Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012

Văn kiện Đại hội lần thứ mười (2006), phần 2

3. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam 
Quyết nghị 
1- Thông qua Báo cáo Chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 và Báo cáo về công tác xây dựng Đảng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX trình Đại hội; giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X căn cứ vào kết quả biểu quyết và những kết luận của Đại hội để hoàn chỉnh và chính thức ban hành 
2- Thông qua toàn văn Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã được bổ sung, sửa đổi. 
3- Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X và các cấp ủy, tổ chức đảng xây dựng chương trình và kế hoạch hành động cụ thể để tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối và những chủ trương đã nêu trong các văn kiện Đại hội. 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phát huy truyền thống vẻ vang của toàn Đảng, toàn dân tộc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, năng động và sáng tạo, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". 
Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 2006
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam


4. Danh sách Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra Khoá X 


BỘ CHÍNH TRỊ KHÓA X

Đồng chí
Nông Đức Mạnh
Đồng chí
Lê Hồng Anh
Đồng chí
Nguyễn Tấn Dũng
Đồng chí
Nguyễn Minh Triết
Đồng chí
Trương Tấn Sang
Đồng chí
Nguyễn Phú Trọng
Đồng chí
Phạm Gia Khiêm
Đồng chí
Phùng Quang Thanh
 Đồng chí
Trương Vĩnh Trọng
 Đồng chí
Lê Thanh Hải
Đồng chí
Nguyễn Sinh Hùng
Đồng chí
Nguyễn Văn Chi

Đồng chí
Hồ Đức Việt
Đồng chí
Phạm Quang Nghị



BAN BÍ THƯ TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHÓA X
Đồng chí
Nông Đức Mạnh
Đồng chí
Trương Tấn Sang
Đồng chí
Trương Vĩnh Trọng
Đồng chí
Nguyễn Văn Chi
Đồng chí
Hồ Đức Việt(*)
Đồng chí
Lê Văn Dũng

Đồng chí
Tòng Thị Phóng
Đồng chí
Tô Huy Rứa

 ***
ỦY BAN KIỂM TRA TRUNG ƯƠNG
1- Đ/c Nguyễn Văn Chi: Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
2- Đ/c Nguyễn Thị Doan
3- Đ/c Phạm Thị Hải Chuyền
4- Đ/c Trần Hoà
5- Đ/c Phạm Chí Hoà
6- Đ/c Phạm Thị Hoè
7- Đ/c Lê Hồng Liêm
8- Đ/c Lê Văn Giảng
9- Đ/c Nguyễn Văn Đảm
10- Đ/c Sa Như Hoà
11- Đ/c Nguyễn Minh Quang
12- Đ/c Bùi Văn Thể
13- Đ/c Tô Quang Thu

(*) Tại Hội nghị Trung ương 3, Ban Chấp hành Trung ương khóa X

5. Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về các Văn kiện Đại hội X của Đảng
(Do đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trình bày ngày 18-4-2006)
Thưa Đoàn Chủ tịch,
Thưa các vị khách quý,
Thưa các đồng chí đại biểu Đại hội,
Đại hội X của Đảng họp vào lúc toàn Đảng, toàn dân ta kết thúc 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và đã trải qua 20 năm đổi mới.
Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và quyết định phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước trong thời gian tới. Chủ đề của Đại hội là: "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển".
Ban Chấp hành Trung ương xin trình Đại hội các văn kiện : Báo cáo chính trị; Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010; Báo cáo công tác xây dựng Đảng; Báo cáo một số vấn đề về bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII trong nhiệm kỳ Đại hội IX và Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương khoá IX.
Trong quá trình chuẩn bị các văn kiện, đảng bộ các cấp, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội, các đồng chí lão thành cách mạng, các nhà trí thức đã đóng góp nhiều ý kiến phong phú và sâu sắc. Sau khi dự thảo Báo cáo chính trị được công bố rộng rãi, đông đảo các tầng lớp nhân dân trong nước và đồng bào ta định cư ở nước ngoài đã sôi nổi đóng góp nhiều ý kiến quý báu, đầy tâm huyết, thể hiện tinh thần trách nhiệm với Đảng, với dân tộc, mong muốn Đảng ta ngày càng vững mạnh, đất nước ta ngày càng phát triển, Đại hội X đánh dấu bước phát triển về đường lối, chính sách, về tổ chức và nhân sự đáp ứng được đòi hỏi của cuộc sống. Các văn kiện trình Đại hội lần này là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân ta.
Từ diễn đàn trọng thể này, Đại hội chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh và bày tỏ lòng biết ơn chân thành về sự đóng góp xây dựng quý báu ấy của đồng chí, đồng bào !
Thưa các đồng chí,
Sau đây, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, tôi xin trình bày những nội dung chủ yếu trong các văn kiện trình Đại hội.
I- ĐÁNH GIÁ 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI IX CỦA ĐẢNG VÀ NHÌN LẠI 20 NĂM ĐỔI MỚI
Năm năm qua, bên cạnh những thuận lợi cơ bản do tiến trình đổi mới tạo ra, nước ta cũng gặp không ít khó khăn, thách thức do những yếu kém vốn có của nền kinh tế trình độ thấp; thiên tai, dịch bệnh xảy ra ở nhiều nơi; tình hình thế giới và khu vực diễn biến hết sức phức tạp. Trong hoàn cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ra sức phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và đã đạt những thành tựu rất quan trọng :
Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước, bình quân trong 5 năm (2001 - 2005) là 7,5% và phát triển tương đối toàn diện. Văn hoá và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, nhất là trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy. Công tác xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực.
Đạt được những thành tựu trên là nhờ đường lối đúng đắn của Đảng; sự quản lý thống nhất theo pháp luật của Nhà nước, sự điều hành năng động của Chính phủ và sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Đó còn là do tác động tích cực của những cơ chế, chính sách đã ban hành; do kết quả đầu tư trong nhiều năm qua đã làm cho năng lực sản xuất của nhiều ngành và toàn bộ nền kinh tế tăng khá. Nhân dịp này, Đại hội chúng ta nhiệt liệt biểu dương các ngành, các cấp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, các tầng lớp nhân dân đã lao động quên mình, góp phần đem lại những thành tựu rất quan trọng đó.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta còn nhiều khuyết điểm và yếu kém :
Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ chế, chính sách về văn hoá - xã hội chậm đổi mới; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn một số khâu chậm đổi mới. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu.
Có những khuyết điểm đó là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, chủ yếu là những nguyên nhân chủ quan như: Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới; một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chậm làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo, điều hành. Sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt, nhất là trong ba lĩnh vực: xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực; đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém về phẩm chất, năng lực và tinh thần trách nhiệm, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ trình độ, năng lực hoàn thành nhiệm vụ.
Những khuyết điểm nói trên, trước hết thuộc về trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp là của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Ban Chấp hành Trung ương xin tự phê bình nghiêm túc về những khuyết điểm của mình trước Đại hội và trước nhân dân.
Thưa các đồng chí,
Những thành tựu trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX đã góp phần quan trọng vào thành tựu chung của 20 năm đổi mới.
Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Thưa các đồng chí,
Ban Chấp hành Trung ương rất vui mừng báo cáo với Đại hội, trong quá trình thảo luận và đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội lần này, trong Đảng và trong nhân dân, đã có sự nhất trí cao với đánh giá tổng quát : Những thành tựu đạt được trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX là rất quan trọng; những thành tựu của 20 năm đổi mới là to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Từ thực tiễn đổi mới, Đảng và Nhà nước ta càng tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý. Có thể rút ra một số bài học lớn sau đây : Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Thực tiễn chứng minh hùng hồn rằng, đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của đất nước và giai đoạn hiện nay. Tại Đại hội này, Đảng ta khẳng định "tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới", một chủ trương được toàn dân ủng hộ và dư luận quốc tế đánh giá cao.
Qua tổng kết lý luận - thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo có ý nghĩa to lớn của "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" (năm 1991) đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp. Sau Đại hội X, Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
II- MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 5 NĂM 2006 - 2010
Thưa các đồng chí,
Trong những năm sắp tới, trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Khoa học và công nghệ sẽ có những bước đột phá mới. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, tranh chấp về lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Đồng thời, nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức quốc tế phải phối hợp giải quyết như khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn; tình trạng môi trường tự nhiên bị huỷ hoại, khí hậu diễn biến ngày càng xấu...
Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng, xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển tiếp tục gia tăng, nhưng luôn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định.
Trong nước, những thành tựu 5 năm qua (2001 - 2005) và 20 năm đổi mới (1986 - 2006) tạo thêm nhiều thuận lợi cho đất nước ta đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội với nhịp độ nhanh hơn, chất lượng cao hơn. Tuy nhiên, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn đang diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Những biểu hiện xa rời mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình", gây bạo loạn, lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Thưa các đồng chí,
Từ sự phân tích các mặt nêu trên, chúng ta khẳng định rằng : những năm tới tuy khó khăn còn nhiều nhưng đất nước ta có nhiều cơ hội để tiến lên. Đòi hỏi bức bách của toàn dân tộc ta lúc này là phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, phát triển với tốc độ nhanh hơn và bền vững hơn.
Năm năm 2006 - 2010 có ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thành Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI.
Mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5 năm 2006 - 2010 là : Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Trong chủ đề của Đại hội cũng như trong mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5 năm 2006 - 2010, "sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển" là mục tiêu trực tiếp của Đại hội X. Như chúng ta đều biết, Đại hội IX đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 nhằm "đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển". Nay chúng ta nêu lên chữ sớm là thể hiện quyết tâm phấn đấu đạt mục tiêu chiến lược ấy trước năm 2010. Đây là điều mong ước thiết tha và là đòi hỏi bức xúc của toàn Đảng, toàn dân ta. Nêu "sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển" là thể hiện sự nhìn nhận nghiêm túc, khách quan về tình hình đất nước hiện nay, đồng thời cổ vũ nhân dân ta vươn lên với tinh thần tự tôn dân tộc và quyết tâm cao để đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển không chỉ ở mức thu nhập thấp mà còn ở những lĩnh vực khác như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đời sống văn hoá tinh thần, chỉ số phát triển con người...
Việc thực hiện thắng lợi mục tiêu này, sẽ đánh dấu một bước phát triển mới trên con đường đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Với quyết tâm cao, chúng ta đề ra những chỉ tiêu định hướng về phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu trong 5 năm 2006 - 2010, trong đó, quan trọng nhất là : đến năm 2010, tổng sản phẩm trong nước (GDP) gấp 2,1 lần so với năm 2000; mức tăng GDP bình quân đạt 7,5 - 8%/năm, phấn đấu đạt trên 8%/năm. Cơ cấu ngành trong GDP : khu vực nông nghiệp khoảng 15 - 16%; công nghiệp và xây dựng 43 - 44%; dịch vụ 40 - 41%. Tạo việc làm cho 8 triệu lao động, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị dưới 5%. Tỉ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) giảm xuống còn 10 - 11%...
III- TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Thưa các đồng chí,
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm. Trong 5 năm tới, chúng ta chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều cần thiết trước hết là nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Đó là : thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; hoàn thiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Về nội dung, cần tiến hành đồng thời cả ba mặt :
- Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng: Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ các nguyên tắc của thị trường. Tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát huy các nguồn lực của xã hội cho phát triển. Bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp...
- Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Cùng với việc phát triển mạnh thị trường hàng hoá, dịch vụ và thị trường sức lao động, cần phát triển vững chắc thị trường tài chính, bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, cơ cấu hoàn chỉnh; phát triển thị trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất, làm cho đất đai thực sự trở thành nguồn vốn cho phát triển, thị trường bất động sản trong nước có sức cạnh tranh so với thị trường khu vực; phát triển thị trường khoa học và công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm khoa học và công nghệ (trừ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ xây dựng đường lối, chiến lược, chính sách phát triển quốc phòng và an ninh) trở thành hàng hoá.
- Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh. Các thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Chúng ta chủ trương xây dựng và thực hiện Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp, xây dựng một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam có sức cạnh tranh cao, chủ lực là một số tập đoàn kinh tế và công ty lớn dựa trên hình thức cổ phần. Theo đó, cần tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá; đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập thể; phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân, đồng thời thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài.
Về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phát triển mạnh các ngành kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức.
Chúng ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Phải phát triển toàn diện nông nghiệp, chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương. Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn và thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới; xây dựng các làng, xã, thôn, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh; hình thành các khu dân cư đô thị hoá với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ. Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hoá, nâng cao trình độ dân trí; chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỉ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ.
Trong việc phát triển công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, chúng ta khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế. Khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển mạnh các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế và các công ty xuyên quốc gia. Khẩn trương thu hút vốn trong và ngoài nước đầu tư thực hiện một số dự án quan trọng về khai thác dầu khí, lọc dầu và hoá dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng, xây dựng các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh; đưa tốc độ tăng trưởng của các ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP.
Chúng ta chủ trương phát triển kinh tế vùng thông qua các chính sách phù hợp tạo điều kiện cho các vùng trong cả nước cùng phát triển, đồng thời tạo sự liên kết giữa các vùng và nội vùng; phát triển kinh tế biển theo một chiến lược toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta thành một quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế.
Phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta phải phù hợp xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới. Cố gắng đi ngay vào công nghệ hiện đại đối với một số lĩnh vực then chốt và từng bước mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế. Chú trọng đúng mức việc phát triển công nghệ cao để tạo đột phá và ứng dụng công nghệ dùng nhiều lao động để giải quyết việc làm.
IV- GIẢI QUYẾT TỐT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI, VĂN HOÁ, GIÁO DỤC, KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Thưa các đồng chí,
Từ thực tiễn xây dựng đất nước mấy chục năm qua, chúng ta nhận thức ngày càng sâu sắc rằng, xã hội, văn hoá là những lĩnh vực thể hiện rõ nhất bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong những năm tới, cần đưa việc giải quyết các vấn đề xã hội và phát triển văn hoá lên nhanh hơn nữa, tương xứng với nhịp độ phát triển kinh tế.
Về xã hội, chúng ta chủ trương kết hợp chặt chẽ, hợp lý các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ hơn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Chúng ta khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, đồng thời thực hiện có hiệu quả các chính sách xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tốt hơn công bằng xã hội. Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm dịch vụ công cộng thiết yếu, tạo điều kiện cho mọi người dân, kể cả người nghèo được đáp ứng nhu cầu về giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, văn hoá - thông tin, thể dục thể thao, tạo việc làm... Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển, tạo cơ hội cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ. Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi. Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, các chính sách ưu đãi xã hội.
Về văn hoá, chúng ta chủ trương tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra chất lượng mới của cuộc sống; xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ba lĩnh vực cần tập trung thực hiện bằng được là : xây dựng môi trường, lối sống và đời sống văn hoá của mọi người dân ở cơ sở, phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân; khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm, công trình có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật; xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hoá, chú trọng các công trình văn hoá lớn, tiêu biểu.
Theo phương hướng ấy, cần tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử và di sản văn hoá; tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại chúng phát triển; bảo đảm tự do dân chủ cho mọi hoạt động sáng tạo văn hoá, văn học nghệ thuật đi đôi với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sĩ, chăm sóc các tài năng văn hoá, nghệ thuật; đổi mới nội dung và phương thức quản lý của Nhà nước về văn hoá...
Về giáo dục và đào tạo, chúng ta phấn đấu để lĩnh vực này cùng với khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu thông qua việc đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Những biện pháp cụ thể là : đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học theo hướng "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá". Phát huy trí sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành của người học. Đề cao trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội. Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học. Phát triển giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và hệ thống hướng nghiệp, dạy nghề. Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học; gắn đào tạo, nghiên cứu khoa học công nghệ với sử dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động. Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục; thực hiện phân cấp, tạo động lực và sự chủ động của các cơ sở, các chủ thể tiến hành giáo dục. Nhà nước tăng đầu tư tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, các chương trình quốc gia phát triển giáo dục, hỗ trợ các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; thực hiện miễn giảm việc đóng góp và cấp học bổng cho học sinh nghèo, các đối tượng chính sách, học sinh giỏi.
Về khoa học và công nghệ, chúng ta phấn đấu đến năm 2010, năng lực khoa học và công nghệ nước ta đạt trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực trên một số lĩnh vực quan trọng.
Phát triển khoa học xã hội hướng vào việc tiếp tục góp phần làm sáng tỏ những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Phát triển khoa học tự nhiên theo hướng tập trung nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng, đặc biệt các lĩnh vực Việt Nam có nhu cầu và thế mạnh. Phát triển công nghệ, đẩy mạnh có chọn lọc việc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ; phát triển công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.
Chúng ta chủ trương đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ theo hướng Nhà nước đầu tư vào các chương trình nghiên cứu quốc gia đạt trình độ khu vực và thế giới, xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ của một số lĩnh vực trọng điểm. Đa dạng hoá các nguồn lực đầu tư, huy động các thành phần kinh tế tham gia và đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Có chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao; thu hút các nhà khoa học, công nghệ giỏi ở trong nước, ngoài nước và trong cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
V- TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH, MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI; CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Thưa các đồng chí,
Về quốc phòng và an ninh, cần thực hiện mọi biện pháp cần thiết, có hiệu quả để xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, văn hoá - tư tưởng và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; góp phần giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn chặn, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ.
Chúng ta chủ trương kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân; đẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố; tiếp tục phát triển các khu kinh tế - quốc phòng, xây dựng các khu quốc phòng - kinh tế. Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, là lực lượng nòng cốt của sức mạnh quốc phòng - an ninh; nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, luôn được nhân dân tin cậy, yêu mến.
Về quan hệ đối ngoại, chúng ta thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Chúng ta chủ trương đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, đồng thời phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc : tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới; mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền; mở rộng công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm "chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả".
Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. Cụ thể là : chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020; thực hiện cam kết với các nước về thương mại, đầu tư và các lĩnh vực khác; chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết và thực hiện các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình Dương; củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và vượt qua những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
VI- PHÁT HUY DÂN CHỦ VÀ SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC. HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Thưa các đồng chí,
Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại đoàn kết toàn dân tộc cần lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và đồng bào ta định cư ở nước ngoài; xoá bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc; đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, giữ gìn sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội vì tương lai tươi sáng của dân tộc.
Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Các chính sách và pháp luật của Nhà nước phải nhằm phát huy mạnh mẽ hơn nữa dân chủ (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và chế độ tự quản của cộng đồng dân cư) đồng thời giữ vững kỷ cương xã hội và đạo lý dân tộc.
Chúng ta cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo; chú trọng chính sách đối với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, các doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, đồng bào định cư ở nước ngoài v.v...
Đảng ta luôn coi vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chúng ta thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Đấu tranh ngăn chặn các hành vi lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật, kích động, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước.
Thưa các đồng chí,
Thực hiện đại đoàn kết, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, vì thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một nội dung trọng yếu trong chủ đề của Đại hội này, là quyết tâm không gì lay chuyển nổi của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền lợi hợp pháp và nguyện vọng chính đáng của nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng thành hoạt động thực tiễn sinh động trong cuộc sống của nhân dân.
Nhà nước ban hành và bổ sung pháp luật để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Các cấp uỷ đảng và các cấp chính quyền tăng cường tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; thường xuyên lắng nghe ý kiến của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh với Đảng, Nhà nước những vấn đề mà nhân dân quan tâm, tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật sát hợp với cuộc sống. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở để Mặt trận, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị. Về phần mình, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các hội quần chúng cần đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng hoạt động, khắc phục cho được tình trạng hành chính hoá, phô trương, hình thức; làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Chúng ta chủ trương xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thật sự là công bộc của nhân dân, đặt mình dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện thể chế giám sát, kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.
Theo phương hướng đó, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, của các cơ quan tư pháp, đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp, tăng cường hiệu lực và hiệu quả các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp.
Tăng cường phòng ngừa và chống tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta.
Năm năm qua, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khoá IX trên lĩnh vực đấu tranh phòng và chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí... tuy đã đạt được một số kết quả, có tác dụng cảnh báo, răn đe, ngăn ngừa, kiềm chế nhất định nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu đề ra, chưa ngăn chặn và đẩy lùi được các tệ nạn đó.
Sắp tới, phải thi hành một cách kiên quyết và đồng bộ hệ thống các biện pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí, bao gồm : bổ sung, hoàn thiện các quy định về quản lý kinh tế - tài chính, về thanh tra, kiểm tra; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, sắp xếp tổ chức bộ máy gọn nhẹ; bảo đảm công khai, minh bạch các hoạt động kinh tế, tài chính trong các cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức. Khẩn trương và nghiêm chỉnh thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; bổ sung, sửa đổi Luật khiếu nại và tố cáo. Xử lý kiên quyết, kịp thời, công khai người tham nhũng bất kể ở chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu, tịch thu, sung công tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng; xử lý nghiêm những người bao che cho tham nhũng, hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, làm hại người khác; có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; biểu dương và nhân rộng những gương cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; phát huy vai trò của cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức và cơ quan công quyền; phát hiện, đấu tranh với các hành vi tham nhũng, lãng phí.
VII- ĐỔI MỚI, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG, NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG; BỔ SUNG, SỬA ĐỔI ĐIỀU LỆ ĐẢNG
Thưa các đồng chí,
Năm năm qua, trong quá trình lãnh đạo toàn diện công cuộc đổi mới, Đảng ta đã kiên trì và nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ then chốt về xây dựng Đảng trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, chú trọng cơ sở và địa bàn trọng yếu, nhờ đó đã đạt được một số kết quả tích cực. Tuy vậy, nhìn chung, cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình trong các cơ quan, tổ chức đảng, đảng viên chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức còn diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng bị tê liệt, thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực lãnh đạo và chỉ đạo để giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh. Công tác tư tưởng còn nhiều bất cập và thiếu tính thuyết phục, tính chiến đấu. Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới. Công tác tổ chức và cán bộ còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém. Chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao.
Trong những năm tới, chúng ta phải dành nhiều công sức tạo được chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực. Đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Trước hết, phải nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo trong thực tiễn hoạt động của Đảng. Nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận và đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị, công tác tư tưởng trong Đảng, nhất là cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt các cấp.
Hai là, kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, làm cho mỗi tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm tổ chức và quy tụ được sức mạnh của toàn đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, mỗi đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất, đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ. Phải kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở đảng, thể chế hoá về mặt nhà nước vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở đảng; gắn việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên với việc nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng.
Đảng ta chủ trương: đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định cụ thể của Ban Chấp hành Trung ương. Những quy định ấy cần sớm được ban hành và chỉ đạo thực hiện, bảo đảm vừa phát huy khả năng làm kinh tế của đảng viên, vừa giữ được tư cách, phẩm chất đảng viên và bản chất của Đảng, kịp thời đưa ra khỏi Đảng những người thoái hoá, biến chất.
Ba là, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra. Mọi cán bộ, đảng viên có quyền bàn bạc, tham gia quyết định công việc của Đảng, đồng thời có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh các nghị quyết của Đảng. Lãnh đạo các cấp phải lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của đảng viên và nhân dân. Xây dựng quy chế ra quyết định của Đảng, bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể; hoàn thiện quy chế kiểm tra, giám sát trong Đảng; kết hợp giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân.
Bốn là, đổi mới tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ. Sắp xếp, đổi mới tổ chức, bộ máy của Đảng, đặc biệt là các ban đảng, đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng uỷ khối ở Trung ương và cấp uỷ các địa phương gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy của cơ quan nhà nước, đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, bảo đảm tinh gọn, hoạt động thiết thực, hiệu quả; khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan và người đứng đầu không rõ. Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng. Có cơ chế, chính sách bảo đảm phát hiện, đánh giá, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng người có đức, có tài, dù là đảng viên hay người ngoài Đảng. Cụ thể hoá, thể chế hoá nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.
Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết; lãnh đạo thể chế hoá, cụ thể hoá thành Hiến pháp, pháp luật; bố trí đúng cán bộ và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện. Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước; trái lại, phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể xác định đúng mục tiêu, phương hướng hoạt động; đồng thời phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo của Mặt trận và các đoàn thể trong xây dựng, đổi mới tổ chức và hoạt động của mình.
Về bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đề nghị kiên định các nguyên tắc cơ bản về Đảng và xây dựng Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời tiếp thu kết quả tổng kết 20 năm đổi mới, các công trình nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về xây dựng Đảng để xem xét, bổ sung, sửa đổi một số điểm cần thiết, chín muồi.
Trong các vấn đề đề nghị bổ sung, sửa đổi lần này, có 3 vấn đề lớn là :
- Bổ sung cách diễn đạt về Đảng : "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc".
- Bổ sung điều khoản "Bầu Uỷ viên Trung ương dự khuyết" nhằm cả hai mục đích là bồi dưỡng, đào tạo, tạo nguồn cán bộ cho Trung ương và thay thế Uỷ viên Trung ương chính thức khi khuyết.
- Giao thêm chức năng giám sát cho cấp uỷ đảng và uỷ ban kiểm tra các cấp, coi kiểm tra, giám sát trước hết là nhiệm vụ của cấp uỷ, gắn công tác kiểm tra với công tác giám sát, có giám sát mới phát hiện được các vấn đề mới, khắc phục được thiếu sót, khuyết điểm ngay từ lúc mới manh nha.
Thưa các đồng chí đại biểu Đại hội,
Đất nước ta ngày càng lớn mạnh. Thế giới đang thay đổi rất nhanh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta phải sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhân dân ta xứng đáng được hưởng cuộc sống ngày càng ấm no, tự do, hạnh phúc.
Đại hội X của Đảng nêu cao ý chí sắt đá của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, triệu người như một, năng động và sáng tạo, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, quyết tâm đổi mới toàn diện và mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện bằng được mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", sánh vai cùng các nước trên thế giới trong nhịp bước khẩn trương của thời đại.


6. Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX ngày 10 tháng 4 năm 2006 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng

Năm năm qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX lãnh đạo thực hiện Cương lĩnh, Điều lệ và Nghị quyết Đại  hội IX của Đảng trong tình hình đất nước đã trải qua 15 năm đổi mới và đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn của tình hình trong nước, khu vực và quốc tế, đặt ra yêu cầu mới đối với sự lãnh đạo của Đảng.
Sau Đại hội IX, Ban Bí thư Trung ương Đảng được lập lại; tiếp đó Quốc hội và Chính phủ cũng được kiện toàn sau cuộc bầu cử Quốc hội khoá XI.
Trong bối cảnh đó, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã kiên định đường lối đổi mới, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua khó khăn, thử thách, giành được nhiều thành tựu rất quan trọng, đồng thời cũng còn một số mặt hạn chế, khuyết điểm như đã nêu trong Báo cáo chính trị và các văn kiện khác trình Đại hội X. Dưới đây, Ban Chấp hành Trung ương, bao gồm cả Bộ Chính trị, Ban Bí thư, xin kiểm điểm cụ thể sự lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ khoá IX trước Đại hội như sau:
A- KIỂM ĐIỂM NỘI DUNG LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO  CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG, BỘ CHÍNH TRỊ, BAN BÍ THƯ
I-  BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
 Theo Chương trình công tác toàn khoá, Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã họp 15 hội nghị Trung ương để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và chuẩn bị Đại hội X của Đảng.
1. Ưu điểm
Ban Chấp hành Trung ương là một tập thể đoàn kết, thống nhất, kiên định đường lối đổi mới, giữ vững nguyên tắc, đề cao dân chủ, đã bám sát và sớm cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội IX, giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề cơ bản, cấp bách của đất nước, coi trọng công tác kiểm tra, tổng kết tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội, các nghị quyết của Trung ương, đưa sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong nhiệm kỳ qua đạt được những thành tựu rất quan trọng.
- Về cụ thể hoá và lãnh đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IX
Nhằm phấn đấu đạt các mục tiêu của Đại hội về phát triển kinh tế - xã hội, ngay từ đầu nhiệm kỳ, các hội nghị Trung ương 3, 4, 5, 6 đã cụ thể hoá quan điểm phát triển kinh tế- xã hội của Nghị quyết Đại hội IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước; định hướng và chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển; đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010; đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai... Đồng thời, Ban Chấp hành Trung ương đã đánh giá sát diễn biến tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, đề ra các chủ trương, chính sách, giải pháp đúng đắn về phát huy nội lực, cải thiện môi trường đầu tư, hạn chế những tác động không thuận của giá cả, thời tiết, dịch bệnh... Trước những khó khăn qua hơn hai năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội, Hội nghị Trung ương 9 quyết định không điều chỉnh hạ thấp chỉ tiêu phát triển, vẫn kiên trì quyết tâm phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội của cả nhiệm kỳ. Nhờ những chủ trương đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương, sự đổi mới hoạt động của Quốc hội, sự điều hành năng động và có hiệu quả của Chính phủ, sự nỗ lực chung của các cấp, các ngành và của toàn dân, về cơ bản các mục tiêu kinh tế - xã hội của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 theo Nghị quyết Đại hội IX đã được hoàn thành và hoàn thành vượt mức.
Nhằm thực hiện chủ trương xem phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, Ban Chấp hành Trung ương đã tổng kết, đánh giá việc tổ chức thực hiện các lĩnh vực này; trên cơ sở đó đề ra phương hướng và những giải pháp cụ thể về đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh đầu tư và thực hiện xã hội hoá, nhằm tạo điều kiện cho giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ phát triển, để đến năm 2010, một số mặt đạt trình độ tiên tiến so với các nước trong khu vực.
Ban Chấp hành Trung ương đã kiểm điểm sâu sắc việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về “xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển một số quan điểm và nhận thức mới về văn hoá, khẳng định phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội; làm rõ nội dung, yêu cầu văn hoá trong lãnh đạo, quản lý kinh tế... nhằm làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đẩy mạnh xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Về quốc phòng và an ninh, Ban Chấp hành Trung ương đã chủ động bàn và ra nghị quyết chuyên đề về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, thể hiện rõ tư duy mới của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc, xác định quan điểm đặt lơi ích cao nhất của đất nước là giữ vững độc lập chủ quyền và môi trường hoà bình, ổn định để phát triển, xác định đúng đắn đối tác, đối tượng trong quan hệ quốc tế. Trên cơ sở đó, tạo sự thống nhất cao về đánh giá tình hình, quan điểm, nhiệm vụ, phương hướng giải quyết các vấn đề quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong giai đoạn mới, xử lý đúng đắn những vấn đề cụ thể nảy sinh trên từng địa bàn và trong từng lĩnh vực.
Để tăng cường lãnh đạo, tạochuyển biến trong công tác dân vận của Đảng, Hội nghị Trung ưoơg 7 đã bàn và ra ba nghị quyết quan trọng, làm sáng tỏ quan điểm, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân, về công tác dân tộc, công tác tôn giáo, tạo cơ sở để xử lý đúng đắn những vấn đề nhạy cảm về dân tộc và tôn giáo, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự đồng thuận của toàn xã hội trong giai đoạn mới.  
Tiếp tục lãnh đạo việc đổi mới, kiện toàn tổ chức, cán bộ trong hệ thống chính trị, nhất là nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước, Ban Chấp hành Trung ương đã lãnh đạo chặt chẽ việc sửa đổi, bôổ sung Hiến pháp 1992, đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp. Lần đầu tiên, Ban Chấp hành Trung ương bàn và ra nghị quyết về kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở; xác định chủ trương, giải pháp thiết thực để xây dựng hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Ban chấp hành Trung ương đã chú trọng toàn diện hơn công tác xây dựng Đảng, có nhiều chủ trương, quyết sách lớn cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kiểm tra. Trung ương đã thảo luận, đề ra nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng lý luận trong tình hình mới,
Có chủ trương để Bộ Chính trị chỉ đạo đấu tranh bác bỏ các quan điểm, tư tưởng sai trái trong Đảng và ngoài xã hội. Đã chỉ đạo chặt chẽ việc nghiên cứu có hệ thống các thông tin về xuất xứ và quá trình xử lý một số vụ việc xảy ra trong nội bộ Đảng từ các nhiệm kỳ trước. Trên cơ sở đó đã thống nhất cao không đặt vấn đề xem xét những vụ việc đã được xử lý nếu không có tình tiết mới làm thay đổi bản chất của sự việc; tạo cơ sở để giải đáp một số thắc mắc và ổn định tư tưởng trong nội bộ Đảng, tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và chuẩn bị Đại Hội X của Đảng. Thông qua chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII, Ban Chấp hành Trung ương đã thể hiện quyết tâm chính trị đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nghiêm khắc xem xét và thi hành kỷ luật cán bộ do Trung ương quản lý về trách nhiệm đối với các vụ việc tiêu cực có liên quan (hai Uỷ viên Trung ương và nhiều cán bộ cao cấp bị truy cứu trách nhiệm hình sự), đã có tác dụng nhất định răn đe, ngăn ngừa, kiềm chế tình trạng tha hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
- Về lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng
Ban Chấp hành Trung ương, với tinh thần trách nhiệm cao, đã dành nhiều thời gian, công sức cho việc chuẩn bị Đại hội X của Đảng (kể từ Hội nghị Trung ương 10, tháng 7-2004). Việc chuẩn bị văn kiện và nhân sự cho Đại hội đã được chỉ đạo theo chương trình, kế hoạch chặt chẽ, thống nhất, nghiêm túc với tinh thần đổi mới. Các văn kiện trình Đại hội X được xây dựng trên cơ sở tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, kết quả Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới. Đây là cuộc tổng kết có quy mô lớn, quan trọng, nội dung phong phú; vừa đánh giá toàn diện chặng đường đổi mới đã qua, vừa từng bước hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến hầu hết các vấn đề về quan điểm, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các văn kiện đã được chuẩn bị công phu, tập hợp được ý kiến đóng góp rộng rãi của đại hội đảng bộ các cấp, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, đại biểu Quốc hội, cán bộ, đảng viên, nhân dân trong cả nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi, các văn kiện đã được hoàn chỉnh, là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân.
Công tác giới thiệu, chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá X được thực hiện đúng nguyên tắc, tiến hành chặt chẽ qua từng bước, có đổi mới, mở rộng dân chủ trong Đảng, đề cao tinh thần trách nhiệm của tập thể Ban Chấp hành Trung ương, từng đồng chí Uỷ viên Trung ương, các cấp uỷ và đảng viên; tạo sự nhất trí cao, bảo đảm đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
2. Khuyết điểm
Ban Chấp hành Trung ương chậm bàn hoặc bàn chưa triệt để một số vấn đề quan trọng đã nêu ra từ nhiều nhiệm kỳ Đại hội. Do vậy, trên một sô lĩnh vực chưa thực sự có bước tiến quan trọng mới về nhận thức và hành động thực tiễn so với trước Đại hội IX, như các vấn đề về xây dựng giai cấp công nhân, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong giai đoạn mới, về cải cách hành chính, về sở hữu và thành phần kinh tế, về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng..., làm hạn chế việc phát huy các nguồn lực của đất nước để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới và hoàn thiện thể chế chính trị.
Nghị quyết của Trung ương nhiều, nhưng việc tổ chức thực hiện, kiểm tra, tổng kết chưa kịp thời và phù hợp. Một số chủ trương lớn còn chưa thật rõ, thật sát với cuộc sống (như về phát triển kinh tế tập thể; về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; về đổi mới cơ chế quản lý và cung ứng dịch vụ công cộng; về chủ trương công chức hoá một số chức danh cán bộ cơ sở...). Vì vậy, các chủ trương này, khó đi vào cuộc sống, nhiều việc triển khai chậm, hoặc không triển khai được, hiệu quả thấp, chưa thực sự tạo ra được những chuyển biến tích cực trong thực tiễn.
Lãnh đạo cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa đạt được yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới và của xã hội; chủ trương, biện pháp đề ra, nhất là những quyết sách để lãnh đạo, đôn đốc, kiểm tra còn chưa đủ mạnh, đồng bộ, kịp thời, chưa tạo được bước chuyển rõ rệt trong nhiệm vụ quan trọng này.
3. Đối với các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Ưu điểm:
Nhìn chung, các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX có lập trường tư tưởng vững vàng, có tinh thần trách nhiệm, có tư duy đổi mới, sáng tạo, trình độ học vấn và chuyên môn, nghiệp vụ tương đối cao, có phẩm chất đạo đức tốt, tiêu biểu cho trí tuệ, phẩm chất đạo đức của toàn Đảng. Hầu hết các đồng chí, với cương vị là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các địa phương, các ngành, đã thể hiện được bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, có tinh thần đoàn kết, tự phê bình và phê bình; đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, chống lại các quan điểm sai trái, thù địch.
Nhiều đồng chí có tư duy chiến lược, có năng lực lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, kiên định về nguyên tắc, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, tạo được sự phát triển của ngành, địa phương do mình phụ trách.
Nhiều đồng chí có phong cách làm việc khoa học, phát huy dân chủ, tôn trọng tập thể, bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng các chủ trương, quyết sách quan trọng của cấp uỷ đảng, chính quyền; chú trọng kiểm tra, giám sát, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ, hoặc chủ quan, nóng vội; coi trọng tổng kết thực tiễn, phát hiện, ủng hộ và nhân rộng những nhân tố mới.
Khuyết điểm:
Một số đồng chí Uỷ viên Trung ương chưa thật sự chủ động trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, nhất là tham gia vào sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương (ít đề xuất, kiến nghị những vấn đề quan trọng, bức xúc của đất nước trong quá trình đảm đương cương vị công tác được giao hoặc trong các kỳ họp Trung ương). Một số đồng chí chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm ở vị trí công tác, chưa thật sự tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc truyền đạt và lãnh đạo triển khai thực hiện nghị quyết của Trung ương. Nhiều đồng chí chưa định kỳ báo cáo kết quả công tác và những vấn đề nổi lên trong lãnh đạo, chỉ đạo thuộc lĩnh vực mình phụ trách để đề xuất với Bộ Chính trị.
Có đồng chí chưa đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo ngành và địa phương mình phụ trách; còn để công việc trì trệ hoặc để xảy ra một số vụ việc tiêu cực nổi cộm, gây dư luận không tốt, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng. Có đồng chí thiếu gương mẫu về đạo đức cối sống, bản thân hoặc để vợ, con, cấp dưới lợi dụng chức quyền thu vén lợi ích cá nhân, thậm chí có trường hợp vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
 II- BỘ CHÍNH TRỊ
1. Ưu điểm
Bộ Chính trị là một tập thể đoàn kết, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định đường lối đổi mới trên cơ sở Cương lĩnh và Nghị quyết Đại hội IX, đã chỉ đạo chuẩn bị tốt các đề án trình Trung ương, góp phần quan trọng để Ban Chấp hành Trung ương hoàn thành chương trình làm việc toàn khoá, phù hợp vời yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng, của đất nước. Bộ Chính trị luôn kiên định trên những vấn đề về nguyên tắc, bám sát thực tiễn, tìm tòi, sáng tạo, bàn và quyết định theo thẩm quyền nhiều vấn đề quan trọng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trên mọi lĩnh vực; đồng thời, giải quyết linh hoạt, đúng đắn, kịp thời nhiều vấn đề cụ thể phức tạp nảy sinh. Nhìn chung, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị trong nhiệm kỳ qua trên các lĩnh vực là đúng đắn và có hiệu quả; cụ thể là:
Đã chủ động lựa chọn, chuẩn bị để Ban Chấp hành Trung ương cụ thể hoá sớm Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, từ đó tạo sự thống nhất cao về nhận thức, quan điểm, đường lối đổi mới làm cho nhiều nghị quyết nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Nhiều đề án đã được chỉ đạo chuẩn bị để trình Trung ương có chất lượng tốt, phản ánh đúng tình hình thực tiễn, cụ thể hoá, phát triển quan điểm Đại hội IX với những tư duy mới, góp phần tạo nên sự thống nhất cao trên một số vấn đề lâu nay còn có ý kiến khác nhau (sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; phát triển kinh tế tư nhân; cải cách tư pháp; kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở; chính sách tôn giáo...)
Quán triệt việc lãnh đạo phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; gắn phát triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, góp phần tạo nên kết quả quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kế hoạch kinh tế - xã hội hằng năm và 5 năm 200l - 2005.
Đã coi trọng và tập trung chỉ đạo xây dựng chiến lược phát triển một số vùng, ngành và lĩnh vực quan trọng; xác định phương hướng, giải pháp để các vùng, ngành và địa bàn trọng điểm phát huy tiềm năng, thế mạnh trong chiến lược phát triển chung của đất nước.
Đã chú ý những vấn đề xã hội bức xúc, coi trọng hơn nhiệm vụ phát triển văn hoá. Trước những yếu kém, bất cập trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, sự gia tăng dân số trở lại, tình hình xây nhiễm HIV/AIDS và sự xuống cấp nhanh của môi trường tự nhiên, Bộ Chính trị đã dành thời gian bàn và ra nghị quyết về các vấn đề này. Đã lãnh đạo thực hiện đúng chủ trương của Trung ương về tăng mức đầu tư cho giáo dục; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chủ trương về xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, khắc phục hậu quả thiên tai, tăng cường y tế cơ sở và phòng chống dịch bệnh, phát triển thể dục thể thao... Một số chủ trương đạt kết quả tốt, được quốc tế đánh giá cao.
Đã chỉ đạo chặt chẽ và thường xuyên nhiệm vụ quốc phòng - an ninh; bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với các lực lượng vũ trang nhân dân.
Chỉ đạo quán triệt, triển khai có kết quả bước đầu Nghị quyết Trung ương 8 khoá IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là chỉ đạo vận dụng đúng đắn chủ trương, quan điểm mới của Trung ương về đối tác, đối tượng tương quan hệ quốc tế nhằm giữ vững môi trường hoà bình, ổn định vì sự phát triển của đất nước.
Đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng và củng cố lực lượng Quân đội, Công an, như hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội; về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác công an; về tổ chức Bộ đội biên phòng và củng cố lực lương tình báo chiến lược...
Kịp thời có chủ trương và giải pháp về bảo đảm an ninh - quốc phòng cho các vùng Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Bắc; xử lý đúng nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh ở một số địa phương và địa bàn trọng điểm về an ninh quốc gia, về tôn giáo, dân tộc; khắc phục hậu quả cuộc bạo loạn tháng 2-2001 và làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch trong cuộc bạo loạn chính trị tháng 4-2004 ở Tây Nguyên, đưa địa bàn Tây Nguyên dần dần ổn định trở lại.
Kiên định chủ trương và nguyên tắc về việc giải quyết vụ “T4” và một số vụ việc liên quan đến nội bộ Đảng, trên cơ sở đó đã trình Trung ương ở ba Hội nghị 10, 11 và 12 khoá IX, được Ban Chấp hành Trung ương tán thành và thống nhất cao.
Đã lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường công tác đối ngoại, mở rộng hoạt động đối ngoại Nhà nước, đối ngoại của Đảng và đối ngoại nhân dân, đạt được kêu quả nổi bật.
Nắm vững đường lối độc lập, tự chủ, chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ quốc tế, Bộ Chính trị đã kịp thời đánh giá đúng đắn các sự kiện quốc tế phức tạp (vụ khủng bố 11-9-2001 ở Mỹ, chiến tranh Ápganixtan, chiến tranh Irắc...); đề ra những chủ trương, đối sách phù hợp. Đã chỉ đạo củng cố, giữ vững quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng, tăng cường quan hệ với ASEAN; phát triển quan hệ đối với một số nước lớn, với một số nước đối tác chiến lược và giải quyết những vấn đề cần thiết trong quan hệ song phương; đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chỉ đạo tiếp tục ký kết và triển khai thực hiện những hiệp định quan trọng về biên giới với các nước láng giềng, đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài; tham gia xây dựng Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông; quyết định chủ trương, chủ động xử lý đúng đắn nhiều vấn đề nhạy cảm về đối ngoại (đàm phán gia nhập WTO, mở rộng ASEM, về thoả thuận với Trung Quốc và Philíppin thăm dò địa chấn trên Biển Đông...).
Đã coi trọng chỉ đạo để nước ta chủ động tham gia tích cực các tổ chức và diễn đàn quốc tế, khu vực; chỉ đạo tổ chức thành công nhiều hội nghị và diễn đàn quốc tế, khu vực, nhất là tổ chức thành công Hội nghị ASEM-5, tích cực chuẩn bị Hội nghị cấp cao APEC tổ chức tại Hà Nội.
Đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận động quần chúng, tạo được những chuyển biến mới, quan trọng.
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổng kết, đánh giá việc tổ chức thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; chỉ đạo đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; xác định rõ và hợp lý hơn chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và mối quan hệ phối hợp, giúp cho các tổ chức nói trên chủ động hơn trong việc tập hợp lực lượng, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, tham gia góp ý kiến và công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội và công tác xây dựng Đảng.
Đã ra nghị quyết về công tác người Việt Nam định cư ở nước ngoài, làm cho kiều bào và cộng đồng thế giới hiểu rõ chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đối với người Việt Nam sống xa Tổ quốc, động viên, khuyến khích kiều bào tham gia, đóng góp và công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước; đồng thời coi trọng bảo vệ lợi ích chính đáng, tạo điều kiện để kiều bào yên tâm sinh sống, làm ăn ở các nước sở tại.
Lãnh đạo việc đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp theo hướng phân định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, tăng cường trách nhiệm, phù hớp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vĩ nhân dân.
Đã ra các nghị quyết về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, nhằm hoạch định hệ thống pháp luật đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, phù hợp với tình hình mới; cải cách tư pháp theo hướng đề cao dân chủ, công khai, khách quan, nghiêm minh, nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử, khắc phục tình trạng oan, sai.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị đối với các cơ quan nhà nước vừa giữ vững nguyên tắc, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, vừa tạo sự chủ động hơn cho các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
Đã dành nhiều thời gian, công sức lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tạo được một số chuyển biến, tiến bộ nhất định.
Tập trung chỉ đạo có kết quả hơn một số mặt trăng công tác tư tưởng, lý luận, nhất là việc tổng kết lý luận và thực tiễn 20, năm đổi mới, làm sáng tỏ hơn một số vấn đề cơ bản về đường lối đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Bàn và quyết định một số chủ trương về tăng cường công tác tư tưởng, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực báo chí, bảo vệ bí mật của Đảng và Nhà nước trong thời gian tới; chỉ đạo đẩy mạnh nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước gắn với tổ chức kỷ niệm những ngày lễ lớn trong hai năm 2004 - 2005... Qua đó, uốn nắn những quan điểm, nhận thức lệch lạc, tạo không khí phấn khởi, tin tưởng trong xã hội.
Trong công tác cán bộ, Bộ Chính trị đã tăng cường chỉ đạo tương đối đồng bộ cả về quan điểm, chủ trương và giải pháp, có đổi mới, cải tiến về cách làm, bước đầu mang lại kết quả. Đã quyết định theo thẩm quyền nhiều trường hợp về sắp xếp, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ theo đúng quy chế, quy trình và về cơ bản phù hợp yêu cầu; chỉ đạo rà soát và ra quyết định bổ sung, sửa đổi chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các ban đảng ở Trung ương.
Tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII và Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khoá IX, đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đi vào thường xuyên và chặt chẽ hơn. Đã chú trọng công tác kiểm tra, có định hướng, chương trình và kế hoạch đối với một số lĩnh vực trọng tâm (công tác cán bộ, đầu tư xây dựng cơ bản và quản lý đất đai...). Thông qua cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và công tác kiểm tra đã phát hiện được nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng; xử lý một số cá nhân và tập thể có vi phạm theo đúng thẩm quyền, thể hiện sự nghiêm minh trong công tác kỷ luật Đảng.
2. Khuyết điểm
Những thiếu sót, khuyết điểm của Ban Chấp hành Trung ương trong việc chậm bàn hoặc bàn chưa triệt để một số vấn đề quan trọng nêu ra từ nhiều nhiệm kỳ đại hội có trách nhiệm của Bộ Chính trị, với tư cách là cơ quan chủ trì chuẩn bị nội dung cho Ban Chấp hành Trung ương bàn và quyết định.
Trong lãnh đạo kinh tế, chưa tập trung chỉ đạo khắc phục có hiệu quả một số vấn đề yếu kém, nổi cộm, làm giảm lòng tin của nhân dân (vấn đề đầu tư dàn trải, tiến độ chậm, thất thoát, lãng phí và nợ đọng trong xây dựng cơ bản; lãng phí, tiêu cực trong quản lý đất đai, thu, chi ngân sách...). Việc chỉ đạo phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tuy có cố gắng, nhưng cũng bộc lộ không ít thiếu sót, khuyết điểm, như có một thời gian, để chậm tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; chậm định hướng và tạo điều kiện để các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh và tham gia hội nhập; chưa có giải pháp quyết liệt trong chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể... Thời kỳ đầu nhiệm kỳ, chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ việc đàm phán gia nhập WTO.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị trên lĩnh vực văn hoá, xã hội, nhìn chung chưa đủ mức, nên nhìn toàn cục kinh tế có bước phát triển, nhưng một số lĩnh vực văn hoá, xã hội tiến bộ chậm và còn nhiều vấn đề tồn tại, bức xúc kéo dài, gây lo lắng, bất bình trong xã hội (tình trạng tham ô, lãng phí, nhũng nhiễu dân của các cơ quan công quyền; yếu kém trong giáo dục và đào tạo, y tế, văn hoá; việc tăng dân số không bình thường; sự gia tăng tệ nạn ma tuý mại dâm và tai nạn giao thông trong những năm gần đây . . . ), làm hạn chế ý nghĩa của những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đổi mới và ảnh hưởng đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo về quốc phòng - an ninh, đối ngoại, có lĩnh vực chậm xây dựng quy chế cụ thể về thẩm quyền và trách nhiệm, chưa nắm chắc tình hình, dẫn đến có lúc, có việc còn bị động.
Việc giáo dục ý thức cảnh giác cách mạng chưa được thường xuyên coi trọng. Công tác nắm và dự báo tình hình ở những địa bàn trọng điểm có lúc còn chưa nhanh nhạy và chưa sát. Vì vậy, còn để xảy ra tình trạng bị động trong việc bảo đảm an ninh quốc gia (nhất là để xảy ra cuộc bạo loạn chính trị lần thứ hai ở Tây Nguyên). Tuy đã tập trung đầu tư và bỏ ra nhiều công sức, nhưng nhìn chung, tình hình ở Tây Nguyên và một số vùng trọng điểm khác chưa tạo được những chuyển biến căn bản, vững chắc.
Chậm chỉ đạo khắc phục kịp thời những yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng và công tác cán bộ của ngành Công an; đã để xảy ra một số trường hợp sai sót trong công tác đề bạt, bố trí cán bộ và tình trạng nhiều cán bộ vi phạm nghiêm trọng kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, làm giảm uy tín đối với nhân dân. Chậm bổ sung, kiện toàn cán bộ lãnh đạo công tác đớn ngoại.
Có lúc chưa phát hiện kịp thời và chủ động xử lý những vấn đề phát sinh trong quan hệ đối với các nước, nhất là với các nước lớn. Chưa chủ động chỉ đạo để có phương án tổng thể, biện pháp hữu hiệu chống lại các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền, tôn giáo” chống phá nước ta. Công tác tuyên truyền đối ngoại còn nhiều yếu kém.
Sự lãnh đạo cải cách tổ chức, đổi mới hoạt động của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân vẫn còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của tiến trình đổi mới. Cho đến nay, vẫn chưa cụ thể hoá thật rõ một số vấn đề trong thiết chế của hệ thống chính trị, như xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện một đảng lãnh đạo, mở rộng dân chủ, hội nhập quốc tế, về thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong một số lĩnh vực, về quyền hạn và trách nhiệm của tập thể và cá nhân người đứng đầu… Chưa quan tâm lãnh đạo đúng mức công tác cải cách hành chính. Hiệu quả cải cách hành chính còn hạn chế cả về thể chế, tổ chức bộ máy và chất lượng đội ngũ cán bộ. Tổ chức bộ máy, biên chế của nhiều cơ quan, ban, ngành có xu hướng tăng lên, nhưng chưa được phân tích, đánh giá, kết luận và chỉ đạo kiên quyết theo yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII.
Một số vấn đề lý luận cơ bản trong quá trình đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chưa được chỉ đạo nghiên cứu làm rõ. Do đó, còn có nhận thức khác nhau, làm ảnh hưởng nhất định đến sự thống nhất tư tưởng, hành động trong Đảng. Bộ Chính trị chưa thực hiện được chương trình nghe báo cáo, học tập, nghiên cứu các chuyên đề về lý luận và thực tiễn.
Tuy đã quan tâm hơn và có nhiều cố gắng, nhưng xét về tổng thể, Bộ Chính bị chưa lãnh đạo, chỉ đạo cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng đạt được những chuyển biến căn bản, đáp ứng được đòi hỏi bức xúc của tình hình.
Việc kiện toàn nhân sự chủ chốt và xử lý kỷ luật cán bộ ở một số địa phương và cơ quan Trung ương chưa kịp thời, thiếu kiên quyết, có ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện nhiệm vụ trước mắt và việc chuẩn bị cho nhiệm kỳ tới.
Việc lãnh đạo cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực còn nhiều hạn chế, chưa có giải pháp tổng thể, mạnh mẽ, quyết liệt, phối hợp đồng bộ các mặt hoạt động, phát huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và của cả xã hội để làm chuyển biến tình hình như mục tiêu đã đề ra.
III BAN BÍ THƯ
1. Ưu điểm
Ban Bí thư đã bám sát chức năng, nhiệm vụ đã được quy định trong Điều lệ Đảng và Quy chế làm việc, cùng với việc tham gia một số sinh hoạt của Bộ Chính trị, đã lãnh đạo, chỉ đạo và giải quyết kịp thời, đúng đắn công việc hằng ngày của Đảng theo thẩm quyền; chỉ đạo phối hợp các hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, xử lý và giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề phức tạp mới nảy sinh về đối ngoại, an ninh, quốc phòng và xây dựng Đảng.
Ban Bí thư đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng Đảng, góp phần tạo được những chuyển biến, tiến bộ nhất định trong một số lĩnh vực của nhiệm vụ then chốt này.
Đã tiếp tục đổi mới cách quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng theo hướng thiết thực, hiệu quả. Tăng cường chỉ đạo quản lý báo chí, xuất bản, thực hiện có nền nếp công tác thông tin, thông báo tình hình trong nước, ngoài nước và công việc của Trung ương cho các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương và các cấp uỷ trực thuộc.
Đã xem xét và quyết định cơ bản chính xác, đúng quy định các trường hợp nhân sự thuộc thẩm quyền; chỉ đạo thực hiện nghiêm hơn chế độ nghỉ hưu đối với cán bộ lãnh đạo cao tuổi thuộc diện Ban Bí thư quản lý.
Đã chỉ đạo xây dựng và ban hành nhiều quy định về chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở Đảng; ban hành đồng bộ các quy định của Đảng về một số vấn đề có tính đặc thù.
Chủ động định hướng hoạt động của công tác bảo vệ chính trị nội bộ phù hợp với tình hình mới, góp phần nâng cao chất lượng công tác cán bộ, đảm bảo an ninh nội bộ.
Hướng dẫn về nhiệm vụ và quan hệ công tác của bộ phận thường trực tỉnh uỷ, thành uỷ, tạo điều kiện và góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tăng cường đoàn kết nội bộ của các cấp uỷ địa phương.
Coi trọng chỉ đạo thực hiện việc tự phê bình và phê bình hằng năm đối với các cấp uỷ và tổ chức đảng trực thuộc, đưa công tác này trở thành thường xuyên, dần dần đi vào nền nếp; đồng thời, chỉ đạo các ban Trung ương Đảng chủ động nắm chắc tình hình để gợi ý kiểm điểm đối với một số cá nhân, tổ chức đảng trực thuộc.
Đã tăng cường chỉ đạo công tác kiểm tra, tập trung vào những vấn đề trọng tâm, trọng điểm, những lĩnh vực, đia bàn có vấn đề phức tạp. Qua kiểm tra, đã phát hiện và chỉ đạo xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với một số tổ chức đảng, một số cán bộ mắc sai phạm và kiến nghị với Chính phủ một số vấn đề cần thiết trong chỉ đạo, điều hành.
Đã chỉ đạo, tạo được một số chuyển biến tích cực trong công tác quần chúng, việc thực hiện dân chủ trong Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc.
Chỉ đạo tổng kết thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng về công tác quần chúng (Chỉ thị 37 về công tác cán bộ nữ, Chỉ thị 30 về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, chủ trương của Bộ Chính trị khoá VIII về công tác đối với đạo Tin Lành...). Chỉ đạo công tác dân vận ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Bắc và một số tỉnh miền Trung có những diễn biến phức tạp mới nảy sinh về các vấn đề dân tộc, tôn giáo. Chỉ đạo thành công Đại hội VI Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đại hội của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp khác.
Đã thường xuyên chỉ đạo giải quyết tình hình khiếu kiện đông người vượt cấp, góp phần tạo được chuyển biến bước đầu về vấn đề này, giải toả được nhiều “điểm nóng” kéo dài đã lâu.
Trên cơ sở chủ trương của Bộ Chính trị, đã chỉ đạo xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; đấu tranh, xử lý, ngăn chặn hoạt động lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân tộc để gây rối, tạo cớ chống chế độ, chống Đảng và Nhà nước ta.
Tăng cường chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, chủ động hơn trong công tác thông tin để cộng đồng quốc tế, nhất là các nước láng giềng, các nước lớn, các tổ chức quốc tế hiểu đúng về tình hình đất nước ta cũng như các chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Khuyết điểm
Chỉ đạo công tác giáo dục chính trị tư tưởng nhiều lúc còn kém nhạy bén, không kịp thời; còn thiếu những hình thức sinh động, có sức thuyết phục, có hiệu quả cao để giải đáp những băn khoăn, vướng mắc, mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình đổi mới, xây dựng và củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đối với thanh niên.
Chậm chỉ đạo, định hướng nhận thức trước những diễn biến phức tạp của tình hình tư tưởng, cũng như trước những vụ việc lớn. Đấu tranh bác bỏ các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các phần tử cơ hội và các thế lực thù địch còn thiếu chủ động và sắc bén, nhất là ở cơ sở và trên mạng thông tin điện tử. Việc chỉ đạo bác bỏ những thông tin thất thiệt, có hại, phân tích, phản bác những ý kiến và quan điểm sai trái cũng như uốn nắn những biểu hiện lệch lạc trong hoạt động báo chí, xuất bản còn chậm; chưa có đối sách thích hợp để quản lý mạng Intemet, trong khi các phần tử xấu đang lợi dụng phương tiện này để chống phá ta rất quyết liệt.
Chưa chỉ đạo nghiên cứu làm rõ mô hình và đề xuất bổ sung, sửa đổi chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ của các đảng đoàn, ban cán sự đảng trong hệ thống các cơ quan nhà nước, nhất là trong các cơ quan hành pháp. Chưa quan tâm đúng mức việc kiện toàn các ban Trung ương Đảng và đảng uỷ khối các cơ quan Trung ương về tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán bộ tương xứng với vai trò, vị trí và yêu cầu nhiệm vụ của các cơ quan này trong tình hình mới.
Việc chỉ đạo thể chế hoá một số quan điểm, chủ trương của Đảng về các vấn đề dân tộc, tôn giáo thành pháp luật, chính sách của Nhà nước còn chậm so với đòi hỏi bức xúc của thực tiễn, dẫn đến việc thực thi ở địa phương, cơ sở còn nhiều vướng mắc. Nội dung và phương pháp vận động quần chúng, nắm tình hình nhân dân chưa tốt, nhất là trên một số địa bàn trọng yếu.
Chỉ đạo công tác kiểm tra chưa thật toàn diện, kiên quyết; chất lượng, hiệu quả chương trình kiểm tra hàng năm còn thấp; chỉ đạo xử lý những sai phạm được phát hiện qua kiểm tra vẫn chưa thật kịp thời, dứt khoát.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn nhiều hạn chế, nhất là trong việc chỉ đạo xem xét, giải quyết những vấn đề chính trị hiện nay của cán bộ; chậm bổ sung và sửa đổi một số điểm không còn phù hợp trong Quy định 75-QĐ/TW về công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
Cơ chế về phân công và trách nhiệm giải quyết công việc giữa các cơ quan Đảng, Nhà nước chưa đủ rõ dẫn đến có việc xử lý chậm. Chỉ đạo phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành trong khối đối ngoại và giữa khối đối ngoại với các khối an ninh, quốc phòng, kinh tế... trong xử lý một số trường hợp cụ thể chưa thật chặt chẽ, thống nhất.
Chỉ đạo triển khai hoặc kiểm tra việc thực hiện một số chủ trương lớn trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh còn chậm; có lĩnh vực, có việc nắm tình hình chưa sâu, chỉ đạo khắc phục, uốn nắn không kịp thời (vấn đề tổ chức đảng và cán bộ chính trị trong công an; tình trạng lộ bí mật, công khai tán phát tài liệu chống đối và gây rối nội bộ...).
B- KIỂM ĐIỂM VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO, PHONG CÁCH VÀ LỀ LỐI LÀM VIỆC
 I- BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
1. Ưu điểm
Ban Chấp hành Trung ương đã hoạt động theo đúng quy chế, làm việc theo chương trình toàn khoá. Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương khoá IX có kế thừa các khoá trước và có đổi mới, đã phân định rõ ràng hơn, cụ thể hơn nhiệm vụ, quyền hạn, lề lối làm việc của tổ chức và cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng. Chương trình làm việc toàn khoá thể hiện sự chỉ đạo toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm; coi trọng hơn việc tổng kết và kiểm tra thực hiện; đồng thời đã được điều chỉnh và bổ sung kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế.
Hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ; các vấn đề đều được thảo luận và quyết định theo hướng tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, nhưng không bao biện, làm thay, phát huy vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước, nhưng không làm suy giảm vai trò lãnh đạo của Đảng.
Việc ra nghị quyết bước đầu có sự đổi mới theo hướng ngắn gọn, cụ thể, thiết thực hơn.
Bước đầu đã có đổi mới trong việc huy động trí tuệ của các đồng chí Uỷ viên Trung ương tham gia vào việc chuẩn bị các đề án cho hội nghị Trung ương, tổng kết lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới và chuẩn bị các văn kiện Đại hội X.
2. Khuyết điểm
Nhìn chung, Ban Chấp hành Trung ương chưa đổi mới được nhiều về phương thức lãnh đạo, phong cách và lề lối làm việc. Các hội nghị Trung ương chưa có nhiều cải tiến về tổ chức điều hành; một số phiên họp thảo luận, tranh luận chưa sôi nổi.
Vẫn còn một số nghị quyết, kết luận dài, nội dung trùng lặp vời các văn bản khác. Trung ương ban hành nhiều nghị quyết, nhưng việc chỉ đạo quán triệt chưa đồng bộ; có tình trạng làm lướt, hình thức. Việc chỉ đạo cụ thể hoá và tổ chức thực hiện chưa tương xứng, nên có nhiều nghị quyết có nội dung tốt, nhưng kết quả thực hiện còn hạn chế, chậm đi vào cuộc sống.
Ban Chấp hành Trung ương chưa có nhiều hình thức để phát huy trí tuệ, nâng cao trách nhiệm của các đồng chí Uỷ viên Trung ương đóng góp vào các quyết định quan trọng của Đảng, của đất nước; chưa thực hiện được việc phê bình, chất vấn theo quy chế.
II- BỘ CHÍNH TRỊ, BAN BÍ THƯ
 1. Ưu điểm
Về cơ bản, Bộ Chính trị, Ban Bí thư hoạt động đúng quy chế và chương trình làm việc đã đề ra; kịp thời có sự Điều chỉnh chương trình để đáp ứng yêu cầu của diễn biến tình hình trong và ngoài nước; những quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư là đúng thẩm quyền, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nhìn chung, hoạt động của Bộ Chính trị đã tập trung vào những vấn đề mang tính chất định hướng ở tầm chiến lược về đường lối, chủ trương, chính sách lớn. Ngày càng phân định rõ hơn những vấn đề mà Bộ Chính trị cần ra quyết định và những vấn đề Nhà nước và các cơ quan chức năng chủ động giải quyết, xử lý. Việc phân công, phân cấp xử lý công việc giữa Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thường trực Ban Bí thư và các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng phụ trách từng lĩnh vực đã cụ thể hơn.
Phương pháp công tác, lề lối làm việc có cải tiến, có sự đổi mới. Sinh hoạt dân chủ, thẳng thắn, cởi mở, phát biểu ngắn gọn, tỏ rõ chính kiến. Đối với một số đề án, vấn đề quan trọng, phức tạp, Bộ Chính trị đã chỉ đạo lấy ý kiến được nhiều đối tượng trước khi thảo luận, quyết định. Các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư có bước cải tiến, thiết thực, ngắn gọn.
Việc lập lại Ban Bí thư đã giúp cho việc xử lý công việc hằng ngày của Đảng được kịp thời hơn, Bộ Chính trị và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt có điều kiện, thời gian đầu tư nhiều hơn cho những vấn đề chiến lược. Ban Bí thư đã tạo Điều kiện và phát huy tốt hơn vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tham mưu, giúp việc.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã dành thời gian làm việc trực tiếp với nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc, kiểm tra và tìm hiểu thực tế ở cơ sở, bước đầu giảm bớt thủ tục, hình thức, tăng hiệu quả của các chuyến đi.
Việc phân định công việc giữa Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ và các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị phụ trách một số lĩnh vực đã cụ thể, rõ ràng hơn, phát huy tốt hơn vai trò lãnh đạo của Đảng, sự chủ động trong quản lý, điều hành của Nhà nước. Đối với một số vấn đề hệ trọng, trong quá trình chuẩn bị, đồng chí Tổng Bí thư đã tham khảo ý kiến của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước, sau đó trình Bộ Chính trị thảo luận, quyết định theo đa số.
Bộ Chính trị đã thực hiện đúng quy định việc báo cáo Ban Chấp hành Trung ương những công việc đã giải quyết trong thời gian giữa hai kỳ họp Trung ương.
Thường trực Ban Bí thư thông qua hình thức định kỳ giao ban với các văn phòng, các ban đảng, với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội để nắm tình hình và nhắc nhở, chỉ đạo phối hợp xử lý các vấn đề mới nảy sinh, là cách làm có tác dụng tốt.
Các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn đề cao tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ được phân công, cũng như việc đóng góp ý kiến vào các quyết định của tập thể; gương mẫu giữ gìn đạo đức cách mạng, tác phong giản dị, gần gũi cán bộ.
2. Khuyết điểm
Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa dành thời gian và đầu tư thoả đáng cho việc nghiên cứu, chỉ đạo đổi mới, cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một đảng cầm quyền, lề lối làm việc trong các cơ quan đảng, trước hết là ở các cơ quan lãnh đạo cấp cao. Chưa khẩn trương chỉ đạo nghiên cứu, xây dựng hoàn thiện hệ thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung và cơ chế thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trên các lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp và đối với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân. Chưa xây dựng được quy chế về mối quan hệ làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư với Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ.
Bộ Chính trị vẫn phải họp nhiều, một số ít phiên họp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư chất lượng chưa cao. Một số vấn đề quan trọng đã xác định trong chương trình làm việc hằng năm, nhưng chưa thực hiện được hoặc thực hiện chậm.
Trong cơ chế làm việc và sinh hoạt, vai trò lãnh đạo tập thể được thể hiện tốt, nhưng trách nhiệm cá nhân trong một số lĩnh vực chưa đủ rõ, nên giải quyết một số công việc còn chậm. Nhiều đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải đảm nhiệm nhiều công việc khác nhau, mất thời gian vào việc họp hành, điều hành, xử lý cụ thể nên ít có thời gian tự học tập, nghiên cứu, tự tổng kết các vấn đề thực tiễn thuộc lĩnh vực phụ trách.
Chậm đổi mới quy trình giải quyết công việc của Đảng, nhất là việc xem xét, bổ nhiệm nhân sự và kỷ luật cán bộ còn phải qua nhiều khâu, nhiều công đoạn, mất nhiều thời gian; phần nào còn nặng về xem xét ý kiến thăm dò, chờ đợi sự đồng thuận của đương sự, thiếu sự chủ động, quyết đoán kịp thời của cơ quan lãnh đạo; chưa phát huy đúng mức trách nhiệm và quyền hạn của người phụ trách trong công tác cán bộ, để ảnh hưởng đến việc kiện toàn bộ máy lãnh đạo của một số cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc. Một số vấn đề các cấp, các ngành xin ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư, nhưng trả lời còn chậm, để cấp dưới chờ đợi lâu.
Chỉ đạo việc điều phối hoạt động của bộ máy đảng chưa thành nền nếp, hiệu quả một số chuyến đi cơ sở của các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa cao.
*
*          *
Tóm lại, nhiệm kỳ qua, trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước diễn biến phức tạp, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới; sớm cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội IX của Đảng; vừa bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, vừa tập trung hơn cho những ngành, lĩnh vực và địa bàn trọng tâm, trọng điểm; coi trọng hơn công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và các nghị quyết của Trung ương; đã xử lý đúng đắn, kịp thời nhiều vấn đề nhạy cảm, phức tạp; đẩy mạnh được đà phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, củng cố được quốc phòng, an ninh, tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao được vị thế và uy tín quốc tế của đất nước; chăm lo công tác xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị, nhất là cơ sở; tiếp tục phát huy dân chủ trong Đảng và trong nhân dân, giữ gìn kỷ cương trong Đảng và trong xã hội. Nhìn chung, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá IX đã lãnh đạo hoàn thành cơ bản các mục tiêu, nhiệm vụ do Nghị quyết Đại hội IX đề ra.
Tuy nhiên, trong lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư còn một số khuyết điểm, hạn chế: việc quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng vẫn là khâu yếu; chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt để khắc phục một số khuyết điểm, yếu kém kéo đài trong kinh tế - xã hội; lãnh đạo cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, cải cách hành chính còn chậm, chưa đạt yêu cầu đề ra; lãnh đạo, chỉ đạo quốc phòng, an ninh, đối ngoại có lúc, có việc còn bị động, lúng túng; chưa tập trung đúng mức để lạo sự chuyển biến mạnh mẽ, rõ nét trong xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là trong đấu tranh phòng, chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; còn ít đổi mới, cải tiến phương thức lãnh đạo và lề lối làm việc, v.v.. Những khuyết điểm, thiếu sót nói trên đã hạn chế hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo chung của Đảng, ảnh hưởng nhất định tới tình hình chung của đất nước.
Ban Chấp hành Trung ương, trước hết là Bộ Chính trị, Ban Bí thư xin nghiêm túc tự phê bình trước toàn Đảng, toàn dân về những khuyết điểm, thiếu sót nói trên.
Từ thực tiễn lãnh đạo chỉ đạo nhiệm kỳ vừa qua, Ban Chấp hành Trung ương thấy rằng, để lãnh đạo thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong thời gian tới cần phải coi trọng và tập trung giải quyết tốt những vấn đề hết sức quan trọng sau đây:
Một là, trong bối cảnh tình hình chính trị, an ninh, kinh tế khu vực và thế giới luôn biến động hết sức nhanh chóng, phức tạp, tình hình trong nước đang đặt ra nhiều vấn đề mới, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng; tăng cường cảnh giác và nâng cao ý thức đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng; tăng cường đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, nguyên tắc hoạt động của Đảng; thật sự coi trọng hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, có kế hoạch tự học tập, nâng cao năng lực nhận thức để tiếp tục tìm tòi, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới, đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ mới, tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đẩy mạnh đổi mới toàn diện đồng bộ để giành được những thành tựu mới to lớn, vững chắc hơn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, việc đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong điều kiện một Đảng lãnh đạo, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, có vị trí đặc biệt quan trọng đòi hỏi Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải dành thời gian và tâm sức nhiều hơn nữa, thoả đáng hơn nữa cho những nhiệm vụ này; phải rất coi trọng việc xây dựng và thực hiện đúng quy chế làm việc, đề cao và phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng và trong đời sống xã hội đi đôi với tăng cường trách nhiệm, thực hiện nghiêm kỷ luật của Đảng và kỷ cương phép nước. Không ngừng đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, từng bước quy chế hoá sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, đổi mới và kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và phát huy hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước và cả hệ thống chính trị.
Ba là, để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, vấn đề có tính chất quyết định là xây dựng được đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, tiêu biểu về trí tuệ, năng động, sáng tạo, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có trách nhiệm, luôn gắn bó với nhân dân, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, của nhân dân. Muốn vậy, phải tiếp tục đổi mới công tác cán bộ cả về tư duy, nội dung và phương pháp; đổi mới đồng bộ hệ thống các quy chế cụ thể về đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm để bố trí đúng cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn tài năng ở tất cả các ngành, các cấp, các lĩnh vực. Phải giao nhiệm vụ rõ ràng và quyền hạn tương ứng cho từng chức danh; xây dựng cho được cơ chế cụ thể về trách nhiệm của cán bộ đối với công việc được giao, xử lý kịp thời việc biểu dương, khen thưởng, cũng như việc phê bình, kỷ luật, thay thế những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, để công việc trì trệ hoặc có sai phạm, khuyết điểm.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác cán bộ nói riêng, phải tiến hành thường xuyên và kiên trì cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi bằng được các tệ nạn này.
Bốn là, sau khi có đường lối đúng, sự nghiệp đổi mới có thành công hay không phụ thuộc một phần lớn vào năng lực tổ chức thực hiện của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, của các cấp, các ngành. Thời gian qua, tuy vấn đề này đã được coi trọng hơn trước, nhưng vẫn là khâu yếu, có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết đúng đắn của Đảng. Trong đó, đáng lưu ý nhất là tình trạng thiếu kiên quyết, nể nang, né tránh; kỷ luật không nghiêm; chưa phát huy đúng mức quyền hạn và trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Vì vậy, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá X và cấp uỷ các cấp cần đặc biệt coi trọng và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng và phát triển đường lối của Đảng thông qua tổng kết thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trên đây là Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá IX. Xin kính trình Đại hội.

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHOÁ IX




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét