết nạp cả những người giác ngộ chính trị thấp, lẫn lộn đảng viên với quần chúng tích cực, trên thực tế dẫn tới hạ thấp tiêu chuẩn đảng viên, gây ảnh hưởng không tốt đến tính giai cấp và tính tiên phong của Đảng. Những năm qua, khuyết điểm ấy đã được phê phán và ngăn chặn. Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, tháng 4 năm 1970, Bộ Chính trị ra Nghị quyết "Về cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh". Việc thực hiện nghị quyết ấy, mặc dù chưa thật đầy đủ, đã có tác dụng đưa công tác kết nạp đảng viên đi dần vào nền nếp, bảo đảm chất lượng hơn và đưa ra khỏi Đảng hàng vạn người không đủ tư cách đảng viên, góp phần làm cho hàng ngũ Đảng thêm trong sạch, vững mạnh.

Sự nghiệp đào tạo cán bộ được đẩy mạnh. Hệ thống trường đảng đã được xây dựng từ trung ương đến địa phương. Hệ thống trường đại học và trung học chuyên nghiệp được mở rộng. Một phong trào khá sôi nổi trong đông đảo cán bộ, đảng viên học tập văn hoá, chính trị, khoa học, kỹ thuật đã được phát động. Ngay trong chiến tranh, quy mô đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật để chuẩn bị cho tương lai vẫn được giữ vững và mở rộng. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ quân sự đông đảo được đào tạo, bồi dưỡng và trưởng thành nhanh, đã đáp ứng tốt nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân. Sau ngày giải phóng miền Nam, Đảng đã và đang chăm lo thành lập các trường dạy văn hoá, mở rộng hệ thống trường Đảng và các trường chuyên môn, nghiệp vụ để bồi dưỡng và đào tạo cán bộ cho giai đoạn cách mạng mới.

Cùng với công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách và các nhiệm vụ chính trị, công tác kiểm tra các vụ đảng viên vi phạm Điều lệ và kỷ luật của Đảng, vi phạm đạo đức cách mạng và pháp luật nhà nước và xử lý đơn từ khiếu tố của đảng viên và quần chúng đã đem lại những kết quả nhất định. Những việc đó đã góp phần vào việc giữ gìn kỷ luật của Đảng, giáo dục cán bộ, đảng viên, làm trong sạch hàng ngũ Đảng.

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam thật là vĩ đại. Những thành tích và ưu điểm trong công tác xây dựng Đảng là rất cơ bản và có tác dụng quyết định đối với thắng lợi của cách mạng. Nhưng càng có thành tích lớn thì Đảng ta càng phải nghiêm khắc với những nhược điểm và khuyết điểm còn tồn tại.

1. Về mặt lãnh đạo chính trị, đường lối chung về cách mạng xã hội chủ nghĩa đã được xác định đúng đắn, nhưng có những mặt chưa được cụ thể hoá đầy đủ. Công tác lãnh đạo trên một số mặt xây dựng quy hoạch kinh tế, chính sách, tổ chức và quản lý kinh tế, quản lý xã hội không theo kịp sự phát triển của nhiệm vụ chính trị. Do đó, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; năng lực sản xuất chưa được khai thác đúng với khả năng; nguồn vốn, vật tư và lao động chưa được sử dụng với hiệu quả kinh tế cao và còn nhiều lãng phí; phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa chưa mạnh.

Việc chỉ đạo cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam cũng có lúc thiếu kịp thời. Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, về nhiều mặt, còn thiếu chính sách cụ thể. Trong công tác lãnh đạo của các cấp, các ngành và hoạt động của cán bộ, đảng viên có một số nhược điểm và khuyết điểm, nổi bật nhất là nhận thức chưa thật đầy đủ về tính chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn mới, nắm không chắc quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội; từ đó có những biểu hiện lơi lỏng trên một số lĩnh vực công tác mà chúng ta đang ra sức khắc phục.

2. Cơ cấu tổ chức bảo đảm chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa còn yếu ở nhiều khâu và chưa được xây dựng thành chế độ chặt chẽ và đồng bộ. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và Nhà nước quản lý chưa được xác định rõ ở từng cấp, từng đơn vị. Nhiều cấp uỷ và tổ chức Đảng vừa bao biện, làm thay chính quyền, vừa buông lỏng lãnh đạo công việc của cơ quan nhà nước về nhiều mặt. Hiệu lực của bộ máy chính quyền các cấp chưa được phát huy mạnh mẽ. Pháp chế xã hội chủ nghĩa còn lỏng lẻo và thiếu sót trong lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Hệ thống tổ chức và các chế độ quản lý kinh tế chưa được kiện toàn, có những điểm chưa phù hợp với điều kiện thực tế nước ta. Các tổ chức quần chúng chậm cải tiến phương thức hoạt động để phát huy vai trò làm chủ tập thể của mình trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội; do đó, hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Bộ máy của nhiều ngành, nhiều địa phương cồng kềnh, quyền hạn, trách nhiệm chưa rành mạch, lối làm việc quan liêu, xa quần chúng, xa thực tế và tình trạng phân tán, cục bộ, địa phương, bản vị còn khá phổ biến. Những chỗ yếu trong sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chuyên chính vô sản hiện nay là kỷ luật còn lỏng lẻo; trong tổ chức lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, mỗi bộ phận trong hệ thống chuyên chính vô sản chưa thực hiện tốt chức năng của mình và sự phối hợp giữa các bộ phận ấy chưa chặt chẽ, nhịp nhàng trên tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa và theo những chế độ, nội quy cụ thể. Hiện nay ở các địa phương phía Nam, bộ máy tổ chức của Đảng, chính quyền cũng như các đoàn thể quần chúng ở nhiều nơi chưa được kiện toàn đúng mức, và ở một số vùng còn có vấn đề phức tạp.

Những chỗ non kém, lỏng lẻo nói trên đưa tới tình trạng chậm trễ, lủng củng trong việc giải quyết nhiều vấn đề về sản xuất và đời sống nhân dân, đồng thời có ảnh hưởng không tốt đến việc củng cố nội bộ Đảng, đến việc ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng.

3. Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức còn có những nhược điểm, khuyết điểm và có những mặt công tác còn mang tính chất hữu khuynh. Công tác tư tưởng ở những bước ngoặt của cách mạng có lúc không kịp thời, buông lỏng và đấu tranh thiếu sắc bén chống những nhận thức mơ hồ, lệch lạc và những khuynh hướng sai lầm. Trình độ lý luận, văn hoá, khoa học, kỹ thuật của nhiều cán bộ, đảng viên chậm được nâng cao.

Trong công tác tổ chức, một số vấn đề về hệ thống, cơ cấu bộ máy của Đảng chậm được nghiên cứu để thay đổi cho phù hợp với những điều kiện mới, do đó tổ chức của Đảng có những mặt chưa hợp lý và thiếu năng động. Nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình chưa được chấp hành nghiêm chỉnh ở nhiều nơi. Tình trạng thiếu tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lỏng lẻo, mất đoàn kết trong quan hệ cá nhân còn khá phổ biến. Số tổ chức cơ sở Đảng thuộc loại yếu kém tương đối nhiều nhưng chậm được củng cố.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn thiếu quy hoạch; việc cất nhắc cán bộ trẻ và đưa cán bộ già yếu về hưu còn thiếu mạnh dạn; việc thường xuyên đổi mới từng phần đội ngũ cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý chậm được đặt ra với một ý thức và kế hoạch rõ ràng; tình hình đó có ảnh hưởng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ kế thừa của Đảng. Việc quản lý cán bộ thiếu chặt chẽ, chưa đi vào nền nếp.

Tình trạng lỏng lẻo trong công tác phát triển Đảng và quản lý đảng viên xảy ra ở nhiều nơi nhưng không được ngăn chặn kịp thời, việc nâng cao chất lượng đảng viên còn nhiều mặt làm kém. Tệ tham ô, quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, thiếu trung thực nảy sinh trong hoàn cảnh Đảng lãnh dạo chính quyền đã và đang làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, thậm chí biến chất đi tới chỗ lợi dụng chức quyền làm điều sai trái, vi phạm pháp luật, ức hiếp quần chúng, v.v. nhưng việc giáo dục thiếu kịp thời và sâu sắc, kỷ luật không được nghiêm minh. Việc đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng làm thiếu kiên quyết. Việc xem xét, giải quyết đơn từ khiếu tố làm rất chậm.

Hoàn cảnh chiến tranh không cho phép triệu tập Đại hội Đảng đúng kỳ hạn. Điều đó cũng có ảnh hưởng đến sự trưởng thành của Đảng và cán bộ, đảng viên, đến việc đào tạo cán bộ của Đảng.

Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, nhiều cấp uỷ Đảng lại ít chăm lo công tác xây dựng Đảng. Ban Chấp hành Trung ương đã dần dần đúc kết kinh nghiệm và làm sáng rõ một số chủ trương, phương châm, biện pháp về xây dựng Đảng, về công tác cán bộ. Nhưng nhìn chung, việc tổng kết kinh nghiệm và nghiên cứu lý luận về xây dựng Đảng làm chậm. Việc chưa phân tích một cách sâu sắc, đầy đủ những đặc điểm của Đảng nắm chính quyền và lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện tiến thẳng từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, và chưa nhấn mạnh đúng mức việc ngăn ngừa và đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực dễ nảy sinh trong hoàn cảnh mới đó, là một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến xây dựng Đảng. Nhận thức về Đảng và công tác đảng của cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ làm công tác đảng, còn nhiều điểm chưa rõ, hoặc còn mang nặng tính chất đảng vụ đơn thuần. Chủ nghĩa kinh nghiệm trong công tác đảng còn nặng.

Một số nghị quyết quan trọng về xây dựng Đảng không được tổ chức thực hiện với hiệu quả cao. Tình trạng đó, một phần là do chưa làm cho cán bộ, đảng viên thông suốt về tư tưởng và quan điểm một cách sâu sắc, và trong nhiều trường hợp còn do sự chỉ đạo thiếu kế hoạch, thiếu biện pháp cụ thể, thiếu kiểm tra đôn đốc chặt chẽ, chưa khéo kết hợp công tác tư tưởng và công tác tổ chức, chưa biết gắn chặt công tác xây dựng Đảng với việc phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng và với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng.

Những khuyết điểm và nhược điểm ấy đã hạn chế nhiều chất lượng và kết quả công tác xây dựng Đảng.

II

Một số bài học kinh nghiệm về vận dụng đường lối và phương châm xây dựng đảng
Lịch sử xây dựng Đảng ta là lịch sử xây dựng thành công một chính đảng Mác - Lênin trong điều kiện một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, mặc dù phải trải qua biết bao thử thách hiểm nghèo, phải chống trả đủ loại thù trong giặc ngoài, phong kiến và đế quốc, thực dân cũ và thực dân mới, nhưng vẫn không ngừng phát triển lớn mạnh và đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó là lịch sử xây dựng và trưởng thành của một đảng đã từng lãnh đạo ba cao trào cách mạng tiến tới cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, đã lãnh đạo hai cuộc kháng chiến vĩ đại đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, hoàn thành vẻ vang cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước. Đó là lịch sử xây dựng và trưởng thành của một đảng đã nắm chính quyền từ trên 30 năm nay, đã lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trên 20 năm và ngày nay đang lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quy mô cả nước. Bài học thành công về xây dựng một đảng như vậy vô cùng phong phú, ở đây chỉ nêu lên một số nét chính:

1. Trong suốt quá trình xây dựng Đảng từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn xác định Đảng là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và phấn đấu không ngừng nâng cao tính chất giai cấp công nhân của Đảng.

Khẳng định điều đó có nghĩa là khẳng định lập trường của Đảng ta là lập trường giai cấp công nhân, giai cấp gắn liền với nền sản xuất đại công nghiệp, tiêu biểu cho xu thế phát triển của thời đại, có hệ tư tưởng cách mạng và khoa học là chủ nghĩa Mác - Lênin. Khẳng định lập trường ấy, phân biệt ranh giới dứt khoát với lập trường của tiểu tư sản và tư sản là điều rất quan trọng đối với Đảng ta, một đảng mà số đông đảng viên xuất thân từ nông dân, tiểu tư sản và giác ngộ cách mạng bắt đầu từ chủ nghĩa yêu nước. Nhấn mạnh tính chất giai cấp công nhân của Đảng hoàn toàn không dẫn tới sự phân cách giữa Đảng, giai cấp với dân tộc, mà trái lại chính là làm cho Đảng ta một khi đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, có thể liên hệ chặt chẽ với nhân dân, phục vụ có hiệu quả nhất sự nghiệp cách mạng của nhân dân, của dân tộc. Đảng ta đã từng đấu tranh khắc phục lệch lạc ở cả hai phía: nói tính chất giai cấp theo quan niệm biệt phái, công đoàn chủ nghĩa hoặc thành phần chủ nghĩa, tách rời giai cấp khỏi dân tộc và ngược lại, mơ hồ, lẫn lộn về tính chất giai cấp của Đảng, coi Đảng là đảng của những người nghèo khổ, đảng của nông dân, lẫn lộn đảng với giai cấp và quần chúng, dẫn tới những lệch lạc hữu khuynh về tư tưởng và tổ chức.

Tính chất giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện một cách sinh động trên mọi lĩnh vực chính trị, tư tưởng và tổ chức, được phát triển và nâng cao không ngừng, phù hợp với vai trò và sứ mệnh mà Đảng phải gánh vác trong từng giai đoạn của cách mạng nước ta.

a) Vấn đề có ý nghĩa quyết định nhất là Đảng ta tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, có đường lối chính trị độc lập, tự chủ, luôn luôn đúng đắn, sáng tạo. Nét nổi bật và xuyên suốt trong toàn bộ đường lối ấy từ trước đến nay là Đảng ta luôn luôn nắm vững hai ngọn cờ: độc lập dân tộcchủ nghĩa xã hội, gắn liền hai mục tiêu phấn đấu vì độc lập dân tộc và vì chủ nghĩa xã hội, do đó, đã động viên rộng rãi mọi lực lượng của giai cấp và của dân tộc, kết hợp chặt chẽ sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.

Đường lối của Đảng thể hiện trung thành những lợi ích thiêng liêng của dân tộc, kết hợp đúng đắn với lợi ích của phong trào cách mạng thế giới. Trước và sau khi có chính quyền, Đảng luôn luôn xác định rõ trách nhiệm của mình đối với nghĩa vụ quốc tế, khẳng định Đảng là một bộ phận hợp thành của phong trào cộng sản quốc tế. Trong khi ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế đối với cách mạng Việt Nam, Đảng đồng thời góp phần vào việc tăng cường lực lượng cách mạng trên thế giới, và tích cực làm tròn mọi nghĩa vụ quốc tế. Đảng đấu tranh chống mọi khuynh hướng sô vanh nước lớn và ích kỷ dân tộc.

Đảng ta luôn luôn xuất phát từ đặc điểm của cách mạng Việt Nam, từ những điều kiện cụ thể của đất nước và dân tộc ta mà vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và những kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới. Với tinh thần độc lập, tự chủ ấy, Đảng đã giải quyết thành công và sáng tạo các vấn đề đường lối và phương pháp cách mạng Việt Nam.

b) Dựa trên đường lối chính trị đúng đắn, Đảng ta coi trọng tăng cường lãnh đạo tư tưởng. Thành công của Đảng trên lĩnh vực này là đã xây dựng lập trường, quan điểm đúng đắn cho cán bộ, đảng viên phần đông xuất thân từ nông dân, củng cố sự thống nhất tư tưởng trên cơ sở đường lối cách mạng của Đảng, ngăn chặn được mọi khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa hữu và "tả". Đó còn là thành công trong việc kết hợp giáo dục chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, nhờ đó đã phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, động viên cao độ nghị lực và lòng dũng cảm, mọi tài năng, trí sáng tạo của cán bộ, đảng viên và của nhân dân ta để đưa sự nghiệp cách mạng tiến tới.

c) Chẳng những vạch ra đường lối đúng, khẩu hiệu đúng, Đảng ta, với ý chí chiến đấu kiên cường và hoạt động thực tiễn phong phú, đã tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối chính trị của mình và rất coi trọng rèn luyện cán bộ, đảng viên trong phong trào quần chúng. Đảng vừa là lực lượng lãnh đạo, bộ tham mưu chính trị, vừa là lực lượng chiến đấu, là đội quân xung kích dẫn đầu và là người tổ chức các phong trào cách mạng của quần chúng. Đảng ta được rèn luyện và trưởng thành trong quá trình chiến đấu cách mạng lâu dài, đầy thử thách quyết liệt, dưới nhiều hình thức phong phú khác nhau: đấu tranh hợp pháp và không hợp pháp, quân sự và chính trị, khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng, cải tạo và xây dựng hoà bình... Trải qua những lò lửa cách mạng ấy, sức chiến đấu và năng lực tổ chức của Đảng ngày càng được bồi dưỡng và phát huy.

Sau khi giành được chính quyền và tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng trở thành hạt nhân lãnh đạo của nền chuyên chính vô sản, là người lãnh đạo toàn xã hội. Những nhiệm vụ tổ chức của Đảng lúc này có nội dung mới, có phạm vi rộng lớn khác trước, đó là việc xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa và hệ thống chuyên chính vô sản, là công việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội, tổ chức cuộc sống mới của hàng triệu người. Đảng đã và đang chăm lo xây dựng Nhà nước và các đoàn thể quần chúng vững mạnh, vận dụng sức mạnh tổng hợp của chế độ làm chủ tập thể, kết hợp các biện pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức, về giáo dục, kinh tế và hành chính để tổ chức thực hiện có hiệu quả nhất mọi đường lối, chính sách của Đảng.

d) Truyền thống tốt đẹp và nguồn sức mạnh cơ bản của Đảng ta là mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Đảng có đường lối, chính sách phản ánh đúng đắn lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, của các dân tộc, đại đa số cán bộ, đảng viên hy sinh phấn đấu, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, đi sát quần chúng, tuyên truyền thuyết phục quần chúng. Nhờ đó nhân dân ta rất tin tưởng và đoàn kết chặt chẽ trong Mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở liên minh công nông dưới ngọn cờ của Đảng và của Hồ Chủ tịch kính mến.

Từ sau khi Đảng nắm chính quyền, trách nhiệm của Đảng trước quần chúng càng nặng nề, nội dung và phạm vi mối liên hệ với quần chúng trở nên rộng rãi hơn nhiều. Đảng nắm chính quyền có mối liên hệ với toàn dân và trên mọi lĩnh vực của đời sống. Đảng liên hệ với quần chúng không những thông qua các đoàn thể nhân dân và mặt trận, thông qua hoạt động hàng ngày của cán bộ, đảng viên mà còn thông qua cả một hệ thống cơ quan nhà nước trong việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Đảng chăm lo xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân một cách toàn diện, làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, làm chủ trong cả nước, trong từng địa phương và từng cơ sở. Quyền làm chủ tập thể của nhân dân được nâng cao thì tính tích cực và trí sáng tạo của quần chúng càng dồi dào, phong trào cách mạng của quần chúng càng sôi nổi, rộng lớn. Có sự lãnh đạo đúng của Đảng, có bộ máy nhà nước mạnh, lại có phong trào cách mạng của đông đảo quần chúng thì mọi nhiệm vụ cách mạng dù khó khăn phức tạp đến đâu cũng được hoàn thành thắng lợi.

đ) Một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng là sự đoàn kết, thống nhất nội bộ. Khối đoàn kết, thống nhất của Đảng đã được thử thách và tôi luyện trong quá trình chiến đấu lâu dài, lúc thuận lợi và lúc khó khăn, lúc cách mạng phát triển bình thường và trong những bước ngoặt phức tạp. Đó là sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thống nhất ý chí và hành động dựa trên đường lối cách mạng đúng đắn và những nguyên tắc tổ chức của đảng vô sản. Hạt nhân vững chắc của khối đoàn kết, thống nhất ấy là Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến. Đảng ta không dung túng mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái, chăm lo bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất của Đảng như bảo vệ con ngươi của mắt mình, theo đúng lời căn dặn trong Di chúc của Hồ Chủ tịch.

Trong sinh hoạt tổ chức, Đảng ta luôn luôn cố gắng phấn đấu giữ vững chế độ tập trung dân chủ mà nội dung cơ bản của nó đã được Điều lệ Đảng xác định cụ thể.

Đảng coi trọng giữ gìn nguyên tắc lãnh đạo tập thể, trước hết là trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị, nhờ đó đã tạo ra sự nhất trí cao về đường lối trong Đảng, và bảo đảm về mặt tổ chức cho đường lối của Đảng được xây dựng đúng và được thực hiện thắng lợi. Đảng thường xuyên chống những lệch lạc ở cả hai phía: tập trung quan liêu, gia trưởng, độc đoán và phân tán, tản mạn, tự do vô kỷ luật, và qua từng bước, xây dựng các chế độ cụ thể về tổ chức và sinh hoạt nội bộ Đảng.

Trong khi vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng chú trọng làm cho nội dung cụ thể và hình thức thể hiện của nó phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và đặc điểm hoàn cảnh hoạt động của Đảng trong mỗi thời kỳ khác nhau. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nội dung lãnh đạo của Đảng ngày càng phong phú và phức tạp; đặc biệt là trên lĩnh vực xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá thì sự lãnh đạo của Đảng càng phải tập trung thống nhất, đồng thời phải mở rộng quyền hạn, phát huy sáng kiến và tính chủ động của từng tổ chức, từng cán bộ, đảng viên. Lúc này việc thực hiện tập trung dân chủ trong Đảng gắn liền với việc thực hiện tập trung dân chủ trong bộ máy nhà nước, xác định vị trí của mỗi cấp, phân công trách nhiệm quản lý một cách đúng đắn, nhất là về mặt kinh tế.

e) Đảng ta vô cùng tự hào có lãnh tụ vĩ đại là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã sáng lập, giáo dục, rèn luyện Đảng ta, đã dẫn dắt Đảng ta vượt qua bao khó khăn hiểm nghèo đạt tới những thắng lợi rực rỡ ngày nay. Với sự chăm sóc của Hồ Chủ tịch, Đảng ta đã lựa chọn, rèn luyện và hình thành được một đội ngũ cốt cán lãnh đạo đã trải qua thử thách trong chiến đấu cách mạng lâu dài, nắm vững và biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, gắn bó chặt chẽ với quần chúng, có uy tín cao trong Đảng và trong nhân dân.

Bên cạnh đội ngũ cốt cán ấy, Đảng đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ, đảng viên đông đảo, có phẩm chất cách mạng tốt đẹp.

Mối quan tâm hàng đầu của Đảng ta là giữ gìn và nâng cao chất lượng đảng viên mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo; về mặt này, Đảng ta đã từng đấu tranh lâu dài với thiên hướng chạy theo số lượng hoặc những quan niệm không đầy đủ về chất lượng đảng viên. ở mỗi giai đoạn phát triển của cách mạng, Đảng lại phải cụ thể hoá tiêu chuẩn đảng viên, nâng cao chất lượng đảng viên, làm cho đội ngũ đảng viên luôn luôn tiến lên ngang tầm với yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng.

Trong khi mở rộng hàng ngũ, phải bảo đảm thu hút được những người ưu tú nhất xuất thân từ giai cấp công nhân, nhân dân lao động, đã được thử thách trong phong trào cách mạng quần chúng; mặt khác, phải tỉnh táo phòng ngừa những phần tử cơ hội chui vào Đảng cầm quyền để mưu cầu danh lợi. Lại phải nghiêm ngặt kiểm tra nội bộ, loại trừ những tên phản động, nội gián, đưa ra khỏi Đảng những phần tử thoái hoá về chính trị, về phẩm chất, đạo đức và những phần tử lạc hậu đã mất liên hệ với quần chúng, giữ gìn cho hàng ngũ của Đảng luôn trong sạch.

Để phát huy bản chất cách mạng và khoa học của Đảng, để Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo của mình, phải chăm lo giữ gìn phẩm chất cách mạng đi đôi với ra sức nâng cao kiến thức, năng lực của cán bộ, đảng viên tương ứng với đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng, không tách rời các mặt đó và không coi nhẹ mặt nào. Phẩm chất của cán bộ, đảng viên phải thể hiện ở lòng trung thành với cách mạng, với Đảng, ở thái độ kiên quyết chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, ở nhiệt tình cách mạng, tinh thần hy sinh phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ được giao; đồng thời còn thể hiện ở lối sống trong sạch và lành mạnh. Phẩm chất và năng lực cuối cùng phải thể hiện ở kết quả hoàn thành nhiệm vụ.

Phẩm chất và năng lực gắn chặt với nhau, tạo điều kiện cho nhau. Từ sự đúng đắn của đường lối của Đảng cho tới mỗi thành công trong hoạt động hàng ngày của cán bộ, đảng viên đều là kết quả tổng hợp của tinh thần cách mạng và hiểu biết khoa học. Trong kháng chiến chống Mỹ, chúng ta đã thắng vì dám đánh và còn vì biết đánh, biết thắng. Trong xây dựng kinh tế, văn hoá cũng không thể khác. Là đội tiên phong của giai cấp công nhân, lực lượng lãnh đạo sự nghiệp sáng tạo xã hội mới, Đảng nhất thiết phải tiêu biểu cho những phẩm chất cách mạng cao đẹp nhất của giai cấp, của dân tộc và phải tập trung được tinh hoa, trí tuệ của thời đại.

g) Sau nữa, trong việc giữ gìn tính chất giai cấp công nhân của Đảng, một trong những vấn đề lâu nay được đặt ra là: trên cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cán bộ, phải chăm lo cải thiện cơ cấu thành phần xã hội của Đảng, tăng cường thành phần công nhân, nhất là công nhân đại công nghiệp trong Đảng, và có phương hướng lựa chọn đảng viên, đào tạo cán bộ một cách đúng đắn, phù hợp với tình hình và xã hội nước ta và nhiệm vụ cách mạng trong mỗi giai đoạn.

Thành phần xã hội xuất thân của đội ngũ cán bộ, đảng viên tuy không phải là yếu tố duy nhất hoặc yếu tố chủ yếu, nhưng rất quan trọng, vì nó góp phần bảo đảm tính chất giai cấp công nhân của Đảng, có ảnh hưởng không nhỏ đến sức chiến đấu, đến sự trong sạch về tư tưởng và tổ chức của Đảng. Không có ý thức đầy đủ và biện pháp mạnh mẽ tăng cường thành phần cơ bản, nhất là thành phần công nhân trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là một thiên hướng sai lầm, thường đi liền với những lệch lạc hữu khuynh khác trong công tác xây dựng Đảng. Ngược lại, cường điệu quá mức ý nghĩa của thành phần xã hội xuất thân, cho rằng đường lối giai cấp trong công tác tổ chức, công tác cán bộ chủ yếu là phương hướng lựa chọn cán bộ, đảng viên về mặt thành phần xã hội, coi nhẹ tác dụng cải tạo của việc giáo dục chính trị, tư tưởng và rèn luyện cán bộ, đảng viên qua phong trào quần chúng cũng là một thiên hướng sai lầm dẫn đến biệt phái, hẹp hòi.

Vấn đề có ý nghĩa nguyên tắc hàng đầu là tăng cường phát triển Đảng và lựa chọn cán bộ trong công nhân, cơ sở giai cấp của Đảng. Điều đó phù hợp với yêu cầu tăng cường vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng phù hợp với bước nhảy vọt của giai cấp công nhân từ địa vị làm thuê lên địa vị làm chủ và lãnh đạo xã hội mới, phù hợp với sự phát triển mau chóng về số lượng và chất lượng của giai cấp công nhân trong quá trình đi lên của công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà.

ở nông thôn, trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chúng ta lựa chọn cán bộ và đảng viên trong nông dân lao động, trước hết là trong bần cố nông. Sau cải cách ruộng đất, trong phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, chúng ta nhằm trước hết vào bần nông và trung nông lớp dưới. Sau hợp tác hoá nông nghiệp, giai cấp nông dân miền Bắc đã trở thành giai cấp nông dân tập thể, Đảng chủ trương lựa chọn cán bộ, đảng viên từ những xã viên tiên tiến xuất thân nông dân lao động. ở miền Nam sau ngày giải phóng và khi giai cấp nông dân tập thể chưa hình thành, chúng ta chú trọng lựa chọn cán bộ, đảng viên từ những nông dân lao động, trước hết là từ bần nông và những người lao động làm thuê bị bóc lột. Làm như vậy là phù hợp với những biến đổi xã hội và nhiệm vụ cách mạng ở nông thôn qua từng thời kỳ.

Trong khi lựa chọn cán bộ, đảng viên từ những công nhân và nông dân ưu tú, chúng ta chú trọng những người đã được rèn luyện trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, những anh hùng, chiến sĩ thi đua, bộ đội, thanh niên xung phong có thành tích chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, tầng lớp trí thức vốn là một lực lượng cách mạng tích cực trong đấu tranh chống đế quốc, ngày càng phát huy vai trò tích cực của mình trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trên miền Bắc, tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa đã hình thành. Tính chất giai cấp và cơ cấu của tầng lớp ấy đã có những biến đổi cơ bản. Đó là tầng lớp trí thức chủ yếu xuất thân từ công nhân và nông dân, được đào tạo dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Bản thân họ là một bộ phận đông đảo hợp thành đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước. Đảng đã phê phán những quan niệm hẹp hòi, thành kiến với trí thức, coi họ là tầng lớp không cơ bản. Phải ra sức đào tạo và sử dụng đúng đắn, phát huy khả năng của trí thức, nhất là số trí thức xuất thân từ công nhân, nông dân, từ những người đã qua sản xuất, chiến đấu. Đồng thời, cần quan tâm giúp đỡ anh chị em đó khắc phục những nhược điểm và khuyết điểm mà do những điều kiện đặc thù về lao động và sinh hoạt họ thường mắc phải.

Trong quá trình xây dựng Đảng từ trước đến nay, nói chung Đảng ta đã nắm vững và giải quyết thành công những vấn đề cơ bản nói trên. Đó là những yếu tố quyết định bảo đảm cho Đảng ta, một đảng mặc dù sinh ra và lớn lên ở một nước nông nghiệp lạc hậu, vốn là thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp công nhân nhỏ bé, đã giữ vững được tính chất tiên phong cách mạng của chính đảng của giai cấp công nhân và đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên những sự nghiệp cách mạng vĩ đại. Tiếp tục phấn đấu theo những phương hướng trên đây vẫn là điều có ý nghĩa quyết định để giữ gìn và tăng cường tính chất giai cấp công nhân của Đảng.

2. Có đường lối đúng và phương hướng xây dựng Đảng đúng, Đảng ta lại đã thành công trong nghệ thuật chỉ đạo công tác xây dựng Đảng, từng bước phát triển, hoàn chỉnh, cụ thể hoá và vận dụng tốt hơn các phương châm xây dựng Đảng, làm cho công tác xây dựng Đảng có chất lượng cao và đạt hiệu quả lớn.

a) Phương châm thứ nhất là, phải xây dựng Đảng vững mạnh về cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Ba mặt ấy gắn liền với nhau, quyết định lẫn nhau. Xây dựng Đảng về tư tưởng và về tổ chức phải kết hợp chặt chẽ với nhau, phải xuất phát từ đường lối và nhiệm vụ chính trị, đồng thời bảo đảm cho đường lối và nhiệm vụ chính trị được xác định đúng, được thấu suốt và thực hiện đầy đủ.

Trước hết, Đảng ta quan niệm xây dựng Đảng là một quá trình thống nhất giữa các mặt xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng đặt đúng vị trí của mỗi mặt ấy, đồng thời kết hợp chặt chẽ các mặt ấy với nhau.

Đảng ta coi việc xây dựng Đảng về chính trị có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Đó là việc xác định đường lối, chính sách của Đảng trong mỗi giai đoạn cách mạng; và trong phạm vi từng đảng bộ, đó còn là việc vận dụng đường lối ấy để xác định đúng đắn nhiệm vụ chính trị của ngành hoặc địa phương, đơn vị mình. Có đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng mới có nội dung, phương hướng chính xác tiến hành giáo dục và đấu tranh tư tưởng, mới có căn cứ đánh giá, lựa chọn cán bộ và kiện toàn tổ chức. Nếu không đi từ xây dựng Đảng về mặt chính trị, hoặc xác định nhiệm vụ chính trị không đúng, nếu quan niệm xây dựng Đảng chỉ là loại công việc đơn thuần nghiệp vụ về tư tưởng và tổ chức, thì ngay những công tác này không tránh khỏi gặp nhiều lúng túng, thậm chí phạm sai lầm.

Đồng thời, Đảng ta rất coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức nhằm bảo đảm cho Đảng có đủ năng lực đề ra đường lối chính trị đúng, làm cho đường lối ấy được quán triệt và được thực hiện thắng lợi. Phục vụ đường lối, nhiệm vụ chính trị là mục tiêu, là lý do tồn tại của công tác tư tưởng, công tác tổ chức và cũng trong quá trình phục vụ ấy mà từng bước nâng cao chất lượng công tác tư tưởng và tổ chức. Sự phát triển của cách mạng đã và đang đặt ra biết bao vấn đề mới mẻ, phức tạp đòi hỏi công tác tư tưởng và tổ chức phải nhạy bén, năng động hơn, phải chuyển hướng kịp thời và đáp ứng tốt hơn nữa mọi yêu cầu của nhiệm vụ chính trị. Phải nâng cao trình độ lãnh đạo tư tưởng và tổ chức lên ngang tầm với yêu cầu về lãnh đạo chính trị, bảo đảm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị, chủ động đáp ứng cả những yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong tương lai.

Đảng kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức, chú trọng phát huy cả hai nguồn sức mạnh ấy. Trong nhiều năm qua, Đảng ta đã từng đấu tranh chống nhận thức duy tâm xem thường vai trò của tổ chức, cũng như xu hướng chỉ thiên về những biện pháp tổ chức và hành chính đơn thuần, coi nhẹ vai trò của công tác tư tưởng. Tư tưởng tách rời tổ chức sẽ dừng lại ở nhận thức, không thể biến thành hành động cách mạng. Tổ chức tách rời tư tưởng sẽ trở thành hành động mù quáng, sẽ dẫn tới độc đoán, mệnh lệnh, hạ thấp vai trò của yếu tố tự giác, của tính năng động chủ quan.

b) Phương châm thứ hai là, phải qua phong trào cách mạng của quần chúng, qua việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động mà tiến hành công tác xây dựng Đảng; tổ chức cho quần chúng tham gia xây dựng Đảng, góp phần kiểm tra sự hoạt động của Đảng, kiểm tra công tác và phẩm chất của cán bộ, đảng viên.

Đảng ta đã tổ chức và lãnh đạo những phong trào cách mạng rộng lớn của quần chúng chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời Đảng cũng được xây dựng và trưởng thành từ trong những phong trào quần chúng ấy, Các phong trào Ba sẵn sàng, Ba đảm đang, Ba quyết tâm... cùng các phong trào lao động sản xuất, cải tiến quản lý, v.v. đã tập hợp được lực lượng quần chúng rộng rãi, đã góp phần tích cực xây dựng và củng cố Đảng. Những đảng bộ mạnh đều là những đảng bộ sau khi xác định đúng nhiệm vụ chính trị, đã đi vào tổ chức, lãnh đạo phong trào quần chúng sâu rộng thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ ấy, đồng thời gắn liền với việc phát huy vai trò làm chủ tập thể của quần chúng trong phong trào cách mạng mà xây dựng Đảng. Những đảng bộ này đã chú trọng đưa cán bộ, đảng viên vào hành động cách mạng, vào những mũi nhọn của phong trào quần chúng để thực hiện nhiệm vụ chính trị và cũng để nâng cao năng lực lãnh đạo, rèn luyện tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Qua phát huy vai trò làm chủ tập thể của quần chúng trong sản xuất và chiến đấu mà nhận xét, lựa chọn đảng viên mới, đề bạt cán bộ, phát hiện và loại trừ những phần tử xấu, cơ hội.

Thêm nữa, trong điều kiện Đảng nắm chính quyền, Đảng còn vận động quần chúng trực tiếp tham gia xây dựng Đảng với nhiều hình thức phong phú. Trong những năm qua, nhiều nơi đã thực hiện có nền nếp việc tổ chức cho quần chúng phê bình sự lãnh đạo của chi bộ, của đảng uỷ, phê bình đảng viên, góp ý kiến về phương hướng phấn đấu của đảng bộ trong các dịp đại hội xã viên, các cuộc tổng kết hàng năm, tham gia ý kiến về việc lựa chọn đảng viên mới, kiến nghị về việc bầu cử đảng uỷ và bố trí cán bộ cơ sở trong những dịp chuẩn bị Đại hội đảng bộ... Những việc làm này đã tỏ rõ tác dụng tích cực đối với việc xây dựng nội bộ Đảng, củng cố mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng, mở rộng sinh hoạt chính trị dân chủ trong quần chúng, góp phần ngăn chặn những hiện tượng thoái hoá, biến chất của một số cán bộ, đảng viên.

c) Phương châm thứ ba là, việc xây dựng Đảng, tăng cường sức chiến đấu của Đảng, phải gắn liền với việc kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực của Nhà nước, gắn liền với việc xây dựng và củng cố các tổ chức quần chúng, hình thành sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản.

Cùng với quá trình tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, hệ thống chuyên chính vô sản được hình thành như một cơ cấu tổ chức tương ứng và để bảo đảm cho thắng lợi của cuộc cách mạng ấy.

Trong hệ thống ấy, mỗi tổ chức đều có vị trí quan trọng không thể thiếu được, đồng thời các tổ chức đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo thành một cơ cấu thống nhất. Việc xây dựng Đảng phải đặt trong mối quan hệ khăng khít với việc xây dựng toàn bộ hệ thống chuyên chính vô sản.

Trong hệ thống chuyên chính vô sản, Đảng là hạt nhân lãnh đạo, Đảng có mạnh thì cả hệ thống mới mạnh. Sự lãnh đạo của Đảng ta đã bảo đảm cho hệ thống chuyên chính vô sản hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn, cùng phối hợp hành động một cách chặt chẽ vì những mục tiêu chung. Mặt khác, có Nhà nước, có hệ thống chuyên chính vô sản mạnh thì sức mạnh của Đảng càng nhân lên gấp bội: đó là công cụ rất quan trọng, thông qua nó, đường lối của Đảng được thực hiện có hiệu quả, mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng được tăng cường, và qua hoạt động trong những tổ chức ấy mà đông đảo cán bộ, đảng viên được rèn luyện và trưởng thành.

Đảng phải thường xuyên chăm lo xây dựng Nhà nước, xây dựng lực lượng vũ trang, một bộ phận của Nhà nước, và các đoàn thể quần chúng, đồng thời kết hợp chặt chẽ những việc đó với việc xây dựng nội bộ Đảng. Nơi nào chỉ đi vào xây dựng nội bộ Đảng một cách riêng rẽ, không chăm lo kiện toàn chính quyền, các đoàn thể quần chúng đặc biệt là Đoàn thanh niên, Công đoàn, Hội phụ nữ, đối lập vai trò lãnh đạo của Đảng với quyền lực của Nhà nước thì rốt cuộc tổ chức Đảng ở đó không thể được củng cố vững mạnh và cũng khó hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng.

d) Phương châm thứ tư là, việc nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên phải kết hợp với việc nâng cao chất lượng của chi bộ và đảng bộ cơ sở, với việc tăng cường cơ quan lãnh đạo và kiện toàn bộ máy tổ chức ở từng cấp, từng ngành.

Sức mạnh to lớn của Đảng là ở chỗ khéo kết hợp sức mạnh của tổ chức với sức mạnh của từng cán bộ, đảng viên. Khi kết nạp đảng viên, Đảng ta lựa chọn chặt chẽ từng người, đồng thời để hoạt động có hiệu quả, Đảng chú trọng xây dựng tổ chức. Tổ chức mạnh thì từng thành viên trong đó được giáo dục, rèn luyện tốt, phát huy được khả năng của mình và tạo ra sức mạnh mới về chất lượng, sức mạnh tập thể. Mặt khác, con người là nhân tố cơ bản nhất, năng động nhất của tổ chức; từng người mạnh làm cho tổ chức mạnh.

Đảng ta chú trọng xây dựng tổ chức, cố gắng làm cho chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu và mối quan hệ giữa các tổ chức, các cấp, các ngành từ trên xuống dưới được xây dựng hợp lý, khoa học, bảo đảm cho Đảng thật sự là một cơ thể thống nhất, hoàn chỉnh, mọi hoạt động nhịp nhàng, mau lẹ, đạt hiệu quả cao. Đồng thời, Đảng đòi hỏi phải lựa chọn chặt chẽ từng cán bộ, đảng viên theo đúng tiêu chuẩn quy định, không ngừng giáo dục, nâng cao phẩm chất và kiến thức của họ bằng mọi biện pháp, nhất là qua sinh hoạt chi bộ, qua công tác và sinh hoạt của tổ chức. Đặc biệt coi trọng việc lựa chọn, bố trí cho đúng số cán bộ lãnh đạo ở từng tổ chức, từng ngành, từng địa phương. Phải xuất phát từ yêu cầu xây dựng tổ chức mà lựa chọn, xây dựng từng người cho thích hợp, lại phải biết khéo bố trí và kết hợp từng người để tạo thành những tập thể đồng bộ.

Trong những năm qua, Đảng đã đấu tranh khắc phục thiên hướng coi nhẹ và ít đi sâu vào xây dựng tổ chức, việc bồi dưỡng từng người còn tách rời xây dựng tổ chức, và chính vì vậy mà việc bồi dưỡng từng người cũng đạt hiệu quả thấp.

đ) Phương châm thứ năm là, trong công tác phát triển Đảng, phải coi trọng chất lượng, chống khuynh hướng chạy theo số lượng đơn thuần; phát triển Đảng luôn luôn đi đôi với củng cố Đảng. Một mặt, kết nạp những người thật sự ưu tú, đủ tiêu chuẩn; mặt khác, kịp thời đưa ra khỏi Đảng những phần tử thoái hoá, biến chất, những người không đủ tư cách đảng viên. Cảnh giác đề phòng những phần tử xấu, phản động, xu thời, vụ lợi chui vào Đảng.

Sức mạnh của tổ chức Đảng phụ thuộc một phần ở số lượng, nhưng trước hết là ở chất lượng đảng viên, tức là ở ý chí cách mạng và trình độ hiểu biết, ở sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của họ. Và số lượng chỉ có ý nghĩa, chỉ trở thành sức mạnh một khi nó tuân theo những yêu cầu về chất lượng.

Mặt khác, Đảng cần có một số lượng thích đáng đảng viên thì mới thành tổ chức, mới có đủ lực lượng chiến đấu, mới bảo đảm mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng đông đảo, thực hiện được vai trò lãnh đạo của Đảng ở khắp các ngành, các địa phương, các đơn vị. Với ý nghĩa ấy, số lượng có quan hệ chặt chẽ với chất lượng.

Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng đảng viên, Đảng vừa phải đấu tranh với thiên hướng hạ thấp yêu cầu về chất lượng chạy theo số lượng là chính, vừa phải khắc phục thái độ hẹp hòi, thiếu tích cực, chủ động tạo điều kiện để mở rộng hàng ngũ Đảng.

Việc phát triển Đảng lại phải kết hợp chặt chẽ với việc củng cố Đảng, kịp thời và kiên quyết đưa những phần tử xấu và những người không còn đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng. Phát triển Đảng đúng phương hướng, đúng tiêu chuẩn là góp phần tích cực củng cố Đảng, tăng cường sức chiến đấu của Đảng, bổ sung và đổi mới đội ngũ cán bộ. Mặt khác, phát triển đến đâu phải kịp thời củng cố đến đấy, và củng cố Đảng vững chắc mới có cơ sở để làm tốt công tác phát triển Đảng.

Trên đây là một số bài học về vận dụng đường lối và phương châm xây dựng Đảng. Đó là những bài học được rút ra từ thành công của công tác xây dựng Đảng ta. Ngược lại, những thiếu sót trong công tác xây dựng Đảng cũng là do chưa nắm vững, chưa thực hiện đúng điểm này hoặc điểm khác của những bài học kinh nghiệm ấy. Phân tích sâu sắc và áp dụng đúng đắn những bài học kinh nghiệm ấy là điều rất quan trọng để đưa công tác xây dựng Đảng tiếp tục tiến lên những bước mới trong giai đoạn cách mạng hiện nay của cả nước.

Phần thứ hai

Những nhiệm vụ, chủ trương về công tác

xây dựng Đảng trong giai đoạn mới

và một số đề nghị về sửa đổi điều lệ Đảng

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta bước vào một cuộc chiến đấu mới, tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại, sâu sắc và triệt để nhất trong lịch sử: cách mạng xã hội chủ nghĩa trên quy mô cả nước. Trong giai đoạn cách mạng này, sau khi đã giành lại độc lập, thống nhất hoàn toàn và vĩnh viễn cho Tổ quốc, những người cộng sản chúng ta lãnh đạo nhân dân trực tiếp phấn đấu để biến thành hiện thực những lý tưởng cao cả, đẹp đẽ nhất của Đảng: xoá bỏ bóc lột và đem lại hạnh phúc và tự do đầy đủ nhất cho con người; xây dựng chủ nghĩa xã hội để tiến lên xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam và góp phần vào sự nghiệp giải phóng loài người, xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.

Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp vô cùng khó khăn và phức tạp do quy mô rộng lớn và toàn diện của những biến đổi cách mạng trên mọi lĩnh vực.

Sự nghiệp ấy càng khó khăn phức tạp gấp bội do ở chỗ nước ta đi thẳng từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; đất nước ta sau 30 năm chiến tranh ác liệt và 20 năm thống trị của chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền Nam còn phải chịu đựng biết bao hậu quả nặng nề. Chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ và bọn tay sai đã bị đánh đổ, nhưng chưa chịu ngồi yên và đang tìm mọi cách để phá hoại sự nghiệp xây dựng hoà bình của nhân dân ta.

Cuộc đấu tranh nhằm giải quyết vấn đề ai thắng ai giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa là cuộc đấu tranh giai cấp gay go và phức tạp.

Chúng ta chẳng những phải đấu tranh xoá bỏ giai cấp bóc lột, khắc phục tính tự phát của sản xuất nhỏ, cải tạo nền kinh tế cá thể, xoá bỏ những di sản nặng nề của chủ nghĩa thực dân mới và tàn dư phong kiến, đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ địch, mà quan trọng và khó khăn hơn, như Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương đã chỉ rõ, là đi đôi với xoá bỏ cái cũ, chúng ta phải xây dựng cái mới từ gốc đến ngọn, phải tạo ra cả lực lượng sản xuất mới lẫn quan hệ sản xuất mới; tạo ra cả cơ sở kinh tế mới lẫn kiến trúc thượng tầng mới; tạo ra cả đời sống vật chất mới lẫn đời sống tinh thần và văn hoá mới.

Mặc dù có những khó khăn ấy, song chúng ta quyết tâm phấn đấu đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước mà nội dung cơ bản của nó như Báo cáo chính trị vạch ra là:

"Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội".

Đường lối đó của Đảng là phù hợp với quy luật phát triển khách quan của cách mạng nước ta, là đòi hỏi cấp thiết của nhân dân cả nước; đó còn là nghĩa vụ quốc tế cao cả nhằm phát huy hơn nữa tác dụng của nước ta trong cuộc đấu tranh chung vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội ở Đông Nam châu á và trên thế giới.

Chuyển sang giai đoạn mới, trách nhiệm của Đảng đối với nhân dân cả nước, đối với quốc tế rõ ràng tăng hơn trước;  Đảng ta quyết vươn lên làm tròn trách nhiệm ấy. Khó khăn tuy nhiều nhưng thuận lợi là cơ bản.

Đảng đã trải qua chiến đấu lâu dài, là một đảng Mác - Lênin vững mạnh, có đường lối luôn luôn đúng đắn, nội bộ đoàn kết, nhất trí, cơ sở Đảng phát triển rộng khắp, có đội ngũ cán bộ, đảng viên được rèn luyện thử thách. Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc chống Mỹ, cứu nước và thống nhất nước nhà, đà phấn khởi của nhân dân cả nước dâng cao, uy tín và ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng thêm mở rộng. Đảng có bộ máy nhà nước chuyên chính vô sản vững chắc, với lực lượng vũ trang hùng hậu, có các đoàn thể quần chúng lớn mạnh là những công cụ có hiệu lực để thực hiện đường lối, chính sách của mình. Đảng đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quý báu qua hơn 20 năm cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đã có lực lượng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, kỹ thuật khá lớn; và ngày nay, với điều kiện xây dựng trong hoà bình, Đảng đã có thể tập trung mọi cố gắng của mình vào việc lãnh đạo, cổ vũ sức lao động sáng tạo của nhân dân cả nước hướng vào công cuộc xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Cả nước ta có đất đai và tài nguyên phong phú, có sức lao động dồi dào, có cơ sở vật chất - kỹ thuật mới bước đầu xây dựng. Nhân dân ta cần cù, thông minh và sáng tạo, thiết tha với độc lập và chủ nghĩa xã hội; khí thế cách mạng trong cả nước, và đặc biệt là ở miền Nam vừa mới được giải phóng, đang dâng lên; nền chuyên chính vô sản đã được thử thách.

Trên thế giới, cuộc đấu tranh giữa một bên là chủ nghĩa xã hội, phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hoà bình với một bên là chủ nghĩa đế quốc tuy diễn ra gay gắt và phức tạp, song ba dòng thác cách mạng không ngừng dâng cao; cuộc cách mạng mới về khoa học - kỹ thuật đang phát triển, quan hệ về kinh tế và khoa học, kỹ thuật giữa các nước ngày càng mở rộng.

Đó là những thuận lợi chủ quan và khách quan mà Đảng ta có thể tận dụng nhằm mục tiêu xây dựng đất nước ta và góp phần làm tròn nghĩa vụ quốc tế.

Từ những yêu cầu rộng lớn của nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước, nhiệm vụ chung của công tác xây dựng Đảng ta trong giai đoạn hiện nay là phải nắm vững hơn nữa học thuyết Mác - Lênin về xây dựng Đảng và thực tiễn xây dựng Đảng ta, quán triệt sâu sắc đường lối, nhiệm vụ chính trị do Đại hội đã vạch ra, vận dụng và phát triển những bài học kinh nghiệm đã tổng kết, làm cho công tác xây dựng Đảng vừa bám chắc hơn nữa những nhiệm vụ chính trị trước mắt của Đảng, vừa sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu của nhiệm vụ lâu dài. Nâng cao tính chất giai cấp công nhân và chất lượng lãnh đạo toàn diện của Đảng, kết hợp tính cách mạng và tính khoa học, bảo đảm cho đường lối của Đảng luôn luôn đúng đắn, sáng tạo và được tổ chức thực hiện thắng lợi, bảo đảm cho Đảng thật sự vững mạnh, luôn luôn đoàn kết nhất trí, gắn bó chặt chẽ với quần chúng để trong bất cứ tình huống nào Đảng cũng có thể làm tròn nhiệm vụ lịch sử của mình.

1. Nâng cao chất lượng lãnh đạo chính trị của Đảng, cả về mặt xây dựng đường lối, chính sách cũng như về mặt tổ chức thực hiện đường lối. Bảo đảm cho Đảng tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp tục đi sâu nghiên cứu để phát triển, hoàn chỉnh và cụ thể hoá hơn nữa đường lối chính trị đúng đắn và có sáng tạo của Đảng, đường lối chung, đường lối trên từng mặt kinh tế, văn hoá, giáo dục, quốc phòng, ngoại giao, v.v. và thể hiện nó một cách cụ thể và sinh động trong các chính sách, chủ trương, quy hoạch, kế hoạch, biện pháp của mọi ngành, mọi cấp.

Bảo đảm cho toàn Đảng, trên cơ sở quán triệt một cách sâu sắc nhiệm vụ mới của Đảng trong phạm vi cả nước, biết nắm vững khoa học và nghệ thuật tổ chức để nâng cao năng lực tổ chức thực hiện, trước hết là trong công tác lãnh đạo và sử dụng bộ máy nhà nước, trong việc xây dựng và sử dụng cả hệ thống chuyên chính vô sản để phát động, duy trì, phát triển các phong trào quần chúng tiến hành ba cuộc cách mạng một cách đồng đều và liên tục, nhằm mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, trước mắt là mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, kế hoạch mở đầu của giai đoạn mới.

2. Xây dựng bằng được cơ cấu tổ chức bảo đảm chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa. Ra sức khắc phục bệnh quan liêu, tác phong thủ công nghiệp, lối chỉ đạo phân tán, sự vụ, thiếu tập trung dứt điểm.

Cơ cấu tổ chức ấy phải được hoàn thiện trong các mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, giữa trung ương và địa phương, ngành và cấp, cấp trên và cấp dưới, giữa các tập thể với nhau, giữa cá nhân và tập thể, gia đình và xã hội.

Cơ cấu tổ chức ấy phải được bảo đảm bằng bộ máy tinh giản, có hiệu lực của Đảng, của Nhà nước và của tổ chức quần chúng, trước hết là bộ máy nhà nước chuyên chính vô sản, trong đó khâu hết sức trọng yếu mà chúng ta phải xây dựng bằng được là hệ thống quản lý kinh tế theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, phù hợp đường lối của Đảng và đặc điểm của việc đưa nền kinh tế nước ta đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ăn khớp với hệ thống nhà nước và các tổ chức xã hội, chất lượng tổ chức của Đảng và của các đoàn thể quần chúng cũng phải được chuyển hướng theo những yêu cầu mới cao hơn trước.

Toàn bộ cơ cấu tổ chức ấy cuối cùng phải được bảo đảm bằng chế độ tổ chức chặt chẽ, bằng pháp chế nhà nước, làm cho chế độ trách nhiệm và quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa ở mỗi khâu tổ chức, mỗi đơn vị, mỗi cá nhân được rõ ràng, rành mạch và được thực hiện bằng kỷ luật tự giác và tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa.

3. Xây dựng tổ chức Đảng trong toàn cơ thể từ cơ quan lãnh đạo cấp trên đến tế bào cơ sở thật vững mạnh về tư tưởng và tổ chức, bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng được thông suốt từ trên xuống dưới, từ các trung tâm lãnh đạo đến các ngành, từ trong Đảng ra các đoàn thể quần chúng và nhân dân đông đảo.

Bảo đảm cho Đảng luôn luôn đoàn kết, thống nhất trên cơ sở đường lối, nhiệm vụ chính trị và nguyên tắc tập trung dân chủ, không thể có chia rẽ bè phái.

Bảo đảm cho tổ chức Đảng có tính năng động cao, có cơ cấu tổ chức phù hợp, có kỷ luật nghiêm minh và có tác phong chỉ đạo sâu sát, có điều tra nghiên cứu, có kế hoạch, có tổ chức hiệp đồng và kiểm tra, đôn đốc chặt chẽ.

Bảo đảm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng trước mọi thử thách, dám nghĩ, dám làm, có tinh thần hy sinh, xả thân vì cách mạng, không quan liêu mệnh lệnh, thoái hoá, biến chất, biết tôn trọng và xây dựng quyền làm chủ tập thể của nhân dân, có mối liên hệ gắn bó với quần chúng, nhanh chóng vươn lên nâng cao kiến thức và trình độ mọi mặt để đủ sức lãnh đạo và phục vụ tốt quần chúng.

Đảng phải mạnh ở mọi khâu tổ chức, đồng đều trong phạm vi cả nước, khắc phục từng bước tình hình chênh lệch về lực lượng cán bộ, đảng viên giữa các địa phương, các vùng. Đặc biệt trước mắt phải tập trung sức để tăng cường cơ sở Đảng về mọi mặt, xây dựng cơ cấu tổ chức của Đảng, Nhà nước và tổ chức quần chúng ở cấp huyện và xã gắn liền với nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chuyên chính vô sản ở cơ sở và trên địa bàn huyện.

4. Gắn với kiện toàn cơ sở Đảng, ra sức nâng cao tư cách đảng viên và chất lượng đội ngũ đảng viên, loại trừ những phần tử đã thoái hoá, biến chất, những bọn đầu cơ và những người không còn đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng, bằng việc phát động và thông qua các phong trào cách mạng của quần chúng và bằng công tác nội bộ Đảng. Với tinh thần cảnh giác đầy đủ và bằng mọi biện pháp tích cực, đi sâu phát hiện và thanh trừ bằng được những phần tử đối địch còn ẩn nấp trong Đảng.

Ra sức tăng cường công tác kiểm tra dân chủ và kỷ luật của Đảng, bảo đảm kịp thời thi hành kỷ luật nghiêm minh của Đảng. Đồng thời chấn chỉnh công tác phát triển đảng viên, và chú trọng qua phong trào quần chúng đang có khí thế vươn lên mạnh mẽ, nhất là ở các vùng mới giải phóng, xây dựng lực lượng nòng cốt và kết nạp những người ưu tú nhất có đủ điều kiện vào Đảng để tăng cường cơ sở Đảng một cách vững chắc ở những nơi lực lượng Đảng còn mỏng.

5. Khẩn trương tăng cường công tác cán bộ về mọi mặt, đáp ứng kịp thời những nhiệm vụ công tác rộng lớn của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa trong cả nước.

Trước hết, tiến hành trên quy mô lớn việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, nhanh chóng tăng cường đội ngũ cán bộ về số lượng và chất lượng, nâng trình độ, năng lực cán bộ lên ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn mới. Chú trọng cả đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, và cả đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ; vừa đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phụ trách chung và cán bộ phụ trách cấp trên, vừa đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phụ trách từng mặt và cán bộ phụ trách ở cơ sở. Mạnh dạn cất nhắc cán bộ theo yêu cầu của nhiệm vụ, xây dựng tính kế thừa liên tục trong các cơ quan lãnh đạo và quản lý, khắc phục tình trạng đề bạt cán bộ không vì nhiệm vụ, mà chỉ vì những lý do cá nhân.

Đồng thời, điều động, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ sẵn có một cách có kế hoạch và hợp lý trong phạm vi cả nước, bảo đảm yêu cầu phát triển nông nghiệp, công nghiệp, trước hết là ở những ngành then chốt, tăng cường các cơ quan tham mưu, tổng hợp của Đảng và Nhà nước, tăng cường nhanh chóng cấp huyện và cơ sở phù hợp với yêu cầu lãnh đạo và tiến hành ba cuộc cách mạng ở mỗi vùng đất nước, nhất là đáp ứng kịp thời yêu cầu cán bộ của các cơ sở và địa phương phía Nam. Trên cơ sở đó, có chính sách đãi ngộ, chăm lo sức khoẻ của cán bộ phù hợp với điều kiện hiện nay.

Thực hiện đầy đủ những nhiệm vụ chung và các yêu cầu trên đây chính là giữ gìn và phát huy hơn nữa tính chất giai cấp công nhân của Đảng trong giai đoạn mới của cách mạng. Đó cũng là chấp hành nghiêm chỉnh Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch: "Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân".

Trên cơ sở những nhiệm vụ chung và các yêu cầu ấy, dưới đây xin lần lượt trình bày những nhiệm vụ về từng mặt công tác tư tưởng và tổ chức.

I- Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao trình độ, kiến thức mọi mặt, bảo đảm đường lối chính trị của Đảng

1. Nhiệm vụ của công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay là phải ra sức làm tốt việc quán triệt đường lối do Đại hội đề ra, quán triệt các chính sách của Đảng, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, không ngừng nâng cao kiến thức mọi mặt và bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, qua đó bồi dưỡng lập trường tư tưởng của giai cấp công nhân, phê phán và khắc phục những tư tưởng tiểu tư sản, đấu tranh chống mọi ảnh hưởng của tư tưởng tư sản và những tàn dư của tư tưởng phong kiến, ngăn ngừa và tẩy trừ những ảnh hưởng của các loại chủ nghĩa cơ hội.

Trước hết, thông qua sinh hoạt của Đảng, các lớp huấn luyện, sách, báo Đảng và mọi phương tiện thông tin văn hoá, văn nghệ khác, giáo dục đi giáo dục lại nhiều lần đường lối chung của Đảng, làm cho mọi cán bộ, đảng viên ở bất cứ lĩnh vực công tác nào cũng hiểu rõ được nội dung của các vấn đề nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, nội dung xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới, con người mới, để từ đó vận dụng đường lối chung vào việc phát triển công tác của ngành mình, địa phương, đơn vị mình.

Cần đấu tranh khắc phục những quan điểm không đúng, trái với đường lối của Đảng, hiểu không đúng về đấu tranh giai cấp và đấu tranh giữa hai con đường ở nước ta: một mặt, không thấy hết tính chất phức tạp của đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới, thiếu cảnh giác với những hoạt động của giai cấp tư sản, chưa tăng cường đúng mức trận địa kinh tế của chủ nghĩa xã hội; mặt khác, xem xét đấu tranh giai cấp tách khỏi đường lối chung của Đảng, tách khỏi cơ sở kinh tế, thu hẹp quan niệm chuyên chính vào vấn đề trấn áp; hiểu không đúng về nội dung từng cuộc cách mạng và mối quan hệ giữa ba cuộc cách mạng, chưa nắm vững công nghiệp hoá nước nhà là nhiệm vụ trung tâm, cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, tách rời cải tạo với xây dựng, nắm không vững các mối quan hệ trong nền kinh tế quốc dân.

Cần phê phán nghiêm khắc tình trạng một số cán bộ, đảng viên coi nhẹ nghiên cứu đường lối, chính sách, nghiên cứu lý luận, là một biểu hiện tệ hại nhất của chủ nghĩa kinh nghiệm. Cần nhận thức rõ tầm quan trọng của việc quán triệt đường lối, nhận rõ mọi việc chúng ta đang làm hàng ngày hàng giờ, từ việc làm kế hoạch, nghiên cứu chế độ, chính sách, đến việc tổ chức, vận động quần chúng thực hiện những nhiệm vụ cụ thể là đều nhằm xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới, con người mới, đều đòi hỏi phải thấu suốt và vận dụng đúng đắn có sáng tạo đường lối. Phải làm cho mọi cán bộ, đảng viên hiểu rằng bất cứ thành tựu nào mà nhân dân ta giành được hiện nay đều là sản phẩm tổng hợp của việc nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng.

Mỗi cán bộ, đảng viên chẳng những phải quán triệt đường lối chung, mà còn phải hiểu quan điểm của Đảng đối với từng lĩnh vực hoạt động xã hội, từng ngành công tác, từng vấn đề của cuộc sống, nhất là quan điểm của Đảng về lĩnh vực mà mình hoạt động. Có như vậy, thì trước quá trình chuyển biến cách mạng sâu sắc trong giai đoạn cách mạng hiện nay, người đảng viên được vũ trang bằng những tư tưởng khoa học của Đảng mới có thể giữ được vai trò tiên phong của người cộng sản, mới có điều kiện để tham gia lãnh đạo tập thể của tổ chức Đảng, và mới có khả năng động viên, tổ chức quần chúng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể, kịp thời giải đáp những vấn đề do quần chúng đề ra.

Giáo dục đường lối không thể tách rời với giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin; thấu suốt đường lối là hiểu những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng một cách sinh động vào thực tiễn Việt Nam, và nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin lại là một cơ sở để bảo đảm quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng. Đảng phải coi trọng cả hai mặt giáo dục đó. Gắn chặt hai mặt đó với nhau một cách nhuần nhuyễn, làm cho tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối của Đảng thấm sâu vào cán bộ, đảng viên và quần chúng, và trở thành hệ tư tưởng của toàn dân, coi đó là một trong những điều kiện đầu tiên quyết định thắng lợi của cách mạng.

Trên cơ sở bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin và đường lối, chính sách của Đảng, cần phê phán và khắc phục những biểu hiện hữu khuynh là chính, thể hiện ở trình độ lý luận thấp không bảo đảm quán triệt đầy đủ đường lối trong cải tạo và xây dựng, trong trấn áp phản cách mạng và tăng cường quản lý kinh tế, văn hoá, quản lý nhà nước, ở việc thiếu nghiêm túc trong việc xây dựng và thực hiện chế độ tổ chức, và thiếu biện pháp kiên quyết phát động mạnh mẽ các phong trào quần chúng tiến hành ba cuộc cách mạng.

Trên cơ sở bồi dưỡng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, cần xây dựng phương pháp tư tưởng của giai cấp công nhân, khắc phục bệnh chủ quan mà những biểu hiện phổ biến là: trong việc đánh giá tình hình, thiếu xem xét toàn diện, thiếu phân tích khoa học; khi phong trào lên thì chỉ một chiều thấy thắng lợi và thuận lợi, khi gặp khó khăn, va vấp thì lại phủ nhận thành tích và ưu điểm; trong việc quyết định chủ trương thì dựa vào cảm tính, căn cứ vào nguyện vọng chủ quan, không nắm vững quy luật khách quan, không xuất phát từ thực tế, thiếu điều tra nghiên cứu.

Cùng với việc giáo dục lý luận và đường lối, chính sách, phải ra sức bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản, kiên quyết đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, bè phái và bệnh quan liêu, công thần, địa vị.

Trong công tác tư tưởng, phải coi trọng giáo dục tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa gắn liền với giáo dục lý tưởng cộng sản, giáo dục tinh thần quốc tế vô sản và ý thức làm tròn nghĩa vụ quốc tế, nhằm nâng cao ý chí chiến đấu, tinh thần cách mạng tiến công ra sức phấn đấu chấp hành nghị quyết, chỉ thị của Đảng, hăng hái lao động, công tác và học tập với tinh thần sáng tạo, với một nhiệt tình cách mạng sôi nổi, một khí phách anh hùng như trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trước đây; quyết tâm đạp bằng mọi khó khăn, gian khổ, mau chóng xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Khắc phục những nhận thức tiêu cực về chủ nghĩa xã hội, những nhận thức mơ hồ về nền kinh tế thực dân kiểu mới, mất cảnh giác đối với bọn đế quốc và tay sai, khắc phục lối làm việc cầm chừng, tâm lý nghỉ ngơi, hưởng thụ, thái độ tiêu cực, bị động, ngại khó, thiếu trách nhiệm, nửa chừng dừng lại.

Phải nâng cao ý thức một lòng một dạ phục vụ nhân dân, xây dựng ý thức tôn trọng quyền làm chủ tập thể của nhân dân, gần gũi cuộc sống và tâm tư, tình cảm của quần chúng, chống tệ quan liêu, thói cửa quyền, chỉ phụ trách trước cấp trên mà thiếu trách nhiệm đối với quần chúng, với cấp dưới, tách rời hoặc đối lập hai mặt ấy, thậm chí nhẫn tâm trước những đau khổ của quần chúng. Quan liêu, cửa quyền, xa thực tế, xa quần chúng là nguy cơ của một đảng cầm quyền, là nguồn gốc của biết bao hư hỏng. Trên lĩnh vực tư tưởng, nó là nguyên nhân của bệnh chủ quan, của sự xói mòn bản chất cách mạng của cán bộ, đảng viên, dẫn đến thoái hoá, biến chất về chính trị và sinh hoạt; nguồn gốc tư tưởng của nó là sự mơ hồ về lập trường, quan điểm giai cấp, quan điểm quần chúng, là sự sa sút ý chí phấn đấu và nhiệt tình cách mạng. Công tác tư tưởng phải giải quyết tốt những nguyên nhân đó, đồng thời phải góp phần giải quyết tốt những nguyên nhân về mặt tổ chức và những biện pháp tổ chức để khắc phục bệnh quan liêu.

Phải phát huy truyền thống cách mạng của Đảng, nâng cao ý thức giữ gìn và bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối chính trị đúng đắn và sáng tạo của Đảng, rèn luyện ý thức tổ chức và kỷ luật, ý thức dân chủ, tập thể, tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của cán bộ, đảng viên, thành khẩn tự phê bình và phê bình. Phải kiên quyết đấu tranh chống chia rẽ bè phái trong Đảng dưới các biểu hiện và mức độ khác nhau như bản vị, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, độc đoán, gia trưởng, kiêu ngạo, tự mãn, đặt mình lên trên tổ chức, tự tách mình ra khỏi tổ chức, phát ngôn tuỳ tiện các vấn đề về đường lối, chính sách, thậm chí tạo ra những bè nhóm nhỏ trong Đảng dù có tổ chức hay không có tổ chức.

Nêu cao phẩm chất trung thực, thật thà, ý thức bảo vệ chân lý; chống thói dối trá, báo cáo sai sự thật, luồn cúi nịnh hót, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh. Phát huy tinh thần cần kiệm, liêm chính, quý trọng và bảo vệ của công, giữ gìn lối sống giản dị, trong sạch, lành mạnh; chống thói đặc quyền đặc lợi, tệ tham ô, móc ngoặc, xâm phạm tài sản của Nhà nước, của tập thể và của nhân dân; chống mọi ảnh hưởng của lối sống tư sản, sa đoạ, đồi trụy.

Cổ vũ mạnh mẽ tinh thần ham học tập, không ngừng trau dồi kiến thức mới để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chống bệnh chủ quan, tự mãn, bệnh lười học, lười suy nghĩ.

Bên cạnh việc giáo dục lý luận, chính trị và bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức cách mạng, cần khẩn trương đẩy mạnh việc giáo dục kiến thức văn hoá, khoa học, kỹ thuật, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước cho đội ngũ đảng viên và cán bộ, trước hết là cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý.

Phải phấn đấu để mọi cán bộ, đảng viên đều sớm được học qua một chương trình lý luận chính trị nhất định và có những kiến thức cần thiết về văn hoá, kỹ thuật, quản lý phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ công tác của mỗi người, rồi sau đó lại tiếp tục nâng cao lên.

Phải dấy lên một phong trào học tập sôi nổi. Mỗi cán bộ, đảng viên phải vũ trang cho mình tinh thần khát khao hiểu biết, nghị lực cần cù học tập, học trong sách vở và trong cuộc sống thực tế, trong lao động và trong đấu tranh, hàng ngày hàng giờ phải tìm tòi thu nhận thêm những kiến thức mới. Chỉ như vậy họ mới xứng đáng với danh hiệu chiến sĩ tiên phong, mới làm tròn vai trò người lãnh đạo quần chúng. Cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu học tập, phải biểu dương những người tích cực học tập, phê bình nghiêm khắc những người lười học.

Tóm lại, công tác giáo dục tư tưởng và nâng cao trình độ kiến thức mọi mặt trong Đảng phải góp phần làm cho người cán bộ, đảng viên thật sự tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa, con người làm chủ tập thể: tiêu biểu về mặt phẩm chất cách mạng, về trình độ tri thức, về phong cách sống; và tất cả những điều đó phải được thể hiện trong lao động sản xuất, trong công tác, trong chiến đấu. Nói cách khác, người cán bộ, đảng viên phải là sự thể hiện sinh động và cụ thể bản chất cách mạng và khoa học của Đảng, phải là tiêu biểu nhất của con người mới xã hội chủ nghĩa.

2. Nâng cao chất lượng của công tác tư tưởng, trước hết là tính khoa học và tính chiến đấu của công tác ấy.

Công tác giáo dục lý luận Mác - Lênin phải đi kịp bước phát triển của những vấn đề lý luận và thực tiễn cách mạng trong nước, tiếp thụ được những kinh nghiệm mới nhất của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước anh em. Phải làm sáng rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối, nâng cao trình độ tự giác, tăng cường khả năng tư duy lý luận của cán bộ, đảng viên, khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa kinh nghiệm. Phải phê phán sâu sắc những quan điểm sai trái với đường lối của Đảng, đấu tranh kịp thời với những biểu hiện tiêu cực trong quá trình chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, tăng cường sinh hoạt tự phê bình và phê bình trong các ngành, các cấp. Chúng ta phản đối lối phê bình chụp mũ, quy kết tư tưởng một cách độc đoán, thái độ đấu tranh thô bạo, thiếu tình, thiếu lý, nhưng không vì thế mà đi đến xuê xoa, nể nang, không đấu tranh nội bộ một cách nghiêm túc, không phân tích sâu sắc tính chất và nguyên nhân sai lầm, khuyết điểm để có thể khắc phục một cách triệt để.

Để nâng cao tính khoa học và tính chiến đấu, bảo đảm cho công tác tư tưởng đạt hiệu quả lớn hơn, cần nắm vững những phương châm chỉ đạo công tác đó như sau:

- Công tác giáo dục tư tưởng phải gắn chặt với thực hiện nhiệm vụ chính trị, với phong trào cách mạng của quần chúng, đi sát từng đối tượng, kịp thời giải đáp những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống, thiết thực góp phần thúc đẩy ba cuộc cách mạng, thúc đẩy phát triển sản xuất, tổ chức đời sống.

- Kết hợp chặt chẽ nội dung giáo dục về ba mặt: lý luận Mác - Lênin và đường lối, chính sách của Đảng, kiến thức khoa học xã hội và khoa học tự nhiên, phẩm chất và đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản. Kết hợp giáo dục lý luận, quan điểm cơ bản với giáo dục tình hình, nhiệm vụ trước mắt.

- Kết hợp chặt chẽ công tác giáo dục tư tưởng với công tác tổ chức, thông qua các biện pháp tổ chức mà biến tư tưởng thành hành động cách mạng, bảo đảm cho tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin ăn sâu vào cuộc sống, trở thành nếp sống của xã hội.
- Kết hợp giáo dục tư tưởng trong học tập với việc rèn luyện trong thực tiễn cách mạng, bảo đảm cho nhiệt tình cách mạng, kiến thức khoa học mà cán bộ, đảng viên thu nhận được vừa sâu sắc và vững chắc, vừa cơ bản và toàn diện.

- Kết hợp việc giáo dục cán bộ, đảng viên trong sinh hoạt nội bộ Đảng, trong sinh hoạt cơ quan nhà nước và các đoàn thể với việc phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tổ chức cho quần chúng phê bình cán bộ, đảng viên. Kết hợp công tác tư tưởng trong Đảng với công tác tư tưởng ngoài xã hội.

- Kết hợp việc bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cách mạng với việc phê phán một cách triệt để những biểu hiện tư tưởng phi vô sản; biểu dương ưu điểm đi đôi với nghiêm khắc phê bình khuyết điểm.

Để nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, cần nắm vững những biện pháp mấu chốt dưới đây:

Công tác giáo dục đường lối của Đảng phải làm rộng rãi, có tổ chức chu đáo, có nền nếp từ trên xuống dưới, cải tiến sinh hoạt chính trị của các tổ chức Đảng, làm cho hội nghị chi bộ, hội nghị cán bộ thật sự là trường học chính trị, tư tưởng quan trọng bậc nhất của người cộng sản. Thường xuyên tổ chức thông báo tình hình trong nước, tình hình quốc tế và các vấn đề khác, bảo đảm cho toàn Đảng có nhận định đúng và thông suốt về các vấn đề thời cuộc.

Để làm tốt công tác giáo dục nói trên, các cấp uỷ Đảng phải xây dựng lực lượng báo cáo viên chuyên về từng loại vấn đề, bao gồm uỷ viên ban chấp hành và cán bộ chủ chốt có trình độ lý luận và kinh nghiệm thực tế về những vấn đề mình được phân công, có tín nhiệm và khả năng làm công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Xây dựng, kiện toàn hệ thống trường lớp của Đảng và Nhà nước, nhất là ở miền Nam. Kiện toàn và mở rộng các trường phổ thông lao động, các lớp bổ túc văn hoá và tích cực xoá sạch nạn mù chữ. Phát triển các lớp dự bị đại học để tăng nhanh hơn nữa nguồn đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật có chất lượng từ những người đã qua sản xuất, chiến đấu. Sắp xếp hợp lý mạng lưới các trường đại học và trung học chuyên nghiệp trong cả nước; nâng cao chất lượng giảng dạy trong các trường này cả về giáo dục chính trị và giáo dục chuyên môn. Hệ thống trường Đảng, cần kiện toàn đội ngũ cán bộ giảng dạy và tăng cường cơ sở vật chất, vừa tăng thêm quy mô trường lớp tập trung, vừa mở rộng hệ thống học tại chức. Xây dựng hệ thống trường lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý ở trung ương và các ngành, các địa phương; tiến hành tổng kết kinh nghiệm để hoàn chỉnh từng bước nội dung chương trình học tập cho các loại cán bộ; phân công hợp lý giữa trường Đảng và trường đào tạo cán bộ quản lý của các ngành. Ngoài chương trình đào tạo cơ bản, từng thời gian cần bổ túc cho cán bộ những kiến thức mới về lý luận, đường lối, về quản lý kinh tế, khoa học, kỹ thuật.

Mở rộng công tác nghiên cứu lý luận là điều kiện then chốt để nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị và tư tưởng. Công tác nghiên cứu lý luận phải nhằm góp phần tổng kết kinh nghiệm cách mạng nước ta, xây dựng cơ sở lý luận của cách mạng Việt Nam, phát triển và cụ thể hoá đường lối của Đảng, góp phần bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chống chủ nghĩa cơ hội các loại. Cũng cần cố gắng tổ chức nghiên cứu những vấn đề mới đang đặt ra cho các nước xã hội chủ nghĩa, cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Cần tổ chức công tác nghiên cứu lý luận một cách hợp lý, nhằm động viên và phối hợp được lực lượng cán bộ nghiên cứu khoa học ở nhiều ngành khác nhau và thu hút cả cán bộ hoạt động thực tiễn tham gia.
Báo chí, đài, thông tin, văn hoá, văn nghệ... là những công cụ có hiệu lực của Đảng trong việc giáo dục nhân dân và giáo dục cán bộ, đảng viên về đường lối, chính sách của Đảng, góp phần xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, đấu tranh chống những nọc độc của chủ nghĩa thực dân mới, chống văn hoá đồi trụy phản động, phê phán những quan điểm tư tưởng không vô sản trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội, nhất là ở miền Nam. Cán bộ, đảng viên phải đọc sách báo Đảng; các tổ chức đảng cần nắm chắc các công cụ thông tin văn hoá, văn nghệ để thông qua đó mà làm cho đường lối, chính sách của Đảng thâm nhập một cách sinh động vào đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng.

II

Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, bảo đảm xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền kinh tế mới, nền văn hoá mới, con người mới

Nhiệm vụ có tính chất bao trùm của công tác tổ chức trong giai đoạn mới là không ngừng hoàn thiện cơ cấu tổ chức với ý nghĩa toàn diện của nó trên quy mô toàn xã hội, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chuyên chính vô sản trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới, con người mới, thúc đẩy mạnh mẽ các phong trào quần chúng tiến hành ba cuộc cách mạng, đưa lịch sử nước ta phát triển với nhịp độ chưa từng thấy.

1. Như Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương đã chỉ rõ, việc tạo lập chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa đòi hỏi trước hết phải xây dựng ở các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở, bao trùm tất cả mọi hoạt động, một hệ thống các mối quan hệ đúng đắn giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Trong cơ cấu tổ chức chung của cả xã hội, Đảng, Nhà nước, nhân dân là một tổng thể thống nhất, trong đó Đảng là người lãnh đạo, nhân dân lao động là người làm chủ tập thể, Nhà nước là người quản lý. Sự lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của Nhà nước, vai trò giáo dục, động viên, vận động quần chúng của các đoàn thể cuối cùng là nhằm phát huy được quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động mà nòng cốt là liên minh công nông, phát huy được sức mạnh vô tận của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Khi chưa có chính quyền, cũng như khi đã có chính quyền, Đảng luôn luôn khẳng định chân lý: cách mạng bao giờ cũng là sự nghiệp của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đảng quyết định đường lối, chính sách và chương trình hành động của Đảng trong từng thời kỳ, và bằng cách thông qua cán bộ, đảng viên và tổ chức của Đảng trong bộ máy nhà nước và trong tổ chức quần chúng, biến đường lối, chính sách ấy thành nhiệm vụ, chủ trương, biện pháp, chương trình hành động cụ thể của toàn bộ hệ thống chuyên chính vô sản, thành hành động cách mạng của quần chúng.

Đảng lãnh đạo Nhà nước một cách toàn diện: quyết định đường lối, chính sách, phương hướng hoạt động của Nhà nước; quyết định những vấn đề quan trọng về hệ thống quản lý, về bộ máy tổ chức và cán bộ; chăm lo xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước vững mạnh, xây dựng lực lượng cán bộ của Đảng có năng lực làm nòng cốt trong các cơ quan nhà nước. Đảng dựa vào các tổ chức Đảng và các đoàn thể quần chúng để kiểm tra hoạt động của các cơ quan nhà nước trên tất cả các lĩnh vực. Tất cả những việc đó là nhằm bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng, quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động được thực hiện triệt để.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân xây dựng chính quyền để thực hiện quyền làm chủ của mình. Sự lãnh đạo của Đảng, quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động chỉ có thể thực hiện triệt để thông qua Nhà nước, bằng Nhà nước, người đại diện của nhân dân trong công tác quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, văn hoá và đời sống xã hội, và thông qua các tổ chức quần chúng là người giáo dục, động viên, vận động quần chúng thực hiện quyền làm chủ của mình.

Nhà nước chuyên chính vô sản, với sứ mệnh lịch sử trọng đại là cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, vừa là bộ máy hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, đời sống, trấn áp phản cách mạng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự xã hội, củng cố quốc phòng. Điều đó nói lên tầm quan trọng to lớn của Nhà nước ta. Trong giai đoạn mới, sức mạnh của Đảng, của nhân dân một phần quan trọng thể hiện ở sức mạnh của Nhà nước; sự trưởng thành của Đảng chính là ở quá trình không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo Nhà nước, phát huy vai trò và hiệu lực của Nhà nước, của hệ thống chuyên chính vô sản.

Đảng phấn đấu nâng cao năng lực vận dụng và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản, có nghĩa là Đảng phải biết xây dựng, kiện toàn, lãnh đạo từng tổ chức làm tốt chức năng của nó, biết phối hợp hoạt động của mọi tổ chức trong hệ thống ấy một cách nhịp nhàng, đồng bộ, bảo đảm thống nhất sự lãnh đạo về đường lối, chủ trương, phương hướng của Đảng với công việc tổ chức quản lý nhà nước và công tác vận động, giáo dục quần chúng của các đoàn thể nhân dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Đảng phải khéo vận dụng tổng hợp các biện pháp chính trị và tổ chức, hành chính và kinh tế, pháp chế và giáo dục, thuyết phục và cưỡng bức để phát động quần chúng vượt qua mọi khó khăn, thực hiện có hiệu quả nhất nhiệm vụ của giai đoạn mới. Đảng phải biết xây dựng và sử dụng Nhà nước và các đoàn thể như những công cụ mạnh mẽ để tổ chức, động viên đông đảo quần chúng phấn đấu xây dựng xã hội mới, và qua việc thu hút quần chúng tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau mà giáo dục nâng cao giác ngộ chính trị, phát huy tính tự giác và năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân, đưa quần chúng đông đảo tham gia các phong trào sôi nổi cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến hành ba cuộc cách mạng, mà lúc này trước hết là phong trào lao động sản xuất.

Để làm tốt các việc đó, việc xác định đúng đắn mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản, mà trước hết là giữa Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa rất quan trọng. Sai lầm coi nhẹ chính quyền, không phát huy chức năng của chính quyền, không biết xây dựng tốt cơ quan nhà nước cũng chính là sai lầm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân.

Đảng phải ra sức xây dựng chính quyền, phát huy vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Nhà nước phải được tổ chức đúng, phải hoạt động đúng để làm tròn nhiệm vụ của Nhà nước chuyên chính vô sản.

Bằng kế hoạch nhà nước chính xác, bằng chính sách, chế độ cụ thể, bằng những biện pháp tổ chức quản lý có hiệu lực, Nhà nước phải cụ thể hoá đường lối, chính sách của Đảng và tổ chức thực hiện đường lối ấy để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân về chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội.

Phải kiện toàn và thực hiện đầy đủ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chấn chỉnh lại tổ chức và chế độ quản lý, phát huy vai trò và đẩy mạnh hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, của Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp, làm cho các cơ quan nhà nước làm đầy đủ chức năng và hiệu lực của mình; kiên quyết khắc phục tình trạng hoạt động lỏng lẻo, làm việc chiếu lệ, hình thức trong các cơ quan dân cử.

Trong sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, phải khắc phục tình trạng bao biện, làm thay còn khá phổ biến hiện nay, nhất là ở cấp cơ sở và trong các vùng mới giải phóng. Các tổ chức Đảng cần nhận rõ Đảng lãnh đạo nhân dân chứ không phải thay thế nhân dân làm chủ Nhà nước, Đảng lãnh đạo Nhà nước chứ không phải là thay thế Nhà nước làm chức năng chuyên chính. Đảng bắt buộc tất cả các tổ chức của Đảng và cán bộ, đảng viên phải tôn trọng quyền lực của cơ quan chính quyền, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và các quyết định, chỉ thị của cơ quan nhà nước, coi đó là kỷ luật của Đảng.

Song, chống bao biện, sự vụ không có nghĩa là hạn chế sự lãnh đạo của Đảng dừng lại ở chủ trương, phương hướng chung chung, khoán trắng công việc tổ chức thực hiện cho chính quyền. Trái lại, sự lãnh đạo của Đảng đối với mọi hoạt động của Nhà nước cần được tăng cường hơn nữa. Cải tiến và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là sự bảo đảm cao nhất của chuyên chính vô sản, của sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước và là một điều quyết định để tăng cường hiệu lực của Nhà nước chuyên chính vô sản.

Đảng cần thường xuyên xem xét, chỉ ra đường lối, nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của Nhà nước trong từng thời kỳ và từng ngành khác nhau. ở một số ngành đang tồn tại những vấn đề quan điểm, chủ trương, phương hướng chưa rõ ràng hoặc chưa nhất trí, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo chặt chẽ hơn nữa của Đảng. Nhiều khâu then chốt trong tổ chức thực hiện cũng đang đòi hỏi Đảng phải chỉ đạo sát hơn nữa.

Các cấp uỷ Đảng phải thống nhất lãnh đạo chính trị, tư tưởng gắn liền với lãnh đạo kinh tế, sản xuất, đẩy mạnh đồng thời ba cuộc cách mạng. Hoạt động kinh tế phải xuất phát từ đường lối chính trị của Đảng và ngược lại, lãnh đạo chính trị, tư tưởng sẽ không có nội dung nếu tách rời với lãnh đạo kinh tế. Cũng không thể máy móc chia tách công việc lãnh đạo của Đảng với công việc quản lý nhà nước, đòi hỏi Đảng chỉ lãnh đạo công việc này mà không lãnh đạo công việc kia. Là đảng cầm quyền, Đảng phải quan tâm tất cả, phải chịu trách nhiệm về hết thảy mọi việc có quan hệ đến vận mệnh của đất nước, đến quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Đảng không bao biện công tác chỉ đạo hàng ngày của chính quyền, nhưng trên tất cả mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, không có việc gì mà Đảng không cần xem xét đến, phân tích, có chủ trương và phương hướng chỉ đạo.

Song, như vậy không có nghĩa là Nhà nước chỉ đóng vai trò thụ động, việc gì cũng chờ ý kiến của cấp uỷ Đảng. Ngay trong quá trình chuẩn bị nghị quyết của Đảng, các cơ quan nhà nước phải góp phần tích cực nghiên cứu, đề xuất ý kiến, và để biến nghị quyết ấy thành hiện thực, các cơ quan nhà nước còn phải xem xét và có hàng loạt quyết định cụ thể về chính sách cải tạo và xây dựng, có kế hoạch, biện pháp, chế độ thể lệ cụ thể về tài chính, vật tư, lao động, v.v.. Trong quá trình Nhà nước thực hiện những quyết định nói trên, tổ chức Đảng không được can thiệp vụn vặt; phải phát huy chức năng của Nhà nước, của người thủ trưởng cơ quan, đơn vị; đồng thời phải theo dõi tình hình, kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn, giúp đỡ kịp thời để cơ quan nhà nước hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Trên những quan điểm và phương hướng ấy, định rõ mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước nói chung và cụ thể ở từng ngành, từng cấp khác nhau, xây dựng chức trách, chế độ cụ thể giữa cấp uỷ và Uỷ ban nhân dân địa phương, giữa tổ chức Đảng ở cơ quan và người thủ trưởng, giữa đảng uỷ và giám đốc xí nghiệp, giữa chi uỷ, đảng uỷ với ban quản trị hợp tác xã, v.v. bảo đảm cho các bộ máy trong hệ thống chuyên chính vô sản hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ, có hiệu quả cao nhất, phát động bằng được các phong trào quần chúng rộng rãi.

2. Trong khi nhấn mạnh vai trò của Nhà nước và mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, Đảng không thể xem nhẹ vai trò của các đoàn thể quần chúng, xem nhẹ việc xây dựng mối quan hệ đúng đắn giữa Đảng, Nhà nước với các tổ chức quần chúng. Phải xây dựng mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với quần chúng, đấu tranh chống tệ quan liêu trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.

Để đẩy mạnh sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất thiết Đảng và Nhà nước phải phát huy vai trò làm chủ tập thể của các tổ chức quần chúng, làm cho phong trào cách mạng trong quần chúng, ở từng giới, từng tầng lớp, từng lứa tuổi, dấy lên mạnh mẽ. Các tổ chức quần chúng giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu tổ chức của cả hệ thống chuyên chính vô sản, là tổ chức bảo đảm cho quần chúng tham gia công việc của Nhà nước và kiểm tra công việc của Nhà nước, đồng thời là trường học về chủ nghĩa xã hội, trường học xây dựng con người làm chủ tập thể.

Đảng phải chăm lo xây dựng và nâng cao trình độ mọi mặt của Công đoàn và giai cấp công nhân, xây dựng Đoàn thanh niên và thế hệ trẻ, xây dựng Nông hội (ở địa phương phía Nam), xây dựng và củng cố hợp tác xã và giai cấp nông dân tập thể, xây dựng tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa, củng cố và phát huy vai trò của Mặt trận thống nhất trên cơ sở liên minh công nông. Đồng thời, phải chăm lo cải thiện đời sống quần chúng. Nếu không làm như vậy thì không thể phát huy được vai trò làm chủ tập thể của quần chúng. Nhà nước phải phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể, tạo mọi điều kiện cho từng đoàn thể phát huy chức năng của mình. Cần định chế độ mời các đại diện của các đoàn thể tham gia các kỳ sinh hoạt của Hội đồng nhân dân các cấp, ban hành các luật, các chính sách, chế độ bảo đảm cho tổ chức quần chúng phê bình công việc của chính quyền trong các buổi sinh hoạt của mình, thực hiện tốt trách nhiệm và quyền hạn của quần chúng tham gia ý kiến vào công việc quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.

Từng thời gian, các cấp uỷ cần đi sâu nghiên cứu các phong trào quần chúng ở đơn vị mình, chỉ ra cho từng đoàn thể nhiệm vụ, phương hướng hoạt động, và lãnh đạo tốt sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và các đoàn thể trong việc thực hiện những nhiệm vụ cụ thể để tạo ra các phong trào quần chúng sâu rộng, bền bỉ, liên tục, có mục tiêu rõ ràng, cụ thể.

Trong mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, vấn đề đặt ra hiện nay không phải chỉ là Đảng và Nhà nước động viên quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị do Đảng và Nhà nước đề ra, cũng không phải chỉ là sự mở rộng dân chủ của Đảng và Nhà nước nhằm thu hút quần chúng đóng góp ý kiến một cách chủ động, có sáng tạo vào công việc chung của Đảng và Nhà nước, mà hơn thế nữa, còn phải xây dựng bằng được một hệ thống các quan hệ đúng đắn giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân với cơ chế hoàn chỉnh và những biện pháp có hiệu lực, nhằm xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa.

Song song với công tác tư tưởng, Đảng và Nhà nước phải tăng cường biện pháp tổ chức để khắc phục bằng được bệnh quan liêu trong bộ máy của mình. Không làm như thế thì không thể có đường lối, chủ trương chính xác, và bộ máy của Đảng và Nhà nước không thể có hiệu lực. Tình trạng cách bức trong bộ máy, thái độ hời hợt, tác phong đại khái, xa quần chúng của cán bộ, đảng viên và tình trạng bộ máy tổ chức cồng kềnh, biên chế hành chính nặng nề, một nguyên nhân quan trọng của bệnh quan liêu, là hoàn toàn xa lạ với cơ cấu tổ chức bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Nọc độc của bệnh quan liêu không dừng lại ở chỗ làm cho một số cán bộ, đảng viên bị hư hỏng và thoái hoá, biến chất, mà còn làm cho công tác phạm sai lầm, đi chệch đường lối, chính sách của Đảng, làm cho tổ chức không còn đủ hiệu lực, làm giảm sút bản chất cách mạng của Đảng và Nhà nước, và như vậy sẽ tạo điều kiện cho kẻ thù xen vào nội bộ tổ chức, phá hoại từ bên trong.

Một nhiệm vụ quan trọng của công tác tổ chức, nhất là trong bước ngoặt chuyển từ chiến tranh sang hoà bình, từ chiến đấu sang xây dựng kinh tế, văn hoá, là phải khắc phục bệnh quan liêu, bệnh mệnh lệnh, cửa quyền một cách toàn diện chẳng những bằng công tác tư tưởng mà điều rất quan trọng là bằng biện pháp tổ chức, bằng cơ cấu và chế độ tổ chức, chế độ quản lý.

Tổ chức, các chế độ phải bảo đảm cho quần chúng thực hiện đầy đủ quyền làm chủ tập thể của mình, nói lên ý kiến của mình trên tất cả các vấn đề về sản xuất, phân phối và đời sống, về nội dung và cách tiến hành ba cuộc cách mạng, về xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội và cả về xây dựng chính quyền, xây dựng Đảng.

Các tổ chức Đảng và Nhà nước phải định kỳ tổ chức các cuộc sinh hoạt để bảo đảm cho quần chúng phát biểu ý kiến về các vấn đề đó, làm cho quần chúng hiểu rõ tình hình chung của đất nước, của địa phương, những khó khăn và thuận lợi, tạo điều kiện cho quần chúng phát huy tính chủ động và sáng tạo để cùng với Đảng và Nhà nước khắc phục khó khăn; bảo đảm cho quần chúng có điều kiện đóng góp ý kiến vào sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, công tác quản lý của Nhà nước, kiểm tra công tác của chính quyền, phê bình cán bộ, đảng viên.

Phải bằng mọi cách tổ chức cho quần chúng đóng góp ý kiến vào việc xây dựng các pháp luật, các công việc trọng yếu của toàn quốc hay của mỗi địa phương, và thu hút quần chúng tham gia rộng rãi vào công tác quản lý kinh tế, quản lý nhà nước. Cần thường kỳ triệu tập các hội nghị những người có năng suất cao, những cán bộ, công nhân, nông dân tập thể có phát minh, sáng kiến, những hội nghị tổng kết kinh nghiệm tại chỗ, kinh nghiệm của những điển hình tiên tiến, tiến hành việc làm thử những vấn đề quan trọng và mới.

Các cấp cơ sở cần áp dụng một cách đều đặn hình thức bình công, báo công, định kỳ mỗi năm ít nhất hai lần tổ chức cho quần chúng phê bình công tác của tổ chức Đảng và chính quyền ở cơ sở, phê bình cán bộ, đảng viên. Đồng thời, phải nâng cao chất lượng tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền ở cơ sở, bồi dưỡng và nâng cao trình độ mọi mặt của quần chúng để quần chúng kịp thời phê bình những cán bộ, đảng viên làm trái với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật, chế độ, thể lệ Nhà nước, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, biến việc đó thành một thói quen trong nếp sống hàng ngày của quần chúng bằng nhiều hình thức: trực tiếp phê bình, ghi sổ góp ý ở mỗi cơ quan, thông qua báo chí, gửi thư hoặc tiếp xúc với các cơ quan có trách nhiệm.

ở các cấp trên, Chính phủ phải báo cáo và tự phê bình trước Quốc hội, Uỷ ban nhân dân phải báo cáo và tự phê bình trước Hội đồng nhân dân, cấp uỷ yêu cầu Hội đồng nhân dân và các tổ chức quần chúng góp ý kiến về sự lãnh đạo của cấp uỷ.

Trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo sản xuất, công tác, phải bảo đảm tốt việc nắm tình hình, tổ chức tốt việc theo dõi, phân tích diễn biến của tình hình. Vì vậy, phải tổ chức tốt hệ thống thông tin của Đảng và Nhà nước từ trên xuống và từ dưới lên. Trung ương Đảng và Chính phủ, các cấp uỷ Đảng và cơ quan nhà nước không phải chỉ nắm tình hình thông qua báo cáo của các cơ quan cấp dưới trực tiếp, mà phải định chế độ trực tiếp nhận báo cáo thường xuyên của cả nhiều cơ sở, ở những lĩnh vực hoạt động khác nhau và phải trực tiếp kiểm tra, tìm hiểu tình hình thực tế. Các cơ quan nghiên cứu quy hoạch, kế hoạch, nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước phải thật sự gắn liền với sản xuất và đời sống để thấy rõ khả năng cách mạng vô tận của quần chúng và trên cơ sở đó, có quan điểm đúng đắn, có cơ sở khoa học và có tư tưởng cách mạng tiến công trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch nhà nước.

Cần định chế độ cho cán bộ ở mọi cương vị công tác, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý, thường xuyên đi sát thực tế ở cấp dưới và cơ sở, nghiên cứu kinh nghiệm của quần chúng ở cơ sở. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên liên hệ với quần chúng nơi mình công tác, sinh sống. Mỗi đại biểu Quốc hội và uỷ viên Hội đồng nhân dân phải thực hiện chế độ liên hệ với cử tri, tập hợp được ý kiến của quần chúng, của cơ sở. Các chi bộ phải kiểm tra công tác quần chúng của đảng viên.

Phải bằng mọi biện pháp tăng cường công tác kiểm tra. Cùng với công tác kiểm tra của Đảng, phải tăng cường công tác kiểm tra của Nhà nước và của quần chúng.

Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp phải giám sát, kiểm tra, đánh giá công tác của các cơ quan do mình bầu ra, buộc các cơ quan này phải trả lời những vấn đề do đại biểu của nhân dân đề ra một cách nghiêm túc. Các bộ phận thanh tra của từng bộ, cơ quan phải được kiện toàn để kiểm tra công tác của ngành và đơn vị cấp dưới một cách có hiệu quả.

Các đoàn thể nhân dân phải tham gia và thu hút quần chúng tham gia kiểm tra công việc của cơ quan nhà nước có liên quan đến chức trách tham gia quản lý của tổ chức mình, đến việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của các tầng lớp quần chúng. Những hình thức tổ chức kiểm tra của quần chúng công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, v.v. mà nhiều nơi đã áp dụng một cách có hiệu quả trong việc đấu tranh để khắc phục những biểu hiện quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, chống lãng phí, tham ô, cần được tổng kết để áp dụng một cách rộng rãi và hình thành hệ thống kiểm tra nhân dân.

Tất cả những việc trên đây đều là những biện pháp tích cực để khắc phục và ngăn chặn bệnh quan liêu, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trong việc tham gia xây dựng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

3. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương đã chỉ rõ: "Nội dung của làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa bao gồm nhiều mặt: làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân; làm chủ trong phạm vi cả nước, trong mỗi địa phương, mỗi cơ sở; là kết hợp hữu cơ quyền làm chủ tập thể với quyền tự do chân chính của từng cá nhân". Chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa phải được bảo đảm bằng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, bằng con người mới xã hội chủ nghĩa.

Cơ cấu và chế độ tổ chức để bảo đảm chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa phải quán triệt đầy đủ nội dung và những yêu cầu đó của chế độ làm chủ tập thể, làm cho chế độ đó thật sự vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, muốn phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chuyên chính vô sản, không thể chỉ dừng lại ở việc giải quyết đúng các mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng, mà còn đòi hỏi phải giải quyết một loạt vấn đề về các mối quan hệ giữa trung ương với địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa địa phương, đơn vị, tập thể này với địa phương, đơn vị, tập thể khác, giữa cá nhân và tập thể, giữa gia đình và xã hội trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, v.v..

Trên lĩnh vực tổ chức, điều đó đòi hỏi phải xác định đúng đắn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ hiệp đồng của các cấp, các ngành, của từng địa phương, từng đơn vị cơ sở, từng tập thể lao động, v.v. trên mọi lĩnh vực hoạt động xã hội mà trong giai đoạn cách mạng hiện nay khâu trung tâm là xây dựng quản lý kinh tế và tổ chức đời sống.

Trong phạm vi cả nước, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Nhà nước phải bảo đảm quyền làm chủ tập thể ở cả các cấp trung ương, địa phương và cơ sở bằng luật tổ chức Hội đồng Chính phủ và các bộ, luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, bằng kế hoạch nhà nước, bằng pháp luật, chính sách, chế độ, thể lệ của Nhà nước, bằng phân cấp quản lý cụ thể tạo ra những điều kiện về cơ sở vật chất và kỹ thuật, và những điều kiện khác thích ứng với quyền hạn, nhiệm vụ và quyền làm chủ ở mỗi cấp.

Từng bộ, chẳng những phải có trách nhiệm đối với các đơn vị cơ sở trực thuộc, mà còn có trách nhiệm trong phạm vi toàn ngành, kể cả ở trung ương và địa phương; phải tạo điều kiện cần thiết cho việc phát huy quyền làm chủ của địa phương về công tác của ngành, lại phải thực hiện sự phối hợp, hiệp đồng để hỗ trợ cho các ngành có liên quan khác làm tốt trách nhiệm của mình. Bộ trưởng không phải chỉ là người chỉ đạo công tác chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ đơn thuần, mà còn phải là người bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng được quán triệt trong ngành, ở đơn vị cơ sở trực thuộc; phải liên hệ chặt chẽ với cấp uỷ và chính quyền địa phương, góp phần cùng địa phương và cơ sở phát động tốt phong trào quần chúng, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong quần chúng.

Trong phạm vi từng địa phương, từng cơ sở, từng tập thể, các cấp, các ngành đều phải xác định vị trí và trách nhiệm cụ thể của địa phương, đơn vị và tập thể mình chẳng những đối với sản xuất, phân phối, văn hoá, đời sống và quyền làm chủ tập thể về mọi mặt của quần chúng trong địa phương, đơn vị mình, mà còn phải xác định vị trí, trách nhiệm và quyền làm chủ tập thể ấy trong phạm vi rộng lớn hơn và đối với cả nước. Cần làm rõ hơn nữa vị trí và trách nhiệm trọng yếu của địa phương đối với Trung ương và toàn quốc. Chính quyền địa phương vừa là cấp chính quyền địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương, đồng thời là một cấp của chính quyền nhà nước trung ương, chịu trách nhiệm trước nhà nước trung ương; phải làm tốt trách nhiệm quản lý trên lãnh thổ đối với kinh tế trung ương ở địa phương. Cấp uỷ địa phương, tỉnh, thành phố phải nắm chắc tình hình diễn biến trong sản xuất và đời sống của quần chúng ở các cơ sở của trung ương đặt ở địa phương, thông qua lãnh đạo tổ chức Đảng và tổ chức quần chúng ở các đơn vị ấy mà phát động mạnh mẽ các phong trào quần chúng lao động sản xuất, công tác, kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng ở các đơn vị cơ sở ấy.

Các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước lại phải có chế độ tổ chức để bảo đảm phát huy vai trò, trách nhiệm và quyền làm chủ của từng gia đình, từng công dân đối với xã hội, đối với cả nước.

Toàn bộ việc xây dựng cơ cấu tổ chức của Đảng, Nhà nước, các tổ chức quần chúng và của toàn xã hội cần quán triệt hơn nữa yêu cầu xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, quán triệt đường lối phát triển kinh tế, văn hoá của Đảng, nhằm giải quyết một cách đúng đắn các mối quan hệ hữu cơ giữa xây dựng chế độ làm chủ tập thể và xây dựng nền kinh tế mới, nền văn hoá mới, con người mới, giữa xây dựng kinh tế và các lĩnh vực hoạt động khác, giữa cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa kinh tế trung ương và kinh tế địa phương, giữa kinh tế và quốc phòng, giữa tự lực cánh sinh và mở rộng quan hệ với nước ngoài nhằm phát huy mọi khả năng tiềm tàng của đất nước.

Trong khi nhấn mạnh vị trí của công tác tổ chức bảo đảm nhiệm vụ kinh tế, cần nhận thức rõ hơn nữa vị trí của văn hoá, giáo dục, thể hiện tầm quan trọng của việc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, trong khi coi trọng kiện toàn tổ chức kinh tế, phải thấy đầy đủ tầm quan trọng của việc củng cố và xây dựng các ngành giáo dục, thông tin, văn hoá của các trường học, các vườn trẻ, lớp mẫu giáo, của các đoàn thể, nhất là Đoàn thanh niên, Công đoàn, Hội phụ nữ. Trong khi nhấn mạnh vị trí của kinh tế, văn hoá, không thể xem nhẹ vị trí của quốc phòng, trị an, của các lực lượng vũ trang đối với toàn bộ sự phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đảng bao giờ cũng phải nắm vững và lãnh đạo chặt chẽ lực lượng vũ trang và cơ quan an ninh.

Phải trên quan điểm mới của việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa mà nghiên cứu cả việc cải tiến phương pháp lãnh đạo, bảo đảm trong từng thời gian tập trung sức của một hoặc nhiều địa phương, nhiều ngành để giải quyết những khâu then chốt của một vài địa phương, đơn vị cấp dưới hoặc một vài mặt công tác có tác dụng thúc đẩy sự phát triển trong phạm vi rộng hơn về kinh tế, văn hoá, xã hội. Phải xây dựng bằng được tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa và sự hiệp đồng có hiệu lực bằng biện pháp tổ chức, khắc phục một cách kiên quyết tư tưởng bản vị, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, tính tự do, tản mạn, lối làm việc phân tán của sản xuất nhỏ.

Rõ ràng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa đang đề ra cho công tác tổ chức biết bao vấn đề mới mẻ và phức tạp trong việc giải quyết các mối quan hệ xã hội bao quát và rộng rãi trên mọi lĩnh vực. Các mối quan hệ hữu cơ ấy của xã hội đều đòi hỏi phải được xây dựng thành quy chế tổ chức, thể hiện bằng chức trách, chế độ cụ thể, bằng luật pháp và các quy định về tổ chức bộ máy, về chế độ làm việc và tổ chức chỉ đạo thực hiện, phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa.

Để làm tốt việc đó phải nghiên cứu tỉ mỉ, từng bước bổ sung và hoàn chỉnh, làm cho chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa được bảo đảm bằng cơ cấu tổ chức, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chuyên chính vô sản, sức mạnh tổng hợp của cả nước trong sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

III

Phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất, tăng cường dân chủ và kỷ luật của đảng

1. Cơ sở của truyền thống đoàn kết, thống nhất của Đảng là đường lối, chính sách đúng đắn, thấm nhuần tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin và những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng. Cơ sở ấy được củng cố bằng tình cảm cách mạng trong sáng và tình thương yêu đồng chí sâu sắc của những người cộng sản đã tạo nên sức mạnh phi thường của Đảng ta.

Bước vào giai đoạn mới, hơn bao giờ hết, Đảng ta cần làm quán triệt những kinh nghiệm lớn đó để phát huy hơn nữa truyền thống đoàn kết, thống nhất của Đảng, bảo đảm cho Đảng không thể có chia rẽ, bè phái, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiến lên giành thắng lợi huy hoàng hơn nữa.

a) Trước hết phải bảo đảm trong bất cứ tình huống nào sự thống nhất về đường lối của Đảng.

Quá trình thực hiện sự thống nhất về đường lối phải là quá trình xây dựng, phát triển, cụ thể hoá đường lối một cách đúng đắn, quá trình đấu tranh để quán triệt đường lối ấy trong thực tiễn, để ngăn chặn và khắc phục những biểu hiện nhận thức lệch lạc về đường lối, cũng như để loại trừ mọi âm mưu chống đối nhằm chia rẽ hàng ngũ của Đảng. Đảng ta đã và sẽ không ngừng làm cho đường lối của Đảng được thấm sâu vào đông đảo đảng viên và quần chúng. Chẳng những phải xây dựng sự nhất trí cao về đường lối chung mà còn phải không ngừng tăng cường thống nhất trên những vấn đề về đường lối, quan điểm thuộc từng lĩnh vực công tác.

Trong quá trình chấp hành đường lối của Đảng, không thể tránh khỏi trong cán bộ, đảng viên còn có những ý kiến khác nhau về những vấn đề này hay vấn đề khác. Đảng ta coi đó là hiện tượng bình thường. Việc thảo luận một cách nghiêm túc trong Đảng về những ý kiến khác nhau để tìm ra những chủ trương, biện pháp và kết luận đúng đắn không thể coi là mất đoàn kết. Nhưng sẽ là một hiện tượng rất không tốt nếu để cho những nhận định và ý kiến khác nhau ấy kéo dài làm ảnh hưởng đến sự thống nhất ý chí và hành động cách mạng. Càng không thể để cho chủ nghĩa cá nhân xen vào những vấn đề quan điểm khác nhau để gây chia rẽ, bè phái trong Đảng.

Bởi vậy, bước vào giai đoạn mới, Đảng và mỗi đảng bộ phải chăm lo tổng kết kinh nghiệm làm rõ những vấn đề về quan điểm, chủ trương, chính sách, nhất là về cải tạo và phát triển kinh tế, tổ chức đời sống, tổ chức việc thảo luận dân chủ trong Đảng, kịp thời phân tích những ý kiến khác nhau và dựa vào tập thể để tìm ra những kết luận chính xác, tạo cơ sở cho sự thống nhất ngày càng cao trong toàn Đảng và trong mỗi đảng bộ. Đảng phải không ngừng nâng cao giác ngộ chính trị, bồi dưỡng lý luận, nâng cao kiến thức, giáo dục phương pháp tư tưởng, tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên đi sâu đi sát thực tế sản xuất và đời sống, theo kịp tình hình và nhiệm vụ mới. Phải ra sức khắc phục sự chênh lệch về trình độ lý luận, kiến thức và thực tiễn trong Đảng, bảo đảm cho sự nhất trí trên các vấn đề đường lối, chính sách, chủ trương công tác, v.v. được dễ dàng, nhanh chóng và có cơ sở tự giác cao.

ở những bước ngoặt, những thử thách quyết liệt của cách mạng, những lúc cách mạng gặp khó khăn, Đảng càng phải coi trọng công tác tư tưởng, giáo dục về tình hình và nhiệm vụ mới, làm rõ thuận lợi và khó khăn, khẳng định đúng ưu điểm và thành tích, những nhược điểm và khuyết điểm, kịp thời ngăn chặn những biểu hiện bi quan, dao động, kém tin tưởng và những ảnh hưởng của những quan điểm lệch lạc hữu khuynh, "tả" khuynh, những nhận thức sai lệch về đường lối, chính sách của Đảng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Nếu có những phần tử cơ hội, bất mãn, thoái hoá, chống lại đường lối độc lập, tự chủ của Đảng, Đảng phải có thái độ kiên quyết nhất. Phải tăng cường sự thống nhất về đường lối và quan trọng nhất là trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng, nâng cao cảnh giác về chính trị của đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng, và phát huy hiệu lực của bộ máy chuyên chính. Đó là những điều kiện cơ bản để nhanh chóng đập tan những âm mưu và hành động chia rẽ của chúng ngay từ khi mới được nhen nhóm lên.

Đường lối độc lập, tự chủ của Đảng là sự vận dụng có sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin và những kinh nghiệm của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Giữ gìn đường lối độc lập của Đảng không có nghĩa là theo quan điểm dân tộc hẹp hòi, xa rời chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong khi nắm vững đường lối độc lập của mình, Đảng không một phút lơi lỏng nghĩa vụ quốc tế cao cả và mãi mãi sẽ nêu cao truyền thống của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Song, lợi ích của Đảng, của cách mạng nước ta, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng đấu tranh chống mọi khuynh hướng của chủ nghĩa cơ hội, hữu, "tả" có thể ảnh hưởng vào trong Đảng.

Đảng phải chủ động chỉ ra cho cán bộ, đảng viên những quan điểm đúng đắn và sai trái trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, những luận điệu xuyên tạc của giai cấp thù địch trên mọi lĩnh vực, giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cho các cán bộ cao cấp và trung cấp, chủ động phân biệt được đúng sai trên các vấn đề về đường lối, quan điểm.

b) Sự đoàn kết, nhất trí về đường lối phải được bảo đảm bằng sự thống nhất về mặt tổ chức trên cơ sở tuân thủ một cách nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng.

Đảng phải không ngừng đấu tranh để thực hiện một cách đầy đủ hơn nữa nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng, thể hiện một cách cụ thể nguyên tắc ấy bằng các chế độ công tác, sinh hoạt cụ thể, để tăng cường thống nhất hành động, khắc phục một cách kiên quyết và có hiệu quả những biểu hiện gia trưởng, độc đoán, mất dân chủ, hoặc tự do chủ nghĩa, vô nguyên tắc thường xảy ra. Đó là điều kiện tất yếu để tăng cường đoàn kết và sức chiến đấu của Đảng.

Đảng ta nhất thiết phải làm cho nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng, mà nội dung cơ bản là chế độ dân chủ và kỷ luật của Đảng, trở thành hành động tự giác của mọi đảng viên, làm cho nguyên tắc ấy, như dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đã khẳng định, "một mặt, bảo đảm phát huy tính tích cực và tính sáng tạo của mọi tổ chức của Đảng và đảng viên trong việc tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng; mặt khác, bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng".

c) Sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng. Mặt khác, đối với những người cộng sản, bên cạnh tính nguyên tắc, còn có ý chí và tình cảm cách mạng trong sáng, có tình thương yêu đồng chí của những người cộng sản, sự tôn trọng và tin cậy lẫn nhau giữa những người cùng chung lý tưởng.

Đáng tiếc là tình hình mất đoàn kết, thậm chí mất đoàn kết nghiêm trọng ở một số tổ chức của Đảng nhiều khi chỉ là do chủ nghĩa cá nhân, bệnh công thần, địa vị, nhỏ nhen và ích kỷ, tư tưởng cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa hoặc do những nhận thức không đúng đắn về vấn đề dân tộc; tình cảm địa phương, họ hàng, thôn xóm gây nên.

Nâng cao tính đảng của đảng viên, xây dựng tình thương yêu đồng chí và tình cảm cách mạng đúng đắn, ra sức đấu tranh để khắc phục chủ nghĩa cá nhân và những biểu hiện tiêu cực trên đây của cán bộ, đảng viên là một yêu cầu không thể xem nhẹ để tăng cường thống nhất ý chí và hành động trong Đảng.

Đảng ta là một, dân tộc ta là một; ý chí và tình cảm cách mạng của Đảng là thống nhất. Mỗi cán bộ, đảng viên phải vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng mà đấu tranh chống lại những biểu hiện tiêu cực ấy, trước hết là ở chính mình, để giữ gìn đoàn kết, thống nhất của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng tuyệt đối không bao giờ được có bè phái, gây nhóm nhỏ.

2. Để tăng cường đoàn kết thống nhất, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng, phải không ngừng mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ tập thể của toàn Đảng theo những yêu cầu mới về lãnh đạo kinh tế, văn hoá, đời sống, quốc phòng, trị an, v.v. bảo đảm cho trí tuệ tập thể, tính tích cực, sáng tạo của toàn Đảng và quần chúng đảng viên được phát huy một cách triệt để trong việc trực tiếp hoặc thông qua đại diện của mình, tham gia ý kiến trong tổ chức Đảng để quyết định những vấn đề cơ bản nhất của toàn Đảng, của mỗi đảng bộ và nâng cao tính tự giác của đảng viên trong việc chấp hành các quyết định ấy.

Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa càng khó khăn, phức tạp bao nhiêu thì Đảng càng phải ra sức đấu tranh để thực hiện triệt để chế độ dân chủ trong nội bộ Đảng, ra sức nâng cao chất lượng lãnh đạo tập thể của Đảng bấy nhiêu. Đó cũng là điều kiện tất yếu để giành thắng lợi.

a) Dân chủ nội bộ trước hết phải được phản ánh vào việc thực hiện nguyên tắc lãnh đạo tập thể là nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của Đảng và trong việc xây dựng các cơ quan lãnh đạo tập thể của Đảng. Nó bảo đảm các nghị quyết của tổ chức Đảng có chất lượng cao, có tính khoa học, thiết thực.

Cần chấm dứt tình trạng mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức trong các cơ quan lãnh đạo tập thể của Đảng. Điều đó đòi hỏi trước hết phải bảo đảm cho các hội nghị của Đảng từ trên xuống dưới phải được chuẩn bị chu đáo và được tiến hành một cách thật sự dân chủ; các quyết định của hội nghị phải phản ánh và tập trung được ý chí và trí tuệ sáng tạo của tập thể, của những người am hiểu vấn đề, của đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng, đề cập và giải quyết được những vấn đề then chốt nhất, cấp thiết nhất của cuộc sống, khắc phục một cách kiên quyết bệnh gia trưởng, độc đoán, hình thức trong sinh hoạt tập thể cũng như những biểu hiện gò ép, dân chủ hình thức hoặc buông lỏng lãnh đạo trong việc bầu cử các cấp uỷ Đảng.

Các tổ chức Đảng từ trung ương đến cơ sở cần theo quy định của Điều lệ Đảng mà triệu tập Đại hội đảng bộ đều đặn, đúng kỳ hạn. Từng cấp uỷ căn cứ vào Điều lệ Đảng và hướng dẫn của cấp trên mà xây dựng và thực hiện các nguyên tắc sinh hoạt dân chủ trong Đảng, định ra các chế độ sinh hoạt tập thể bảo đảm cho chương trình nghị sự của cơ quan lãnh đạo tập thể trên những vấn đề cơ bản phải được tập thể cân nhắc và quyết định. Việc chuẩn bị hội nghị phải trải qua những thủ tục nhất định về công tác điều tra, nghiên cứu, về việc lấy ý kiến của các cơ quan có trách nhiệm và của cấp dưới, làm cho hội nghị được tiến hành nhanh gọn, nhưng có chất lượng cao. Cơ quan lãnh đạo phải nắm vững tình hình thực tế, có thời gian suy nghĩ về các phương án và ý kiến khác nhau, việc thảo luận trong hội nghị phải thật sự dân chủ, cởi mở, và có kết luận rõ ràng, không bị ràng buộc bởi một áp lực nào. Việc kết luận, biểu quyết các vấn đề phải trên cơ sở phân tích rõ ý kiến đúng sai; nghị quyết của hội nghị phải được tập thể thông qua một cách thật sự dân chủ, tránh chủ quan, phiến diện.

Dân chủ trong Đảng có quan hệ chặt chẽ với dân chủ trong quần chúng. Là người lãnh đạo quần chúng, Đảng và cán bộ, đảng viên không thể có những quyết định và ý kiến đúng đắn nếu xa cách quần chúng, không phát huy trí tuệ và không lắng nghe ý kiến và kinh nghiệm của quần chúng. Đảng tổ chức cho đông đảo quần chúng có tổ chức tham gia ý kiến vào các vấn đề trọng yếu trong phạm vi toàn quốc hoặc từng địa phương, nhất là trong các dịp mở Đại hội Đảng toàn quốc và Đại hội của đảng bộ địa phương và cơ sở. Chất lượng lãnh đạo tập thể, xét đến cùng, đòi hỏi cán bộ và cơ quan lãnh đạo của Đảng phải vừa có lập trường giai cấp vững vàng, quan điểm quần chúng đúng đắn, vừa sát thực tế sản xuất và đời sống, sát quần chúng, đấu tranh chống quan liêu.

Việc bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp, như dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị "phải bảo đảm đầy đủ tính chất dân chủ và phải được chuẩn bị chu đáo để việc lựa chọn các thành viên được chính xác. Danh sách những người ứng cử và những người được đề cử phải được những người bầu cử thảo luận, người bầu cử có quyền nhận xét, chất vấn các vấn đề cần thiết về người ứng cử, bầu hay không bầu đối với mỗi người ứng cử, không một cơ quan hay một đảng viên nào được gò ép". Dân chủ trong bầu cử chỉ có thể thực hiện tốt trên cơ sở làm cho đại biểu hiểu rõ tiêu chuẩn của uỷ viên Ban chấp hành, hiểu rõ phẩm chất và năng lực của từng ứng cử viên, loại trừ các hành động bè phái, vô nguyên tắc làm cho các đại biểu hiểu sai lệch về các ứng cử viên. Bởi vậy, để thật sự phát huy dân chủ, phải có sự lãnh đạo đúng đắn.

Đoàn chủ tịch của Đại hội, trên cơ sở báo cáo của cấp uỷ và phân tích ý kiến của các đại biểu, của cán bộ, đảng viên, trong trường hợp cần thiết có thể công khai giới thiệu những người ưu tú mà đại biểu chưa nắm được, giới thiệu có phân tích lý lẽ về danh sách những người xét thấy xứng đáng; còn các đại biểu thì coi đó là những ý kiến để tham khảo, cân nhắc, và bằng phiếu kín sử dụng đầy đủ quyền đại biểu của mình, không chịu bất cứ một áp lực nào. Việc giới thiệu đó không thể coi là gò ép hoặc bắt buộc. Đoàn chủ tịch phải ngăn chặn những hiện tượng lôi kéo, bè cánh trong các cuộc bầu cử và phải báo cáo kịp thời lên cấp trên nếu có.

ở cấp trên, trước khi lựa chọn người để giới thiệu vào cấp uỷ phải lấy ý kiến của cán bộ, đảng viên. ở các đơn vị cơ sở, trước khi bầu cử cấp uỷ, tổ chức Đảng còn phải lấy kiến nghị của quần chúng về những người mà quần chúng xét thấy xứng đáng được bầu vào cấp uỷ. Chỉ có trên cơ sở tiến hành như vậy, việc lựa chọn người vào cấp uỷ mới thật dân chủ và chính xác.

b) Dân chủ nội bộ và chất lượng lãnh đạo còn phải được thể hiện đầy đủ trong mọi sinh hoạt và hoạt động thường xuyên của Đảng.

Nghiêm túc thực hiện chế độ báo cáo trước tập thể, trước cấp dưới đã bầu ra mình là một yêu cầu không thể thiếu để bảo đảm sinh hoạt dân chủ của Đảng, là một bộ phận không thể tách rời của việc hoàn chỉnh chế độ bầu cử trong Đảng. Ban chấp hành các cấp của Đảng phải tăng cường chế độ thông báo, thông tin, báo cáo từ trên xuống và từ dưới lên, làm cho toàn Đảng, toàn đảng bộ, toàn thể thành viên của cơ quan lãnh đạo tập thể hiểu được tình hình chung của địa phương và công việc đã làm, những khó khăn, thuận lợi của mỗi đảng bộ. Tổ chức và người phụ trách cấp trên phải thật sự lắng nghe và tôn trọng ý kiến của cấp dưới, tập hợp ý kiến và kinh nghiệm của cán bộ, đảng viên và quần chúng, nêu các vấn đề mà toàn Đảng hay mỗi đảng bộ cần quan tâm để cho cấp dưới thảo luận, tham gia ý kiến.

Cần phê phán nghiêm khắc và kiên quyết chấm dứt tình trạng ở không ít cấp uỷ, Ban thường vụ trong thực tế biến thành cấp trên của Ban chấp hành, uỷ viên Ban chấp hành trong thực tế chủ yếu là người tiếp thu và truyền đạt ý kiến của Ban thường vụ, Ban thường vụ không tôn trọng và lắng nghe ý kiến của các uỷ viên Ban chấp hành, không thường xuyên nghiêm túc báo cáo công việc đã làm trước Ban chấp hành, còn các uỷ viên Ban chấp hành thì ngoài các kỳ sinh hoạt tập thể, không phản ánh những ý kiến và kinh nghiệm của mình cho các cơ quan thường trực cấp uỷ. Cũng cần phê phán nghiêm khắc và chấm dứt tình trạng cấp trên không chấp hành quy định của Điều lệ Đảng về chế độ báo cáo trước cấp dưới, không chịu sự kiểm tra của các tổ chức đã bầu ra mình, cán bộ chủ chốt không chịu lắng nghe những ý kiến trái với ý kiến của mình, thậm chí đàn áp những ý kiến đó.

Nhằm khắc phục những khuyết điểm đó, trong các điều cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ, bản dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị nói rõ: "Các Ban chấp hành phải báo cáo và chịu trách nhiệm... trước cơ quan lãnh đạo cấp trên và đảng bộ cấp dưới". "Ban thường vụ... phải báo cáo tình hình chung và công việc đã làm trước Ban chấp hành theo định kỳ".

Trong các điều cụ thể khác, dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị quy định rõ chế độ và thời hạn cấp trên phải báo trước cho cấp dưới và yêu cầu Ban chấp hành các cấp "ít nhất 6 tháng một lần nêu các vấn đề cần thiết cho cấp dưới thảo luận để đề đạt ý kiến và phê bình sự lãnh đạo của cấp trên". Việc thực hiện đúng những quy định đó nhất định sẽ tạo ra sinh lực mới trong sinh hoạt Đảng và sẽ có tác dụng to lớn đối với việc nâng cao trách nhiệm của toàn Đảng đối với sự lãnh đạo tập thể của Đảng.

Cần thực hiện nghiêm túc và có chất lượng chế độ tự phê bình và phê bình từ trên xuống và từ dưới lên. Đó là một yêu cầu bức thiết để nâng cao chất lượng lãnh đạo tập thể, tăng cường sinh hoạt dân chủ và đoàn kết, nhất trí trong Đảng, bảo đảm cho quyền kiểm tra của mỗi đảng viên đối với công việc của Đảng được tôn trọng một cách đầy đủ.

Là Đảng nắm chính quyền, trong Đảng thường có những tổ chức và đảng viên chỉ thích nghe ưu điểm, thành tích, không thích nghe phê bình khuyết điểm, không chịu sự kiểm tra của tập thể cấp dưới, thậm chí trấn áp phê bình đối với cấp dưới, xu nịnh, luồn cúi với cấp trên, báo cáo láo thành tích để mưu lợi ích riêng hay lợi ích cục bộ. Lại có những đảng viên sợ bị đụng chạm đến quyền lợi, địa vị, cấp bậc, sợ bị truy chụp, bị thành kiến nên tự tước bỏ quyền dân chủ của mình.

Các tổ chức Đảng phải có thái độ nghiêm khắc nhất trước tình trạng đó. Lại phải kiên quyết chống những biểu hiện hình thức chủ nghĩa và sai trái trong tự phê bình và phê bình: tự phê bình và phê bình không căn cứ vào tình hình thực tế, không nhằm thúc đẩy công việc, mà lại nhằm đả kích cá nhân; không nhằm nâng cao chất lượng chấp hành đường lối, chính sách và các nghị quyết, cải tiến lãnh đạo, giữ gìn phẩm chất cách mạng của đảng viên, mà lại đi vào những vấn đề vụn vặt thuộc về sinh hoạt. Qua tự phê bình và phê bình, phải rút ra những kinh nhiệm để quy định thành chế độ, biện pháp nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục, ngăn ngừa các thiếu sót.

Phải làm cho vũ khí tự phê bình và phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên, thật sự trở thành vũ khí sắc bén của toàn Đảng, làm cho tự phê bình và phê bình thật sự là một quy luật phát triển của Đảng. Việc đó sẽ có tác dụng to lớn đối với việc củng cố Đảng.
Chính vì yêu cầu đó, dự thảo Điều lệ (sửa đổi) nhấn mạnh: "Các tổ chức của Đảng từ trung ương đến cơ sở và mọi đảng viên phải nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, cấp trên phải tự phê bình trước cấp dưới và tổ chức tốt việc phê bình từ dưới lên. Tự phê bình và phê bình phải thành thật, thẳng thắn và nhằm mục đích hoàn thành nhiệm vụ, xây dựng tổ chức, giúp đỡ nhau tiến bộ. Đảng nghiêm cấm những hành động trấn áp phê bình, trù dập cá nhân, và có thái độ nghiêm khắc đối với bất cứ cán bộ, đảng viên và tổ chức nào phạm các khuyết điểm ấy".

3. Đồng thời với việc mở rộng dân chủ, Đảng ta phải hết sức quan tâm đến việc tăng cường kỷ luật sắt của Đảng, đến công tác kiểm tra của Đảng.

a) Bảo đảm cho đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng, các quy tắc sinh hoạt Đảng, kế hoạch nhà nước và pháp chế xã hội chủ nghĩa được triệt để chấp hành là nội dung cơ bản của việc tăng cường kỷ luật của Đảng trong điều kiện Đảng nắm chính quyền.

Đông đảo đảng viên ta có ý thức chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và Điều lệ Đảng. Chính ý thức ấy đã giúp cho nhiều tổ chức Đảng và đảng viên phát huy tính chủ động, sáng tạo, và ngay trong những điều kiện hoạt động khó khăn nhất, trong lòng địch, xa cách với Trung ương, với cấp trên, đã vững vàng đưa phong trào quần chúng tiến lên. Tuy nhiên, ở không ít tổ chức và đảng viên, tình hình lỏng lẻo trong việc chấp hành nghị quyết và các quy tắc sinh hoạt Đảng hầu như đã trở thành thói quen mà không hề bị phê phán nghiêm khắc.

Có những cán bộ, đảng viên thường không nghiên cứu kỹ những biện pháp chấp hành triệt để các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, thậm chí còn phát ngôn tùy tiện về các nghị quyết của Đảng, cho cấp trên là không sát, cường điệu đặc điểm của địa phương, đơn vị mình, và tùy tiện truyền bá ý kiến riêng của mình.

Kỷ luật sắt của Đảng không cho phép tồn tại tình trạng tự do chủ nghĩa và vô trách nhiệm đó. Việc chấp hành các nghị quyết của Đảng, các quy tắc sinh hoạt Đảng là vô điều kiện đối với mỗi đảng viên và tổ chức của Đảng.

Đảng không cho phép đảng viên bảo lưu ý kiến trái với đường lối của Đảng. Nhưng Đảng cho phép đảng viên được đề đạt ý kiến về những vấn đề mình xét thấy không phù hợp hoặc có thiếu sót trong các nghị quyết của Đảng, và hơn nữa còn yêu cầu mỗi tổ chức và đảng viên phải phát huy tính chủ động và sáng tạo trong việc chấp hành các nghị quyết. Nguyên tắc của Đảng là trong khi tập thể và cấp trên chưa thay đổi ý kiến thì vẫn phải chấp hành đúng các nghị quyết. Nguyên tắc "thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Ban Chấp hành Trung ương" là một nguyên tắc đầy sức chiến đấu của một đảng Mác – Lênin. Nó bảo đảm về mặt tổ chức cho Đảng ta mãi mãi là một đảng thống nhất có sức mạnh chiến đấu bách chiến bách thắng.

Tập thể lãnh đạo không phủ nhận trách nhiệm cá nhân, trái lại phải trên cơ sở phát huy đầy đủ trách nhiệm cá nhân. Mọi cá nhân trên cương vị của mình phải chủ động đóng góp ý kiến với tập thể để tập thể có được quyết định chính xác, và dám chịu trách nhiệm trong việc chấp hành các nghị quyết của tập thể, dám tự phê bình và thành khẩn nhận khuyết điểm của mình trong việc chấp hành các nghị quyết ấy.

Chấp hành nghị quyết của Đảng là giữ gìn sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng, là chấp hành ý chí thống nhất của toàn Đảng, của mỗi đảng bộ, và là nghĩa vụ thiêng liêng của mọi tổ chức Đảng và đảng viên. Chính để bảo đảm hơn nữa yêu cầu đó, dự thảo Điều lệ (sửa đổi) có những đề nghị bổ sung cụ thể và nhấn mạnh việc chấp hành nghiêm chỉnh, vô điều kiện và triệt để các nghị quyết, chỉ thị của Đảng.

Việc chấp hành các nghị quyết của Đảng còn đòi hỏi các tổ chức và cán bộ lãnh đạo của Đảng phải biết tổ chức chỉ đạo xây dựng kế hoạch thi hành các nghị quyết. Phải có chế độ tổ chức và kiểm tra việc chấp hành nghị quyết, xác định cụ thể trách nhiệm của các cấp, các ngành, chỉ đạo tốt sự phối hợp hành động trong việc tổ chức thực hiện nghị quyết, định rõ chế độ báo cáo và xin chỉ thị, chế độ, thời gian sơ kết, tổng kết việc thực hiện.

Trong điều kiện Đảng nắm chính quyền, lãnh đạo quản lý kinh tế và tổ chức đời sống, đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng được biến thành kế hoạch nhà nước, thành pháp luật, mệnh lệnh, quy chế của Nhà nước. Vì thế, chấp hành kế hoạch, pháp luật, mệnh lệnh, quy chế Nhà nước cũng chính là chấp hành đường lối và các nghị quyết của Đảng. Đảng viên và tổ chức Đảng phải là người gương mẫu nhất trong việc chấp hành mọi quyết định của Nhà nước. Nếu thiếu sự gương mẫu ấy sẽ không thể có được sự thống nhất về ý chí và hành động trong chính ngay hàng ngũ của Đảng, lực lượng lãnh đạo của toàn xã hội.

Cần thấy rõ mối quan hệ hữu cơ giữa việc chấp hành kỷ luật của Đảng, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng với việc chấp hành kỷ luật của Nhà nước và việc thực hiện triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ trong chế độ quản lý kinh tế, quản lý xã hội của Nhà nước chuyên chính vô sản. Pháp lệnh, mệnh lệnh Nhà nước càng được tôn trọng bao nhiêu, kỷ luật nội bộ sẽ càng được củng cố bấy nhiêu. Sự phân công quản lý, chế độ trách nhiệm trong hệ thống tổ chức nhà nước càng hợp lý và chặt chẽ bao nhiêu, kế hoạch nhà nước, chủ trương, chính sách, biện pháp tổ chức quản lý do Nhà nước ban hành càng chính xác bao nhiêu, thì càng tạo điều kiện thuận lợi bấy nhiêu cho lãnh đạo của cấp dưới, cho việc phát huy tính chủ động sáng tạo và ý thức chấp hành của đông đảo cán bộ, đảng viên. Vì vậy, những đảng viên hoạt động trong bộ máy nhà nước, đặc biệt những đảng viên là cán bộ lãnh đạo, giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo đảm sự lãnh đạo tập trung thống nhất và việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng. Đảng cần hết sức chăm lo bồi dưỡng, giúp đỡ đội ngũ cán bộ ấy, làm cho họ có tính đảng cao, có ý thức tổ chức và kỷ luật tốt, có năng lực thật sự thi hành nghị quyết, và kiểm tra chặt chẽ các đồng chí đó trong việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước.

b) Để tăng cường kỷ luật và giữ gìn sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng, cần đặc biệt coi trọng việc tăng cường công tác kiểm tra của Đảng, phải nghiêm túc thi hành kỷ luật của Đảng và chấp hành pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Công tác kiểm tra phải nhằm vào việc chấp hành đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng, việc tuân thủ Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước, việc bảo đảm dân chủ và kỷ luật trong Đảng.

Với tính chiến đấu đầy đủ và tinh thần tích cực nhất, công tác ấy phải được tiến hành thường xuyên nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, và điều cơ bản nhất là nhằm chủ động ngăn chặn và hạn chế đến mức thấp nhất các khuyết điểm.

Trong nhiệm kỳ của mình, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các Ban chấp hành và Ban thường vụ các cấp coi trọng tổng kết kiểm điểm công tác, thực hiện tự phê bình và phê bình để có thể tự mình kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.

Các cấp uỷ Đảng phải trực tiếp và thông qua các ban giúp việc và Uỷ ban kiểm tra mà tiến hành công tác kiểm tra một cách chu đáo, chặt chẽ nhất. Qua công tác kiểm tra, phải rút ra những kinh nghiệm để xây dựng thành các chế độ công tác nhằm phát huy ưu điểm, ngăn chặn khuyết điểm.

Điều lệ Đảng đã dành một chương nói riêng về thi hành kỷ luật đối với đảng viên và tổ chức Đảng.

Khẳng định lại và bổ sung các quy định của Điều lệ Đảng, dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đã nhấn mạnh về kỷ luật sắt nghiêm túc và tự giác của Đảng, và chỉ rõ rằng: "mọi biểu hiện buông lỏng kỷ luật của Đảng đều làm yếu Đảng, phá hoại tính chặt chẽ và sự thống nhất về tổ chức của Đảng, làm suy yếu mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng và hiệu lực của hệ thống chuyên chính vô sản".
Kỷ luật của Đảng phải công minh, không cho phép đảng viên nào có đặc quyền đặc lợi. Những cán bộ giữ chức vụ trọng yếu phạm sai lầm thường gây tác hại lớn. Tình trạng không công bằng trong việc thi hành kỷ luật, buông lỏng kỷ luật của Đảng đối với đảng viên, đặc biệt đối với những đảng viên giữ cương vị phụ trách, là một nguyên nhân quan trọng làm cho kỷ luật sắt của Đảng bị xem nhẹ và rất lỏng lẻo ở nhiều nơi.

Việc thi hành kỷ luật của Đảng cần tập trung vào những biểu hiện tiêu cực trong việc chấp hành đường lối, chính sách và nguyên tắc tổ chức của Đảng. Gây mất đoàn kết nội bộ, bè phái, lôi kéo vây cánh, không nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chính sách và nghị quyết của Đảng, kế hoạch và pháp luật nhà nước, vô trách nhiệm, thoái hoá, biến chất, báo cáo láo để tạo thành tích cá nhân hoặc cục bộ trong việc chấp hành kế hoạch nhà nước, v.v. là những sai lầm nghiêm trọng nhất. Đối với những sai lầm ấy, Đảng phải có hình thức kỷ luật nghiêm khắc nhất; còn đối với những khuyết điểm thông thường về tác phong sinh hoạt, Đảng cần hết sức quan tâm giúp đỡ để sửa chữa, đồng thời khi xét thấy cần thiết cũng cần có kỷ luật thích đáng; tổ chức của Đảng không được bỏ qua, vì những khuyết điểm ấy, nếu không được sửa chữa, nhiều khi lại là nguồn gốc của những sai lầm dẫn đến thoái hoá, biến chất về chính trị.

Nhằm tăng cường kỷ luật của Đảng, dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đã có những đề nghị bổ sung và quy định cụ thể làm cho việc thi hành kỷ luật của Đảng được chặt chẽ. Đối với các tổ chức của Đảng, dự thảo Điều lệ (sửa đổi) bổ sung hình thức kỷ luật "giải tán" và có những quy định chặt chẽ nhằm bảo đảm cho hình thức kỷ luật này không bị lạm dụng.

Đảng ta rất nghiêm khắc đối với những sai lầm, khuyết điểm. Song, khi quyết định kỷ luật đối với đảng viên và tổ chức của Đảng, nhất là khi quyết định khai trừ ra khỏi Đảng hoặc giải tán tổ chức là những hình thức kỷ luật cao nhất của Đảng, cần hết sức thận trọng; phải điều tra, nghiên cứu kỹ càng, đi sâu tìm hiểu bản chất, tránh chỉ nhìn hiện tượng và phải căn cứ vào những bằng chứng xác thực. Phải nghe người phạm kỷ luật hoặc người đại diện cho tổ chức bị thi hành kỷ luật trình bày ý kiến trước khi tập thể tổ chức có thẩm quyền quyết định kỷ luật. Đối với những đảng viên đã bị thi hành kỷ luật, sau một thời gian sửa chữa khuyết điểm, nếu đã thật sự tiến bộ, tổ chức Đảng có trách nhiệm phải xem xét và kết luận về việc sửa chữa ấy, và trong việc sử dụng, cất nhắc, phải coi như kỷ luật đã được xoá bỏ, không được có định kiến.

Trong việc thi hành kỷ luật của Đảng và kỷ luật Nhà nước đối với cán bộ, đảng viên, có thể có những thiếu sót. Khi đã phát hiện thiếu sót thì phải kiên quyết sửa chữa, không vì một lẽ gì mà để cán bộ, đảng viên phải chịu oan trái. Đối với những người vì hằn thù cá nhân mà quy kết oan, vì để bảo vệ uy tín cá nhân hoặc vì bất kỳ lý do nào khác mà cố tình xử trí sai hoặc không minh oan, thì cần có kỷ luật nghiêm khắc. Với tinh thần đó, dự thảo Điều lệ (sửa đổi) còn đề nghị những bổ sung và sửa đổi cụ thể nhằm bảo đảm cho việc thi hành kỷ luật được chính xác, nghiêm minh, việc xem xét thư từ khiếu nại của đảng viên được nghiêm túc, quyền của đảng viên không bị vi phạm.

IV

kiện toàn hệ thống tổ chức và bộ máy của đảng

1. Là đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc, Đảng ta, theo quy định của Điều lệ Đảng, đã xây dựng hệ thống tổ chức của mình từ trung ương đến cơ sở theo đơn vị hành chính, đơn vị sản xuất hoặc công tác, ăn khớp với hệ thống tổ chức các cấp của Nhà nước.

Trong khi nắm vững nguyên tắc trên đây về xây dựng hệ thống tổ chức Đảng, Đảng ta, theo yêu cầu về lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, cũng đã chú trọng thích đáng đến tính chất và đặc điểm cụ thể của một số ngành và lĩnh vực hoạt động. Chính vì vậy mà Điều lệ Đảng đã cho phép Ban Chấp hành Trung ương, trong những trường hợp đặc biệt, được lập ra một số tổ chức Đảng theo hệ thống ngành dọc và một số tổ chức đặc biệt của Đảng ở những khu vực quan trọng về kinh tế, chính trị.

Những quy định đó của Điều lệ Đảng về căn bản là phù hợp với thực tế. Việc lập quá nhiều hệ thống tổ chức của Đảng theo ngành dọc trong thực tế sẽ phát sinh tình trạng phân tán nặng nề và không hợp lý trong hệ thống tổ chức của Đảng và tổ chức quần chúng, sẽ gây nên những hậu quả không lường hết đối với sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng, đối với việc sử dụng hợp lý lực lượng đảng viên và quần chúng, đối với việc phát động thống nhất các phong trào quần chúng và việc ứng phó với mọi tình thế trong phạm vi một địa phương. Phải hạn chế việc lập các tổ chức của Đảng theo hệ thống ngành dọc, và ngay trong trường hợp được phép thành lập, các tổ chức Đảng trong hệ thống đó hoạt động ở địa phương cũng cần giữ mối quan hệ chặt chẽ với cấp uỷ địa phương và phải chịu sự lãnh đạo của cấp uỷ địa phương về những vấn đề mà địa phương có trách nhiệm. Đó là điều phải khẳng định.

Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức của Đảng không thể đơn giản, bởi vì cơ cấu tổ chức của Nhà nước và xã hội trong quá trình tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đưa nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, là rất phức tạp. Sự lãnh đạo và chỉ đạo đối với các tổ chức Đảng ở các đơn vị sản xuất, kinh doanh, v.v. trực thuộc các cơ quan nhà nước cấp trên đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ và sự phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa tổ chức Đảng ở cấp quản lý các đơn vị ấy với các cấp uỷ địa phương nơi đơn vị đóng, nhằm thúc đẩy mọi hoạt động ở cơ sở.

Bởi vậy, trong khi xây dựng hệ thống lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng, chúng ta không thể đơn giản. Một mặt, phải kiện toàn mạnh mẽ hệ thống lãnh đạo của Đảng theo bốn cấp từ trung ương đến cơ sở, không để yếu ở một khâu nào; mặt khác, phải có những hình thức tổ chức linh hoạt phù hợp với tình hình của một số ngành và một số lĩnh vực hoạt động có đặc điểm riêng để cơ cấu và hệ thống tổ chức của Đảng phù hợp với tình hình và đặc điểm đó.

2. Trong hệ thống tổ chức của Đảng, việc kiện toàn Ban chấp hành các cấp của Đảng là khâu then chốt đối với toàn bộ sự hoạt động của Đảng và của cả hệ thống chuyên chính vô sản.

a) Là hạt nhân lãnh đạo chính trị của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương và các cấp tiêu biểu cho ý chí và trí tuệ của toàn Đảng hay của mỗi đảng bộ nhất thiết phải được kiện toàn về tổ chức và nâng cao về năng lực và hiệu lực lãnh đạo.

Uỷ viên Ban Chấp hành của Đảng ở mỗi cấp, phụ trách công tác ở mỗi lĩnh vực, có những yêu cầu khác nhau về trình độ và năng lực, nhưng mỗi đồng chí đều phải là những đảng viên ưu tú được đảng viên và quần chúng tín nhiệm, phải là những đồng chí thật sự trung thành, thật sự thông suốt và nhất trí với đường lối và quan điểm của Đảng. Chẳng những phải nhất trí mà còn phải hăng hái chấp hành và có khả năng đóng góp vào sự lãnh đạo tập thể của Ban chấp hành, có năng lực và sức chiến đấu để tổ chức thực hiện các nghị quyết của Ban chấp hành ở ngành, địa phương, đơn vị mình chịu trách nhiệm.

Trong việc xây dựng cấp uỷ, trên cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn uỷ viên Ban chấp hành, phải chú trọng yêu cầu về cấu tạo và phân công của cấp uỷ, bảo đảm cho cấp uỷ bao quát được công việc, nhạy cảm với tình hình thực tế ở cấp dưới và cơ sở, và thể hiện được tính kế thừa và tính liên tục trong xây dựng cơ quan lãnh đạo của Đảng.

Ban chấp hành các cấp phải có những đồng chí ưu tú hoạt động ở các ngành, ở các đoàn thể quan trọng, có những đồng chí công tác ở cấp dưới và ở cơ sở, khéo kết hợp giữa cán bộ cũ và cán bộ mới, chú trọng cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc ở vùng dân tộc. Phải thường xuyên đổi mới một bộ phận trong cấp uỷ một cách có kế hoạch, hết sức chú trọng tăng cường lực lượng trẻ đã được rèn luyện, thử thách, có sức khoẻ, có kiến thức quản lý kinh tế, quản lý chuyên môn, vào cấp uỷ. Trong cấp uỷ phải rất coi trọng nâng cao tỷ lệ thành phần xuất thân từ công nhân. Thực hiện các chủ trương đó hoàn toàn không có nghĩa là rải đều uỷ viên Ban chấp hành ở các ngành, các cấp, cấu tạo các thành phần vào cấp uỷ một cách hình thức, máy móc, biến cấp uỷ thành một tổ chức có tính chất liên hiệp.

Trong Ban thường vụ các cấp tỉnh, thành, huyện, quận, v.v. ngoài các đồng chí chuyên trách công tác Đảng, công tác của Nhà nước, nên có đồng chí phụ trách Thanh niên và Công đoàn (nhất là ở các thành phố) để tăng cường tổ chức thực hiện và công tác phát động các phong trào quần chúng.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu ra từ Đại hội toàn quốc lần thứ III đến nay đã phấn đấu hết sức mình để làm tròn nhiệm vụ lịch sử do Đại hội đã đề ra.

Trong hoàn cảnh chiến tranh kéo dài, việc chậm triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc đã không cho phép kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương thật phù hợp với những yêu cầu nhiệm vụ chính trị ngày càng rộng lớn và sự trưởng thành nhanh chóng của đội ngũ cán bộ qua các phong trào chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đại hội toàn quốc lần này sẽ bầu Ban Chấp hành Trung ương mới phản ánh được sự trưởng thành của Đảng, ý chí và trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân ta trong giai đoạn mới.

Trong Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị phải được kiện toàn để kịp thời đề ra cho Đảng những chủ trương, chính sách và biện pháp cơ bản thuộc về đường lối, phương châm cách mạng một cách sáng tạo, đặc biệt là các vấn đề về vận dụng đường lối, phương châm xây dựng và quản lý kinh tế, tổ chức đời sống, củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và công tác đối ngoại. Bộ Chính trị còn phải rất chú trọng kiểm tra sự chính xác của các nghị quyết lớn của Đảng, bảo đảm sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong Đảng và phải đích thân chọn lọc, bồi dưỡng, sắp xếp đội ngũ cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước.

Ban Bí thư cần được kiện toàn gồm một phần là Uỷ viên Bộ Chính trị với nhiệm vụ chỉ đạo và kiểm tra toàn diện công việc hàng ngày của Đảng, chỉ đạo công tác của các tổ chức Đảng và chỉ đạo sự phối hợp, thống nhất giữa các tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản nhằm huy động các tổ chức tập trung sức thực hiện những nhiệm vụ mấu chốt của Đảng trong từng thời gian.

Để phù hợp với truyền thống của Đảng, đề nghị Ban Chấp hành Trung ương sẽ cử ra Tổng Bí thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thay cho chức Bí thư thứ nhất hiện nay.

Những nhiệm vụ nặng nề hiện nay của cách mạng ở vùng mới giải phóng đòi hỏi phải được lãnh đạo tập trung hơn nữa. Cần phải cải tiến sự phân công và cách làm việc của Trung ương Đảng và Chính phủ, các Ban của Trung ương, các bộ và Uỷ ban Nhà nước, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo và chỉ đạo tập trung, thống nhất, trực tiếp và tại chỗ của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thường vụ Hội đồng Chính phủ đối với các mặt công tác ở các tỉnh và thành phố phía Nam.

Cùng với việc kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương, cần coi trọng kiện toàn Hội đồng Chính phủ, các bộ và cơ quan nhà nước, các Ban chấp hành các đoàn thể, nhất là Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ. ở mỗi bộ và cơ quan từ nay cần có Phó thủ trưởng thứ nhất để thay mặt thủ trưởng khi vắng và thường trực giải quyết công việc.

Các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nhất là Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, là những đơn vị hành chính kinh tế có quy mô tương đối lớn và hoàn chỉnh, có tầm quan trọng chiến lược về nhiều mặt. Các cấp uỷ, Uỷ ban nhân dân, các ngành cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải được kiện toàn tương xứng với nhiệm vụ lãnh đạo và quản lý toàn diện trên địa bàn chiến lược của một tỉnh, thành phố, vừa có khả năng vận dụng đường lối, chính sách của Đảng, quản lý tốt công tác của Nhà nước, vừa có đủ sức để phát hiện các vấn đề chung với Trung ương, góp phần cụ thể hoá đường lối, chính sách của Đảng. Uỷ ban nhân dân và các cơ quan trực thuộc phải được tổ chức cho phù hợp với trách nhiệm quản lý kinh tế, quản lý nhà nước theo vị trí mới.

Các tỉnh uỷ, thành uỷ chẳng những phải lãnh đạo kinh tế địa phương mà còn phải lãnh đạo chính quyền địa phương làm tốt trách nhiệm quản lý theo lãnh thổ đối với kinh tế trung ương. Đối với tổ chức Đảng ở các đơn vị sản xuất, kinh doanh, sự nghiệp, giáo dục, y tế, v.v. trực thuộc bộ, do các bộ quản lý chỉ đạo về kinh tế, chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ, được giao về đảng bộ địa phương (tỉnh, thành phố hoặc quận, huyện, thị xã, v.v.), tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc phải trực tiếp và thông qua các cấp uỷ quận, huyện, thị xã mà chỉ đạo tốt việc lãnh đạo các đơn vị ấy chấp hành các chính sách được thực hiện ở địa phương, hướng dẫn và kiểm tra sự lãnh đạo của các đảng uỷ, chi uỷ ở các đơn vị ấy đối với việc thực hiện nhiệm vụ kế hoạch nhà nước do cấp trên giao và chỉ đạo tốt công tác xây dựng Đảng, công tác của các đoàn thể quần chúng và phong trào thi đua lao động sản xuất của quần chúng ở các đơn vị ấy.

Việc kiện toàn các huyện uỷ và tổ chức lại cấp huyện, xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế địa bàn kết hợp giữa nông nghiệp (lâm nghiệp ở miền núi) với công nghiệp, nông dân với công nhân, Nhà nước với nông dân, kinh tế toàn dân với kinh tế tập thể, đã trở thành một vấn đề then chốt của Đảng và Nhà nước.

Phải nhanh chóng kiện toàn cấp huyện làm cho huyện thật sự là cứ điểm để tiến hành ba cuộc cách mạng, xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền nông nghiệp sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa ở nông thôn.

Việc kiện toàn các huyện uỷ làm cho các huyện uỷ đủ sức lãnh đạo toàn diện trên địa bàn huyện, với vị trí quan trọng đó, phải được tiến hành gắn liền với việc kiện toàn bộ máy của cấp huyện nói chung, và với việc tổ chức lại sản xuất và lao động của xã, hợp tác xã (ở các tỉnh phía Nam còn phải gắn liền với cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nông thôn), bảo đảm hình thành cơ cấu kinh tế ngày càng chặt chẽ trên địa bàn huyện nhằm sớm thực hiện thâm canh, hiện đại hoá, chuyên môn hoá và liên hiệp hoá nông nghiệp.

Theo yêu cầu ấy, các cấp tỉnh, thành phố và cấp trung ương cần phối hợp chặt chẽ các ngành nhằm tập trung sức để triển khai nhanh chóng việc kiện toàn cấp huyện, tăng cường cán bộ cho huyện và có quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ huyện và xã, hợp tác xã, nhất là đối với các huyện ở các tỉnh phía Nam, miền núi và các huyện trọng điểm.

Cần nhanh chóng tạo điều kiện về ngân sách, vốn, cơ sở vật chất và kỹ thuật cho huyện, xây dựng cấp huyện thật sự là cấp kế hoạch, trước mắt là về nông nghiệp (lâm nghiệp), tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp. Sớm hình thành bộ máy quản lý với màng lưới kinh tế kỹ thuật và hệ thống trạm, trại do huyện trực tiếp phụ trách, bảo đảm cho cấp huyện chủ động chỉ đạo sản xuất, kinh doanh, khắc phục lối quản lý theo kiểu hành chính cung cấp.

Trên cơ sở làm tốt các công việc trên đây, chuyển hướng mạnh mẽ sự lãnh đạo của các huyện uỷ, theo hướng bảo đảm cho các huyện uỷ vừa tăng cường lãnh đạo toàn diện hơn nữa, vừa đi sâu vào lãnh đạo kinh tế theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của các huyện uỷ phải sâu sát, cụ thể và có tầm nhìn xa hơn nữa. Huyện uỷ chẳng những phải lãnh đạo tốt việc xây dựng và thực hiện kế hoạch hàng năm, từng vụ sản xuất, mà để làm tốt việc đó, còn phải lãnh đạo tốt việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch cải tạo và xây dựng các phương án phát triển kinh tế, văn hoá và tổ chức đời sống dài hạn của huyện; chẳng những phải lãnh đạo và chỉ đạo từng xã, từng hợp tác xã làm tốt trách nhiệm của mình đối với nhân dân trong phạm vi từng đơn vị, mà còn phải biết nắm vững khả năng tiềm tàng về nhân tài vật lực trong toàn huyện, lãnh đạo các xã, hợp tác xã, các cơ sở trực thuộc và nhân dân trong huyện cùng nhau hợp tác góp phần xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng các công trình phúc lợi có tính chất chung của toàn huyện, ở từng vùng, hoặc phát triển những ngành nghề với quy mô lớn hơn vượt ra phạm vi từng xã, hợp tác xã, theo quy hoạch, kế hoạch, bước đi và phương hướng sản xuất chung của huyện.

Cùng với cấp huyện, các cấp thành phố trực thuộc tỉnh, các thị xã, quận hoặc khu phố thuộc thành phố trực thuộc là cấp trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật Nhà nước xuống thực hiện ở cơ sở, là cấp trực tiếp quản lý phần lớn đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng. Các cấp uỷ đó phải được tăng cường mạnh về chất lượng để đủ sức xây dựng và củng cố các chi bộ và đảng bộ cơ sở, đưa các chi bộ tiến lên đồng đều, đưa phong trào quần chúng tiến lên mạnh mẽ.

Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, cần ổn định tổ chức của Ban chấp hành các cấp từ trung ương đến cơ sở. Theo hướng đó, dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị thời gian tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Trung ương là 5 năm, thời gian tiến hành Đại hội đảng bộ các cấp tỉnh, thành phố, huyện, quận, v.v. và nhiệm kỳ Ban chấp hành các cấp đó là 2 năm; thời gian tiến hành Đại hội ở chi bộ, đảng bộ cơ sở là 1 năm và nhiệm kỳ của các đảng uỷ cơ sở là 2 năm, của chi uỷ là 1 năm.

b) Việc kiện toàn các ban chuyên môn, các Đảng đoàn, các Ban cán sự của Ban Chấp hành Trung ương và của cấp uỷ địa phương là một khâu không thể tách rời với việc kiện toàn sự lãnh đạo của các Ban chấp hành, một công tác có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ đời sống và sinh hoạt của Đảng.

Cần kiện toàn và chỉ đạo tốt các ban để các ban có thể chuẩn bị một cách chu đáo các vấn đề đưa ra Ban chấp hành quyết định, giúp Ban chấp hành quản lý hoạt động của các Đảng đoàn ở từng đoàn thể, các ban cán sự ở từng ngành, kiểm tra việc các cấp, các ngành quán triệt và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, các nghị quyết của Ban chấp hành, giúp Trung ương và các cấp uỷ quản lý công tác cán bộ.

Cần nghiên cứu để xác định rõ hơn trách nhiệm của Ban Tổ chức trung ương và các cấp trong việc phối hợp với các ban khác giúp Trung ương và cấp uỷ tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác tổ chức, công tác xây dựng Đảng.

Các ban chuyên trách công tác ở từng khối (như công nghiệp, nông nghiệp, khoa giáo, v.v.) cũng cần phối hợp với các ban tuyên huấn, tổ chức và uỷ ban kiểm tra để hướng dẫn, kiểm tra công tác tư tưởng, công tác tổ chức của Đảng ở các cơ quan và đơn vị cơ sở lớn trực thuộc từng cấp theo một quy định của Ban Chấp hành Trung ương nhằm giúp cho công tác xây dựng Đảng ở các đơn vị ấy gắn chặt chẽ hơn với nhiệm vụ chính trị của Đảng và với công tác quản lý cán bộ.

Trong giai đoạn mới, với sự phát triển phức tạp của nhiệm vụ lãnh đạo kinh tế, đời sống và của cơ cấu tổ chức của Đảng và Nhà nước trong phạm vi cả nước, nếu không kiện toàn tốt các ban thì không thể cải tiến và nâng cao chất lượng lãnh đạo của các Ban chấp hành.

Các ban phải gồm những cán bộ có tín nhiệm, có năng lực và phải được tổ chức phù hợp với vị trí, nhiệm vụ và đặc điểm của từng cấp, từng địa phương. Từng ban phải được tổ chức gọn nhẹ, không ôm đồm quá nhiều công việc, và phải biết giúp cấp uỷ phát huy khả năng nghiên cứu của các cơ quan nhà nước.

Để phát huy đầy đủ hiệu lực của các ban, phải có quy chế để mọi tổ chức và cán bộ, đảng viên tôn trọng chức năng, quyền hạn của các ban do Trung ương quy định.

Về các Đảng đoàn, dự thảo Điều lệ (sửa đổi) lần này đề nghị chỉ thành lập Đảng đoàn trong các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước, của các đoàn thể và tổ chức quần chúng do bầu cử mà lập ra. Theo hướng đó, Đảng đoàn Quốc hội, Đảng đoàn trong Hội đồng nhân dân các cấp, trong Đại hội đại biểu của các tổ chức quần chúng sẽ gồm những đảng viên chính thức được cử làm đại biểu (và chỉ hoạt động trong thời gian chuẩn bị và tiến hành hội nghị). ở trong các Ban chấp hành của các đoàn thể quần chúng, Đảng đoàn do Ban chấp hành đảng bộ đồng cấp chỉ định, gồm một số đảng viên trong các cơ quan đó, sẽ hoạt động thường xuyên theo quy định của Điều lệ Đảng và hướng dẫn của Trung ương. Nhiệm vụ của Đảng đoàn là bằng công tác vận động, thuyết phục thực hiện đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng, tăng cường ảnh hưởng của Đảng, tăng cường đoàn kết và mối liên hệ chặt chẽ giữa cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng trong các tổ chức mình hoạt động, nghiên cứu để đề nghị cấp uỷ quyết định phương hướng, chủ trương công tác đối với tổ chức ấy và quản lý cán bộ theo quy định của Trung ương.

Trong các cơ quan nhà nước như bộ, tổng cục, uỷ ban, ty, sở... thực hiện chế độ thủ trưởng, sẽ không thành lập Đảng đoàn. ở các cơ quan đó, tuỳ theo tình hình cụ thể, theo một quy định của Ban Chấp hành Trung ương, sẽ thành lập Ban cán sự của Đảng để giúp Trung ương và cấp uỷ đảm nhiệm một số công tác bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng, nhất là về công tác cán bộ được quán triệt và thực hiện trong cơ quan. Các Ban cán sự này sẽ tập thể thảo luận những đề nghị của thủ trưởng cơ quan về nhiệm vụ, phương hướng, chính sách cơ bản về phát triển công tác của ngành, về kế hoạch nhà nước hàng năm và kế hoạch dài hạn để đề nghị lên cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước quyết định; thảo luận và thông qua những chủ trương, biện pháp trọng yếu về nhiệm vụ kế hoạch ấy, những chính sách hoặc công tác quan trọng do thủ trưởng đề nghị; làm công tác cán bộ theo chức năng của Đảng đoàn hiện nay.

ở những bộ, tổng cục (hoặc ty, sở) có nhiều đơn vị cơ sở trực thuộc mà tổ chức Đảng ở các đơn vị đó được giao về trực thuộc đảng bộ địa phương, Ban cán sự được Trung ương (hoặc cấp uỷ) giao trách nhiệm giúp cho các đảng uỷ cơ sở quán triệt các nghị quyết của Đảng về đường lối, chính sách thuộc về công tác của ngành, về phương hướng phát triển và nhiệm vụ kế hoạch dài hạn và hàng năm của ngành, hướng dẫn các đảng uỷ ấy vận dụng các nghị quyết nói trên vào hoạt động thực tiễn của đảng bộ cơ sở, và cùng với cấp uỷ địa phương phụ trách các tổ chức cơ sở Đảng ấy xây dựng và thực hiện quy hoạch đào tạo cán bộ lãnh đạo kể cả bí thư đảng uỷ cơ sở, theo quy định của Trung ương. Giữa Ban cán sự và cấp uỷ địa phương phải có quan hệ chặt chẽ, theo đúng chế độ thông báo cho nhau rõ về nhiệm vụ và tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước, về công tác xây dựng Đảng và công tác quần chúng ở các đơn vị cơ sở, góp ý kiến cho nhau và tạo điều kiện để giúp đỡ nhau làm tốt trách nhiệm được giao.

Cần xác định cơ cấu tổ chức và cách làm việc của Ban cán sự cho phù hợp với nhiệm vụ nói trên. Việc thành lập các Ban cán sự không được làm yếu trách nhiệm của thủ trưởng, trái lại phải giúp cho thủ trưởng bảo đảm tốt việc quán triệt và chấp hành đường lối, chính sách của Đảng trong ngành và nâng cao hiệu lực của chế độ thủ trưởng. Ban cán sự không quyết định những công việc cụ thể thuộc công tác chỉ đạo hàng ngày của thủ trưởng.

3. Để hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Đảng, cần giải quyết một số vấn đề về hệ thống tổ chức của Đảng ở những ngành và lĩnh vực hoạt động có những đặc điểm riêng.

a) ở một số bộ, tổng cục và ty, sở có những tổ chức và đơn vị cơ sở trực thuộc hoạt động trong những hoàn cảnh đặc biệt như lưu động, phân tán ở nhiều địa phương mà không có địa điểm tập kết cố định hoặc có những hoàn cảnh đặc biệt cần giữ bí mật mà xét trong thực tế không thể giao tổ chức Đảng ở các đơn vị ấy về trực thuộc đảng bộ địa phương cấp dưới hoặc một cấp uỷ nào được, trong những trường hợp ấy, thì phải tuỳ tình hình cụ thể theo quy định của Trung ương mà giao cho Ban cán sự Đảng chỉ đạo toàn diện hoạt động của các tổ chức Đảng ở các đơn vị ấy, hoặc thành lập những đảng bộ riêng bao gồm tổ chức Đảng ở cơ quan và các tổ chức Đảng ở các đơn vị trực thuộc nói trên. Trường hợp tổ chức Đảng ở các đơn vị ấy chỉ có ít, số lượng đảng viên không nhiều thì có thể nhập vào tổ chức Đảng ở cơ quan để hoạt động.

Các đảng bộ trên đây không phải là những đảng bộ tổ chức theo hệ thống ngành dọc bao gồm tất cả các tổ chức Đảng ở các đơn vị cơ sở trực thuộc bộ hoặc ty, sở. Chỉ trong trường hợp đặc biệt và rất hạn chế, được Trung ương ra quyết định như Điều lệ Đảng quy định, mới thành lập tổ chức Đảng theo hệ thống ngành dọc.

Các tổ chức Đảng trong các đảng bộ trên đây hoạt động ở địa phương nào đều phải chịu sự chỉ đạo của cấp uỷ địa phương đó về các mặt chấp hành các chính sách và pháp luật Nhà nước được thực hiện ở địa phương, về công tác quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự xã hội ở địa phương và về quan hệ với quần chúng ở địa phương, theo một chế độ chặt chẽ do Trung ương quy định.

b) Các tổ chức cơ sở Đảng ở cơ quan trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm những đảng viên phần lớn là cán bộ do Trung ương, hoặc cấp uỷ và các cơ quan trực thuộc quản lý. Những đảng viên này lại là những công dân sống và hoạt động tại thành phố, thị xã, quận, khu phố, v.v. nơi cơ quan đóng.

Đặc điểm đó đòi hỏi các đảng bộ cơ quan một mặt phải chịu sự chỉ đạo và kiểm tra toàn diện của Trung ương (hoặc của tỉnh uỷ, thành uỷ nếu là cơ quan cấp tỉnh, thành phố) về việc quán triệt và chấp hành đường lối, chính sách của Đảng về công tác chuyên môn của cơ quan, về công tác chính trị tư tưởng, về công tác Đảng, công tác quần chúng gắn liền với công tác quản lý cán bộ trong cơ quan; mặt khác phải chịu sự chỉ đạo của cấp uỷ địa phương nơi cơ quan đóng về việc chấp hành các chính sách được thực hiện ở địa phương, về quan hệ với quần chúng ở địa phương. Việc đưa đảng viên ở cơ quan về tham gia công tác ở đường phố với yêu cầu thích đáng để sử dụng hợp lý lực lượng đảng viên hoạt động ở địa phương là việc làm cần thiết. Cần rút kinh nghiệm ở những nơi làm tốt và nghiên cứu tổ chức thích hợp để chỉ đạo tốt công tác này.

Các ban giúp Trung ương phụ trách quản lý cán bộ do Trung ương quản lý sẽ giúp Trung ương chỉ đạo công tác của các đảng bộ cơ quan gắn với công tác quản lý cán bộ; đồng thời từng đảng bộ cơ quan chịu sự chỉ đạo của cấp uỷ địa phương nơi cơ quan đóng về các mặt thuộc trách nhiệm của cấp uỷ địa phương. Về tổ chức, hệ thống tổ chức chỉ đạo các đảng bộ cơ quan cấp trung ương và tỉnh, thành phố sẽ theo quy định cụ thể của Ban Chấp hành Trung ương.

c) Tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được tổ chức theo hệ thống ngành dọc từ cơ sở trở lên.

Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực sắc bén của Nhà nước chuyên chính vô sản đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội. Trung ương Đảng ta đã lãnh đạo chặt chẽ quân đội về mọi mặt, quyết định mọi vấn đề về đường lối, nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu của quân đội, quy định những nguyên tắc, chế độ lãnh đạo, hình thức cơ cấu tổ chức Đảng, chế độ, tổ chức công tác chính trị và công tác cán bộ trong quân đội, làm cho quân đội ta luôn luôn là quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân, của dân tộc có truyền thống cách mạng tốt đẹp, đã cùng với nhân dân cả nước giành toàn thắng trong Cách mạng Tháng Tám và trong hai cuộc kháng chiến lâu dài chống hai đế quốc Pháp và Mỹ.

Trong giai đoạn mới của cách mạng, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tăng cường sức mạnh của các lực lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng của toàn Đảng và toàn dân ta và là một chức năng cơ bản của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ mới, cần phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Trung ương Đảng đối với quân đội; đảm bảo cho mọi nhiệm vụ của lực lượng vũ trang cũng như mọi chủ trương và biện pháp quan trọng được Bộ Chính trị quyết định; tăng cường trách nhiệm chỉ đạo và kiểm tra của Ban Bí thư đối với các tổ chức Đảng trong quân đội; tăng cường chế độ lãnh đạo của Đảng và chế độ công tác chính trị trong quân đội.

Theo hướng đó, phải nghiên cứu để cải tiến sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, kiện toàn tổ chức của Đảng và chế độ tổ chức công tác chính trị trong quân đội cho phù hợp với sự phát triển về tổ chức và nhiệm vụ mới của quân đội.

Quân uỷ Trung ương do Ban Chấp hành Trung ương chỉ định, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của Bộ Chính trị và Ban Bí thư, có nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo mọi mặt công tác của Đảng trong quân đội theo quy định của Trung ương Đảng.

Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam phụ trách công tác Đảng - công tác chính trị trong quân đội - dưới sự lãnh đạo của Quân uỷ Trung ương. Các Ban Tổ chức, Tuyên huấn và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương có trách nhiệm giúp Trung ương hướng dẫn và kiểm tra công tác xây dựng Đảng trong quân đội.

Tổ chức cơ sở của Đảng trong quân đội có thể lập ở đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn và các đơn vị tương đương khác theo yêu cầu xây dựng quân đội nhân dân chính quy và hiện đại.

Đảng uỷ các đơn vị quân đội đóng ở địa phương nào đều phải liên hệ chặt chẽ với cấp uỷ địa phương đó và lãnh đạo đơn vị chấp hành tốt các chủ trương, chính sách được thực hiện ở địa phương theo quy định cụ thể của Ban Chấp hành Trung ương.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Quân uỷ Trung ương và cách tổ chức của các cấp uỷ Đảng trong quân đội sẽ do Ban Chấp hành Trung ương quy định cụ thể cho phù hợp với tình hình tổ chức và nhiệm vụ của quân đội trong thời bình cũng như trong thời chiến.

Sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng đối với đơn vị quân đội là nhằm làm cho mọi đường lối, chủ trương, chính sách chung của Đảng, đường lối, nhiệm vụ quân sự của Đảng được quán triệt trong đơn vị, làm cho mọi nghị quyết của cấp uỷ, mệnh lệnh, chỉ thị về chính trị, quân sự, kinh tế và mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho đơn vị được triệt để chấp hành, làm cho toàn quân đoàn kết xung quanh Trung ương Đảng, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân, sẵn sàng hy sinh chiến đấu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, lao động quên mình, xây dựng đất nước giàu mạnh, tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết giữa quân đội với nhân dân, đề cao ý thức kỷ luật tự giác nghiêm minh, động viên cán bộ, chiến sĩ ra sức học tập chính trị, quân sự, học tập kiến thức sản xuất, xây dựng kinh tế, không ngừng nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ về mọi mặt, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ.

Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức chiến đấu của lực lượng vũ trang, các tổ chức Đảng trong quân đội phải thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ vững nguyên tắc lãnh đạo tập thể, kết hợp giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách.

Trong điều kiện quân đội ta đã trưởng thành, cán bộ quân đội ta đã trưởng thành, cần thực hiện thật tốt chế độ lãnh đạo tập thể của cấp uỷ Đảng đi đôi với việc thực hiện chế độ thủ trưởng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương. Việc này cần được chuẩn bị chu đáo cả về tư tưởng và tổ chức, giáo dục kỹ về trách nhiệm mới của cán bộ và bồi dưỡng cho cán bộ cả về quân sự, chính trị, hậu cần, văn hoá, khoa học, kỹ thuật.

4. Cải tiến phương pháp lãnh đạo và tác phong công tác là một bộ phận không thể tách rời khỏi việc kiện toàn bộ máy tổ chức của Đảng, một yêu cầu bức thiết để nâng cao năng lực lãnh đạo và cải tiến tổ chức chỉ đạo thực hiện của Đảng, phát huy hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.

Từ những bài học kinh nghiệm đã qua và những yêu cầu của nhiệm vụ mới, chúng ta phải ra sức khắc phục bệnh thủ công nghiệp và tác phong quan liêu, xây dựng phương pháp và tác phong công tác cách mạng và khoa học của Đảng. Phương pháp và tác phong ấy, qua những kinh nghiệm tốt của Đảng ta, có thể khái quát trên những nét cơ bản sau đây:

Một là, lãnh đạo phải toàn diện, phải phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức Đảng, chính quyền và quần chúng; từng thời gian phải tập trung sức chỉ đạo dứt điểm để hoàn thành đúng thời hạn những nhiệm vụ và biện pháp mấu chốt. Phải quyết định công việc trên cơ sở nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, nắm quy luật phát triển của sự vật, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn; làm việc phải có điều tra, nghiên cứu, có chương trình, kế hoạch. Chống chủ quan và tác phong tuỳ tiện, phân tán.

Hai là, bảo đảm tập thể và dân chủ thật sự, đồng thời có phân công phân nhiệm cho cá nhân một cách rõ ràng và có kỷ luật chấp hành nghị quyết một cách nghiêm chỉnh. Chống tác phong gia trưởng, độc đoán, tự do chủ nghĩa, vô kỷ luật.

Ba là, thường xuyên kiểm tra, đi sát giúp đỡ thiết thực cấp dưới và cơ sở, chỉ đạo cụ thể tại chỗ, chỉ đạo riêng để lãnh đạo chung, làm thử những vấn đề quan trọng và mới để rút kinh nghiệm. Chống tác phong quan liêu, giấy tờ, đại khái, phô trương, hình thức.

Bốn là, coi trọng xây dựng và sử dụng tổ chức, dựa vào tổ chức để phát động cán bộ, đảng viên và quần chúng tiến hành mọi công tác. Tránh xáo trộn bộ máy, chỉ sử dụng cá nhân, không dựa vào tổ chức.

Năm là, coi trọng sơ kết, tổng kết công tác, thực hiện tự phê bình và phê bình, thường xuyên nâng cao năng lực và trình độ của mình và của cán bộ, đảng viên, không ngừng đưa công tác tiến lên những bước mới. Chống sự vụ, chủ quan, thoả mãn.

Năm phương thức công tác trên đây là một thể hữu cơ của phương pháp lãnh đạo và tác phong đại công nghiệp của giai cấp công nhân; nó phải thể hiện quan điểm, tính chiến đấu, khả năng và tình cảm cách mạng của giai cấp công nhân trong tổ chức thực tiễn; nó mang đầy đủ tính khoa học, tính chiến đấu, tính quần chúng trong phương pháp lãnh đạo và tác phong công tác của Đảng ta.

Phải thực hiện thống nhất phương pháp lãnh đạo và tác phong ấy từ trên xuống dưới, cụ thể hoá và vận dụng nó một cách linh hoạt cho phù hợp với vị trí, nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành. Đó là một cuộc đấu tranh gay gắt với thói quen và nếp xấu của tác phong quan liêu và thủ công nghiệp, của bệnh sự vụ, lối làm việc phân tán, tản mạn, tự do tuỳ tiện của sản xuất nhỏ. Cuộc đấu tranh ấy đòi hỏi sự phấn đấu rất cao của mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức của Đảng và Nhà nước; đồng thời đòi hỏi phải có quy chế chặt chẽ về mặt tổ chức và tạo điều kiện cơ sở vật chất cần thiết để hỗ trợ.

Theo hướng đó, các tổ chức của Đảng và Nhà nước cần xây dựng và thực hiện tốt các chế độ công tác: chế độ hội nghị, chế độ thông tin, chế độ báo cáo và xin chỉ thị, chế độ chỉ đạo riêng và kiểm tra việc thi hành nghị quyết, chế độ đi xuống dưới và cơ sở, chế độ tổng kết kinh nghiệm công tác, tự phê bình và phê bình.

Cùng với đà phát triển của nền kinh tế quốc dân, của khoa học hiện đại, Đảng và Nhà nước phải quan tâm từng bước tăng cường điều kiện và phương tiện công tác, áp dụng các phương tiện hiện đại trong công tác phục vụ lãnh đạo và xây dựng bộ máy, trước hết là trong việc xây dựng hệ thống thông tin, tổ chức phương tiện liên lạc, và tăng cường các phương tiện nghiên cứu thích ứng với hoàn cảnh lãnh đạo và quản lý Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong cả nước thống nhất.

5. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là cánh tay đắc lực và đội hậu bị tin cậy của Đảng. Đoàn là tổ chức gần Đảng nhất và là trường học cộng sản chủ nghĩa của thanh niên. Ngày nay, khi tên Đảng đã được đổi là Đảng Cộng sản Việt Nam thì việc đổi tên Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh thành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là phù hợp với nguyện vọng chính đáng của thế hệ trẻ.

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, thừa kế được truyền thống đấu tranh anh dũng của Đảng và của dân tộc, của các Đoàn thanh niên tiền bối và các phong trào Ba sẵn sàng, Năm xung phong, v.v., Đoàn đã phát huy tốt lực lượng thanh niên đông đảo trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần động viên, tổ chức thanh niên lập nên biết bao kỳ tích mãi mãi sẽ được ghi vào lịch sử đấu tranh anh dũng của Đảng và của dân tộc.

Song những thiếu sót trong công tác lãnh đạo của nhiều tổ chức Đảng và trong công tác của Đoàn, nhất là trong việc xây dựng Đoàn thành đội hậu bị của Đảng, đang làm cho không ít tổ chức của Đoàn chưa phát huy được đầy đủ vai trò của Đoàn là trường học cộng sản chủ nghĩa của thanh niên, là lực lượng xung kích cách mạng thực hiện có hiệu quả mọi nhiệm vụ và đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Ngày nay, thế hệ thanh niên mới đang đứng trước những nhiệm vụ hết sức nặng nề của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp vĩ đại ấy, và những hậu quả nặng nề về nhiều mặt do chiến tranh để lại trên đất nước, đặc biệt là hậu quả của chế độ thực dân kiểu mới ở các địa phương phía Nam, đang đặt ra trước thanh niên biết bao vấn đề phức tạp, khó khăn và mới mẻ nảy sinh ra hàng ngày trong lao động, học tập, chiến đấu và đời sống, đòi hỏi mỗi thanh niên, trước hết là mỗi đoàn viên, phải đem ý chí phấn đấu, hoài bão và năng lực tổ chức của mình để góp phần giải quyết.

Là đội hậu bị của Đảng, Đoàn có trách nhiệm trực tiếp và trọng yếu đối với công tác xây dựng Đảng, đối với việc xây dựng thế hệ cách mạng cho đời sau. Chất lượng của Đoàn, của đoàn viên có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của đảng viên, đến việc xây dựng đội ngũ của Đảng. Đặc biệt ở các địa phương phía Nam, nếu như yêu cầu xây dựng cơ sở đảng vững mạnh là bức thiết để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thì việc xây dựng Đoàn vững mạnh và rộng khắp lại là vấn đề bức thiết trước hết để tạo điều kiện cho công tác nói trên.

Tất cả những điều đó đòi hỏi phải ra sức củng cố, xây dựng và phát triển Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người tiêu biểu cho quyền làm chủ của thanh niên, người được Đảng giao cho trách nhiệm giúp Đảng chỉ đạo hoạt động của Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh và tổ chức Nhi đồng Hồ Chí Minh, lực lượng hậu bị trẻ tuổi nhất của Đoàn và của Đảng.

Các tổ chức của Đảng cần giúp cho các tổ chức của Đoàn nhận rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Đoàn trên mọi lĩnh vực, từ đó mà phát huy truyền thống của Đoàn, nâng cao chất lượng sinh hoạt và hoạt động của Đoàn. Cần giúp cho Đoàn tăng cường việc giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối, chính sách của Đảng cho đoàn viên, thanh niên, chuyển hướng tổ chức và phương pháp công tác của Đoàn cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ mới của Đoàn trong các lực lượng vũ trang, trong các xí nghiệp, ở nông thôn, trong các trường học, v.v., tổ chức tốt các đội thanh niên xung kích trên các mặt trận kinh tế, văn hoá, xã hội; phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của thanh niên.

Trong công tác xây dựng Đoàn, cần nâng cao tư cách đoàn viên với tiêu chuẩn chặt chẽ. Qua phong trào quần chúng, Đoàn cần kết nạp những thanh niên ưu tú có giác ngộ vào Đoàn, đề phòng những phần tử xấu tìm cách vào Đoàn, vào các Ban chấp hành của Đoàn; kịp thời thanh lọc những phần tử đó nếu có. Phải đặc biệt quan tâm tới việc đào tạo đội ngũ cán bộ của Đoàn; lựa chọn những anh hùng, chiến sĩ thi đua và những cán bộ có kiến thức và năng lực vận động quần chúng để đưa vào Ban chấp hành các cấp của Đoàn. Các ban của Đảng, trước hết là các Ban tổ chức, tuyên huấn, dân vận, phải giúp cấp uỷ làm tốt các việc đó.

Các tổ chức của Đoàn phải phấn đấu để nâng cao chất lượng hoạt động của mình, tăng cường công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức trong nội bộ, phát triển các hình thức tổ chức và hoạt động rộng rãi để tập hợp đông đảo thanh niên xung quanh Đoàn, mở rộng mặt trận thanh niên. Đoàn phải kịp thời đề đạt với tổ chức Đảng những vấn đề trọng yếu về công tác Đoàn và phong trào thanh niên, đưa phong trào thanh niên tiến lên mạnh mẽ, bền bỉ và rộng khắp. Đoàn phải tích cực chủ động trong việc tham gia xây dựng Đảng, bồi dưỡng, lựa chọn, giới thiệu những đoàn viên ưu tú bổ sung vào đội ngũ của Đảng, đào tạo những cốt cán của Đoàn thành cán bộ để cung cấp cho Đảng và cho các yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Các cơ quan nhà nước, các ngành, các cấp cần có kế hoạch chăm sóc thế hệ trẻ về mọi mặt, tạo điều kiện cho Đoàn và phong trào thanh niên phát huy đầy đủ vai trò của mình về mọi mặt, nhất là những vấn đề có liên quan đến lợi ích và quyền làm chủ của thanh niên.

V

Ra sức nâng cao chất lượng, xây dựng và kiện toàn các chi bộ, Đảng bộ cơ sở

1. Nâng cao chất lượng của chi bộ và đảng bộ cơ sở là một nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng

Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội được tiến hành trên quy mô cả nước là cuộc cách mạng triệt để và sâu sắc nhất trong lịch sử của nhân dân ta. Trong sự nghiệp ấy, sức mạnh, trí sáng tạo, vai trò làm chủ tập thể của quần chúng, đời sống, tâm tư, tình cảm và những nguyện vọng thiết thực nhất của quần chúng gắn liền với sự lãnh đạo và sức sống mãnh liệt của Đảng mà trực tiếp là của các chi bộ, đảng bộ cơ sở. Mỗi việc làm đúng hay sai, tốt hay không tốt của chi bộ, đảng bộ cơ sở đều ảnh hưởng trực tiếp và tức thời đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đều tác động mạnh mẽ đến lòng tin của quần chúng đối với Đảng, đối với cách mạng.

Phải từ bài học cơ bản đã được tổng kết về xây dựng Đảng mà rút ra những bài học kinh nghiệm, những việc mấu chốt để không ngừng nâng cao chất lượng của tổ chức cơ sở Đảng một cách toàn diện trong giai đoạn mới.

a) Trước hết các chi bộ, đảng bộ cơ sở phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, nắm vững tình hình, đặc điểm của đơn vị cơ sở để xác định vị trí, nhiệm vụ chính trị của mình và của đơn vị, trong từng thời gian đề ra được những nhiệm vụ, phương hướng, mục tiêu, biện pháp phấn đấu chính xác, bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng.

Trong giai đoạn mới, những nhiệm vụ, mục tiêu ấy là nội dung cơ bản của kế hoạch nhà nước và những chủ trương, biện pháp phấn đấu tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng. Toàn bộ các mục tiêu, biện pháp ấy cuối cùng phải đem lại hiệu quả thiết thực trong sản xuất và công tác, trong việc cải tạo, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất, trong nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự xã hội và tổ chức đời sống của quần chúng.

b) Các chi bộ, đảng bộ cơ sở phải phát huy mạnh mẽ và thật sự bảo đảm quyền làm chủ tập thể của quần chúng lao động, kiện toàn tổ chức và phối hợp hoạt động của chính quyền, của các đoàn thể quần chúng, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chuyên chính vô sản ở cơ sở dưới sự lãnh đạo của chi uỷ, đảng uỷ.

Sự lãnh đạo của chi bộ và đảng bộ phải nhằm mục tiêu thúc đẩy mạnh mẽ phong trào quần chúng tiến hành ba cuộc cách mạng, bảo đảm hoàn thành các nhiệm vụ của đơn vị cơ sở. Và cũng chỉ có trong các phong trào ấy mới xây dựng được chi bộ và đảng bộ cơ sở thành hạt nhân lãnh đạo và pháo đài chiến đấu của Đảng ở cơ sở.

Để làm tròn trách nhiệm đó, chi bộ, đảng bộ cơ sở nhất thiết phải xây dựng được chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động về chính trị, về kinh tế (cả trong sản xuất và phân phối), về văn hoá và xã hội; phải biết giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng với chính quyền và quần chúng, biết phát huy quyền lực của cơ quan chính quyền, hiệu lực của cơ quan quản lý và tác dụng giáo dục, động viên quần chúng của các đoàn thể trong việc tổ chức thực hiện những nhiệm vụ cụ thể.

c) Phải nắm chắc khâu trung tâm của công tác củng cố tổ chức cơ sở Đảng là củng cố chi bộ, thường xuyên giữ vững chế độ và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, làm cho chi bộ, tổ chức tế bào đầu tiên của Đảng, thật sự là hạt nhân lãnh đạo chính trị, là đơn vị chiến đấu ở cơ sở và là trường học giáo dục, rèn luyện đảng viên.

Các chi bộ phải thảo luận kỹ đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng, nhiệm vụ của địa phương và đơn vị, thảo luận kế hoạch, biện pháp để tổ chức thực hiện các nhiệm vụ ấy, thực hiện tự phê bình và phê bình, đánh giá tình hình chung và kết quả công tác.

Mọi cán bộ, đảng viên phải nhận rõ rằng hễ nơi nào, lúc nào mà sinh hoạt của chi bộ bị buông lỏng, rời rạc, hoặc không có nội dung chính trị, tư tưởng cụ thể, thiết thực thì nơi đó, lúc đó bắt đầu đã có nguy cơ đi chệch đường lối, chính sách của Đảng, hạ thấp vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên, làm cho kỷ luật của Đảng bị lỏng lẻo, các biểu hiện tiêu cực nảy sinh và phát triển, sự gắn bó giữa Đảng và quần chúng bị suy yếu.

Sinh hoạt chi bộ bao gồm cả sinh hoạt của tổ Đảng và hoạt động của đảng viên. Tổ Đảng chẳng những là nơi hằng ngày nắm sát tư tưởng của quần chúng, kịp thời động viên, lãnh đạo đảng viên và quần chúng giải quyết những khó khăn trong sản xuất, công tác, đời sống, mà còn là nơi kiểm tra thường xuyên tư cách và công tác của đảng viên, nơi trao đổi tâm tư, tình cảm của đảng viên.

Phân công đảng viên và kiểm tra đảng viên thực hiện nhiệm vụ là biện pháp quan trọng để tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng, để giữ mối liên hệ giữa đảng viên và quần chúng, qua đó mà nâng cao chất lượng đảng viên và chất lượng lãnh đạo tập thể của chi bộ. Mỗi đảng viên (trừ một số ít đồng chí già yếu, ốm đau), ngoài công tác chuyên môn, phải làm công tác Đảng, công tác quần chúng, công tác xã hội do chi bộ phân công.

d) Phải bố trí, bồi dưỡng tốt đội ngũ cốt cán, làm cho đội ngũ ấy thật sự vững vàng, gương mẫu, có năng lực lãnh đạo kinh tế, văn hoá, chuyên môn, v.v. và biết giữ gìn đoàn kết nội bộ.

Cốt cán tốt từ trong đội ngũ đảng viên tốt mà ra. Ngược lại, có đội ngũ cốt cán tốt thì mới có điều kiện để thúc đẩy việc nâng cao chất lượng đảng viên, phát huy trí tuệ tập thể của đảng viên và của quần chúng, bảo đảm cho việc xác định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị thu được kết quả tốt.

Bởi vậy việc bồi dưỡng, bố trí đội ngũ cốt cán ở cơ sở, phải được coi là biện pháp hết sức quan trọng để củng cố cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng chi bộ, đảng bộ cơ sở.

đ) Phải vừa phát huy tính chủ động và sáng tạo của chi bộ, đảng bộ cơ sở, vừa tăng cường sự chỉ đạo cụ thể của cấp trên

Các chi bộ và đảng bộ cơ sở hoạt động trong mối liên hệ thường xuyên với quần chúng và với thực tiễn, phải chủ động giải quyết những vấn đề được đặt ra hàng ngày, hàng giờ trong sản xuất, công tác và đời sống của quần chúng, nên thường là nơi sáng tạo những kinh nghiệm quý báu.

Song tính chủ động và sáng tạo ấy cũng chỉ có thể được phát huy theo phương hướng đúng đắn trên cơ sở quán triệt đường lối, chính sách của Đảng và được sự chỉ đạo chặt chẽ của cấp trên. Các cấp uỷ Đảng và cơ quan nhà nước cấp trên trực tiếp, nhất là ở cấp huyện và tương đương, phải coi trọng việc nghiên cứu để tổng kết và phát huy những kinh nghiệm sáng tạo của cơ sở, giúp đỡ cơ sở giải quyết những khó khăn trong công tác quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, quản lý đời sống của quần chúng. Trong công tác, sinh hoạt và tác phong của mình, cấp trên phải thật sự gương mẫu.

2. Những yêu cầu và biện pháp trọng yếu trên đây là những bài học kinh nghiệm cơ bản và thiết thực để xây dựng tổ chức cơ sở Đảng. Muốn đưa các chi bộ và đảng bộ cơ sở, dù là "trung bình" hay "yếu kém", trở thành những chi bộ và đảng bộ tốt, phải căn cứ vào những bài học kinh nghiệm ấy mà xem xét chỗ mạnh, chỗ yếu của từng cơ sở và tìm ra những nguyên nhân chủ yếu để giải quyết.

Sự yếu kém của nhiều tổ chức cơ sở Đảng có nguyên nhân về những thiếu sót của bản thân cơ sở hoặc về sự chỉ đạo của cấp trên, có nguyên nhân về những thiếu sót trong chỉ đạo công tác quần chúng; và trong điều kiện Đảng nắm chính quyền thì điều không kém phần quan trọng và nhiều khi có tính chất quyết định trước hết, lại còn do những thiếu sót của cấp trên trong việc xây dựng và chỉ đạo các chính sách, chế độ, các biện pháp về quản lý được thực hiện ở cơ sở. Bởi vậy phải quan tâm xem xét một cách toàn diện để giải quyết tốt các nguyên nhân đó.

Trong những điều kiện mới, Đảng và Nhà nước ta đã và sẽ phát động các phong trào tổ chức lại sản xuất, cải tiến công tác quản lý trên quy mô rộng lớn, gắn liền với việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Phải củng cố tốt các chi bộ và đảng bộ cơ sở để phát động quần chúng đẩy mạnh các phong trào rộng lớn đó và qua các phong trào ấy mà củng cố và xây dựng tổ chức cơ sở Đảng.

Xây dựng và củng cố các chi bộ và đảng bộ cơ sở vững mạnh, ăn sâu, bám chắc trong quần chúng, có khả năng lãnh đạo ba cuộc cách mạng, là nhiệm vụ cấp thiết của tất cả các đảng bộ. Điều đó lại càng cấp thiết hơn đối với các đảng bộ ở các địa phương phía Nam, nơi mà trải qua chiến đấu ác liệt với quân thù, cơ sở Đảng bị tổn thất nặng nề, ngày nay lại phải chuyển sang đảm nhiệm những nhiệm vụ hoàn toàn mới mẻ trong khi trình độ văn hoá của số đông đảng viên còn thấp, việc giáo dục lý luận cơ bản về chủ nghĩa xã hội, việc bồi dưỡng về kiến thức cải tạo quan hệ sản xuất, quản lý kinh tế, tổ chức đời sống quần chúng còn chưa tiến hành được bao nhiêu.

Phải thấy hết tính cấp thiết của việc xây dựng cơ sở Đảng ở những nơi còn quá mỏng hoặc chưa có; đồng thời, phải thấy rõ tính cấp thiết của việc củng cố các chi bộ, đảng bộ cơ sở có đông đảng viên, nhưng chất lượng thấp, thậm chí có những vấn đề phức tạp.

Vấn đề đặt ra trước hết là phải có biện pháp tích cực nhất nhằm xây dựng ở cơ sở được một đội ngũ cốt cán, thật sự vững vàng, vừa có phẩm chất vừa có năng lực, để từ đó xây dựng tổ chức và phát động các phong trào quần chúng. Đó không phải chỉ là trách nhiệm của các đảng bộ ở các địa phương phía Nam mà là trách nhiệm chung của toàn Đảng, của các cấp, các ngành trong cả nước.

3. Từ những bài học kinh nghiệm đã qua và những yêu cầu của nhiệm vụ lãnh đạo kinh tế, đời sống trong thời kỳ mới, cần xác định rõ hơn nữa nhiệm vụ, chức năng của các tổ chức cơ sở Đảng và chuyển hướng cơ cấu của tổ chức cơ sở Đảng cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ mới.

a) Theo yêu cầu của phương hướng đó, dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đã bổ sung, sắp xếp lại những nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng.

Bản dự thảo quy định toàn diện những nhiệm vụ chính trị và tổ chức mà tổ chức cơ sở Đảng phải đảm nhiệm và nhấn mạnh: "Các tổ chức cơ sở Đảng phải đặt trọng tâm công tác lãnh đạo của mình vào việc hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước. Phải không ngừng củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất (nơi chưa tiến hành), tăng cường công tác quản lý, củng cố kỷ luật lao động, tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật và cải tiến kỹ thuật, đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hoá, nhằm mục tiêu tăng năng suất lao động, hiệu suất công tác, hiệu quả chiến đấu, không ngừng chăm lo đời sống tinh thần và vật chất và nâng cao trình độ của quần chúng, lãnh đạo quần chúng làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước".

Do tính chất công tác, quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ sở có khác nhau, nên chức năng lãnh đạo của tổ chức Đảng ở từng loại cơ sở có những đặc điểm khác nhau.

Các tổ chức cơ sở Đảng nói chung phải lãnh đạo toàn diện các công tác ở đơn vị và phải rất coi trọng công tác kiểm tra, coi đó là một nội dung quan trọng của sự lãnh đạo của tổ chức Đảng.

Các đơn vị cơ sở sản xuất, kinh doanh, giáo dục, y tế theo chế độ thủ trưởng, chịu sự chỉ đạo của cơ quan Nhà nước cấp trên về nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh hoặc công tác chuyên môn. Thủ trưởng của đơn vị, do cơ quan của Đảng và Nhà nước cấp trên cử ra, chịu trách nhiệm trước cấp trên về hoạt động của đơn vị mình. Tổ chức cơ sở Đảng ở đơn vị có trách nhiệm lãnh đạo và kiểm tra mọi mặt hoạt động của đơn vị và chịu trách nhiệm về công tác của mình trước tổ chức Đảng cấp trên. Sự lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các loại cơ sở ấy phải nhằm làm cho đường lối, chính sách của Đảng được quán triệt trong mọi hoạt động của đơn vị, phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng, thực hiện đúng đắn chế độ công nhân, viên chức tham gia quản lý, giáo dục và động viên quần chúng chấp hành đúng các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, hoàn thành kế hoạch Nhà nước và các nhiệm vụ của đơn vị.

Đối với các nhiệm vụ, chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước do cấp trên quyết định, thủ trưởng chuẩn bị, báo cáo để đảng uỷ cho ý kiến trước khi đưa lên cấp trên.

Đối với những vấn đề thuộc quyền quyết định của đơn vị, thủ trưởng sử dụng bộ máy chuyên môn nghiên cứu, chuẩn bị đề án để đảng uỷ thảo luận và quyết định những chủ trương, biện pháp lớn. Những quyết định của đảng uỷ phải phù hợp với chỉ thị của cơ quan quản lý cấp trên. Nếu có ý kiến khác thì đề đạt ý kiến lên cấp trên.

Đảng uỷ không quyết định các vấn đề thuộc phạm vi chỉ huy sản xuất, kinh doanh và quản lý công việc hàng ngày thuộc quyền của thủ trưởng. Các quyết định, mệnh lệnh của thủ trưởng phải được mọi đảng viên và quần chúng trong đơn vị chấp hành.

Trong quá trình thủ trưởng chỉ đạo thực hiện kế hoạch, đảng uỷ dựa vào cán bộ, đảng viên và các tổ chức quần chúng để kiểm tra hoạt động của thủ trưởng và bộ máy quản lý, bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng và kế hoạch nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh. Ngược lại, thủ trưởng đơn vị phải tôn trọng đầy đủ sự lãnh đạo của đảng uỷ theo chức trách của đảng uỷ và phải biết dựa vào quần chúng, tôn trọng và phát huy vai trò của các đoàn thể quần chúng.

ở các hợp tác xã, tổ chức cơ sở Đảng là người đại diện lập trường của giai cấp công nhân, phải nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng và phát huy quyền làm chủ tập thể của xã viên, lãnh đạo Đại hội xã viên quyết định phương hướng, nhiệm vụ sản xuất và lãnh đạo tốt công tác quản lý của hợp tác xã, kết hợp đúng đắn lợi ích chung của Nhà nước với lợi ích của tập thể và của xã viên. Nghị quyết của tổ chức Đảng phải được đảng viên trong ban quản trị hợp tác xã và trong Đại hội xã viên, bằng công tác vận động, thuyết phục của mình, biến thành quyết định của xã viên; không được gò ép, mệnh lệnh. ở các xã thuộc các tỉnh phía Nam, trong khi chưa tổ chức hợp tác xã, tổ chức Đảng phải thông qua tổ chức chính quyền, nông hội và các tổ chức vần công đổi công, các đoàn thể quần chúng để lãnh đạo các mặt công tác và vận động quần chúng tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp.

Khác với quyết định của thủ trưởng ở các đơn vị cơ sở sản xuất, kinh doanh, các quyết định của thủ trưởng các cơ quan không phải chỉ được cán bộ, công nhân viên trong đơn vị, cơ quan, thực hiện mà còn có hiệu lực chỉ đạo cho các cấp, các ngành và đơn vị cơ sở cấp dưới thực hiện. Đặc điểm đó của công tác của các cơ quan không cho phép tổ chức cơ sở Đảng ở cơ quan quyết định nhiệm vụ, chủ trương, biện pháp tiến hành công tác chuyên môn của cơ quan. Tuy nhiên, để phát huy trí tuệ của đảng viên trong cơ quan, nâng cao tính chiến đấu của chi bộ, đảng bộ cơ quan, dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị Đại hội nâng cao trách nhiệm của đảng bộ cơ quan để cho các đảng uỷ, chi bộ cơ quan có trách nhiệm góp ý kiến vào việc xây dựng kế hoạch công tác hàng năm của cơ quan, và việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong cơ quan, tăng cường kỷ luật công tác, động viên cải tiến công tác của cơ quan, tích cực đấu tranh chống quan liêu. Tổ chức cơ sở Đảng ở cơ quan phải giám sát tình hình đảng viên trong cơ quan, kể cả người phụ trách thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, chấp hành pháp luật Nhà nước trong cơ quan, những ai làm sai trái thì kịp thời phát hiện để góp ý kiến với người phụ trách và báo cáo những vấn đề cần thiết với cơ quan lãnh đạo của Đảng cấp trên. Các đảng uỷ, chi uỷ ở cơ quan có trách nhiệm tham gia ý kiến vào việc lựa chọn, cất nhắc cán bộ trong cơ quan theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

b) Để bảo đảm cho sinh hoạt và hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng được tiến hành thuận lợi, dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị bổ sung một số điểm về tổ chức của tổ chức cơ sở Đảng.

Trên quan điểm Đảng là tổ chức lãnh đạo và chiến đấu, tổ chức cơ sở Đảng phải ăn khớp với đơn vị cơ sở hành chính, cơ sở sản xuất hoặc công tác; Điều lệ Đảng đã khẳng định tổ chức Đảng ở đơn vị cơ sở là tổ chức cơ sở Đảng. Trong tình hình trước đây, nhất là khi Đảng hoạt động bí mật, nhiều tổ chức cơ sở trong xã hội còn nhỏ bé, số đảng viên chưa nhiều, thì hầu hết ở mỗi đơn vị cơ sở chỉ thành lập một chi bộ, ở đó chi bộ là tổ chức cơ sở của Đảng. Sau khi Đảng có chính quyền, nhất là trong quá trình phát triển của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những đơn vị cơ sở quy mô nhỏ, mà ở đó thường chỉ thành lập một chi bộ, còn có rất nhiều đơn vị cơ sở quy mô lớn, số lượng đảng viên đông, nếu ở đó chỉ thành lập một chi bộ thì sinh hoạt và hoạt động của chi bộ có khó khăn, công tác lãnh đạo và công tác tổ chức và xây dựng Đảng không thể tiến hành tốt được. Vì vậy, ở những đơn vị cơ sở đó tổ chức cơ sở Đảng phải bao gồm nhiều chi bộ.

Điều lệ Đảng do Đại hội lần thứ III thông qua lấy mức 50 đảng viên để chia tổ chức cơ sở Đảng có đông đảng viên ra làm nhiều chi bộ; qua kinh nghiệm thực tế thì với điều kiện được tổ chức ăn khớp với đơn vị sản xuất, chiến đấu, công tác, tổ chức chi bộ nói chung chỉ nên gồm từ 3 đến 30 đảng viên. Ngay trong một đơn vị cơ sở lớn, tổ chức Đảng ở những bộ phận như phân xưởng, cục, hợp tác xã ở các xã có nhiều hợp tác xã, phường,v.v. nếu có quá 30 đảng viên và được cấp trên đồng ý, cũng có thể được chia ra làm nhiều chi bộ. Tổ chức Đảng ở bộ phận họp Đại hội đảng viên để cử ra đảng uỷ bộ phận (gọi tắt là đảng uỷ phân xưởng, cục, hợp tác xã, v.v.) thay cho hình thức liên chi uỷ trước đây để có đủ quyền hạn của một cấp uỷ Đảng.

Những quy định trên đây về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức cơ sở Đảng sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, nâng cao chất lượng đảng viên trong giai đoạn mới.

VI

Xác định đúng và nâng cao tư cách đảng viên, bảo đảm chất lượng đội ngũ của Đảng

1. Trong vấn đề đảng viên, vấn đề quan trọng trước hết là phải xác định đúng đắn và bảo đảm chặt chẽ tư cách đảng viên, khắc phục những biểu hiện lệch lạc khi hữu, khi "tả" mà chủ yếu là những lệch lạc hữu thường bắt nguồn từ những nhận thức không đầy đủ về tư cách đảng viên.

Đảng ta đòi hỏi mỗi đảng viên phải xứng đáng là chiến sĩ tiên phong cách mạng của giai cấp công nhân. Trên quan điểm đó, phải xác định rõ tư cách đảng viên. Đảng viên, như Hồ Chủ tịch đã căn dặn, phải vừa là "người lãnh đạo", vừa là "người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".

a) Trước hết, đảng viên phải là người có giác ngộ lý tưởng cộng sản, tuyệt đối trung thành với cách mạng, tự nguyện suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Điều đó đòi hỏi đảng viên phải nhất trí với đường lối của Đảng, quyết tâm phấn đấu với tinh thần trách nhiệm cao nhất để thực hiện đường lối, chính sách, các nghị quyết của Đảng và mọi nhiệm vụ Đảng giao cho.

Trong giai đoạn mới, sự giác ngộ và tinh thần cách mạng đó phải được thể hiện ở ý chí phấn đấu, ở hành động gương mẫu, sự dũng cảm và thái độ cộng sản chủ nghĩa trong lao động sản xuất, trong công tác, trong đấu tranh để cải tạo xã hội, cải tạo thiên nhiên. Trên vị trí chiến đấu của mình, đảng viên phải gương mẫu về mọi mặt; sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, tìm cách tăng năng suất lao động, tăng hiệu suất công tác, hiệu quả chiến đấu, tích cực đấu tranh để bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, của nhân dân, chống lãng phí, tham ô; phải tích cực tham gia củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội và góp phần xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh. Những nơi chưa tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa thì đảng viên phải là người đi đầu trong phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa.

b) Đảng viên phải có hiểu biết nhất định về lý luận Mác - Lênin, nắm được đường lối, chính sách của Đảng, có năng lực đảm nhiệm công việc được giao, có năng lực lãnh đạo quần chúng và góp phần vào công tác lãnh đạo của tổ chức Đảng. Vì vậy phải không ngừng học tập và tích cực phấn đấu và rèn luyện để nâng cao giác ngộ chính trị, đạo đức cách mạng, kiến thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, về ba cuộc cách mạng, về quản lý kinh tế, khoa học, kỹ thuật, quản lý xã hội và nâng cao năng lực công tác của mình.

Học tập là một vấn đề thuộc tính đảng của đảng viên. Đảng viên phải vừa có phẩm chất, đạo đức tốt, vừa phải có trình độ và năng lực. Điều đó đòi hỏi phải nỗ lực phấn đấu cao để đáp ứng những yêu cầu của nhiệm vụ mới không ngừng phát triển.

c) Đảng viên phải tôn trọng và ra sức góp phần xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, tổ chức quần chúng

Điều đó đòi hỏi mỗi đảng viên phải xác định rõ quan điểm hết lòng hết sức phục vụ quần chúng, hy sinh hơn quần chúng, biết đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân, của tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Tuyệt đối không được có đặc quyền đặc lợi, không được có thái độ cửa quyền, mệnh lệnh, chuyên quyền, độc đoán, vi phạm lợi ích của quần chúng, trái lại phải chăm lo đời sống và phát huy tính sáng tạo và quyền làm chủ của quần chúng, chăm lo xây dựng chính quyền và đoàn thể quần chúng, nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật Nhà nước, kỷ luật của đoàn thể quần chúng mà mình tham gia.

d) Đảng viên phải chăm lo xây dựng Đảng, có ý thức tổ chức và kỷ luật, có tinh thần tự phê bình và phê bình, bảo vệ Đảng, bảo vệ sự đoàn kết thống nhất của Đảng

Để xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đảng viên phải đóng góp ý kiến vào sự lãnh đạo chung của Đảng, của chi bộ; phải tuân theo các quy tắc sinh hoạt Đảng, nghiêm chỉnh chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nêu cao cảnh giác cách mạng, giữ gìn bí mật của Đảng. Phải đấu tranh với mọi hành động trái với lợi ích chung của Đảng, trước hết là chống mọi biểu hiện thoái hoá, cơ hội và bè phái để bảo vệ sự thống nhất về đường lối chính trị và tổ chức, và bảo vệ uy tín của Đảng.

đ) Phải nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, góp phần làm tròn nghĩa vụ quốc tế của Đảng

Là đảng của giai cấp công nhân, Đảng yêu cầu đảng viên phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ và chấp hành nghiêm chỉnh đường lối quốc tế của Đảng, góp phần tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Mỗi đảng viên phải góp phần làm tròn nghĩa vụ quốc tế của Đảng và có ý thức ấy trong khi phấn đấu để hoàn thành mọi nhiệm vụ công tác thường xuyên của mình, cũng như trong việc trực tiếp làm các nhiệm vụ quốc tế theo sự phân công của Đảng khi cần đến.

Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đã sắp xếp lại và bổ sung các nhiệm vụ của đảng viên theo những quan điểm trên đây về tư cách đảng viên. Việc đó sẽ giúp cho đảng viên dễ hiểu và dễ nhớ hơn những nhiệm vụ của mình.

Tư cách đảng viên là những điều kiện cơ bản mà đảng viên cần có và là những điều cơ bản làm cơ sở để phân rõ ranh giới giữa đảng viên và quần chúng tích cực ngoài Đảng. Phấn đấu để có đầy đủ tư cách đảng viên và để làm tròn nhiệm vụ đảng viên là yêu cầu của Đảng đối với mọi đảng viên. Vi phạm những điều cơ bản ấy thì không còn đủ tư cách đảng viên.

 Tuy nhiên, đảng viên giữ vị trí công tác khác nhau, hoạt động trong những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau, trong các tầng lớp quần chúng mà trình độ về nhiều mặt có khác nhau. Vì vậy, trên những quy định chung, đối với từng hoàn cảnh cụ thể, từng loại đảng viên cụ thể, Đảng phải đề ra những yêu cầu phù hợp với nhiệm vụ mà đảng viên phải gánh vác, với trình độ quần chúng mà đảng viên có trách nhiệm lãnh đạo.

Trong quá trình hoạt động, có những đảng viên do điều kiện tuổi tác, sức khoẻ, hoàn cảnh riêng nên năng lực hoạt động có thể bị hạn chế, không cống hiến được nhiều cho cách mạng như trước. Đảng yêu cầu đảng viên đó phải giữ vững phẩm chất cách mạng và làm việc theo sự phân công thích đáng của Đảng. Những đồng chí thật sự không còn đủ sức khoẻ để hoạt động có thể được miễn công tác. Đảng cần có hình thức và chế độ sinh hoạt phù hợp với sức khỏe của các đồng chí đó; tổ chức Đảng không được vì vậy mà đánh giá sai lệch tư cách đảng viên của các đồng chí đó.

2. Phấn đấu để nâng cao chất lượng đảng viên theo yêu cầu của Đảng, để mỗi đảng viên thật sự xứng đáng là người chiến sĩ tiên phong của giai cấp công nhân, là một nhiệm vụ cơ bản có tầm quan trọng đặc biệt.

Quá trình nâng cao chất lượng đảng viên, Đảng ta đã rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu:

a) Phải nhằm vào nhiệm vụ chính trị chung của Đảng, của từng địa phương và đơn vị cơ sở, vào trách nhiệm cụ thể của từng đảng viên trong từng chi bộ và tổ chức nơi đảng viên hoạt động mà nâng cao chất lượng đảng viên và đề cao trách nhiệm của đảng viên đối với chất lượng của tổ chức nơi mình sinh hoạt, công tác.

Muốn xây dựng tốt đảng viên, phải xây dựng tốt tổ chức. Đánh giá đảng viên, nâng cao chất lượng đảng viên phải gắn liền với đánh giá và nâng cao chất lượng của tổ chức. Khuynh hướng đơn giản trong việc đánh giá đảng viên và nâng cao chất lượng đảng viên, không xem xét nguyên nhân toàn diện cả về tổ chức lẫn đảng viên để khắc phục mặt tiêu cực của đảng viên, thường không đem lại kết quả tốt. Trái lại không thấy hết tính năng động chủ quan của đảng viên đối với tổ chức, đổ trách nhiệm hoàn toàn cho tổ chức đối với những mặt tiêu cực của đảng viên, cũng là một khuynh hướng không đúng đắn.

b) Phải cải tiến sinh hoạt và hoạt động của tổ chức Đảng, của chi bộ, đưa đảng viên vào vị trí chiến đấu trong phong trào quần chúng, và qua phong trào quần chúng mà giáo dục, rèn luyện đảng viên, nâng cao năng lực của đảng viên, sàng lọc đội ngũ Đảng. Đóng cửa Đảng để củng cố, không gắn với việc đấu tranh thực hiện nhiệm vụ chính trị và với phong trào quần chúng, sẽ dẫn đến tu dưỡng đảng viên theo kiểu duy tâm, làm giảm tính chiến đấu của Đảng. Song nếu chỉ đưa đảng viên vào hoạt động trong phong trào cách mạng của quần chúng, mà coi nhẹ các biện pháp về tư tưởng và về tổ chức trong nội bộ Đảng, không coi trọng rèn luyện đảng viên qua sinh hoạt Đảng, học tập... thì cũng không thể xây dựng tốt người đảng viên. Phải coi trọng cả hai mặt đó và phải kết hợp chặt chẽ hai mặt đó với nhau không được tách rời.

c) Nâng cao chất lượng đảng viên phải được tiến hành một cách toàn diện cả về phẩm chất cách mạng lẫn về kiến thức và năng lực hành động, không được xem nhẹ mặt nào. Chỉ nhấn mạnh một mặt nào cũng sẽ dẫn đến hạn chế chất lượng đảng viên. Đương nhiên và tùy từng nơi, từng lúc phải nhằm vào yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và những nhược điểm, khuyết điểm chủ yếu của từng đảng viên và của đội ngũ đảng viên mà đề ra nội dung, phương hướng và biện pháp cụ thể để rèn luyện đảng viên cho thích hợp.

d) Nâng cao chất lượng đảng viên, phải quán triệt yêu cầu vừa phát huy mặt ưu điểm, vừa phê phán, khắc phục mặt tiêu cực, và giúp đảng viên khắc phục khó khăn trong công tác, đời sống, tạo điều kiện thuận lợi cho đảng viên hoạt động. Phải chú trọng việc biểu dương, học tập những đảng viên ưu tú; có chế độ cho cấp trên của chi bộ, đảng bộ cơ sở mở hội nghị những đảng viên ưu tú, để thúc đẩy công tác và nâng cao chất lượng đảng viên; đồng thời phải coi trọng việc giáo dục và có kỷ luật nghiêm minh đối với đảng viên phạm sai lầm, kiên quyết đưa những phần tử cơ hội, thoái hoá biến chất, những người không còn đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng, cũng như bổ sung những người ưu tú có đủ điều kiện vào Đảng. Việc đó phải được coi là một quy luật bình thường trong sinh hoạt Đảng, một vấn đề sống còn của Đảng, một tất yếu khách quan để củng cố Đảng. Khuynh hướng chỉ nhấn mạnh một chiều mặt này hay mặt khác đều dẫn đến sai lầm làm giảm sức chiến đấu của Đảng.

đ) Phải đánh giá đúng đội ngũ đảng viên và từng đảng viên để có yêu cầu, biện pháp nâng cao chất lượng phù hợp. Để đáng giá đúng đảng viên phải nắm vững quan điểm có tính nguyên tắc về tư cách đảng viên, không hạ thấp yêu cầu cơ bản đối với đảng viên; đồng thời phải có quan điểm lịch sử, quan điểm thực tiễn, quan điểm toàn diện trong khi nhận xét ưu điểm, khuyết điểm của đảng viên; như vậy thì mới không phạm sai lầm hữu hoặc "tả".

Từ những kinh nghiệm trên đây, các tổ chức Đảng phải không ngừng phấn đấu để nâng cao chất lượng đảng viên, phải tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện đảng viên, nâng cao chất lượng của đội ngũ đảng viên, khắc phục một cách có hiệu quả tình trạng đảng viên "trung bình" thậm chí yếu kém còn khá nhiều trong Đảng. Việc đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng là một nhiệm vụ quan trọng để củng cố Đảng. Những biểu hiện hữu khuynh không kiên quyết đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng thường là do nhận thức không đúng đắn về tư cách đảng viên, do sự lỏng lẻo trong công tác kiểm tra tư cách đảng viên và do thiếu quy định các chính sách và biện pháp tổ chức chỉ đạo cụ thể, thiếu biện pháp phát động phong trào cách mạng của quần chúng để qua đó mà sàng lọc đội ngũ của Đảng.

Đảng phải có biện pháp tích cực hơn nữa đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng, để sàng lọc đội ngũ của mình, quản lý chặt chẽ đội ngũ đảng viên và từng đảng viên, làm cho tổ chức Đảng thật sự trong sạch, vững vàng, phải không chút do dự loại ngay ra khỏi Đảng những phần tử thoái hoá, biến chất, những người đã mất tinh thần chiến đấu cách mạng, những phần tử lợi dụng chức vụ, quyền hạn để ức hiếp quần chúng, đầu cơ trục lợi, xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, v.v.. Để những phần tử này trong Đảng chỉ làm yếu Đảng và mất ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng. Phải kết hợp chặt chẽ giữa phát động phong trào quần chúng với công tác nội bộ Đảng để làm tốt việc này, coi đó là một vấn đề hết sức quan trọng để bảo đảm tính chất Đảng và hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng.

Trong đội ngũ của Đảng, ở một số vùng mới giải phóng đã phát hiện có một số phần tử đầu hàng, phản bội nhận làm tay sai cho địch; lại có hiện tượng một số địa phương đã phục hồi đảng tịch hoặc để cho đảng viên đã bị mất liên lạc, nằm im, bị địch bắt, sinh hoạt Đảng trở lại mà không theo đúng các chính sách cụ thể đã được quy định đối với từng loại trường hợp, cũng không trải qua kiểm tra chặt chẽ và qua các thủ tục cần thiết. Những hiện tượng ấy cần được tổ chức có trách nhiệm của Đảng xem xét rất kỹ lưỡng. Phải kiểm tra lại mọi trường hợp đã được tập hợp, phục hồi không đúng nguyên tắc, mọi trường hợp được kết nạp không đúng thủ tục; kết hợp chặt chẽ việc sưu tầm hồ sơ do địch để lại với việc lấy ý kiến quần chúng và việc kiểm tra nghiêm ngặt những hoạt động của đảng viên trong quá trình tham gia cách mạng và các phong trào quần chúng để đánh giá đúng thực chất của từng người và đưa ra khỏi Đảng những phần tử lợi dụng những sơ hở đã qua để trà trộn vào đội ngũ của Đảng.

Phải xây dựng nền nếp quản lý chặt chẽ đảng viên, giúp cho Đảng nắm chắc đảng viên và kịp thời giúp đỡ đảng viên phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, đề phòng những sơ hở cho kẻ địch và những phần tử đầu cơ lợi dụng chui vào Đảng.

Theo phương hướng đó, Đảng ta sẽ tiến hành phát thẻ Đảng và sẽ làm cho công tác này thành một phong trào sâu rộng trong Đảng, vừa có ý nghĩa giáo dục chính trị sâu sắc, vừa có tác dụng quan trọng củng cố Đảng về mặt tổ chức, nâng cao chất lượng đảng viên và sàng lọc đội ngũ của Đảng.

3. Chất lượng đảng viên phải được bảo đảm ngay từ khi kết nạp đảng viên mới

Công tác phát triển Đảng qua các thời kỳ đều đạt những kết quả tốt, đồng thời cũng phạm khuyết điểm: khi thì mở quá rộng, khi lại hẹp hòi hoặc đóng cửa Đảng. Trong các khuyết điểm thì tổ chức bừa bãi, thiếu chặt chẽ dẫn đến hạ thấp tiêu chuẩn là khuyết điểm chính.

a) Phải ra sức chấn chỉnh công tác kết nạp đảng viên. Theo phương châm "coi trọng chất lượng, chống khuynh hướng chạy theo số lượng đơn thuần", "phát triển Đảng luôn luôn phải đi đôi với củng cố Đảng", công tác phát triển Đảng phải luôn luôn lấy tiêu chuẩn làm cơ sở và phải được chỉ đạo chặt chẽ.

Song song với việc sàng lọc đội ngũ của Đảng, việc bổ sung vào Đảng những người ưu tú qua thử thách trong các phong trào là một việc phải làm thường xuyên, không bao giờ ngừng để tăng sức chiến đấu mới trong Đảng.

Song, phải nhận rõ Đảng ta là đảng lãnh đạo chính quyền, được nhân dân rất tín nhiệm, đảng viên thường được giao những trách nhiệm trọng yếu trong các tổ chức Đảng, Nhà nước và đoàn thể quần chúng. Trong điều kiện ấy, thường có nhiều phần tử cơ hội tìm cách chui vào Đảng. Cho nên, đồng thời với việc tiếp tục nâng cao cảnh giác, đề phòng những phần tử địch chui vào Đảng để phá hoại, phải rất chú trọng ngăn ngừa những phần tử cơ hội tìm cách vào Đảng để lợi dụng hoặc có mưu đồ chính trị riêng.

ở miền Nam, trải qua chiến đấu vô cùng ác liệt, cơ sở Đảng nói chung, nhất là ở các đô thị và ở các vùng địch tạm chiếm lâu, rất mỏng. Việc xây dựng cơ sở Đảng, nhất là ở các xí nghiệp, các hải cảng, đồn điền, doanh điền, các phường, xã chưa có chi bộ, các vùng dân tộc, vùng tôn giáo tập trung, đã trở thành một nhiệm vụ chính trị và tổ chức rất cấp thiết để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Các cấp uỷ Đảng ở cơ sở phải cử cán bộ, đảng viên về để phát động các phong trào quần chúng và xây dựng các tổ chức quần chúng, đặc biệt là Đoàn thanh niên; phải phát triển mạnh các nhóm cảm tình, các tổ trung kiên, trên cơ sở đó phát hiện, bồi dưỡng những quần chúng ưu tú và lựa chọn những người ưu tú nhất có đủ tiêu chuẩn để kết nạp vào Đảng. Tất nhiên, không được vì vậy mà hạ thấp tiêu chuẩn đảng viên, dẫn đến kết nạp người không đủ tiêu chuẩn vào Đảng. Nhất thiết không được vì để xây dựng tổ chức, "thanh toán cơ sở trắng" mà kết nạp người vào Đảng một cách gượng ép, bừa bãi.

Phải nắm vững phương châm, phương hướng phát triển Đảng và vận dụng cho sát với đặc điểm từng vùng. Lại phải rất tỉnh táo, đề phòng những âm mưu và thủ đoạn của bọn CIA và bọn phản động tìm cách đưa người của chúng vào hàng ngũ Đảng. Cùng với công tác phát triển Đảng, cần có kế hoạch điều chỉnh đảng viên, nhất là ở các cơ sở quốc doanh để nhanh chóng thành lập chi bộ ở các cơ sở chưa có chi bộ.

b) Trên quan điểm cơ bản trên đây về chất lượng đảng viên, cần làm rõ và nâng cao điều kiện kết nạp đảng viên. Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị bổ sung một số điểm vào điều 1 chương đảng viên: "Những công dân Việt Nam, có lao động, không bóc lột, từ 18 tuổi trở lên, trải qua rèn luyện trong đấu tranh cách mạng, đã chứng tỏ là người ưu tú nhất trong quần chúng, có giác ngộ về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, trung thành với Tổ quốc, với chủ nghĩa xã hội, gương mẫu trong lao động, sản xuất, công tác, chiến đấu và học tập, có liên hệ chặt chẽ với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm, nếu thừa nhận và nguyện tích cực phấn đấu để thực hiện đường lối chính trị và Điều lệ Đảng, nguyện hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng, phục tùng kỷ luật của Đảng và đóng đảng phí theo quy định, đều có thể được công nhận là đảng viên".

Khi xem xét để kết nạp người vào Đảng, phải bảo đảm đầy đủ các điều kiện đó, phải xét kỹ động cơ vào Đảng, xem xét người xin vào Đảng trong thực tế sẽ có khả năng làm tròn những nhiệm vụ của đảng viên hay không. Phải bảo đảm là người có lý lịch rõ ràng, không phạm những điều do Trung ương quy định về tiêu chuẩn chính trị.

Là đảng nắm chính quyền, Đảng không chủ trương kết nạp những người ngoại kiều vào Đảng. ở những nơi tập trung đông người đã nhập quốc tịch Việt Nam thì phải xét rất kỹ lưỡng để kết nạp một số ít người có đủ tiêu chuẩn. Những Việt kiều đã vào các đảng anh em, khi về nước, trải qua xem xét kỹ, nếu đã rõ ràng là người có đủ điều kiện đảng viên, cũng phải xét kết nạp theo đúng thủ tục.

Điều kiện để kết nạp người vào Đảng phải được cụ thể hoá cho phù hợp với từng loại đối tượng.

Khi xem xét sự giác ngộ của người công nhân, phải đặc biệt chú trọng tinh thần hy sinh tận tụy, ý thức vì lợi ích chung trong việc nâng cao năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật, tham gia xây dựng nền nếp quản lý xí nghiệp, đấu tranh để bảo vệ của công, xây dựng cho tập thể đơn vị, làm việc, lao động tích cực không phải vì đồng lương, vì khen thưởng.

Khi xem xét giác ngộ của người nông dân phải rất coi trọng các mặt: ý thức làm chủ tập thể trong đấu tranh giữa hai con đường ở nông thôn, trong việc tiến hành ba cuộc cách mạng, trong tiếp thu cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp thu cách mạng kỹ thuật, đưa hợp tác xã đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, trong ý thức đối với liên minh công nông, đối với nghĩa vụ Nhà nước. Họ không phải là người tính toán riêng tư, chỉ lo vun vén cho bản thân và gia đình, là người lao động tích cực không phải chỉ vì công điểm.

Đối với các chiến sĩ trong lực lượng vũ trang, sự giác ngộ đó không phải chỉ thể hiện ở ý thức xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ Tổ quốc, ở lòng hy sinh, tinh thần dũng cảm trong đấu tranh chống địch, mà còn phải thể hiện ở sự giác ngộ cả về đường lối chung của Đảng, ở lập trường kiên định và lòng thiết tha đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đối với trí thức, sự giác ngộ phải được thể hiện rõ ở quan điểm đối với đường lối chung của Đảng, đối với ba cuộc cách mạng, đối với đường lối phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật, v.v. của Đảng trong từng ngành; sự giác ngộ ấy phải thể hiện trong công tác phát minh, sáng tác và chỉ đạo thực tiễn; không phải là làm những việc ấy vì động cơ cá nhân, vì thành tích và danh lợi, uy tín cá nhân.

Đương nhiên còn phải xem xét toàn diện và đầy đủ các mặt khác.

c) Để bảo đảm chất lượng của đội ngũ, Đảng ta phải tiếp tục coi trọng kết nạp đảng viên từ giai cấp công nhân, từng bước nâng cao tỷ lệ đảng viên xuất thân từ công nhân, coi đó là phương hướng giai cấp chính trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời Đảng không coi nhẹ kết nạp đảng viên trong nông dân tập thể, trong trí thức xã hội chủ nghĩa và những người lao động khác như đã tổng kết. ở các tỉnh phía Nam, ở những ấp, xã đã bắt đầu tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, tổ chức Đảng không được kết nạp những người nông dân làm ăn riêng lẻ vào Đảng.

d) Quy định một cách chặt chẽ và tuân thủ một cách nghiêm ngặt các thủ tục kết nạp đảng viên, là điều kiện hết sức quan trọng và có tính nguyên tắc về mặt tổ chức để bảo đảm chất lượng đảng viên. Để thủ tục kết nạp đảng viên được chặt chẽ hơn, dự thảo Điều lệ (sửa đổi) nhấn mạnh hơn nữa tính tự nguyện của người xin vào Đảng.

"Người xin vào Đảng phải hoàn toàn tự nguyện, phải làm đơn xin vào Đảng...". Trong điều kiện hiện nay, trong phạm vi cả nước, chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng và Điều lệ Đảng đều được phổ biến rộng rãi trong nhân dân; tổ chức Đảng có ở khắp nơi. Đó là điều kiện thuận lợi để quần chúng tìm hiểu và gần gũi với Đảng. Vì vậy quần chúng nào tự thấy có đủ điều kiện, thiết tha xin vào Đảng thì có thể phát biểu nguyện vọng của mình, làm đơn xin vào Đảng theo hướng dẫn của tổ chức Đảng, không phải chờ người khác giới thiệu mới xin vào Đảng. Cố nhiên tổ chức Đảng và đảng viên phải tăng cường làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng; chi bộ phải phân công đảng viên tốt tuyên truyền, giáo dục và tích cực giúp đỡ quần chúng phương hướng phấn đấu để trở thành đảng viên.

Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị người xin vào Đảng phải được hai đảng viên chính thức có ít nhất hai năm tuổi đảng và đã cùng công tác một năm trở lên bảo đảm là có đủ điều kiện vào Đảng. Nếu là đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh được chi đoàn nhận xét là có đủ điều kiện vào Đảng và được Ban Chấp hành của Đoàn ở cơ sở bảo đảm thì chỉ cần một đảng viên có điều kiện trên bảo đảm. Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị quyết định của chi bộ về kết nạp đảng viên dự bị và việc công nhận đảng viên dự bị thành đảng viên chính thức phải được sự đồng ý ít nhất của 2/3 số đảng viên chính thức của chi bộ, đồng thời đề ra những việc phải làm để việc thẩm tra, xem xét kết nạp đảng viên và chuẩn y kết nạp đảng viên được chặt chẽ. Dự thảo yêu cầu chi bộ phải tổ chức lấy ý kiến nhận xét của quần chúng về người định kết nạp vào Đảng để tham khảo, và sau khi quyết định kết nạp người vào Đảng (trừ một số trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật), chi bộ phải công bố quyết định ấy cho quần chúng biết. Chi bộ phải thẩm tra lại công tác tuyên truyền riêng biệt của người bảo đảm đối với người xin vào Đảng và phải bảo đảm là người đó đã được giải thích kỹ về Điều lệ Đảng, được tuyên tuyền, giáo dục kỹ về đường lối, chính sách của Đảng.

Về thời kỳ dự bị của đảng viên, dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị quy định: những công nhân đã trực tiếp sản xuất từ 5 năm trở lên và những cán bộ, nhân viên, chiến sĩ hoạt động chuyên nghiệp từ 5 năm trở lên trong bộ máy của Đảng, của Nhà nước, của các đoàn thể và trong các lực lượng vũ trang, nếu được kết nạp vào Đảng thì được hưởng thời kỳ dự bị một năm. Các thành phần khác, 18 tháng. Những chiến sĩ đang làm nghĩa vụ quân sự, những công nhân, cán bộ, nhân viên chưa có đủ thời gian lao động hoặc hoạt động trên đây thì căn cứ vào thành phần giai cấp bản thân trước đó để quyết định thời kỳ dự bị. Việc định thời kỳ dự bị dài hơn trước là cần thiết để đảng viên dự bị đủ thời gian rèn luyện, thử thách thêm, và để việc xét công nhận thành đảng viên chính thức có căn cứ chính xác.

Xã hội nước ta đang ở thời kỳ chuyển tiếp có nhiều biến động phức tạp về thành phần giai cấp. Có những công nhân, nông dân trong một thời gian ngắn đã trở thành kỹ sư, cán bộ chuyên nghiệp, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang; có những học sinh, nông dân chỉ trong vòng mấy năm đã trở thành công nhân, cán bộ, trong khi đó có những cán bộ không phải là công nhân, đã qua rèn luyện thử thách nhiều năm trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, v.v.. Bởi vậy, việc quy định quá chi tiết từng loại thời kỳ dự bị cho từng thành phần giai cấp, tầng lớp sẽ gây nên những sự phức tạp không cần thiết. Tuy đứng về quan điểm giai cấp, Đảng ta quy định thời kỳ dự bị cho từng thành phần như vậy, nhưng do tính chất phức tạp của tình hình thành phần giai cấp hiện nay, nhất là ở vùng mới được giải phóng, cho nên khi xét để kết nạp người vào Đảng, cần phải xem xét cụ thể nguồn gốc giai cấp và chất lượng chính trị của từng người, không thể đơn giản chỉ nhìn một mặt về thành phần giai cấp. Đối với một số vùng có những đặc điểm khác nhau về phân hoá giai cấp xã hội, Ban Chấp hành Trung ương sẽ có những quy định cụ thể xét cần thiết để bảo đảm công tác kết nạp đảng viên được chặt chẽ.

Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) chỉ rõ những nội dung cơ bản để giáo dục đảng viên dự bị và đề nghị bỏ việc kéo dài thời kỳ dự bị của đảng viên dự bị khi xét để chuyển thành đảng viên chính thức, bởi vì quy định ấy có thể gây nên tình hình thiếu tích cực trong việc rèn luyện, giúp đỡ đảng viên dự bị và tình trạng thiếu kiên quyết đưa người không còn xứng đáng ra khỏi danh sách đảng viên dự bị.

Những quy định bổ sung trong Điều lệ Đảng là cơ sở cho việc chỉ đạo chặt chẽ hơn nữa công tác đảng viên, bảo đảm đầy đủ hơn tư cách đảng viên.

Để tăng cường công tác đảng viên nói chung, công tác kết nạp đảng viên nói riêng, các tổ chức Đảng, trước hết là các cấp uỷ Đảng phải quán triệt các quy định của Điều lệ Đảng về vấn đề đảng viên, làm cho từng đảng viên và đông đảo quần chúng thấu suốt những quy định đó, bồi dưỡng một đội ngũ biết làm công tác đảng viên, công tác kết nạp đảng viên, công tác quản lý đảng viên.

VII

Xây dựng đội ngũ cán bộ lớn mạnh phù hợp với yêu cầu của giai đoạn mới

Để xây dựng một đội ngũ cán bộ đủ sức đáp ứng những yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ tổ chức rộng lớn, phức tạp của giai đoạn mới, phải tạo ra một sự chuyển biến rõ rệt trong nhận thức, quan điểm về công tác cán bộ; đồng thời có những biện pháp thiết thực, tỉ mỉ nhằm cải tiến mạnh mẽ tất cả các khâu từ đào tạo, bồi dưỡng đến bố trí, sử dụng và quản lý cán bộ.
1. Trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, phải nhận thức đúng đắn ý nghĩa của vấn đề thành phần xã hội xuất thân và nắm vững phương hướng lựa chọn cán bộ như đã nêu trong bài học kinh nghiệm ở phần thứ nhất của báo cáo này.

Trong tình hình hiện nay, chúng ta cần thiết phải nhấn mạnh thêm về vấn đề tăng cường lựa chọn, đào tạo cán bộ từ những phần tử ưu tú trong giai cấp công nhân, vì ý nghĩa nguyên tắc của nó đối với việc xây dựng chính đảng Mác - Lênin và vì lâu nay trong vấn đề này chúng ta còn nhiều thiếu sót.

Phải phấn đấu tăng cường thành phần công nhân, nhất là công nhân đại công nghiệp trong đội ngũ cán bộ các loại, ở các cấp, các ngành, trước hết là trong cán bộ lãnh đạo chung, cán bộ quản lý công nghiệp, quân đội, công an, trong đội ngũ cán bộ ở các thành phố, các khu công nghiệp và nhất là ở cấp cơ sở.

Với ý thức giai cấp và tính đảng sâu sắc, phải quy định nhiều biện pháp cụ thể để làm bằng được việc này. Trong việc chiêu sinh các lớp đào tạo của trường Đảng các cấp cần định tỷ lệ học viên xuất thân từ công nhân; trong việc chiêu sinh vào các trường đại học (kể cả các lớp dự bị đại học) cũng phải quy định tỷ lệ học viên là công nhân và những người đã qua sản xuất, chiến đấu. Cần xem xét lại và bổ sung một số chính sách, chế độ cần thiết để những công nhân được cử đi đào tạo hoặc trở thành cán bộ không bị ảnh hưởng nhiều đến thu nhập và đời sống gia đình. Các xí nghiệp, các ngành công nghiệp chẳng những phải chăm lo đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật cho mình từ trong công nhân, mà phải có trách nhiệm hàng năm cung cấp cho Trung ương và các tỉnh uỷ, thành uỷ một số công nhân có triển vọng đào tạo thành cán bộ lãnh đạo chung, cán bộ làm công tác đảng, cán bộ đoàn thể quần chúng. Đương nhiên cần lựa chọn những công nhân có triển vọng làm công tác lãnh đạo, công tác quản lý, tránh tình trạng đưa đi đào tạo hoặc đề bạt những công nhân không có triển vọng về mặt này, trong khi họ lại là những công nhân lành nghề mà nếu để ở cương vị cũ thì họ có thể cống hiến được nhiều hơn.

Tiêu chuẩn cơ bản của mọi cán bộ là luôn luôn phải có đủ cả hai mặt phẩm chất và năng lực tương ứng với đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị trong mỗi giai đoạn cách mạng, với yêu cầu của công việc mà Đảng và Nhà nước giao cho. Hai mặt ấy quyện chặt với nhau tạo thành giá trị, thành chất lượng của người cán bộ và thể hiện tập trung ở kết quả hoàn thành nhiệm vụ của họ.

Phẩm chất và năng lực cán bộ phải được xem xét trong quá trình người đó chấp hành nhiệm vụ mà Đảng giao phó, phải được đánh giá căn cứ vào kết quả hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng. Không thể có cách đánh giá nào khác. Đương nhiên điều đó không có nghĩa là xem xét một cách hình thức, chỉ nhìn vào một công việc riêng rẽ, chỉ căn cứ vào một kết quả nhất thời. Phải phân tích cụ thể hoàn cảnh khách quan và sự nỗ lực chủ quan của người cán bộ, chú ý những biểu hiện về lập trường, quan điểm trong những vấn đề đường lối của Đảng, tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức, kỷ luật trong quá trình thi hành nhiệm vụ; phải xem xét qua nhiều sự việc khác nhau, qua nhiều hoàn cảnh khác nhau, khi dễ dàng lúc thuận lợi, nhất là qua những lúc có khó khăn, phức tạp.

Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước, cơ cấu đội ngũ cán bộ trở nên phong phú và phức tạp khác trước. Chúng ta phải xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cả về trình độ văn hoá, chuyên môn cho từng loại cán bộ ở mỗi ngành, mỗi cấp khác nhau để làm căn cứ cho việc lựa chọn, bố trí cán bộ và thúc đẩy hơn nữa việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Phải căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ và yêu cầu của công tác mà lựa chọn, bố trí, cất nhắc cán bộ, phê phán nghiêm khắc lối sử dụng, đề bạt cán bộ dựa vào cảm tình, yêu ghét riêng tư, vào quan hệ cá nhân, quan hệ địa phương, để lôi kéo bè cánh trong Đảng.

Trong việc vận dụng tiêu chuẩn đối với cán bộ kỹ thuật, chuyên môn, một mặt cần khắc phục quan niệm lệch lạc cho rằng loại cán bộ này chỉ cốt có kiến thức chuyên môn giỏi là đủ, còn về phẩm chất tư tưởng chính trị có thể châm trước. Song mặt khác, cần phê phán quan niệm đòi hỏi cán bộ kỹ thuật, chuyên môn cũng phải có quá trình đào tạo, rèn luyện về chính trị, có trình độ hiểu biết chính trị, lý luận như cán bộ lãnh đạo chung, hoặc thành kiến không đúng với một số nhược điểm về tác phong sinh hoạt của họ.

Cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý giữ một vị trí rất quan trọng. Vì vậy trên những tiêu chuẩn chung về phẩm chất và năng lực của người cán bộ, các cán bộ này phải là những đồng chí vừa nhạy bén về chính trị, tỉnh táo và kiên quyết đấu tranh với những khuynh hướng, quan điểm sai trái với đường lối, chính sách của Đảng, vừa có năng lực tổ chức và kiến thức quản lý, biết phát huy sức mạnh của tập thể, phát huy tính tích cực và chủ động của cấp dưới, tập trung được kiến thức và trí tuệ của cán bộ và quần chúng. Phải là những đồng chí có nhiệt tình, có tính chủ động, quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước cấp trên và trước quần chúng để chủ động giải quyết một cách cụ thể, thiết thực những vấn đề đặt ra trong quá trình lãnh đạo và quản lý.

2. Phải có chính sách bồi dưỡng, đào tạo, bố trí, sử dụng đúng cán bộ, nhất là trong điều kiện hiện nay, cả đối với cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý và cán bộ khoa học, kỹ thuật

Một nhiệm vụ cấp bách và trọng yếu của công tác cán bộ trong thời gian tới là phải tích cực bồi dưỡng, nâng cao, bổ sung, và đổi mới đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước. Phải vừa bồi dưỡng cán bộ đương chức, vừa đào tạo, lựa chọn cán bộ mới, trẻ, tuyển lựa chủ yếu từ những người trưởng thành từ dưới lên qua các phong trào cách mạng của quần chúng, qua thực tiễn sản xuất, công tác và chiến đấu, đã tỏ ra vững vàng, có năng lực và có bản lĩnh. Phải mạnh dạn bổ sung vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý những cán bộ có trình độ khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ đã trưởng thành trong thực tiễn, có phẩm chất tốt, có năng lực tổ chức tương xứng với nhiệm vụ. Tuy nhiên, phải tỉnh táo, không để những phần tử cơ hội, xu thời len lỏi vào đội ngũ cán bộ ấy.

ở những cơ quan, bộ phận chuyên trách về khoa học, kỹ thuật nhất thiết phải bố trí những cán bộ có kiến thức và năng lực về khoa học, kỹ thuật phụ trách. Những địa phương, đơn vị thiếu cán bộ lãnh đạo và quản lý, không đủ sức làm tròn nhiệm vụ, cần được bổ sung những cán bộ có năng lực từ nơi khác đến. Cần kiên quyết đưa về hưu những đồng chí đến tuổi mà sức yếu, năng lực hạn chế, đồng thời thực hiện đầy đủ chế độ đối với cán bộ về hưu và thi hành tốt các chính sách về đãi ngộ vật chất và tổ chức tốt sinh hoạt về chính trị cho các đồng chí đó. Tình trạng một số đồng chí tuổi già sức yếu, năng lực hạn chế vẫn không chịu về hưu, e ngại cán bộ mới, trẻ không đủ vững vàng, không thể thay thế mình được là không có lý do chính đáng và căn cứ thực tế. Tre già măng mọc là một quy luật khách quan, làm trái quy luật ấy thì không thể xây dựng được Đảng, xây dựng được tổ chức.

Vì lợi ích của cách mạng, chính sách cán bộ của Đảng là luôn luôn phải coi trọng việc mạnh dạn cất nhắc cán bộ trẻ, cán bộ mới, kết hợp đúng đắn giữa cán bộ cũ với cán bộ mới, cán bộ già và cán bộ trẻ, vừa để đáp ứng những nhiệm vụ trước mắt, vừa để bảo đảm tính kế thừa trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu lâu dài.

Tình trạng cơ cấu đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chừng nào bị hẫng ở nhiều cơ quan, nhiều cấp, nhiều ngành hiện nay, chính là do chúng ta chưa làm tốt việc đó.

Những nhận thức lệch lạc như đánh giá không đúng phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ mới, cán bộ trẻ xuất hiện trong phong trào, đề bạt cán bộ theo kiểu xếp đặt ngôi thứ, "sống lâu lên lão làng", lấy quá trình cống hiến làm thước đo chính về phẩm chất và năng lực của cán bộ, bố trí, đề bạt cán bộ chỉ vì để đoàn kết, vì con người mà không vì yêu cầu công tác v.v. tuy đã được phê phán nhiều nhưng vẫn còn là một trở ngại lớn cho công tác cán bộ.

Tình hình đó cùng với những thiếu sót trong công tác quản lý cán bộ, việc không nắm chắc thực chất của cán bộ và những chính sách, chế độ đãi ngộ chưa thoả đáng càng làm cho việc đổi mới từng bộ phận đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý gặp nhiều khó khăn.

Cần làm cho mỗi cán bộ thấu suốt chính sách cán bộ để đấu tranh kiên quyết chống những tàn tích tư tưởng phong kiến còn tồn tại trên đây và chống bệnh quan liêu trong công tác quản lý cán bộ. Cần tích cực phát hiện và thật sự coi trọng những tài năng mới để đề bạt vào các cương vị lãnh đạo đúng lúc, đúng chỗ.

Một nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của người lãnh đạo là lựa chọn và đào tạo cho Đảng được nhiều cán bộ tốt, kể cả việc chuẩn bị sẵn sàng để khi cần có cán bộ đủ sức kế tục cương vị lãnh đạo của mình. Phải biết tìm tòi, phát hiện những tài năng mới, dám giao cho họ những trách nhiệm nặng hơn, tạo cho họ những điều kiện thuận lợi để phát huy khả năng và trưởng thành mau chóng. Đồng thời, phải tổ chức đào tạo cán bộ mới trên quy mô lớn một cách có hệ thống: một mặt, phải đưa hàng loạt cán bộ, thanh niên công nhân, nông dân ưu tú, bộ đội đã trải qua thử thách trong sản xuất và chiến đấu đi học tập văn hoá, chính trị, khoa học, kỹ thuật, mặt khác, phải đưa những cán bộ khoa học, kỹ thuật, đã qua thực tiễn sản xuất, chiến đấu, có triển vọng về công tác lãnh đạo, quản lý, đi học tập về chính trị và quản lý. Tất cả những việc đó không thể làm một cách chắp vá mà phải nhìn xa, có quy hoạch, có kế hoạch lâu dài.

Đồng thời, Đảng cần có chính sách đầy đủ đối với cán bộ cũ, sửa chữa những thiếu sót ở một số đảng bộ trong việc chấp hành chính sách đối với cán bộ cũ. Cần khắc phục tình trạng sử dụng không đúng chỗ và nhất là tình trạng chỉ sử dụng mà không bồi dưỡng cho nên nhiều cán bộ cũ sớm bị cùn đi, không thích ứng nổi với nhiệm vụ của giai đoạn mới; đó là sự lãng phí nghiêm trọng những nguồn vốn quý báu nhất của cách mạng.

Cán bộ cũ và mới, cán bộ già, cán bộ trẻ cần đoàn kết với nhau để hoàn thành nhiệm vụ chung. Phải học tập lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Cán bộ cũ phải đặt cho mình nghĩa vụ đào tạo cán bộ mới, ủng hộ và giúp đỡ cán bộ mới. Về phần mình, cán bộ mới, trẻ phải khiêm tốn, tôn trọng cán bộ cũ, chống mọi biểu hiện kiêu căng, tự mãn.

Đảng cần có chính sách đúng đối với cán bộ khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật. Đội ngũ cán bộ này giữ vị trí trọng yếu trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong đội ngũ ấy có nhiều anh chị em đã được rèn luyện, thử thách trong kháng chiến chống đế quốc, trong ba cuộc cách mạng, nhiều anh chị em xuất thân từ công nông, con em công nông, cán bộ. Đảng coi trọng phát huy đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật đúng với vị trí then chốt của cách mạng khoa học - kỹ thuật trong ba cuộc cách mạng. Chú trọng bồi dưỡng, sử dụng, cất nhắc những cán bộ có triển vọng, có cống hiến; ngoài việc mạnh dạn cất nhắc một số vào các cương vị lãnh đạo và quản lý, cần bố trí những cán bộ ưu tú vào các cương vị phụ trách chuyên môn, khoa học, kỹ thuật, đưa nhiều anh chị em xuống chỉ đạo kỹ thuật ở cấp huyện và cơ sở, đào tạo nhiều cán bộ kỹ thuật cho cơ sở. Chú trọng sử dụng anh chị em theo đúng ngành nghề, và bồi dưỡng một cách toàn diện cả về chính trị và chuyên môn, qua học tập lý thuyết và rèn luyện trong thực tế. Chú trọng phát hiện bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, có chính sách khuyến khích về tinh thần và vật chất, tạo điều kiện cho anh chị em đi sâu vào nghiên cứu và chỉ đạo khoa học, kỹ thuật, phát minh sáng chế, vừa tiếp thu và phát huy kinh nghiệm tiên tiến trong nước, vừa nắm vững và vận dụng được khoa học, kỹ thuật tiên tiến trên thế giới, đáp ứng các yêu cầu trước mắt và lâu dài của cách mạng khoa học - kỹ thuật ở nước ta.

Những cán bộ, nhân viên chuyên môn, kỹ thuật ở miền Nam trước đây làm việc trong bộ máy chính quyền cũ, trừ một số ít là phần tử phản động, ác ôn, cam tâm làm tay sai cho giặc Mỹ, còn hoặc nhiều hoặc ít đều có tinh thần dân tộc. Ngày nay miền Nam được hoàn toàn giải phóng, những anh chị em này cũng được giải phóng khỏi sự nô dịch của đế quốc Mỹ và tay sai, nay đã có dịp đem hết sức lực và tài năng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Chúng ta thành tâm giúp đỡ anh chị em đó cải tạo tiến bộ về chính trị, tư tưởng, tạo điều kiện để anh chị em làm việc và cống hiến được nhiều nhất cho đất nước, sớm trở thành trí thức xã hội chủ nghĩa.

Kháng chiến đã thắng lợi, một số khá đông cán bộ quân đội đang và sẽ được chuyển sang công tác ở ngành khác. Các cấp uỷ Đảng trong quân đội khi điều động cán bộ phải chú trọng đáp ứng yêu cầu của Đảng. Những kinh nghiệm về tổ chức và lãnh đạo mà cán bộ đã tích luỹ trong thời gian ở quân đội là rất quý; tuy nhiên cần bồi dưỡng cho anh em những kiến thức theo yêu cầu của nhiệm vụ mới được giao. Cần sắp xếp công tác thích hợp để anh em có thể cống hiến được tốt nhất, chú trọng cất nhắc kịp thời những đồng chí có phẩm chất, năng lực, rất coi trọng đào tạo vợ con liệt sĩ thành cán bộ lãnh đạo và quản lý. Các ngành, các địa phương phải chấp hành đúng chính sách của Đảng đối với cán bộ quân đội chuyển ngành, sẵn sàng tiếp nhận những cán bộ được Đảng và Nhà nước điều động về, có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo các đồng chí đó, coi đó là một nghĩa vụ, một biện pháp để quán triệt chính sách cán bộ của Đảng.

Điều động cán bộ cho các tỉnh phía Nam, đáp ứng đến mức cao nhất nhu cầu về cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, nghiệp vụ và cả cán bộ lãnh đạo cho các địa phương đó. Ngược lại, cần điều động một số cán bộ ở các địa phương phía Nam để tăng cường cho các bộ, các ngành trung ương, làm cho các cơ quan trung ương sát hơn với thực tiễn chung của cả nước. Việc điều động cán bộ, bố trí cán bộ phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng, căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ là chính, không được chỉ vì ích lợi riêng của từng người, lợi ích cục bộ của từng địa phương. Cán bộ phải phục tùng sự điều động của tổ chức, không thể viện lý do này hay lý do khác để từ chối trách nhiệm được giao, dù ở địa phương hay ở trung ương, ở địa phương này hay ở địa phương khác.

Trong đội ngũ cán bộ, Đảng ta luôn coi trọng việc bồi dưỡng, đào tạo, cất nhắc cán bộ người dân tộc ít người, cán bộ nữ, kể cả cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, và cán bộ khoa học, kỹ thuật. Song việc này ở nhiều nơi vẫn chưa chấp hành tốt. Phải quan tâm hơn nữa mở rộng đội ngũ cán bộ người dân tộc ít người, cán bộ nữ; có quan điểm giai cấp và quan điểm quần chúng chính xác để đánh giá đúng phẩm chất và năng lực của các cán bộ ấy, mạnh dạn đề bạt những người xứng đáng vào các cương vị lãnh đạo và quản lý.

Đảng và Nhà nước ta quý trọng và sử dụng mọi khả năng có ích cho sự nghiệp chung, không phân biệt là đảng viên hay người ngoài Đảng. Trong cơ quan nhà nước và trong các đoàn thể, mọi người đều được sử dụng và đánh giá theo phẩm chất và năng lực của họ, qua sự cống hiến của mỗi người cho cách mạng, cho nhân dân. Cán bộ là đảng viên phải đoàn kết với cán bộ là người ngoài Đảng để cùng giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ, không được có đầu óc hẹp hòi, biệt phái.

3. Trên cơ sở những quan điểm và chính sách chung trên đây phải cải tiến công tác cán bộ một cách toàn diện và nâng cao chất lượng các mặt nghiệp vụ công tác cán bộ, nghiên cứu tốt các chính sách, chế độ cụ thể.

Phải đi từ xây dựng tổ chức, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu, biên chế của từng tổ chức và tiêu chuẩn từng loại cán bộ trong tổ chức ấy mà xem xét đánh giá cán bộ hiện có và điều động, bố trí cán bộ. Một khi đã xác định cơ cấu tổ chức hợp lý thì việc bố trí cán bộ phải phục tùng, phải phục vụ bằng được yêu cầu ấy. Không nên điều động cán bộ một cách tuỳ tiện.

Phải bố trí cân đối, đồng bộ giữa các loại cán bộ, giữa cấp trên và cấp dưới. Rất coi trọng tăng cường cán bộ cho cơ sở, nhất là cho các đô thị và nông thôn vùng mới được giải phóng. Vừa phải kiện toàn các cơ quan lãnh đạo, vừa rất coi trọng xây dựng những cơ quan tham mưu mạnh; vừa chăm lo bố trí những cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý vững vàng, vừa quan tâm phát hiện và sử dụng những chuyên gia giỏi trên từng lĩnh vực hoạt động.

Việc bố trí, điều động cán bộ phải đi vào quy hoạch, kế hoạch trước mắt và lâu dài. Phải căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ tổ chức, vào sự phân tích đội ngũ cán bộ hiện có mà đáp ứng nhu cầu cán bộ hiện nay đến mức cao nhất. Đồng thời phải tiến hành lựa chọn và lập danh sách cán bộ dự bị để chủ động chuẩn bị đáp ứng nhu cầu bố trí, đề bạt cán bộ trong những năm tới. Phải căn cứ vào khả năng phát triển của từng người mà có ý đồ đào tạo và bố trí cho đúng; lại phải thường xuyên kiểm tra, bổ sung và sàng lọc cán bộ dự bị qua thực tiễn phong trào. Trong việc bố trí, sử dụng cán bộ, cần chú trọng ổn định công tác theo yêu cầu chuyên môn hoá cán bộ.

Phương pháp lựa chọn, đề bạt cán bộ phải dân chủ, công khai. Bầu cử các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước phải thật sự dân chủ. Ngay việc bổ nhiệm các chức vụ quản lý cũng phải tiến hành trên cơ sở dân chủ, lắng nghe ý kiến của quần chúng, đảng viên bên dưới, và có sự tham gia ý kiến của đảng uỷ, chi uỷ cơ quan. Cần rút kinh nghiệm để mở rộng việc áp dụng phương pháp lựa chọn, đề bạt cán bộ, kết hợp việc cán bộ, nhân viên trong đơn vị ấy bỏ phiếu đề cử, với việc cấp trên ra nghị quyết bổ nhiệm.

Đẩy mạnh và cải tiến các biện pháp đào tạo cán bộ để nâng cao chất lượng công tác này hơn nữa.

Xây dựng và chỉ đạo thực hiện tốt quy hoạch cán bộ là một biện pháp đặc biệt trọng yếu có tính chất quyết định để tăng cường công tác cán bộ về mọi mặt.

Phải có quy hoạch, kế hoạch cụ thể, tỷ mỷ để mở rộng đào tạo cán bộ mới một cách cơ bản có hệ thống, đi đôi với chăm lo bồi dưỡng cán bộ hiện có bằng nhiều hình thức. Chú trọng đào tạo cán bộ cho các địa phương phía Nam; vừa khẩn trương đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đương giữ chức vụ lãnh đạo và quản lý mà hầu hết những đồng chí này đã qua rèn luyện vững vàng, nhưng thiếu kiến thức văn hoá, thiếu lý luận và khả năng quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, vừa lựa chọn số đồng chí ưu tú còn trẻ tuổi đưa đi học tập một cách cơ bản. Tích cực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các dân tộc ít người và cán bộ người miền xuôi lên công tác ở miền núi. Ra sức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ để có điều kiện đưa thêm nhiều cán bộ nữ vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý.

Việc đào tạo cán bộ phải quán triệt yêu cầu của nhiệm vụ kế hoạch nhà nước ngắn hạn và dài hạn; phải trên tiêu chuẩn cán bộ và yêu cầu công tác mà định mục tiêu, nội dung, phương pháp, biện pháp đào tạo, tránh chỉ nhìn mặt bồi dưỡng lý luận hoặc khoa học cơ bản mà không coi trọng năng lực tổ chức thực tiễn, chỉ chú trọng chuyên môn, nghiệp vụ mà xem nhẹ giáo dục chính trị, tư tưởng hoặc ngược lại; tránh chỉ đào tạo, bồi dưỡng bằng học trong sách vở mà không chú trọng rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, trong sinh hoạt của chi bộ, chi đoàn và các đoàn thể chính trị khác.

Tăng cường hơn nữa tổ chức quản lý cán bộ. Đảng phải lãnh đạo chặt chẽ công tác cán bộ, phải quy định thống nhất đường lối, phương châm, chính sách lớn về công tác cán bộ và kiểm tra việc thực hiện. Các cấp uỷ Đảng xem xét và quyết định việc lựa chọn, bố trí cán bộ chủ chốt ở các ngành, các cấp. Đồng thời, phải đề cao trách nhiệm của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng trong việc quản lý số cán bộ hoạt động ở những cơ quan ấy, bảo đảm việc quản lý cán bộ gắn liền với việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị. Những việc quan trọng về công tác cán bộ phải do tập thể cấp uỷ, tập thể Ban cán sự, Đảng đoàn (trong đó các đồng chí thủ trưởng cơ quan tham gia) quyết định. Đồng thời đồng chí bí thư cấp uỷ và thủ trưởng các ngành, các đơn vị phải đích thân chỉ đạo công tác cán bộ. Làm như vậy là cần thiết để bảo đảm cho cấp uỷ Đảng nắm chắc tổ chức và việc bố trí, sử dụng, đề bạt, điều động cán bộ được chính xác, ít bị sai sót, bảo đảm đoàn kết thống nhất trong Đảng, ngăn ngừa có hiệu quả tệ độc đoán, chuyên quyền, chủ nghĩa cá nhân, tệ bè phái và chủ nghĩa cơ hội trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước.

Trong điều kiện mới của đất nước thống nhất, việc phân cấp và phân công quản lý cán bộ phải phù hợp với sự phát triển của nhiệm vụ chính trị và của đội ngũ cán bộ, vừa bảo đảm cho cơ quan lãnh đạo cấp trên thống nhất quản lý chặt chẽ số cán bộ chủ chốt, vừa tăng cường quyền hạn, trách nhiệm của cấp dưới để việc quản lý cán bộ được sát và kịp thời. Phải phân công trách nhiệm giữa cấp trên và cấp dưới trực tiếp sử dụng cán bộ, giữa ngành trung ương và cấp uỷ địa phương cho rõ ràng, hợp lý và bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ trong công tác quản lý cán bộ. Tăng cường trách nhiệm của chi bộ, đảng bộ cơ quan trong việc quản lý cán bộ. Phải xây dựng và thực hiện có nền nếp các chế độ, thủ tục về quản lý cán bộ, bao gồm quản lý đội ngũ cán bộ, quản lý từng cán bộ, các chế độ tuyển dụng, điều động, đề bạt cán bộ, chế độ nhận xét, chế độ xây dựng, bổ sung hồ sơ lý lịch, v.v. bảo đảm cho việc nắm cán bộ có hệ thống, cả về phẩm chất và năng lực, quá khứ và hiện tại một cách có nền nếp, khoa học.
Cần chăm lo săn sóc đời sống và sức khoẻ cán bộ. Phải trên cơ sở xác định rõ hơn nữa vị trí mới của từng cấp, nhất là các cấp huyện, cơ sở lớn và của từng ngành, nhất là các ngành trọng điểm mà cải tiến chế độ tiền lương, các thang bậc lương, quán triệt hơn nữa nguyên tắc phân phối theo lao động, góp phần thúc đẩy việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng. Đồng thời có chế độ thoả đáng đối với cán bộ cũ, cán bộ có nhiều cống hiến qua hai cuộc kháng chiến nhưng sức khoẻ và năng lực làm việc hiện nay có hạn; bổ sung những chế độ cần thiết đối với cán bộ hoạt động ở miền núi, có chính sách bồi dưỡng và đãi ngộ tốt hơn nữa đối với cán bộ cơ sở xã, phường, săn sóc chu đáo con cái những cán bộ, đảng viên đã hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước... Cần nghiên cứu chính sách cụ thể để áp dụng chế độ thâm niên đối với cán bộ, khắc phục tình trạng nâng lương theo tỷ lệ cố định không căn cứ vào sự phát triển tài năng của cán bộ. Các chế độ, chính sách đãi ngộ của Nhà nước vừa phải thể hiện sự chăm sóc sức khoẻ và đời sống của cán bộ trong điều kiện cho phép, vừa phải góp phần vào việc giữ gìn phẩm chất cách mạng tốt đẹp của người đảng viên, người cán bộ cách mạng, nêu cao lối sống cần kiệm giản dị, phát huy tinh thần đồng cam cộng khổ giữa cán bộ và quần chúng, giữa cấp trên và cấp dưới.

VIII

Xây dựng Đảng, chấp hành đúng điều lệ đảng là nhiệm vụ của toàn đảng

Bước vào giai đoạn cách mạng mới, phải xác định rõ, phải đặt rất cao vị trí của công tác xây dựng Đảng. Đó là vì nhiệm vụ cách mạng càng nặng nề, phức tạp, phong trào quần chúng càng rộng lớn thì vai trò của Đảng càng quan trọng, trách nhiệm của Đảng càng tăng lên, Đảng càng phải nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình. Bất kỳ một sự lơi lỏng nào trong công tác xây dựng Đảng, làm trái Điều lệ của Đảng đều gây tổn hại đến vai trò lãnh đạo của Đảng, đến sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, chẳng những chỉ trước mắt mà thậm chí còn để lại những hậu quả xấu lâu dài về sau.

Xây dựng Đảng, chấp hành đúng Điều lệ Đảng là nhiệm vụ chung của toàn Đảng. Mọi đảng viên dù hoạt động ở ngành nào, dù giữ những chức vụ gì cũng đều có nghĩa vụ chung là xây dựng Đảng, đều phải nghiêm chỉnh thi hành Điều lệ của Đảng.

Cần đặc biệt nhấn mạnh: lãnh đạo công tác xây dựng Đảng theo đúng Điều lệ Đảng là một chức năng cơ bản của cấp uỷ Đảng, là một bộ phận khăng khít và rất trọng yếu trong nội dung lãnh đạo toàn diện của các cấp uỷ Đảng. Nếu chỉ lo lãnh đạo sản xuất và công tác chuyên môn mà buông lỏng công tác xây dựng Đảng, không biết kết hợp chặt chẽ hai mặt công tác đó là không làm đúng chức năng của một cấp uỷ Đảng và cũng là tự biến mình thành một cơ quan kinh tế chuyên môn mà thôi. Cũng sẽ sai lầm nếu quan niệm xây dựng Đảng chỉ như một biện pháp cụ thể để bảo đảm hoàn thành từng nhiệm vụ sản xuất, chuyên môn trước mắt giống như các biện pháp kinh tế, kỹ thuật. Đương nhiên, công tác xây dựng Đảng và việc thi hành Điều lệ Đảng không có mục tiêu nào khác hơn là bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng. Song mặt khác, mỗi bước tiến lên của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị phải đồng thời là một bước mới tăng cường sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị, phải chăm lo xây dựng Đảng làm cho Đảng lớn mạnh, có đầy đủ tính chất một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, vững vàng lãnh đạo nhân dân ta tiến tới mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Xét về ý nghĩa của nó đối với tiền đồ và vận mệnh lâu dài của Đảng, đối với vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp cách mạng, thì công tác xây dựng Đảng rõ ràng vừa là nhiệm vụ tổ chức, vừa là nhiệm vụ chính trị vô cùng quan trọng, một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược lớn lao, có tính chất quyết định đối với mọi thắng lợi của cách mạng. Điều đó đòi hỏi các cấp uỷ không thể quan niệm công tác xây dựng Đảng một cách tủn mủn, hẹp hòi, mà phải đặt đúng vị trí và nội dung của nó trong toàn bộ sự lãnh đạo của mình.

Có ý thức đúng rồi, lại còn phải có đầy đủ kiến thức về công tác xây dựng Đảng thì các cấp uỷ mới có thể nâng cao chất lượng công tác này. Xây dựng Đảng là một môn khoa học. Để làm tốt công tác này, chúng ta phải trang bị cho mình những kiến thức phong phú và có hệ thống, đó là những nguyên lý về xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, phương châm xây dựng Đảng ta, các nguyên tắc, chính sách của Đảng trên các lĩnh vực công tác tư tưởng và tổ chức, các chế độ và phương pháp tiến hành từng mặt công tác xây dựng Đảng... Thêm nữa phải có những hiểu biết rất sâu rộng về triết học, chính trị, kinh tế, xã hội, phải hiểu lịch sử phong trào cộng sản thế giới và lịch sử cách mạng Việt Nam, hiểu về dân tộc và con người Việt Nam, hiểu công việc quản lý nhà nước của các ngành khác nhau,...

Thực tiễn xây dựng Đảng lại đang không ngừng phát triển, nhiều vấn đề mới đã và đang đặt ra đòi hỏi phải được soi sáng. Vì vậy, phải đi sâu nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm, vận dụng sáng tạo những nguyên lý chung vào thực tiễn Việt Nam, phát triển hơn nữa lý luận xây dựng Đảng.

Đảng đòi hỏi cán bộ, đảng viên, bên cạnh việc nâng cao trình độ hiểu biết về lý luận, về đường lối, chính sách, về văn hoá, kỹ thuật, quản lý, phải ra sức học tập nâng cao hiểu biết về công tác xây dựng Đảng. Các trường Đảng và các cơ quan có trách nhiệm phải làm tốt việc biên soạn sách giáo khoa và giảng dạy về công tác xây dựng Đảng.

Sau nữa, phải sắp xếp tổ chức và cải tiến lề lối làm việc để có thể chỉ đạo công tác xây dựng Đảng tốt hơn.

Trong các Ban thường vụ cấp uỷ, phải cải tiến cách phân công và lề lối làm việc để đồng chí bí thư và phó bí thư thường trực có thể dành nhiều thì giờ chỉ đạo công tác xây dựng Đảng.

Đối với các nghị quyết của Đại hội và của Trung ương về công tác xây dựng Đảng, cấp uỷ phải nghiên cứu chu đáo, các đồng chí bí thư và thường vụ phải đích thân chỉ đạo một nơi lấy kinh nghiệm thực tế lãnh đạo chung và để thiết thực bồi dưỡng ngay cho các đồng chí trong cấp uỷ. Các uỷ viên Ban chấp hành phụ trách các ngành chuyên môn, nói chung cũng phải được phân công làm một số công việc về xây dựng Đảng, chăm lo gắn chặt công tác xây dựng Đảng với công tác chuyên môn ngay trong ngành ấy.

Cần kiện toàn các Ban tổ chức, tuyên huấn, Uỷ ban kiểm tra về bộ máy, về con người, về chế độ và phương pháp làm việc để xứng đáng là tham mưu của cấp uỷ về công tác xây dựng Đảng. Cấp uỷ, trước hết là đồng chí bí thư và phó bí thư thường trực, phải chỉ đạo chặt chẽ các ban này, giúp họ quán triệt nhiệm vụ chính trị, thường kỳ nghe báo cáo, kiểm tra công tác và chỉ ra phương hướng hoạt động của họ, chỉ đạo việc kết hợp ba ban đó trong công tác xây dựng Đảng, cũng như kết hợp giữa ba ban ấy với các ban, các ngành khác để gắn chặt công tác xây dựng Đảng với nhiệm vụ chính trị. Từng ban phải cải tiến cách làm việc của mình, bảo đảm nhạy cảm hơn, gắn chặt hơn nữa công tác nghiên cứu, kiểm tra và tổ chức chỉ đạo công tác xây dựng Đảng với phong trào quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng.

Toàn bộ công tác xây dựng Đảng phải được tiến hành trên cơ sở Điều lệ Đảng, bộ luật chung của toàn Đảng.

Trong Đảng không thể có tình hình đảng viên không nghiên cứu Điều lệ Đảng, không tuân thủ nghiêm ngặt Điều lệ Đảng, và không đấu tranh với những hiện tượng vi phạm Điều lệ Đảng.

Bản Điều lệ Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam, được Đại hội thông qua sẽ là văn kiện thiết yếu của mọi đảng viên. Những nguyên tắc cơ bản về xây dựng Đảng, các chương, các điều của bản Điều lệ đã được toàn Đảng thảo luận, đóng góp ý kiến, đều phản ánh những nguyên tắc lêninnít về đảng kiểu mới được vận dụng sát với điều kiện cụ thể của Đảng ta, phản ánh những kinh nghiệm quý báu của Đảng ta từ trước đến nay, và thể hiện những bước trưởng thành mới của Đảng từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ III đến nay. Những điều mới được bổ sung vào Điều lệ nói lên quyết tâm của toàn Đảng xây dựng Đảng ta luôn luôn là một đảng Mác - Lênin xứng đáng với lòng tin cậy của giai cấp công nhân và nhân dân ta, với sự đồng tình, ủng hộ của các đảng anh em và bè bạn khắp năm châu.

Chính vì những lý do đó, chương cuối cùng của dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đã ghi rõ: "Mọi đảng viên và tổ chức của Đảng đều phải nghiên cứu kỹ lưỡng và nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng, kịp thời đấu tranh chống mọi hiện tượng vi phạm Điều lệ Đảng".
Thưa các đồng chí,

Nhìn lại bước đường đã qua, chúng ta vô cùng tự hào về Đảng ta, về những chặng đường đầy gian lao thử thách mà Đảng ta đã vượt qua, về những gì Đảng đã cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp, của dân tộc. Cùng với lịch sử chiến đấu kiên cường và thắng lợi vinh quang của mình, Đảng đã không ngừng lớn mạnh, sự lãnh đạo của Đảng ngày càng già dặn, vững vàng.
Trên chặng đường mới, những nhiệm vụ cách mạng vô cùng vẻ vang và cũng rất nặng nề đang chờ đón chúng ta. Sau khi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ "đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào", chúng ta đang ra sức tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước, biến thành hiện thực điều mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là "xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".

Đảng ta quyết không ngừng vươn lên, phát huy những truyền thống tốt đẹp, củng cố đội ngũ, tăng cường sức chiến đấu, nâng cao năng lực lãnh đạo, hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình trong giai đoạn mới. Đảng ta quyết mãi mãi xứng đáng với Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài của Đảng, của giai cấp công nhân và nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế; xứng đáng với những hy sinh cao cả của các anh hùng, liệt sĩ, của biết bao đồng chí, đồng bào trong mấy chục năm chiến đấu đã qua. Đảng ta quyết tiến lên, làm tròn nhiệm vụ trong giai đoạn mới, xứng đáng với lòng tin yêu của nhân dân cả nước, đáp lại những tình cảm tốt đẹp của nhân dân cách mạng thế giới đối với dân tộc ta, với Đảng ta.

Đảng và những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng

Ngày 3 tháng 2 năm 1930, một sự kiện lịch sử đã đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Đó là việc thành lập Đảng ta, Đảng Cộng sản Đông Dương, được đổi tên là Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1951, và ngày nay là Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng quang vinh do Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và của dân tộc, sáng lập, giáo dục và rèn luyện.

Từ đó đến nay, trải qua gần nửa thế kỷ, Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước đoàn kết chiến đấu, vượt qua muôn vàn thử thách gian lao, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Cách mạng Tháng Tám thành công đã lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam á.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ oanh liệt, đã giải phóng một nửa nước, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và mở đầu sự  sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ.

Thắng lợi trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã giải phóng hoàn toàn đất nước, thành lập nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đưa nước nhà bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi vĩ đại đó có ảnh hưởng to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, đã nâng dân tộc Việt Nam lên hàng các dân tộc tiên phong trong cuộc đấu tranh vì lý tưởng cao cả của loài người và báo hiệu sự phá sản hoàn toàn không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới do đế quốc Mỹ đứng đầu.
Những thắng lợi có ý nghĩa quốc tế và có tính chất thời đại trên đây chứng tỏ Đảng ta thật sự là một đảng Mác - Lênin vững mạnh, một đội ngũ kiên cường của phong trào cộng sản quốc tế.

Đảng cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân Việt Nam. Đảng đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc; đồng thời Đảng làm tròn nghĩa vụ của mình đối với phong trào cộng sản quốc tế.

Đảng gồm những người ưu tú nhất, có giác ngộ cộng sản chủ nghĩa, gương mẫu, dũng cảm và hy sinh nhất trong giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa và các tầng lớp lao động khác, tự nguyện đứng trong hàng ngũ Đảng để phấn đấu cho mục đích và lý tưởng của Đảng.

Mục đích của Đảng là thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.

Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình. Đảng vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, coi trọng việc tổng kết những kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của Đảng và của dân tộc, tiếp thụ những kinh nghiệm tốt của các đảng anh em, những tinh hoa trí tuệ của thời đại, đề ra đường lối, chính sách một cách độc lập, tự chủ để lãnh đạo thắng lợi cách mạng Việt Nam.

Đảng ra sức giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối, chính sách của Đảng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm cho tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống tinh thần của xã hội và trở thành hệ tư tưởng của toàn dân.

Đảng không ngừng nâng cao trình độ lý luận và thực tiễn, bồi dưỡng kiến thức khoa học, kỹ thuật và quản lý cho cán bộ, đảng viên.

Đảng bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chống mọi khuynh hướng cơ hội hữu và "tả", và khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều  và bệnh chủ quan một chiều.

Đảng cộng sản Việt Nam là hạt nhân lãnh đạo nền chuyên chính vô sản ở nước ta. Đảng có nhiệm vụ thống nhất, lãnh đạo mọi hoạt động của Nhà nước và của xã hội, tập trung nỗ lực của toàn dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong cả nước, bảo vệ độc lập, thống nhất vĩnh viễn của Tổ quốc.

Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải tăng cường đoàn kết, ra sức phấn đấu xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có công, nông nghiệp hiện đại, quốc phòng vững mạnh, văn hoá và khoa học tiên tiến, có cuộc sống văn minh và hạnh phúc.

Để đạt mục tiêu đó, phải nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Đảng cộng sản Việt Nam kết hợp một cách đúng đắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc tư sản và tiểu tư sản.

Đảng chăm lo tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác tương trợ giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, làm hết sức mình để góp phần tăng cường sự đoàn kết, thống nhất giữa các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới; ra sức ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc chống đế quốc xâm lược, chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới; ra sức ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của giai cấp công nhân và nhân dân lao  động các nước tư bản; xây dựng mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nước ta và các nước khác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền dân tộc, bình đẳng và cùng có lợi.

Đảng cộng sản Việt Nam liên hệ chặt chẽ với quần chúng, không ngừng chăm lo xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi khả năng sáng tạo của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản.

Đường lối, chính sách của Đảng phải thể hiện ý chí và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đảng và mỗi đảng viên phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, chăm lo đời sống của nhân dân, đi sâu, đi sát quần chúng, tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng làm tròn nghĩa vụ đối với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đảng kiên quyết đấu tranh chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, chuyên quyền, độc đoán, xa rời thực tế, xa rời quần chúng.

Đảng coi trọng việc tổ chức cho quần chúng góp ý kiến vào đường lối, chính sách của Đảng, tích cực tham gia sinh hoạt chính trị và quản lý nhà nước, góp phần kiểm tra sự hoạt động của tổ chức Đảng và Nhà nước, kiểm tra tư cách của cán bộ, đảng viên. Đảng khuyến khích và hoan nghênh quần chúng phê bình công việc của Đảng, của Nhà nước, phê bình cán bộ, đảng viên và thành khẩn tiếp thụ ý kiến phê bình đúng đắn của quần chúng.

Đảng chăm lo xây dựng và củng cố chính quyền, phát huy một cách có hiệu quả chức năng quản lý của Nhà nước chuyên chính vô sản, Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân, và thông qua chính quyền mà thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội.

Đảng chăm lo xây dựng và củng cố Đoàn thanh niên, Công đoàn, Hội phụ nữ và các đoàn thể cách mạng khác của quần chúng, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở liên minh công nông; ra sức phát huy tính tích cực và tính chủ động của các đoàn thể và Mặt trận trong việc giáo dục, vận động và tổ chức quần chúng thực hiện đường lối của Đảng, tích cực tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, giải quyết các vấn đề thiết thực về đời sống của quần chúng.

Đảng cộng sản Việt Nam là một khối thống nhất về ý chí và hành động, được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, lấy tự phê bình và phê bình làm một quy luật phát triển và có kỷ luật nghiêm minh.

Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Nguyên tắc ấy, một mặt, bảo đảm phát huy tính tích cực và tính sáng tạo của mọi tổ chức của Đảng và đảng viên trong việc tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng; mặt khác, bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng.

Đảng luôn luôn giữ vững lãnh đạo tập thể là nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của Đảng, đồng thời kết hợp chặt chẽ lãnh đạo tập thể với cá nhân phụ trách, phát huy tinh thần trách nhiệm của cá nhân. Dân chủ và kỷ luật trong Đảng phải được xây dựng thành chế độ chặt chẽ. Đảng chống mọi biểu hiện tập trung quan liêu, độc đoán, dân chủ tập thể hình thức, cũng như chống mọi biểu hiện phân tán, cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa, tự do vô kỷ luật, bè phái.

Các tổ chức của Đảng từ trung ương đến cơ sở và mọi đảng viên phải nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình; cấp trên phải tự phê bình trước cấp dưới và tổ chức tốt việc phê bình từ dưới lên. Tự phê bình và phê bình phải thành thật, thẳng thắn, và nhằm mục đích hoàn thành nhiệm vụ, xây dựng tổ chức, giúp đỡ nhau tiến bộ. Đảng nghiêm cấm những hành động trấn áp phê bình, trù dập cá nhân, và có thái độ nghiêm khắc đối với bất cứ cán bộ, đảng viên và tổ chức nào phạm các khuyết điểm ấy.

Đảng coi việc giữ gìn đoàn kết nhất trí trong Đảng trên cơ sở đường lối chính trị và nguyên tắc tập trung dân chủ là sinh mệnh của Đảng, và kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái trong Đảng. Giữa cán bộ, đảng viên phải xây dựng tình thương yêu đồng chí sâu sắc. "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình".

Đảng Cộng sản Việt Nam coi việc không ngừng xây dựng và củng cố Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ quyết định đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Phải ra sức xây dựng Đảng vững mạnh về cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Công tác tư tưởng và tổ chức phải kết hợp chặt chẽ với nhau; phải xuất phát từ đường lối và nhiệm vụ chính trị, đồng thời bảo đảm cho đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng được xác định đúng, được thấu suốt và thực hiện đầy đủ. Phải qua phong trào cách mạng của quần chúng, qua việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể của quần chúng mà tiến hành công tác xây dựng Đảng, tổ chức cho quần chúng tham gia xây dựng Đảng. Coi trọng kiện toàn tổ chức, phải gắn liền việc xây dựng Đảng với việc kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực của Nhà nước và với việc xây dựng, củng cố tổ chức quần chúng. Coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về phẩm chất và năng lực; bố trí, sử dụng cán bộ theo yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, quản lý tốt cán bộ, kết hợp chặt chẽ giữa nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên với nâng cao chất lượng của chi bộ, đảng bộ cơ sở, với việc tăng cường cơ quan lãnh đạo và kiện toàn bộ máy tổ chức ở từng cấp, từng ngành. Trong công tác phát triển Đảng, phải coi trọng chất lượng, chống khuynh hướng chạy theo số lượng đơn thuần; phát triển Đảng luôn luôn đi đôi với củng cố Đảng; một mặt, kết nạp những người ưu tú, đủ tiêu chuẩn; mặt khác, kịp thời đưa ra khỏi Đảng những phần tử thoái hoá, biến chất và những người không đủ tư cách đảng viên. Cảnh giác đề phòng những phần tử cơ hội và phản động chui vào Đảng.

Đảng Cộng sản Việt Nam nhận rõ sứ mệnh hết sức nặng nề và rất vẻ vang của mình. Trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và của dân tộc, với chủ nghĩa quốc tế vô sản, Đảng được giai cấp công nhân, nhân dân cả nước hết sức yêu mến và tin tưởng, được giai cấp công nhân và nhân dân thế giới hết lòng ủng hộ. Cán bộ, đảng viên không được vì thế mà tự mãn; trái lại phải hết sức khiêm tốn, ra sức trau dồi phẩm chất, đạo đức cách mạng và nâng cao năng lực của mình để thật sự "xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân".

Toàn Đảng phải làm cho Đảng vững vàng trước mọi thử thách, qua mọi thế hệ, mãi mãi là một đảng Mác - Lênin chân chính, xứng đáng với đồng chí Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của Đảng, của giai cấp công nhân và nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế.

Chương I

đảng viên

Điều 1. Những công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, có lao động, không bóc lột, trải qua rèn luyện trong đấu tranh cách mạng đã chứng tỏ là người ưu tú nhất trong quần chúng, có giác ngộ về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, trung thành với Tổ quốc, với chủ nghĩa xã hội, gương mẫu trong lao động sản xuất, công tác, chiến đấu và học tập, có liên hệ chặt chẽ với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm, nếu thừa nhận và nguyện tích cực phấn đấu để thực hiện đường lối chính trị và Điều lệ của Đảng, nguyện hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng, phục tùng kỷ luật của Đảng và đóng đảng phí theo quy định, đều có thể được công nhận là đảng viên.

Điều 2. Đảng viên có các nhiệm vụ như sau:

1. Suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập và tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản

Phải phấn đấu với nhiệt tình cách mạng và ý thức trách nhiệm cao nhất để thực hiện đúng và có hiệu quả đường lối, chính sách, các nghị quyết của Đảng và mọi nhiệm vụ Đảng giao cho, góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Phải tích cực đấu tranh để thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Ra sức góp phần xây dựng lực lượng vũ trang và nền quốc phòng toàn dân, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội.

Phải gương mẫu trong sản xuất, công tác, chiến đấu và học tập; có thái độ lao động đúng, có tinh thần chiến đấu dũng cảm, tìm cách tăng năng suất lao động, tăng hiệu suất công tác, hiệu quả chiến đấu, tích cực bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, của nhân dân, chống lãng phí, tham ô.

2. Không ngừng học tập và rèn luyện để nâng cao giác ngộ chính trị, đạo đức cách mạng và năng lực công tác

Mỗi đảng viên phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng, học tập văn hoá, khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ, đúc kết kinh nghiệm công tác; không ngừng nâng cao năng lực tổ chức và quản lý kinh tế, quản lý xã hội.

Phải thường xuyên tự rèn luyện về mọi mặt, thực hiện cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, kịp thời sửa chữa những thiếu sót trong công tác và về phẩm chất cách mạng; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống thoái hoá về chính trị và đạo đức.

3. Luôn luôn thắt chặt mối liên hệ với quần chúng, phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng, hết lòng, hết sức phục vụ quần chúng, đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân

Đảng viên phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng, chăm lo đời sống của quần chúng; đoàn kết, học tập, đi sát quần chúng, lắng nghe ý kiến và tìm hiểu nguyện vọng của quần chúng để phản ánh cho Đảng và kịp thời giải quyết một cách thích đáng.

Phải ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng, thuyết phục, vận động, tổ chức quần chúng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, của Nhà nước, phát triển ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng; kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, mệnh lệnh, độc đoán, chuyên quyền, xa thực tế, xa quần chúng.

Phải ra sức xây dựng chính quyền và các tổ chức quần chúng, nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật Nhà nước, kỷ luật của các đoàn thể cách mạng mà mình tham gia.

4. Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng

Mọi đảng viên phải tham gia đều đặn sinh hoạt Đảng, tích cực góp phần xây dựng đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng, bảo vệ và củng cố sự đoàn kết, thống nhất của Đảng; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội và bè phái.

Phải chấp hành không điều kiện các nghị quyết và sự phân công của Đảng.

Phải tìm những người thật tốt để bồi dưỡng tư tưởng, nâng cao giác ngộ về Đảng, và giới thiệu để chi bộ giúp đỡ và xét việc kết nạp vào Đảng.

Phải tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành động có hại đến lợi ích của Đảng, của cách mạng.

Phải chăm lo bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chính sách, bảo vệ tổ chức và uy tín của Đảng, giữ gìn bí mật của Đảng và Nhà nước, cảnh giác với mọi âm mưu phá hoại của kẻ địch.

Phải trung thực với Đảng, không giấu giếm, báo cáo sai sự thật và cũng không dung túng cho ai giấu giếm, báo cáo sai sự thật với Đảng.

5. Nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, góp phần làm tròn nghĩa vụ quốc tế của Đảng

Đảng viên phải chấp hành đúng đường lối quốc tế của Đảng. Phải thể hiện tinh thần quốc tế vô sản trong việc phấn đấu làm tốt trách nhiệm thường xuyên của mình để góp phần làm tròn nghĩa vụ quốc tế của Đảng.

Tất cả các đảng viên chính thức và đảng viên dự bị đều phải thực hiện những nhiệm vụ nói trên.

Điều 3. Đảng viên chính thức có quyền:

1. Thảo luận một cách dân chủ, thẳng thắn các vấn đề về đường lối, chính sách, về lý luận và công tác thực tiễn của Đảng trong các hội nghị của Đảng.

2. Biểu quyết công việc của Đảng; bầu cử, ứng cử hoặc được đề cử vào các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng.

3. Phê bình, chất vấn về công tác của cán bộ, đảng viên và tổ chức của Đảng trong phạm vi tổ chức. Đối với những vấn đề xét thấy cần, đều có thể báo cáo, đề đạt ý kiến hoặc khiếu nại lên các cơ quan lãnh đạo của Đảng và yêu cầu được trả lời.

4. Đối với các nghị quyết của Đảng, phải chấp hành không điều kiện, nhưng nếu có điều nào không đồng ý thì vẫn có thể đề đạt ý kiến của mình lên các cơ quan lãnh đạo của Đảng cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc.

5. Được trình bày ý kiến khi tổ chức của Đảng quyết định kỷ luật đối với mình hay nhận xét để ra quyết định về hoạt động hoặc đạo đức của mình.

Các đảng viên dự bị được hưởng các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết và quyền bầu cử, ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của Đảng.

Điều 4. - Việc kết nạp người vào Đảng phải tiến hành từng người một theo đúng các thủ tục sau đây:

1. Người xin vào Đảng phải hoàn toàn tự nguyện, phải làm đơn xin vào Đảng và phải báo cáo rõ và đúng lý lịch của mình cho chi bộ xét.

2. Phải được hai đảng viên chính thức có ít nhất hai năm tuổi đảng và đã cùng công tác một năm trở lên bảo đảm là có đủ tiêu chuẩn vào Đảng. Đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, nếu được chi đoàn thảo luận và nhận xét là có đủ tiêu chuẩn vào Đảng và được Ban Chấp hành của Đoàn ở cơ sở (xí nghiệp, xã, cơ quan, trường học, v.v.) bảo đảm thì chỉ cần một đảng viên chính thức có đủ điều kiện nói trên bảo đảm.

ở nơi có chi đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người trong lứa tuổi thanh niên phải là đoàn viên mới được kết nạp vào Đảng.

Người bảo đảm phải báo cáo với Đảng về lý lịch, phẩm chất, năng lực của người mình bảo đảm và chịu trách nhiệm trước Đảng về những lời bảo đảm của mình. Nếu có điểm chưa rõ thì phải báo cáo để tổ chức Đảng điều tra, xem xét.

Người vào Đảng không được phạm những điều do Trung ương quy định về lịch sử chính trị.

3. Phải được hội nghị chi bộ xét và quyết định kết nạp vào Đảng từng người một, với sự đồng ý ít nhất của 2/3 số đảng viên chính thức của chi bộ.

Trước khi chi bộ xét và quyết định kết nạp đảng viên, thì tổ đảng, chi uỷ phải xem xét kỹ lý lịch, trình độ giác ngộ, phẩm chất, năng lực và động cơ của người xin vào Đảng, để bảo đảm là người đó có đủ tiêu chuẩn vào Đảng.

Phải tổ chức lấy ý kiến nhận xét của quần chúng về người định kết nạp vào Đảng, kiểm tra lại công tác tuyên truyền riêng đối với người xin vào Đảng và phải bảo đảm là người đó đã được giải thích kỹ về Điều lệ Đảng, được tuyên truyền, giáo dục kỹ về đường lối, chính sách của Đảng.

Sau khi chi bộ quyết định kết nạp người vào Đảng, phải công bố cho quần chúng biết, trừ trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật.

4. Nghị quyết của chi bộ về kết nạp đảng viên phải được đảng uỷ cơ sở (nếu có) đồng ý và cấp uỷ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở (thị uỷ, huyện uỷ, v.v.) chuẩn y.

Việc chuẩn y kết nạp đảng viên phải tiến hành trên cơ sở xét từng người một sau khi đã thẩm tra lại kỹ lưỡng các kết luận của chi bộ, ý kiến của quần chúng và việc chấp hành các thủ tục kết nạp đảng viên.

5. Người được kết nạp vào Đảng phải trải qua một thời kỳ dự bị. Việc công nhận là đảng viên chính thức phải được ít nhất 2/3 đảng viên chính thức của chi bộ đồng ý.

Mấy thủ tục đặc biệt:

- ở những nơi chưa có tổ chức cơ sở Đảng, cơ quan lãnh đạo cấp trên của Đảng, có thể trực tiếp kết nạp đảng viên, nhưng vẫn phải theo đúng thủ tục: Người muốn vào Đảng phải tự yêu cầu và làm đơn xin vào Đảng, có đủ điều kiện về người bảo đảm đã quy định, và do cấp uỷ có trách nhiệm thẩm tra lại kỹ trước khi quyết định kết nạp vào Đảng và quyết định công nhận là đảng viên chính thức. Người bảo đảm có thể là đảng viên do cấp uỷ cử về để thẩm tra, tuyên truyền, giáo dục trước khi đề nghị kết nạp.

- Đối với đảng viên của đảng phái khác, Ban Chấp hành Trung ương sẽ tuỳ theo hoàn cảnh mà quyết định chủ trương có kết nạp vào Đảng hay là không. Trong trường hợp được kết nạp thì Ban Chấp hành Trung ương sẽ quy định các thủ tục riêng.

Điều 5. - Về thời kỳ dự bị quy định như sau:

1. Thời gian: một năm đối với: a) công nhân đã trực tiếp sản xuất từ 5 năm trở lên; b) cán bộ, nhân viên và chiến sĩ hoạt động chuyên nghiệp từ 5 năm trở lên trong bộ máy của Đảng, của Nhà nước, của các đoàn thể cách mạng và trong các lực lượng vũ trang nhân dân; 18 tháng đối với các thành phần và những trường hợp khác.

Đối với một số vùng có những đặc điểm khác nhau về phân hoá giai cấp xã hội, Ban Chấp hành Trung ương sẽ có những quy định cụ thể xét cần thiết để bảo đảm công tác kết nạp đảng viên được chặt chẽ.

2. Thời kỳ dự bị tính từ ngày chi bộ tuyên bố kết nạp vào Đảng.

3. Trong thời kỳ dự bị, chi bộ cần tiếp tục giáo dục, rèn luyện, thử thách để đảng viên dự bị có đủ điều kiện được công nhận là đảng viên chính thức. Người đảng viên dự bị phải được bồi dưỡng thêm những điều cần thiết về lý luận Mác - Lênin và đường lối, chính sách của Đảng, về nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, về quan hệ giữa đảng viên và quần chúng, về công tác vận động quần chúng của đảng viên, v.v.; chi bộ cần phân công đảng viên có uy tín, có năng lực giúp đảng viên đó tiến bộ.

Điều 6. - Khi hết thời kỳ dự bị, người đảng viên dự bị phải được xét kịp thời để được công nhận là đảng viên chính thức. Việc này phải do đảng viên dự bị đề nghị, hội nghị chi bộ thảo luận để xét từng người một và biểu quyết như khi xét kết nạp. Nếu xét thấy không đủ tư cách để được công nhận là đảng viên chính thức thì xoá tên trong danh sách đảng viên dự bị.

Nghị quyết của chi bộ về việc công nhận là đảng viên chính thức và việc xoá tên trong danh sách đảng viên dự bị phải được sự chuẩn y của cấp uỷ có thẩm quyền chuẩn y việc kết nạp người vào Đảng.

Tuổi đảng của đảng viên tính từ ngày được chi bộ quyết định công nhận là đảng viên chính thức.

Điều 7. - Việc phát và thu hồi thẻ đảng, quản lý giấy tờ về Đảng của đảng viên do Ban Chấp hành Trung ương quy định. Đảng viên chuyển đi nơi khác phải được cấp uỷ đảng giới thiệu theo đúng thủ tục do Ban Chấp hành Trung ương quy định để tham gia tổ chức Đảng nơi đến.

Điều 8. - Nếu đảng viên phạm sai lầm, khuyết điểm thì tổ chức Đảng cần kịp thời giáo dục, hoặc thi hành kỷ luật của Đảng. Đối với những người xét không đủ tư cách đảng viên thì phải kịp thời đưa ra khỏi Đảng theo đúng các thủ tục của Đảng.

Nếu đảng viên xin ra khỏi Đảng, thì hội nghị chi bộ xét, quyết định xoá tên trong danh sách đảng viên và báo cáo lên cấp trên cho đến cấp chuẩn y kết nạp đảng viên để kiểm tra lại.

Điều 9. - Đảng viên nào bỏ sinh hoạt Đảng hoặc không đóng đảng phí trong ba tháng liền mà không có lý do chính đáng thì chi bộ quyết định xoá tên trong danh sách đảng viên và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến cấp chuẩn y kết nạp đảng viên để kiểm tra lại.

Chương II

Nguyên tắc tập trung dân chủ

và hệ thống tổ chức của Đảng

Điều 10. - Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Những điều căn bản của nguyên tắc ấy là:
1. Các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng đều do bầu cử dân chủ mà lập ra.

2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc, của các cấp bộ Đảng là Đại hội đại biểu các cấp, của các tổ chức cơ sở Đảng là Đại hội đại biểu hoặc Đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ Đại hội, cơ quan lãnh đạo mỗi cấp là Ban Chấp hành do Đại hội cùng cấp bầu ra.

Các Ban Chấp hành phải báo cáo và chịu trách nhiệm trước Đại hội cấp mình, trước cơ quan lãnh đạo cấp trên và đảng bộ cấp dưới.

3. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng phải thực hiện đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể. Lãnh đạo tập thể phải đi đôi với cá nhân phụ trách, phát huy tinh thần trách nhiệm cá nhân.

4. Các công việc của Đảng đều phải tùy theo tính chất quan trọng của từng vấn đề mà do những cơ quan có đủ thẩm quyền của Đảng giải quyết.

Những vấn đề về đường lối, chính sách cơ bản của Đảng, những vấn đề có tầm quan trọng chung đối với toàn quốc đều phải do cơ quan lãnh đạo toàn quốc của Đảng (Đại hội đại biểu toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương) quyết định. Những vấn đề thuộc trách nhiệm và quyền hạn của địa phương thì các tổ chức Đảng có trách nhiệm ở địa phương phải chủ động giải quyết trong phạm vi không trái với đường lối, chính sách của Đảng và các quyết định của cấp trên.

5. Nghị quyết của các hội nghị của Đảng đều phải được biểu quyết theo đa số. Trước khi biểu quyết, các đảng viên đều được trình bày hết ý kiến của mình.

6. Các nghị quyết của Đảng phải được chấp hành không điều kiện. Cá nhân đảng viên phải phục tùng tổ chức và kỷ luật của Đảng, thiểu số phục tùng đa số, tổ chức cấp dưới phục tùng tổ chức có thẩm quyền ở cấp trên; các tổ chức Đảng trong toàn quốc phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương. Trong Đảng, tuyệt đối không được bè phái.

Điều 11. - Tổ chức của Đảng được lập ra theo đơn vị hành chính, đơn vị sản xuất hoặc công tác. Thành lập một đảng bộ mới hoặc bãi bỏ một đảng bộ sẵn có phải do cấp trên trực tiếp quyết định và cấp trên nữa chuẩn y.

 Trong những trường hợp đặc biệt, các tổ chức Đảng ở những đơn vị trực thuộc các bộ, ty, sở hoạt động lưu động và phân tán trong phạm vi nhiều địa phương mà không có địa điểm tập kết cố định, hoặc có những hoàn cảnh đặc biệt, cần giữ bí mật mà không thể giao về đảng bộ địa phương được, thì có thể được đặt dưới sự chỉ đạo của một Ban cán sự do Ban Chấp hành Trung ương hoặc cấp uỷ tỉnh, thành phố trực thuộc chỉ định, hoặc được tổ chức cùng với tổ chức cơ sở Đảng ở cơ quan thành một đảng bộ bộ, ty, sở do đảng uỷ bộ, ty, sở trực tiếp lãnh đạo. Trường hợp đảng viên ở các đơn vị ấy có ít thì nhập vào tổ chức cơ sở Đảng ở cơ quan bộ, ty, sở,... để hoạt động.

Ban Chấp hành Trung ương sẽ quy định chặt chẽ điều kiện thành lập, nhiệm vụ, quyền hạn và các mối quan hệ tùy thuộc của các tổ chức Đảng nói trên, và quy định mối quan hệ giữa các tổ chức đó với cấp uỷ địa phương.

Hệ thống chỉ đạo các tổ chức cơ sở Đảng ở cơ quan Trung ương và cơ quan cấp tỉnh, thành phố trực thuộc sẽ do Ban Chấp hành Trung ương quy định.

ở những khu vực hoặc đơn vị có tầm quan trọng đặc biệt về kinh tế, chính trị, v.v., Ban Chấp hành Trung ương có thể lập ra những tổ chức đặc biệt của Đảng và quy định nhiệm vụ, quyền hạn, cách tổ chức của các tổ chức đó.

Trong trường hợp đặc biệt và rất hạn chế, nếu được Ban Chấp hành Trung ương ra quyết định thì mới được lập tổ chức của Đảng theo hệ thống ngành dọc.

Điều 12. - Quân đội nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của Đảng. Tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam được tổ chức theo hệ thống ngành dọc từ cơ sở trở lên, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, hoạt động tuân theo Điều lệ Đảng và các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương.

Ban Chấp hành Trung ương chỉ định Quân uỷ Trung ương gồm một số uỷ viên Trung ương trong và ngoài quân đội. Quân uỷ Trung ương đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của Bộ Chính trị và Ban Bí thư, có nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo các mặt công tác của Đảng trong quân đội, trong phạm vi được Ban Chấp hành Trung ương uỷ nhiệm.

Tổng cục Chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam đảm nhiệm công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội dưới sự lãnh đạo của Quân uỷ Trung ương. Các Ban tổ chức, tuyên huấn, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương giúp Trung ương hướng dẫn và kiểm tra công tác chính trị và công tác xây dựng Đảng trong quân đội.

Các tổ chức Đảng trong quân đội phải quán triệt và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng trong quân đội, lãnh đạo đơn vị thi hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các mệnh lệnh, chỉ thị về chính trị, quân sự, kinh tế và mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho đơn vị; lãnh đạo toàn quân đoàn kết chung quanh Trung ương Đảng, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân, sẵn sàng hy sinh chiến đấu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, hăng hái lao động xây dựng đất nước, tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết giữa quân đội và nhân dân, đoàn kết quốc tế, củng cố kỷ luật tự giác, nghiêm minh, động viên cán bộ, chiến sĩ ra sức học tập chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật, không ngừng nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ về mọi mặt, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ.

Các tổ chức Đảng trong các đơn vị Quân đội nhân dân đóng ở các địa phương có nhiệm vụ liên hệ chặt chẽ với các cấp uỷ đảng ở địa phương theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Quân uỷ Trung ương và cách tổ chức các cấp uỷ Đảng trong quân đội do Ban Chấp hành Trung ương quy định.

Tổ chức Đảng ở các cơ quan và đơn vị quân sự địa phương trực thuộc đảng bộ địa phương, và đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của cấp uỷ địa phương trong phạm vi do Trung ương quy định. Cơ cấu tổ chức, phạm vi trách nhiệm, quyền hạn, các mối quan hệ nội bộ giữa các tổ chức ấy và với tổ chức Đảng ở cơ quan quân sự cấp trên do Ban Chấp hành Trung ương quy định.

Điều 13. - Việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải bảo đảm đầy đủ tính chất dân chủ và phải được chuẩn bị chu đáo để việc lựa chọn các thành viên được chính xác.

Danh sách những người ứng cử và những người được đề cử phải được những người bầu cử thảo luận, người bầu cử có quyền nhận xét, chất vấn các vấn đề cần thiết về người ứng cử, bầu hay không bầu đối với mỗi người ứng cử, không một cơ quan hay một đảng viên nào được gò ép. Danh sách những người ứng cử và được đề cử phải được Đại hội thông qua.

Việc bầu cử phải được tiến hành bằng cách bỏ phiếu kín. Đoàn chủ tịch Đại hội tổ chức và hướng dẫn việc bầu cử theo đúng các nguyên tắc và thủ tục.

Điều 14. - Các đại biểu đi dự Đại hội đại biểu các cấp đều phải do bầu cử từ dưới lên.

Việc chỉ định một số đại biểu đi dự Đại hội chỉ được tiến hành đối với một số đảng bộ hoạt động trong điều kiện đặc biệt không thể mở Đại hội đại biểu để tổ chức bầu cử được, theo quy định cụ thể của Ban Chấp hành Trung ương.

Danh sách các đại biểu đi dự Đại hội đại biểu phải được Đại hội đại biểu thẩm tra và quyết định; cấp uỷ không được bác bỏ tư cách đại biểu do cấp dưới cử ra, trừ trường hợp sau khi được trúng cử, người đại biểu đó bị thi hành kỷ luật bằng hình thức lưu lại trong Đảng để giáo dục và xem xét. Những trường hợp được cử không theo đúng các nguyên tắc bầu cử do Trung ương quy định thì phải tổ chức bầu lại.

Phải có quá 2/3 số đại biểu chính thức được triệu tập đến tham dự, thay mặt cho quá 2/3 số đảng viên và quá 2/3 số đảng bộ trực thuộc thì Đại hội đại biểu mới có giá trị.

Điều 15. - Đại hội toàn quốc và Đại hội các cấp phải được triệu tập đúng kỳ hạn. Giữa hai kỳ Đại hội đại biểu, trong trường hợp đặc biệt, khi cần quyết định những vấn đề quan trọng hoặc bổ sung một số uỷ viên Ban Chấp hành thì Ban Chấp hành Trung ương và các cấp có thể triệu tập Hội nghị đại biểu (Hội nghị đại biểu toàn quốc, Hội nghị đại biểu tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố, thị xã, huyện, quận hoặc khu phố thuộc thành phố trực thuộc). Hội nghị đại biểu gồm các uỷ viên trong cấp uỷ đứng ra triệu tập và các đại biểu do cấp uỷ cấp dưới cử lên theo quy định chung của Ban Chấp hành Trung ương.

Nghị quyết của Hội nghị đại biểu phải được cấp uỷ đã triệu tập hội nghị và các đảng bộ cấp dưới chấp hành. Nếu tập thể cấp uỷ triệu tập Hội nghị đại biểu có điểm chưa nhất trí với nghị quyết về công tác của Hội nghị đại biểu, thì xin ý kiến quyết định của cấp trên. Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc phải được Ban Chấp hành Trung ương thông qua. Những uỷ viên được bầu cử bổ sung vào các cấp uỷ địa phương phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp chuẩn y.

Điều 16. - Ban Chấp hành các cấp từ huyện trở lên và Ban Chấp hành những tổ chức cơ sở Đảng có trên 500 đảng viên, gồm một số uỷ viên chính thức và một số uỷ viên dự khuyết. Ban Chấp hành của các tổ chức cơ sở khác (đảng uỷ cơ sở xí nghiệp, xã, cơ quan, trường học, bệnh viện, v.v.) nếu xét cần, được các cấp uỷ tỉnh, thành phố trực thuộc đồng ý cũng có thể có uỷ viên dự khuyết. Các uỷ viên dự khuyết được tham dự và thảo luận ở Hội nghị Ban Chấp hành, nhưng không có quyền biểu quyết.

Khi uỷ viên chính thức của Ban Chấp hành các cấp thiếu thì lấy uỷ viên dự khuyết lên thay theo thứ tự số phiếu đã được bầu ở Đại hội đại biểu hoặc Đại hội đảng viên. Nếu hết uỷ viên dự khuyết mà vẫn thiếu thì Hội nghị đại biểu bầu cử bổ sung hoặc cấp uỷ cấp trên chỉ định.

Ban Chấp hành cấp dưới phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp chuẩn y.

Ban Chấp hành cấp trên, trong trường hợp thật cần thiết có thể điều động hoặc chỉ định một số uỷ viên của Ban Chấp hành cấp dưới. Số uỷ viên này không được quá 1/3 số uỷ viên do Đại hội cấp dưới đã cử ra.

Đối với các đảng bộ mới thành lập, nếu chưa thể tiến hành Đại hội ngay được thì Ban Chấp hành cấp trên tạm thời chỉ định Ban Chấp hành lâm thời các đảng bộ đó và định thời gian chậm nhất trong vòng 6 tháng phải tổ chức Đại hội để bầu cử Ban Chấp hành chính thức.

Điều 17. - Các cơ quan lãnh đạo của Đảng và cán bộ lãnh đạo cấp trên phải thường xuyên lắng nghe ý kiến của tổ chức cấp dưới và đảng viên, tiếp thu sáng kiến và kinh nghiệm của họ; phải báo cáo và tự phê bình trước cấp dưới, tổ chức cho cấp dưới và đảng viên phê bình, kiểm tra công tác của mình.

Cơ quan lãnh đạo cấp dưới và cán bộ, đảng viên phải tôn trọng sự lãnh đạo tập trung thống nhất của cấp trên; phải chấp hành nghiêm chỉnh, không điều kiện và triệt để các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, của tập thể; nếu có ý kiến khác thì phải đề đạt với cơ quan có thẩm quyền cùng cấp hoặc cấp trên xét và quyết định, nhưng đồng thời vẫn phải tuyệt đối chấp hành. Gặp các vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của cấp trên, của tập thể thì đề xuất ý kiến và phải kịp thời báo cáo, xin chỉ thị. Đồng thời phải hết sức phát huy tính tích cực và tính sáng tạo để giải quyết các vấn đề thuộc trách nhiệm của mình.

Mỗi tổ chức và đảng viên phải nghiêm chỉnh thực hiện chế độ dân chủ nội bộ, sử dụng đúng quyền dân chủ trong Đảng, đấu tranh chống mọi biểu hiện vi phạm dân chủ, độc đoán, gia trưởng, thẳng thắn phê bình, góp ý kiến với tổ chức và cán bộ lãnh đạo của Đảng. Phải nắm vững nguyên tắc: bộ phận phải phục tùng toàn bộ, không được bản vị, cục bộ, địa phương chủ nghĩa; các địa phương, các ngành, các tổ chức cần phát huy tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa và giúp đỡ nhau trong công tác.

Điều 18. - Các tổ chức của Đảng và đảng viên, phải nói và làm theo nghị quyết của Đảng, không được giải thích sai lệch theo quan điểm riêng của mình, không được tuyên truyền ý kiến riêng của mình về các vấn đề đường lối, chính sách, chủ trương thuộc quyền quyết định của cơ quan lãnh đạo cấp trên và cấp mình.

Báo chí của Đảng phải tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, các nghị quyết của Trung ương Đảng, của tổ chức cấp trên và của cấp mình.

Trong các hội nghị quần chúng và trên các báo chí, cán bộ, đảng viên khi phát biểu ý kiến, đều phải theo đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng.

Điều 19. - Ban Chấp hành các cấp của Đảng, tùy theo sự cần thiết được lập ra các cơ quan (Ban hoặc Tiểu ban) giúp việc. Thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn và cách làm việc của cơ quan này do cấp uỷ lập ra quyết định dựa theo quy định chung của Ban Chấp hành Trung ương.

Gặp những việc đặc biệt, các cấp uỷ có thể lập ra những ban đặc biệt, xong việc rồi thì giải tán.

Các cấp uỷ phải xây dựng và sử dụng tốt các ban, làm cho các ban thật sự là cơ quan tham mưu đắc lực của mình.

Chương III

Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng

Điều 20. - Đại hội đại biểu toàn quốc là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, do Ban Chấp hành Trung ương triệu tập, thường lệ 5 năm một lần. Khi có tình hình đặc biệt, Ban Chấp hành Trung ương có thể triệu tập Đại hội sớm hơn hoặc chậm lại một thời gian, không quá 1 năm. Trong trường hợp phải chậm lại, Ban Chấp hành Trung ương thảo luận tập thể, thông tri rõ lý do cho các cấp bộ Đảng biết.

Nếu xét thấy cần, hoặc có quá 1/2 số cấp uỷ trực thuộc yêu cầu, thì Ban Chấp hành Trung ương triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc bất thường.

Số đại biểu chính thức và số đại biểu dự khuyết dự Đại hội đại biểu toàn quốc và cách thức ứng cử và bầu cử đều do Ban Chấp hành Trung ương căn cứ vào tình hình chính trị chung, vào số lượng đảng viên và sự quan trọng của mỗi đảng bộ trực thuộc mà quyết định.

Trước khi họp Đại hội đại biểu toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương nêu các vấn đề sẽ bàn ở Đại hội cho các cấp bộ Đảng thảo luận.

Điều 21. - Nhiệm vụ của Đại hội đại biểu toàn quốc là: xét và chuẩn y các báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương, định đường lối đối nội, đối ngoại của Đảng và các vấn đề cơ bản nhất về tình hình và nhiệm vụ của Đảng trong từng thời kỳ; quyết định bổ sung hoặc sửa đổi Điều lệ Đảng; cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Điều 22. - Giữa hai kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng. Nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là 5 năm.

Số uỷ viên chính thức và số uỷ viên dự khuyết của Ban Chấp hành Trung ương do Đại hội đại biểu toàn quốc quyết định.

Điều 23. - Nhiệm vụ của Ban Chấp hành Trung ương là: lãnh đạo toàn bộ công tác của Đảng trong thời gian giữa hai kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc; chấp hành các nghị quyết khác của Đại hội đại biểu toàn quốc và Điều lệ của Đảng; quyết định các vấn đề quan trọng về kế hoạch nhà nước và các chính sách đối nội đối ngoại của Đảng; thay mặt Đảng liên lạc với các đảng anh em trên thế giới; thành lập các cơ quan chuyên môn, các Ban cán sự của Đảng, thành lập các đảng đoàn trong các cơ quan dân cử của bộ máy nhà nước và của các đoàn thể nhân dân có tính chất toàn quốc, và lãnh đạo các cơ quan, các đảng đoàn đó hoạt động; quản lý và phân phối cán bộ; định đảng phí, quản lý và phân phối tài chính của Đảng.

Ban Chấp hành Trung ương thường lệ sáu tháng họp một lần và cứ sáu tháng một lần báo cáo tình hình chung và công việc đã làm cho cấp dưới, đồng thời nêu các vấn đề cần thiết cho cấp dưới thảo luận và góp ý kiến với Trung ương.

Điều 24. - Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị toàn thể cử ra Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đồng thời cử Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương. Số uỷ viên Bộ Chính trị và Ban Bí thư do Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương quyết định. Ngoài số uỷ viên chính thức, Bộ Chính trị có một số uỷ viên dự khuyết.

Bộ Chính trị thay mặt Ban Chấp hành Trung ương lãnh đạo công tác của Đảng giữa hai kỳ Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương trên cơ sở các nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc và của Ban Chấp hành Trung ương.

Bộ Chính trị, thường kỳ và theo yêu cầu của Ban Chấp hành Trung ương, báo cáo về công việc của mình và của Ban Bí thư trước Ban Chấp hành Trung ương.

Ban Bí thư giải quyết công việc hàng ngày của Đảng, chỉ đạo công tác của các tổ chức Đảng và chỉ đạo sự phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản để thi hành các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và của Bộ Chính trị, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng ở các cấp, các ngành.

Chương IV

Tổ chức Đảng ở cấp tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ương, thành phố, thị xã, huyện, quận hoặc khu phố

Điều 25. - Đại hội đại biểu tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là thành phố trực thuộc), và Đại hội đại biểu thành phố trực thuộc tỉnh (gọi tắt là thành phố), thị xã, huyện, quận hoặc khu phố thuộc thành phố trực thuộc do Ban Chấp hành từng cấp (gọi tắt là tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc, thành uỷ, thị uỷ, huyện uỷ, quận uỷ hoặc đảng uỷ khu phố...) triệu tập thường lệ hai năm một lần. Khi có tình hình đặc biệt, Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành các cấp nói trên có thể triệu tập sớm hơn hoặc chậm lại một thời gian không quá sáu tháng, nhưng phải thông tri rõ lý do cho các đảng bộ cấp dưới biết để trình bày ý kiến và phải được cấp uỷ cấp trên đồng ý. Nếu quá 1/2 số cấp uỷ trực thuộc thấy vẫn cần thiết và có thể mở Đại hội đại biểu thì Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành phải thảo luận để quyết định triệu tập Đại hội đại biểu.

Các cấp uỷ không được vì những khó khăn thông thường mà trì hoãn việc triệu tập Đại hội đại biểu. Nếu xét thấy cần, hoặc quá 1/2 số cấp uỷ trực thuộc yêu cầu mà được Ban Chấp hành cấp trên đồng ý thì cấp uỷ triệu tập Đại hội đại biểu bất thường. Trước khi tiến hành Đại hội, Ban Chấp hành phải nêu các vấn đề sẽ bàn ở Đại hội cho các cấp bộ Đảng thảo luận.

Điều 26. - Nhiệm vụ của Đại hội đại biểu các cấp nói trên là: xét và chuẩn y báo cáo của Ban Chấp hành; thảo luận và quyết định nhiệm vụ, các chủ trương công tác quan trọng thuộc phạm vi địa phương, thảo luận các vấn đề do Ban Chấp hành Trung ương hoặc cấp trên đề ra nếu có; cử Ban Chấp hành và cử đại biểu đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc hoặc cấp trên nếu có.

Điều 27. - Nhiệm kỳ của tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc, thành uỷ, thị uỷ, huyện uỷ, quận uỷ hoặc đảng uỷ khu phố thuộc thành phố trực thuộc là hai năm. Số uỷ viên chính thức và số uỷ viên dự khuyết của cấp uỷ do Đại hội đại biểu ấn định dựa theo quy định chung của Ban Chấp hành Trung ương.

Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành tỉnh, thành phố trực thuộc do Ban Thường vụ triệu tập, thường lệ ba tháng một lần. Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành thành phố, thị xã, huyện, quận hoặc khu phố thuộc thành phố trực thuộc,... thường lệ mỗi tháng họp một lần. Trong trường hợp thật cần thiết có thể được triệu tập bất thường.

Điều 28. - Nhiệm vụ của Ban Chấp hành là: chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng, các nghị quyết của Đại hội đại biểu đảng bộ, các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, lãnh đạo các tổ chức ở địa phương hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước và mọi nhiệm vụ chính trị của địa phương; không ngừng chăm lo xây dựng, củng cố tổ chức và phát huy vai trò của chính quyền, của các đoàn thể quần chúng, bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân; thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng về mọi mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng ở địa phương; thành lập các ban, các Ban cán sự của cấp uỷ, các đảng đoàn ở địa phương và lãnh đạo các cơ quan ấy hoạt động; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ ở địa phương; căn cứ vào chế độ do Trung ương quy định, quản lý và phân phối cán bộ, quản lý và phân phối tài chính của Đảng; tham gia vào việc xây dựng và cụ thể hoá đường lối, chính sách của Đảng.

Các Ban Chấp hành phải báo cáo tình hình chung và công tác của mình lên Ban Chấp hành trung ương hoặc cấp uỷ cấp trên theo đúng kỳ hạn do Trung ương và cấp uỷ cấp trên quy định; và cứ ba tháng một lần, báo cáo tình hình chung và công việc đã làm cho tổ chức Đảng cấp dưới; từng thời gian, ít nhất sáu tháng một lần, nêu các vấn đề cần thiết cho cấp dưới thảo luận để đề đạt ý kiến và phê bình sự lãnh đạo của cấp trên.

Điều 29. - Hội nghị toàn thể tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc, thành uỷ, thị uỷ, huyện uỷ, quận uỷ hoặc đảng uỷ khu phố thuộc thành phố trực thuộc, v.v. cử ra Ban thường vụ, bí thư và các phó bí thư.

Số uỷ viên trong Ban thường vụ và số phó bí thư do Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành quyết định dựa theo một quy định chung của Ban Chấp hành Trung ương.

Bí thư tỉnh, thành phố trực thuộc phải có ít nhất 10 năm tuổi đảng và phải được Ban Chấp hành Trung ương chuẩn y. Bí thư thành uỷ, thị uỷ, huyện uỷ, quận uỷ hoặc đảng uỷ khu phố thuộc thành phố trực thuộc phải có ít nhất 5 năm tuổi đảng và phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp chuẩn y.

Ban thường vụ là cơ quan thay mặt Ban Chấp hành lãnh đạo mọi công tác của đảng bộ giữa hai kỳ Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành, phải báo cáo tình hình chung và công việc đã làm trước Ban Chấp hành theo định kỳ, trong các phiên họp thường lệ của Ban Chấp hành và khi xét thấy cần thiết.

Bí thư và các phó bí thư căn cứ vào các nghị quyết của Ban Chấp hành, của Ban thường vụ, các chỉ thị của cấp trên, giải quyết công việc hàng ngày của Đảng và tổ chức kiểm tra việc chấp hành các nghị quyết, chỉ thị ấy.

Chương V

Tổ chức cơ sở của đảng

Điều 30. - Các tổ chức cơ sở Đảng lập thành nền tảng của Đảng, nối liền Đảng và các cơ quan lãnh đạo cấp trên của Đảng với quần chúng công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác, là nơi giáo dục, rèn luyện, kết nạp và sàng lọc đảng viên, nơi đào tạo cán bộ cho Đảng, nơi xuất phát để cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng, nơi trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng vào quần chúng, và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách ấy.

Trong mỗi đơn vị cơ sở (như xí nghiệp, cửa hàng, hợp tác xã, bệnh viện, trường học, đơn vị cơ sở trong quân đội nhân dân, xã, phường, v.v.) nếu có từ ba đảng viên chính thức trở lên thì thành lập một chi bộ hoặc đảng bộ cơ sở gọi chung là tổ chức cơ sở Đảng.

Nếu không đủ ba đảng viên chính thức thì ghép các đồng chí ấy vào một tổ chức cơ sở gần đó mà sinh hoạt hoặc thành lập một chi bộ dự bị nếu có đủ ba đảng viên chính thức và dự bị. Chi bộ dự bị bàn biện pháp để thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên trong đơn vị mình. Chi bộ dự bị không quyết định thi hành kỷ luật đảng viên, không kết nạp đảng viên, mà chỉ đề đạt ý kiến về những công tác đó với cấp uỷ cấp trên.

Tổ chức cơ sở Đảng ở xã bao gồm các tổ chức Đảng hoạt động trong phạm vi một xã.

Điều 31. - Hình thức tổ chức của tổ chức cơ sở Đảng, căn cứ vào yêu cầu của công tác lãnh đạo và số lượng đảng viên, được quy định như sau:

a) Tổ chức cơ sở Đảng có thể gồm một hoặc nhiều chi bộ. Chi bộ là tổ chức tế bào cơ bản của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo và chiến đấu của Đảng trong quần chúng, là trường học giáo dục, rèn luyện mọi đảng viên, nơi kết nạp đảng viên và thi hành kỷ luật đối với đảng viên, phân công và kiểm tra công tác của đảng viên.

b) Tổ chức cơ sở Đảng có 30 đảng viên trở xuống thì sau khi được cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định, sẽ thành lập một chi bộ và họp Đại hội đảng viên để cử ra Ban Chấp hành chi bộ (gọi tắt là chi uỷ). Chi bộ có thể được chia ra nhiều tổ đảng.

c) Tổ chức cơ sở Đảng có trên 30 đảng viên, sau khi được cấp ủy cấp trên trực tiếp quyết định có thể họp Đại hội đại biểu hoặc Đại hội đảng viên để cử ra Ban Chấp hành của tổ chức cơ sở Đảng (gọi tắt là đảng uỷ cơ sở: đảng uỷ xí nghiệp, xã, cơ quan, v.v..). Dưới đảng uỷ cơ sở thì căn cứ theo đơn vị sản xuất, đơn vị công tác hay nơi ở mà thành lập một số chi bộ. Chi bộ họp Đại hội đảng viên cử ra Ban Chi uỷ.

Trong trường hợp đặc biệt, tổ chức cơ sở Đảng chưa có đủ 30 đảng viên, nhưng do đặc điểm về sản xuất, công tác hoặc do địa điểm phân tán, mà xét phải chia ra làm nhiều chi bộ, thì phải được tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc đồng ý. Ngược lại, tổ chức cơ sở Đảng tuy đông quá 30 đảng viên cho đến 50 đảng viên, nhưng xét không cần phải thành lập đảng uỷ cơ sở, nếu được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý thì có thể chỉ gồm một chi bộ.

d) ở những đơn vị cơ sở lớn mà trong một bộ phận tổ chức của đơn vị ấy (như phân xưởng ở xí nghiệp, khoa ở trường học, cục ở các bộ, hợp tác xã ở các xã có nhiều hợp tác xã, v.v.) có trên 30 đảng viên, nếu đảng uỷ cơ sở xét thấy cần thiết và được cấp trên trực tiếp đồng ý thì tổ chức Đảng ở bộ phận đó (như tổ chức Đảng ở phân xưởng, khoa, cục, hợp tác xã, v.v..) được chia ra làm nhiều chi bộ; tổ chức Đảng ở bộ phận họp Đại hội đảng viên hoặc Đại hội đại biểu để cử ra Ban Chấp hành của tổ chức Đảng ở bộ phận (gọi tắt là đảng uỷ bộ phận như: đảng uỷ phân xưởng, khoa, hợp tác xã, v.v.).

Điều 32. - Đại hội đại biểu hay là Đại hội đảng viên của tổ chức cơ sở Đảng, của tổ chức Đảng ở các bộ phận và của chi bộ thường lệ mỗi năm họp một lần. Trong trường hợp cần thiết được cấp trên trực tiếp đồng ý hoặc do quá 1/2 số cấp uỷ trực thuộc yêu cầu thì đảng uỷ cơ sở, đảng uỷ bộ phận triệu tập Đại hội bất thường. Chi bộ thường lệ họp mỗi tháng một lần.

Điều 33. - Đại hội đại biểu hay là Đại hội đảng viên của tổ chức cơ sở Đảng, của tổ chức Đảng ở bộ phận hay của chi bộ, xét và chuẩn y báo cáo của đảng uỷ cơ sở, của đảng uỷ bộ phận hoặc của chi uỷ; thảo luận và quyết định các vấn đề về chủ trương công tác quan trọng trong đơn vị mình; thảo luận các vấn đề do cấp trên đề ra nếu có; đến kỳ hạn cử đảng uỷ cơ sở, đảng uỷ bộ phận hoặc cử chi uỷ và cử đại biểu đi dự Đại hội đại biểu cấp trên nếu có.

Điều 34. - Nhiệm kỳ của đảng uỷ cơ sở là hai năm, của đảng uỷ bộ phận và của chi uỷ là một năm. Số lượng uỷ viên sẽ do Đại hội đại biểu hay Đại hội đảng viên quyết định, dựa theo quy định chung của Ban Chấp hành Trung ương và sự hướng dẫn của cấp trên.

Đảng uỷ cơ sở, đảng uỷ bộ phận trong đơn vị cơ sở, chi uỷ cử bí thư, phó bí thư. Những đảng uỷ cơ sở có từ chín uỷ viên chính thức trở lên được cử ra Ban thường vụ. Trước khi bầu cử, các đảng uỷ, chi uỷ, tổ chức cơ sở Đảng cần lấy ý kiến của quần chúng về những người mà quần chúng xét thấy xứng đáng được bầu vào cấp uỷ.

Chi bộ dưới bảy đảng viên chính thức chỉ cử một bí thư, nếu cần thì cử thêm một phó bí thư.

Bí thư đảng uỷ cơ sở, bí thư đảng uỷ bộ phận phải có ít nhất 3 năm tuổi đảng; bí thư đảng uỷ cơ sở, bí thư đảng uỷ bộ phận, bí thư chi bộ phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp chuẩn y.

Điều 35. - Những nhiệm vụ cơ bản của tổ chức cơ sở Đảng là:

1. Theo chức trách lãnh đạo của mình, bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, các chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước được thực hiện ở cơ sở.

Các tổ chức cơ sở Đảng nói chung phải đặt trọng tâm sự lãnh đạo của mình vào việc hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước, không ngừng củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa (nơi chưa tiến hành); tăng cường công tác quản lý, củng cố kỷ luật lao động, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và cải tiến kỹ thuật, đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hoá, nhằm tăng năng suất lao động, hiệu suất công tác, hiệu quả chiến đấu, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của quần chúng.

2. Bảo đảm quyền làm chủ tập thể của quần chúng, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng, phát huy tính tích cực và tính sáng tạo của quần chúng. Các tổ chức cơ sở Đảng phải chăm lo củng cố tổ chức và phát huy vai trò của chính quyền và của các đoàn thể quần chúng, xây dựng và nắm vững lực lượng vũ trang nhân dân và lực lượng an ninh nhân dân của địa phương, đơn vị; không ngừng nâng cao giác ngộ và trình độ mọi mặt của quần chúng, tuyên truyền vận động quần chúng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, chấp hành pháp luật Nhà nước.

3. Thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức đảng về mọi mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, ra sức xây dựng các đảng uỷ, các chi bộ thật sự thành hạt nhân lãnh đạo chính trị của Đảng ở cơ sở.

Thường xuyên giáo dục nhằm nâng cao trình độ mọi mặt của đảng viên; tăng cường đoàn kết nội bộ, thực hiện tự phê bình và phê bình; phân công và kiểm tra công tác của đảng viên, quản lý chặt chẽ đảng viên, kết nạp đảng viên mới, thi hành kỷ luật nghiêm minh của Đảng.

4. Ra sức xây dựng và cùng với cấp trên xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có phẩm chất, có năng lực, có kiến thức văn hoá, chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ và quản lý tốt đội ngũ cán bộ đó.

5. Thảo luận và tham gia ý kiến vào việc quyết định các vấn đề thuộc về đường lối, chính sách chung của Đảng; tập hợp ý kiến, kinh nghiệm sáng tạo của cán bộ, đảng viên và quần chúng để phản ánh lên cấp trên.

Các tổ chức cơ sở Đảng phải theo đúng chế độ, báo cáo tình hình chung và công việc đã làm lên cấp trên, thu đảng phí và nộp tài chính lên trên theo quy định.

Điều 36. - Các tổ chức cơ sở Đảng ở các đơn vị cơ sở sản xuất, kinh doanh, bệnh viện, trường học, xã, phường, đơn vị cơ sở trong quân đội, v.v. phải lãnh đạo tổ chức chính quyền và tổ chức quần chúng trong đơn vị mình thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của tổ chức đảng và cơ quan nhà nước cấp trên và những nhiệm vụ khác của đơn vị mình.

Tổ chức Đảng phải theo đúng chức trách và cương vị lãnh đạo của mình mà quyết định nhiệm vụ, các chủ trương, biện pháp chủ yếu và toàn diện, nhằm thúc đẩy các mặt công tác trong đơn vị, và kiểm tra việc thực hiện, nhưng không bao biện làm thay công việc của chính quyền và tổ chức quần chúng. Đối với các vấn đề về phương hướng, nhiệm vụ, chủ trương, biện pháp thuộc quyền quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên, tổ chức Đảng góp ý kiến với cấp trên và phải bàn biện pháp chấp hành.

ở những đơn vị thực hiện chế độ thủ trưởng thì tổ chức Đảng phải phát huy đầy đủ chế độ đó. Tổ chức Đảng không quyết định các vấn đề thuộc phạm vi chỉ huy sản xuất, kinh doanh và quản lý công việc hàng ngày của thủ trưởng và của cơ quan quản lý.

Tổ chức cơ sở Đảng ở cơ quan không quyết định chủ trương biện pháp về công tác chuyên môn của cơ quan, nhưng có trách nhiệm góp ý kiến về việc xây dựng kế hoạch công tác hàng năm và việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong cơ quan, tăng cường kỷ luật công tác, động viên cải tiến công tác của cơ quan, tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu, làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đối với đảng viên và người ngoài Đảng. Phải giám sát tình hình đảng viên trong cơ quan, kể cả người phụ trách, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, chấp hành pháp luật Nhà nước, kịp thời phát hiện những việc làm sai trái để góp ý kiến với người phụ trách và báo cáo những vấn đề cần thiết với cơ quan lãnh đạo của Đảng cấp trên. Đảng uỷ, chi uỷ ở cơ quan có trách nhiệm tham gia ý kiến vào việc lựa chọn, cất nhắc cán bộ trong cơ quan theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

Điều 37. - Các đảng uỷ cơ sở, đảng ủy bộ phận, chi ủy có nhiệm vụ thay mặt tổ chức đã cử ra mình để thống nhất lãnh đạo các mặt công tác ở đơn vị theo chức năng quy định cho từng loại tổ chức cơ sở Đảng; chấp hành các nghị quyết của Đại hội đại biểu, Đại hội và hội nghị đảng viên ở đơn vị mình và các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; lãnh đạo các tổ chức Đảng trực thuộc hoạt động; căn cứ vào chế độ do cấp trên quy định mà quản lý tổ chức, quản lý cán bộ, đảng viên và quản lý tài chính của tổ chức đảng; thay mặt tổ chức cơ sở Đảng báo cáo lên cấp trên theo quy định.

Đảng uỷ các tổ chức cơ sở Đảng có từ 500 đảng viên trở lên nếu được cấp uỷ tỉnh, thành phố trực thuộc đồng ý, thì được quyền như huyện uỷ đối với việc chuẩn y kết nạp đảng viên và thi hành kỷ luật đảng viên. Những trường hợp đặc biệt khác phải do Trung ương quy định.

Chương VI

Uỷ ban kiểm tra các cấp

Điều 38. - Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc, thành phố, thị xã, huyện, quận hoặc khu phố thuộc thành phố trực thuộc và cấp tương đương cử ra Uỷ ban Kiểm tra của cấp mình gồm một số uỷ viên trong Ban Chấp hành và một số uỷ viên ngoài Ban Chấp hành. ở các tổ chức cơ sở Đảng có từ 500 đảng viên chính thức và dự bị trở lên, nếu được tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc đồng ý thì đảng uỷ cơ sở cũng được cử Uỷ ban kiểm tra. ở các tổ chức cơ sở khác, đảng uỷ cơ sở phân công một đảng uỷ viên giúp đảng uỷ theo dõi vấn đề thi hành kỷ luật đảng viên, giải quyết thư tố cáo và khiếu nại về thi hành kỷ luật đối với đảng viên.

Danh sách Uỷ ban Kiểm tra cấp dưới phải được cấp uỷ cấp trên chuẩn y.

Điều 39. - Nhiệm vụ của Uỷ ban Kiểm tra các cấp là: kiểm tra những vụ đảng viên (kể cả cấp uỷ viên) vi phạm Điều lệ, kỷ luật của Đảng và pháp luật Nhà nước, kiểm tra việc thi hành kỷ luật của tổ chức Đảng ở cấp dưới, kiểm tra tài chính của Đảng; giải quyết thư tố cáo đối với đảng viên về những vấn đề có quan hệ đến công việc nói trên và thư khiếu nại về thi hành kỷ luật trong Đảng; căn cứ vào quyền hạn quy định ở chương IX mà chuẩn y, thay đổi hoặc xoá bỏ kỷ luật đối với đảng viên. Uỷ ban Kiểm tra của các tổ chức cơ sở Đảng (ở nơi được phép thành lập) không được quyền chuẩn y hoặc xoá bỏ kỷ luật đảng viên, mà chỉ kiểm tra, xem xét để đề xuất ý kiến về những công tác đó với đảng uỷ cơ sở và Uỷ ban Kiểm tra cấp trên.

Điều 40. - Uỷ ban Kiểm tra các cấp làm việc dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng.

Uỷ ban Kiểm tra cấp trên có quyền kiểm tra công việc của Uỷ ban Kiểm tra cấp dưới, chuẩn y, thay đổi hoặc xoá bỏ quyết định của Uỷ ban Kiểm tra và của các tổ chức Đảng cấp dưới về các vụ kỷ luật đối với đảng viên theo các quy định ở chương IX của Điều lệ Đảng.

Chương VII

Sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức nhà nước và tổ chức quần chúng

Điều 41. - Đảng lãnh đạo Nhà nước một cách toàn diện bằng đường lối và các chính sách của Đảng, bằng các nghị quyết và chỉ thị của Đảng về mục tiêu phấn đấu, chủ trương, biện pháp chủ yếu trên mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội, và về những vấn đề quan trọng nhất trong công tác tổ chức và cán bộ. Đường lối, chính sách của Đảng phải được thể hiện trong Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Đảng kiểm tra sự hoạt động của bộ máy nhà nước, giáo dục, động viên quần chúng hăng hái xây dựng chính quyền, chấp hành Hiến pháp và pháp luật, thực hiện kế hoạch nhà nước. Đảng bắt buộc các tổ chức Đảng và đảng viên tôn trọng quyền hạn, trách nhiệm và các chế độ của cơ quan nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và các quyết định của Nhà nước, coi đó là kỷ luật của Đảng.

Điều 42. - Đảng không ngừng củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của mình đối với các đoàn thể và tổ chức quần chúng bằng cách làm cho đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước được quán triệt và biến thành hành động tự giác của quần chúng, thông qua công tác giáo dục, tuyên truyền, vận động, thuyết phục của cán bộ, đảng viên trong các tổ chức đó. Đảng thường xuyên chỉ rõ cho các tổ chức quần chúng những yêu cầu, nhiệm vụ và những công tác quan trọng cần vận động quần chúng thực hiện trong từng thời gian; không ngừng làm cho các tổ chức Đảng và tổ chức Nhà nước tôn trọng và biết phát huy tính tích cực, tính chủ động và sáng tạo của các tổ chức quần chúng; tổ chức cho quần chúng tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và quản lý kinh tế, quản lý nhà nước.

Điều 43. - Trong các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước, của các tổ chức quần chúng, do bầu cử mà lập ra (như Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp, Ban Chấp hành các đoàn thể quần chúng, trừ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh), Đảng lập ra các Đảng đoàn gồm những đảng viên hoặc một số đảng viên hoạt động trong các tổ chức nói trên.

Nhiệm vụ của Đảng đoàn là bằng công tác thuyết phục, vận động quần chúng thực hiện đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng, tăng cường ảnh hưởng của Đảng, tăng cường đoàn kết và mối liên hệ chặt chẽ giữa cán bộ, đảng viên và người ngoài Đảng trong các tổ chức mình hoạt động, nghiên cứu để đề nghị cấp uỷ quyết định phương hướng, chủ trương công tác đối với tổ chức ấy và quản lý cán bộ theo quy định của Trung ương.

Đảng đoàn có bí thư và nếu cần có thể có phó bí thư; bí thư và phó bí thư Đảng đoàn do cấp uỷ chỉ định. Đảng đoàn phục tùng sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, tập thể ra quyết định và chịu trách nhiệm trước cấp uỷ.

Do sự giới thiệu của các cấp uỷ, Đảng đoàn cấp trên và Đảng đoàn cấp dưới có thể liên hệ với nhau để trao đổi ý kiến và kinh nghiệm công tác.

ở các cơ quan khác của Nhà nước, hoặc ở các lĩnh vực công tác khác trong trường hợp xét thấy cần thiết, Ban Chấp hành Trung ương hoặc các cấp uỷ địa phương có thể lập ra các Ban cán sự gồm những cán bộ do Ban Chấp hành Trung ương hoặc cấp uỷ chỉ định để đảm nhiệm những công việc của Đảng do Ban Chấp hành Trung ương hoặc cấp uỷ uỷ nhiệm.

Tổ chức, quyền hạn, nhiệm vụ cụ thể của Đảng đoàn, Ban cán sự sẽ do Ban Chấp hành Trung ương quy định.

Chương VIII

Đảng đối với đoàn thanh niên cộng sản

Hồ Chí Minh

Điều 44. - Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là cánh tay đắc lực và đội hậu bị tin cậy của Đảng, là trường học cộng sản chủ nghĩa của thanh niên.

Đoàn có nhiệm vụ tổ chức thanh niên thành lực lượng xung kích đi đầu trong mọi lĩnh vực hoạt động mới mẻ, khó khăn, phức tạp nhất của cách mạng, góp phần tích cực vào việc tuyên truyền, kiểm tra và đấu tranh để thực hiện đúng đắn, có hiệu quả đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng. Trong khi thực hiện các chính sách và chủ trương của Đảng, tổ chức của Đoàn cần chú ý đề đạt ý kiến và kinh nghiệm của mình với tổ chức Đảng.

Đoàn phải giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng, giáo dục về Đảng cho đoàn viên và tầng lớp trẻ, bồi dưỡng những đoàn viên ưu tú thành đảng viên và đào tạo những cốt cán của Đoàn thành cán bộ để cung cấp cho Đảng, cho các yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.

Điều 45. - Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng.

Ban Chấp hành Trung ương và các cấp của Đoàn chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Chấp hành Trung ương và của cấp uỷ Đảng cùng cấp. Các tổ chức của Đoàn phải báo cáo tình hình chung và công việc của mình với cấp uỷ Đảng cùng cấp.

Điều 46. - Tổ chức các cấp của Đảng có nhiệm vụ lãnh đạo tổ chức các cấp của Đoàn về mọi mặt: trong việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối, chính sách của Đảng cho đoàn viên, trong việc giữ gìn mối liên hệ chặt chẽ giữa Đoàn với đông đảo thanh niên, trong việc xây dựng và củng cố tổ chức, cải tiến hình thức và phương pháp hoạt động của Đoàn, trong việc bồi dưỡng, chọn lọc, cất nhắc cốt cán lãnh đạo của Đoàn,...

Trong công tác lãnh đạo của mình, tổ chức Đảng phải, nắm vững tính chất, vị trí, vai trò, chức năng của Đoàn, chú ý đầy đủ những đặc điểm của quần chúng thanh niên. Phải tích cực phát huy ý thức làm chủ tập thể của thanh niên và tính chủ động, tính sáng tạo của tổ chức Đoàn.

Điều 47. - Sau khi đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh được kết nạp vào Đảng và được công nhận là đảng viên chính thức, nếu không làm công tác lãnh đạo hoặc công tác chuyên môn trong tổ chức của Đoàn và nếu xét thật cần thiết thì chi bộ mới quyết định cho đảng viên thôi ở tổ chức của Đoàn.

Chương IX

Việc thi hành kỷ luật trong Đảng

Điều 48. - Kỷ luật của Đảng là để giữ vững sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng, tăng cường sức chiến đấu của Đảng. Việc thi hành kỷ luật là để bảo đảm cho kỷ luật của Đảng được nghiêm minh, đồng thời cũng là để giáo dục đảng viên và tổ chức của Đảng đã phạm sai lầm, giáo dục đảng viên, cán bộ khác và giáo dục quần chúng. Mọi biểu hiện buông lỏng kỷ luật của Đảng đều làm yếu Đảng, phá hoại tính chặt chẽ và sự thống nhất về tổ chức của Đảng, làm suy yếu mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng và hiệu lực của hệ thống chuyên chính vô sản. Các tổ chức Đảng và đảng viên phải đấu tranh chống mọi biểu hiện lệch lạc trong việc thi hành kỷ luật của Đảng.

Điều 49. - Tùy theo tình hình cụ thể, mức độ và tính chất các sai lầm của đảng viên và của tổ chức Đảng, tổ chức có thẩm quyền của Đảng sẽ áp dụng các hình thức kỷ luật như sau:

Đối với đảng viên: khiển trách, cảnh cáo, cách chức, lưu lại trong Đảng một thời gian để giáo dục và xem xét (gọi tắt là lưu Đảng), khai trừ ra khỏi Đảng.

Đối với tổ chức của Đảng: khiển trách, cảnh cáo, giải tán.

Thời gian lưu một đảng viên lại trong Đảng để giáo dục và xem xét là một năm. Trong thời gian đó, đảng viên không được quyền biểu quyết, bầu cử và ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Hết thời gian đó, nếu chi bộ thấy người đảng viên phạm kỷ luật đã thật sự tích cực hoạt động để sửa chữa sai lầm và đã tiến bộ thì khôi phục lại quyền biểu quyết, bầu cử và ứng cử; tuổi đảng vẫn giữ nguyên; trái lại, nếu xét thấy không còn đủ tư cách đảng viên, thì khai trừ ra khỏi Đảng.

Điều 50. - Về thẩm quyền thi hành kỷ luật:

1. Đối với từng đảng viên:

- Kỷ luật đối với đảng viên phải do hội nghị chi bộ thảo luận và quyết định. Trong trường hợp áp dụng hình thức lưu Đảng thì phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp của chi bộ chuẩn y; nếu dùng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng thì phải được ít nhất 2/3 tổng số đảng viên chính thức biểu quyết đồng ý và được cấp uỷ có thẩm quyền chuẩn y việc kết nạp đảng viên chuẩn y. Uỷ ban Kiểm tra của huyện uỷ và cấp uỷ tương đương được chuẩn y, thay đổi hoặc xoá bỏ việc thi hành kỷ luật của tổ chức cơ sở Đảng đối với đảng viên; riêng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng thì phải được cấp uỷ chuẩn y.

- Việc thi hành kỷ luật đối với đảng viên là cán bộ do cấp uỷ cấp trên quản lý, nhưng không phải là uỷ viên hoặc uỷ viên dự khuyết của Ban Chấp hành các cấp của Đảng, phải tùy theo phạm vi sai lầm (theo quy định của Trung ương) mà do chi bộ hoặc cấp uỷ quản lý cán bộ đó quyết định.

Trường hợp thuộc phạm vi thi hành kỷ luật của chi bộ thì chi bộ có quyền quyết định các hình thức khiển trách, cảnh cáo, còn đối với các hình thức kỷ luật khác thì đề nghị với cấp uỷ quản lý cán bộ. Uỷ ban Kiểm tra được xét để chuẩn y, thay đổi hoặc xoá bỏ kỷ luật đối với đảng viên là cán bộ do cấp uỷ cấp mình quản lý bằng các hình thức khiển trách, cảnh cáo; còn việc áp dụng các hình thức kỷ luật cách chức, lưu Đảng hoặc khai trừ ra khỏi Đảng thì phải do cấp uỷ quyết định. Việc cách chức và thi hành kỷ luật bằng các hình thức khác thuộc về kỷ luật hành chính trong công tác chuyên môn đối với đảng viên là cán bộ khác phải do cơ quan quản lý cán bộ đó quyết định.

- Việc thi hành kỷ luật đối với các uỷ viên và uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành các cấp (kể cả uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng) bằng các hình thức khiển trách, cảnh cáo và cách các chức vụ thuộc quyền quyết định của Ban Chấp hành phải do Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành quyết định. Nếu xử trí bằng các hình thức cách chức uỷ viên chính thức hoặc uỷ viên dự khuyết, lưu Đảng, khai trừ ra khỏi Đảng thì phải do Đại hội đại biểu hoặc Đại hội đảng viên quyết định, giữa hai kỳ Đại hội thì do Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành quyết định, với sự đồng ý ít nhất của 2/3 số uỷ viên chính thức và phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp chuẩn y; đến kỳ Đại hội gần nhất cấp uỷ phải báo cáo với Đại hội.
Đối với uỷ viên hoặc uỷ viên dự khuyết của Ban Chấp hành các cấp của Đảng, nếu phạm kỷ luật thuộc phạm vi chi bộ thì chi bộ có quyền quyết định hình thức khiển trách, cảnh cáo và báo cáo lên cấp uỷ mà uỷ viên đó là thành viên, chuẩn y; còn đối với các hình thức kỷ luật khác thì chi bộ có quyền đề nghị.

Việc thi hành kỷ luật một chi uỷ viên phải do hội nghị chi bộ quyết định, nhưng đối với hình thức cách chức chi uỷ viên, lưu Đảng, thì phải được cấp uỷ cấp trên chuẩn y; nếu khai trừ ra khỏi Đảng thì phải được cấp uỷ có quyền chuẩn y việc khai trừ đảng viên chuẩn y.

- Trong trường hợp xét thấy cần thiết, sau khi đã yêu cầu chi bộ hoặc cấp uỷ cấp dưới xét để quyết định kỷ luật đối với đảng viên (kể cả cấp uỷ viên) mà chi bộ hoặc cấp uỷ đó thi hành kỷ luật chưa đúng mức hoặc không thi hành kỷ luật, thì cấp uỷ cấp trên sau khi đã cân nhắc kỹ lưỡng, có thể quyết định nâng mức kỷ luật hoặc thi hành kỷ luật đảng viên, và theo quy định của Trung ương, báo cáo lên cấp uỷ hoặc Uỷ ban Kiểm tra cấp trên chuẩn y đối với các hình thức kỷ luật thuộc quyền chuẩn y của cấp trên.

- Ngoài các quy định trên đây, Ban Chấp hành Trung ương sẽ quy định cụ thể phạm vi quyền hạn của Uỷ ban Kiểm tra các cấp trong việc chuẩn y, thay đổi hoặc xoá bỏ quyết định của tổ chức Đảng cấp dưới về các vụ thi hành kỷ luật đối với đảng viên.
2. Đối với tổ chức của Đảng:

Việc thi hành kỷ luật một tổ chức của Đảng phải do cơ quan lãnh đạo cấp trên của tổ chức đó quyết định sau khi đã nghe tổ chức đó tự kiểm điểm và trình bày ý kiến về ưu điểm, khuyết điểm của mình.

Việc giải tán một chi bộ hoặc một tổ chức cơ sở Đảng phải do cấp uỷ tỉnh, thành phố trực thuộc quyết định trên cơ sở đề nghị của thị uỷ, huyện uỷ, quận uỷ hoặc đảng uỷ khu phố thuộc thành phố trực thuộc hoặc cấp uỷ cấp trên của tổ chức cơ sở sau khi đã trực tiếp kiểm tra, xem xét kỹ lưỡng; quyết định đó phải được Ban Chấp hành Trung ương chuẩn y.

Việc thi hành kỷ luật giải tán một cấp uỷ phải do Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành cấp trên trực tiếp quyết định, với sự đồng ý ít nhất của 2/3 số uỷ viên chính thức Ban Chấp hành và được cấp uỷ cấp trên của cấp uỷ đã quyết định việc giải tán chuẩn y; đối với tỉnh uỷ, thành uỷ và đảng uỷ trực thuộc Trung ương thì do Ban Chấp hành Trung ương quyết định.

Chỉ giải tán một tổ chức Đảng trong các trường hợp sau đây: có từ 2/3 đảng viên hoặc uỷ viên chính thức trở lên phạm sai lầm đến mức cần phải thi hành kỷ luật khai trừ ra khỏi Đảng; tập thể tổ chức đó đã có hành động chống lại đường lối của Đảng một cách có ý thức, hoặc có đủ bằng chứng là không còn đủ tin cậy về mặt chính trị.

Những đảng viên không có khuyết điểm hoặc không phạm sai lầm đến mức phải khai trừ ra khỏi Đảng ở những chi bộ hoặc tổ chức Đảng bị giải tán, được cấp uỷ có thẩm quyền quyết định kỷ luật giải tán cho đăng ký lại vào tổ chức mới được thành lập nếu có, hoặc được giới thiệu sinh hoạt ở một chi bộ khác.

Điều 51. - Việc thi hành kỷ luật của Đảng phải được bảo đảm chặt chẽ, kịp thời. Nhưng khi quyết định kỷ luật đối với đảng viên và tổ chức của Đảng, nhất là khi quyết định khai trừ ra khỏi Đảng hoặc giải tán tổ chức là những hình thức kỷ luật cao nhất của Đảng, các tổ chức có trách nhiệm của Đảng phải hết sức thận trọng; phải điều tra, nghiên cứu kỹ càng, đi sâu tìm hiểu bản chất, tránh chỉ nhìn hiện tượng và phải căn cứ vào những bằng chứng xác thực. Trước khi quyết định kỷ luật, tập thể tổ chức có thẩm quyền phải nghe người phạm kỷ luật hoặc người đại diện cho tổ chức bị thi hành kỷ luật trình bày ý kiến.

Sau khi hình thức kỷ luật đã được chính thức quyết định hoặc chuẩn y, cần giải thích cho người hoặc tổ chức bị thi hành kỷ luật hiểu rõ lý lẽ; nếu người hoặc tổ chức bị thi hành kỷ luật không đồng ý thì trong vòng sáu tháng có quyền yêu cầu tổ chức đã quyết định hoặc chuẩn y kỷ luật đó xét lại và có thể khiếu nại lên cấp uỷ hoặc Uỷ ban Kiểm tra cấp trên của các tổ chức đó. Sau đó nếu xét cần thì có thể khiếu nại cho đến Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Các cơ quan của Đảng, khi nhận được các thư khiếu nại yêu cầu giải quyết hoặc đề nghị chuyển lên cấp trên, cần kịp thời giải quyết hoặc chuyển đi ngay, không được dìm bỏ. Khi nhận được thư khiếu nại, cơ quan có trách nhiệm phải báo cho người gửi thư biết, và chậm nhất là trong vòng một tháng phải tổ chức điều tra nghiên cứu để xem xét. Cấp uỷ Đảng cấp dưới phải theo định kỳ ba tháng một lần, báo cáo lên cấp uỷ cấp trên số lượng và tình hình giải quyết thư khiếu nại về kỷ luật của đảng viên và của tổ chức Đảng; cấp uỷ cấp trên phải tổ chức kiểm tra việc giải quyết các thư khiếu nại đó của cấp trên.

Điều 52. - Khi nghị quyết về khai trừ đảng viên ra khỏi Đảng hoặc giải tán một tổ chức Đảng chưa được cấp uỷ có thẩm quyền chuẩn y thì đảng viên đó vẫn được tham gia sinh hoạt, tổ chức đó vẫn được quyền hoạt động. Việc tạm đình chỉ sinh hoạt Đảng của đảng viên hoặc tạm đình chỉ hoạt động của một tổ chức Đảng chỉ được áp dụng trong trường hợp hết sức đặc biệt và phải được cấp uỷ có thẩm quyền chuẩn y kỷ luật khai trừ đảng viên hoặc kỷ luật giải tán tổ chức ấy đồng ý.

Điều 53. - Những đảng viên vi phạm pháp luật của Nhà nước phải chịu thi hành kỷ luật nghiêm minh của Đảng và Nhà nước, không ai được dung túng, bao che.

Trong trường hợp đảng viên bị truy tố trước toà án thì tổ chức Đảng có thẩm quyền sẽ kịp thời xét việc thi hành kỷ luật về Đảng, và tội trạng của họ sẽ do các cơ quan hành chính hoặc tư pháp xét xử về mặt Nhà nước. Nếu đảng viên bị xử tù thì tổ chức Đảng phải khai trừ ra khỏi Đảng.

Trong trường hợp đảng viên bị bắt, bị xử trí oan, sau khi đã có đủ bằng chứng để kết luận là bị xử trí sai, tổ chức Đảng, tổ chức chính quyền phải minh oan và khôi phục mọi quyền chính đáng đã bị tước.

Điều 54. - Một thời gian, sau khi đảng viên bị thi hành kỷ luật, tổ chức Đảng đã quyết định kỷ luật hoặc chi bộ nơi đảng viên sinh hoạt cần thảo luận về việc sửa chữa khuyết điểm của đảng viên, nếu xét thấy đảng viên thật sự đã sửa chữa và tiến bộ, thì quyết định hoặc đề nghị lên cấp đã quyết định thi hành kỷ luật công nhận đảng viên đã sửa chữa khuyết điểm. Tổ chức Đảng không có định kiến trong việc sử dụng, cất nhắc những đảng viên đó.

Chương X

Tài chính của Đảng

Điều 55. - Tài chính của Đảng gồm đảng phí do đảng viên đóng và các khoản thu nhập khác của Đảng do Ban Chấp hành Trung ương quy định.

Điều 56. - Ban Chấp hành Trung ương ra quyết định về chế độ thu đảng phí theo tỷ lệ từng loại thu nhập cơ bản của đảng viên.

Điều 57. - Tài chính của Đảng phải thống nhất. Ban Chấp hành Trung ương lập ra cơ quan tài chính của Đảng và quy định những nguyên tắc thu chi và quản lý tài chính của Đảng một cách chặt chẽ. Cơ quan tài chính có quyền kiểm tra nghiệp vụ công tác tài chính của tổ chức Đảng ở các cơ quan cùng cấp và của tổ chức Đảng cấp dưới, đồng thời chịu sự kiểm tra tài chính của Uỷ ban Kiểm tra cấp trên hoặc Uỷ ban Kiểm tra cùng cấp.

Các cấp bộ của Đảng phải nộp tài chính thu được lên cấp trên theo tỷ lệ do Ban Chấp hành Trung ương quy định và phải nghiêm chỉnh tuân theo những nguyên tắc và quy định về tài chính của Đảng.

Chương XI

Chấp hành điều lệ Đảng

Điều 58. - Mọi đảng viên và tổ chức của Đảng đều phải nghiên cứu kỹ lưỡng và nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng, kịp thời đấu tranh chống mọi hiện tượng vi phạm Điều lệ Đảng.

Điều 59. - Chỉ có Đại hội đại biểu toàn quốc mới có quyền sửa đổi Điều lệ này.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét