Ðại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Ðảng đánh dấu thời điểm có ý nghĩa trọng
đại. Bước vào giai đoạn mới, bên cạnh những cơ hội lớn, đất nước ta và Ðảng ta
cũng đối mặt với những thách thức rất gay gắt. Trước tình hình đó, xây dựng
Ðảng với vai trò là nhiệm vụ then chốt càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là
vấn đề sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Báo cáo
công tác xây dựng Ðảng kiểm điểm, đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Ðại hội
IX, đồng thời đánh giá khái quát về tình hình Ðảng và công tác xây dựng Ðảng
qua 20 năm đổi mới, xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của
nhiệm kỳ tới.
Phần thứ nhất
Công tác xây dựng Đảng 5 năm qua và những bài học kinh nghiệm qua 20 năm
đổi mới
1. Khái quát một số nét về tình hình Ðảng
Trước
những khó khăn, thử thách lớn ở trong nước, những biến động bất lợi trong phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, trước sự chống phá của các thế lực thù
địch, Ðảng ta đã giữ vững bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, kiên định
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của Ðảng; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
kiên trì đường lối đổi mới; tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Ðảng.
Ðảng
có bước phát triển về tư duy, đã đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới
đúng đắn, xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Ðảng là
nhiệm vụ then chốt, phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Ban
Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị đã cụ thể hóa và phát triển Cương lĩnh,
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các nghị quyết Ðại hội; nhận thức sâu
sắc hơn về chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn,
hợp lòng dân của Ðảng đã đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng. Ðảng và Nhà
nước tích lũy thêm được nhiều kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý đất nước trong
điều kiện mới.
Việc
thực hiện dân chủ trong Ðảng và trong xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc có tiến bộ. Cán bộ, đảng
viên và nhân dân tin tưởng vào công cuộc đổi mới và sự lãnh đạo của Ðảng. Ða số
cán bộ, đảng viên phát huy được vai trò tiên phong, năng động, sáng tạo trong
công tác, lao động, rèn luyện phẩm chất, năng lực, có bước trưởng thành, đóng
vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới, góp phần xứng đáng vào thành quả
chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Việc
thực hiện tự phê bình và phê bình, đẩy mạnh đấu tranh chống tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp
luật nghiêm trọng được nhân dân đồng tình. Ðảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân được nâng lên. Quy chế dân
chủ ở cơ sở bước đầu được thực hiện có hiệu quả. Quan hệ gắn bó giữa Ðảng và
nhân dân được tiếp tục phát huy; nhân dân hăng hái tham gia xây dựng và thực
hiện đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Bên
cạnh những ưu điểm cơ bản đó, cần thẳng thắn và nghiêm túc nhận rõ những khuyết
điểm, yếu kém của Ðảng. Nổi lên là năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng
còn nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; chậm làm sáng tỏ nhiều
vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta, về sự lãnh đạo của Ðảng và công tác xây dựng Ðảng; chậm cụ thể hóa, thể chế
hóa một số quan điểm lớn, đúng đắn về sự lãnh đạo của Ðảng và công tác xây dựng
Ðảng đã đề ra trong Cương lĩnh và các Nghị quyết Ðại hội Ðảng; tổ chức thực
hiện vẫn là khâu yếu.
Dân
chủ trong Ðảng và trong xã hội còn bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều cấp,
nhiều lĩnh vực không nghiêm. Sự đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp ủy còn yếu.
Quan hệ giữa Ðảng và nhân dân có lúc, có nơi bị xói mòn do những hạn chế, yếu
kém trong công tác tư tưởng chính trị, công tác vận động quần chúng, công tác
tổ chức cán bộ, công tác quản lý nhà nước và những khó khăn phát sinh trong quá
trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế - xã hội.
Không
ít tổ chức đảng yếu kém, nhất là ở cơ sở, không làm tròn vai trò hạt nhân chính
trị và nền tảng của Ðảng, không đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp nảy
sinh từ cơ sở, thậm chí có những tổ chức cơ sở đảng tê liệt, mất sức chiến đấu.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp,
yếu kém cả về phẩm chất và năng lực; thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ
quan điểm, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giảm sút
lòng tin, phai nhạt lý tưởng; một số ít có biểu hiện bất mãn, mất lòng tin, nói
và làm trái với quan điểm, đường lối của Ðảng, vi phạm nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Ðảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá
nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; vẫn còn tình
trạng "chạy chức", "chạy quyền", "chạy tội",
"chạy bằng cấp". Thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo
đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan công quyền, các lĩnh vực xây dựng cơ
bản, quản lý đất đai, quản lý doanh nghiệp nhà nước và quản lý tài chính, làm
giảm lòng tin của nhân dân đối với Ðảng. Ðó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự
sống còn của Ðảng, của chế độ.
2. Công tác xây dựng Ðảng
Ưu
điểm:
Ðảng
đã kiên trì và nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ then chốt về xây dựng Ðảng trên cả
ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Công
tác xây dựng Ðảng về chính trị, tư tưởng được coi trọng. Nghị quyết Trung ương
5 khóa IX về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình
mới, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đang đi vào cuộc sống. Ðã coi trọng và đẩy mạnh
hơn công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ hơn một số vấn
đề lý luận do thực tiễn công cuộc đổi mới đặt ra. Ðã từng bước đổi mới công tác
giáo dục tư tưởng chính trị, nghiên cứu, học tập các nghị quyết của Ðảng, tuyên
truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Coi trọng hơn
công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, nêu gương người tốt việc tốt, phê phán những biểu hiện của chủ nghĩa
cá nhân, tư tưởng cơ hội, lối sống thực dụng. Công tác tư tưởng đã góp phần
nâng cao nhận thức, tính tích cực của cán bộ, đảng viên, nâng cao lòng tin của
nhân dân vào đường lối đổi mới, tạo sự nhất trí trong Ðảng và sự đồng thuận
trong xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị
- xã hội.
Ðảng
đã quan tâm xây dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức. Từng bước sắp xếp tổ chức, bộ
máy, biên chế cơ quan Ðảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân; điều
chỉnh, bổ sung và quy định cụ thể hợp lý hơn chức năng, nhiệm vụ, phương thức
hoạt động và lề lối làm việc của mỗi tổ chức. Tăng cường tính chủ động, sáng
tạo, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp.
Ðã
tập trung chỉ đạo xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng. Xác định chức năng,
nhiệm vụ các loại hình tổ chức cơ sở đảng phù hợp hơn trong điều kiện hoạt động
mới. Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn và một bộ phận doanh nghiệp; chú
ý hơn xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở vùng sâu, vùng xa, bước đầu xây dựng tổ
chức cơ sở đảng trong các công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài. Việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng gắn với xây
dựng hệ thống chính trị cơ sở bước đầu tạo nên một số chuyển biến tích cực,
xuất hiện những mô hình tốt và kinh nghiệm mới.
Công
tác phát triển đảng viên được quan tâm chỉ đạo và đạt được một số kết quả, nhất
là ở những vùng trọng yếu, những nơi có ít hoặc chưa có đảng viên. Số lượng
đảng viên mới kết nạp hằng năm đều tăng; tỉ lệ đảng viên mới kết nạp là đoàn
viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, là nữ, người dân tộc thiểu số, trí thức
ngày càng tăng, góp phần thay đổi cơ cấu đội ngũ đảng viên theo hướng tích cực.
Công
tác cán bộ có một số đổi mới về nội dung và cách làm. Ðã giữ vững và thực hiện
quan điểm Ðảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ,
thực hiện tốt hơn nguyên tắc tập trung dân chủ, coi trọng hơn việc phát huy vai
trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu các
tổ chức; bước đầu tổ chức để nhân dân tham gia ý kiến vào công tác cán bộ, nhất
là ở cơ sở. Tiếp tục cụ thể hóa một bước và xác định một số giải pháp thực hiện
Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về "Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Triển khai tương đối đồng bộ các
khâu công tác cán bộ: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố
trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ. Công tác luân chuyển và quy hoạch
cán bộ lãnh đạo, quản lý bước đầu có chuyển biến tiến bộ, góp phần đào tạo, bồi
dưỡng, tạo nguồn cán bộ và khắc phục một bước tình trạng hẫng hụt về cán bộ.
Công
tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm chỉ đạo, góp
phần bảo vệ Ðảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đã làm rõ và kết luận nhiều
trường hợp về lịch sử chính trị của cán bộ, đảng viên, góp phần nâng cao chất
lượng công tác bố trí, sử dụng cán bộ, kết nạp người vào Ðảng.
Việc
tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Ðảng theo Nghị quyết Trung
ương 6 (lần 2) khóa VIII và Kết luận Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX về đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí đã đạt một số
kết quả nhất định.
Ban
Chấp hành Trung ương và các cấp ủy đã quan tâm hơn việc kiểm tra chấp hành
đường lối, chủ trương, Ðiều lệ Ðảng và công tác cán bộ; xây dựng chương trình
kiểm tra và thực hiện kiểm tra theo chương trình, tập trung vào những vấn đề
trọng tâm, trọng điểm, những lĩnh vực, địa bàn có vấn đề phức tạp. Việc xử lý
nghiêm hơn đối với một số cán bộ, đảng viên có sai lầm, kể cả cán bộ cao cấp,
có tác dụng giáo dục, răn đe, được nhân dân đồng tình.
Ðảng
đã từng bước cụ thể hóa và thể chế hóa các quan điểm của Cương lĩnh về phương
thức lãnh đạo của Ðảng, phát huy tốt hơn vai trò của các cơ quan nhà nước, Mặt
trận và các đoàn thể nhân dân, khắc phục dần khuynh hướng Ðảng bao biện làm
thay, cũng như buông lỏng, xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Ðảng. Dân chủ trong
Ðảng, trong quan hệ giữa Ðảng với Nhà nước, trong tổ chức và hoạt động của Nhà
nước và dân chủ trong xã hội có tiến bộ.
Khuyết
điểm, yếu kém:
Cuộc
vận động xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy, tổ
chức đảng, đảng viên chưa đạt yêu cầu đề ra, chưa tạo được chuyển biến cơ bản,
chưa góp phần tích cực ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp chưa nêu gương, chưa làm tròn trách
nhiệm trong đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Việc xử lý kỷ luật
đối với những người đứng đầu để xảy ra tham nhũng, lãng phí ở ngành, địa
phương, đơn vị chưa kịp thời, kiên quyết.
Công
tác giáo dục chính trị, tư tưởng còn nhiều hạn chế, thiếu sót; tính định hướng,
tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả chưa cao; thiếu chủ động và sắc
bén trong đấu tranh chống âm mưu "diễn biến hòa bình", chống tuyên
truyền phản động của các thế lực thù địch, bác bỏ các quan điểm sai trái; thiếu
những hình thức, biện pháp cụ thể, có sức thuyết phục để xây dựng, củng cố niềm
tin, giải đáp những băn khoăn, vướng mắc, những vấn đề phức tạp và những mâu
thuẫn mới nảy sinh trong quá trình đổi mới; chưa làm tốt chức năng dự báo tình
hình, chuẩn bị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên chủ động đi vào kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Công tác giáo dục lý tưởng
cách mạng, đạo đức, lối sống còn chung chung, kém hiệu quả. Công tác nghiên cứu
lý luận còn yếu, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới. Trong chỉ đạo,
quản lý cũng như hoạt động của báo chí, xuất bản, văn hóa, nghệ thuật còn nhiều
yếu kém, khuyết điểm chậm được khắc phục, nhất là chưa ngăn chặn có hiệu quả
khuynh hướng xa rời tôn chỉ mục đích, chạy theo thị hiếu thấp kém, vì lợi ích
vật chất cá nhân, cục bộ.
Công
tác tổ chức trên một số mặt còn yếu; chưa thực hiện đầy đủ các nguyên tắc tổ
chức, hoạt động của Ðảng. Chậm xây dựng, hoàn thiện tổ chức và cơ chế giám sát
trong Ðảng và trong hệ thống chính trị, giám sát của nhân dân đối với hoạt động
của Ðảng, Nhà nước và cán bộ, đảng viên. Còn thiếu những quy chế cụ thể bảo đảm
phát huy dân chủ, thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ. Một số cấp
ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng
viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới; cán bộ lãnh đạo ở một số nơi gia trưởng,
độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức.
Nhìn
chung, việc xây dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức chưa đạt yêu cầu tinh gọn,
hiệu quả; bộ máy còn cồng kềnh, chồng chéo, quan liêu, trách nhiệm không rõ,
hiệu lực, hiệu quả thấp. Mối quan hệ về trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân,
nhất là người đứng đầu chưa được quy định cụ thể; chưa phát huy đúng mức vai
trò của cá nhân và tập thể, khó đánh giá được kết quả công tác và quy rõ trách
nhiệm cá nhân khi có sai phạm.
Tổ
chức cơ sở đảng chưa được quan tâm chỉ đạo đúng mức. Một số thôn bản ở vùng
sâu, vùng xa chưa có tổ chức đảng và đảng viên. Một số loại hình tổ chức cơ sở
đảng trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan
hành chính, sự nghiệp còn lúng túng về tổ chức và phương thức hoạt động. Không
ít cơ sở đảng yếu kém, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu thấp; sinh hoạt đảng
và quản lý đảng viên lỏng lẻo, nội dung sinh hoạt nghèo nàn; tự phê bình và phê
bình yếu. Việc đánh giá tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên không ít trường hợp
chưa đúng thực chất, còn hình thức.
Nhiều
khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm được khắc phục, nhất là việc
quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
thực hành dân chủ và chế độ trách nhiệm trong công tác. Chậm đổi mới cơ chế,
phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán
bộ. Chưa kiên quyết và thiếu những quy chế có hiệu lực để sắp xếp, bố trí lại
đội ngũ cán bộ, thay thế kịp thời những cán bộ yếu kém về phẩm chất và năng
lực, để công việc trì trệ; hầu như chỉ khi cán bộ bị kỷ luật hoặc vi phạm pháp
luật mới thay thế được. Chưa có chính sách đủ hiệu lực khơi dậy tài năng và thu
hút nhân tài vào các lĩnh vực quan trọng. Chậm khắc phục tình trạng cục bộ,
khép kín, hẫng hụt cán bộ ở các địa phương, ngành.
Công
tác bảo vệ chính trị nội bộ còn nhiều hạn chế, nhất là trong việc xem xét, giải
quyết những vấn đề chính trị hiện nay; chậm bổ sung và sửa đổi một số điểm
không còn phù hợp trong Quy định 75-QÐ/TW; tổ chức bộ máy và cán bộ làm công
tác bảo vệ chính trị nội bộ chậm được kiện toàn. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng
chưa quan tâm chỉ đạo đúng mức công tác này.
Công
tác kiểm tra trong Ðảng còn yếu, chất lượng và hiệu quả kiểm tra chưa cao;
nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện và
khắc phục; chưa coi trọng kiểm tra phòng ngừa, phát huy nhân tố tích cực. Nhiều
cấp ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật trong
Ðảng. Công tác giám sát trong Ðảng và giám sát của nhân dân đối với các hoạt
động của Ðảng, Nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa được quan tâm, chưa đáp ứng yêu
cầu công tác xây dựng Ðảng trong tình hình mới.
Việc
đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng còn chậm và lúng túng. Chậm nghiên cứu và
ban hành những quy định cụ thể về phương thức Ðảng lãnh đạo Nhà nước; chậm xây
dựng các cơ chế phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị. Thiếu những
quy định cụ thể bảo đảm thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ, phát
huy dân chủ trong Ðảng. Chưa thực sự coi trọng đổi mới phong cách, lề lối làm
việc, thực hiện nói đi đôi với làm; tình trạng nói nhiều làm ít, né tránh, đùn
đẩy trách nhiệm còn diễn ra ở nhiều nơi.
Những
thành tựu và yếu kém trong 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc gắn liền với vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của Ðảng và những ưu
điểm, khuyết điểm trong công tác xây dựng Ðảng.
Công
cuộc đổi mới trong 20 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử; đường lối đổi mới của Ðảng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực
tiễn Việt Nam; Ðảng luôn luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, trung
thành với giai cấp và dân tộc, kiên định, vững vàng trước mọi thách thức, sáng
suốt lãnh đạo đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta tiến lên. Qua đó, Ðảng
ngày càng tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm; nhận thức ngày càng sâu sắc hơn
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Bên
cạnh những ưu điểm, công tác xây dựng Ðảng còn nhiều yếu kém, khuyết điểm, chưa
theo kịp với đòi hỏi của tình hình mới; nổi lên là sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn
ra nghiêm trọng; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy
lùi, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Nguyên
nhân:
Những
khuyết điểm, yếu kém nói trên có những nguyên nhân khách quan và chủ quan:
Về
khách quan, những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế giới; sự
tấn công rất thâm độc của các thế lực thù địch, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng
chính trị; những mặt trái của kinh tế thị trường, của quá trình hội nhập quốc
tế... đã tác động nhiều mặt đến công tác xây dựng Ðảng và đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Xây dựng Ðảng trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, mở rộng và phát huy dân chủ... là những vấn đề mới, khó khăn, phức
tạp cả về lý luận và thực tiễn, đòi hỏi phải vừa làm vừa tổng kết kinh nghiệm,
hoàn thiện và phát triển đường lối.
Về
chủ quan, chậm đổi mới tư duy về công tác xây dựng Ðảng trong điều kiện mới.
Nhận thức chưa đầy đủ và sâu sắc, có mặt chưa rõ, chưa thống nhất một số vấn đề
quan trọng ở tầm quan điểm, chủ trương; chưa cụ thể hóa và tổ chức thực hiện
kịp thời, đồng bộ một số quan điểm lớn, đúng đắn về xây dựng Ðảng đã đề ra
trong Cương lĩnh và các nghị quyết của Ðảng. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo
của Ðảng còn chậm, chưa đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị, đổi mới kinh tế.
Việc
tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương về xây dựng Ðảng chưa nghiêm, còn
thiếu các biện pháp cụ thể, khả thi. Nhiều tổ chức, cấp ủy đảng và bí thư cấp
ủy chưa đầu tư đúng mức thời gian, công sức cho công tác xây dựng Ðảng. Công
tác kiểm tra còn nhiều hạn chế cả về tổ chức và hoạt động; chưa có cơ chế giám
sát trong Ðảng và giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Ðảng. Lãnh đạo,
chỉ đạo kiện toàn tổ chức, đổi mới công tác cán bộ thiếu kiên quyết, hiệu quả
thấp, chưa đáp ứng yêu cầu. Chưa quan tâm đúng mức đến công tác bảo vệ Ðảng,
bảo vệ tổ chức và cán bộ, đảng viên trong tình hình mới.
Một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp,
thiếu ý thức tu dưỡng rèn luyện về phẩm chất đạo đức và năng lực, chạy theo chủ
nghĩa cá nhân, không hoàn thành nhiệm vụ nhưng chưa được xử lý kịp thời, kiên
quyết.
3. Bài học kinh nghiệm chủ yếu qua 20 năm đổi mới
Từ
thực tiễn xây dựng Ðảng những năm đổi mới, có thể khái quát một số bài học kinh
nghiệm chủ yếu sau đây:
Một
là, phải kiên trì đường lối đổi mới, đổi mới toàn diện, có nguyên tắc và sáng
tạo; trong quá trình đổi mới, phải luôn luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
của Ðảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không đa nguyên, đa đảng.
Hai
là, Ðảng phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường
xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu,
đổi mới công tác xây dựng Ðảng. Phát huy dân chủ trong Ðảng, thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật; thường xuyên tự phê
bình và phê bình, nói thẳng, nói thật; giữ gìn và tăng cường sự đoàn kết thống
nhất trong Ðảng, đấu tranh kiên quyết đối với những phần tử cơ hội. Xây dựng hệ
thống tổ chức bộ máy trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, thẩm quyền, trách nhiệm
rõ ràng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Coi trọng xây dựng tổ chức cơ sở đảng.
Ba
là, Ðảng phải chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ bản
lĩnh chính trị, phẩm chất, trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn để hoàn
thành nhiệm vụ. Phải tạo sự chuyển biến thực sự và đồng bộ trong công tác cán
bộ trên tất cả các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển,
bố trí, sử dụng và chính sách. Ðặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt, trọng dụng nhân tài.
Bốn
là, Ðảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Ðảng. Phải xây dựng các thiết chế mở
rộng và phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà
nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh ý chí, lợi ích của nhân
dân, của quốc gia, dân tộc. Cán bộ, đảng viên và công chức phải thật sự là công
bộc của nhân dân.
Năm
là, Ðảng phải tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm
tra, giám sát. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết,
quyết định của Ðảng để phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục kịp thời sai
lầm, khuyết điểm; kiểm tra, giám sát công tác, năng lực và phẩm chất của cán
bộ, đảng viên, xây dựng tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và cán bộ, đảng viên
ngày càng trong sạch, vững mạnh. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, của
Mặt trận, các đoàn thể và của các cơ quan thông tin đại chúng.
Sáu
là, Ðảng phải đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, nhất là phương thức
lãnh đạo Nhà nước, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Ðảng, phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân. Phải xây dựng hệ thống các
quy chế về sự lãnh đạo của Ðảng ở các ngành, các cấp. Ðảng hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, không làm thay công việc của các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị.
Phần thứ hai
Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ tới
Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ tới
I- Phương hướng và mục tiêu
Phương
hướng và mục tiêu tổng quát của công tác xây dựng Ðảng trong nhiệm kỳ tới là:
tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Ðảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân
và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng; xây
dựng Ðảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao,
có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân. Cụ thể là:
-
Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, hoạch định đường lối, chủ trương, chính
sách; tổ chức thực hiện sáng tạo, có hiệu quả đường lối.
- Coi
trọng công tác tư tưởng, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, xây
dựng nền tảng tư tưởng, lý luận vững chắc cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, giữ vững mục tiêu lý tưởng, giữ vững niềm tin, bảo đảm thống
nhất giữa nhận thức và hành động.
-
Tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống, nâng cao tính tiên phong
gương mẫu, phẩm chất và năng lực đội ngũ cán bộ, đảng viên, đề ra và thực hiện
các biện pháp có hiệu lực chống tư tưởng cơ hội, thực dụng, chủ nghĩa cá nhân;
ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu và những biểu hiện tiêu
cực khác.
-
Thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Ðảng; xây dựng, kiện
toàn hệ thống tổ chức, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ, thẩm quyền,
trách nhiệm của mỗi tổ chức, bảo đảm bộ máy tinh gọn, có hiệu lực, hiệu quả.
Ðặc biệt chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng; gắn xây dựng tổ chức cơ sở đảng với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ
sở; nâng cao chất lượng sinh hoạt Ðảng.
-
Tiếp tục đổi mới đồng bộ các khâu của công tác cán bộ, tạo chuyển biến cơ bản,
vững chắc trong công tác cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ
cấp chiến lược, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, thật sự vì Ðảng, vì dân, có
bản lĩnh và trí tuệ, đi đầu trong công tác và gương mẫu trong đạo đức lối sống,
bảo đảm tính kế thừa và phát triển; xây dựng và thực hiện chính sách phát triển
nhân tài đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Ðổi
mới và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong Ðảng và trong cả hệ
thống chính trị. Kiểm tra nhận thức, năng lực lãnh đạo, xây dựng và tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước; kiểm tra phẩm
chất chính trị và đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Xây dựng các quy chế
và biện pháp thực hiện sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Ðảng, Nhà
nước và cán bộ, đảng viên.
- Ðổi
mới phương thức lãnh đạo của Ðảng, bảo đảm vừa nâng cao vai trò lãnh đạo của
Ðảng, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của Nhà nước,
Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và người đứng đầu; khắc phục khuynh hướng buông
lỏng lãnh đạo hoặc bao biện làm thay; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị.
II- Nhiệm vụ và giải pháp lớn
1. Tăng cường xây dựng Ðảng về chính trị, hoàn thiện đường lối đổi mới và
nâng cao năng lực tổ chức thực hiện
Cụ
thể hóa, pháp luật hóa và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối chính trị,
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, gắn kết chặt chẽ và
đồng bộ các nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Ðảng là then
chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.
Ðảng
phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tiếp thu
tinh hoa văn hóa của nhân loại, tri thức mới của thời đại, nâng cao năng lực
trí tuệ; phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư
duy lý luận, kiên định về nguyên tắc, chiến lược, linh hoạt, sáng tạo về sách
lược, phương pháp; chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc đổi mới vô nguyên
tắc, chủ quan, nóng vội.
Phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, tổ chức để nhân dân tham gia xây dựng đường
lối, chủ trương, quyết sách quan trọng của Ðảng, Nhà nước. Coi trọng nâng cao
hiệu quả tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương; tăng cường kiểm tra, giám
sát; thường xuyên bám sát và kịp thời tổng kết thực tiễn, phát hiện, ủng hộ và
nhân rộng những nhân tố mới, qua thực tiễn làm sáng tỏ những vấn đề mới, bổ
sung, hoàn thiện và phát triển đường lối.
Xúc
tiến nghiên cứu bổ sung, phát triển Cương lĩnh của Ðảng phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
2. Tăng cường công tác tư tưởng; rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng
Tăng
cường công tác tư tưởng:
Chủ
động hơn trong công tác tư tưởng. Nghiên cứu xây dựng chiến lược công tác tư
tưởng trong tình hình mới.
Ðổi
mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của Ðảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu nhân dân, lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tăng cường giáo dục phẩm chất đạo đức cách
mạng trong toàn Ðảng, toàn dân, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Chăm lo củng cố
sự đoàn kết, thống nhất và tình đồng chí trong Ðảng, sự đồng thuận trong xã
hội; thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên tự phê bình và phê bình.
Công
tác tư tưởng cần nâng cao tính chiến đấu và sức thuyết phục. Bám sát thực tiễn,
lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và những vướng mắc trong tư tưởng của cán bộ,
đảng viên và nhân dân để giải đáp sát thực, kịp thời; đấu tranh khắc phục những
biểu hiện phai nhạt lý tưởng, cơ hội, chạy theo lợi ích cá nhân; chủ động và
kiên quyết phê phán những quan điểm sai trái, bác bỏ những luận điệu phản động,
góp phần làm thất bại mọi mưu toan "diễn biến hòa bình", bạo loạn,
lật đổ của các thế lực thù địch.
Tiếp
tục đổi mới tư duy, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, kịp thời
làm sáng tỏ hơn những vấn đề bức xúc về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
về Ðảng cầm quyền và công tác xây dựng Ðảng; về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về tổ chức và hoạt động
của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân... Chú trọng nâng cao tính khoa học, tính
thực tiễn và sự mạnh dạn khám phá, sáng tạo trong công tác nghiên cứu khoa học,
nghiên cứu lý luận. Sớm xây dựng và ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu
lý luận.
Tiếp
tục cụ thể hóa chiến lược phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc, tiếp thu những thành tựu và tinh hoa văn hóa của nhân loại, hoàn
thiện hệ thống giá trị của con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn phát triển kinh
tế - xã hội với phát triển văn hóa, làm cho văn hóa thực sự trở thành nền tảng
tinh thần của xã hội.
Ðổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giảng dạy và học tập lý luận, công
tác thông tin, tuyên truyền, cổ động, báo chí, xuất bản, văn hóa nghệ thuật,
nắm bắt và định hướng dư luận xã hội; tăng cường tuyên truyền đối ngoại, đặc
biệt là về những vấn đề chính trị nhạy cảm như dân tộc, tôn giáo, nhân quyền...
Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong các cơ
quan báo chí. Khắc phục những biểu hiện lệch lạc trong hoạt động báo chí, xuất
bản, văn hóa, văn nghệ, nhất là xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo thị hiếu
thấp kém, vì lợi ích vật chất cá nhân, cục bộ.
Kiện
toàn tổ chức, nâng cao phẩm chất và năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác tư
tưởng, lý luận, nhất là cán bộ chủ chốt, từng bước hiện đại hóa điều kiện,
phương tiện công tác tư tưởng - văn hóa.
Rèn
luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân:
Ðặc
biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên
thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân
dân, vì sự nghiệp cách mạng.
Cán
bộ, đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước Ðảng và nhân dân, thật
sự tiên phong, gương mẫu, đi đầu trong mọi công việc; xử lý hài hòa các lợi
ích, đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết. Tạo điều kiện để đảng
viên công tác, lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả, bảo đảm đời sống và
đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Học
tập, quán triệt, làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Ðổi mới nội dung và hình thức sinh hoạt đảng bộ, chi bộ; thường xuyên lấy
ý kiến nhận xét của nhân dân về tư cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Coi
trọng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật nghiêm những cán bộ, đảng viên vi
phạm những quy định về trách nhiệm, phẩm chất, đạo đức, lối sống.
3. Ðẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Ðấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác
xây dựng Ðảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và
toàn xã hội. Các cấp ủy và tổ chức đảng phải nhận thức sâu sắc tính cấp thiết,
lâu dài, phức tạp và khó khăn của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí; có quyết tâm chính trị cao, đấu tranh kiên quyết, kiên trì, liên tục, có
hiệu quả từ Trung ương đến cơ sở, trong Ðảng, Nhà nước và toàn xã hội; có hệ
thống giải pháp đồng bộ, cụ thể và có hiệu lực về tuyên truyền, giáo dục và
hành chính, về kinh tế, tài chính và pháp luật, về thanh tra, kiểm tra và giám
sát, về chế độ chính sách đãi ngộ và kỷ luật Ðảng; sử dụng sức mạnh tổng hợp
của tổ chức Ðảng, bộ máy nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể, nhân dân và các
phương tiện thông tin đại chúng.
Các
cấp ủy và tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp cao
phải thực sự tiên phong, gương mẫu đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Ðẩy
mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Ðảng theo tinh thần Nghị quyết Trung
ương 6 (lần 2) khóa VIII, bổ sung thêm những yêu cầu, biện pháp mới phù hợp,
đưa cuộc vận động đi vào chiều sâu.
Coi
trọng giáo dục chính trị tư tưởng, tự tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng
viên; công tác quản lý cán bộ, đảng viên của tổ chức đảng; đẩy mạnh đấu tranh
tự phê bình và phê bình, mở rộng dân chủ, công khai. Biểu dương và nhân rộng
những tấm gương cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
Hoàn
thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, nhất là về kinh tế, tài chính; về cơ chế,
giải pháp phòng ngừa; cơ chế giám sát, phản biện của Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân. Ðẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước. Xác định rõ chế độ trách nhiệm
của tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu trong đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí.
Tăng
cường chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy công tác kiểm tra và kỷ
luật của Ðảng; củng cố, kiện toàn, nâng cao hiệu lực của hệ thống thanh tra các
cấp, các cơ quan bảo vệ pháp luật và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có
liên quan.
Xây
dựng hệ thống chính sách phân phối thu nhập xã hội và chế độ đãi ngộ công bằng,
hợp lý bảo đảm đời sống của cán bộ, công chức. Công khai hóa các chế độ, chính
sách để cán bộ, đảng viên và nhân dân giám sát, kiểm tra.
Xây
dựng thiết chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia giám
sát, phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.
Xử lý
kịp thời, nghiêm minh, công khai theo kỷ luật Ðảng và pháp luật của Nhà nước
đối với những cán bộ, công chức tham nhũng, bao che cho tham nhũng, gây thiệt
hại về tài sản của Nhà nước, của nhân dân, dù người đó ở chức vụ nào, đương
chức hay đã nghỉ hưu. Tịch thu tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng.
Cấp
ủy, tổ chức đảng các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị phải lãnh đạo chặt chẽ
cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, không để những phần tử xấu,
các thế lực thù địch lợi dụng cuộc đấu tranh này kích động, gây rối.
Thành
lập các ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng trung ương và địa phương đủ mạnh,
có thực quyền, hoạt động có hiệu quả. Ðẩy mạnh hợp tác quốc tế về phòng, chống
tham nhũng.
4. Ðổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Ðảng và của hệ thống chính trị
Tiếp
tục hoàn thiện, cụ thể hóa, quy chế hóa nguyên tắc tập trung dân chủ và các
nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Ðảng. Hoàn thiện quy chế, quy trình về công
tác tổ chức bảo đảm mở rộng và phát huy dân chủ trong Ðảng.
Tiếp
tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Ðảng và của cả hệ thống chính trị;
xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy, cơ chế vận hành, lề lối làm
việc.
Tiếp
tục sắp xếp, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Ðảng ở Trung ương và các địa phương,
gắn với kiện toàn tổ chức, tinh giản biên chế của cơ quan nhà nước, Mặt trận và
các đoàn thể nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khóa VIII, bảo đảm
tinh gọn, hoạt động thiết thực, hiệu quả, phù hợp với điều kiện một đảng cầm
quyền. Tổ chức cơ quan tham mưu chuyên trách của Ðảng tinh gọn, có chất lượng
cao đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng
viên, hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Cải
tiến lề lối làm việc, nâng cao chất lượng nghiên cứu, đề xuất, tham mưu, hướng
dẫn, kiểm tra của các cơ quan tham mưu của Ðảng các cấp. Tăng cường sự phối hợp
giữa các ban cán sự đảng, đảng đoàn với cấp ủy địa phương.
Tổng
kết về tổ chức và hoạt động của ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy khối cả về
lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị sẽ
xem xét, quyết định về mô hình và phương thức hoạt động của các tổ chức này.
Sắp
xếp, củng cố tổ chức cơ sở đảng phù hợp với mô hình sản xuất kinh doanh mới ở
các tổng công ty, các loại hình doanh nghiệp; bảo đảm hiệu quả lãnh đạo của tổ
chức đảng.
Tiếp
tục kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Quốc hội, của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, nâng cao chất lượng
đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, thực
hiện tốt hơn các chức năng lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước.
Kiện
toàn tổ chức, bộ máy của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, xây
dựng bộ đa ngành, đa lĩnh vực, tập trung làm nhiệm vụ quản lý nhà nước, bỏ chế
độ chủ quản đối với doanh nghiệp. Xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ,
trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành
chính, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên của tất cả các tổ chức trong hệ thống
chính trị.
Tiếp
tục thực hiện cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân
chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Kiện toàn các cơ quan tư
pháp theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả, gọn đầu mối, lấy cải
cách tổ chức và hoạt động xét xử làm trung tâm.
Nâng
cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp, bảo
đảm thực hiện đúng thẩm quyền và tự chịu trách nhiệm trong phạm vi được phân
cấp.
Sắp
xếp tổ chức, bộ máy Mặt trận và các đoàn thể nhân dân theo hướng tinh gọn ở cấp
Trung ương, tỉnh, huyện. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phù hợp với chức năng, tôn chỉ, mục đích hoạt
động của từng tổ chức; hướng về cơ sở; khắc phục tình trạng hành chính hóa, xa
dân, phô trương, hình thức.
5. Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, công tác bảo vệ chính trị nội bộ
Tiếp
tục đổi mới công tác cán bộ:
Mục
tiêu chung là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo
đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí, kiên quyết đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo, có
kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức, kỷ luật cao
và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Ðội ngũ cán bộ phải đồng bộ, có tính kế
thừa và phát triển, có số lượng và cơ cấu hợp lý.
Nhiệm
vụ quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trước hết là cán bộ
lãnh đạo cấp chiến lược và người đứng đầu tổ chức các cấp, các ngành của hệ
thống chính trị. Ðây là nhiệm vụ của toàn Ðảng, toàn dân, trước hết là của Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, cần có kế hoạch chu đáo, giải pháp đồng bộ,
cụ thể, có hiệu lực để thực hiện. Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ
nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, con em những gia
đình có công với cách mạng.
Quán
triệt và thực hiện đúng nguyên tắc Ðảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời đề cao trách nhiệm của các tổ chức trong hệ
thống chính trị và người đứng đầu tổ chức. Cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền
phải chủ trì và chịu trách nhiệm về công tác tổ chức cán bộ theo đúng nguyên
tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định; xác định rõ trách nhiệm của tập thể
và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác
cán bộ. Có chính sách, quy chế tôn vinh những người có công; bố trí, sử dụng
đúng những người có năng lực, hết lòng vì dân, vì nước; khuyến khích những
người năng động, sáng tạo, có sáng kiến, có ý tưởng mới.
Mở
rộng và phát huy dân chủ, thực hiện công khai, minh bạch trong công tác cán bộ.
Các cấp ủy cần coi trọng việc đánh giá cán bộ; căn cứ vào tiêu chuẩn, sự tín
nhiệm, xem xét giới thiệu để bầu cử hoặc bổ nhiệm những người thực sự có đức,
có tài, có tâm huyết với đất nước vào các chức vụ trong cơ quan nhà nước các
cấp, không phân biệt người ngoài Ðảng hay trong Ðảng; khắc phục những biểu hiện
cá nhân, cục bộ, thiếu dân chủ, không công tâm, nể nang, tuỳ tiện trong công
tác cán bộ.
Ðổi
mới và hoàn thiện chế độ bầu cử, thực hiện bầu cử có số dư, mở rộng quyền tiến
cử và tự ứng cử, giới thiệu nhiều phương án nhân sự trong bầu cử và bổ nhiệm
cán bộ. Thực hiện tốt các cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, quản lý,
giám sát cán bộ sau bầu cử, bổ nhiệm; các quy định về quyền hạn, trách nhiệm
của người đứng đầu, của các thành viên trong tập thể lãnh đạo, của cơ quan sử
dụng cán bộ và cơ quan tham mưu trong công tác cán bộ. Ðổi mới và thực hiện tốt
chế độ bỏ phiếu tín nhiệm, cho từ chức, thôi chức, miễn chức và cách chức đối
với những cán bộ phạm khuyết điểm hoặc không hoàn thành nhiệm vụ; thực hiện cơ
chế đảng viên và nhân dân tham gia giám sát cán bộ và công tác cán bộ. Mở rộng
phân cấp quản lý đi đôi với tăng cường kiểm tra công tác cán bộ.
Ðổi
mới mạnh mẽ, triển khai đồng bộ các khâu: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ.
Ðánh giá cán bộ phải công khai, minh bạch, khách quan, toàn diện và công tâm,
lấy hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất và năng lực
cán bộ. Ðánh giá cán bộ lãnh đạo phải căn cứ vào hiệu quả công tác, khả năng
đoàn kết, quy tụ, phát huy sức mạnh của tập thể, tạo ra sự tiến bộ và kết quả
cụ thể trong ngành, lĩnh vực, địa phương, đơn vị mình phụ trách; không tham
nhũng, lãng phí, quan liêu và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Không bổ nhiệm, đề bạt những người không đủ phẩm chất và năng lực; khoan dung
những người thành thật nhận và sửa chữa sai lầm, khuyết điểm. Tiếp tục cải cách
chế độ tiền lương; thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ lão thành cách mạng,
cán bộ tiền khởi nghĩa, cán bộ hưu trí.
Xây
dựng và thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài, thu hút nhân
tài vào những lĩnh vực quan trọng, không phân biệt người trong Ðảng hay ngoài
Ðảng. Tăng cường nguồn đầu tư của Nhà nước và toàn xã hội vào phát hiện, đào
tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, trước hết trên ba lĩnh vực: lãnh đạo - quản
lý, sản xuất - kinh doanh và khoa học - công nghệ; có chính sách phát triển
nhân tài trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và các lĩnh vực khác; tiếp tục thực
hiện chủ trương, chính sách khuyến khích đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo
đức và triển vọng đi đào tạo ở nước ngoài, làm tốt công tác quản lý, giáo dục
và sử dụng sau đào tạo; thu hút, sử dụng tốt tài năng người Việt Nam định cư ở
nước ngoài và chuyên gia giỏi ở nước ngoài.
Ban
Chấp hành Trung ương cần có hội nghị chuyên đề bàn về công tác xây dựng Ðảng,
về cán bộ và công tác cán bộ trong thời kỳ mới.
Làm
tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ:
Hết
sức chú trọng công tác bảo vệ Ðảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Bảo vệ
chính trị nội bộ là trách nhiệm của toàn Ðảng, trước hết là của các cấp ủy
đảng. Bảo vệ chính trị nội bộ phải trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ
Chí Minh, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Ðảng, bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất trong Ðảng, bảo vệ cán bộ, đảng
viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thành, trung thực với Ðảng, không giấu
giếm, khai man lịch sử chính trị bản thân và gia đình. Các cấp ủy, tổ chức
đảng, nhất là cấp cơ sở phải nắm chắc và quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên cả
về phẩm chất chính trị và đạo đức lối sống. Coi trọng việc nắm chắc tình hình
cán bộ, nhất là những vấn đề chính trị hiện hành. Kiên quyết đấu tranh chống
những biểu hiện lệch lạc, trái với đường lối, quan điểm, nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; dựa vào nhân dân, đề
cao cảnh giác, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch phá hoại
nội bộ Ðảng.
Củng
cố, kiện toàn cơ quan tham mưu của Ðảng về công tác bảo vệ chính trị nội bộ,
làm rõ chức năng, nhiệm vụ, tăng cường cán bộ có chất lượng, xây dựng quy chế
phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan bảo vệ chính trị nội bộ với các cơ quan liên
quan.
Tổng
kết việc thực hiện Quy định 75-QÐ/TW, bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với thực
tiễn.
6. Xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng; nâng cao chất lượng đảng viên
Xây
dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng:
Với
vị trí là nền tảng của Ðảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, vai trò của tổ chức
cơ sở đảng rất quan trọng. Phải dồn sức xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức này thực sự trong sạch,
vững mạnh; làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý, giám sát
đảng viên về năng lực hoàn thành nhiệm vụ và phẩm chất đạo đức, lối sống; đấu
tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong Ðảng. Phải đổi mới mạnh mẽ công tác
xây dựng cơ sở, lấy chuyển biến từ cơ sở làm mục tiêu và thước đo kết quả tổng
hợp của công tác xây dựng Ðảng, cần thực hiện tốt những chủ trương đã đề ra,
trọng tâm là:
Tiếp
tục hoàn thiện và thực hiện tốt các quy định về chức năng, nhiệm vụ, phương
thức hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, chú trọng các loại hình
mới như tổ chức cơ sở đảng trong các công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp
để đánh giá đúng chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên.
Thực
hiện tốt nguyên tắc dựa vào nhân dân để xây dựng Ðảng từ cơ sở. Có cơ chế để
nhân dân tham gia ý kiến vào việc xây dựng các nghị quyết của đảng bộ, chi bộ,
các quyết định của tổ chức đảng, chính quyền cơ sở trực tiếp liên quan đến
quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân; vào việc bố trí cán bộ chủ chốt của hệ
thống chính trị cơ sở; để nhân dân tham gia giám sát tổ chức đảng, chính quyền
và cán bộ, đảng viên. Tổ chức đảng, đảng viên phải giữ mối liên hệ mật thiết
với nhân dân ở nơi công tác và nơi cư trú.
Thực
hiện đồng bộ các biện pháp củng cố tổ chức cơ sở đảng, chú trọng những địa bàn
xung yếu, vùng sâu, vùng xa, ở các đảng bộ, chi bộ yếu kém; nâng cao tính chiến
đấu, tính giáo dục, đề cao tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng; kiện
toàn đội ngũ cấp ủy, bí thư chi bộ; bồi dưỡng, tạo nguồn, thực hiện việc tiêu
chuẩn hóa cán bộ, công chức cơ sở; đề cao trách nhiệm quản lý, kiểm tra, giám
sát đảng viên của chi bộ. Ðảng viên có cương vị càng cao càng phải gương mẫu
chấp hành sự quản lý của chi bộ.
Kiện
toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các trường chính trị tỉnh, các
trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện và các trường dân tộc nội trú để đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở cơ sở.
Nâng
cao chất lượng đảng viên:
Cần
nhấn mạnh các yêu cầu sau đây đối với đảng viên:
Về tư
tưởng chính trị, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Ðảng, của
dân tộc, tích cực thực hiện đường lối đổi mới của Ðảng, hoàn thành tốt nhiệm vụ
chính trị được giao. Có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trước
những khó khăn, thách thức. Có ý thức giữ vững và nêu cao vai trò lãnh đạo của
Ðảng.
Về
trình độ năng lực, có hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ. Có năng lực
vận động và lãnh đạo quần chúng tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Ðảng.
Về
phẩm chất, đạo đức, lối sống, có tinh thần trách nhiệm cao, gương mẫu, đi đầu
trong công tác; xử lý hài hòa các lợi ích, đặt lợi ích của Ðảng, của Tổ quốc
lên trên hết. Liên hệ mật thiết với nhân dân, tôn trọng và bảo vệ quyền làm chủ
của nhân dân. Có lối sống trong sạch, lành mạnh, có kỷ cương, kỷ luật. Không
quan liêu, tham nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu tranh phòng, chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác.
Chú
trọng và tăng cường công tác phát triển Ðảng, sớm khắc phục tình trạng một số
cơ sở, địa bàn chưa có đảng viên, tổ chức đảng. Việc kết nạp đảng viên phải coi
trọng chất lượng, tiêu chuẩn, đặc biệt tiêu chuẩn giác ngộ lý tưởng của Ðảng,
đạo đức lối sống, năng lực hoàn thành nhiệm vụ; trọng tâm phát triển hướng vào
thế hệ trẻ, công nhân, nông dân, trí thức, quân nhân, cán bộ, con em các gia
đình có công với cách mạng. Coi trọng giáo dục, rèn luyện đảng viên dự bị, đảng
viên trẻ.
Thường
xuyên sàng lọc đảng viên, kiên quyết đưa những người không đủ tiêu chuẩn ra
khỏi Ðảng bằng các hình thức thích hợp. Khai trừ những đảng viên thoái hóa về
chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, cố tình
vi phạm kỷ luật Ðảng và pháp luật của Nhà nước. Vận động ra Ðảng hoặc xóa tên
khỏi danh sách đảng viên đối với những đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý
chí phấn đấu, không làm tròn nhiệm vụ đảng viên, đã được tổ chức đảng giúp đỡ
mà không tiến bộ.
Ðảng
viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà
nước, nghiêm chỉnh chấp hành Ðiều lệ Ðảng và quy định của Ban Chấp hành Trung
ương.
7. Ðổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
Tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát với nhận thức và yêu cầu mới: công tác kiểm
tra, giám sát phải góp phần phát hiện và khắc phục được những khuyết điểm,
thiếu sót khi mới manh nha; bên cạnh việc tiếp tục thực hiện kiểm tra tổ chức
và cá nhân đảng viên có dấu hiệu vi phạm, phải tăng cường chủ động giám sát,
kiểm tra về phẩm chất đạo đức và kết quả thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đảng,
cán bộ, đảng viên, về nhận thức và chấp hành đường lối, chủ trương của Ðảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và việc chấp hành Ðiều lệ Ðảng. Coi trọng
kiểm tra, phát hiện nhân tố tích cực.
Bổ
sung chức năng giám sát, tăng thẩm quyền và trách nhiệm xem xét kỷ luật của cấp
ủy và ủy ban kiểm tra các cấp. Uỷ ban kiểm tra các cấp có quyền yêu cầu các cấp
ủy, tổ chức đảng và đảng viên giải trình về các vấn đề thuộc thẩm quyền và
trách nhiệm kiểm tra, giám sát được giao.
Kiện
toàn hệ thống ủy ban kiểm tra các cấp, hoàn thiện quy chế phối hợp giữa ủy ban
kiểm tra đảng với các tổ chức đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc
xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên.
Xây
dựng quy chế tiếp nhận, xử lý ý kiến của Mặt trận, các đoàn thể và của nhân dân
nhận xét, phê bình tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên.
Kiện
toàn tổ chức, tăng cường cán bộ có chất lượng, cải thiện điều kiện, phương tiện
làm việc của ủy ban kiểm tra các cấp.
8. Xây dựng và tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Ðảng với nhân dân
Phải
quán triệt và thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những quan điểm
của Ðảng về mối quan hệ giữa Ðảng với nhân dân: thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng
Ðảng; Ðảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý là để bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân. Cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là công bộc của nhân dân.
Hoạt động của Ðảng và Nhà nước phải chịu sự giám sát của nhân dân. Sự tin
tưởng, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân là cội nguồn của sức mạnh, là cái gốc của
thắng lợi, là tài sản quý báu của Ðảng.
Ðẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách
của Ðảng cho phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước; kết hợp hài hòa sự
phát triển kinh tế với bảo đảm sự tiến bộ và công bằng xã hội trên phạm vi cả
nước cũng như ở từng lĩnh vực, từng địa phương, từng chính sách phát triển.
Chăm
lo thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, xử lý đúng đắn, kịp thời các
mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Ðiều hòa hợp lý lợi ích xã hội của các tầng
lớp dân cư, các vùng, miền, lĩnh vực; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, nhất là bộ phận có nhiều khó khăn trong công nhân, nông dân, đồng
bào các dân tộc thiểu số, ở vùng sâu, vùng xa.
Hoàn
thiện những thiết chế thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, bảo đảm và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở;
tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Tăng
cường xây dựng giai cấp công nhân có giác ngộ và bản lĩnh chính trị, có trình
độ học vấn và nghề nghiệp ngày càng cao trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Phát
huy vai trò của giai cấp nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và nông thôn.
Phát
huy trí tuệ và năng lực của đội ngũ trí thức, trọng dụng nhân tài.
Tạo
điều kiện và phát huy tiềm năng, vai trò của doanh nhân, của người Việt Nam ở
nước ngoài trong việc phát triển sản xuất, kinh doanh, góp phần xây dựng và bảo
vệ đất nước.
Phát
huy vai trò và tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân
tham gia xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Ðảng và Nhà
nước, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội.
Tăng
cường các hoạt động nhân đạo, từ thiện, tương thân, tương ái và công tác vận
động đồng bào ta định cư ở nước ngoài.
9. Ðổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Ðảng
Ðổi
mới phương thức lãnh đạo của Ðảng phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế.
Nghiên
cứu, tổng kết, tiếp tục làm rõ quan điểm về Ðảng lãnh đạo và Ðảng cầm quyền làm
cơ sở đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng một cách cơ bản, toàn diện.
Cụ
thể hóa Cương lĩnh, Hiến pháp và Ðiều lệ Ðảng về phương thức lãnh đạo của Ðảng
đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mối
quan hệ giữa Ðảng với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Vấn
đề quyết định trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng là thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hành và mở rộng dân chủ trong tổ chức và
hoạt động của Ðảng.
Khâu
mấu chốt là đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước ở các cấp từ
Trung ương đến cơ sở; xây dựng hệ thống các quy chế về sự lãnh đạo của Ðảng ở
các cấp, các ngành theo tinh thần: Ðảng lãnh đạo Nhà nước bằng Cương lĩnh,
đường lối, quan điểm, chủ trương, các nghị quyết, nguyên tắc giải quyết các vấn
đề lớn, có ý nghĩa chính trị quan trọng. Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động,
sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội
theo pháp luật.
Tăng
cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước trong việc thể chế hóa, cụ thể hóa
đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách lớn của Ðảng thành Hiến pháp, pháp
luật, kế hoạch, các chương trình mục tiêu lớn của Nhà nước. Ðảng lãnh đạo nhưng
không làm thay Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Ðề phòng và
khắc phục khuynh hướng tổ chức đảng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc bao biện làm
thay cũng như khuynh hướng các cơ quan nhà nước thụ động, né tránh trách nhiệm,
việc gì cũng xin ý kiến cấp ủy Ðảng.
Ðảng
tập trung lãnh đạo xây dựng Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động
có hiệu lực, hiệu quả. Ðảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội
ngũ cán bộ của hệ thống chính trị, có phân công, phân cấp hợp lý, tôn trọng, phát
huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan và người đứng đầu các tổ chức trong
công tác cán bộ.
Ðảng
kết hợp chặt chẽ việc lãnh đạo và kiểm tra bộ máy nhà nước thông qua tổ chức
đảng và cá nhân đảng viên hoạt động trong cơ quan nhà nước.
Ðối
với Quốc hội, xây dựng cơ chế, quy chế cụ thể giải quyết tốt hơn mối quan hệ
giữa vai trò lãnh đạo về quan điểm, phương hướng, chủ trương, nguyên tắc, giải
pháp lớn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư (đối với những
vấn đề kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại trọng đại của đất nước)
với thẩm quyền quyết định của Quốc hội trên những vấn đề này theo Hiến pháp và
Luật tổ chức, hoạt động của Quốc hội.
Ðối
với Chính phủ, xác định rõ hơn thẩm quyền quyết định của Chính phủ. Xác định rõ
những loại việc ở tầm Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trực
tiếp quyết định; những loại việc Bộ Chính trị, Ban Bí thư cho ý kiến định
hướng; những loại việc Chính phủ chủ động quyết định theo thẩm quyền.
Ðối
với các cơ quan tư pháp, Ðảng lãnh đạo công tác tư pháp, lãnh đạo công tác đào
tạo, bồi dưỡng, quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ tư pháp, tôn trọng nguyên
tắc: "Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật". Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, ban cán sự đảng
của các cơ quan tư pháp theo quy định của Ðảng. Ðề cao trách nhiệm của cơ quan
điều tra, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân.
Ðối
với lĩnh vực quốc phòng, an ninh, Ðảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
các lĩnh vực này về quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, xây dựng các
lực lượng vũ trang nhân dân trong sạch, vững mạnh, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống; đồng thời phát huy trách nhiệm
quản lý của Nhà nước đối với các cơ quan này.
Ðối
với chính quyền địa phương, định rõ những loại việc ban chấp hành đảng bộ, ban
thường vụ cho ý kiến trước khi hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân quyết định
thực hiện; những loại việc do ban chấp hành, ban thường vụ cho ý kiến định
hướng, hội đồng nhân dân quyết định; những loại việc do hội đồng nhân dân, ủy
ban nhân dân quyết định theo thẩm quyền. Sự lãnh đạo của cấp ủy đảng là định
hướng và bảo đảm để hội đồng nhân dân quyết định các nhiệm vụ kinh tế - xã hội
ở địa phương, tạo điều kiện cho ủy ban nhân dân, người đứng đầu cơ quan hành
chính nhà nước địa phương quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ đề ra.
Ðối
với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, tăng cường và đổi mới phương thức
lãnh đạo của Ðảng trong việc xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, tạo điều
kiện cho các tổ chức này hoạt động đúng định hướng chính trị, đúng pháp luật và
có hiệu quả. Phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo của Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân trong việc kiện toàn tổ chức và đổi mới hoạt động của mình. Có cơ chế,
chính sách lãnh đạo và quản lý phù hợp với từng loại hội. Tiếp tục luật hóa các
hoạt động của các đoàn thể nhân dân và các hội.
Tiếp
tục đổi mới phong cách, lề lối làm việc của Ðảng theo hướng thực sự dân chủ, kỷ
cương, thiết thực, sâu sát cơ sở, sâu sát quần chúng; làm việc có chương trình,
kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm, nói đi đôi với làm. Ðổi mới cách ra nghị
quyết, văn kiện và báo cáo phải ngắn gọn, thiết thực, cụ thể; đổi mới và nâng
cao chất lượng, hiệu quả của hội nghị. Cấp ủy dành nhiều thời gian tổ chức, chỉ
đạo, kiểm tra, tổng kết việc thực hiện nghị quyết; chỉ đạo hoạt động của Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Xây
dựng và thực hiện chế độ báo cáo xin ý kiến. Ðảng ủy cơ sở định kỳ 6 tháng một
lần phải báo cáo về hoạt động của mình trước hội nghị toàn thể đảng viên trong
đảng bộ. Ban thường vụ cấp ủy tỉnh, huyện và tương đương phải báo cáo, xin ý
kiến ban chấp hành cùng cấp về hoạt động của mình giữa hai kỳ họp ban chấp
hành. Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải báo cáo, xin ý kiến Ban Chấp hành Trung
ương về hoạt động của mình giữa hai kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương.
Năm
năm qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX lãnh đạo thực hiện Cương lĩnh,
Điều lệ và Nghị quyết Đại hội IX của Đảng trong tình hình đất nước đã
trải qua 15 năm đổi mới và đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, chúng ta cũng phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức lớn của tình hình trong nước, khu vực và quốc tế,
đặt ra yêu cầu mới đối với sự lãnh đạo của Đảng.
Sau
Đại hội IX, Ban Bí thư Trung ương Đảng được lập lại; tiếp đó Quốc hội và Chính
phủ cũng được kiện toàn sau cuộc bầu cử Quốc hội khoá XI.
Trong
bối cảnh đó, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã kiên định
đường lối đổi mới, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua khó
khăn, thử thách, giành được nhiều thành tựu rất quan trọng, đồng thời cũng còn
một số mặt hạn chế, khuyết điểm như đã nêu trong Báo cáo chính trị và các văn
kiện khác trình Đại hội X. Dưới đây, Ban Chấp hành Trung ương, bao gồm cả Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, xin kiểm điểm cụ thể sự lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ
khoá IX trước Đại hội như sau:
A- KIỂM ĐIỂM NỘI DUNG LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG
ƯƠNG, BỘ CHÍNH TRỊ, BAN BÍ THƯ
I- BAN
CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
Theo
Chương trình công tác toàn khoá, Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã họp 15 hội
nghị Trung ương để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và chuẩn bị Đại
hội X của Đảng.
1. Ưu điểm
Ban
Chấp hành Trung ương là một tập thể đoàn kết, thống nhất, kiên định đường lối
đổi mới, giữ vững nguyên tắc, đề cao dân chủ, đã bám sát và sớm cụ thể hoá Nghị
quyết Đại hội IX, giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề cơ bản, cấp bách của đất
nước, coi trọng công tác kiểm tra, tổng kết tình hình thực hiện Nghị quyết Đại
hội, các nghị quyết của Trung ương, đưa sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong nhiệm kỳ qua đạt được những thành tựu rất quan trọng.
- Về
cụ thể hoá và lãnh đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IX
Nhằm
phấn đấu đạt các mục tiêu của Đại hội về phát triển kinh tế - xã hội, ngay từ
đầu nhiệm kỳ, các hội nghị Trung ương 3, 4, 5, 6 đã cụ thể hoá quan điểm
phát triển kinh tế- xã hội của Nghị quyết Đại hội IX về tiếp tục sắp xếp,
đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước; định hướng và chỉ đạo phát triển
kinh tế tập thể; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát
triển; đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ
2001 - 2010; đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai... Đồng thời, Ban Chấp
hành Trung ương đã đánh giá sát diễn biến tình hình kinh tế - xã hội của đất
nước, đề ra các chủ trương, chính sách, giải pháp đúng đắn về phát huy nội lực,
cải thiện môi trường đầu tư, hạn chế những tác động không thuận của giá cả,
thời tiết, dịch bệnh... Trước những khó khăn qua hơn hai năm đầu thực hiện Nghị
quyết Đại hội, Hội nghị Trung ương 9 quyết định không điều chỉnh hạ thấp chỉ
tiêu phát triển, vẫn kiên trì quyết tâm phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh
tế - xã hội của cả nhiệm kỳ. Nhờ những chủ trương đúng đắn của Ban Chấp hành
Trung ương, sự đổi mới hoạt động của Quốc hội, sự điều hành năng động và có
hiệu quả của Chính phủ, sự nỗ lực chung của các cấp, các ngành và của toàn dân,
về cơ bản các mục tiêu kinh tế - xã hội của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 theo
Nghị quyết Đại hội IX đã được hoàn thành và hoàn thành vượt mức.
Nhằm
thực hiện chủ trương xem phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ
là quốc sách hàng đầu, Ban Chấp hành Trung ương đã tổng kết, đánh giá
việc tổ chức thực hiện các lĩnh vực này; trên cơ sở đó đề ra phương hướng và
những giải pháp cụ thể về đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh đầu tư và thực hiện
xã hội hoá, nhằm tạo điều kiện cho giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ
phát triển, để đến năm 2010, một số mặt đạt trình độ tiên tiến so với các nước
trong khu vực.
Ban
Chấp hành Trung ương đã kiểm điểm sâu sắc việc thực hiện Nghị quyết Trung ương
5 khoá VIII về “xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, phát triển một số quan điểm và nhận thức mới về văn hoá, khẳng
định phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội; làm rõ nội dung,
yêu cầu văn hoá trong lãnh đạo, quản lý kinh tế... nhằm làm cho văn hoá thấm
sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đẩy mạnh xây dựng nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Về
quốc phòng và an ninh, Ban Chấp hành Trung ương đã chủ động bàn và ra nghị
quyết chuyên đề về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, thể
hiện rõ tư duy mới của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc, xác định quan điểm đặt lơi
ích cao nhất của đất nước là giữ vững độc lập chủ quyền và môi trường hoà bình,
ổn định để phát triển, xác định đúng đắn đối tác, đối tượng trong quan hệ quốc
tế. Trên cơ sở đó, tạo sự thống nhất cao về đánh giá tình hình, quan điểm,
nhiệm vụ, phương hướng giải quyết các vấn đề quốc phòng, an ninh, đối ngoại
trong giai đoạn mới, xử lý đúng đắn những vấn đề cụ thể nảy sinh trên từng địa
bàn và trong từng lĩnh vực.
Để
tăng cường lãnh đạo, tạochuyển biến trong công tác dân vận của Đảng, Hội
nghị Trung ưoơg 7 đã bàn và ra ba nghị quyết quan trọng, làm sáng tỏ quan điểm,
chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân, về công tác dân tộc, công tác tôn
giáo, tạo cơ sở để xử lý đúng đắn những vấn đề nhạy cảm về dân tộc và tôn giáo,
phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự đồng thuận của
toàn xã hội trong giai đoạn mới.
Tiếp
tục lãnh đạo việc đổi mới, kiện toàn tổ chức, cán bộ trong hệ thống chính trị,
nhất là nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước, Ban
Chấp hành Trung ương đã lãnh đạo chặt chẽ việc sửa đổi, bôổ sung Hiến pháp
1992, đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, các cơ
quan tư pháp. Lần đầu tiên, Ban Chấp hành Trung ương bàn và ra nghị quyết về
kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở; xác định chủ trương, giải pháp thiết thực
để xây dựng hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ mới.
Ban
chấp hành Trung ương đã chú trọng toàn diện hơn công tác xây dựng Đảng, có
nhiều chủ trương, quyết sách lớn cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và
kiểm tra. Trung ương đã thảo luận, đề ra nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư
tưởng lý luận trong tình hình mới,
Có
chủ trương để Bộ Chính trị chỉ đạo đấu tranh bác bỏ các quan điểm, tư tưởng sai
trái trong Đảng và ngoài xã hội. Đã chỉ đạo chặt chẽ việc nghiên cứu có hệ
thống các thông tin về xuất xứ và quá trình xử lý một số vụ việc xảy ra trong
nội bộ Đảng từ các nhiệm kỳ trước. Trên cơ sở đó đã thống nhất cao không đặt
vấn đề xem xét những vụ việc đã được xử lý nếu không có tình tiết mới làm thay
đổi bản chất của sự việc; tạo cơ sở để giải đáp một số thắc mắc và ổn định tư
tưởng trong nội bộ Đảng, tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và
chuẩn bị Đại Hội X của Đảng. Thông qua chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận
động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2)
khoá VIII, Ban Chấp hành Trung ương đã thể hiện quyết tâm chính trị đẩy mạnh
cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực,
nghiêm khắc xem xét và thi hành kỷ luật cán bộ do Trung ương quản lý về trách
nhiệm đối với các vụ việc tiêu cực có liên quan (hai Uỷ viên Trung ương và
nhiều cán bộ cao cấp bị truy cứu trách nhiệm hình sự), đã có tác dụng nhất định
răn đe, ngăn ngừa, kiềm chế tình trạng tha hoá, biến chất của một bộ phận cán
bộ, đảng viên.
- Về
lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng
Ban
Chấp hành Trung ương, với tinh thần trách nhiệm cao, đã dành nhiều thời gian,
công sức cho việc chuẩn bị Đại hội X của Đảng (kể từ Hội nghị Trung ương 10,
tháng 7-2004). Việc chuẩn bị văn kiện và nhân sự cho Đại hội đã được chỉ đạo
theo chương trình, kế hoạch chặt chẽ, thống nhất, nghiêm túc với tinh thần đổi
mới. Các văn kiện trình Đại hội X được xây dựng trên cơ sở tổng kết 5 năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội IX, kết quả Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn
qua 20 năm đổi mới. Đây là cuộc tổng kết có quy mô lớn, quan trọng, nội dung
phong phú; vừa đánh giá toàn diện chặng đường đổi mới đã qua, vừa từng bước
hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến hầu hết các vấn đề về quan
điểm, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Các văn kiện đã được chuẩn bị công phu, tập hợp được ý kiến đóng góp
rộng rãi của đại hội đảng bộ các cấp, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân, đại biểu Quốc hội, cán bộ, đảng viên, nhân dân trong cả nước và người Việt
Nam định cư ở nước ngoài. Qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi, các văn kiện đã được
hoàn chỉnh, là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân.
Công
tác giới thiệu, chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá X được thực hiện
đúng nguyên tắc, tiến hành chặt chẽ qua từng bước, có đổi mới, mở rộng dân chủ
trong Đảng, đề cao tinh thần trách nhiệm của tập thể Ban Chấp hành Trung ương,
từng đồng chí Uỷ viên Trung ương, các cấp uỷ và đảng viên; tạo sự nhất trí cao,
bảo đảm đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
2. Khuyết điểm
Ban
Chấp hành Trung ương chậm bàn hoặc bàn chưa triệt để một số vấn đề quan
trọng đã nêu ra từ nhiều nhiệm kỳ Đại hội. Do vậy, trên một sô lĩnh vực chưa
thực sự có bước tiến quan trọng mới về nhận thức và hành động thực tiễn so với
trước Đại hội IX, như các vấn đề về xây dựng giai cấp công nhân, liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong giai
đoạn mới, về cải cách hành chính, về sở hữu và thành phần kinh tế, về đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng..., làm hạn chế việc phát huy các nguồn lực của
đất nước để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới và
hoàn thiện thể chế chính trị.
Nghị
quyết của Trung ương nhiều, nhưng việc tổ chức thực hiện, kiểm tra, tổng kết
chưa kịp thời và phù hợp. Một số chủ trương lớn còn chưa thật rõ, thật sát
với cuộc sống (như về phát triển kinh tế tập thể; về công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn; về đổi mới cơ chế quản lý và cung ứng dịch vụ
công cộng; về chủ trương công chức hoá một số chức danh cán bộ cơ sở...). Vì
vậy, các chủ trương này, khó đi vào cuộc sống, nhiều việc triển khai chậm, hoặc
không triển khai được, hiệu quả thấp, chưa thực sự tạo ra được những chuyển
biến tích cực trong thực tiễn.
Lãnh
đạo cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa đạt được yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới
và của xã hội; chủ trương, biện pháp đề ra, nhất là những quyết sách để lãnh
đạo, đôn đốc, kiểm tra còn chưa đủ mạnh, đồng bộ, kịp thời, chưa tạo được bước
chuyển rõ rệt trong nhiệm vụ quan trọng này.
3. Đối với các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Ưu
điểm:
Nhìn
chung, các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX có lập trường tư
tưởng vững vàng, có tinh thần trách nhiệm, có tư duy đổi mới, sáng tạo, trình
độ học vấn và chuyên môn, nghiệp vụ tương đối cao, có phẩm chất đạo đức tốt,
tiêu biểu cho trí tuệ, phẩm chất đạo đức của toàn Đảng. Hầu hết các đồng chí,
với cương vị là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các địa phương, các ngành, đã thể hiện
được bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành tốt nguyên
tắc tập trung dân chủ, có tinh thần đoàn kết, tự phê bình và phê bình; đấu
tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối,
quan điểm của Đảng, chống lại các quan điểm sai trái, thù địch.
Nhiều
đồng chí có tư duy chiến lược, có năng lực lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện
nghị quyết của Đảng, kiên định về nguyên tắc, năng động, sáng tạo, dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính
trị, tạo được sự phát triển của ngành, địa phương do mình phụ trách.
Nhiều
đồng chí có phong cách làm việc khoa học, phát huy dân chủ, tôn trọng tập thể,
bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và tạo điều kiện
để nhân dân tham gia xây dựng các chủ trương, quyết sách quan trọng của cấp uỷ
đảng, chính quyền; chú trọng kiểm tra, giám sát, chống giáo điều, bảo thủ, trì
trệ, hoặc chủ quan, nóng vội; coi trọng tổng kết thực tiễn, phát hiện, ủng hộ
và nhân rộng những nhân tố mới.
Khuyết
điểm:
Một
số đồng chí Uỷ viên Trung ương chưa thật sự chủ động trong việc thực hiện chức
trách, nhiệm vụ, nhất là tham gia vào sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành
Trung ương (ít đề xuất, kiến nghị những vấn đề quan trọng, bức xúc của đất nước
trong quá trình đảm đương cương vị công tác được giao hoặc trong các kỳ họp
Trung ương). Một số đồng chí chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm ở vị trí
công tác, chưa thật sự tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc truyền đạt và
lãnh đạo triển khai thực hiện nghị quyết của Trung ương. Nhiều đồng chí chưa
định kỳ báo cáo kết quả công tác và những vấn đề nổi lên trong lãnh đạo, chỉ
đạo thuộc lĩnh vực mình phụ trách để đề xuất với Bộ Chính trị.
Có
đồng chí chưa đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo ngành và địa phương mình phụ trách;
còn để công việc trì trệ hoặc để xảy ra một số vụ việc tiêu cực nổi cộm, gây dư
luận không tốt, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng. Có đồng chí thiếu gương mẫu
về đạo đức cối sống, bản thân hoặc để vợ, con, cấp dưới lợi dụng chức quyền thu
vén lợi ích cá nhân, thậm chí có trường hợp vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
II-
BỘ CHÍNH TRỊ
1. Ưu điểm
Bộ
Chính trị là một tập thể đoàn kết, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định
đường lối đổi mới trên cơ sở Cương lĩnh và Nghị quyết Đại hội IX, đã chỉ đạo
chuẩn bị tốt các đề án trình Trung ương, góp phần quan trọng để Ban Chấp hành
Trung ương hoàn thành chương trình làm việc toàn khoá, phù hợp vời yêu cầu,
nhiệm vụ của Đảng, của đất nước. Bộ Chính trị luôn kiên định trên những vấn đề
về nguyên tắc, bám sát thực tiễn, tìm tòi, sáng tạo, bàn và quyết định theo
thẩm quyền nhiều vấn đề quan trọng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trên
mọi lĩnh vực; đồng thời, giải quyết linh hoạt, đúng đắn, kịp thời nhiều vấn đề
cụ thể phức tạp nảy sinh. Nhìn chung, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị
trong nhiệm kỳ qua trên các lĩnh vực là đúng đắn và có hiệu quả; cụ thể là:
Đã
chủ động lựa chọn, chuẩn bị để Ban Chấp hành Trung ương cụ thể hoá sớm Nghị
quyết Đại hội IX của Đảng, từ đó tạo sự thống nhất cao về nhận thức, quan điểm,
đường lối đổi mới làm cho nhiều nghị quyết nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Nhiều
đề án đã được chỉ đạo chuẩn bị để trình Trung ương có chất lượng tốt, phản ánh
đúng tình hình thực tiễn, cụ thể hoá, phát triển quan điểm Đại hội IX với những
tư duy mới, góp phần tạo nên sự thống nhất cao trên một số vấn đề lâu nay còn
có ý kiến khác nhau (sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước; phát triển kinh tế tư nhân; cải cách tư pháp; kiện toàn hệ
thống chính trị ở cơ sở; chính sách tôn giáo...)
Quán
triệt việc lãnh đạo phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; gắn phát triển
kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội
bức xúc, góp phần tạo nên kết quả quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu
kế hoạch kinh tế - xã hội hằng năm và 5 năm 200l - 2005.
Đã
coi trọng và tập trung chỉ đạo xây dựng chiến lược phát triển một số vùng,
ngành và lĩnh vực quan trọng; xác định phương hướng, giải pháp để các vùng,
ngành và địa bàn trọng điểm phát huy tiềm năng, thế mạnh trong chiến lược phát
triển chung của đất nước.
Đã
chú ý những vấn đề xã hội bức xúc, coi trọng hơn nhiệm vụ phát triển văn hoá.
Trước những yếu kém, bất cập trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân
dân, sự gia tăng dân số trở lại, tình hình xây nhiễm HIV/AIDS và sự xuống cấp
nhanh của môi trường tự nhiên, Bộ Chính trị đã dành thời gian bàn và ra nghị
quyết về các vấn đề này. Đã lãnh đạo thực hiện đúng chủ trương của Trung ương
về tăng mức đầu tư cho giáo dục; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chủ trương về
xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, khắc phục hậu quả thiên tai, tăng
cường y tế cơ sở và phòng chống dịch bệnh, phát triển thể dục thể thao... Một
số chủ trương đạt kết quả tốt, được quốc tế đánh giá cao.
Đã
chỉ đạo chặt chẽ và thường xuyên nhiệm vụ quốc phòng - an ninh; bảo đảm sự lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với các lực lượng vũ trang
nhân dân.
Chỉ
đạo quán triệt, triển khai có kết quả bước đầu Nghị quyết Trung ương 8 khoá IX
về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là chỉ đạo vận dụng đúng
đắn chủ trương, quan điểm mới của Trung ương về đối tác, đối tượng tương quan
hệ quốc tế nhằm giữ vững môi trường hoà bình, ổn định vì sự phát triển của đất
nước.
Đã
tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng và củng cố lực lượng Quân đội, Công
an, như hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy
gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội; về nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác công an; về tổ chức Bộ đội biên phòng và củng cố
lực lương tình báo chiến lược...
Kịp
thời có chủ trương và giải pháp về bảo đảm an ninh - quốc phòng cho các vùng
Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Bắc; xử lý đúng nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh ở
một số địa phương và địa bàn trọng điểm về an ninh quốc gia, về tôn giáo, dân
tộc; khắc phục hậu quả cuộc bạo loạn tháng 2-2001 và làm thất bại âm mưu của
các thế lực thù địch trong cuộc bạo loạn chính trị tháng 4-2004 ở Tây Nguyên,
đưa địa bàn Tây Nguyên dần dần ổn định trở lại.
Kiên
định chủ trương và nguyên tắc về việc giải quyết vụ “T4” và một số vụ việc liên
quan đến nội bộ Đảng, trên cơ sở đó đã trình Trung ương ở ba Hội nghị 10, 11 và
12 khoá IX, được Ban Chấp hành Trung ương tán thành và thống nhất cao.
Đã
lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường công tác đối ngoại, mở rộng hoạt động đối ngoại
Nhà nước, đối ngoại của Đảng và đối ngoại nhân dân, đạt được kêu quả nổi bật.
Nắm
vững đường lối độc lập, tự chủ, chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá trong
quan hệ quốc tế, Bộ Chính trị đã kịp thời đánh giá đúng đắn các sự kiện quốc tế
phức tạp (vụ khủng bố 11-9-2001 ở Mỹ, chiến tranh Ápganixtan, chiến tranh
Irắc...); đề ra những chủ trương, đối sách phù hợp. Đã chỉ đạo củng cố, giữ
vững quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng, tăng cường quan hệ với
ASEAN; phát triển quan hệ đối với một số nước lớn, với một số nước đối tác
chiến lược và giải quyết những vấn đề cần thiết trong quan hệ song phương; đẩy
nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chỉ
đạo tiếp tục ký kết và triển khai thực hiện những hiệp định quan trọng về biên
giới với các nước láng giềng, đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xây dựng
đường biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài; tham gia xây dựng Bộ quy
tắc ứng xử trên Biển Đông; quyết định chủ trương, chủ động xử lý đúng đắn nhiều
vấn đề nhạy cảm về đối ngoại (đàm phán gia nhập WTO, mở rộng ASEM, về thoả
thuận với Trung Quốc và Philíppin thăm dò địa chấn trên Biển Đông...).
Đã
coi trọng chỉ đạo để nước ta chủ động tham gia tích cực các tổ chức và diễn đàn
quốc tế, khu vực; chỉ đạo tổ chức thành công nhiều hội nghị và diễn đàn quốc
tế, khu vực, nhất là tổ chức thành công Hội nghị ASEM-5, tích cực chuẩn bị Hội
nghị cấp cao APEC tổ chức tại Hà Nội.
Đã
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận động quần chúng, tạo được những chuyển
biến mới, quan trọng.
Tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo tổng kết, đánh giá việc tổ chức thực hiện chính sách
đại đoàn kết toàn dân tộc, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; chỉ đạo đổi
mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân; xác định rõ và hợp lý hơn chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và
mối quan hệ phối hợp, giúp cho các tổ chức nói trên chủ động hơn trong việc tập
hợp lực lượng, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, tham gia góp ý kiến và công
tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội và công tác xây dựng Đảng.
Đã ra
nghị quyết về công tác người Việt Nam định cư ở nước ngoài, làm cho kiều bào và
cộng đồng thế giới hiểu rõ chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước
ta đối với người Việt Nam sống xa Tổ quốc, động viên, khuyến khích kiều bào
tham gia, đóng góp và công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước; đồng thời coi
trọng bảo vệ lợi ích chính đáng, tạo điều kiện để kiều bào yên tâm sinh sống,
làm ăn ở các nước sở tại.
Lãnh
đạo việc đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, các cơ
quan tư pháp theo hướng phân định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, tăng cường
trách nhiệm, phù hớp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vĩ nhân dân.
Đã ra
các nghị quyết về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020”, nhằm hoạch định hệ thống pháp luật đồng bộ, khả thi, công khai, minh
bạch, phù hợp với tình hình mới; cải cách tư pháp theo hướng đề cao dân chủ,
công khai, khách quan, nghiêm minh, nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét
xử, khắc phục tình trạng oan, sai.
Sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị đối với các cơ quan nhà nước vừa giữ vững
nguyên tắc, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, vừa tạo sự chủ động hơn cho
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
mình.
Đã
dành nhiều thời gian, công sức lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng và chỉnh đốn
Đảng, tạo được một số chuyển biến, tiến bộ nhất định.
Tập
trung chỉ đạo có kết quả hơn một số mặt trăng công tác tư tưởng, lý luận, nhất
là việc tổng kết lý luận và thực tiễn 20, năm đổi mới, làm sáng tỏ hơn một số
vấn đề cơ bản về đường lối đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
Bàn
và quyết định một số chủ trương về tăng cường công tác tư tưởng, đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực báo chí, bảo vệ bí mật của Đảng và Nhà nước
trong thời gian tới; chỉ đạo đẩy mạnh nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức Hồ Chí Minh; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước gắn với tổ chức kỷ
niệm những ngày lễ lớn trong hai năm 2004 - 2005... Qua đó, uốn nắn những quan
điểm, nhận thức lệch lạc, tạo không khí phấn khởi, tin tưởng trong xã hội.
Trong
công tác cán bộ, Bộ Chính trị đã tăng cường chỉ đạo tương đối đồng bộ cả về
quan điểm, chủ trương và giải pháp, có đổi mới, cải tiến về cách làm, bước đầu
mang lại kết quả. Đã quyết định theo thẩm quyền nhiều trường hợp về sắp xếp,
luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ theo đúng quy chế, quy trình và về cơ bản phù hợp
yêu cầu; chỉ đạo rà soát và ra quyết định bổ sung, sửa đổi chức năng, nhiệm vụ,
tổ chức bộ máy của các ban đảng ở Trung ương.
Tiếp
tục chỉ đạo đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII
và Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khoá IX, đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng đi vào thường xuyên và chặt chẽ hơn. Đã chú trọng công tác kiểm tra, có
định hướng, chương trình và kế hoạch đối với một số lĩnh vực trọng tâm (công
tác cán bộ, đầu tư xây dựng cơ bản và quản lý đất đai...). Thông qua cuộc vận
động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và công tác kiểm tra đã phát hiện được nhiều vụ
việc tiêu cực, tham nhũng; xử lý một số cá nhân và tập thể có vi phạm theo đúng
thẩm quyền, thể hiện sự nghiêm minh trong công tác kỷ luật Đảng.
2. Khuyết điểm
Những
thiếu sót, khuyết điểm của Ban Chấp hành Trung ương trong việc chậm bàn hoặc
bàn chưa triệt để một số vấn đề quan trọng nêu ra từ nhiều nhiệm kỳ đại hội có
trách nhiệm của Bộ Chính trị, với tư cách là cơ quan chủ trì chuẩn bị nội
dung cho Ban Chấp hành Trung ương bàn và quyết định.
Trong
lãnh đạo kinh tế, chưa tập trung chỉ đạo khắc phục có hiệu quả một số vấn đề
yếu kém, nổi cộm, làm giảm lòng tin của nhân dân (vấn
đề đầu tư dàn trải, tiến độ chậm, thất thoát, lãng phí và nợ đọng trong xây
dựng cơ bản; lãng phí, tiêu cực trong quản lý đất đai, thu, chi ngân sách...). Việc
chỉ đạo phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế
trong điều kiện đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tuy có cố gắng, nhưng cũng
bộc lộ không ít thiếu sót, khuyết điểm, như có một thời gian, để chậm tiến
trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; chậm định hướng và tạo điều kiện để
các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh và tham gia hội nhập; chưa có
giải pháp quyết liệt trong chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể... Thời kỳ đầu
nhiệm kỳ, chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ việc đàm phán gia nhập WTO.
Sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị trên lĩnh vực văn hoá, xã hội, nhìn chung
chưa đủ mức, nên nhìn toàn cục kinh tế có bước phát triển, nhưng một số lĩnh
vực văn hoá, xã hội tiến bộ chậm và còn nhiều vấn đề tồn tại, bức xúc kéo dài,
gây lo lắng, bất bình trong xã hội (tình trạng tham ô, lãng phí,
nhũng nhiễu dân của các cơ quan công quyền; yếu kém trong giáo dục và đào tạo,
y tế, văn hoá; việc tăng dân số không bình thường; sự gia tăng tệ nạn ma tuý
mại dâm và tai nạn giao thông trong những năm gần đây . . . ), làm hạn chế ý
nghĩa của những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đổi mới và ảnh hưởng đến
tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong
lãnh đạo, chỉ đạo về quốc phòng - an ninh, đối ngoại, có lĩnh vực chậm xây dựng
quy chế cụ thể về thẩm quyền và trách nhiệm, chưa nắm chắc tình hình, dẫn đến
có lúc, có việc còn bị động.
Việc
giáo dục ý thức cảnh giác cách mạng chưa được thường xuyên coi trọng. Công tác
nắm và dự báo tình hình ở những địa bàn trọng điểm có lúc còn chưa nhanh nhạy
và chưa sát. Vì vậy, còn để xảy ra tình trạng bị động trong việc bảo đảm an
ninh quốc gia (nhất là để xảy ra cuộc bạo loạn chính trị lần thứ hai ở Tây
Nguyên). Tuy đã tập trung đầu tư và bỏ ra nhiều công sức, nhưng nhìn chung,
tình hình ở Tây Nguyên và một số vùng trọng điểm khác chưa tạo được những
chuyển biến căn bản, vững chắc.
Chậm
chỉ đạo khắc phục kịp thời những yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng
lực lượng và công tác cán bộ của ngành Công an; đã để xảy ra một số trường hợp
sai sót trong công tác đề bạt, bố trí cán bộ và tình trạng nhiều cán bộ vi phạm
nghiêm trọng kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, làm giảm uy tín đối với nhân
dân. Chậm bổ sung, kiện toàn cán bộ lãnh đạo công tác đớn ngoại.
Có
lúc chưa phát hiện kịp thời và chủ động xử lý những vấn đề phát sinh trong quan
hệ đối với các nước, nhất là với các nước lớn. Chưa chủ động chỉ đạo để có
phương án tổng thể, biện pháp hữu hiệu chống lại các thế lực thù địch sử dụng
chiêu bài “dân chủ, nhân quyền, tôn giáo” chống phá nước ta. Công tác tuyên
truyền đối ngoại còn nhiều yếu kém.
Sự
lãnh đạo cải cách tổ chức, đổi mới hoạt động của các cơ quan nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân vẫn còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của
tiến trình đổi mới. Cho đến nay, vẫn chưa cụ thể hoá thật rõ một
số vấn đề trong thiết chế của hệ thống chính trị, như xây dựng Nhà nước pháp
quyền trong điều kiện một đảng lãnh đạo, mở rộng dân chủ, hội nhập quốc tế, về
thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong một số
lĩnh vực, về quyền hạn và trách nhiệm của tập thể và cá nhân người đứng đầu…
Chưa quan tâm lãnh đạo đúng mức công tác cải cách hành chính. Hiệu quả cải cách
hành chính còn hạn chế cả về thể chế, tổ chức bộ máy và chất lượng đội ngũ cán
bộ. Tổ chức bộ máy, biên chế của nhiều cơ quan, ban, ngành có xu hướng tăng
lên, nhưng chưa được phân tích, đánh giá, kết luận và chỉ đạo kiên quyết theo
yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII.
Một
số vấn đề lý luận cơ bản trong quá trình đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta chưa được chỉ đạo nghiên cứu làm rõ. Do đó, còn có nhận
thức khác nhau, làm ảnh hưởng nhất định đến sự thống nhất tư tưởng, hành động
trong Đảng. Bộ Chính trị chưa thực hiện được chương trình nghe báo cáo, học
tập, nghiên cứu các chuyên đề về lý luận và thực tiễn.
Tuy
đã quan tâm hơn và có nhiều cố gắng, nhưng xét về tổng thể, Bộ Chính bị chưa
lãnh đạo, chỉ đạo cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng đạt được những chuyển
biến căn bản, đáp ứng được đòi hỏi bức xúc của tình hình.
Việc
kiện toàn nhân sự chủ chốt và xử lý kỷ luật cán bộ ở một số địa phương và cơ
quan Trung ương chưa kịp thời, thiếu kiên quyết, có ảnh hưởng nhất định đến
việc thực hiện nhiệm vụ trước mắt và việc chuẩn bị cho nhiệm kỳ tới.
Việc
lãnh đạo cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực còn
nhiều hạn chế, chưa có giải pháp tổng thể, mạnh mẽ, quyết liệt, phối hợp đồng
bộ các mặt hoạt động, phát huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và
của cả xã hội để làm chuyển biến tình hình như mục tiêu đã đề ra.
III
BAN BÍ THƯ
1. Ưu điểm
Ban
Bí thư đã bám sát chức năng, nhiệm vụ đã được quy định trong Điều lệ Đảng và
Quy chế làm việc, cùng với việc tham gia một số sinh hoạt của Bộ Chính trị, đã
lãnh đạo, chỉ đạo và giải quyết kịp thời, đúng đắn công việc hằng ngày của Đảng
theo thẩm quyền; chỉ đạo phối hợp các hoạt động của các tổ chức trong hệ thống
chính trị, xử lý và giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề phức tạp mới nảy sinh về
đối ngoại, an ninh, quốc phòng và xây dựng Đảng.
Ban
Bí thư đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng Đảng, góp phần tạo được
những chuyển biến, tiến bộ nhất định trong một số lĩnh vực của nhiệm vụ then
chốt này.
Đã
tiếp tục đổi mới cách quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng theo
hướng thiết thực, hiệu quả. Tăng cường chỉ đạo quản lý báo chí, xuất bản, thực
hiện có nền nếp công tác thông tin, thông báo tình hình trong nước, ngoài nước
và công việc của Trung ương cho các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương
và các cấp uỷ trực thuộc.
Đã
xem xét và quyết định cơ bản chính xác, đúng quy định các trường hợp nhân sự
thuộc thẩm quyền; chỉ đạo thực hiện nghiêm hơn chế độ nghỉ hưu đối với cán bộ
lãnh đạo cao tuổi thuộc diện Ban Bí thư quản lý.
Đã
chỉ đạo xây dựng và ban hành nhiều quy định về chức năng, nhiệm vụ của các loại
hình tổ chức cơ sở Đảng; ban hành đồng bộ các quy định của Đảng về một số vấn
đề có tính đặc thù.
Chủ
động định hướng hoạt động của công tác bảo vệ chính trị nội bộ phù hợp với tình
hình mới, góp phần nâng cao chất lượng công tác cán bộ, đảm bảo an ninh nội bộ.
Hướng
dẫn về nhiệm vụ và quan hệ công tác của bộ phận thường trực tỉnh uỷ, thành uỷ,
tạo điều kiện và góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ
đạo và tăng cường đoàn kết nội bộ của các cấp uỷ địa phương.
Coi
trọng chỉ đạo thực hiện việc tự phê bình và phê bình hằng năm đối với các cấp
uỷ và tổ chức đảng trực thuộc, đưa công tác này trở thành thường xuyên, dần dần
đi vào nền nếp; đồng thời, chỉ đạo các ban Trung ương Đảng chủ động nắm chắc
tình hình để gợi ý kiểm điểm đối với một số cá nhân, tổ chức đảng trực thuộc.
Đã tăng
cường chỉ đạo công tác kiểm tra, tập trung vào những vấn đề trọng tâm, trọng
điểm, những lĩnh vực, đia bàn có vấn đề phức tạp. Qua kiểm tra, đã phát
hiện và chỉ đạo xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với một số tổ chức đảng, một số
cán bộ mắc sai phạm và kiến nghị với Chính phủ một số vấn đề cần thiết trong
chỉ đạo, điều hành.
Đã
chỉ đạo, tạo được một số chuyển biến tích cực trong công tác quần chúng, việc
thực hiện dân chủ trong Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và thực hiện
chính sách đại đoàn kết dân tộc.
Chỉ
đạo tổng kết thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng về công tác quần
chúng (Chỉ thị 37 về công tác cán bộ nữ, Chỉ thị 30 về xây dựng và thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở, chủ trương của Bộ Chính trị khoá VIII về công tác đối
với đạo Tin Lành...). Chỉ đạo công tác dân vận ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Bắc
và một số tỉnh miền Trung có những diễn biến phức tạp mới nảy sinh về các vấn
đề dân tộc, tôn giáo. Chỉ đạo thành công Đại hội VI Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và đại hội của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp khác.
Đã
thường xuyên chỉ đạo giải quyết tình hình khiếu kiện đông người vượt cấp, góp
phần tạo được chuyển biến bước đầu về vấn đề này, giải toả được nhiều “điểm
nóng” kéo dài đã lâu.
Trên
cơ sở chủ trương của Bộ Chính trị, đã chỉ đạo xây dựng khu vực phòng thủ vững
chắc; đấu tranh, xử lý, ngăn chặn hoạt động lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân
tộc để gây rối, tạo cớ chống chế độ, chống Đảng và Nhà nước ta.
Tăng
cường chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, chủ động hơn trong
công tác thông tin để cộng đồng quốc tế, nhất là các nước láng giềng, các nước
lớn, các tổ chức quốc tế hiểu đúng về tình hình đất nước ta cũng như các chủ
trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Khuyết điểm
Chỉ
đạo công tác giáo dục chính trị tư tưởng nhiều lúc còn kém nhạy bén, không kịp
thời; còn thiếu những hình thức sinh động, có sức thuyết phục, có hiệu quả cao
để giải đáp những băn khoăn, vướng mắc, mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình đổi
mới, xây dựng và củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là
đối với thanh niên.
Chậm
chỉ đạo, định hướng nhận thức trước những diễn biến phức tạp của tình hình tư
tưởng, cũng như trước những vụ việc lớn. Đấu tranh bác bỏ các quan điểm sai
trái, luận điệu xuyên tạc của các phần tử cơ hội và các thế lực thù địch còn
thiếu chủ động và sắc bén, nhất là ở cơ sở và trên mạng thông tin điện tử. Việc
chỉ đạo bác bỏ những thông tin thất thiệt, có hại, phân tích, phản bác những ý
kiến và quan điểm sai trái cũng như uốn nắn những biểu hiện lệch lạc trong hoạt
động báo chí, xuất bản còn chậm; chưa có đối sách thích hợp để quản lý mạng
Intemet, trong khi các phần tử xấu đang lợi dụng phương tiện này để chống phá
ta rất quyết liệt.
Chưa
chỉ đạo nghiên cứu làm rõ mô hình và đề xuất bổ sung, sửa đổi chức năng, nhiệm
vụ, mối quan hệ của các đảng đoàn, ban cán sự đảng trong hệ thống các cơ quan
nhà nước, nhất là trong các cơ quan hành pháp. Chưa quan tâm đúng mức việc kiện
toàn các ban Trung ương Đảng và đảng uỷ khối các cơ quan Trung ương về tổ chức,
bộ máy và đội ngũ cán bộ tương xứng với vai trò, vị trí và yêu cầu nhiệm vụ của
các cơ quan này trong tình hình mới.
Việc
chỉ đạo thể chế hoá một số quan điểm, chủ trương của Đảng về các vấn đề dân
tộc, tôn giáo thành pháp luật, chính sách của Nhà nước còn chậm so với đòi hỏi
bức xúc của thực tiễn, dẫn đến việc thực thi ở địa phương, cơ sở còn nhiều
vướng mắc. Nội dung và phương pháp vận động quần chúng, nắm tình hình nhân dân
chưa tốt, nhất là trên một số địa bàn trọng yếu.
Chỉ
đạo công tác kiểm tra chưa thật toàn diện, kiên quyết; chất lượng, hiệu quả
chương trình kiểm tra hàng năm còn thấp; chỉ đạo xử lý những sai phạm được phát
hiện qua kiểm tra vẫn chưa thật kịp thời, dứt khoát.
Công
tác bảo vệ chính trị nội bộ còn nhiều hạn chế, nhất là trong việc chỉ đạo xem
xét, giải quyết những vấn đề chính trị hiện nay của cán bộ; chậm bổ sung và sửa
đổi một số điểm không còn phù hợp trong Quy định 75-QĐ/TW về công tác bảo vệ
chính trị nội bộ.
Cơ
chế về phân công và trách nhiệm giải quyết công việc giữa các cơ quan Đảng, Nhà
nước chưa đủ rõ dẫn đến có việc xử lý chậm. Chỉ đạo phối hợp giữa các cơ quan,
ban, ngành trong khối đối ngoại và giữa khối đối ngoại với các khối an ninh,
quốc phòng, kinh tế... trong xử lý một số trường hợp cụ thể chưa thật chặt chẽ,
thống nhất.
Chỉ
đạo triển khai hoặc kiểm tra việc thực hiện một số chủ trương lớn trong lĩnh
vực quốc phòng, an ninh còn chậm; có lĩnh vực, có việc nắm tình hình chưa sâu,
chỉ đạo khắc phục, uốn nắn không kịp thời (vấn đề tổ chức đảng và cán bộ chính
trị trong công an; tình trạng lộ bí mật, công khai tán phát tài liệu chống đối
và gây rối nội bộ...).
B- KIỂM ĐIỂM VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO, PHONG CÁCH VÀ LỀ LỐI LÀM
VIỆC
I- BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
1. Ưu điểm
Ban
Chấp hành Trung ương đã hoạt động theo đúng quy chế, làm việc theo chương trình
toàn khoá. Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương khoá IX có kế thừa các
khoá trước và có đổi mới, đã phân định rõ ràng hơn, cụ thể hơn nhiệm vụ, quyền
hạn, lề lối làm việc của tổ chức và cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng. Chương
trình làm việc toàn khoá thể hiện sự chỉ đạo toàn diện, nhưng có trọng tâm,
trọng điểm; coi trọng hơn việc tổng kết và kiểm tra thực hiện; đồng thời đã
được điều chỉnh và bổ sung kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế.
Hoạt
động của Ban Chấp hành Trung ương bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ; các vấn
đề đều được thảo luận và quyết định theo hướng tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, nhưng không bao biện, làm thay, phát huy vai trò quản
lý, điều hành của Nhà nước, nhưng không làm suy giảm vai trò lãnh đạo của Đảng.
Việc
ra nghị quyết bước đầu có sự đổi mới theo hướng ngắn gọn, cụ thể, thiết thực
hơn.
Bước
đầu đã có đổi mới trong việc huy động trí tuệ của các đồng chí Uỷ viên Trung
ương tham gia vào việc chuẩn bị các đề án cho hội nghị Trung ương, tổng kết lý
luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới và chuẩn bị các văn kiện Đại hội X.
2. Khuyết điểm
Nhìn
chung, Ban Chấp hành Trung ương chưa đổi mới được nhiều về phương thức lãnh
đạo, phong cách và lề lối làm việc. Các hội nghị Trung ương chưa có nhiều cải
tiến về tổ chức điều hành; một số phiên họp thảo luận, tranh luận chưa sôi nổi.
Vẫn
còn một số nghị quyết, kết luận dài, nội dung trùng lặp vời các văn bản khác.
Trung ương ban hành nhiều nghị quyết, nhưng việc chỉ đạo quán triệt chưa đồng
bộ; có tình trạng làm lướt, hình thức. Việc chỉ đạo cụ thể hoá và tổ chức thực
hiện chưa tương xứng, nên có nhiều nghị quyết có nội dung tốt, nhưng kết quả
thực hiện còn hạn chế, chậm đi vào cuộc sống.
Ban
Chấp hành Trung ương chưa có nhiều hình thức để phát huy trí tuệ, nâng cao
trách nhiệm của các đồng chí Uỷ viên Trung ương đóng góp vào các quyết định
quan trọng của Đảng, của đất nước; chưa thực hiện được việc phê bình, chất vấn
theo quy chế.
II-
BỘ CHÍNH TRỊ, BAN BÍ THƯ
1. Ưu điểm
Về cơ
bản, Bộ Chính trị, Ban Bí thư hoạt động đúng quy chế và chương trình làm việc
đã đề ra; kịp thời có sự Điều chỉnh chương trình để đáp ứng yêu cầu của diễn
biến tình hình trong và ngoài nước; những quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí
thư là đúng thẩm quyền, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nhìn
chung, hoạt động của Bộ Chính trị đã tập trung vào những vấn đề mang tính chất
định hướng ở tầm chiến lược về đường lối, chủ trương, chính sách lớn. Ngày càng
phân định rõ hơn những vấn đề mà Bộ Chính trị cần ra quyết định và những vấn đề
Nhà nước và các cơ quan chức năng chủ động giải quyết, xử lý. Việc phân công,
phân cấp xử lý công việc giữa Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thường trực Ban Bí thư
và các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng phụ trách từng
lĩnh vực đã cụ thể hơn.
Phương
pháp công tác, lề lối làm việc có cải tiến, có sự đổi mới. Sinh hoạt dân chủ,
thẳng thắn, cởi mở, phát biểu ngắn gọn, tỏ rõ chính kiến. Đối với một số đề án,
vấn đề quan trọng, phức tạp, Bộ Chính trị đã chỉ đạo lấy ý kiến được nhiều đối
tượng trước khi thảo luận, quyết định. Các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính
trị, Ban Bí thư có bước cải tiến, thiết thực, ngắn gọn.
Việc
lập lại Ban Bí thư đã giúp cho việc xử lý công việc hằng ngày của Đảng được kịp
thời hơn, Bộ Chính trị và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt có điều kiện, thời
gian đầu tư nhiều hơn cho những vấn đề chiến lược. Ban Bí thư đã tạo Điều kiện
và phát huy tốt hơn vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tham mưu, giúp việc.
Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đã dành thời gian làm việc trực tiếp với nhiều cấp uỷ, tổ
chức đảng trực thuộc, kiểm tra và tìm hiểu thực tế ở cơ sở, bước đầu giảm bớt
thủ tục, hình thức, tăng hiệu quả của các chuyến đi.
Việc
phân định công việc giữa Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán
sự đảng Chính phủ và các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị phụ trách một số lĩnh
vực đã cụ thể, rõ ràng hơn, phát huy tốt hơn vai trò lãnh đạo của Đảng, sự chủ
động trong quản lý, điều hành của Nhà nước. Đối với một số vấn đề hệ trọng,
trong quá trình chuẩn bị, đồng chí Tổng Bí thư đã tham khảo ý kiến của các đồng
chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước, sau đó trình Bộ Chính trị thảo
luận, quyết định theo đa số.
Bộ
Chính trị đã thực hiện đúng quy định việc báo cáo Ban Chấp hành Trung ương
những công việc đã giải quyết trong thời gian giữa hai kỳ họp Trung ương.
Thường
trực Ban Bí thư thông qua hình thức định kỳ giao ban với các văn phòng, các ban
đảng, với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội để nắm tình hình
và nhắc nhở, chỉ đạo phối hợp xử lý các vấn đề mới nảy sinh, là cách làm có tác
dụng tốt.
Các
đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn đề cao tinh thần trách nhiệm
trong việc thực hiện các nhiệm vụ được phân công, cũng như việc đóng góp ý kiến
vào các quyết định của tập thể; gương mẫu giữ gìn đạo đức cách mạng, tác phong
giản dị, gần gũi cán bộ.
2. Khuyết điểm
Bộ
Chính trị, Ban Bí thư chưa dành thời gian và đầu tư thoả đáng cho việc
nghiên cứu, chỉ đạo đổi mới, cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng trong
điều kiện một đảng cầm quyền, lề lối làm việc trong các cơ quan đảng, trước hết
là ở các cơ quan lãnh đạo cấp cao. Chưa khẩn trương chỉ đạo nghiên cứu, xây
dựng hoàn thiện hệ thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung và cơ
chế thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trên các lĩnh vực: lập
pháp, hành pháp, tư pháp và đối với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân.
Chưa xây dựng được quy chế về mối quan hệ làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư
với Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ.
Bộ
Chính trị vẫn phải họp nhiều, một số ít phiên họp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư
chất lượng chưa cao. Một số vấn đề quan trọng đã xác định trong chương trình
làm việc hằng năm, nhưng chưa thực hiện được hoặc thực hiện chậm.
Trong
cơ chế làm việc và sinh hoạt, vai trò lãnh đạo tập thể được thể hiện tốt, nhưng
trách nhiệm cá nhân trong một số lĩnh vực chưa đủ rõ, nên giải quyết một số
công việc còn chậm. Nhiều đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải đảm nhiệm
nhiều công việc khác nhau, mất thời gian vào việc họp hành, điều hành, xử lý cụ
thể nên ít có thời gian tự học tập, nghiên cứu, tự tổng kết các vấn đề thực
tiễn thuộc lĩnh vực phụ trách.
Chậm
đổi mới quy trình giải quyết công việc của Đảng, nhất là việc xem xét, bổ nhiệm
nhân sự và kỷ luật cán bộ còn phải qua nhiều khâu, nhiều công đoạn, mất nhiều
thời gian; phần nào còn nặng về xem xét ý kiến thăm dò, chờ đợi sự đồng thuận
của đương sự, thiếu sự chủ động, quyết đoán kịp thời của cơ quan lãnh đạo; chưa
phát huy đúng mức trách nhiệm và quyền hạn của người phụ trách trong công tác
cán bộ, để ảnh hưởng đến việc kiện toàn bộ máy lãnh đạo của một số cấp uỷ, tổ
chức đảng trực thuộc. Một số vấn đề các cấp, các ngành xin ý kiến chỉ đạo của
Ban Bí thư, nhưng trả lời còn chậm, để cấp dưới chờ đợi lâu.
Chỉ
đạo việc điều phối hoạt động của bộ máy đảng chưa thành nền nếp, hiệu quả một
số chuyến đi cơ sở của các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa cao.
*
*
*
Tóm
lại, nhiệm kỳ qua, trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong
nước diễn biến phức tạp, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã
tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh sự
nghiệp đổi mới; sớm cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội IX của Đảng; vừa bảo đảm sự
lãnh đạo toàn diện, vừa tập trung hơn cho những ngành, lĩnh vực và địa bàn
trọng tâm, trọng điểm; coi trọng hơn công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết, chỉ
đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và các nghị quyết của Trung ương; đã xử lý
đúng đắn, kịp thời nhiều vấn đề nhạy cảm, phức tạp; đẩy mạnh được đà phát triển
kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, củng
cố được quốc phòng, an ninh, tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao
được vị thế và uy tín quốc tế của đất nước; chăm lo công tác xây dựng Đảng,
củng cố hệ thống chính trị, nhất là cơ sở; tiếp tục phát huy dân chủ trong Đảng
và trong nhân dân, giữ gìn kỷ cương trong Đảng và trong xã hội. Nhìn chung, Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá IX đã lãnh đạo hoàn thành
cơ bản các mục tiêu, nhiệm vụ do Nghị quyết Đại hội IX đề ra.
Tuy
nhiên, trong lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư còn một số khuyết điểm, hạn chế: việc quán triệt, tổ chức thực hiện nghị
quyết của Đảng vẫn là khâu yếu; chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt để
khắc phục một số khuyết điểm, yếu kém kéo đài trong kinh tế - xã hội; lãnh đạo
cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, cải cách hành chính còn chậm, chưa
đạt yêu cầu đề ra; lãnh đạo, chỉ đạo quốc phòng, an ninh, đối ngoại có lúc, có
việc còn bị động, lúng túng; chưa tập trung đúng mức để lạo sự chuyển biến mạnh
mẽ, rõ nét trong xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là trong đấu tranh
phòng, chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; còn ít đổi mới, cải
tiến phương thức lãnh đạo và lề lối làm việc, v.v.. Những khuyết điểm, thiếu
sót nói trên đã hạn chế hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo chung của Đảng, ảnh hưởng
nhất định tới tình hình chung của đất nước.
Ban
Chấp hành Trung ương, trước hết là Bộ Chính trị, Ban Bí thư xin nghiêm túc tự
phê bình trước toàn Đảng, toàn dân về những khuyết điểm, thiếu sót nói trên.
Từ
thực tiễn lãnh đạo chỉ đạo nhiệm kỳ vừa qua, Ban Chấp hành Trung ương thấy
rằng, để lãnh đạo thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong thời gian tới cần phải coi
trọng và tập trung giải quyết tốt những vấn đề hết sức quan trọng sau đây:
Một
là, trong bối cảnh tình hình chính trị, an ninh, kinh tế khu
vực và thế giới luôn biến động hết sức nhanh chóng, phức tạp, tình hình trong
nước đang đặt ra nhiều vấn đề mới, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư phải thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng; tăng cường cảnh giác và nâng
cao ý thức đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng;
tăng cường đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, nguyên tắc hoạt
động của Đảng; thật sự coi trọng hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận và tổng
kết thực tiễn, có kế hoạch tự học tập, nâng cao năng lực nhận thức để tiếp
tục tìm tòi, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới, đổi mới, nâng cao
năng lực lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ mới, tranh thủ cơ hội, vượt
qua thách thức, tiếp tục đẩy mạnh đổi mới toàn diện đồng bộ để giành được những
thành tựu mới to lớn, vững chắc hơn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai
là, việc đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới tổ chức
và hoạt động của hệ thống chính trị trong điều kiện một Đảng lãnh đạo, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, có vị trí đặc
biệt quan trọng đòi hỏi Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư phải dành thời gian và tâm sức nhiều hơn nữa, thoả đáng hơn nữa
cho những nhiệm vụ này; phải rất coi trọng việc xây dựng và thực hiện đúng quy
chế làm việc, đề cao và phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng và trong đời sống
xã hội đi đôi với tăng cường trách nhiệm, thực hiện nghiêm kỷ luật của Đảng và
kỷ cương phép nước. Không ngừng đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo,
từng bước quy chế hoá sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; đồng thời tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
nhân dân, đổi mới và kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng nhằm nâng cao vai trò
lãnh đạo của Đảng và phát huy hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước và cả
hệ thống chính trị.
Ba là, để
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, vấn đề có tính chất quyết
định là xây dựng được đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt các
cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, tiêu biểu về trí tuệ, năng động, sáng tạo,
có phẩm chất đạo đức cách mạng, có trách nhiệm, luôn gắn bó với nhân dân, xứng
đáng với sự tin cậy của Đảng, của nhân dân. Muốn vậy, phải tiếp tục đổi mới
công tác cán bộ cả về tư duy, nội dung và phương pháp; đổi mới đồng bộ hệ thống
các quy chế cụ thể về đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, đề
bạt, bổ nhiệm để bố trí đúng cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; sử dụng có hiệu
quả hơn các nguồn tài năng ở tất cả các ngành, các cấp, các lĩnh vực. Phải giao
nhiệm vụ rõ ràng và quyền hạn tương ứng cho từng chức danh; xây dựng cho được
cơ chế cụ thể về trách nhiệm của cán bộ đối với công việc được giao, xử lý kịp
thời việc biểu dương, khen thưởng, cũng như việc phê bình, kỷ luật, thay thế
những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, để công việc trì trệ hoặc có sai phạm,
khuyết điểm.
Trong
điều kiện Đảng cầm quyền, công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác cán bộ
nói riêng, phải tiến hành thường xuyên và kiên trì cuộc đấu tranh không khoan
nhượng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quyết tâm ngăn chặn và
đẩy lùi bằng được các tệ nạn này.
Bốn
là, sau khi có đường lối đúng, sự nghiệp đổi mới có thành
công hay không phụ thuộc một phần lớn vào năng lực tổ chức thực hiện của
Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, của
các cấp, các ngành. Thời gian qua, tuy vấn đề này đã được coi trọng hơn trước,
nhưng vẫn là khâu yếu, có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thực hiện nhiều chủ
trương, nghị quyết đúng đắn của Đảng. Trong đó, đáng lưu ý nhất là tình trạng
thiếu kiên quyết, nể nang, né tránh; kỷ luật không nghiêm; chưa phát huy đúng
mức quyền hạn và trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Vì vậy, Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá X và cấp uỷ các cấp cần đặc biệt
coi trọng và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi nghị
quyết của Đảng và phát triển đường lối của Đảng thông qua tổng kết thực tiễn
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trên
đây là Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
khoá IX. Xin kính trình Đại hội.
BAN CHẤP
HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHOÁ IX
9. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Ðảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Đại
hội X của Đảng họp vào lúc toàn Đảng, toàn dân ta kết thúc 5 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội IX và đã trải qua 20 năm đổi mới.
Đại
hội có nhiệm vụ: kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 và Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, nhìn lại 20 năm đổi mới; quyết định phương
hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010; kiểm
điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, đề ra phương hướng,
nhiệm vụ xây dựng Đảng; bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; bầu Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá X.
I- KIỂM ĐIỂM 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI IX CỦA ĐẢNG VÀ NHÌN LẠI 20
NĂM ĐỔI MỚI
Năm
năm qua, bên cạnh những thuận lợi do tiến trình đổi mới tạo ra,
nước ta cũng gặp không ít khó khăn, thách thức do những yếu kém vốn có của nền
kinh tế trình độ thấp; thiên tai, dịch bệnh xảy ra ở nhiều nơi; tình hình thế
giới và khu vực diễn biến hết sức phức tạp, nhất là sau sự kiện ngày 11-9-2001
ở Mỹ; kinh tế thế giới và khu vực đan xen những biểu hiện suy thoái, phục hồi
và phát triển, sự cạnh tranh và chính sách bảo hộ bất bình đẳng của một số
nước... Trong hoàn cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ra sức phấn đấu
thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và đã đạt những thành tựu rất quan trọng:
1. Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá
cao và phát triển tương đối toàn diện
Tổng
sản phẩm trong nước (GDP) năm sau tăng cao hơn năm trước, bình quân trong 5 năm
2001 - 2005 là 7,51%, đạt mức kế hoạch đề ra. Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định,
các quan hệ và cân đối chủ yếu trong nền kinh tế (tích luỹ - tiêu dùng, thu -
chi ngân sách,...) được cải thiện; việc huy động các nguồn nội lực cho phát
triển có chuyển biến tích cực, tỉ lệ huy động GDP vào ngân sách nhà nước vượt
dự kiến. Tổng vốn đầu tư vào nền kinh tế tăng nhanh đã làm tăng đáng kể năng
lực sản xuất kinh doanh, tạo nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh, hoàn thành và
đưa vào sử dụng nhiều công trình lớn về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tăng
cường tiềm lực và cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế.
Cơ
cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đến
năm 2005, tỉ trọng giá trị nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp trong GDP còn
20,9% (kế hoạch 20 - 21%), công nghiệp và xây dựng 41% (kế hoạch 38 - 39%),
dịch vụ 38,1% (kế hoạch 41 - 42%). Các thành phần kinh tế đều phát triển.
Hoạt
động kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có bước tiến mới rất quan
trọng. Một số sản phẩm đã có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Xuất khẩu,
nhập khẩu có tốc độ tăng trưởng khá, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 50% GDP.
Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
liên tục tăng qua các năm. Đã có một số dự án đầu tư ra nước ngoài.
Thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng. Thị
trường hàng hoá phát triển tương đối nhanh; một số loại thị trường mới đã hình
thành.
2. Văn hoá và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh
tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt; đời sống các tầng lớp
nhân dân được cải thiện
Giáo
dục và đào tạo tiếp tục phát triển và được đầu tư nhiều hơn. Cơ sở vật chất
được tăng cường. Quy mô đào tạo mở rộng, nhất là ở bậc trung học chuyên nghiệp
và dạy nghề. Trình độ dân trí được nâng lên.
Khoa
học và công nghệ góp phần tích cực vào việc hoạch định đường lối, chính sách,
điều tra đánh giá tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học, nghiên cứu
ứng dụng công nghệ mới phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng, an
ninh.
Công
tác xoá đói giảm nghèo được đẩy mạnh bằng nhiều hình thức, biện pháp; đến cuối
năm 2005, tỉ lệ hộ nghèo (theo chuẩn Việt Nam cho giai đoạn 2001 - 2005) còn 7%
(năm 2001 là 17,5%, kế hoạch là 10%). Đã kết hợp tốt các nguồn lực của Nhà nước
và nhân dân, xây dựng nhiều công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, văn hoá, xã hội
cho các vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc.
Trong
5 năm, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Thu nhập bình quân đầu người tăng
từ 5,7 triệu đồng năm 2000 lên trên 10 triệu đồng năm 2005.
Công
tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân đạt nhiều kết quả: mở rộng mạng lưới y
tế, đặc biệt là y tế cơ sở; khống chế và đẩy lùi một số dịch bệnh nguy hiểm;
tuổi thọ trung bình của dân số nước ta tăng từ 67,8 (năm 2000) lên 71,5 (năm
2005).
Hoạt
động văn hoá, thông tin, báo chí, thể dục thể thao... có tiến bộ trên một số
mặt. Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá", các
phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc người có công, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng,
thương binh, gia đình liệt sĩ, các hoạt động nhân đạo, từ thiện... thu hút sự
tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân.
3. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường;
quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới
Độc
lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an
toàn xã hội được bảo đảm. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân có nhiều thành
tích trong xây dựng lực lượng, nâng cao tinh thần chiến đấu và sẵn sàng chiến
đấu. Việc kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng ở một số địa bàn có hiệu
quả. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân được củng
cố.
Hoạt
động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân phát triển mạnh, góp phần giữ
vững môi trường hoà bình, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao uy tín của Việt
Nam trong khu vực và trên thế giới. Đã giải quyết được một số vấn đề về biên
giới, lãnh thổ, vùng chồng lấn trên biển với một số quốc gia; chủ động và tích
cực tham gia các diễn đàn thế giới; tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế
và khu vực tại Việt Nam.
4. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả
ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
tộc được phát huy
Quốc
hội có những đổi mới quan trọng trong công tác lập pháp, tiếp tục sửa đổi, bổ
sung Hiến pháp và hệ thống pháp luật; cải tiến quy trình xây dựng luật, đã
thông qua 58 luật và 43 pháp lệnh mới, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý
nhà nước, vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng
nhu cầu hội nhập quốc tế.
Đã
tăng cường một bước tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; phân định cụ thể
hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Chính phủ, của các bộ,
ngành và chính quyền địa phương các cấp, đồng thời thực hiện sự phân cấp nhiều
hơn. Các hoạt động tư pháp và công tác cải cách tư pháp có những chuyển biến
tích cực.
Hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ngày càng thiết thực. Việc
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được mở rộng và có hiệu quả hơn, nhất là ở
xã, phường. Công tác dân tộc, tôn giáo, vận động người Việt Nam ở nước ngoài có
tiến bộ.
5. Công tác xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực
Công
tác giáo dục chính trị tư tưởng, công tác tổ chức và cán bộ, xây dựng tổ chức
cơ sở đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, phát triển đảng, công
tác kiểm tra có những chuyển biến mới. Đa số cán bộ, đảng viên phát huy vai trò
tiên phong, năng động, sáng tạo, giữ gìn phẩm chất đạo đức.
Đạt
được những thành tựu trên là nhờ đường lối đúng đắn của Đảng; sự quản lý thống
nhất theo pháp luật của Nhà nước, điều hành năng động của Chính phủ và nỗ lực
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các ngành, các cấp, các cơ sở sản xuất
kinh doanh. Đó còn là do tác động tích cực của những cơ chế, chính sách đã ban
hành; do kết quả đầu tư trong nhiều năm qua đã làm cho năng lực sản xuất của
nhiều ngành và toàn bộ nền kinh tế tăng khá.
Tuy
nhiên, chúng ta còn những khuyết điểm và yếu kém:
1. Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm
Các
cân đối vĩ mô trong nền kinh tế chưa thật vững chắc, dễ bị ảnh hưởng bởi những
biến động từ bên ngoài. Trình độ khoa học, công nghệ, năng suất lao động thấp;
giá thành nhiều sản phẩm còn cao so với khu vực và thế giới. Nhiều nguồn lực và
tiềm năng trong nước chưa được huy động và khai thác tốt. Đầu tư của Nhà nước
dàn trải, hiệu quả chưa cao, thất thoát nhiều. Lãng phí trong chi tiêu ngân
sách nhà nước và tiêu dùng xã hội còn nghiêm trọng. Môi trường tự nhiên ở nhiều
nơi bị huỷ hoại, ô nhiễm nặng.
Lĩnh
vực dịch vụ phát triển chậm. Nội dung và các biện pháp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp và nông thôn chưa cụ thể. Sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu
quả của doanh nghiệp nhà nước, nhất là cổ phần hoá, còn nhiều vướng mắc. Chất
lượng nguồn nhân lực thấp, lao động chưa qua đào tạo vẫn là phổ biến, lao động
nông nghiệp còn chiếm tỉ lệ cao. Hoạt động kinh tế đối ngoại còn hạn chế. Nhiều
doanh nghiệp chưa đủ sức vượt qua những khó khăn về cạnh tranh và thị trường.
Việc
hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách thúc đẩy phát triển và vận
hành hệ thống thị trường chưa đồng bộ; một số nguyên tắc của thị trường bị vi
phạm; tư duy bao cấp chưa được khắc phục triệt để.
2. Cơ chế, chính sách về văn hoá - xã hội chậm đổi mới; nhiều vấn đề xã
hội bức xúc chưa được giải quyết tốt
Kết
quả xoá đói giảm nghèo chưa thật vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn lớn. Khoảng
cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng
có xu hướng doãng ra. Nhu cầu về việc làm ở thành thị và nông thôn chưa được
đáp ứng tốt.
Chất
lượng giáo dục và đào tạo còn thấp. Khoa học và công nghệ chưa đáp ứng kịp yêu
cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong một bộ phận báo chí, xuất bản, văn
hoá, nghệ thuật, xu hướng xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo lợi ích vật chất
đơn thuần chưa được khắc phục. Quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực trong
giáo dục, y tế, thể dục thể thao còn yếu kém.
Tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng. Tội phạm và một số tệ nạn xã
hội có chiều hướng tăng. Tai nạn giao thông gây nhiều thiệt hại về người và
của.
3. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế
Sức
mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang chưa
được phát huy đầy đủ. Ở một số địa bàn, còn những yếu tố gây mất ổn định chính
trị - xã hội.
Công
tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về quốc phòng, an ninh, đối ngoại chưa theo
kịp diễn biến của tình hình. Sự phối hợp giữa an ninh, quốc phòng và đối ngoại
trong việc giải quyết một số vấn đề cụ thể thiếu chặt chẽ.
4. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân còn một số khâu chậm đổi mới
Quốc
hội còn lúng túng trong việc thực hiện chức năng giám sát. Bộ máy quản lý nhà
nước các cấp, nhất là ở cơ sở còn yếu kém. Tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền,
thiếu trách nhiệm ở một bộ phận công chức, nhất là ở các cơ quan trực tiếp giải
quyết công việc của dân và doanh nghiệp, chậm được khắc phục. Mô hình tổ chức
chính quyền địa phương, nhất là tổ chức hội đồng nhân dân, còn những điểm bất
hợp lý. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân ở nhiều nơi còn mang tính hành chính, hình thức. Dân chủ
trong xã hội còn bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi không nghiêm.
5. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu
Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ
nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ,
công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và
không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh. Công tác tư tưởng
còn thiếu tính thuyết phục. Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn
đề quan trọng trong công cuộc đổi mới. Công tác tổ chức và cán bộ còn nhiều mặt
yếu kém. Chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao.
Những
khuyết điểm và yếu kém nói trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan,
chủ yếu là những nguyên nhân chủ quan:
Tư
duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới. Một số vấn đề ở tầm quan điểm,
chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận
thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành, như các
vấn đề: sở hữu và thành phần kinh tế; cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế; đổi mới chính
sách, cơ chế quản lý giáo dục, y tế, văn hoá; đổi mới tổ chức, phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị...
Sự
chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt. Ba lĩnh vực được coi là ba khâu đột phá
(xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà
trọng tâm là đổi mới cơ chế, chính sách; tạo bước chuyển mạnh về phát triển
nguồn nhân lực; đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị
mà trọng tâm là cải cách hành chính) cũng như việc xây dựng một số công trình
trọng điểm lớn của quốc gia chưa được chỉ đạo tập trung, thực hiện thiếu tinh
thần trách nhiệm. Tình trạng nói nhiều làm ít, làm không đến nơi đến chốn hoặc
không làm còn diễn ra ở nhiều nơi. Hiệu lực quản lý nhà nước còn thấp trên một
số lĩnh vực như: quy hoạch, đất đai, xây dựng cơ bản, tài chính, ngân hàng, tài
nguyên môi trường, sở hữu trí tuệ... Công tác kiểm tra, thanh tra còn thiếu
hiệu lực.
Một
bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm chất
và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn
thành nhiệm vụ.
Những
khuyết điểm nói trên, trước hết thuộc trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của Ban
Chấp hành Trung ương, trực tiếp là của Bộ Chính trị. Ban Chấp hành Trung ương
xin tự phê bình nghiêm túc về những khuyết điểm của mình trước Đại hội và trước
nhân dân.
Cùng
với việc kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, chúng ta nhìn lại 20
năm đổi mới.
Hai
mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công
cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đất
nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn
diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng
và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng
cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực
mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Những
thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù
hợp thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi
mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
đã hình thành trên những nét cơ bản.
Xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển
cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên
thế giới.
Để đi
lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội;
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an
ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong
khi khẳng định những thành tựu nói trên, cần thấy rõ, cho đến nay nước ta vẫn
trong tình trạng kém phát triển. Kinh tế còn lạc hậu so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, xây dựng hệ thống chính
trị, còn nhiều yếu kém. Lý luận chưa giải đáp được một số vấn đề của thực tiễn
đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt là trong việc giải
quyết các mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển; giữa
tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị; giữa đổi mới với ổn định và phát triển; giữa độc lập tự chủ và
chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế...
Từ
thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta càng tích luỹ thêm nhiều kinh
nghiệm lãnh đạo và quản lý. Có thể rút ra một số bài học lớn sau đây:
Một
là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi
mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội
được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không
phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ
nam cho hành động cách mạng.
Hai
là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm
phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế,
chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận
của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải
có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ
và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là
then chốt và phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội.
Ba
là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò
chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến,
nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình
thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và
thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy
luật phát triển, đó là chìa khoá của thành công.
Bốn
là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem
đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động
các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn
lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để
phát triển đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm
là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới
hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội; Nhà nước phải thể chế hoá và tổ
chức thực hiện có hiệu quả quyền công dân, quyền con người. Phát huy vai trò
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân
dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành
công sự nghiệp đổi mới.
Qua
tổng kết lý luận - thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta càng thấy rõ giá trị định
hướng và chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới
đặt ra cần được giải đáp. Sau Đại hội X, Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ
sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt
động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ
nghĩa xã hội.
II- MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 5 NĂM 2006 - 2010
Dự
báo tình hình những năm sắp tới:
Trên
thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Kinh tế thế giới
và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất
trắc khó lường. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa
đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia,
nhất là các nước đang phát triển. Cạnh tranh kinh tế - thương mại, giành giật
các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, nguồn vốn, công nghệ... giữa các
nước ngày càng gay gắt. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt và những
đột phá lớn.
Những
cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy
đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, những
tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên tiếp
tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Các mâu thuẫn lớn của
thời đại vẫn rất gay gắt. Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi các quốc gia và
các tổ chức quốc tế phối hợp giải quyết: khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm
nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn; sự gia tăng dân số cùng với các luồng
dân di cư; tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, môi
trường tự nhiên bị huỷ hoại; khí hậu diễn biến ngày càng xấu, kèm theo những
thiên tai khủng khiếp; các dịch bệnh lớn, các tội phạm xuyên quốc gia có chiều
hướng tăng.
Ở khu
vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng, xu thế hoà
bình, hợp tác và phát triển tiếp tục gia tăng, nhưng luôn tiềm ẩn những nhân tố
gây mất ổn định như: tranh chấp về ảnh hưởng và quyền lực, về biên giới, lãnh
thổ, biển đảo, tài nguyên giữa các nước; những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã
hội ở một số nước...
Trong
nước, những thành tựu 5 năm qua (2001 - 2005) và 20 năm đổi mới (1986 - 2006)
làm cho thế và lực nước ta lớn mạnh lên nhiều so với trước. Việc mở rộng quan
hệ hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững môi
trường hoà bình tạo thêm nhiều thuận lợi cho nhân dân ta đổi mới, phát triển
kinh tế - xã hội với tốc độ nhanh hơn.
Tuy
nhiên, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động
tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào.
Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí là nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa
được khắc phục. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến
hoà bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ",
"nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Những
năm tới, đất nước ta có cơ hội lớn để tiến lên, tuy khó khăn còn nhiều. Đòi hỏi
bức bách của toàn dân tộc lúc này là phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách
thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, phát triển nhanh và bền
vững hơn.
Mục
tiêu và phương hướng tổng quát 5 năm 2006 - 2010:
Năm
năm 2006 - 2010 có ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thành Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI do Đại hội IX của Đảng đề ra.
Mục
tiêu và phương hướng tổng quát của 5 năm 2006 - 2010 là: nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Phấn
đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn
với phát triển con người. Đến năm 2010, tổng sản phẩm trong nước (GDP) gấp hơn
2,1 lần so với năm 2000. Trong 5 năm 2006 - 2010, mức tăng trưởng GDP bình quân
đạt 7,5 - 8%/năm, phấn đấu đạt trên 8%/năm.
III- TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA
1. Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta là:
Thực
hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh"; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao
đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên
làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
Phát
triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục...,
giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện
chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời
theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
Phát
huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền
kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2. Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước
Nhà
nước tập trung làm tốt các chức năng:
Định
hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính
sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Đổi mới căn bản công
tác quy hoạch, kế hoạch phù hợp yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy tối đa mọi lợi thế
so sánh của quốc gia, vùng và địa phương, thu hút mọi nguồn lực tham gia phát
triển kinh tế - xã hội.
Tạo
môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực
của xã hội cho phát triển, các chủ thể hoạt động kinh doanh bình đẳng, cạnh
tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, có trật tự, kỷ cương.
Hỗ
trợ phát triển, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng,
hệ thống an sinh xã hội.
Bảo
đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro
và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
Tác
động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh
tế; đồng thời sử dụng kịp thời có hiệu quả một số biện pháp cần thiết khi thị
trường trong nước hoạt động không có hiệu quả hoặc thị trường khu vực và thế
giới có biến động lớn.
Thực
hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành
chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Tách chức năng quản lý hành
chính của Nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, xoá bỏ
"chế độ chủ quản"; tách hệ thống cơ quan hành chính công khỏi hệ
thống cơ quan sự nghiệp; phát triển mạnh các dịch vụ công cộng (giáo dục, khoa
học và công nghệ, y tế, văn hoá, thể dục thể thao).
Tiếp
tục đổi mới chính sách tài chính và tiền tệ, bảo đảm tính ổn định và sự phát
triển bền vững của nền tài chính quốc gia.
Phân
định rõ chức năng, mối quan hệ giữa Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành, uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong quản lý nhà nước về
kinh tế và xã hội.
3. Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị
trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh
Phát
triển thị trường hàng hoá và dịch vụ. Thu hẹp những lĩnh vực Nhà nước độc quyền
kinh doanh, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giá.
Phát triển mạnh thương mại trong nước; tăng nhanh xuất khẩu, nhập khẩu. Đẩy
mạnh tự do hoá thương mại phù hợp các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo
bước phát triển mới, nhanh và toàn diện thị trường dịch vụ, nhất là những dịch
vụ cao cấp, có hàm lượng trí tuệ cao, giá trị gia tăng lớn.
Phát
triển vững chắc thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền
tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh. Mở rộng và nâng cao chất lượng
hoạt động của thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Huy động mọi nguồn vốn
trong xã hội cho đầu tư phát triển. Hiện đại hoá và đa dạng hoá các hoạt động
của thị trường tiền tệ. Xây dựng các ngân hàng thương mại nhà nước vững mạnh về
mọi mặt. Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo lộ trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Phát
triển thị trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động
sản gắn liền với đất: bảo đảm quyền sử dụng đất chuyển thành hàng hoá một cách
thuận lợi, làm cho đất đai thực sự trở thành nguồn vốn cho phát triển, thị
trường bất động sản trong nước có sức cạnh tranh so với thị trường khu vực, có
sức hấp dẫn các nhà đầu tư. Thực hiện công khai, minh bạch và tăng cường tính
pháp lý, kỷ luật, kỷ cương trong quản lý đất đai. Nhà nước điều tiết giá đất
bằng quan hệ cung - cầu về đất đai và thông qua các chính sách về thuế có liên
quan đến đất đai. Nhà nước vừa quản lý tốt thị trường bất động sản vừa là nhà
đầu tư bất động sản lớn nhất. Hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh doanh bất
động sản.
Phát
triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung -
cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học nghề, tự tạo
và tìm việc làm. Có chính sách ưu đãi các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động,
nhất là ở khu vực nông thôn. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đặc biệt là xuất khẩu
lao động đã qua đào tạo nghề, lao động nông nghiệp. Hoàn thiện cơ chế, chính
sách tuyển chọn và sử dụng lao động trong khu vực kinh tế nhà nước và bộ máy
công quyền. Đa dạng hoá các hình thức giao dịch việc làm; phát triển hệ thống
thông tin về thị trường sức lao động trong nước và thế giới. Có chính sách nhập
khẩu lao động có chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ và quản lý ở những
ngành, nghề cần ưu tiên phát triển.
Xây
dựng hệ thống luật pháp về lao động và thị trường sức lao động nhằm bảo đảm
quyền lựa chọn chỗ làm việc và nơi cư trú của người lao động; thực hiện rộng
rãi chế độ hợp đồng lao động; bảo đảm quyền lợi của cả người lao động và người
sử dụng lao động.
Phát
triển thị trường khoa học và công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để
phần lớn sản phẩm khoa học và công nghệ (trừ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục
vụ xây dựng đường lối, chiến lược, chính sách phát triển) trở thành hàng hoá.
Thông tin rộng rãi và tạo môi trường cạnh tranh để các sản phẩm khoa học và
công nghệ được mua bán thuận lợi trên thị trường. Chuyển các tổ chức nghiên cứu
và phát triển thuộc nhiều loại hình sở hữu sang hoạt động theo cơ chế doanh
nghiệp.
4. Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất
kinh doanh
Trên
cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức
sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là
bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất
quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và
điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực
của nền kinh tế.
Doanh
nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ
biến, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu.
Xoá
bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu; Nhà nước chỉ thực hiện sự ưu
đãi hoặc hỗ trợ phát triển đối với một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm; một số mục
tiêu như xuất khẩu, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, khắc phục rủi ro; một số
địa bàn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thực
hiện Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp. Xây dựng một hệ thống
doanh nghiệp Việt Nam nhiều về số lượng, có sức cạnh tranh cao, có thương hiệu
uy tín, trong đó chủ lực là một số tập đoàn kinh tế lớn dựa trên hình thức cổ
phần. Nhà nước định hướng, tạo môi trường để phát triển có hiệu quả các doanh
nghiệp theo cơ chế thị trường; bồi dưỡng, đào tạo và tôn vinh các doanh nhân có
tài, có đức và thành đạt.
Tiếp
tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
Hoàn
thiện cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp nhà nước thực sự hoạt động trong
môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả. Xoá bỏ độc
quyền và đặc quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp
nhà nước có quyền tài sản, thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên thị trường
và trước pháp luật. Gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của người quản lý
doanh nghiệp với kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Chăm lo đào tạo đội ngũ
quản trị giỏi đáp ứng tốt yêu cầu quản lý công ty theo chế độ hiện đại.
Đẩy
mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, trọng
tâm là cổ phần hoá. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung chủ yếu vào một
số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng
của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích. Đẩy mạnh và mở rộng diện cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nước, kể cả các tổng công ty nhà nước. Việc xác định giá
trị doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, kể cả giá trị quyền sử dụng đất,
phải theo cơ chế thị trường. Đề phòng và khắc phục những lệch lạc, tiêu cực
trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Thúc
đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực, có sự tham
gia cổ phần của Nhà nước, của tư nhân trong và ngoài nước, các công ty bảo
hiểm, các quỹ đầu tư..., trong đó Nhà nước giữ cổ phần chi phối.
Tiếp
tục đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập thể
Tổng
kết thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể khuyến khích phát triển mạnh
hơn các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ
chức sản xuất kinh doanh, bao gồm các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới. Chú
trọng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, liên hiệp
hợp tác xã cổ phần.
Khuyến
khích việc tăng vốn góp và các nguồn vốn huy động từ thành viên để tăng nguồn
vốn hoạt động của hợp tác xã, tăng vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản và quỹ
không chia trong hợp tác xã.
Hợp
tác xã và các loại hình kinh tế hợp tác hoạt động theo các nguyên tắc: hợp tác
tự nguyện; dân chủ, bình đẳng và công khai; tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng
có lợi; hợp tác và phát triển cộng đồng.
Phát
triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân
Mọi
công dân có quyền tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh với quyền sở hữu
tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ; có quyền bình đẳng
trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội, nguồn lực kinh doanh, thông tin
và nhận thông tin.
Xoá
bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các
loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi
ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền
kinh tế mà pháp luật không cấm.
Thu
hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài
Cải
thiện môi trường pháp lý và kinh tế, đa dạng hoá các hình thức và cơ chế để thu
hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào những ngành nghề, lĩnh vực
kinh doanh quan trọng.
IV- ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI
THỨC
Tranh
thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước
ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là
yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển
mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri
thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri
thức mới nhất của nhân loại. Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng
kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương,
trong từng dự án kinh tế - xã hội.
Xây
dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ. Giảm
chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành, lĩnh vực,
nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
Đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ
các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân
Chuyển
dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia
tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ
khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh
tranh, phù hợp đặc điểm từng vùng, từng địa phương. Tăng nhanh tỉ trọng giá trị
sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỉ trọng sản
phẩm và lao động nông nghiệp. Sớm khắc phục tình trạng manh mún về đất canh tác
của các hộ nông dân, khuyến khích việc dồn điền đổi thửa, cho thuê, góp vốn cổ
phần bằng đất; phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và
chăn nuôi tập trung, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình thành các
ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm có thị
trường và hiệu quả kinh tế cao.
Thực
hiện tốt chương trình bảo vệ và phát triển rừng; đổi mới chính sách giao đất,
giao rừng, bảo đảm cho người làm nghề rừng có cuộc sống ổn định và được cải
thiện. Phát triển rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến lâm sản có công
nghệ hiện đại.
Phát
triển đồng bộ và có hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và bảo vệ nguồn lợi
thuỷ sản. Coi trọng khâu sản xuất và cung cấp giống tốt, bảo vệ môi trường, mở
rộng thị trường trong nước và xuất khẩu.
Tăng
cường các hoạt động khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư, công tác
thú y, bảo vệ thực vật và các dịch vụ kỹ thuật khác ở nông thôn. Chuyển giao
nhanh và ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất
nông nghiệp; chú trọng các khâu giống, kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, công nghệ
sau thu hoạch và công nghệ chế biến.
Khẩn
trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn. Thực hiện chương trình xây
dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn
minh, môi trường lành mạnh. Hình thành các khu dân cư đô thị hoá với kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội đồng bộ như: thuỷ lợi, giao thông, điện, nước sạch, cụm
công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ. Phát huy dân chủ ở nông thôn
đi đôi với xây dựng nếp sống văn hoá, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ
nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan; bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Chú
trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các vùng sử dụng
đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao thông, các khu
đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỉ
trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động làm công nghiệp và dịch
vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông
thôn, kể cả ở nước ngoài. Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xoá đói giảm
nghèo, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số.
Phát
triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
Khuyến
khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp
phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất
khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu
kinh tế, nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Khuyến
khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển mạnh các
ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, sản xuất tư liệu sản
xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn
kinh tế lớn nước ngoài và các công ty lớn xuyên quốc gia.
Khẩn
trương thu hút vốn trong và ngoài nước để đầu tư thực hiện một số dự án quan
trọng về khai thác dầu khí, lọc dầu và hoá dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá
chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng. Có chính sách hạn chế xuất khẩu tài
nguyên thô. Thu hút những chuyên gia giỏi, cao cấp của nước ngoài và trong cộng
đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Trên
cơ sở bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch, huy động các nguồn lực trong và ngoài
nước để xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là sân bay quốc
tế, cảng biển, đường cao tốc, đường ven biển, đường đông tây, mạng lưới cung
cấp điện, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở các đô thị lớn, hệ thống thuỷ
lợi, cấp thoát nước. Phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với công nghệ
tiết kiệm năng lượng. Tăng nhanh năng lực và hiện đại hoá bưu chính - viễn
thông.
Tạo
bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất
lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh, đưa tốc độ tăng trưởng của các
ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Phát triển mạnh và nâng cao chất
lượng một số ngành: vận tải, thương mại, du lịch, tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, bưu chính - viễn thông, tư vấn...
Phát
triển kinh tế vùng
Có cơ
chế, chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước cùng phát triển, đồng thời
tạo sự liên kết giữa các vùng và nội vùng.
Thúc
đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực, tác động lan toả đến
các vùng khác; đồng thời tạo điều kiện phát triển nhanh hơn cho các vùng kinh
tế đang còn nhiều khó khăn, đặc biệt là các vùng biên giới, hải đảo, Tây
Nguyên, Tây Nam, Tây Bắc.
Phát
triển kinh tế biển
Xây
dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm,
trọng điểm; sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu
vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. Phát triển hệ
thống cảng biển, vận tải biển, khai thác và chế biến dầu khí, hải sản, dịch vụ
biển; đẩy nhanh ngành công nghiệp đóng tàu biển và công nghiệp khai thác, chế
biến hải sản. Phát triển mạnh, đi trước một bước một số vùng kinh tế ven biển
và hải đảo.
Chuyển
dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ
Phát
triển nguồn nhân lực, bảo đảm đến năm 2010 có nguồn nhân lực với cơ cấu đồng bộ
và chất lượng cao; tỉ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp còn dưới 50% lực
lượng lao động xã hội.
Phát
triển khoa học và công nghệ phù hợp xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng
khoa học và công nghệ. Lựa chọn và đi ngay vào công nghệ hiện đại ở một số lĩnh
vực then chốt. Chú trọng phát triển công nghệ cao để tạo đột phá và công nghệ
sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm.
Bảo
vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên
Tăng
cường quản lý tài nguyên quốc gia, nhất là các tài nguyên đất, nước, khoáng sản
và rừng.
Ngăn
chặn các hành vi huỷ hoại và gây ô nhiễm môi trường, khắc phục tình trạng xuống
cấp môi trường ở các lưu vực sông, đô thị, khu công nghiệp, làng nghề, nơi đông
dân cư và có nhiều hoạt động kinh tế. Từng bước sử dụng công nghệ sạch, năng
lượng sạch.
Tích
cực phục hồi môi trường và các hệ sinh thái bị phá huỷ. Tiếp tục phủ xanh đất
trống, đồi núi trọc, bảo vệ đa dạng sinh học. Quan tâm đầu tư cho lĩnh vực môi
trường, nhất là các hoạt động thu gom, tái chế và xử lý chất thải.
Hoàn
chỉnh luật pháp, tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ và cải thiện môi trường
tự nhiên.
Từng
bước hiện đại hoá công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng - thuỷ văn; chủ động
phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn.
V- NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO, KHOA HỌC VÀ CÔNG
NGHỆ, PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Giáo
dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền
tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1. Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao
Nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội
dung, phương pháp dạy và học; thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội
hoá", chấn hưng nền giáo dục Việt Nam.
Chuyển
dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập
với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học,
ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình
thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên; tạo
nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng xã hội
trong giáo dục.
Đổi
mới mạnh mẽ giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông. Khẩn trương điều chỉnh,
khắc phục tình trạng quá tải và thực hiện nghiêm túc chương trình giáo dục và
sách giáo khoa phổ thông bảo đảm tính khoa học, cơ bản, phù hợp tâm lý lứa tuổi
và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Kết hợp việc tổ chức phân ban với tự chọn ở
trung học phổ thông trên cơ sở làm tốt công tác hướng nghiệp và phân luồng từ
trung học cơ sở. Bảo đảm đúng tiến độ và chất lượng phổ cập giáo dục.
Phát
triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo cao đẳng
nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế động lực và cho
việc xuất khẩu lao động. Mở rộng mạng lưới cơ sở dạy nghề, phát triển trung tâm
dạy nghề quận, huyện. Tạo chuyển biến căn bản về chất lượng dạy nghề, tiếp cận
với trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới. Đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến
khích phát triển các hình thức dạy nghề đa dạng, linh hoạt: dạy nghề ngoài công
lập, tại doanh nghiệp, tại làng nghề...; tạo điều kiện thuận lợi cho người lao
động học nghề, lập nghiệp. Tổ chức dạy nghề, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ
sản xuất phù hợp cho nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số.
Đổi
mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng, trực
tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất
lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, trọng
dụng nhân tài; nhanh chóng xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý về ngành nghề,
trình độ đào tạo, dân tộc, vùng miền...; có cơ chế và chính sách gắn kết có
hiệu quả trường đại học với cơ sở nghiên cứu khoa học và doanh nghiệp để chuyển
giao kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Xây dựng
một số trường đại học trọng điểm đạt trình độ khu vực và quốc tế.
Bảo
đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học,
bậc học. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, phát huy tính tích cực,
sáng tạo của người học, khắc phục lối truyền thụ một chiều. Hoàn thiện hệ thống
đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục. Cải tiến nội dung và phương pháp thi
cử nhằm đánh giá đúng trình độ tiếp thu tri thức, khả năng học tập. Khắc phục
những mặt yếu kém và tiêu cực trong giáo dục.
Thực
hiện xã hội hoá giáo dục. Huy động nguồn lực vật chất và trí tuệ của xã hội
tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục. Phối hợp chặt chẽ giữa ngành giáo dục với
các ban, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp... để mở
mang giáo dục, tạo điều kiện học tập cho mọi thành viên trong xã hội. Tăng
cường thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động giáo dục.
Đổi
mới cơ chế quản lý giáo dục. Phân cấp, tạo động lực và sự chủ động của các cơ
sở, các chủ thể tiến hành giáo dục. Nhà nước tăng đầu tư tập trung cho các mục
tiêu ưu tiên, các chương trình quốc gia phát triển giáo dục, hỗ trợ các vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; thực hiện
việc miễn giảm đóng góp và cấp học bổng cho học sinh nghèo, các đối tượng chính
sách, học sinh giỏi.
Tăng
cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Tiếp cận chuẩn mực giáo dục tiên
tiến của thế giới phù hợp với yêu cầu phát triển của Việt Nam; tham gia đào tạo
nhân lực khu vực và thế giới. Có cơ chế quản lý phù hợp đối với các trường do
nước ngoài đầu tư hoặc liên kết đào tạo.
2. Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của khoa học và công nghệ
Phấn
đấu đến năm 2010, năng lực khoa học và công nghệ nước ta đạt trình độ của các
nước tiên tiến trong khu vực trên một số lĩnh vực quan trọng.
Phát
triển khoa học xã hội, tiếp tục góp phần làm sáng tỏ những nhận thức về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, giải đáp những vấn
đề mới của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bước đi công nghiệp
hoá, hiện đại hoá; những nguyên tắc, nội dung cơ bản của phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa; phát triển con người; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng trong giai đoạn mới,... Thường xuyên tổng kết thực tiễn để phát triển
lý luận; dự báo tình hình và xu thế phát triển của thế giới, khu vực và trong
nước; cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
Phát
triển khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ, tập trung nghiên cứu cơ bản định
hướng ứng dụng, đặc biệt các lĩnh vực Việt Nam có nhu cầu và thế mạnh. Đẩy mạnh
có chọn lọc việc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp công nghệ nội sinh để
nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ của các ngành có lợi thế
cạnh tranh, có tỉ trọng lớn trong GDP, các ngành công nghiệp bổ trợ và tạo
nhiều việc làm cho xã hội; phát triển công nghệ cao, nhất là công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới. Phát triển hệ thống thông
tin quốc gia về nhân lực và công nghệ.
Đổi
mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ theo hướng Nhà nước đầu tư vào các
chương trình nghiên cứu quốc gia đạt trình độ khu vực và thế giới, xây dựng
tiềm lực khoa học và công nghệ của một số lĩnh vực trọng điểm. Đa dạng hoá các
nguồn lực đầu tư cho khoa học và công nghệ, huy động các thành phần kinh tế
tham gia các hoạt động khoa học, công nghệ. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong
lĩnh vực khoa học và công nghệ. Nâng cao chất lượng và khả năng thương mại của
các sản phẩm khoa học và công nghệ; đẩy mạnh việc đổi mới công nghệ trong các
doanh nghiệp.
Nhà
nước khuyến khích các hoạt động sáng tạo, hoàn thiện và ứng dụng công nghệ mới,
thông qua các chính sách hỗ trợ phát triển, công nhận và bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ. Có chính sách hấp dẫn để các công ty xuyên quốc gia đầu tư và chuyển
giao công nghệ mới cho các doanh nghiệp Việt Nam. Chú trọng nhập khẩu công nghệ
hiện đại; từng bước phát triển mạnh công nghệ trong nước.
Trọng
dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ
thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Có chính sách thu
hút các nhà khoa học, công nghệ giỏi ở trong nước và ngoài nước, trong cộng
đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
VI- THỰC HIỆN TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI NGAY TRONG TỪNG BƯỚC VÀ TỪNG
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
Kết
hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng
lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ
sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo
động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung
giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc.
Khuyến
khích mọi người làm giàu theo luật pháp, thực hiện có hiệu quả các chính sách
xoá đói giảm nghèo. Tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng các nguồn lực
phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên thoát đói nghèo vững
chắc ở các vùng nghèo và các bộ phận dân cư nghèo. Khắc phục tư tưởng bao cấp,
ỷ lại.
Xây
dựng, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công cộng thiết
yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, tạo việc làm, chăm sóc
sức khoẻ, văn hoá - thông tin, thể dục thể thao...
Xây
dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đa dạng hoá các loại hình cứu
trợ xã hội, tạo việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, hướng tới xuất khẩu lao
động trình độ cao... Tiếp tục đổi mới chính sách tiền lương, chính sách phân
phối thu nhập.
Phát
triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm mọi người dân được chăm sóc
và bảo vệ sức khoẻ. Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư để nâng cấp các cơ sở y tế, y
tế dự phòng, xây dựng và hoàn thiện chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho
người hưởng chính sách xã hội và người nghèo trong khám, chữa bệnh. Phát triển
các dịch vụ y tế công nghệ cao và ngoài công lập.
Tăng
cường hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế. Có chiến lược, quy hoạch
và cơ chế, chính sách hợp lý để phát triển hệ thống sản xuất, lưu thông, phân
phối thuốc chữa bệnh; phát triển mạnh các ngành công nghiệp dược, thiết bị y tế
đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Kết hợp y học hiện đại với y học cổ
truyền.
Xây
dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người Việt Nam, tăng
tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi. Tăng cường thể lực của thanh niên.
Phát triển mạnh thể dục thể thao, kết hợp tốt thể thao phong trào và thể thao
thành tích cao, dân tộc và hiện đại. Có chính sách và cơ chế phù hợp để phát
hiện, bồi dưỡng và phát triển tài năng, đưa thể thao nước ta đạt vị trí cao của
khu vực, từng bước tiếp cận với châu lục và thế giới ở những bộ môn Việt Nam có
ưu thế...
Làm
tốt công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản. Thúc đẩy phong trào toàn xã hội chăm
sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi
trường an toàn, lành mạnh, phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ và đạo đức;
giảm nhanh tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Phòng chống HIV/AIDS bằng các biện pháp
mạnh mẽ, kiên trì và có hiệu quả.
Thực
hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình. Giảm tốc độ tăng dân
số. Tiếp tục duy trì kế hoạch giảm sinh và giữ mức sinh thay thế, bảo đảm quy
mô và cơ cấu dân số hợp lý, nâng cao chất lượng dân số. Phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những đòi hỏi của quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến
bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội,
là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con
người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chú
trọng các chính sách ưu đãi xã hội. Vận động toàn dân tham gia các hoạt động
đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những
người có công với nước, người hưởng chính sách xã hội. Chăm sóc đời sống vật
chất và tinh thần của người già, nhất là những người già cô đơn, không nơi
nương tựa. Giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, người tàn tật, trẻ mồ côi, lang
thang.
Đổi
mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng. Phát triển về
quy mô gắn với chất lượng và hiệu quả các dịch vụ công cộng, nâng cao năng lực
quản lý nhà nước, đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị công lập và huy động
mạnh mẽ mọi nguồn lực của xã hội. Nhà nước tiếp tục tăng nguồn lực, đầu tư tập
trung cho các chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục, y tế, văn hoá, thể
dục thể thao, dân số, gia đình, trẻ em...; quan tâm vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số; đồng thời phát huy tiềm năng trí tuệ và các nguồn
lực vật chất trong nhân dân, của toàn xã hội để cùng Nhà nước giải quyết các
vấn đề xã hội và chăm lo phát triển các dịch vụ công cộng.
Từng
bước chuyển các cơ sở công lập dịch vụ công cộng đang hoạt động theo cơ chế sự
nghiệp mang nặng tính hành chính bao cấp sang cơ chế tự chủ, không bao cấp tràn
lan và không vì mục tiêu lợi nhuận. Phát triển mạnh các cơ sở ngoài công lập
với hai loại hình dân lập và tư nhân. Chuyển một số cơ sở thuộc loại hình công
lập sang loại hình ngoài công lập. Khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước phát
triển các dịch vụ công cộng. Nhà nước cùng nhân dân tăng cường giám sát, thanh
tra, kiểm tra các hoạt động dịch vụ công cộng.
Công
khai mức phí tại các cơ sở dịch vụ công lập và ngoài công lập, chấm dứt các
khoản thu, chi không minh bạch và sai quy định, bảo đảm người làm dịch vụ có
chế độ thu nhập hợp lý, có lương tâm nghề nghiệp.
Thúc
đẩy các cơ sở công lập và ngoài công lập về dịch vụ công cộng phát triển cả về
quy mô và chất lượng, xây dựng một số cơ sở dịch vụ đạt trình độ tiên tiến
trong khu vực.
VII- PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ, NỀN TẢNG TINH THẦN CỦA XÃ HỘI
Tiếp
tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế
- xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Xây
dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập
kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh
viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản
lĩnh văn hoá con người Việt Nam.
Phát
huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân trong
đời sống văn hoá. Đa dạng hoá các hình thức hoạt động của phong trào "Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá". Phát huy tiềm năng, khuyến khích
sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng
và nghệ thuật. Xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hoá, chú
trọng công trình văn hoá lớn, tiêu biểu. Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ
thống nhà văn hoá, bảo tàng, nhà truyền thống, thư viện, phòng đọc, điểm bưu
điện - văn hoá xã, khu vui chơi, giải trí... Bảo vệ và phát huy giá trị của tài
liệu lưu trữ.
Tiếp
tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng
chiến, các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị văn
hoá, nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các dân tộc. Bảo
tồn và phát huy văn hoá, văn nghệ dân gian. Kết hợp hài hoà việc bảo vệ, phát
huy các di sản văn hoá với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch.
Tạo
điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại chúng phát triển, nâng cao
chất lượng tư tưởng và văn hoá, vươn lên hiện đại về mô hình, cơ cấu tổ chức và
cơ sở vật chất - kỹ thuật; đồng thời xây dựng cơ chế quản lý phù hợp, chủ động,
khoa học.
Bảo
đảm tự do, dân chủ cho mọi hoạt động sáng tạo văn hoá, văn học, nghệ thuật đi
đôi với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sĩ. Có chính sách trọng dụng
các tài năng văn hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của văn nghệ sĩ.
Đẩy mạnh hoạt động lý luận - phê bình văn học, nghệ thuật. Đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động và cơ cấu tổ chức của các hội văn học, nghệ thuật từ
trung ương đến địa phương.
Tăng
cường quản lý của Nhà nước về văn hoá. Xây dựng cơ chế, chính sách, chế tài ổn
định, phù hợp yêu cầu phát triển văn hoá trong thời kỳ mới. Tích cực mở rộng
giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hoá, chống sự xâm nhập của các loại văn hoá
phẩm độc hại, lai căng...
Phát
huy tính năng động, chủ động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể nhân dân, các hội văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí, các hộ
gia đình, cá nhân, các trí thức tham gia hoạt động trên các lĩnh vực văn hoá.
Xây dựng và triển khai chương trình giáo dục văn hoá - thẩm mỹ, nếp sống văn
minh, hiện đại trong nhân dân.
VIII- TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH, BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT NAM
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Xây
dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị,
an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự,
kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa,
đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị
động, bất ngờ.
Tiếp
tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng, an ninh cho cán bộ, công chức và cho toàn dân, có nội dung phù hợp với
từng đối tượng và đưa vào chương trình chính khoá trong các nhà trường theo cấp
học, bậc học. Chú trọng giáo dục thống nhất nhận thức về đối tượng và đối tác;
nắm vững đường lối, quan điểm, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới; nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần cảnh giác trong thực hiện nhiệm
vụ quốc phòng, an ninh. Giữ vững an ninh nội địa; giải quyết kịp thời các mâu
thuẫn, tranh chấp trong nhân dân; xây dựng "thế trận lòng dân" làm
nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân đội nhân
dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu và thủ
đoạn "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ. Coi trọng nhiệm vụ bảo
đảm an ninh chính trị nội bộ, nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của
từng tổ chức, cơ quan, đơn vị.
Kết
hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh
trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước. Xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân. Đẩy mạnh xây dựng các
khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Tiếp tục phát triển các khu kinh tế - quốc
phòng, xây dựng các khu quốc phòng - kinh tế với mục tiêu tăng cường quốc phòng
- an ninh là chủ yếu, tập trung vào các địa bàn trọng điểm chiến lược và những
khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo. Xây dựng công nghiệp quốc
phòng trong hệ thống công nghiệp quốc gia dưới sự chỉ đạo, quản lý điều hành
trực tiếp của Chính phủ, đầu tư có chọn lọc theo hướng hiện đại, vừa phục vụ
quốc phòng vừa phục vụ dân sinh.
Xây
dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại. Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ
trang thật sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung
thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu
mến. Đổi mới tổ chức, nội dung, phương pháp huấn luyện, đào tạo đi đôi với cải
tiến, đổi mới vũ khí, trang bị, phương tiện phù hợp với yêu cầu tác chiến mới;
phát triển khoa học quân sự, khoa học công an, nghệ thuật chiến tranh nhân dân;
cải tiến phương thức hoạt động của lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách
phối hợp với các tổ chức của nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm
trật tự an toàn xã hội.
Xây
dựng, bổ sung cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với hoạt
động quốc phòng, an ninh. Thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện
chế độ chính uỷ, chính trị viên, tăng cường công tác Đảng, công tác chính trị
trong quân đội. Bổ sung quy chế phối hợp hoạt động giữa quốc phòng, an ninh,
đối ngoại và các bộ, ngành có liên quan trong phân tích, dự báo tình hình và
làm tham mưu đề xuất các giải pháp thực hiện. Bổ sung, xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật, các chính sách xã hội có quan hệ đến nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh. Khẩn trương chỉ đạo xây dựng và ban hành các chiến lược quốc gia: Chiến
lược Quốc phòng, Chiến lược An ninh và các chiến lược chuyên ngành khác.
IX- MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC
TẾ
Thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát
triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ
quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp
tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế
và khu vực.
Nhiệm
vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện
quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đưa
các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Phát
triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ
chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe
dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng
hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Củng
cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các
phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tiếp tục mở
rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
Phát
triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm "chủ động, linh hoạt,
sáng tạo và hiệu quả". Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của
nhân dân thế giới. Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác
với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội.
Chủ
động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối thoại với
các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền.
Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề
"dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn
giáo" hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam.
Đẩy
mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể
chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm
mục tiêu cao nhất.
Chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược
phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Chuẩn bị tốt
các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa
phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN,
các nước châu Á - Thái Bình Dương... Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song
phương tin cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và
giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO).
Tiếp
tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ
sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn định và
minh bạch. Cải thiện môi trường đầu tư; thu hút các nguồn vốn FDI, ODA, đầu tư
gián tiếp, tín dụng thương mại và các nguồn vốn khác. Xác định đúng mục tiêu sử
dụng và đẩy nhanh việc giải ngân nguồn vốn ODA, cải tiến phương thức quản lý,
nâng cao hiệu quả sử dụng và có kế hoạch trả nợ đúng hạn; duy trì tỉ lệ vay nợ
nước ngoài hợp lý, an toàn.
Phát
huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư,
phát triển thị trường mới, sản phẩm mới và thương hiệu mới. Khuyến khích các
doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài và mạnh
dạn đầu tư ra nước ngoài.
Đẩy
mạnh công tác văn hoá - thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác,
tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước.
Chăm
lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vững
vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức
và phẩm chất tốt.
Tăng
cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại với sự tham gia và
phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học.
Bảo
đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với
các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại
giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại;
đối ngoại, quốc phòng và an ninh; thông tin đối ngoại và thông tin trong nước.
X- PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC, TIẾP TỤC ĐỔI MỚI PHƯƠNG
THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VÀ CÁC ĐOÀN THỂ NHÂN DÂN
Đại
đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến
lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố
có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó
đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài; xoá bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử
về quá khứ, thành phần giai cấp. Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái
với lợi ích của dân tộc. Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng
tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã
hội.
Đại
đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân
lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức,
trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu.
Đảng
thực hiện vai trò lãnh đạo của mình thông qua đường lối và chính sách, liên hệ
mật thiết với nhân dân. Nhà nước không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và
quản lý, tạo điều kiện để nhân dân được làm những việc mà pháp luật không cấm.
Nhà nước và nhân dân cùng nỗ lực phấn đấu cho sự phát triển của đất nước, kết
hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội.
Thực
hiện đồng bộ các chính sách và luật pháp của Nhà nước nhằm phát huy dân chủ
(dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và chế độ tự quản của cộng đồng dân cư) và
giữ vững kỷ cương trong xã hội. Tổ chức và động viên nhân dân tham gia các
phong trào thi đua yêu nước, làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế đi liền với
phát triển văn hoá - xã hội; mỗi người, mỗi hộ đều phấn đấu làm giàu cho mình, cho
cộng đồng và đất nước, thu nhập chính đáng, nâng cao đời sống. Chăm lo và bảo
vệ lợi ích của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội. Tôn trọng và
phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người tiêu biểu, có uy tín trong
cộng đồng dân cư, các dân tộc, các tôn giáo...
Đối
với giai cấp công nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao
giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là
lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Giải
quyết việc làm, giảm tối đa số công nhân thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực
hiện tốt chính sách và pháp luật về lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hộ lao động, chăm sóc, phục hồi sức khoẻ
đối với công nhân; chính sách ưu đãi nhà ở đối với công nhân bậc cao. Xây dựng
tổ chức, phát triển đoàn viên công đoàn, nghiệp đoàn đều khắp ở các cơ sở sản
xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Thường xuyên chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của công nhân và những
người lao động, chú trọng công nhân làm việc ở các khu công nghiệp và đô thị
lớn. Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên từ những công nhân ưu tú.
Đối
với giai cấp nông dân, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn, đưa công nghệ tiên tiến vào nông nghiệp, nông thôn. Thực
hiện tốt chính sách về ruộng đất. Tạo điều kiện thuận lợi để giúp nông dân
chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Khuyến khích nông dân hợp tác với các
doanh nghiệp, hợp tác xã, chủ trang trại để phát triển sản xuất, ổn định và cải
thiện đời sống. Tăng hiệu quả sử dụng đất, tiêu thụ nông sản hàng hoá. Hỗ trợ
và khuyến khích nông dân học nghề, tiếp nhận và áp dụng thành tựu khoa học,
công nghệ.
Đối
với trí thức, phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy dân
chủ, trọng dụng nhân tài. Khuyến khích các trí thức, các nhà khoa học phát
minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến
của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản
biện của các hội khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và văn học, nghệ thuật đối
với các dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
Đối
với doanh nhân, tạo điều kiện phát huy tiềm năng và vai trò tích cực trong phát
triển sản xuất kinh doanh; mở rộng đầu tư trong nước và ở nước ngoài; giải
quyết việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng sản phẩm; tạo dựng và
giữ gìn thương hiệu hàng hoá Việt Nam.
Đối
với thế hệ trẻ, thường xuyên giáo dục chính trị, truyền thống, lý tưởng, đạo
đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực,
trí tuệ, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khuyến khích thanh niên tự học,
tự nâng cao tay nghề, tự tạo việc làm. Chú trọng bồi dưỡng nguồn cán bộ, đào
tạo thanh niên trong lực lượng vũ trang có nghề khi hết thời hạn nghĩa vụ quân
sự. Tạo cơ hội cho thanh niên có tài năng đi học ở nước ngoài về phục vụ đất
nước. Thu hút rộng rãi thanh niên, thiếu niên và nhi đồng vào các tổ chức do
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm nòng cốt và phụ trách.
Đối
với phụ nữ, nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần, thực
hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công
dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng,
đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ
quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp. Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em.
Bổ sung và hoàn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, thai
sản, chế độ đối với lao động nữ. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội,
các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.
Đối
với cựu chiến binh, phát huy truyền thống "bộ đội Cụ Hồ", tích cực
tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền và chế độ xã hội chủ nghĩa. Động
viên cựu chiến binh giúp nhau cải thiện đời sống, xoá đói giảm nghèo, góp phần
giáo dục lòng yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ; thực
hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí và các tệ nạn xã hội; tham gia xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, xây
dựng Đảng, chính quyền ở cơ sở trong sạch, vững mạnh.
Đối
với người cao tuổi, chăm sóc sức khoẻ, tạo điều kiện để hưởng thụ văn hoá, được
thông tin, sống vui, sống khoẻ, sống hạnh phúc. Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm
sống, lao động, chiến đấu của người cao tuổi trong xã hội và gia đình. Xây dựng
gia đình "ông bà, cha mẹ mẫu mực, cháu con hiếu thảo". Giúp đỡ người
cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa vượt qua khó khăn trong cuộc sống.
Vấn
đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp
cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói
giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá,
tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới, vùng căn cứ cách mạng; làm tốt công tác định canh, định cư và xây dựng
vùng kinh tế mới. Quy hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh
tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; động viên, phát huy vai trò
của những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên trong
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác
ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán,
tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện
kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc.
Đồng
bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện
nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc
không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo
pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức
tốt đẹp của các tôn giáo. Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc
tôn giáo sống "tốt đời, đẹp đạo". Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt
động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Thực hiện tốt các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của đồng bào
các tôn giáo. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn
giáo. Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước, vi phạm
quyền tự do tôn giáo của công dân.
Đồng
bào định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng
đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp
tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước. Nhà nước tạo điều kiện
thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, chấp hành tốt pháp luật các
nước sở tại; bảo vệ quyền lợi chính đáng của đồng bào. Làm tốt công tác thông
tin trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về tình hình trong nước và các
chủ trương, chính sách của Nhà nước. Có chính sách khuyến khích người Việt Nam,
trí thức Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương, góp phần xây dựng đất nước;
khen thưởng những người có nhiều thành tích đóng góp cho Tổ quốc.
Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong
việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho
quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh
vào cuộc sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận trong xã hội.
Nhà
nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò
giám sát và phản biện xã hội. Các cấp uỷ đảng và cấp chính quyền có chế độ tiếp
xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; thường xuyên lắng nghe ý kiến của Mặt
trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh với Đảng, Nhà nước những vấn đề mà nhân
dân quan tâm, tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật. Thực hiện tốt
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quy chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các đoàn
thể và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống
chính trị.
Đổi
mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và các hội
quần chúng, khắc phục tình trạng hành chính hoá, phô trương, hình thức; làm tốt
công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần dân và có trách nhiệm với dân.
XI- PHÁT HUY DÂN CHỦ, TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Phát huy dân chủ
Dân
chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân
dân. Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức
thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của
nhân dân.
Xây
dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thực sự
là công bộc của nhân dân. Xác định các hình thức tổ chức và có cơ chế để nhân
dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước đối với nhân dân. Bộ máy
nhà nước, các thiết chế khác trong hệ thống chính trị có nhiệm vụ đề xuất ý
kiến với Đảng trong quá trình xây dựng, hoạch định và tổ chức thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng.
2. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Xây
dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên
tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính
cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện
cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết
định của các cơ quan công quyền.
Tiếp
tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm
nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu chuyên
trách, phát huy tốt hơn vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc hội. Tổ chức
lại một số Uỷ ban của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân
tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm
mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao.
Đẩy
mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng
xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại. Luật hoá
cơ cấu, tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo
đảm tinh gọn và hợp lý. Phân cấp mạnh, giao quyền chủ động hơn nữa cho chính
quyền địa phương, nhất là trong việc quyết định về ngân sách, tài chính, đầu
tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Trung ương.
Xây
dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo
vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt
động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra.
Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Nâng
cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân, bảo đảm
quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi
được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của hội đồng nhân dân. Tổ chức hợp lý
chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối với chính quyền ở nông
thôn, đô thị, hải đảo.
Thực
hiện các giải pháp nhằm chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của cơ quan, cán
bộ, công chức. Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng theo
yêu cầu nâng cao chất lượng cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Thực hiện chế
độ trách nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo theo hướng cấp trưởng
giới thiệu cấp phó, cấp sử dụng trực tiếp giới thiệu để cấp có thẩm quyền xem
xét, quyết định. Có cơ chế kịp thời đưa ra khỏi bộ máy nhà nước những công chức
không xứng đáng, kém phẩm chất và năng lực.
3. Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí
Toàn
Đảng, toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội phải có quyết tâm chính trị cao
đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, quy định
về quản lý kinh tế - tài chính, quản lý tài sản công, ngân sách nhà nước, các
quỹ do nhân dân đóng góp và do nước ngoài viện trợ; về thanh tra, giám sát,
kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát. Đẩy mạnh cải cách hành chính; thực hiện cơ chế
giám sát của nhân dân, thông qua các đại diện trực tiếp và gián tiếp, đối với
đảng viên, công chức, cơ quan, đơn vị. Bảo đảm công khai, minh bạch các hoạt
động kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ
công và doanh nghiệp nhà nước. Tiếp tục đổi mới chế độ tiền lương đối với cán
bộ, công chức.
Khẩn
trương và nghiêm chỉnh thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí. Bổ sung, hoàn thiện Luật Khiếu nại và tố cáo.
Xử lý
kiên quyết, kịp thời, công khai những người tham nhũng, bất kể ở chức vụ nào,
đương chức hay đã nghỉ hưu, tịch thu, sung công tài sản có nguồn gốc từ tham
nhũng; những người bao che cho tham nhũng, cố tình ngăn cản việc chống tham
nhũng hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, làm hại người khác, gây
mất đoàn kết nội bộ. Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người tích cực đấu
tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Biểu dương và nhân rộng những gương cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư.
Hoàn
thiện cơ chế dân chủ, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; phát huy vai trò
của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân
dân trong việc giám sát cán bộ, công chức và cơ quan công quyền, phát hiện, đấu
tranh với các hiện tượng tham nhũng. Đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế về phòng,
chống tham nhũng.
Các
cấp uỷ và tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân, cán bộ
lãnh đạo, trước hết là cán bộ cấp cao, phải trực tiếp tham gia và đi đầu trong
việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
XII- ĐỔI MỚI, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG, NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU
CỦA ĐẢNG
Đảng
Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Trong
những năm tới, phải dành nhiều công sức tạo được chuyển biến rõ rệt về xây dựng
Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính tiên
phong của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có
phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và
năng lực. Đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
1. Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng
Kiên
định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ
sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra.
Nâng
cao trình độ trí tuệ, chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp tục làm sáng
tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối, chính sách của Đảng trong
thời kỳ mới.
Đổi
mới công tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng trong Đảng, trước hết cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt các cấp; đổi mới nội dung, phương pháp
học tập và giảng dạy trong hệ thống trường chính trị, nâng cao tính thiết thực
và hiệu quả của chương trình.
Củng
cố, nâng cao chất lượng các cơ quan chuyên ngành về công tác tư tưởng, lý luận.
Tăng cường số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ tư tưởng, lý luận, nhất là cán
bộ chủ chốt. Tiến hành đồng bộ công tác tư tưởng, công tác lý luận, gắn với
công tác tổ chức - cán bộ và phát triển kinh tế; chống sự suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối,
quan điểm của Đảng; phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch.
2. Kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên
Mỗi
tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm tổ chức và quy tụ sức mạnh của toàn đơn vị
hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao; làm tốt công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng, quản lý và giám sát đảng viên; đấu tranh chống những biểu hiện tiêu
cực, suy thoái trong Đảng. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ đảng.
Kiện
toàn hệ thống tổ chức cơ sở đảng. Xác định vị thế pháp lý, thể chế hoá về mặt
nhà nước vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các loại hình cơ sở. Chú ý xây dựng
tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ở vùng sâu, vùng xa. Tập trung củng cố các cơ
sở yếu kém.
Xây
dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất, đạo đức
cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; kiên định
lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng; năng động,
sáng tạo, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách.
Đảng
viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà
nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung
ương.
Sớm
có quy định và chỉ đạo thực hiện, bảo đảm vừa phát huy khả năng làm kinh tế của
đảng viên, vừa giữ được tư cách đảng viên và bản chất của Đảng.
Phân
công đảng viên đúng người, đúng việc, tạo điều kiện để đảng viên hoàn thành
nhiệm vụ. Thường xuyên tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng. Động viên
quần chúng giám sát, nhận xét, góp ý kiến với đảng viên. Kịp thời đưa ra khỏi
Đảng những người không đủ tư cách.
Nâng
cao chất lượng đội ngũ đảng viên gắn với việc nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở
đảng. Đẩy mạnh và bảo đảm chất lượng công tác phát triển Đảng. Chú trọng trẻ
hoá và nâng cao trình độ của đảng viên; lấy đạo đức làm gốc, đồng thời bồi
dưỡng về kiến thức, trí tuệ, năng lực để làm tròn nhiệm vụ người lãnh đạo,
người đi tiên phong trong các lĩnh vực công tác được giao.
3. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; tăng
cường quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát
Phát
huy dân chủ đi đôi với giữ gìn kỷ luật trong Đảng. Mọi cán bộ, đảng viên có
quyền tham gia quyết định công việc của Đảng; quyền được thông tin, thảo luận,
tranh luận, nêu ý kiến riêng, bảo lưu ý kiến trong tổ chức; khi Đảng đã có nghị
quyết thì phải nói và làm theo nghị quyết.
Lãnh
đạo các cấp phải lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của đảng viên và nhân dân. Xây
dựng quy chế ra quyết định của Đảng, bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể; có cơ
chế để nhân dân bày tỏ ý kiến đối với những quyết định lớn, tham gia các công
việc của Đảng; khắc phục lối làm việc quan liêu, xa dân.
Hoàn
thiện quy chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của tập thể đối với cá nhân, của
tổ chức đối với tổ chức, của cá nhân đối với cá nhân và tổ chức, kể cả đối với
người lãnh đạo chủ chốt và tổ chức cấp trên. Kết hợp giám sát trong Đảng với
giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân.
Xây
dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương,
chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với
công tác tổ chức và cán bộ.
Đổi
mới phương pháp kiểm tra và bổ sung chức năng giám sát cho uỷ ban kiểm tra đảng
các cấp. Tăng cường công tác kiểm tra, phòng ngừa. Xây dựng quy chế phối hợp
công tác giữa Uỷ ban Kiểm tra của Đảng với Thanh tra của Chính phủ.
4. Đổi mới tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ
Sắp
xếp, đổi mới tổ chức, bộ máy của Đảng, đặc biệt là các ban đảng, ban cán sự
đảng, đảng uỷ khối ở Trung ương và các địa phương gắn với kiện toàn tổ chức, bộ
máy của cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, bảo đảm tinh gọn,
hoạt động thiết thực, hiệu quả. Khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lặp;
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan và người đứng đầu không
rõ. Tổ chức các cơ quan tham mưu của Đảng có chất lượng cao, đồng thời phát huy
vai trò của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên hoạt động trong các
cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Cải
tiến lề lối làm việc, nâng cao chất lượng nghiên cứu, đề xuất, tham mưu, hướng
dẫn, kiểm tra của các cơ quan tham mưu của Đảng. Tăng cường sự phối hợp giữa
các ban cán sự đảng, đảng đoàn với cấp uỷ địa phương.
Cán
bộ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc,
với Đảng, hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh
chính trị vững vàng, không dao động trước những khó khăn, thử thách; có năng
lực hoàn thành nhiệm vụ được giao; có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong
sáng; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân.
Xây
dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt, xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng. Chú ý đào tạo cán bộ nữ, cán bộ các dân tộc
thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, chuyên gia trên các lĩnh vực; bồi
dưỡng nhân tài theo định hướng quy hoạch. Đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cấp cao.
Đổi
mới mạnh mẽ công tác cán bộ, bảo đảm thật sự dân chủ, khoa học, công minh. Xây
dựng và hoàn thiện chế độ bầu cử, cơ chế bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ; mở rộng
quyền đề cử và tự ứng cử, giới thiệu nhiều phương án nhân sự để lựa chọn.
Có cơ
chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi
ngộ xứng đáng người có đức, có tài; thay thế kịp thời những người kém năng lực
và kém phẩm chất, có khuyết điểm nghiêm trọng.
Khắc
phục những biểu hiện cá nhân, cục bộ, không công tâm, nể nang, tuỳ tiện trong
công tác cán bộ.
Cụ
thể hoá và thể chế hoá nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của tổ chức và người
đứng đầu của tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.
5. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
Việc
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế; thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Tập
trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà
nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết; lãnh đạo thể chế hoá, cụ thể
hoá thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn của Nhà
nước; bố trí đúng cán bộ và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện.
Đảng
lãnh đạo nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước; trái lại, phát huy mạnh mẽ vai
trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội.
Khẩn
trương xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc, nội
dung và cơ chế Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước trong từng lĩnh vực: lập pháp,
hành pháp, tư pháp và từng cấp, từng loại hình tổ chức nhà nước.
Đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể xác định đúng mục tiêu, phương
hướng hoạt động; đồng thời, phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo trong xây dựng,
đổi mới tổ chức và hoạt động của mình.
Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống
chính trị, thực hiện luân chuyển cán bộ, khắc phục tình trạng khép kín, cục bộ
về cán bộ. Tăng cường trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là thủ trưởng cơ quan
nhà nước. Cơ quan nào vi phạm chính sách, pháp luật, để xảy ra tình trạng tiêu
cực, mất đoàn kết nội bộ thì người đứng đầu phải chịu trách nhiệm.
Đổi
mới phương thức lãnh đạo gắn với đổi mới phong cách và lề lối làm việc thật sự
dân chủ, thiết thực, nói đi đôi với làm.
*
* *
* *
Đất
nước ta ngày càng lớn mạnh. Thế giới đang thay đổi rất nhanh. Nước ta phải sớm
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhân dân ta phải được hưởng
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Đại
hội X của Đảng nêu cao ý chí sắt đá của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta,
triệu người như một, năng động và sáng tạo, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách
thức, quyết tâm đổi mới toàn diện và mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ nghĩa,
nhằm thực hiện bằng được mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh", sánh vai cùng các nước trên thế giới trong nhịp bước
khẩn trương của thời đại.
Báo cáo này kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ
IX của Đảng về Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2001 - 2005 và đề ra Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 nhằm thực hiện thắng
lợi Chiến lược 10 năm 2001 - 2010, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Phần thứ nhất
KIỂM ĐIỂM VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI LẦN THỨ
IX CỦA ĐẢNG VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI 5 NĂM 2001 - 2005
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 được triển
khai thực hiện trong tình hình chính trị, xã hội nước ta cơ bản ổn định, sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và thực lực nền kinh tế tiếp tục được tăng
cường, quan hệ quốc tế không ngừng mở rộng, những tác động tiêu cực của khủng
hoảng kinh tế - tài chính khu vực năm 1997 đã được khắc phục.
Tuy nhiên, những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị và an ninh
quốc tế, sự phục hồi chậm của nền kinh tế
thế giới và những biến động giá cả trên thị trường quốc tế, nạn dịch bệnh mới
xuất hiện, những diễn biến phức tạp về thời tiết và khí hậu, sự chống
phá của các thế lực thù địch đã gây nhiều khó khăn cho việc thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã
nỗ lực phấn đấu thực hiện các nhiệm vụ do Đại hội IX
đề ra. Công cuộc phát triển kinh tế - xã hội
đã đạt được những thành tựu rất quan trọng nhưng vẫn còn dưới mức khả
năng phát triển của đất nước; hoạt động kinh tế, xã hội còn nhiều yếu kém,
bất cập.
I - THÀNH TỰU
1- Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao,
năm sau cao hơn năm trước
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 5 năm (2001 - 2005) tăng bình quân
7,5%/năm[1] (đạt kế hoạch đề ra). Năm 2005, GDP theo
giá hiện hành ước đạt 838 nghìn tỉ đồng, bình quân đầu người trên 10,0 triệu
đồng (tương đương khoảng 640 USD[2]).
Nông nghiệp tiếp tục phát triển
khá; giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,4%/năm (kế hoạch
4,8%), giá trị tăng thêm tăng khoảng 3,8%/năm. Năng suất, sản lượng và hàm
lượng công nghệ trong sản phẩm nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản tăng đáng kể;
an ninh lương thực quốc gia được bảo đảm; một số sản phẩm xuất khẩu chiếm được
vị trí cao trên thị trường thế giới[3]. Trồng rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng đã có
bước tiến; độ che phủ rừng từ 33,7% năm 2000 tăng lên 37,4% năm 2005.
Kết cấu hạ tầng tiếp tục được đầu tư nhiều hơn. Bộ mặt nông thôn, đời
sống nông dân, kể cả ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số, có bước được cải thiện.
Chương trình xây dựng cụm tuyến dân cư và nhà ở vượt lũ ở đồng bằng sông Cửu
Long đạt được kết quả bước đầu.
Công nghiệp và xây dựng liên tục tăng trưởng
cao, giá trị tăng thêm tăng 10,2%/năm. Công nghiệp có bước chuyển biến tích cực
về cơ cấu sản xuất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh. Giá trị sản
xuất công nghiệp tăng 16%/năm (kế hoạch 13,1%), cao hơn 1,9%/năm so với 5 năm
trước. Cả nước đã có trên 100 khu công nghiệp, khu chế xuất, nhiều khu hoạt
động có hiệu quả; tỉ lệ công nghiệp chế tác, cơ khí chế tạo và nội địa hoá sản
phẩm tăng. Công nghiệp ở nông thôn và miền núi tăng trưởng cao hơn tốc độ trung
bình của cả nước. Một số sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranh được trên thị
trường trong và ngoài nước. Ngành xây dựng tăng trưởng 10,7%/năm, năng lực xây
dựng tăng khá nhanh và có bước tiến đáng kể theo hướng hiện đại; việc xây dựng
đô thị, xây dựng nhà ở đạt nhiều kết quả, hàng năm đưa thêm vào sử dụng khoảng
20 triệu m2.
Dịch vụ có bước phát triển cả về quy mô,
ngành nghề, thị trường và có tiến bộ về hiệu quả với sự tham gia của nhiều
thành phần kinh tế. Giá trị sản xuất của các ngành dịch vụ tăng 7,6%/năm
(kế hoạch 7,5%); giá trị tăng thêm tăng gần 7%/năm (kế hoạch 6,8%). Riêng năm
2005, giá trị tăng thêm tăng 8,5%, cao hơn mức tăng GDP.
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ tăng khoảng 15%/năm (kế hoạch 11 -
12%). Ngành du lịch phát triển khá, cả về lượng khách, loại hình và sản phẩm du
lịch. Dịch vụ vận tải tăng nhanh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu. Bưu chính
- viễn thông phát triển nhanh theo hướng hiện đại, đến cuối năm 2005 đạt 19 máy
điện thoại và 3,2 thuê bao Internet trên 100 dân; 100% xã có điện thoại, hầu
hết các xã có điểm bưu điện - văn hoá hoặc điểm bưu điện. Các dịch vụ tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn, tin học, kỹ thuật, y tế, giáo
dục, đào tạo, văn hoá... đều có bước phát triển.
2- Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá
Về cơ cấu ngành, tỉ trọng công nghiệp
và xây dựng trong GDP tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41% năm 2005 (kế hoạch 38 -
39%); tỉ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản đã giảm từ 24,5% xuống còn 20,9%
(kế hoạch 20 - 21%); tỉ trọng dịch vụ ở mức 38,1% (kế hoạch 41 - 42%).
Trong từng ngành kinh tế đã có những chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản
xuất, cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn sản xuất với thị
trường.
Cơ cấu kinh tế vùng đã có bước điều
chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng vùng; các vùng kinh tế trọng
điểm, khu công nghiệp, khu kinh tế và vùng sản xuất chuyên môn hoá cây trồng,
vật nuôi đang phát triển khá nhanh, đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của
nền kinh tế.
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi
tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tỉ trọng lao động
của ngành công nghiệp và xây dựng trong tổng số lao động xã hội tăng từ 12,1%
năm 2000 lên 17,9% năm 2005; lao động trong các ngành dịch vụ tăng từ 19,7% lên
25,3%; lao động trong các ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 68,2%
xuống còn 56,8%. Tỉ trọng lao động đã qua đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên 25%
năm 2005.
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục
chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen
nhiều hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới
và chiếm 38,4% GDP, chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt và tập trung hơn vào
những lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh,
hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng
cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là giải quyết việc làm và cải thiện đời
sống nhân dân; trong đó, kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển khá đa dạng
(đóng góp khoảng 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng
trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với thế giới về
chuyển giao công nghệ, giao thương quốc tế.
3- Vốn đầu tư toàn xã hội tăng khá nhanh
Vốn đầu tư toàn xã hội tăng khá nhanh, vượt mức dự kiến trên 30% so với
kế hoạch, (gấp 2 lần so với 5 năm trước). Vốn đầu tư của dân tăng nhanh; tỉ lệ
vốn đầu tư phát triển so với GDP tăng từ 35,4% năm 2001 lên gần 39% năm 2005.
Vốn đầu tư trong nước chiếm 72% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Đầu tư đã tập trung hơn cho những mục tiêu quan trọng. Lĩnh vực kinh tế
chiếm 70% tổng vốn đầu tư toàn xã hội (nông, lâm nghiệp và thủy sản trên 13%,
công nghiệp và xây dựng trên 44%, giao thông, bưu điện trên 12%); lĩnh vực xã
hội chiếm gần 27% (nhà ở, cấp thoát nước, công trình công cộng khác gần 14%,
giáo dục, đào tạo gần 4%, y tế - xã hội trên 2%, văn hoá, thể thao gần 2%, khoa
học và công nghệ trên 1%). Quy mô vốn đầu tư ở các vùng đều tăng; vùng nghèo,
xã nghèo được Nhà nước quan tâm đầu tư nhiều hơn.
Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đã tập trung cho việc xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển nguồn nhân lực, xoá đói, giảm nghèo, hỗ trợ
các vùng khó khăn (đầu tư cho nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 22,2%; giao
thông vận tải, bưu điện 27%; giáo dục, đào tạo 8,9%; y tế - xã hội 6,9%; văn
hóa, thể thao 4,3%; khoa học và công nghệ 3,1%). Vốn đầu tư của doanh nghiệp
tăng nhanh, không chỉ phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ
mà còn tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng đô thị. Vốn hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục
được duy trì và tăng thêm, tạo nhiều công trình kết cấu hạ tầng và sản phẩm
xuất khẩu.
Đầu tư đã làm tăng đáng kể năng lực sản xuất, kinh doanh, tạo nhiều sản
phẩm có sức cạnh tranh, hoàn thành và đưa vào sử dụng nhiều công trình kết cấu
hạ tầng kinh tế, xã hội, trong đó có nhiều công trình lớn, tăng cường tiềm lực
và cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế.
4- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng
bước đầu, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
Hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ; hoạt động
của các loại hình doanh nghiệp và bộ máy quản lý nhà nước được đổi mới một bước
quan trọng. Một số loại thị trường mới hình thành; các loại thị trường hàng
hoá, dịch vụ, lao động, khoa học và công nghệ, tài chính, bất động sản có bước
phát triển phù hợp với cơ chế mới.
Năm năm qua, đã giữ được các cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tạo
môi trường và điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế.
Quỹ tiết kiệm tăng cao, bình quân khoảng 9%/năm, đồng thời, quỹ tiêu
dùng tăng 7%/năm (tiêu dùng bình quân đầu người tăng gần 5,7%/năm); nhờ đó đã
có điều kiện vừa đẩy mạnh đầu tư phát triển, vừa cải thiện đời sống nhân dân.
Tiềm lực tài chính nhà nước ngày càng được tăng cường; thu ngân sách
tăng trên 18%/năm, tỉ lệ GDP huy động vào ngân sách bình quân hàng năm đạt
23,8%, vượt kế hoạch. Tổng chi ngân sách nhà nước tăng trên 18%/năm; chi đầu tư
phát triển chiếm bình quân khoảng 30% tổng chi ngân sách; bội chi ngân sách
hàng năm gần 4,9% GDP.
Chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt hơn, giá trị đồng tiền cơ
bản ổn định; cán cân thanh toán quốc tế giữ được cân bằng, dự trữ ngoại tệ tăng
dần, giảm được tỉ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng; nợ Chính phủ và nợ quốc
gia vẫn trong giới hạn an toàn.
Ngân hàng nhà nước, hệ thống Ngân hàng thương mại, Quỹ hỗ trợ phát
triển và các quỹ đầu tư, ngân hàng chính sách, thị trường chứng khoán, hệ thống
tín dụng nhân dân được chấn chỉnh, có bước phát triển, hiệu quả hoạt động tốt
hơn.
Quan hệ cung – cầu cơ bản là phù hợp, bảo đảm hàng hoá thiết yếu cho
sản xuất và đời sống. Hàng tiêu dùng bình quân hàng năm tăng 5,1%, riêng năm
2004 tăng 9,5% và 2005 tăng 8,4%.
5- Hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến mới rất
quan trọng
Quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước và các tổ chức quốc tế được
mở rộng; việc thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA),
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) và thực hiện các hiệp định hợp tác đa phương, song
phương khác đã góp phần tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh
tế đối ngoại, nhất là xuất khẩu.
Xuất khẩu, nhập khẩu tăng nhanh. Tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng hoá 5 năm đạt trên 110,6 tỉ USD, tăng 17,5%/năm, vượt
mục tiêu đề ra (kế hoạch 16%/năm); năm 2005, xuất khẩu bình quân đầu người đạt
390 USD[4], gấp đôi năm 2000. Xuất khẩu dịch vụ 5 năm
đạt trên 21 tỉ USD, tăng 15,7%/năm, bằng 19% tổng kim ngạch xuất khẩu[5]. Thị trường xuất khẩu được mở rộng sang một
số nước và khu vực, nhất là Hoa Kỳ.
Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá 5 năm khoảng 130 tỉ USD, tăng khoảng
19%/năm. Tổng kim ngạch nhập khẩu dịch vụ 5 năm ước trên 21 tỉ USD, tăng
10,3%/năm. Nhập siêu hàng hoá 5 năm là 19,4 tỉ USD, bằng 17,4% tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng hoá, tuy ở mức cao nhưng vẫn trong tầm kiểm soát và có xu hướng giảm
dần trong 3 năm cuối của kế hoạch 5 năm, riêng năm 2005 là 14%[6].
Cơ cấu hàng xuất khẩu, nhập khẩu chuyển biến theo hướng tích cực. Trong
tổng kim ngạch xuất khẩu, tỉ trọng hàng công nghiệp nặng và khoáng sản giảm từ
37,2% năm 2000 xuống còn 35,8% năm 2005; hàng nông, lâm, thuỷ sản giảm từ 29%
xuống 24,5%; hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 33,9% lên
39,8%. Trong cơ cấu hàng nhập khẩu, năm 2005, nhóm máy móc, thiết bị và phụ
tùng chiếm 32,5%; nhóm nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 61,3%; nhóm hàng tiêu dùng
chiếm 6,2%.
Vốn đầu tư từ nước ngoài tăng khá, cả vốn
ODA và vốn FDI.
Việc ký kết các hiệp định về vốn ODA trong 5 năm qua được duy trì đều
đặn với tổng giá trị đạt khoảng 15 tỉ USD; vốn giải ngân đạt 7,7 tỷ USD, tập
trung chủ yếu vào xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; đào tạo nguồn nhân
lực; xoá đói, giảm nghèo; tăng cường thể chế; bảo vệ môi trường[7].
Vốn FDI có bước chuyển tích cực, tổng mức vốn đăng ký đạt gần 20 tỉ USD[8], vượt trên 33% so với kế hoạch; tổng vốn
thực hiện khoảng 14,3 tỉ USD, vượt 30% so với kế hoạch và tăng 13,6% so với 5
năm trước. Năm 2005, các doanh nghiệp FDI đóng góp 15,9% GDP, chiếm trên 33%
tổng kim ngạch xuất khẩu (chiếm khoảng 50% nếu kể cả dầu khí), đóng góp trên
10% tổng thu ngân sách nhà nước (ước tính cả dầu khí thì gần 34%), tạo việc làm
cho khoảng 90 vạn lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp.
Các doanh nghiệp Việt Nam đã bước đầu có một số dự án
đầu tư ra nước ngoài.
6- Giáo dục và đào tạo có bước phát triển khá
Cùng với củng cố kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, việc
phổ cập giáo dục trung học cơ sở đã được triển khai tích cực, đến hết năm 2005
có 31 tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỉ lệ học sinh trong độ tuổi
đi học ở bậc tiểu học đạt 97,5%. Quy mô giáo dục tiếp tục được mở rộng và trình
độ dân trí đã được nâng lên rõ rệt.
Số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng 12,9%/năm và dạy nghề dài hạn
tăng 12%/năm, sinh viên đại học và cao đẳng tăng 8,4%/năm. Các trường sư phạm
từ trung ương đến địa phương tiếp tục được củng cố và phát triển. Chất lượng
dạy nghề có chuyển biến tích cực. Bước đầu đã hình thành mạng lưới dạy nghề cho
lao động nông thôn, thanh niên dân tộc thiểu số, người tàn tật, gắn dạy nghề
với tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo.
Đổi mới giáo dục đang được triển khai từ giáo dục mầm non, phổ thông,
dạy nghề đến cao đẳng, đại học. Việc xã hội hoá giáo dục và đào tạo đã đạt kết
quả bước đầu. Nhiều trường dân lập, tư thục bậc đại học, trung học chuyên
nghiệp, trung học phổ thông và dạy nghề đã được thành lập.
Đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo tăng lên đáng kể. Năm 2005,
chi cho giáo dục và đào tạo chiếm khoảng 18% tổng chi ngân sách nhà nước; đã
huy động được nhiều nguồn vốn khác để phát triển giáo dục thông qua việc phát
hành công trái giáo dục, đóng góp của dân cư, của doanh nghiệp, vốn từ bên
ngoài. Cơ sở vật chất của ngành đã được tăng cường, đặc biệt là đối với vùng
núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
7- Khoa học và công nghệ có tiến bộ
Khoa học công nghệ đã tập trung hơn vào
nghiên cứu ứng dụng, phục vụ các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều
thành tựu khoa học công nghệ mới được ứng dụng trong các ngành xây dựng, công
nghiệp, nông nghiệp..., đã tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ mới có chất lượng
cao, có sức cạnh tranh, phục vụ xuất khẩu và thay thế nhập khẩu.
Khoa học xã hội và nhân văn đã có tiến
bộ trong việc điều tra, nghiên cứu, cung cấp tư liệu và luận cứ khoa học phục
vụ hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và phát huy
các giá trị văn hoá dân tộc.
Khoa học tự nhiên đã tăng cường các
hoạt động điều tra nghiên cứu, đánh giá tiềm năng tài nguyên thiên nhiên, bảo
vệ đa dạng sinh học và phòng, tránh thiên tai.
Bước đầu đổi mới cơ chế quản lý, đa dạng hoá phương thức giao nhiệm vụ
nghiên cứu như đấu thầu cạnh tranh hoặc hỗ trợ một phần kinh phí nghiên cứu ứng
dụng cho các doanh nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp liên kết hoặc ký hợp
đồng với các tổ chức khoa học và công nghệ. Tiềm lực và trình độ khoa học, công
nghệ trong nước đã có bước phát triển; hoạt động khoa học, công nghệ được mở
rộng và nâng cao hiệu quả.
Công tác bảo vệ môi trường đạt được
những kết quả bước đầu. Hoạt động điều tra cơ bản về môi trường được duy trì;
việc ngăn ngừa và khắc phục ô nhiễm môi trường có tiến bộ; đã ban hành một số
chính sách về bảo vệ môi trường.
8- Văn hoá - xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt, việc gắn kết giữa phát triển
kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tích cực, chỉ số phát
triển con người được nâng lên
Trong 5 năm, đã tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động; các thành phần
kinh tế ngoài nhà nước thu hút gần 91% lực lượng lao động xã hội và tạo 90%
việc làm mới. Xuất khẩu lao động và chuyên gia bằng 2,3 lần so với 5 năm trước.
Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao
động ở nông thôn đạt 80,65%.
Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 5,7 triệu đồng (năm 2000) lên trên
10 triệu đồng (năm 2005), tăng 12,1%/năm và chỉ số phát triển con người được
nâng lên[9].
Công tác xoá đói, giảm nghèo được đẩy
mạnh bằng nhiều hình thức, đã thu được nhiều kết quả tốt thông qua việc trợ
giúp điều kiện sản xuất, tạo việc làm, cải thiện kết cấu hạ tầng, nhà ở; tạo cơ
hội cho người nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, tăng thu nhập, cải
thiện đời sống; động viên các ngành, các cấp, các đoàn thể quần chúng và các
tầng lớp dân cư tham gia. Đến cuối 2005, tỉ lệ hộ nghèo còn 7% (kế hoạch là
10%, theo chuẩn Việt Nam cho giai đoạn 2001 - 2005)[10].
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng. Hoạt động y tế dự phòng được đẩy mạnh hơn. Một số dịch
bệnh mới như dịch viêm phổi cấp (SARS) được ngăn chặn, khắc phục nhanh. Mạng
lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở được củng cố và phát triển; hầu hết các xã,
phường trong cả nước đều có trạm y tế, trên 65% trạm có bác sĩ. Một số cơ sở y
tế chuyên ngành được nâng cấp, ứng dụng công nghệ tiên tiến. Sản xuất thuốc
trong nước đã chiếm khoảng 45% thị phần thuốc chữa bệnh. Chế độ khám, chữa bệnh
cho người nghèo, khám, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi đang được
triển khai thực hiện. Việc phòng, chống HIV/AIDS được đẩy mạnh hơn. Tỉ lệ trẻ
em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm từ 33,4% năm 2000 xuống dưới 25% năm
2005, đạt kế hoạch; tỉ lệ chết của trẻ em dưới 1 tuổi còn 18%o. Tuổi thọ
trung bình của người Việt Nam từ 68 tuổi vào năm 1999 đã nâng lên 71,3 tuổi vào
năm 2005.
Hoạt động văn hoá, thông tin phát triển
đa dạng hơn, góp phần nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân, làm tăng hiệu quả
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phổ biến pháp luật; phong trào xây dựng
đời sống văn hoá ở cơ sở phát triển sâu rộng hơn. Hoạt động báo chí, phát
thanh, truyền hình được đổi mới về nội dung, tăng quy mô, mở rộng phạm vi tới
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và ra nước ngoài.
Hoạt động thể dục, thể thao tiếp tục
phát triển theo chiều rộng và có bước nâng cao. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của
ngành thể thao đã được tăng cường đáng kể. Đã tổ chức thành công Đại hội thể
thao Đông Nam Á lần thứ 22 và Đại hội thể thao của người khuyết tật Đông Nam Á
lần thứ 2.
Việc chăm sóc người có công với cách
mạng và trợ giúp người có đời sống khó khăn được duy trì và mở rộng. Đi đôi với
mở rộng diện được hưởng chính sách trợ giúp của Nhà nước, phong trào "đền
ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn", đã được các ngành, các cấp tổ chức,
triển khai kịp thời, có hiệu quả và huy động được sự tham gia của đông đảo nhân
dân.
Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội được đẩy mạnh hơn. Nhiều địa phương đã có những giải pháp tốt phòng
chống ma tuý, tệ nạn mại dâm và ngăn chặn các hoạt động văn hoá không lành
mạnh. Các hình thức cai nghiện, quản lý người sau cai nghiện có hiệu quả hơn.
9- Đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp phát triển đất nước tiếp tục
được tăng cường
Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy, gắn
với thực hiện tự do, dân chủ theo pháp luật đã động viên các tầng lớp nhân dân,
các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài chung sức xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp, tôn giáo và các tổ chức xã
hội khác với nhiều hình thức đa dạng, phong phú đã góp phần tích cực vào phát
triển kinh tế - xã hội.
Toàn xã hội đã phát huy tinh thần tương thân tương ái, ý thức cộng
đồng, nhường cơm sẻ áo, tích cực tham gia khắc phục thiên tai, giúp đỡ người
nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nạn nhân chất độc da cam... và
chăm lo cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới, hải đảo.
10- Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, quan
hệ đối ngoại được mở rộng, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã
hội
Cải cách hành chính có bước tiến mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước được tăng cường một bước; dân chủ trong xã hội tiếp tục được phát huy; an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ được giữ vững.
Tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường; đời sống vật chất, tinh
thần và trang bị kỹ thuật của lực lượng vũ trang được cải thiện. Các tuyến
phòng thủ, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Việc
kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh được
thực hiện tốt hơn. Công tác bảo vệ an ninh
chính trị và giữ gìn trật tự an toàn xã hội đạt được thành tựu quan
trọng; đã phát hiện, ngăn chặn nhiều âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch;
kiềm chế được tội phạm hình sự; xử lý nghiêm tội tham nhũng.
Hoạt động chính trị đối ngoại không ngừng được mở rộng cả trong quan hệ
nhà nước và quan hệ nhân dân; đạt được kết quả quan trọng trong việc thực hiện
đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế.
Công tác quốc phòng, an ninh và đối ngoại đã góp phần giữ vững ổn định
chính trị, xã hội, tạo môi trường hoà bình, ổn định và điều kiện thuận lợi cho
việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đạt được những thành tựu rất quan trọng trên là do :
Thứ nhất, Đảng ta có đường lối, chủ
trương đúng đắn; Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng với tinh thần tiếp tục
đổi mới đã được cụ thể hoá phù hợp với thực tiễn trong các nghị quyết của Trung
ương và được thể chế hoá theo hướng xây dựng đồng bộ nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, sự nỗ lực phấn đấu của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân; sự chỉ đạo, điều hành có hiệu quả của Chính phủ; sự
năng động và quyết tâm của các ngành, các cấp, các doanh nghiệp khắc phục khó
khăn để hoàn thành thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001- 2005.
Thứ ba, kết quả đầu tư của nhiều năm
qua, cùng với sự huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước,
đặc biệt là nguồn lực của dân vào công cuộc phát triển đất nước.
II- YẾU KÉM
1- Chất lượng phát triển kinh tế - xã hội và năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế còn kém
Tốc độ tăng trưởng kinh tế 5 năm qua vẫn thấp hơn so với khả năng và
thấp hơn nhiều nước trong khu vực ở thời kỳ đầu công nghiệp hoá. Qui mô nền
kinh tế còn nhỏ, thu nhập bình quân đầu người thấp[11].
Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào các nhân tố phát triển theo chiều
rộng, vào những ngành và những sản phẩm truyền thống, công nghệ thấp, tiêu hao
vật chất cao, sử dụng nhiều tài nguyên, vốn và lao động. Năng suất lao động
tăng chậm và còn thấp so với nhiều nước trong khu vực. Khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế còn kém; chi phí kinh doanh cao, chất lượng và hiệu quả còn thấp[12].
Chưa thực hiện thật tốt việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội. Môi trường ở nhiều nơi bị ô nhiễm nặng, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến chất lượng cuộc sống.
Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao, tài nguyên,
đất đai và các nguồn vốn của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng.
Các nguồn lực trong dân còn nhiều tiềm năng chưa được phát huy.
2- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm
Về chuyển dịch cơ cấu ngành: Mặc dù có
tốc độ tăng cao trong những năm gần đây, nhưng tỉ trọng dịch vụ trong GDP còn
thấp[13], các loại dịch vụ cao cấp, có giá trị tăng
thêm lớn chưa phát triển mạnh. Trong nông nghiệp, sản xuất chưa gắn kết chặt
chẽ và có hiệu quả cao với thị trường; việc đưa khoa học, công nghệ vào sản
xuất còn chậm; công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn vẫn còn
lúng túng. Trong công nghiệp, ít sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri thức
cao; công nghiệp công nghệ cao phát triển chậm; một số sản phẩm công nghiệp có
sản lượng lớn còn mang tính gia công, lắp ráp, giá trị nội địa tăng chậm; công
nghiệp bổ trợ kém phát triển; tốc độ đổi mới công nghệ còn chậm[14].
Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát
huy được các thế mạnh để đi nhanh hơn vào cơ cấu kinh tế hiện đại. Chính sách
hỗ trợ các vùng kém phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu. Sự liên kết vùng chưa
được quan tâm đúng mức, hiệu quả thấp.
Các thành phần kinh tế phát triển chưa
tương xứng với tiềm năng. Chưa tạo được đầy đủ môi trường hợp tác, cạnh tranh bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế; chưa khai thác tốt các nguồn lực trong nước
và người Việt Nam ở nước ngoài để đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Việc
sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước còn chậm, hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Kinh tế tư nhân chưa được tạo đủ điều kiện
thuận lợi để phát triển, quy mô còn nhỏ, sức cạnh tranh còn yếu và chưa được
quản lý tốt. Kinh tế tập thể kém hấp dẫn và phát triển chậm, còn nhiều lúng
túng. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển chưa tương xứng với tiềm
năng, việc thu hút đầu tư nước ngoài còn kém so với một số nước trong khu vực.
Tỉ trọng lao động trong nông nghiệp còn cao. Lao động thiếu việc làm và không có việc làm còn nhiều. Tỉ lệ lao
động qua đào tạo rất thấp.
Cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý,
chưa hướng mạnh vào đầu tư chiều sâu, vào các ngành có giá trị tăng thêm cao và
tạo nhiều việc làm. Đầu tư từ ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà
nước còn dàn trải, thất thoát, hiệu quả thấp. Một số công trình lớn, quan trọng
cấp quốc gia không hoàn thành theo kế hoạch. Năng lực sản xuất của một số ngành
và sản phẩm quan trọng, thiết yếu tăng chậm.
Công tác qui hoạch chất lượng thấp, quản lý còn kém và chưa phù hợp với
cơ chế thị trường.
3- Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển
Tuy đã có cố gắng đầu tư, song kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội vẫn còn
lạc hậu, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu, hạn chế sự phát triển kinh
tế - xã hội.
Hệ thống đường bộ chưa hoàn chỉnh, chất lượng thấp, nhiều nơi còn bị
tắc nghẽn; chưa bảo đảm giao thông thông suốt trong mùa mưa ở các khu vực
thường bị ngập lụt và miền núi. Hệ thống cảng biển, đường sắt, hàng không còn
bất cập về năng lực vận chuyển, khả năng kho bãi, về thông tin, quản lý; chi
phí dịch vụ vận tải còn cao.
Hệ thống thuỷ lợi chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp và nông
thôn; các hồ chứa nước ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên và miền núi chưa được
đầu tư hoàn chỉnh; chất lượng một số công trình thấp, hiệu quả sử dụng kém. Các
công trình thuỷ lợi tập trung nhiều cho sản xuất lúa, chưa phục vụ tốt cho phát
triển cây công nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Hệ thống thuỷ lợi ở đồng bằng
Sông Cửu Long đầu tư thiếu đồng bộ, còn nhiều yếu kém, bất cập. Quản lý nguồn
nước còn bị buông lỏng.
Hệ thống điện vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cả về nguồn điện, lưới điện
và chất lượng; tỉ lệ tổn thất còn cao. Một số công trình điện không hoàn thành
đúng kế hoạch, gây thiếu điện trong thời gian cao điểm và khi có hạn hán nghiêm
trọng.
Hạ tầng bưu chính, viễn thông vẫn thiếu đồng bộ; chất lượng dịch vụ còn
thấp; giá dịch vụ còn cao; hoạt động bưu chính - viễn thông ở vùng sâu, vùng xa
chưa đáp ứng yêu cầu.
Kết cấu hạ tầng đô thị phát triển chậm, chất lượng quy hoạch đô thị
thấp. Hệ thống cấp nước kém phát triển. Thiết bị xử lý nước lạc hậu, chất lượng
nước kém; quản lý đô thị kém. Hệ thống phân phối nước và nguồn nước nhiều nơi
chưa được đầu tư đồng bộ. Hệ thống xử lý chất thải sinh hoạt và chất thải công
nghiệp vừa thiếu, vừa kém chất lượng; chưa ngăn chặn được tình trạng ô nhiễm
môi trường ngày càng nghiêm trọng.
Hạ tầng cho giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục, thể thao còn thiếu, chưa
đồng bộ và chất lượng thấp.
4- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn
chế, các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc
Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
còn nhiều vướng mắc và chưa thật đồng bộ. Thị trường tài chính, thị trường bất
động sản, thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm, chưa đáp ứng kịp
yêu cầu. Quản lý nhà nước đối với từng loại thị trường còn nhiều bất cập. Một
số nguyên tắc của thị trường bị vi phạm.
An ninh năng lượng, cán cân thương mại, cán cân vãng lai và thanh toán
quốc tế, dự trữ quốc gia, cân đối ngân sách chưa đủ vững chắc để đối phó với
các tình huống biến động lớn, đột xuất có thể xảy ra.
Thu ngân sách còn phụ thuộc nhiều vào nguồn thu từ thuế nhập khẩu và
dầu thô. Hoạt động của hệ thống ngân hàng còn nhiều yếu kém, chất lượng tín
dụng thấp, nợ xấu còn cao.
Trong tình hình giá cả thế giới có nhiều biến động, công tác quản lý
giá cả thị trường, lưu thông tiền tệ có mặt chưa phù hợp, lúng túng, để xảy ra
đầu cơ gây đột biến giá một số mặt hàng thiết yếu, bất lợi cho hoạt động kinh
doanh và đời sống.
5- Hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại còn nhiều hạn
chế
Thiếu lộ trình thật chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế; chưa gắn
kết chặt chẽ tiến trình hội nhập với việc hoàn thiện pháp luật, thể chế, chính
sách và cải cách cơ cấu kinh tế; việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, của
doanh nghiệp và của nền kinh tế chưa theo kịp với yêu cầu của hội nhập.
Tỉ lệ hàng xuất khẩu qua chế biến, chế tác sâu còn thấp. Quy mô xuất
khẩu còn nhỏ[15]. Nhập siêu còn lớn.
Môi trường đầu tư kém hấp dẫn so với một số nước xung quanh. Chưa thu
hút được nhiều vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của các tập đoàn kinh tế lớn;
chưa chủ động khai thác vốn đầu tư gián tiếp quốc tế.
Việc giải ngân vốn ODA còn chậm. Chiến lược vay và trả nợ nước ngoài
chưa được chuẩn bị thật tốt.
6- Chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp, nhiều vấn hạn chế, yếu kém
chậm được khắc phục.
Chất lượng giáo dục còn nhiều yếu kém; khả năng chủ động, sáng tạo của
học sinh, sinh viên ít được bồi dưỡng, năng lực thực hành của học sinh, sinh
viên còn yếu. Chương trình, phương pháp dạy và học còn lạc hậu, nặng nề, chưa
thật phù hợp.
Phát triển giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học chưa cân đối với
giáo dục trung học phổ thông. Đào tạo nghề
còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng.
Việc xã hội hoá giáo dục được thực hiện chậm, thiếu đồng bộ. Công tác
giáo dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, chất lượng thấp.
Chưa quan tâm đúng mức phát triển giáo dục và đào tạo ở đồng bằng sông Cửu
Long, để giáo dục và đào tạo của vùng này tụt hậu kéo dài so với các vùng trong
cả nước.
Công tác quản lý giáo dục, đào tạo chậm đổi mới và còn nhiều bất cập.
Thanh tra giáo dục còn nhiều yếu kém; những hiện tượng tiêu cực, như bệnh thành
tích, thiếu trung thực trong đánh giá kết quả giáo dục, trong học tập, tuyển
sinh, thi cử, cấp bằng và tình trạng học thêm, dạy thêm tràn lan kéo dài, chậm
được khắc phục.
7- Khoa học và công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội
Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, kể cả khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội chậm đổi mới; chưa có chính sách và biện pháp tốt để huy động các
nguồn lực và để sử dụng có hiệu quả nguồn lực nhà nước đầu tư cho khoa học và
công nghệ; thiếu cơ chế gắn kết nghiên cứu khoa học và công nghệ với đào tạo
nhân lực, nhất là ở bậc đại học và với hoạt động sản xuất, kinh doanh; chưa
phát huy tác dụng tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội.
Thị trường khoa học và công nghệ chậm được hình thành, hiệu quả ứng
dụng các công trình nghiên cứu khoa học thấp; thiếu chính sách và biện pháp
thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm đầu tư nghiên cứu và đổi mới công nghệ để
nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh.
Trình độ công nghệ trong nhiều ngành còn lạc hậu; việc chuyển giao công
nghệ còn rất chậm. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của các tổ chức nghiên cứu khoa
học và công nghệ còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ và sử dụng kém hiệu quả.
Đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học còn hạn chế về trình độ, bất hợp lý
về cơ cấu; thiếu cán bộ đầu ngành và các tập thể khoa học và công nghệ mạnh.
Quyền sở hữu trí tuệ chưa được coi trọng đúng mức và còn bị xâm phạm.
8- Lĩnh vực văn hoá, xã hội còn nhiều vấn đề bức
xúc chậm được giải quyết
Việc xây dựng nếp sống văn hoá chưa được coi trọng đúng mức.
Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội
và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ. Quản lý nhà nước về văn hoá
còn nhiều sơ hở, yếu kém. Đấu tranh ngăn ngừa văn hoá phẩm độc hại chưa được chú
ý đầy đủ, còn nhiều yếu điểm, bất cập.
Thành tựu xoá đói, giảm nghèo chưa thật
vững chắc. Số hộ nghèo và tái nghèo ở một số vùng còn lớn, tỉ lệ hộ nghèo theo
chuẩn mới còn cao. Đời sống nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng thường bị thiên
tai còn nhiều khó khăn; nhiều vùng dân tộc thiểu số có tỉ lệ hộ nghèo cao hơn
so với bình quân cả nước. Một số chính sách trợ giúp người nghèo, hộ nghèo,
vùng nghèo chưa được tổ chức thực hiện tốt.
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân còn nhiều bất cập. Hệ thống y tế chậm đổi mới, chất lượng dịch vụ y tế
chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của nhân dân; điều kiện chăm sóc y tế
cho người nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế.
Bệnh dịch HIV/AIDS tiếp tục gia tăng. Đầu tư của Nhà nước và huy động
nguồn lực xã hội cho phát triển y tế chưa đáp ứng yêu cầu và hiệu quả chưa cao.
Quản lý hoạt động khám, chữa bệnh và hành nghề y, dược tư nhân kém hiệu quả.
Năng lực sản xuất và cung ứng thuốc còn yếu; quản lý thị trường thuốc chữa bệnh
có nhiều thiếu sót. Vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát
chặt chẽ. Chính sách đào tạo và sử dụng cán bộ y tế còn nhiều bất cập; đội ngũ
cán bộ y tế thiếu và yếu, cơ cấu bất hợp lý; những việc làm vi phạm đạo đức
nghề nghiệp chậm được khắc phục.
Một số tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn
có hiệu quả. Cuộc đấu tranh chống các thói hư tật xấu thiếu các biện pháp đồng
bộ và chưa tạo được chuyển biến rõ nét; tệ ma tuý, mại dâm còn diễn biến phức
tạp.
Tội phạm
có tổ chức và tội phạm liên quan đến ma tuý có chiều hướng gia tăng.
Việc bảo đảm trật tự, an toàn giao thông chưa tốt, thiếu đồng
bộ, tai nạn giao thông vẫn còn nghiêm trọng, ý thức chấp hành pháp luật giao
thông trong xã hội rất kém, quản lý nhà nước còn nhiều bất cập.
9- Bộ máy nhà nước chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc phát
triển kinh tế, xã hội
Những yếu kém của bộ máy quản lý nhà nước và công tác cán bộ chậm được
khắc phục. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu, chưa gắn với xây dựng và chỉnh
đốn Đảng, với đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội,
chưa phối hợp chặt chẽ với cải cách và đổi mới hoạt động tư pháp. Cải cách tư
pháp chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Năng lực và phẩm chất của nhiều cán bộ,
công chức còn yếu, một bộ phận không nhỏ thoái hoá, biến chất. Dân chủ ở nhiều
nơi bị vi phạm, kỷ cương phép nước chưa nghiêm. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí
còn nghiêm trọng, đặc biệt là tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách
nhiệm của bộ phận không nhỏ cán bộ, công
chức, nhất là ở các cơ quan giải quyết công việc cho dân và doanh
nghiệp. Bộ máy chính quyền cơ sở nhiều nơi yếu kém.
Những thành tựu đạt được trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự chưa
thật vững chắc. Việc đấu tranh chống âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch
có lúc còn thiếu chủ động, chưa kịp thời. Chất lượng các tuyến phòng thủ, thế
trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân ở một số nơi chưa đạt yêu cầu.
Công tác đối ngoại còn có việc thiếu chiều sâu và chưa thật chủ động;
công tác tuyên truyền đối ngoại còn kém; quản lý nhà nước về công tác đối ngoại
chưa chặt chẽ.
Các yếu kém và bất cập về kinh tế, xã hội do nhiều nguyên nhân, trong
đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu:
Thứ nhất, chậm đổi mới tư duy, trước hết
là tư duy kinh tế; chậm xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, chưa có chính sách và giải pháp
đủ mạnh để huy động và sử dụng được tốt nhất các nguồn lực, cả nội lực và ngoại
lực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, cải cách hành chính còn chậm và
kém hiệu quả; công tác tổ chức, cán bộ chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu.
Thứ tư, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
vẫn là một khâu yếu nhất.
III- ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1- Đánh giá tổng quát
Năm năm qua, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu rất quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược 10 năm phát triển kinh tế
- xã hội. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá nhanh. Thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng bước đầu. Hội nhập kinh tế quốc tế và
kinh tế đối ngoại có bước tiến mới rất quan trọng. Tiềm lực kinh tế, cơ sở vật
chất - kỹ thuật được tăng cường đáng kể; khả năng độc lập tự chủ của nền kinh
tế được nâng lên. Văn hoá - xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt. Đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân được cải thiện; xoá đói, giảm nghèo đạt kết quả nổi
bật. Chính trị - xã hội ổn định. Độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an
ninh quốc gia được giữ vững. Thế và lực của đất nước vững mạnh thêm, vị thế
quốc tế của nước ta được nâng lên rõ rệt.
Tuy nhiên, những thành tựu đã đạt được trong 5 năm qua còn dưới mức
khả năng phát triển của đất nước, hoạt động kinh tế - xã hội còn nhiều
yếu kém, bất cập; việc huy động và sử dụng các nguồn lực, cả nội lực và
ngoại lực, vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội còn kém hiệu quả và chưa
tương xứng với tiềm năng, hạn chế sự phát triển. Trình độ phát triển kinh tế và
công nghệ vẫn tụt hậu so với nhiều nước xung
quanh. Sức cạnh tranh của nền kinh tế, chất lượng và tính bền vững của
sự phát triển còn kém. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp ứng kịp yêu cầu
phát triển. Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều vướng mắc, khó khăn. Văn hoá - xã
hội phát triển chưa ngang tầm và còn nhiều vấn đề bức xúc. Bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức đổi mới
chậm; quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc chưa được phát huy thật tốt. Thực trạng trên để lại nhiệm vụ
nặng nề cho 5 năm 2006 - 2010.
2- Bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn 5 năm qua, có thể rút ra mấy bài học kinh nghiệm lớn và cũng là tư tưởng chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm tới là:
2.1- Bài học về phát triển nhanh và bền vững
Phát triển nhanh phải đi đôi với phát triển bền vững, hai mặt tác động
lẫn nhau, được thể hiện ở cả tầm vĩ mô và vi
mô, ở cả tầm ngắn hạn và dài hạn. Tăng trưởng về số lượng phải đi liền
với nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong khi
khai thác các yếu tố phát triển theo chiều rộng, phải đặc biệt coi trọng các
yếu tố phát triển theo chiều sâu. Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hoá, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm,
cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói,
giảm nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Phải rất
coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển, không
gây ô nhiễm và huỷ hoại môi trường.
Phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị -xã
hội; ổn định chính trị - xã hội là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và
bền vững.
2.2- Bài học về huy động và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực, nhất là nội lực
Nội lực có vai trò quyết định đối với sự phát triển. Có phát huy được
nội lực thì mới thu hút và sử dụng có hiệu quả ngoại lực. Nội lực được tăng
cường thì mới bảo đảm được độc lập tự chủ về kinh tế và thực hiện hội nhập kinh
tế quốc tế thành công. Phát huy nội lực trước hết là phát huy nguồn lực con
người, nguồn lực của toàn dân tộc, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên
nhiên và sử dụng tốt nhất nguồn lực của Nhà nước. Điều có ý nghĩa quyết định là
phải có chính sách phù hợp để phát huy tối đa khả năng về vật chất, trí tuệ và
tinh thần của mọi người dân, của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư
nhân - một nguồn lực giàu tiềm năng của dân tộc ta - để góp phần quan trọng
giải quyết việc làm, đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã
hội.
Ngoại lực có vai trò quan trọng cho sự phát triển. Kết hợp tốt nội lực
và ngoại lực sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp xây dựng đất nước. Ngoại lực, bao
gồm cả vốn đầu tư, công nghệ, kỹ năng quản lý và thị trường... bổ sung cho nội
lực, tạo thêm điều kiện để huy động và sử dụng nội lực có hiệu quả cao hơn.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, ngoại lực càng trở nên
quan trọng; một nước đang phát triển ở trình độ thấp như nước ta, muốn vươn lên
để theo kịp các nước, không thể coi nhẹ việc thu hút và sử dụng tốt nhất ngoại
lực. Muốn phát huy tốt ngoại lực, phải có một chiến lược tổng thể, nhất quán và
môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh, trước hết là có một hệ thống thể chế,
chính sách đồng bộ, một nền hành chính minh bạch, hiệu lực, hiệu quả.
2.3- Bài học về hội nhập kinh tế quốc tế và xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
Hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan; phải chủ động, có lộ
trình phù hợp với bước đi tích cực, vững chắc, không do dự chần chừ; nhưng cũng
không được nóng vội, giản đơn.
Phải tích cực mở rộng thị trường bên ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu, đồng
thời phải chủ động mở cửa thị trường trong nước, kể cả thị trường dịch vụ, để
thu hút mạnh vốn đầu tư, công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến... từ bên
ngoài, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong tiến trình mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới, phải biết
phát huy lợi thế so sánh, tạo môi trường cạnh tranh để phát triển. Đồng thời,
để phát triển bền vững, bảo đảm sự ổn định, tăng khả năng độc lập tự chủ của
đất nước, nhất thiết phải tăng cường tiềm lực và bảo đảm an ninh kinh tế, đi
đôi với củng cố quốc phòng, an ninh. Về an ninh kinh tế, phải giữ vững các cân
đối vĩ mô; ngoài an ninh lương thực và an ninh năng lượng, cần tăng nhanh dự
trữ ngoại tệ, kiểm soát chặt chẽ nợ nước ngoài; phát huy cao nhất các nguồn lực
để xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển có hiệu quả một số ngành và sản phẩm
quan trọng, thiết yếu đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.
2.4- Bài học về phát triển kinh tế thị trường đồng thời với chăm lo ngày
càng tốt hơn phúc lợi xã hội
Giai đoạn mới của sự phát triển đất nước đòi hỏi công cuộc đổi mới phải
đi vào chiều sâu và toàn diện hơn, phải dứt khoát hình thành nhanh và đồng bộ
các yếu tố của kinh tế thị trường và hệ thống thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đầy đủ những nguyên tắc của kinh tế thị
trường. Đồng thời, càng đi vào kinh tế thị trường, càng phải chăm lo tốt hơn
phúc lợi xã hội, giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, phát triển giáo dục,
văn hoá, chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Phải đề cao vai trò, trách nhiệm của Nhà
nước và sự đóng góp của toàn xã hội để thực hiện tốt yêu cầu này; phải đầu tư
nhiều hơn cho lĩnh vực xã hội, thực hiện tốt hơn yêu cầu gắn kết giữa kinh tế
và xã hội.
2.5- Bài học về công tác tổ chức thực hiện và tuyển chọn đúng cán bộ
Bước tiến của công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội phụ
thuộc một phần rất quan trọng vào ý chí và năng lực tổ chức thực hiện của các
ngành, các cấp; trong đó, nhân tố con người - cán bộ, công chức, nhất là đội
ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống công quyền và của doanh nghiệp - có vai trò
quyết định.
Muốn tổ chức thực hiện tốt, phải tuyển chọn đúng cán bộ đáp ứng được
yêu cầu công việc; phải giao nhiệm vụ rõ ràng và quyền hạn tương xứng cho người
đứng đầu từng tổ chức, từng đơn vị, kể cả quyền hạn về tổ chức bộ máy, nhân sự
và về tài chính; đồng thời, phải yêu cầu về trách nhiệm rất cao đối với cán bộ,
nhất là người đứng đầu, khi không hoàn thành được nhiệm vụ, công việc trì trệ
hoặc có sai phạm, khuyết điểm phải xử lý nghiêm minh, kịp thời, kể cả thay thế.
Phải có quy chế cụ thể về công tác cán bộ để đáp ứng được yêu cầu này[16].
Phần thứ hai
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5
NĂM 2006 - 2010
Nước ta bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm 2006 - 2010 trong bối cảnh có nhiều
thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đều lớn, đan xen nhau.
Trên thế giới, hoà bình, hợp tác
và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo; toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
sẽ được đẩy nhanh; đầu tư, lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, lao động và vốn ngày
càng mở rộng. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin
và công nghệ sinh học, tiếp tục phát triển mạnh theo chiều sâu, tác động rộng
lớn đến cơ cấu và sự phát triển của kinh tế thế giới, mở ra triển vọng mới cho
mỗi nền kinh tế tham gia phân công lao động toàn cầu. Kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, hợp tác trong khu vực, nhất là ASEAN
ngày càng mở rộng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của mỗi quốc
gia.
Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực vẫn chứa đựng nhiều yếu tố
phức tạp, khó lường; các tranh chấp, xung đột cục bộ, cùng với hoạt động khủng
bố quốc tế có thể gây mất ổn định ở khu vực và nhiều nơi trên thế giới. Các
nước lớn cạnh tranh quyết liệt vì lợi ích kinh tế và tìm cách áp đặt các rào
cản trong thương mại với các nước nghèo và đang phát triển. Thị trường tài
chính, tiền tệ và giá cả thế giới còn diễn biến phức tạp. Các vấn đề mang tính
toàn cầu như dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm các nguồn năng lượng và
nguyên vật liệu, khoảng cách giàu nghèo... sẽ càng trở nên gay gắt hơn.
Ở trong nước, chúng ta có được
thuận lợi rất cơ bản là những thành tựu to lớn và những bài học kinh nghiệm
quan trọng sau 20 năm đổi mới, nhưng cũng còn nhiều yếu kém, khuyết điểm; trong
khi yêu cầu hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới ngày càng khẩn trương
và sâu rộng hơn.
Những đặc điểm tình hình nêu trên đặt ra cho công cuộc phát triển kinh
tế - xã hội của nước ta trong 5 năm tới nhiệm vụ rất nặng nề, đòi hỏi toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân phải có quyết tâm rất cao, với các giải pháp thật
quyết liệt mới có thể thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 đã đề ra.
I- MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ CHỈ TIÊU CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2006 - 2010
1- Mục tiêu tổng quát
Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan
trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước
ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất,
văn hoá và tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri
thức, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt
Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
2- Các nhiệm vụ chủ yếu
(1) Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi
tiềm năng và nguồn lực, tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng tốc độ tăng
trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng của nước đang phát triển
có thu nhập thấp[17].
(2) Chuyển mạnh sang kinh tế thị trường, thực hiện các nguyên tắc của
thị trường, hình thành đồng bộ các loại thị trường và hệ thống thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm của nước ta.
(3) Tích cực, chủ động đẩy nhanh hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng kinh
tế đối ngoại gắn với nâng cao khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế.
(4) Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo; nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước và phát triển kinh tế tri thức.
(5) Tạo chuyển biến mạnh trong việc xây dựng văn hoá, đạo đức và lối
sống; kiềm chế tốc độ tăng dân số, nâng cao thể chất và sức khoẻ nhân dân; bảo
vệ và cải thiện môi trường.
(6) Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, giải quyết việc làm, khuyến
khích làm giàu hợp pháp, xoá đói, giảm nghèo, phát triển hệ thống an sinh; đẩy
lùi các tệ nạn xã hội.
(7) Phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng
cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo bước chuyển rõ rệt
về cải cách hành chính, ngăn chặn và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí.
(8) Tăng cường quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị - xã hội, mở rộng
quan hệ đối ngoại, giữ vững môi trường hoà bình và ổn định, tạo thuận lợi cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3- Các chỉ tiêu định hướng về phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu
3.1- Về kinh tế
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp hơn 2,1
lần năm 2000. Trong 5 năm 2006 - 2010, tốc độ tăng trưởng GDP 7,5 - 8%/năm và
phấn đấu đạt trên 8%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2010 theo giá hiện hành
đạt khoảng 1.050 - 1.100 USD.
Cơ cấu ngành trong GDP năm 2010: khu vực nông nghiệp khoảng 15 - 16%;
công nghiệp và xây dựng 43 - 44%; dịch vụ 40 - 41%.
Kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm.
Tỉ lệ huy động GDP vào ngân sách đạt 21 - 22%.
Vốn đầu tư toàn xã hội đạt khoảng 40% GDP.
Mật độ điện thoại đạt 35 máy/100 dân; mật độ Internet đạt 12,6 thuê
bao/100 dân.
3.2- Về xã hội
Năm 2010, tốc độ phát triển dân số khoảng 1,14%/năm.
Lao động nông nghiệp năm 2010 chiếm dưới 50% lao động xã hội.
Tạo việc làm cho 8 triệu lao động; tỉ lệ thất nghiệp thành thị dưới 5%.
Tỉ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) giảm xuống còn 10 - 11% vào năm 2010[18].
Năm 2010, hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; giáo dục đại học
và cao đẳng đạt 200 sinh viên /10.000 dân; lao động đã qua đào tạo chiếm 40%
tổng lao động xã hội.
Tỉ lệ bác sĩ đạt 7 người/10.000 dân.
Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam năm 2010 đạt 72 tuổi.
Tỉ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi là 16%o; tỉ lệ trẻ em suy dinh
dưỡng dưới 5 tuổi giảm xuống dưới 20%; tỉ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai
sản dưới 60/100.000 trẻ đẻ sống.
3.3- Về môi trường
Đưa tỉ lệ che phủ rừng vào năm 2010 lên 42 – 43%.
Năm 2010, 95% dân cư thành thị và 75% dân cư ở nông thôn được sử dụng
nước sạch.
Năm 2010, 100% các cơ sở sản xuất mới xây dựng phải áp dụng công nghệ
sạch hoặc được trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; trên 50%
các cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường; 100% số đô thị
loại 3 trở lên, 50% số đô thị loại 4 và tất cả các khu công nghiệp, khu chế
xuất có hệ thống xử lý nước thải; 80 - 90% chất thải rắn, 100% chất thải y tế
được thu gom và xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường.
II- ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH, LĨNH VỰC VÀ VÙNG
1- Về kinh tế
1.1- Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông
thôn
Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông
thôn vẫn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn luôn coi trọng đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng
một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có
năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao; bảo đảm vững chắc an ninh
lương thực và tạo điều kiện từng bước hình thành nền nông nghiệp sạch; phấn đấu
giá trị tăng thêm trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng 3 - 3,2%/năm. Tốc độ
phát triển công công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn không thấp hơn tốc độ bình
quân cả nước. Gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới, giải quyết tốt
hơn mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền, góp phần giữ
vững ổn định chính trị xã hội.
Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông
thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả
kinh tế cao; đẩy mạnh thâm canh các loại cây trồng trên cơ sở áp dụng các loại
quy trình sản xuất đồng bộ và tiên tiến; quy hoạch diện tích sản xuất lương
thực ổn định; phát triển mạnh chăn nuôi theo hướng quy mô lớn, an toàn dịch
bệnh và bền vững về môi trường. Xây dựng các vùng sản xuất nông sản hàng hoá
tập trung gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất và chế biến, khắc phục
tình trạng sản xuất manh mún, tự phát.
Phát huy lợi thế khí hậu nhiệt đới, tiếp tục thực hiện có hiệu quả
chương trình bảo vệ và phát triển rừng. Nâng cao chất lượng rừng phòng hộ, rừng
đặc dụng, phát triển mạnh việc trồng mới và khai thác bền vững rừng sản xuất để
nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài về nguyên liệu gỗ cho
chế biến hàng tiêu dùng và xuất khẩu; bảo đảm lợi ích thoả đáng của người được
giao kinh doanh, chăm sóc và bảo vệ rừng.
Phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, phục
vụ xuất khẩu và thị trường nội địa đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái;
chuyển đổi cơ cấu khai thác qua việc lựa chọn ngư trường, loại hình nghề nghiệp
và sản phẩm để nâng cao giá trị hàng hoá, sử dụng hợp lý nguồn lợi, giảm chi
phí. Nâng cao sức cạnh tranh, bảo đảm tăng trưởng bền vững trong sản xuất, chế
biến và xuất khẩu thuỷ sản.
Quy hoạch và có chính sách phát triển nghề làm muối và cải thiện đời
sống diêm dân.
Đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhất là những
ngành nghề sử dụng nhiều lao động, coi đây là hướng chính để tạo ra nhiều việc
làm mới, góp phần tăng nhanh thu nhập cho nông dân. Phát triển mạnh công nghệ
bảo quản, chế biến, giảm nhanh tổn thất sau thu hoạch, đồng thời nâng cao nhanh
giá trị gia tăng cho các loại nông, lâm, thuỉy sản, nhất là sản phẩm xuất khẩu
chủ lực.
Thực hiện các giải pháp đồng bộ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, nhất là: đưa nhanh khoa
học và công nghệ vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; có chính sách đủ mạnh để
khuyến khích phát triển nhanh các doanh nghiệp và hoạt động dịch vụ ở nông
thôn; tiếp tục đầu tư phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ở nông
thôn; tập trung giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc và xây dựng nông thôn
mới.
Đẩy mạnh nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ; tăng cường hệ
thống khuyến nông, lâm, ngư, thú y, bảo vệ thực vật và các dịch vụ kỹ thuật
khác ở nông thôn, tạo sự đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả trong nông,
lâm, ngư nghiệp. Triển khai chương trình ứng dụng công nghệ sinh học, nâng cao
chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, kể cả giống thuỷ, hải sản đến cơ sở;
chuyển giao nhanh và đồng bộ công nghệ tiên tiến trồng trọt, chăn nuôi gia súc,
gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản và công nghệ chế biến nông, lâm, thuỷ sản; chú ý
áp dụng công nghệ cao để sản xuất nông sản, thực phẩm sạch theo tiêu chuẩn quốc
tế và xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao. Nâng cao khả năng phòng ngừa
và khắc phục dịch bệnh đối với cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là gia súc, gia
cầm và thuỷ sản. Xây dựng cơ chế bảo hiểm nông sản để chủ động bù đắp thiệt hại
khi bị thiên tai hoặc khi giá cả biến động bất lợi, nhất là đối với lương thực.
Tạo điều kiện thuận lợi hơn để giúp nông dân chuyển sang làm ngành nghề
và dịch vụ. Tiếp tục điều chỉnh chính sách khuyến khích để các doanh nghiệp và
hợp tác xã đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ, nhất là công nghiệp chế
biến nông, lâm, thuỷ sản; giảm nhanh và hết sức hạn chế việc xuất khẩu nông,
lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến. Chú trọng phát triển kinh tế trang trại, các
loại hình kinh tế hợp tác; đẩy nhanh việc sắp xếp lại và đổi mới quản lý các
nông, lâm trường; phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh
nghiệp nhỏ và vừa trong công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; phát triển các làng
nghề. Khuyến khích nông dân bằng đóng góp quyền sử dụng đất và lao động của
mình hợp tác với các doanh nghiệp, hợp tác xã, các chủ trang trại để phát triển
sản xuất hàng hoá, ổn định và cải thiện đời sống. Khuyến khích hơn nữa đầu tư
nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn.
Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước và đa dạng các nguồn vốn để phát
triển mạnh kết cấu hạ tầng nông thôn; thúc đẩy cơ giới hoá, hiện đại hoá nông
thôn. Ưu tiên nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống thuỷ lợi đồng bộ, đi đôi
với đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý để khai thác có hiệu quả các công
trình đã đưa vào sử dụng, đáp ứng nhu cầu về nước cho nông nghiệp, nuôi trồng
thuỷ sản, cho công nghiệp, dịch vụ và nước cho sinh hoạt ở nông thôn. Củng cố
hệ thống hồ, đập, đê, kè ven sông, ven biển; nâng cấp các hệ thống cảnh báo,
chủ động phòng chống lụt bão và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi
trường nước. Đẩy nhanh việc đầu tư xây dựng để hoàn thành có chất lượng chương
trình cụm tuyến dân cư vùng ngập lũ ở đồng bằng Sông Cửu Long. Tiếp tục đầu tư
phát triển giao thông nông thôn, bảo đảm các xã đều có đường ô tô tới khu trung
tâm, từng bước phát triển đường ô tô tới thôn, bản; phấn đấu đến năm 2010, trên
90% hộ dân cư nông thôn có điện sinh hoạt, trên 75% dân cư nông thôn có nước
sạch.
Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân và cho lao động nông
thôn, nhất là các vùng Nhà nước thu hồi đất để xây dựng kết cấu hạ tầng và phát
triển các cơ sở phi nông nghiệp. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông
thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao
động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc
làm cả trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tại chỗ và ngoài khu
vực nông thôn, kể cả ở nước ngoài. Nhà nước đầu tư nhiều hơn và phát huy khả
năng trợ giúp của xã hội để thực hiện tốt xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn, đặc
biệt ở các vùng sâu, vùng xa. Giải quyết ổn định vấn đề lương thực cho các hộ
thuộc diện nghèo, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, gắn với việc giao khoán
rừng.
Xây dựng hoàn chỉnh các quy hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Tổ chức chương trình xây dựng nông thôn mới nhằm xây dựng các làng, xã, ấp, bản
có cuộc sống văn minh, sạch đẹp, gắn với việc hình thành các khu dân cư đô thị
hoá. Phát huy dân chủ đi đôi với xây dựng nếp sống văn hoá, bài trừ các tệ nạn
xã hội ở nông thôn; gìn giữ và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của
các dân tộc.
1.2- Phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao
chất lượng, sức cạnh tranh và hiện đại hoá
Phát huy sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế, đa dạng hoá hình
thức sở hữu và quy mô để phát triển công nghiệp và xây dựng với cơ cấu ngành
nghề phù hợp với nguồn lực, lợi thế và thị trường ở các vùng, các địa phương.
Nâng cao sức cạnh tranh, hàm lượng khoa học công nghệ và tỉ trọng giá trị tăng
thêm, giá trị nội địa trong sản phẩm công nghiệp và xây dựng. Phát triển công
nghiệp và xây dựng gắn với phát triển dịch vụ, phát triển đô thị và bảo vệ môi
trường. Phấn đấu đạt tốc độ tăng giá trị tăng thêm trong công nghiệp và xây
dựng 10 - 10,2%/năm.
Phát triển đồng bộ công nghiệp chế biến, chế tác, công nghiệp công nghệ
cao, công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng, công nghiệp quốc phòng,
góp phần xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp và nâng cao khả năng tự chủ
của nền kinh tế. Xây dựng và thực hiện tốt chương trình phát triển công nghiệp
phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Tập trung nguồn lực phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành
công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều
lao động, như: chế biến nông, lâm, thuỷ sản; may mặc, giày dép, đồ nhựa, đồ gỗ
gia dụng; cơ khí đóng tàu, công nghiệp chế tạo thiết bị đồng bộ, thiết bị điện,
thiết bị xây dựng, máy nông nghiệp, phương tiện giao thông, sản xuất và lắp ráp
cơ - điện tử; công nghiệp bổ trợ, công nghiệp công nghệ thông tin, sản xuất
phần mềm. Nâng tỉ trọng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đã qua chế biến. Chú
trọng phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm
năng lượng; công nghiệp vật liệu và công nghệ tiết kiệm nguyên vật liệu; công
nghiệp dược và các chế phẩm sinh học; công nghiệp bảo vệ môi trường.
Việc phát triển các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan
trọng chủ yếu là dựa vào nguồn lực của các thành phần kinh tế, bao gồm cả đầu
tư trực tiếp của nước ngoài. Căn cứ vào nguồn lực và hiệu quả, Nhà nước tập
trung đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư để phát triển những sản phẩm quan trọng của nền
kinh tế, như: lọc hoá dầu, khai thác quặng và luyện thép, phân bón, hoá chất,
xi măng, khai thác bô - xít và sản xuất alumin, bột giấy gắn với trồng rừng,
một số sản phẩm cơ khí chế tạo.
Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả
nước; hình thành các vùng công nghiệp trọng điểm; gắn việc phát triển sản xuất với bảo đảm nhà ở và các điều kiện sinh hoạt cho
người lao động. Chuyển các cơ sở công
nghiệp trong nội thành, nội thị, gần khu đông dân cư không bảo đảm tiêu
chuẩn môi trường vào các khu công nghiệp tập trung hoặc các vùng ít dân cư.
Huy động các nguồn lực (nhà nước, doanh nghiệp, nhân dân, cộng đồng) để
xoá nhà ở dột nát, nhà ở tạm bợ cho người nghèo; phát triển nhanh quỹ nhà để
đáp ứng cơ bản nhu cầu nhà ở cho công chức, viên chức, người lao động, sinh
viên, học sinh, nhất là công nhân các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Tăng cường hợp tác liên kết, đưa ngành công nghiệp và xây dựng nước ta
hội nhập vào khu vực và quốc tế, trước hết thông qua việc thu hút mạnh đầu tư
và công nghệ nguồn của các công ty đa quốc gia tham gia phát triển công nghiệp
và xây dựng ở Việt Nam.
1.3- Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội theo hướng hiện đại
Trên cơ sở bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch, Nhà nước ưu tiên dành vốn
ngân sách và huy động các nguồn lực khác để đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ kết
cấu hạ tầng trong từng vùng và trên cả nước, xem đây là một khâu đột phá để
phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay và chuẩn bị cho bước tiếp theo.
Khuyến khích, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tham gia phát triển lĩnh vực này. Chú trọng các công
trình quan trọng, thiết yếu, phát huy nhanh tác dụng. Khắc phục tình trạng đầu
tư dàn trải, thất thoát, lãng phí.
Tập trung huy động các nguồn lực để ưu tiên hoàn chỉnh một bước cơ bản
kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, đường sông, đường sắt, đường biển, đường
hàng không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Cải tạo, nâng cấp và
xây dựng mới các công trình thuỷ lợi có nhu cầu cấp bách, gắn với phát triển
thuỷ điện, đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, nước sinh
hoạt của dân cư và giảm nhẹ thiên tai.
Phát triển nhanh nguồn điện với cơ cấu hợp lý, hoàn chỉnh hệ thống
truyền tải, bảo đảm sự vận hành an toàn, hiệu quả, đáp ứng đủ điện cho yêu cầu
phát triển kinh tế, xã hội, cả ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải
đảo. Nhà nước tập trung đầu tư và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư để
phát triển nhanh ngành điện trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh và thực hiện
cơ chế thị trường về giá bán điện, đồng thời có chính sách trợ giúp hợp lý đối
với các hộ nghèo.
Tăng nhanh năng lực và hiện đại hoá bưu chính - viễn thông; tiếp tục
đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại, đồng bộ và ổn định đáp
ứng cho phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm sự cạnh
tranh bình đẳng trong lĩnh vực dịch vụ thông tin.
Rà soát, bổ sung và nâng cao chất lượng quy hoạch, tiếp tục tổ chức
thực hiện các định hướng phát triển đô thị đến năm 2020, hình thành hệ thống đô
thị phù hợp trên địa bàn cả nước; đặc biệt chú trọng phát triển các đô thị vừa
và nhỏ, hạn chế tập trung dân cư vào một số ít thành phố lớn; xây dựng đồng bộ
và từng bước hiện đại hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị, chú trọng hoàn thiện
mạng lưới giao thông, hệ thống cấp nước sinh hoạt, cung cấp đủ nước sạch và
giải quyết cơ bản vấn đề thoát nước và xử lý chất thải ở các đô thị, các khu
công nghiệp; quản lý chặt chẽ việc thực hiện qui hoạch và các qui chế về đô
thị.
Nhà nước tăng tỉ trọng đầu tư ngân sách cho phát triển kết cấu hạ tầng
xã hội, nhất là cho giáo dục, y tế.
1.4- Tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ
Phát triển nhanh khu vực dịch vụ đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với
tiềm năng còn rất lớn của nước ta và xu hướng phát triển chung của thế giới;
tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế quốc tế để tạo bước phát triển vượt bậc
của khu vực dịch vụ, đưa tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng
GDP, phấn đấu đạt 7,7 - 8,2%/năm.
Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh
cao. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống,
như vận tải, thương mại, du lịch, ngân hàng, bưu chính - viễn thông. Phát triển
mạnh các dịch vụ phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở
nông thôn. Mở rộng các dịch vụ mới, nhất là những dịch vụ cao cấp, dịch vụ có
hàm lượng trí tuệ cao, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Trong sự phát triển nhanh hơn
của dịch vụ vận tải, cần tạo lập và phát triển mạnh dịch vụ vận tải đa phương
thức và dịch vụ hỗ trợ các phương thức vận tải. Tiếp tục phát triển mạnh thương
mại trong nước trên tất cả các vùng và gia tăng nhanh xuất khẩu. Phát triển
mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động du lịch, đa dạng hoá sản phẩm và các loại
hình du lịch. Hiện đại hoá và mở rộng các dịch vụ ngân hàng theo kịp yêu cầu
phát triển thị trường tài chính, tiền tệ và hội nhập kinh tế quốc tế. Phát
triển các dịch vụ pháp luật, kiểm toán, bảo hiểm, khoa học và công nghệ, giáo
dục và đào tạo, y tế, văn hoá, thông tin, thể thao; tăng số lượng và nâng cao
chất lượng dịch vụ việc làm, an sinh xã hội.
Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo môi trường thuận lợi cho
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh tranh bình đẳng
trên thị trường dịch vụ.
Đổi mới căn bản cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công
cộng[19] là khâu đột phá quan trọng để đưa tiến
trình xã hội hoá các lĩnh vực văn hoá - xã hội lên một bước phát triển mới.
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, phải luôn coi trọng yêu cầu nâng cao các
phúc lợi xã hội cơ bản của nhân dân, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội chủ
nghĩa, đặc biệt là đối với người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách;
đồng thời, không xem nhẹ việc đáp ứng những nhu cầu của bộ phận ngày càng đông
dân cư có thu nhập cao hơn. Nhà nước tăng thêm ngân sách tiếp tục đầu tư phát
triển cơ sở vật chất - kỹ thuật để nâng cao phúc lợi chung cho toàn xã hội và
bảo đảm cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản, trước hết là về y tế, giáo dục cho
người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách; đồng thời, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển các cơ sở dịch vụ tư nhân và cơ sở có vốn đầu tư
nước ngoài.
Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị công lập cung ứng dịch vụ công
cộng theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thực hiện hạch toán thu - chi
không vì lợi nhuận; Nhà nước không bao cấp tràn lan.
Dịch vụ công cộng là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân
dân và là yếu tố quan trọng góp phần ổn định xã hội; vì vậy, việc chuyển đổi
phương thức cung ứng các loại dịch vụ này cần được thực hiện một cách kiên định và tích cực, nhưng phải theo một kế hoạch
đồng bộ và một lộ trình phù hợp.
1.5- Tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế
và hoạt động kinh tế đối ngoại
Thực hiện tốt đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; chủ
động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn và đầy đủ hơn với khu vực và thế giới.
Thực hiện có hiệu quả các cam kết với các nước, các tổ chức quốc tế về thương
mại, đầu tư, dịch vụ và các lĩnh vực khác. Thực hiện các cam kết của Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN và tích cực tham gia quá trình xây dựng Cộng đồng kinh tế
ASEAN. Chuẩn bị tốt các điều kiện để bảo đảm thực hiện các cam kết khi nước ta
gia nhập WTO.
Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm
lợi ích quốc gia và phù hợp với các quy định, thông lệ quốc tế. Tiếp tục cải
thiện môi trường đầu tư, chú trọng cải cách hành chính, đào tạo nguồn nhân lực,
tạo lập những điều kiện thuận lợi hơn nữa để khai thác lợi thế của đất nước và
khắc phục những vướng mắc ảnh hưởng đến việc thu hút các nguồn vốn quốc tế, như
vốn ODA, vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp dưới nhiều hình thức, tín dụng thương
mại và các nguồn vốn quốc tế khác.
Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng
nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn
và hình thức thu hút FDI, hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập
đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất
lượng, hiệu quả nguồn FDI; tranh thủ nguồn vốn ODA đi đôi với việc đẩy nhanh
tốc độ giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng và có kế hoạch đảm bảo trả nợ. Từng
bước mở rộng đầu tư gián tiếp của nước ngoài và có chính sách hiệu quả hơn để
thu hút kiều hối vào phát triển kinh tế. Tạo điều kiện thuận lợi và có cơ chế
khuyến khích các hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam.
Tận dụng điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động và khẩn trương
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và quản lý, phát huy lợi thế so
sánh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của sản phẩm và dịch vụ Việt Nam
tại thị trường trong nước và trên thế giới. Đẩy nhanh xuất khẩu, chủ động về
nhập khẩu, kiềm chế và thu hẹp dần nhập siêu; phấn đấu tăng nhanh tỉ trọng xuất
khẩu các sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao, giàu hàm lượng công nghệ,
có sức cạnh tranh, tạo thêm các sản phẩm xuất khẩu chủ lực mới, hết sức hạn chế
và tiến tới chấm dứt xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và nông sản chưa qua chế
biến. Củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo thị trường ổn định cho các
mặt hàng có khả năng cạnh tranh; tăng thêm thị phần ở các thị trường lớn và
khai mở các thị trường còn nhiều tiềm năng. Phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất
khẩu 5 năm tới lên hơn hai lần 5 năm trước.
Phát huy tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
trong hội nhập kinh tế quốc tế. Từng doanh nghiệp phải khẩn trương đổi mới từ
tư duy đến phong cách quản lý, đổi mới thiết bị, công nghệ, nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn đầu tư, giảm chi phí để tăng sức cạnh tranh. Xúc tiến mạnh thương
mại và đầu tư, phát triển thị trường mới, sản phẩm mới và thương hiệu mới. Khuyến
khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác, liên doanh với các doanh nghiệp nước
ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài.
2- Về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ:
2.1- Tạo được chuyển biến cơ bản về phát triển giáo dục và đào tạo
Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình,
nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo
được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với
trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá,
thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Xây dựng nền giáo dục của dân,
do dân và vì dân; bảo đảm công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều
kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời.
Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới
phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ
sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của
học sinh, sinh viên. Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát vọng mãnh
liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai
của cộng đồng, của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh, phẩm
chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại. Triển khai thực hiện hệ thống
kiểm định khách quan, trung thực chất lượng giáo dục, đào tạo.
Hoàn chỉnh và ổn định lâu dài hệ thống giáo dục quốc dân; chú trọng
phân luồng đào tạo sau trung học cơ sở; bảo đảm liên thông giữa các cấp đào
tạo. Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học, tạo chuyển biến mạnh mẽ về
chất lượng đào tạo. Tập trung sức xây dựng một số trường đại học đạt đẳng cấp
quốc tế, đào tạo nhân tài cho đất nước.
Mở rộng quy mô dạy nghề và trung học chuyên nghiệp, bảo đảm tốc độ tăng
nhanh hơn đào tạo đại học, cao đẳng. Quy mô tuyển sinh dạy nghề dài hạn tăng
17%/năm và trung học chuyên nghiệp tăng hàng năm khoảng 15%. Tăng nhanh tỉ lệ
học sinh tốt nghiệp phổ thông được học tiếp lên đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp, học nghề. Phát triển rộng khắp và nâng cao chất lượng các trung
tâm giáo dục cộng đồng. Tích cực triển khai hình thức giáo dục từ xa.
Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo. Rà soát, sắp xếp lại quy hoạch
mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Đi
đôi với việc đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng các trường công lập,
cần bổ sung chính sách ưu đãi để phát triển các trường ngoài công lập và các
trung tâm giáo dục cộng đồng. Xúc tiến xây dựng một, hai trường đại học của
Việt Nam đạt đẳng cấp quốc tế. Có lộ trình cụ thể cho việc chuyển một số cơ sở
giáo dục, đào tạo công lập sang dân lập, tư thục; xoá bỏ hệ bán công. Khuyến
khích thành lập mới và phát triển các trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề ngoài công lập, kể cả trường do nước ngoài đầu tư.
Sửa đổi chế độ học phí đi đôi với đổi mới cơ chế tài chính giáo dục và
đào tạo theo hướng xác định đầy đủ chi phí dạy và học, chia sẻ hợp lý trách
nhiệm chi trả giữa Nhà nước, xã hội và người học; thực hiện miễn, giảm học phí
và cấp học bổng cho học sinh nghèo, học sinh thuộc diện chính sách và học sinh
giỏi.
Tập trung ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống trường
lớp, cơ sở vật chất - kỹ thuật các cấp học, mở thêm các trường nội trú, bán trú
và có chính sách bảo đảm đủ giáo viên cho các vùng này; phấn đấu đưa các chỉ số
phát triển giáo dục và đào tạo ở đồng bằng sông Cửu Long lên ngang bằng trình
độ bình quân chung của cả nước.
Đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo;
Nhà nước thực hiện đúng chức năng định hướng phát triển, tạo lập khung pháp lý
và kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực thi pháp luật, tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh trong giáo dục và đào tạo; chống bệnh thành tích. Đổi mới tổ
chức và hoạt động, đề cao và bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà
trường, nhất là trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
Tập trung khắc phục những tiêu cực trong dạy thêm, học thêm, thi cử, tuyển sinh,
đánh giá kết quả học tập và cấp chứng chỉ, văn bằng.
Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo; từng bước xây dựng nền
giáo dục hiện đại, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.2- Phát triển mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt
động khoa học và công nghệ
Phát triển mạnh, kết hợp chặt giữa hoạt động khoa học và công nghệ với
giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động
lực đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức.
Thống nhất định hướng giữa phát triển khoa học và công nghệ với chấn hưng giáo
dục và đào tạo, phát huy quan hệ tương tác thúc đẩy lẫn nhau giữa hai lĩnh vực
quốc sách hàng đầu này.
Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, tạo
bước đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong từng ngành, từng lĩnh
vực của nền kinh tế. Tăng nhanh năng lực khoa học và công nghệ nội sinh đi đôi
với tăng cường tiếp thu, làm chủ, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ thế
giới. Nâng cao chất lượng và tính thương mại của các sản phẩm khoa học và công
nghệ; nâng cao ý thức chấp hành và hiệu lực thực thi pháp luật về sở hữu trí
tuệ. Cùng với việc đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động khoa học và công nghệ, cần tập
trung đầu tư của Nhà nước vào các chương trình nghiên cứu quốc gia, phấn đấu
đạt trình độ khu vực và thế giới; xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ của
một số lĩnh vực trọng điểm, công nghệ cao. Chú trọng công tác đào tạo và bổ
sung cơ chế, chính sách sử dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học.
Đổi mới tổ chức và xây dựng quy chế liên kết giữa khoa học và công nghệ
với giáo dục và đào tạo, giữa giảng dạy và nghiên cứu với thực tiễn sản xuất,
kinh doanh. Xây dựng quy chế về nghiên cứu khoa học trong các trường đại học và
về công tác giảng dạy, đào tạo của các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ. Có
chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới và chuyển giao công
nghệ, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống. Phát
triển quan hệ liên kết, đặt hàng giữa các đơn vị sản xuất, kinh doanh, các tổ
chức và cá nhân có nhu cầu với các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ. Khuyến
khích và hỗ trợ các doanh nghiệp, trước hết là các tổng công ty lớn, triển khai
các hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ.
Đổi mới cơ bản cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, đặc biệt là cơ chế
tài chính phù hợp với đặc thù sáng tạo và khả năng rủi ro của hoạt động khoa
học và công nghệ. Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ
chức khoa học và công nghệ công lập. Chuyển các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và
phát triển công nghệ sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp dưới các hình thức
phù hợp; phát triển mạnh các doanh nghiệp khoa học và công nghệ thuộc mọi thành
phần kinh tế.
Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành,
tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật
có tay nghề cao.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ với nước ngoài, thu hút
nguồn lực bên ngoài phát triển khoa học và công nghệ. Khuyến khích tổ chức, cá
nhân nước ngoài đầu tư phát triển khoa học và công nghệ tại Việt Nam. Thu hút
chuyên gia nước ngoài, đặc biệt là chuyên gia giỏi người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tham gia giảng dạy, phát triển khoa
học và công nghệ tại Việt Nam.
3- Về văn hoá, xã hội
3.1- Phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội
Đẩy mạnh việc thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hoá đã được xác định
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là "làm
cho văn hoá thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện
hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân
tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá của loài người, tăng sức đề kháng chống văn
hoá đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn hoá trong mọi hoạt động kinh tế, chính
trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân”.
Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp
ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm sự gắn kết giữa
nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát
triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội. Xây dựng đời sống văn hoá tiên
tiến, thúc đẩy sáng tạo văn hoá và xây dựng thiết chế văn hoá. Đặc biệt coi
trọng nâng cao văn hoá lãnh đạo và quản lý, văn hoá trong kinh doanh và văn hoá
trong nhân cách của thanh niên, thiếu niên; chống những hiện tượng phản văn
hoá, phi văn hoá.
Đẩy mạnh việc xây dựng đời sống văn hoá đại chúng, xây dựng môi trường
văn hoá lành mạnh, đi đôi với bồi dưỡng các tài năng văn hoá, khuyến khích sáng
tạo nhiều công trình văn hoá, nghệ thuật tiêu biểu có giá trị cao về tư tưởng
và nghệ thuật, tương xứng với sự nghiệp giữ nước và dựng nước, đổi mới và phát
triển của dân tộc. Nâng cao chất lượng và mở rộng diện phổ biến các sản phẩm
văn hoá đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá ngày càng cao, đa dạng của các tầng
lớp nhân dân.
Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo
chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản và phát hành sách trên tất cả các vùng,
chú ý nhiều hơn đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Xúc tiến xã hội hoá các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thông tin với
bước đi thích hợp cho từng loại hình, từng vùng. Huy động các nguồn lực và sức
sáng tạo trong xã hội để đầu tư xây dựng các công trình và thiết chế văn hoá,
tổ chức các hoạt động văn hoá, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình,
đoàn thể tham gia hoạt động văn hoá, nghệ
thuật, quản lý và bảo vệ di tích, di sản văn hoá.
Mở rộng giao lưu văn hoá, thông tin với thế giới.
Đổi mới và tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hoá - thông
tin. Sắp xếp lại hệ thống báo chí.
3.2- Về kiềm chế tốc độ tăng dân số, chuyển dịch cơ cấu lao động, giải
quyết việc làm và an sinh xã hội
Tiếp tục kiềm chế tốc độ tăng dân số, phấn đấu đạt chỉ tiêu về dân số
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010. Chú trọng nâng
cao chất lượng dân số và phân bố dân cư hợp lý giữa các vùng; xây dựng các quy
hoạch và chính sách thích hợp nhằm đáp ứng xu thế chuyển dịch cơ cấu dân số ở
nông thôn và thành thị. Đưa công tác dân số, gia đình và trẻ em ở các cấp đi
vào nền nếp, vào từng gia đình, có chiều sâu và mang tính bền vững.
Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỉ trọng lao động nông, lâm
nghiệp và thủy sản xuống dưới 50% vào năm 2010; tăng tỉ trọng lao động công
nghiệp, xây dựng và đặc biệt là lao động ở khu vực dịch vụ trong tổng lao động
xã hội.
Ưu tiên dành vốn đầu tư của Nhà nước và huy động vốn xã hội để giải
quyết việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp. Khuyến khích người lao động tự tạo việc
làm, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển các ngành nghề sử dụng nhiều lao
động. Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân, nhất là những nơi đất
nông nghiệp bị chuyển đổi do đô thị hoá và công nghiệp hoá. Phát triển các dịch
vụ phục vụ đời sống của người lao động ở các khu công nghiệp. Tiếp tục thực
hiện chương trình xuất khẩu lao động, tăng tỉ lệ lao động xuất khẩu đã qua đào
tạo, quản lý chặt chẽ và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
Tiếp tục hoàn chỉnh thể chế thị trường lao động theo hướng bảo đảm hài
hoà lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động. Đổi mới hệ thống bảo
hiểm xã hội theo hướng đa dạng hoá hình thức và phù hợp với kinh tế thị trường;
xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp, thực hiện tốt chế độ bảo hộ lao động, an
toàn lao động và vệ sinh lao động.
Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách ưu đãi người có
công với nước; vận động toàn xã hội tham gia các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa; nâng cao mức sống
về vật chất, tinh thần của người có
công bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình dân cư. Trợ giúp nạn nhân chất độc da cam, người già cô
đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật nặng, tạo thuận lợi để họ hoà nhập với
cộng đồng. Đổi mới nhận thức, cách làm, huy động
sức mạnh toàn xã hội để ngăn chặn, đẩy lùi và giải quyết các tệ nạn xã hội.
3.3- Tiếp tục đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo
Đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức thực hiện xoá đói, giảm nghèo
theo hướng phát huy cao độ nội lực và kết hợp sử dụng có hiệu quả sự trợ giúp
của quốc tế. Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội
và trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ nghèo,
vùng nghèo tự vươn lên thoát nghèo và cải thiện mức sống một cách bền vững; kết
hợp chính sách của Nhà nước với sự trợ giúp trực tiếp và có hiệu quả của toàn
xã hội, của những người khá giả cho người nghèo, hộ nghèo, nhất là đối với
những vùng đặc biệt khó khăn. Ngăn chặn tình trạng tái nghèo.
Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đặc biệt về trợ giúp đầu tư phát
triển sản xuất, nhất là đất sản xuất; trợ giúp đất ở, nhà ở, nước sạch, đào tạo
nghề và tạo việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo; có chính sách khuyến
khích mạnh các doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ
giàu đầu tư vốn phát triển sản xuất ở nông thôn, nhất là nông thôn vùng núi.
Phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân
tham gia công cuộc xoá đói, giảm nghèo.
3.4. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ
nhân dân
Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân
dân đáp ứng yêu cầu của chiến lược phát triển con người.
Tăng đầu tư của Nhà nước và tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc nâng cấp
mạng lưới y tế cơ sở, y tế dự phòng, các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, huyện,
các trung tâm y tế vùng, các cơ sở y tế chuyên sâu; đồng thời, có chính sách
trợ giúp các đối tượng chính sách, người nghèo, người có thu nhập thấp được
tiếp cận dịch vụ y tế.
Phát triển hệ thống y tế dự phòng. Thực hiện tốt phong trào vệ sinh,
phòng bệnh và các biện pháp kiểm soát vệ sinh, an toàn thực phẩm; nâng cao năng
lực giám sát, phát hiện và khống chế dịch bệnh, đặc biệt là HIV/AIDS và các
dịch bệnh mới phát sinh. Trang bị kiến thức và kỹ năng để mỗi người dân có khả
năng chủ động phòng bệnh và rèn luyện nâng cao sức khoẻ.
Khuyến khích phát triển các cơ sở y tế thuộc nhiều hình thức sở hữu, kể
cả đầu tư ngước ngoài. Bố trí mạng lưới bệnh viện theo địa bàn dân cư, tạo
thuận lợi cho người dân khám, chữa bệnh không lệ thuộc vào địa giới hành chính
nơi cư trú. Mở rộng các hình thức dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tại nhà, bác sĩ gia
đình, chăm sóc người già cô đơn, người tàn tật.
Hoàn thiện và củng cố mạng lưới y học cổ truyền. Vận động, khuyến khích
và hướng dẫn nhân dân nuôi, trồng và sử dụng các loại cây và các con vật làm
thuốc chữa bệnh.
Đổi mới quản lý các bệnh viện công lập, nâng cao tính tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của bệnh viện; thí điểm và chuyển dần các bệnh viện công lập, trước
hết là bệnh viện lớn, bệnh viện chuyên khoa sang hoạt động theo cơ chế hạch
toán không vì lợi nhuận.
Sửa đổi chế độ viện phí theo nguyên tắc xác định đầy đủ chi phí khám,
chữa bệnh và chia sẻ hợp lý trách nhiệm chi trả giữa Nhà nước, xã hội và người
bệnh; Nhà nước trợ giúp một phần hoặc toàn bộ viện phí cho người nghèo và các
đối tượng chính sách thông qua bảo hiểm y tế; thực hiện tốt việc khám, chữa
bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi.
Phát triển và nâng cao chất lượng bảo hiểm y tế; xây dựng và thực hiện
tốt lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân; phát triển mạnh các loại hình bảo
hiểm y tế tự nguyện, bảo hiểm y tế cộng đồng. Mở rộng diện các cơ sở y tế công
lập và ngoài công lập khám chữa bệnh theo bảo hiểm y tế; hạn chế và giảm dần
hình thức thanh toán viện phí trực tiếp từ người bệnh. Đổi mới phương thức thanh
toán viện phí qua quỹ bảo hiểm y tế.
Phát triển mạnh công nghiệp dược, nâng cao năng lực sản xuất thuốc
trong nước. Củng cố mạng lưới phân phối, lưu thông và cung ứng thuốc để ổn định
thị trường thuốc phòng và chữa bệnh cho nhân dân. Đẩy mạnh nghiên cứu và sản
xuất vắc-xin, sinh phẩm dùng cho người. Phát triển công nghiệp trang bị, thiết
bị y tế theo hướng hiện đại, tiếp cận và ứng dụng thành tựu khoa học và công
nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học và công nghệ thông tin.
Phát huy vai trò và hiệu quả của chương trình kết hợp quân - dân y
trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân và các lực lượng vũ trang,
nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Kết hợp chặt chẽ các ngành y tế, thể dục, thể thao, giáo dục, lực lượng
vũ trang, các đoàn thể nhân dân trong việc xây dựng và thực hiện chương trình
nâng cao năng lực thể chất và tầm vóc con người Việt Nam, đặc biệt là thiếu
niên, thanh niên.
3.5- Phát triển thể dục, thể thao
Đẩy mạnh các hoạt động thể dục, thể thao cả về quy mô và chất lượng.
Khuyến khích và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia hoạt động và phát triển
sự nghiệp thể dục, thể thao.
Phát triển mạnh thể thao quần chúng, thể thao nghiệp dư, trước hết là
trong thanh niên, thiếu niên. Làm tốt công tác giáo dục thể chất trong trường
học. Mở rộng quá trình chuyên nghiệp hoá thể thao thành tích cao. Đổi mới và
tăng cường hệ thống đào tạo vận động viên trẻ.
Từng bước chuyển các đơn vị sự nghiệp thể dục, thể thao công lập sang
áp dụng chế độ tự chủ tài chính, tiến tới tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện
như các tổ chức cung ứng dịch vụ công cộng khác. Khuyến khích các doanh nghiệp
ngoài công lập đầu tư và kinh doanh cơ sở luyện tập, thi đấu thể thao.
Phân định rõ trách nhiệm giữa cơ quan quản lý hành chính nhà nước và
các tổ chức liên đoàn, hiệp hội thể thao. Chuyển giao hoạt động tác nghiệp về
thể thao cho các tổ chức xã hội và các cơ sở ngoài công lập thực hiện.
4- Tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường, bảo
vệ tài nguyên thiên nhiên
Coi trọng việc thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong
mọi hoạt động kinh tế, xã hội. Thực hiện tốt Chương trình nghị sự XXI (20).
Áp dụng các biện pháp mạnh mẽ để ngăn chặn các hành vi huỷ hoại hoặc
gây ô nhiễm môi trường, từng bước khắc phục tình trạng xuống cấp, cải thiện
chất lượng môi trường, đặc biệt tập trung khắc phục ô nhiễm ở các lưu vực sông,
các đô thị và khu công nghiệp, các làng nghề, nơi có đông dân cư và nhiều hoạt
động kinh tế.
Xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị
hoá với bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững.
Tăng cường quản lý, bảo đảm khai thác tài nguyên hợp lý
và tiết kiệm; xây dựng và thực hiện nghiêm các quy
định về phục hồi môi trường các khu khai thác khoáng sản và các hệ sinh thái đã
bị xâm phạm, bảo đảm cân bằng sinh thái.
Nhà nước tăng cường đầu tư và đổi mới chính sách để thu hút đầu tư của
xã hội vào lĩnh vực môi trường; trước hết là các hoạt động thu gom, xử lý và
tái chế chất thải. Phát triển và ứng dụng công nghệ sạch hoặc công nghệ ít gây
ô nhiễm môi trường.
Hoàn chỉnh pháp luật, tăng cường quản lý nhà nước đi đôi với nâng cao ý
thức và trách nhiệm của mọi người dân, của toàn xã hội đối với việc phòng ngừa
ô nhiễm, bảo vệ và cải thiện môi trường. Thực hiện nguyên tắc người gây ra ô
nhiễm phải xử lý ô nhiễm hoặc phải chi trả cho việc xử lý ô nhiễm.
Từng bước hiện đại hóa công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng - thủy
văn; chủ động phòng, chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn.
______________________________________________________________
(20) Tháng 9 năm 2000, cùng với 189 vị đứng đầu nhà nước và Chính phủ
các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, Việt nam cam kết thực hiện Tuyên bố Thiên niên kỷ hay là Chương trình nghị sự XXI (viết tắt bằng tiếng Anh là MGD). MGD có 8 mục tiêu cụ
thể: (1) Xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực; (2) Đạt phổ cập giáo dục tiểu
học; (3) Tăng cường bình đẳng nam nữ à nâng cao vị thế cho phụ nữ; (4)
Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em; (5) Tăng cường sức khỏe bà mẹ; (6) Phòng chống
HIV/AIDS, Sốt rét và các bệnh khác; (7) Đảm bảo bền vững về môi trường; (8)
Thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển. Ngày 17 tháng 8 năm 2004, Thủ
tướng Chính phủ đã có quyết định số 153/2004/QDD-TTg về Định hướng chiến lược
phát triển bền vững ở Việt Nam và tháng 9-2005 đã quyết định thành lập Hội đồng
quốc gia về phát triển bền vững.
Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên
thiên nhiên. Chú trọng lĩnh vực quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước.
______________________________________________________________
5- Định hướng và chính sách phát triển vùng
Tiếp tục thực hiện các định hướng phát triển vùng của Chiến lược 10 năm
2001 - 2010 và các nghị quyết của Bộ Chính trị khoá IX về phát triển các vùng.
Bằng chính sách thích hợp tạo điều kiện cho tất cả các vùng trong cả
nước phát triển nhanh hơn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, hình thành cơ
cấu kinh tế hợp lý mỗi vùng và liên vùng; đồng thời, tạo ra sự liên kết giữa
các vùng nhằm đem lại hiệu quả cao, phát triển nhanh và ổn định, có sức cạnh
tranh; khắc phục tình trạng chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính.
Xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam
thành những trung tâm công nghiệp lớn có công nghệ cao, trung tâm tài chính,
ngân hàng, viễn thông, đào tạo và y tế chất lượng cao, trung tâm dịch vụ vận
tải và giao thương quốc tế. Phát huy thế mạnh của mỗi vùng trọng điểm để các
vùng này đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển chung của cả nước và trợ giúp
các vùng khó khăn, có năng lực hội nhập kinh tế quốc tế với quy mô lớn và trình
độ cao.
Có chính sách trợ giúp nhiều hơn về nguồn lực để phát triển các vùng
khó khăn, nhất là các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số. Bổ sung chính sách, khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả
doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư, kinh doanh tại các vùng khó khăn.
Phát triển mạnh kinh tế biển vừa toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng
điểm với những ngành có lợi thế so sánh để đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh
về kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. Hoàn
chỉnh quy hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển và vận tải biển,
khai thác và chế biến dầu khí, khai thác và chế biến hải sản, phát triển du
lịch biển, đảo; đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp đóng tàu và phát triển
các công nghiệp, dịch vụ bổ trợ. Hình thành một số hành lang kinh tế ven biển.
Nhanh chóng phát triển kinh tế - xã hội ở các hải đảo gắn với bảo đảm quốc
phòng, an ninh.
Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung cần chú trọng tăng cường các biện pháp hữu hiệu để phòng, chống thiên tai; xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, khai thác cảng biển, vận tải biển, công
nghiệp chế biến xuất khẩu, lọc hoá dầu, sản xuất vật liệu xây dựng, thuỷ điện,
du lịch, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản, trồng cây công nghiệp; phát triển có
hiệu quả các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển gắn với các cảng biển, các
đô thị mới và các tuyến hành lang Đông - Tây.
Vùng trung du, miền núi Bắc Bộ và vùng Tây Nguyên cần tập trung mọi nỗ lực phát triển kinh tế nhanh và bền vững, gắn chặt
với việc bảo đảm an ninh, quốc phòng. Phát triển mạnh thuỷ điện, công
nghiệp khai khoáng, sản xuất vật liệu xây
dựng và khai thác có hiệu quả quỹ đất trồng cây công nghiệp, cây ăn quả xuất
khẩu và trồng rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến có công nghệ hiện
đại. Phát triển du lịch sinh thái và văn hóa dân tộc. Chú trọng mở rộng quan hệ
thương mại với các nước láng giềng. Phát triển hài hoà giữa các tiểu vùng, giữa các tầng lớp dân cư và giữa đồng bào
các dân tộc.
Vùng đồng bằng sông Hồng và vùng đồng bằng sông Cửu Long cần tập trung
đầu tư trước hết là kết cấu hạ tầng để khai thác tốt hơn các lợi thế về đất,
nước, lao động làm gia tăng nhanh giá trị sản phẩm nông nghiệp và nâng cao chất
lượng phát triển nông nghiệp, thuỷ sản với công nghệ tiên tiến, tỉ suất hàng hoá cao, góp phần chủ yếu bảo đảm vững chắc an
ninh lương thực quốc gia; đồng thời, phát triển mạnh công nghiệp chế
biến, chế tác, sản xuất hàng tiêu dùng và phát triển mạnh dịch vụ với chất
lượng ngày càng cao, tạo nhiều việc làm mới.
Tập trung xây dựng và phát huy vai trò của thành phố Hà Nội là trung
tâm kinh tế lớn đặc biệt của phía Bắc và cả nước; xây dựng Thành phố Hồ Chí
Minh trở thành trung tâm lớn về tài chính, ngân hàng, viễn thông, công nghiệp
công nghệ cao, thương mại, du lịch, đào tạo, y tế chất lượng cao của phía Nam
và cả nước; tiếp tục đầu tư xây dựng để phát huy vai trò quan trọng của các
thành phố biển Hải Phòng, Đà Nẵng; phát huy lợi thế là cố đô và di sản văn hoá
thế giới để phát triển thành phố Huế thành
một trung tâm lớn về du lịch và dịch vụ; xây dựng thành phố Cần Thơ sớm trở
thành trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
6- Về kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh
Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh theo phương châm: phát
triển kinh tế - xã hội là nền tảng để bảo vệ Tổ quốc; ổn định chính trị, củng
cố quốc phòng, an ninh vững mạnh là điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội;
thực hiện tốt đường lối đối ngoại, tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi cơ
hội củng cố hoà bình, ổn định để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và giữ
vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là vùng biển, đảo. Sự kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh phải được thực hiện ngay
trên từng địa bàn lãnh thổ, từ công tác quy hoạch, xây dựng kế hoạch và hình
thành các dự án đầu tư phát triển. Xây dựng
tỉnh, huyện thành khu vực phòng thủ vững chắc.
Bố trí thế trận quốc phòng, an ninh phù hợp với tình hình mới và kết
hợp chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội. Phát huy các nguồn lực, lồng ghép
các chương trình, các dự án để xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng ở vùng
biên giới, hải đảo. Rà soát lại quy hoạch và điều chỉnh đất quốc phòng, an ninh
đáp ứng được yêu cầu về bố trí chiến lược quốc phòng, dành thêm đất cho phát
triển kinh tế - xã hội. Có chính sách đặc biệt phát triển kinh tế, nâng cao đời
sống nhân dân tại các khu vực có yêu cầu đặc thù về quốc phòng, an ninh.
Tiếp tục sắp xếp lại và nâng cao khả năng bảo đảm của công nghiệp quốc
phòng; tập trung đầu tư vào những khâu đặc thù phục vụ quốc phòng, an ninh mà
công nghiệp dân sinh không có khả năng bảo đảm. Mở rộng phương thức huy động
vốn xây dựng công nghiệp quốc phòng. Có chính sách khuyến khích các nhà máy
công nghiệp quốc phòng sản xuất các sản phẩm dân dụng để tăng thêm năng lực
phát triển.
Bảo đảm tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của lực lượng vũ trang.
Đáp ứng tốt hơn nhu cầu về vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật, nghiệp vụ có
trình độ công nghệ cao để tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội,
khả năng chủ động ứng phó của lực lượng công an trong mọi tình huống. Đầu tư
cho khoa học kỹ thuật và công nghệ quốc phòng, an ninh, đồng thời có chính sách
thích đáng để động viên tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia phục vụ quốc
phòng, an ninh.
Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng và
bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; ngăn chặn kịp thời và đấu
tranh có hiệu quả đối với hoạt động của các thế lực thù địch. Hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật và thực hiện tốt Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm.
III- CÁC CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP
1- Chính sách phát huy các nguồn lực
1.1- Thực hiện nhất quán các chính sách tạo môi trường thuận lợi cho hoạt
động đầu tư, kinh doanh và phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp.
Mọi công dân có quyền tự do đầu tư, kinh doanh trong những lĩnh vực,
ngành nghề, địa bàn mà pháp luật không cấm; có quyền bất khả xâm phạm về quyền
sở hữu tài sản hợp pháp; có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận
các cơ hội và các nguồn lực phát triển, trong cung cấp và tiếp nhận thông tin.
Việc hình thành và phát triển một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, có
sức cạnh tranh cao, có uy tín lớn là một nhiệm vụ chiến lược của Nhà nước và
toàn xã hội.
Nhà nước định hướng, tạo môi trường để các doanh nghiệp phát triển và
hoạt động có hiệu quả theo cơ chế thị trường. Hỗ trợ sự phát triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn, đa sở hữu, tạo
sức mạnh cho đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế. Thu hút ngày càng nhiều
tập đoàn kinh tế lớn của các nước đến đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.
Khuyến khích phát triển mạnh hình thức kinh tế đa sở hữu mà chủ yếu là
các doanh nghiệp cổ phần thông qua việc đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước và phát triển các doanh nghiệp cổ phần mới, để hình thức kinh tế này trở
thành phổ biến, chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong nền kinh tế nước ta.
Thực hiện chính sách ưu đãi hoặc hỗ trợ có điều kiện, có thời hạn đối
với một số ngành, một số sản phẩm quan trọng, thiết yếu, một số mục tiêu, một
số địa bàn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, không phân biệt thành phần kinh tế và phù
hợp với các cam kết quốc tế của nước ta. Thực hiện có hiệu quả Luật Doanh
nghiệp, Luật Đầu tư và các luật mới được ban hành, thấu suốt quan điểm đổi mới,
bảo đảm thật sự bình đẳng và tạo thêm thuận lợi đối với mọi loại hình tổ chức
sản xuất, kinh doanh và đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, cả trong và ngoài
nước.
Chính phủ, các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội nghề nghiệp chủ
động xây dựng và tích cực triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là về đào tạo cán bộ quản trị và
đào tạo nghề cho lao động; về cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại, xây dựng
thương hiệu, xử lý rủi ro trong kinh doanh, bảo vệ lợi ích chính đáng của các
doanh nghiệp. Thực sự tôn vinh
các doanh nhân có tài và thành đạt, đóng góp nhiều cho xã hội và Nhà nước.
1.2- Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh của doanh nghiệp nhà nước
Khẩn trương hoàn thành một cách vững chắc kế hoạch sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước theo hướng hình
thành loại hình công ty nhà nước đa sở hữu, chủ yếu là các công ty cổ
phần. Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước
mạnh, hoạt động đa ngành , đa lĩnh vực, trong đó có một số ngành chính; có
nhiều chủ sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối.
Đẩy mạnh và mở rộng diện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, kể cả các
tổng công ty nhà nước, nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng
động, để vốn nhà nước được sử dụng có hiệu quả và ngày càng tăng lên, đồng
thời, thu hút mạnh các nguồn lực trong, ngoài nước để phát triển. Thực hiện
nguyên tắc thị trường trong việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Nhà nước giữ cổ phần chi phối đối với các tổng công ty, công ty cổ phần
hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực thiết yếu cho việc bảo đảm những
cân đối lớn của nền kinh tế; chỉ giữ 100% vốn nhà nước trong các doanh nghiệp
hoạt động bảo đảm an ninh, quốc phòng và những doanh nghiệp sản xuất, cung ứng
dịch vụ công ích thiết yếu mà chưa cổ phần hoá được. Chuyển các doanh nghiệp
100% vốn nhà nước sang hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
một hoặc nhiều thành viên mà chủ sở hữu là Nhà nước.
Đối với những tổng công ty lớn chưa cổ phần hoá toàn bộ tổng công ty,
thực hiện cổ phần hoá hầu hết các doanh nghiệp thành viên và chuyển các doanh
nghiệp thành viên còn lại sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc
công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là Nhà nước; đồng thời, chuyển các
tổng công ty này sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Tổ chức
lại hội đồng quản trị để thực sự là đại diện trực tiếp của chủ sở hữu tại tổng
công ty.
Đặt các doanh nghiệp có vốn nhà nước vào môi trường hợp tác và cạnh
tranh bình đẳng với các doanh nghiệp khác để nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh. Thu hẹp tối đa diện Nhà nước độc quyền kinh doanh, xoá bỏ đặc quyền kinh
doanh của doanh nghiệp. Có cơ chế giám sát và chính sách điều tiết đối với
những doanh nghiệp chưa xoá bỏ được vị thế độc quyền kinh doanh. Chỉ thành lập
mới doanh nghiệp nhà nước khi hội đủ các điều kiện và trong những lĩnh vực sản
xuất, cung ứng những sản phẩm, dịch vụ thật cần thiết cho phát triển kinh tế -
xã hội và chủ yếu dưới hình thức công ty cổ phần.
Xác định rõ quyền tài sản, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh
doanh, cạnh tranh và chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp. Xây dựng cơ chế gắn
trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của người quản lý doanh nghiệp với kết quả
hoạt động của doanh nghiệp. Thực hiện quy chế hội đồng quản trị tuyển chọn, ký
hợp đồng thuê giám đốc điều hành doanh nghiệp.
Lành mạnh hoá tình hình tài chính và lao động của doanh nghiệp nhà
nước; kiên quyết xử lý những doanh nghiệp nhà nước kinh doanh thua lỗ bằng các
phương thức thích hợp.
Thực hiện cơ chế Nhà nước đầu tư vốn cho doanh nghiệp thông qua công ty
đầu tư tài chính nhà nước; các doanh nghiệp nhà nước huy động thêm vốn trên thị
trường, nhất là thị trường chứng khoán để phát triển kinh doanh.
Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước làm tốt việc đầu tư vốn cho
doanh nghiệp nhà nước và làm đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại các công
ty, tổng công ty nhà nước đã cổ phần hoá và các doanh nghiệp nhà nước độc lập
chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là Nhà nước.
Đổi mới tổ chức và quy chế thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đối
với doanh nghiệp nhà nước gắn với việc thu hẹp và tiến tới không còn chức năng
đại diện chủ sở hữu của các bộ, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố đối với
doanh nghiệp nhà nước.
Quy định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan quản lý hành
chính nhà nước và của đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước.
1.3- Tiếp tục đổi mới, tạo động lực phát triển có hiệu quả các loại hình
kinh tế tập thể
Tiếp tục đổi mới chính sách để khuyến khích, thúc đẩy phát triển mạnh
hơn các loại hình kinh tế tập thể với những hình thức hợp tác đa dạng, tự
nguyện, đáp ứng nhu cầu của các thành viên, phù hợp với trình độ phát triển của
các ngành, nghề, trên các địa bàn.
Tiếp tục nghiên cứu xây dựng mô hình hợp tác xã kiểu mới trên cơ sở
tổng kết các đơn vị làm tốt để tăng sức hấp dẫn, tạo động lực cho kinh tế tập
thể, nhất là đối với nông nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp. Đa dạng hoá hình thức
sở hữu trong kinh tế tập thể (có sở hữu pháp nhân, thể nhân). Phát triển các
loại hình doanh nghiệp trong hợp tác xã và các hình thức liên hiệp hợp tác xã.
Có cơ chế để hợp tác xã có thể phát huy quyền sử dụng tư liệu sản xuất
chung tại cơ sở; tách bạch giữa quyền này với quyền sở hữu của các xã viên.
Khuyến khích huy động cổ phần và nguồn vốn góp của xã viên để không ngừng tăng
thêm vốn đầu tư phát triển hợp tác xã. Khuyến khích tăng tài sản và quỹ không
chia của hợp tác xã. Giải thể hoặc chuyển các hợp tác xã chỉ còn là hình thức
sang các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy định của pháp
luật.
1.4- Tiếp tục phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình
doanh nghiệp của tư nhân
Tạo điều kiện thuận lợi cho các loại hình kinh tế tư nhân đầu tư phát
triển theo quy định pháp luật, không hạn chế về quy mô, ngành nghề, lĩnh vực,
địa bàn. Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử; thực sự bình đẳng, tạo thuận
lợi để các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ kinh doanh
được tiếp cận các nguồn vốn tại các tổ chức tín dụng của Nhà nước, kể cả quỹ hỗ
trợ phát triển; được đáp ứng thuận lợi nhu cầu sử dụng đất làm mặt bằng sản
xuất, kinh doanh. Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp lớn của tư nhân, các
tập đoàn kinh tế tư nhân có nhiều chủ sở hữu với hình thức công ty cổ phần.
Tổng kết và có chính sách, giải pháp thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển.
Khuyến khích tư nhân mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước, tham
gia đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng của nền kinh tế.
Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân lớn bán cổ phần cho người lao động.
Bảo vệ tài sản hợp pháp của công dân và doanh nghiệp. Loại bỏ các quy
định pháp luật không phù hợp về việc khám xét nơi ở và làm việc, tịch thu hoặc
tạm giữ tài sản của công dân và doanh nghiệp. Các cơ quan có thẩm quyền phải
đền bù thích đáng về cả danh dự và vật chất cho những quyết định trái pháp luật
gây thiệt hại cho công dân và doanh nghiệp.
1.5- Thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của
nền kinh tế Việt Nam được đối xử bình đẳng như doanh nghiệp Việt Nam trong kinh
doanh. Tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào phát triển
các ngành, các vùng lãnh thổ phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta.
Đa dạng hoá hình thức và cơ chế đầu tư để thu hút mạnh nguồn lực của
các nhà đầu tư nước ngoài, gồm cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp, vào các ngành,
các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, nhất là các lĩnh vực công nghệ cao,
công nghệ nguồn, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội.
Bảo đảm tính thống nhất, ổn định, minh bạch và ngày càng hấp dẫn trong
chính sách đầu tư nước ngoài. Đổi mới phương thức quản lý nhà nước và cải tiến
mạnh mẽ thủ tục đầu tư, thực hiện đúng theo các quy định của Luật Đầu tư và phù
hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của nước ta.
1.6- Đổi mới chính sách đầu tư
Đổi mới chính sách và cải thiện môi trường đầu tư, xoá bỏ các hình thức
phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội đầu tư để khai thác và sử dụng có
hiệu quả các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế trong nước và thu hút vốn đầu
tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế để bảo đảm đầu tư của Nhà nước có hiệu quả,
khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí. Vốn đầu tư từ ngân
sách nhà nước tập trung cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển văn
hoá, giáo dục, khoa học - công nghệ, y tế và trợ giúp vùng khó khăn. Vốn tín
dụng ưu đãi của Nhà nước dành ưu tiên cho việc xây dựng các cơ sở thuộc kết cấu
hạ tầng có thu hồi vốn và hỗ trợ đầu tư một số dự án quan trọng thiết yếu của
nền kinh tế. Đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hướng vào nâng cao năng lực sản
xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hoá công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Vốn của khu vực dân doanh được khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực tạo nhiều
sản phẩm xuất khẩu và việc làm. Khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước
ngoài chuyển vốn và công nghệ về nước tham gia đầu tư.
Tiếp tục tranh thủ nguồn vốn ODA. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn các
công trình, dự án đã được ký kết; xây dựng Chiến lược thu hút và sử dụng vốn
ODA cho thời kỳ mới, tập trung vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở các
trung tâm kinh tế và các vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn.
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp của nước ngoài, tạo lợi
thế so sánh để thu hút nhiều doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế hàng đầu
thế giới đầu tư cho sản phẩm xuất khẩu và công nghệ cao, tạo sự chuyển biến
tích cực về chất lượng, số lượng và hiệu quả đầu tư nước ngoài.
Đơn giản hoá thủ tục cấp phép đầu tư đối với đầu tư nước ngoài; thu hẹp
các lĩnh vực không cho phép đầu tư và những lĩnh vực đầu tư có điều kiện, mở
rộng lĩnh vực đăng ký đầu tư. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư phát triển các lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế.
2- Phát triển đồng bộ các loại thị trường và tiếp tục hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.1- Phát triển đồng bộ các loại thị trường
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về kinh tế để tạo lập đồng bộ và vận hành
thông suốt các loại thị trường, để các giao dịch thị trường diễn ra phù hợp với
các nguyên tắc của kinh tế thị trường. Hoàn thiện hệ thống quy tắc vận hành của
các tổ chức tham gia thị trường đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường và thông
lệ quốc tế. Điều chỉnh mạnh chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Nhà nước
theo hướng phát huy vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo môi trường kinh
doanh và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, không can thiệp trực tiếp vào sản
xuất, kinh doanh.
Phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ theo hướng đẩy mạnh tự
do hoá thương mại và đầu tư phù hợp với các cam kết song phương, đa phương của
nước ta và theo thông lệ quốc tế; tạo bước phát triển mới, nhanh và toàn diện
thị trường dịch vụ; thúc đẩy cạnh tranh, kiểm soát độc quyền, bảo vệ lợi ích
người tiêu dùng; tôn trọng quyền định giá và cạnh tranh về giá cả của doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật; thực hiện quản lý nhà nước về giá đối với
một số hàng hoá, dịch vụ độc quyền phù hợp với cơ chế thị trường và nguyên tắc
của hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát triển thị trường tài chính theo hướng đồng bộ, có cơ cấu
hoàn chỉnh; tăng nhanh quy mô và mở rộng phạm vi hoạt động; vận hành an toàn,
được quản lý, giám sát hiệu quả; khuyến khích mở rộng các hoạt động dịch vụ hỗ
trợ phát triển thị trường tài chính; bảo vệ lợi ích hợp pháp của mọi đối tượng
tham gia thị trường.
Phát triển mạnh thị trường vốn theo hướng phát triển vững mạnh hệ thống
ngân hàng thương mại thuộc các thành phần kinh tế, phát huy vai trò của các
ngân hàng trong việc huy động và cho vay vốn đầu tư; đồng thời khẩn trương nâng
cấp và thực hiện các biện pháp đồng bộ để phát triển nhanh thị trường chứng
khoán thành một kênh huy động vốn dài hạn quan trọng trong nền kinh tế. Đẩy
nhanh và mở rộng diện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích hình
thành các công ty cổ phần thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp
FDI, niêm yết cổ phiếu và huy động vốn qua thị trường chứng khoán. Hình thành
đồng bộ thể chế về thị trường chứng khoán; tăng cường hỗ trợ của Nhà nước về
kết cấu hạ tầng kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực, phổ cập kiến thức, tạo điều
kiện thuận lợi cho công chúng tham gia thị trường này.
Phát triển thị trường tiền tệ theo hướng hiện đại hoá và đa dạng hoá
các hình thức hoạt động; hoàn thiện hệ thống luật pháp, nâng cao sức cạnh
tranh, năng lực quản trị của các ngân hàng; xoá bỏ các phân biệt đối xử trong
tiếp cận nguồn vốn và tham gia thị trường, tạo môi trường bình đẳng trên thị
trường tiền tệ; tăng cường liên kết giữa thị trường tiền tệ với thị trường vốn.
Phát triển thị trường bất động sản trên cơ sở thực hiện Luật Đất
đai, Luật Xây dựng, Luật Nhà ở và Luật về kinh doanh bất động sản...; hoàn
thiện việc phân loại, đánh giá đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất; làm cho quyền sử dụng đất chuyển thành hàng hoá một cách thuận lợi, đất
đai trở thành nguồn vốn quan trọng cho phát triển.
Giá bất động sản được hình thành theo nguyên tắc thị trường. Nhà nước
tác động đến giá đất trên thị trường bằng các chính sách kinh tế vĩ mô trên cơ
sở quan hệ cung - cầu về đất đai. Tăng cường các biện pháp chống đầu cơ, hạn
chế việc giao dịch ngầm không theo quy định của pháp luật. Xây dựng hệ thống
đăng ký, thông tin bất động sản. Phát triển nhanh các dịch vụ đáp ứng yêu cầu
của thị trường bất động sản.
Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tạo môi trường thông suốt để phát triển thị
trường lao động theo hướng gắn kết cung - cầu lao động; đa dạng hoá các
hình thức giao dịch việc làm, phát huy tính tích cực và bảo đảm quyền của người
lao động lựa chọn chỗ làm việc. Thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động;
bảo đảm quyền lợi hợp pháp của cả người lao động và người sử dụng lao động;
thực hiện chế độ bảo hiểm và trợ cấp thất nghiệp. Tăng cường hệ thống thông
tin, thống kê thị trường lao động. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động và tăng cường
quản lý nhà nước đối với hoạt động này.
Về thị trường khoa học, công nghệ, thực hiện tốt Luật Sở hữu trí
tuệ và Luật Chuyển giao công nghệ. Đổi mới quản lý nhà nước đối với thị trường
khoa học, công nghệ; khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động khoa học và công nghệ
theo cơ chế thị trường; bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với các công trình khoa
học và hoạt động sáng tạo. Khuyến khích các hoạt động tư vấn, dịch vụ ứng dụng
công nghệ mới và chuyển giao công nghệ. Phát triển các doanh nghiệp khoa học và
công nghệ, các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ thuộc nhiều
hình thức sở hữu, hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp. Tạo môi trường mua bán
thuận lợi các sản phẩm khoa học và công nghệ, gắn kết hoạt động nghiên cứu và
ứng dụng công nghệ, phát triển quan hệ hợp đồng giữa doanh nghiệp sản xuất với
cơ sở nghiên cứu, phát triển, ứng dụng công nghệ mới.
Có chính sách nhập khẩu lao động có chất lượng cao trong lĩnh vực công
nghệ và quản lý những ngành, nghề cần ưu tiên phát triển.
2.2- Chính sách tài chính, tiền tệ và tín dụng
Chính sách tài chính:
Xây dựng đồng bộ thể chế tài chính phù hợp với thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới chính sách quản lý tài chính nhằm
tiếp tục khơi thông, giải phóng và phân bổ hợp lý, có hiệu quả các nguồn lực,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội; phát triển nền tài chính quốc gia
vững mạnh, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, nâng cao vị thế và uy tín quốc
tế của tài chính Việt Nam.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công
bằng, thống nhất và đồng bộ, bảo đảm môi trường thuận lợi, khuyến khích phát
triển sản xuất, kinh doanh. Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn
định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập. Không lồng
ghép chính sách xã hội trong chính sách thuế. Từng bước thực hiện phương pháp tính
thuế, quản lý thu thuế, xử lý các vi phạm về thuế theo thông lệ quốc tế; hiện
đại hoá công tác quản lý hành chính thuế và phát triển dịch vụ tư vấn thuế.
Đổi mới chính sách phân phối tài chính và cơ chế kết hợp nguồn lực nhà
nước với các nguồn lực khác nhằm thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng xoá bao cấp bất hợp lý từ ngân sách nhà nước; tăng tỉ trọng
ngân sách đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực và cho các lĩnh vực văn hoá, xã
hội; bảo đảm nguồn lực cho hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước và quốc phòng,
an ninh. Kết hợp sử dụng có hiệu quả nguồn lực của Nhà nước với thu hút có hiệu
quả các nguồn vốn khác nhằm phát triển mạnh mẽ kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội.
Sử dụng nguồn thu từ sổ xố kiến thiết để đầu tư các công trình phúc lợi về giáo
dục, y tế; việc phân bổ đầu tư đối với từng công trình cụ thể do Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố quyết định; không đưa nguồn thu này thành một nguồn thu
thường xuyên, ổn định của ngân sách nhà nước.
Đổi mới cơ chế quản lý ngân sách theo kết quả thực hiện các công việc
được ngân sách cấp kinh phí. Xây dựng kế hoạch tài chính trung hạn để tạo cơ sở
nâng cao chất lượng dự toán ngân sách. Tăng cường phân cấp quản lý ngân sách,
bảo đảm tính thống nhất về thể chế của ngân sách nhà nước và vai trò chủ đạo
của ngân sách trung ương. Phát huy vai trò của Quốc hội và hội đồng nhân dân
các cấp trong việc quyết định và giám sát ngân sách. Nâng cao tính minh bạch,
dân chủ và công khai trong quản lý ngân sách nhà nước. Xây dựng thể chế giám
sát tài chính đồng bộ; hiện đại hoá công nghệ giám sát. Chuẩn mực hoá hệ thống
kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế. Thực hiện kiểm toán bắt buộc
đối với tất cả các cấp ngân sách, đơn vị sử dụng vốn, tài sản và ngân sách nhà
nước.
Đổi mới căn bản chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước;
kiên quyết xoá bỏ tình trạng bao cấp đối với sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị
cung ứng dịch vụ công cộng.
Ban hành Luật Quản lý tài sản nhà nước nhằm quản lý, sử dụng có hiệu
quả nhà, đất và các tài sản khác của Nhà nước.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về dự trữ nhà nước; xây dựng lực
lượng dự trữ nhà nước vững mạnh với cơ cấu hợp lý, có khả năng chủ động tham
gia phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai và những biến cố bất thường xảy
ra.
Chủ động mở rộng hoạt động tài chính đối ngoại và hội nhập quốc tế về
tài chính; thực hiện đa dạng hoá nguồn vốn, đa phương hoá quan hệ đối tác; tăng
dự trữ ngoại tệ của quốc gia; thực hiện cơ chế quản lý bảo đảm sử dụng có hiệu
quả nguồn lực tài chính quan trọng này. Xây dựng và thực hiện tốt cơ chế vay và
trả nợ nước ngoài, gắn với nghĩa vụ và trách nhiệm trong việc huy động, quản
lý, sử dụng và trả nợ. Quản lý chặt chẽ nợ Chính phủ và nợ quốc gia trong giới
hạn an toàn; nâng cao hiệu quả Quỹ tích luỹ trả nợ. Thực hiện thí điểm việc
phát hành trái phiếu của một số doanh nghiệp lớn ra thị trường vốn quốc tế.
Chính sách tiền tệ và tín dụng:
Mục tiêu của chính sách tiền tệ trong 5 năm tới là ổn định giá trị đồng
tiền, kiểm soát lạm phát, góp phần tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an ninh hệ
thống các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ
với chính sách tài khoá để ổn định kinh tế vĩ mô, tăng dự trữ ngoại tệ, khuyến
khích doanh nghiệp và nhân dân tiết kiệm, đầu tư phát triển sản xuất, kinh
doanh.
Xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường,
khẩn trương thực hiện đầy đủ các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về hoạt động
ngân hàng, mở rộng nhanh các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh
toán qua ngân hàng; nâng dần và tiến tới thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của
đồng tiền Việt Nam. Thực hiện chính sách lãi suất thoả thuận theo nguyên
tắc thị trường và đi tới loại bỏ hoàn toàn
quy định hành chính đối với lãi suất ngoại tệ.
Tiếp tục thực hiện chính sách tỉ giá hối đoái linh hoạt theo
nguyên tắc thị trường với biên độ được mở rộng hơn phù hợp với mức độ mở cửa
thị trường tài chính và năng lực kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước, tiến tới
thực hiện cơ chế tỉ giá hối đoái thả nổi có kiểm soát. Đổi mới chính sách
quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá hoàn toàn giao dịch vãng lai, từng
bước mở cửa các giao dịch vốn; thu hẹp và tiến tới xoá bỏ tình trạng sử dụng
ngoại tệ làm phương tiện thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam.
Sửa đổi Luật Ngân hàng Nhà nước theo hướng nâng cao trách nhiệm và
quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước trong việc hoạch định và thực thi chính sách
tiền tệ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cải cách hệ
thống thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng và toàn bộ thị
trường tiền tệ; đồng thời, phát triển hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đa
dạng về sở hữu và loại hình tổ chức, áp dụng đầy đủ các thiết chế và chuẩn mức
quốc tế về quản trị ngân hàng. Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các ngân hàng
thương mại nhà nước. Nâng cao chất lượng tín dụng, khả năng sinh lời, xử lý
nhanh nợ đọng, giảm tỷ lệ nợ xấu xuống mức an toàn; tăng vốn tự có của
các ngân hàng thương mại đạt chuẩn mực quốc tế. Tạo điều kiện thuận lợi cho dân
cư và doanh nghiệp tiếp cận với các sản phẩm và tiện ích ngân hàng.
Xây dựng các ngân hàng thương mại nhà nước lớn mạnh về mọi mặt, đủ sức
làm nòng cốt trong hệ thống ngân hàng thương mại trong cơ chế thị trường. Hoàn
thiện tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các ngân hàng chính sách phù hợp
với các thông lệ quốc tế, đáp ứng tốt nhất yêu cầu phát triển của đất nước,
thực hiện các chính sách xã hội, xoá đói, giảm nghèo; tiếp tục tách tín dụng ưu
đãi khỏi các ngân hàng thương mại quốc doanh.
Phát triển Quỹ tín dụng nhân dân thực sự trở thành tổ chức tín dụng hợp
tác độc lập, dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết
quả hoạt động. Tiếp tục đổi mới hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân, bảo đảm an
toàn và hiệu quả.
Thực hiện mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo lộ trình hội nhập
quốc tế, bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và tổ chức tài chính nước
ngoài trong lĩnh vực ngân hàng phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta.
Hình thành môi trường pháp luật về tiền tệ, tín dụng minh bạch và công
khai. Loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp, ưu đãi và phân biệt đối xử giữa
các tổ chức tín dụng. Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật và ngăn chặn việc
hình sự hoá các quan hệ dân sự, kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng.
2.3- Đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quy hoạch, kế hoạch
Ban hành và thực thi Luật Kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội. Đổi
mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu chiến lược, công tác quy
hoạch, kế hoạch, đặc biệt coi trọng các chỉ tiêu và biện pháp về chất lượng
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường; đổi mới nội dung, phương
pháp xây dựng, quy trình xây dựng, thông qua và phê duyệt, triển khai thực hiện
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với yêu cầu của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy
tối đa mọi lợi thế so sánh và nguồn lực của quốc gia, của mỗi vùng và mỗi địa
phương; gắn kết giữa chiến lược, quy hoạch với kế hoạch; nâng cao tính khoa
học, công khai, minh bạch, bảo đảm cho chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, thực sự
là công cụ điều hành có hiệu quả của Nhà nước, thu hút được sự quan tâm của các
nhà đầu tư và nhân dân.
Tăng cường chất lượng dự báo và các nghiên cứu về thị trường trong các
dự án quy hoạch. Quy hoạch không gian, quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng
kinh tế, xã hội phải đi trước một bước và là quy hoạch có tính bắt buộc. Tăng
cường công tác quy hoạch đất đai, quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị. Khắc
phục tình trạng chồng chéo và mâu thuẫn giữa quy hoạch ngành và quy hoạch lãnh
thổ. Đối với các quy hoạch mang tính hướng dẫn như quy hoạch phát triển các
ngành sản xuất, kinh doanh, quy hoạch các sản phẩm chủ yếu, phải coi trọng dự
báo và phải điều chỉnh linh hoạt theo yêu cầu của thị trường. Công tác quy
hoạch phải được triển khai đồng bộ từ quy hoạch tổng thể đến quy hoạch cụ thể;
thu hút những chuyên gia giỏi, kể cả chuyên gia nước ngoài trong việc xây dựng,
thẩm định quy hoạch. Tăng cường quản lý thực hiện quy hoạch.
Các kế hoạch 5 năm và hàng năm phải cụ thể hoá chiến lược, quy hoạch
phát triển, các cam kết quốc tế, khai thác và phát huy các nguồn lực, thể hiện
rõ nét hơn tính định hướng, phân biệt rõ phần kế hoạch có tính bắt buộc như kế
hoạch đầu tư bằng vốn nhà nước, dự toán ngân sách... với phần kế hoạch mang
tính dự báo, hướng dẫn. Phát huy tác dụng và hiệu lực của kế hoạch cả ở cấp
Trung ương và cấp địa phương; tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát, tổ
chức thực hiện kế hoạch, nhất là đối với phần kế hoạch có tính bắt buộc.
Đổi mới công tác thống kê, nâng cao chất lượng và tính kịp thời của các
số liệu thống kê nhằm đáp ứng tốt hơn cho việc xây dựng chính sách, điều hành
nền kinh tế, nhất là các số liệu về chất lượng tăng trưởng, số liệu về lao
động, việc làm, môi trường, đầu tư, số liệu về số lượng và chất lượng dịch vụ
công...
3- Đẩy mạnh cải cách hành chính công, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước
về kinh tế, xã hội
Đẩy nhanh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên
cả bốn mặt: chức năng, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy; cán bộ và phương thức hoạt
động. Định rõ những việc Nhà nước phải làm và bảo đảm đủ các điều kiện để làm
tốt; khắc phục tình trạng buông lỏng hoặc làm thay, chồng chéo về chức năng,
nhiệm vụ giữa các cơ quan của Đảng và cơ quan nhà nước; hiện đại hoá nền hành
chính nhà nước.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, tiếp tục cải cách tư pháp một
cách thực chất và toàn diện.
Điều chỉnh chức năng của Chính phủ đúng với vai trò là cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất. Xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý nhà nước về
kinh tế, xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển của giai đoạn mới; Chính phủ tập
trung vào việc hoạch định thể chế, chính sách, xây dựng biện pháp, cải cách thủ
tục hành chính, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế,
xã hội; nâng cao năng lực và hiệu quả chỉ đạo thực hiện, kiểm tra, thanh tra
thực hiện thể chế; xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý nhà nước về kinh tế,
xã hội của cơ quan công quyền các cấp.
Cơ cấu lại bộ máy Chính phủ theo hướng giảm các đầu mối phù hợp với yêu
cầu đổi mới chức năng, nhiệm vụ. Cơ cấu lại các cơ quan trong hệ thống hành
chính nhà nước các cấp theo hướng giảm cấp phó, bỏ các cấp trung gian; giảm bộ
phận phục vụ trong cơ quan hành chính, chuyển sang hình thức hợp đồng dịch vụ;
phân cấp mạnh cho cấp dưới gắn với việc hướng dẫn và thực hiện thanh tra, kiểm
tra của cấp trên.
Điều chỉnh cơ cấu chính quyền địa phương cho phù hợp với những thay đổi
chức năng, nhiệm vụ. Phân biệt rõ những khác biệt giữa chính quyền nông thôn và
chính quyền đô thị để tổ chức bộ máy phù hợp, nghiên cứu việc giảm bớt hội đồng
nhân dân cấp quận ở đô thị. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và kiểm tra hoạt động
của bộ máy chính quyền cơ sở.
Đổi mới chính sách cán bộ và công tác quản lý cán bộ, xây dựng chế độ
công vụ rõ ràng, minh bạch, đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng
lực gắn với chế độ hưởng thụ thoả đáng và công bằng. Thực hiện đầy đủ nguyên
tắc công khai, minh bạch, dân chủ và phục vụ dân đối với các cơ quan và công
chức nhà nước.
Nghiên cứu để áp dụng cơ chế thủ trưởng cơ quan hành chính cấp trên bổ
nhiệm chức danh người đứng đầu cơ quan hành chính cấp dưới. Tách các hoạt động
công quyền với các hoạt động cung ứng dịch vụ công để các tổ chức cung ứng dịch
vụ công thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động, về tài chính
và nhân sự.
Phát huy sự đa dạng về tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động của các
tổ chức đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ trong việc tham gia xây dựng và
thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, khắc
phục tình trạng hành chính hoá các tổ chức quần chúng. Ban hành Luật về hội;
phát triển nhiều hình thức tự quản của dân hoạt động theo pháp luật.
4- Thực hiện đồng bộ, kiên quyết các giải pháp để phòng, chống tham nhũng
trong bộ máy nhà nước
Phải thực hiện tốt vừa xây, vừa chống trong phòng, chống tham nhũng.
Khẩn trương xây dựng và thực hiện kiên quyết hệ thống pháp luật đồng bộ về
phòng ngừa, phát hiện và xử lý những người có hành vi tham nhũng.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế để thực hiện đầy đủ nguyên tắc Nhà nước
quản lý nền kinh tế bằng pháp luật. Khẩn trương rà soát để giảm đến mức thấp
nhất quan hệ "xin - cho" trong quản lý kinh tế. Thực hiện công khai,
minh bạch trong mua sắm công và xây dựng cơ bản, quản lý dự án đầu tư, xây
dựng; tài chính và Ngân sách Nhà nước, huy động và sử dụng các khoản đóng góp
của nhân dân; quản lý và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; quản lý và sử dụng
đất, tài sản công; công tác cán bộ.
Tiếp tục cải cách mạnh thủ tục hành chính theo hướng phân cấp và làm rõ
quyền hạn, trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng đơn vị và người đứng đầu
cơ quan; thu gọn đầu mối trong việc giải quyết mọi công việc hành chính với dân
và doanh nghiệp; công khai các quy định về thủ tục hành chính để dân biết, thực
hiện và giám sát. Tiếp tục đổi mới chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức;
đồng thời, có quy định về kiểm tra, kiểm soát, giám sát thu nhập của cán bộ,
công chức.
Xử lý nghiêm minh, kịp thời, công khai cán bộ, công chức tham nhũng,
không phân biệt chức vụ và địa vị xã hội còn đương chức hay đã nghỉ hưu, thôi
việc hoặc chuyển công tác khác. Thiết lập cơ chế khuyến khích, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của những người phát hiện và đấu tranh chống tham nhũng; đồng
thời, phát hiện và xử lý nghiêm những người bao che cho tham nhũng, ngăn cản
việc chống tham nhũng, hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, ám hại
người khác, gây mất đoàn kết nội bộ. Đẩy mạnh phối hợp và hợp tác quốc tế về
phòng, chống tham nhũng.
Tập trung làm tốt các việc sau đây:
- Điều tra, xử lý nghiêm minh, kịp thời, công khai các vụ việc tham
nhũng đã được phát hiện; ban hành quy định và xử lý thích đáng, đúng pháp luật
người đứng đầu cơ quan, đơn vị nơi xảy ra tham nhũng, gây hậu quả nghiêm trọng.
- Khẩn trương triển khai thực hiện đồng bộ Luật Phòng, chống tham
nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Bổ sung, hoàn thiện Luật Khiếu
nại và tố cáo. Ban hành các quy định cụ thể về thu, chi ngân sách. Thực hiện
tốt Quy chế dân chủ ở đơn vị cơ sở, bảo đảm công khai, minh bạch các hoạt động
kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công
và doanh nghiệp nhà nước.
- Sớm hình thành và triển khai có hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo
phòng, chống tham nhũng ở Trung ương. Các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị
phải xây dựng chương trình hành động phòng, chống tham nhũng; tập trung chỉ đạo
kiểm tra, thanh tra phòng, chống tham nhũng trong một số lĩnh vực trọng điểm
như: quản lý đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý tài chính trong doanh
nghiệp nhà nước, thu, chi ngân sách nhà nước, quản lý tài sản công; công tác
tuyển dụng, quy hoạch, đề bạt, bố trí cán bộ.
*
* *
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết nhất trí, chung sức, chung
lòng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, nêu cao ý chí và quyết tâm tiếp
tục đổi mới, hình thành đồng bộ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy cao nhất các
nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng phát
triển, phấn đấu thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, đưa đất nước ta
vững bước tiến lên trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
[1] Tốc độ tăng GDP năm 2001 là 6,9%, năm 2002 là
7,08%, năm 2003 là 7,34%, năm 2004 là 7,8%, năm 2005 là 8,4%.
[2] Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, năm 2004, mức thu nhập trung bình tính theo GDP của các nước thuộc nhóm thu nhập thấp là 530 USD/người, trong khi của ViệtNam
là 562 USD/người.
[3] Năm 2005, Việt Nam đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê và hạt điều; thứ 4 về cao su; thứ nhất về hạt tiêu.
[4] Năm 2004, bình quân xuất khẩu đầu người của 59 nước thu nhập thấp trên thế giới là 93 USD.
[5] Mức trung bình của thế giới khoảng 20%.
[6] Nhìn chung, các nước đang phát triển đều có tỉ lệ nhập siêu cao trong thời kỳ công nghiệp hoá. Ví dụ trong giai đoạn 1980 - 1985, tỉ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc là 11% (năm cao nhất là 20%), của Thái Lan là 39%, của Philipin là 40%.
[7] Từ năm 1993 - 2005, tổng giá trị ODA cam kết là 32,5 tỷ USD, ký kết hiệp định là 24,7 tỷ và giải ngân được 15,8 tỷ USD.
[2] Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, năm 2004, mức thu nhập trung bình tính theo GDP của các nước thuộc nhóm thu nhập thấp là 530 USD/người, trong khi của Việt
[3] Năm 2005, Việt Nam đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê và hạt điều; thứ 4 về cao su; thứ nhất về hạt tiêu.
[4] Năm 2004, bình quân xuất khẩu đầu người của 59 nước thu nhập thấp trên thế giới là 93 USD.
[5] Mức trung bình của thế giới khoảng 20%.
[6] Nhìn chung, các nước đang phát triển đều có tỉ lệ nhập siêu cao trong thời kỳ công nghiệp hoá. Ví dụ trong giai đoạn 1980 - 1985, tỉ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc là 11% (năm cao nhất là 20%), của Thái Lan là 39%, của Philipin là 40%.
[7] Từ năm 1993 - 2005, tổng giá trị ODA cam kết là 32,5 tỷ USD, ký kết hiệp định là 24,7 tỷ và giải ngân được 15,8 tỷ USD.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét