Thứ Hai, 18 tháng 6, 2012

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ ba (1960), phần 1


1. Báo cáo về việc sửa đổi Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III do đồng chí Lê Đức Thọ trình bày, ngày 6-9-1960 

Các đồng chí thân mến,
Trong 30 nǎm qua, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta đã lãnh đạo giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam trải qua những đoạn đường cách mạng đầy khó khǎn gian khổ nhưng cũng đầy thắng lợi vẻ vang. Cách mạng Tháng Tám thành công và kháng chiến thắng lợi đã phá bỏ xiềng xích nô lệ ở một nước thuộc địa và nửa phong kiến đầu tiên trên thế giới, đã thay đổi về cǎn bản bộ mặt chính trị và xã hội nước ta, và hiện nay trên bước đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân toàn quốc tiến tới những thắng lợi vĩ đại, huy hoàng hơn nữa.
Sự nghiệp cách mạng vẻ vang mà Đảng ta đã và đang thực hiện tỏ rõ nǎng lực dồi dào, lòng trung thành tuyệt đối của Đảng đối với sự nghiệp giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc, tỏ rõ ý chí kiên cường bất khuất trước kẻ thù và tinh thần phấn đấu không mệt mỏi vì lợi ích nhân dân của toàn thể đảng viên. Các đồng chí Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Vǎn Cừ, Hoàng Vǎn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai và biết bao người con ưu tú nữa của Đảng đã anh dũng hy sinh cho độc lập, tự do của dân tộc, cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa quang vinh.
Rõ ràng là mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 30 nǎm qua đều không thể tách rời sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, đứng đầu là đồng chí Hồ Chí Minh kính mến, không thể tách rời sự nghiệp xây dựng và củng cố Đảng ta, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam.
Bước vào giai đoạn cách mạng mới ngày nay, Đảng ta càng phải quan tâm hơn nữa tới việc xây dựng và củng cố hàng ngũ, chuẩn bị đầy đủ điều kiện để Đảng có thể hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ lịch sử nặng nề của mình.
Vì vậy, Đại hội lần này, ngoài nhiệm vụ thảo luận và phê chuẩn bản Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành trung ương, còn có nhiệm vụ thảo luận và phê chuẩn bản Điều lệ sửa đổi của Đảng, nhằm làm cho Đảng ta, về mặt tổ chức, có thể bảo đảm chấp hành đúng đắn đường lối và nhiệm vụ chính trị do Đại hội đề ra.
Được sự uỷ nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương, tôi xin trình bày trước Đại hội bản báo cáo về việc sửa đổi điều lệ Đảng.
Các đồng chí thân mến,
Từ Đại hội lần thứ II của Đảng đến nay đã hơn 9 nǎm.
Trong thời gian đó, tình hình chính trị và xã hội nước ta có những biến đổi cǎn bản.
Kháng chiến thắng lợi, hoà bình được lập lại. Nước ta bị tạm thời chia cắt làm hai miền. Nhân dân miền Nam đang đấu tranh anh dũng chống chế độ Mỹ - Diệm, đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trong khi đó, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng khỏi ách đế quốc và phong kiến, đã bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa về nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh ở cấp thấp sắp hoàn thành về cơ bản. Sự nghiệp phát triển kinh tế và vǎn hoá bước đầu đã đạt nhiều thành tích. Mối quan hệ giai cấp trong xã hội do đó đang có những biến đổi sâu sắc.
Quá trình chuyển biến cách mạng đó của nước ta là một thắng lợi lớn của sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời trong quá trình đó, Đảng ta cũng không ngừng được rèn luyện và lớn mạnh lên. Qua đấu tranh cách mạng gian khổ, phức tạp, hàng ngũ cán bộ, đảng viên đã được sàng lọc, tôi luyện; lập trường tư tưởng của họ đã tiến bộ thêm một bước. Cơ sở Đảng ở miền Bắc chẳng những chỉ có ở nông thôn mà đã bắt đầu lan rộng, ǎn sâu vào khắp các ngành hoạt động, khắp các thành thị và vùng công nghiệp. Uy tín của Đảng trong nhân dân ngày càng cao, vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được củng cố.
Song tình hình và nhiệm vụ cách mạng lúc này cũng đang đặt ra cho công tác xây dựng Đảng những yêu cầu mới, cao hơn.
Để nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và nǎng lực lãnh đạo của Đảng, để Đảng ta làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà và có đầy đủ khả nǎng quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế và vǎn hoá, xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chúng ta phải ra sức củng cố Đảng vững mạnh về tư tưởng và tổ chức, phải giữ vững và không ngừng tǎng cường tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng. Đó là một yêu cầu cơ bản của nhiệm vụ xây dựng Đảng lúc này. Đảng phải chǎm lo củng cố lập trường giai cấp công nhân, nâng cao hơn nữa trình độ lý luận Mác - Lênin của cán bộ, đảng viên, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của tư tưởng không vô sản; lại phải mau chóng nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên về vǎn hoá, nghiệp vụ, khoa học, kỹ thuật. Đồng thời Đảng phải phấn đấu đề cao tiêu chuẩn đảng viên, quy định những yêu cầu chặt chẽ, cao hơn đối với đảng viên, phải chǎm lo tǎng cường thành phần công nhân trong Đảng.
Trước đây do hoàn cảnh hoạt động bí mật và kháng chiến có những khó khǎn, việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng phải chịu những sự hạn chế nhất định. Đồng thời chúng ta cũng phạm phải một số khuyết điểm làm cho sinh hoạt dân chủ trong Đảng chưa được mở rộng đầy đủ và sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng chưa cao. Trong điều kiện mới ở miền Bắc hiện nay, chúng ta đã có thể và cần thiết phải mở rộng sinh hoạt dân chủ trong Đảng hơn nữa để phát huy tính tích cực và óc sáng tạo của toàn thể cán bộ, đảng viên. Mặt khác, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải củng cố sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của Đảng, chống mọi khuynh hướng tản mạn, phân tán, tǎng cường tính tổ chức và tính kỷ luật trong Đảng. Bộ máy các cấp của Đảng phải được kiện toàn; chế độ tổ chức, lề lối làm việc phải có những sửa đổi nhằm tǎng cường nguyên tắc tập trung dân chủ và thích ứng với đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị.
Đảng ta nắm chính quyền trong nửa nước và trong hoàn cảnh hoà bình xây dựng, bệnh quan liêu, mệnh lệnh trong Đảng có phần phát triển hơn trước. Chúng ta phải chǎm lo giữ vững và phát huy truyền thống liên hệ với quần chúng của Đảng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện xa rời quần chúng để có thể phát động đông đảo quần chúng dốc hết sức lực, tài nǎng cống hiến vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.
Trước sự chuyển biến của giai đoạn cách mạng, chúng ta phải chǎm lo tǎng cường khối đoàn kết thống nhất trong Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức trên một cơ sở mới cao hơn trước, kịp thời ngǎn ngừa mọi biểu hiện làm yếu khối đoàn kết thống nhất đó.
Trên đây là những yêu cầu chủ yếu của việc xây dựng Đảng hiện nay.
Việc sửa đổi Điều lệ lần này phải xuất phát từ tình hình và những yêu cầu nói trên, đồng thời phải cǎn cứ vào những kinh nghiệm phong phú về xây dựng Đảng mà chúng ta đã tích lũy được từ trước đến nay.
Việc sửa đổi Điều lệ Đảng không có nghĩa là sửa đổi những nguyên tắc cơ bản về xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, những nguyên tắc đó là không hề thay đổi. Song, trong tình hình mới và qua những kinh nghiệm đã thu được, chúng ta cần phấn đấu để quán triệt hơn nữa những nguyên tắc đó trong công tác xây dựng Đảng, và dựa vào đó mà đề ra những quy định cụ thể, linh hoạt, thích hợp với thời kỳ hiện nay. Vì vậy, trước khi đi vào giải thích những quy định cụ thể trong điều lệ sửa đổi lần này, cần rút ra những bài học kinh nghiệm của thời kỳ vừa qua, nói rõ một số vấn đề cơ bản để soi sáng cho công tác xây dựng Đảng từ nay về sau và chiếu theo những vấn đề cơ bản đó, chúng ta có thể dễ dàng nhận rõ tinh thần của những điều sửa đổi trong Điều lệ Đảng lần này.
Phần thứ nhất
Mấy vấn đề về xây dựng Đảng 
trong cương lĩnh chung 
của điều lệ Đảng
I- Nhận rõ và tǎng cường hơn nữa tính chất 
giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng
Trong cương lĩnh chung của Điều lệ lần này, vấn đề tính chất của Đảng đã được nêu rõ. Nhận thức cho đúng và không ngừng phấn đấu để giữ gìn và nâng cao tính chất của Đảng là phương hướng chủ yếu đối với công tác xây dựng Đảng về các mặt tư tưởng và tổ chức.
1. Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn noi theo những nguyên lý cơ bản về xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và nói chung, đã biết vận dụng một cách có sáng tạo những nguyên lý đó vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, bảo đảm cho Đảng ta có đầy đủ tính chất một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Đảng ta ra đời sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất trên cơ sở giai cấp công nhân ở trong nước đã hình thành và phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân đang phát triển. Đảng ta ra đời dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, và trong khi, trên thế giới, chủ nghĩa Lênin đã giành được toàn thắng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội Đệ nhị Quốc tế. Nhờ sự dìu dắt của Quốc tế Cộng sản và sự giúp đỡ của các Đảng Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc, Pháp, giai cấp công nhân nước ta sớm tiếp thụ được chủ nghĩa Mác - Lênin, mau chóng trưởng thành về chính trị.
Đảng ta lại ra đời và lớn lên trên cơ sở phong trào yêu nước rộng rãi, sâu sắc của quần chúng đông đảo, trong điều kiện đấu tranh lâu dài của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nông nghiệp lạc hậu.
Trong hoàn cảnh nước ta, giai cấp công nhân tuy nhỏ bé nhưng là giai cấp duy nhất có đầy đủ khả nǎng lãnh đạo cách mạng và trên thực tế đã luôn luôn giữ vững quyền lãnh đạo đó suốt 30 nǎm nay; các giai cấp khác, hoặc đã hết vai trò lịch sử tiến bộ, hoặc không đủ khả nǎng lãnh đạo cách mạng.
Mặt khác, các tầng lớp nông dân và tiểu tư sản rất đông đảo, dưới ách áp bức bóc lột hà khắc của đế quốc và phong kiến, họ có lòng yêu nước nồng nàn, có tinh thần cách mạng cao. Qua kinh nghiệm bản thân, các tầng lớp đó thấy rõ chỉ có đi theo sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, giai cấp tiên tiến nhất được vũ trang bằng học thuyết Mác - Lênin, thì mới giành được độc lập dân tộc và đời sống tự do hạnh phúc.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân về thực chất là cuộc cách mạng của nông dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Dưới chế độ thuộc địa và trong kháng chiến, sự hoạt động của Đảng ở thành thị lại gặp nhiều khó khǎn. Vì vậy, bên cạnh việc hoạt động trong quần chúng công nhân, Đảng ta đã hướng sự hoạt động của mình vào nông thôn, tổ chức và lãnh đạo phong trào nông dân.
Đảng ta là người đại biểu trung thành và kiên quyết nhất cho lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng ta chẳng những hấp thụ được những truyền thống tốt đẹp của phong trào công nhân trong nước và trên thế giới, mà còn hấp thụ và phát huy truyền thống anh dũng, quật cường chống ngoại xâm của dân tộc. Là người duy nhất giương cao ngọn cờ yêu nước và dân chủ, Đảng ta trở thành trung tâm đoàn kết và lãnh đạo mọi lực lượng chống đế quốc, chống phong kiến trong một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, lấy liên minh công nông làm nền tảng. Có những phần tử ưu tú trong các giai cấp cách mạng, chủ yếu là trong nhân dân lao động, tự nguyện gia nhập hàng ngũ Đảng mà chiến đấu, trước hết cũng là vì họ thấy rõ lập trường của Đảng là lập trường yêu nước nhất. Trên thực tế có rất nhiều người đã đi từ giác ngộ dân tộc mà chuyển dần qua giác ngộ giai cấp.
Trong những điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta như trên, Đảng đã khéo vận dụng có sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Đảng.
Trước hết chúng ta rất coi trọng việc xây dựng Đảng về mặt tư tưởng và chính trị.
Đảng ta luôn luôn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình. Cương lĩnh, chính sách của Đảng qua các thời kỳ đều thấm nhuần tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chẳng những Đảng ta chỉ vạch ra các cương lĩnh và chính sách đó một cách đúng đắn trên nghị quyết mà suốt 30 nǎm nay, trong hoạt động thực tiễn của Đảng ta, lời nói bao giờ cũng đi đôi với việc làm, dù khó khǎn gian khổ đến mấy, Đảng ta vẫn không xa rời mục đích của mình, vẫn một lòng một dạ trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và của dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã từng đấu tranh không điều hoà và đã đập tan ảnh hưởng của những khuynh hướng cải lương tư sản, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi tiểu tư sản, khuynh hướng tơrốtkít phản động và chủ nghĩa xét lại, để giữ vững và giành toàn thắng cho đường lối của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong sinh hoạt nội bộ của mình, Đảng ta đặt công tác giáo dục và lãnh đạo tư tưởng lên hàng đầu. Bằng tổ chức học tập, chỉnh huấn, phê bình tự phê bình, rèn luyện trong đấu tranh thực tế và trong lao động sản xuất, Đảng ta thường xuyên quan tâm đến việc nâng cao trình độ giác ngộ về tư tưởng và chính trị của đảng viên, đấu tranh chống mọi quan điểm tư tưởng không vô sản. Số đông đảng viên, tuy trình độ lý luận còn thấp, song nói chung, đều tuyệt đối trung thành với đường lối Mác - Lênin của Đảng, có ý chí chiến đấu kiên cường, có tinh thần yêu nước nồng nàn, và có tinh thần quốc tế vô sản cao quý. Chính nhờ chú trọng tới việc xây dựng về tư tưởng cho nên, mặc dù sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nông nghiệp lạc hậu, mặc dù đảng viên xuất thân từ thành phần không vô sản chiếm số đông, Đảng ta vẫn luôn luôn đoàn kết thống nhất, giữ vững được đường lối, tư tưởng vô sản và lãnh đạo cách mạng đi tới thắng lợi. Rõ ràng thắng lợi của sự nghiệp xây dựng Đảng ta trước hết là thắng lợi của công tác giáo dục, cải tạo tư tưởng trong Đảng. Đó là một ưu điểm lớn, chứng minh Đảng ta đã vận dụng đúng đắn những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Lênin về xây dựng Đảng.
Trong khi đặt việc xây dựng về tư tưởng và chính trị lên hàng đầu, Đảng ta đồng thời rất coi trọng việc xây dựng Đảng về mặt tổ chức. Đảng chú trọng phát triển đội ngũ của mình trong giai cấp công nhân đồng thời, cǎn cứ vào đặc điểm của cách mạng nước ta, Đảng lại tích cực phát triển đảng viên vào các phần tử cách mạng trong nông dân, nhất là bần cố nông và trung nông lớp dưới, và cũng chú ý phát triển Đảng vào tầng lớp tiểu tư sản, trí thức cách mạng. Đảng ta luôn luôn trung thành với những nguyên tắc tổ chức của một đảng theo chủ nghĩa Lênin: lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, lấy phê bình tự phê bình làm quy luật phát triển, chǎm lo giữ gìn khối đoàn kết thống nhất, đề cao kỷ luật trong Đảng.
Về mặt tổ chức, việc kết nạp nhiều người xuất thân ở những thành phần nông dân, tiểu tư sản, trí thức vào Đảng tất nhiên có làm cho tư tưởng không vô sản ảnh hưởng vào Đảng khá nặng và do đó, cuộc đấu tranh tư tưởng để thống nhất hàng ngũ, để giữ vững tính chất vô sản của Đảng thêm phần khó khǎn phức tạp. Nhưng lịch sử xây dựng Đảng ta cũng chứng tỏ việc kết nạp đó là cần thiết và không vì vậy mà làm mất tính chất giai cấp của Đảng. Rất nhiều phần tử cách mạng xuất thân từ nông dân, tiểu tư sản, thậm chí có số ít người xuất thân từ các giai cấp bóc lột, đã trở thành những chiến sĩ tích cực đấu tranh cho sự nghiệp của giai cấp công nhân. Đó là vì, sống trong hoàn cảnh của một nước thuộc địa và nửa phong kiến, bị áp bức bóc lột nặng nề, họ vốn có tinh thần yêu nước, lại được sự giáo dục và rèn luyện của Đảng, họ có thể tiếp thụ chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, dần dần gột bỏ được ý thức tư tưởng giai cấp gốc rễ của họ. Tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin có sức hấp dẫn mạnh mẽ, có sức thuyết phục rất lớn đối với nhân dân lao động, kể cả tầng lớp trí thức tiến bộ ở các nước thuộc địa, vì họ tìm thấy đó là con đường duy nhất đem lại độc lập, tự do và hạnh phúc. Cuộc đấu tranh cách mạng ở nước ta lại vô cùng gian khổ, quyết liệt; Đảng phải đương đầu với kẻ thù đế quốc và phong kiến rất hung bạo, tàn ác. Hoàn cảnh hoạt động bất hợp pháp trước Cách mạng Tháng Tám, hoàn cảnh kháng chiến trường kỳ suốt 9 nǎm là những thử thách lớn lao, những lò lửa cách mạng vĩ đại rèn luyện cán bộ, đảng viên.
Nếu như chúng ta phát triển Đảng một cách bừa bãi, không chú ý xây dựng cơ sở vào công nhân và bần cố nông, hoặc nếu trọng số hơn chất, thì không thể xây dựng nổi một đảng có tổ chức chặt chẽ, có sức chiến đấu cao. Ngược lại, nếu như Đảng ta có thái độ hẹp hòi, không chú ý phát triển Đảng vào các tầng lớp nhân dân lao động khác và trí thức cách mạng thì cũng không thể xây dựng nổi một đảng có tính chất quần chúng mạnh mẽ, thích hợp với đặc điểm tình hình xã hội nước ta, không thể đoàn kết, lãnh đạo nhân dân cả nước đưa cách mạng đi tới thắng lợi. Đường lối tổ chức đó là một điều nữa chứng minh rằng, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn những nguyên lý phổ biến về xây dựng Đảng vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta.
Nhờ có đường lối, phương châm xây dựng Đảng như trên cho nên, mặc dù giai cấp công nhân Việt Nam nhỏ bé nhưng vẫn có được một chính đảng lớn mạnh, già dặn và thông qua chính đảng đó, đã thực hiện được quyền lãnh đạo cách mạng của mình; cho nên mặc dù đảng viên xuất thân từ thành phần công nhân chiếm số ít, trong Đảng phải kể thêm cả bần cố nông nữa mới chiếm được đa số, mặc dù có lúc đội ngũ của Đảng lại đông đảo hơn đội ngũ giai cấp, nhưng Đảng vẫn có đầy đủ tính chất đảng của giai cấp công nhân; cho nên Đảng ta, đảng của giai cấp công nhân, đồng thời lại là đảng của dân tộc, có liên hệ rộng rãi và có uy tín rất cao trong các tầng lớp nhân dân, lãnh tụ của Đảng và của giai cấp công nhân đồng thời là lãnh tụ của dân tộc.
Không còn nghi ngờ gì nữa, đường lối phương châm xây dựng Đảng ta là đúng đắn, thành tích công tác xây dựng Đảng ta là to lớn, cǎn bản, tính chất Đảng ta rõ ràng là tính chất một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
2. Trong khi khẳng định thành tích như trên, chúng ta đồng thời nhận rằng công tác xây dựng Đảng không phải lúc nào cũng quán triệt những nguyên tắc và phương châm đúng đắn. Trái lại, từng thời kỳ, bên cạnh những ưu điểm, chúng ta cũng đã phạm phải một số khuyết điểm sai lầm, gây ảnh hưởng không tốt trong một chừng mực nhất định đến tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng ta.
Sau Cách mạng Tháng Tám và bước vào kháng chiến, một ưu điểm cǎn bản là chúng ta đã kịp thời đề ra chủ trương xây dựng Đảng thành một đảng có tính chất quần chúng mạnh mẽ, tích cực phát triển đảng viên đồng thời mạnh dạn đào tạo, đề bạt cán bộ. Trong có mấy nǎm, số lượng đảng viên từ chỗ chưa đầy một vạn đã lên tới hàng chục vạn người, cơ sở Đảng được xây dựng hầu khắp mọi nơi. Đội ngũ cán bộ cũng phát triển nhanh chóng; dựa vào số cán bộ cũ làm nòng cốt, chúng ta mạnh dạn đào tạo, đề bạt cán bộ từ những thanh niên công nhân, nông dân, tiểu tư sản học sinh trong phong trào cứu quốc. Nếu không chuyển hướng về tổ chức mạnh mẽ và kịp thời như vậy thì Đảng ta không thể đáp ứng nổi nhiệm vụ mới, rộng lớn của cách mạng khi đó.
Nhưng cũng trong quá trình này, chúng ta đã phạm một số khuyết điểm.
Trong khi ảnh hưởng và cơ sở của Đảng lan rộng mau chóng thì việc xây dựng Đảng phần nào lại không được tiến hành một cách chặt chẽ cả về tư tưởng và tổ chức.
Trong khi tích cực phát triển Đảng, chúng ta đã không chú ý nhấn mạnh về phương hướng giai cấp và tiêu chuẩn đảng viên, có nhiều nơi đã thi đua phát triển Đảng, phạm thiên hướng hình thức chủ nghĩa, đơn thuần chạy theo số lượng. Do đó, bên cạnh việc kết nạp được những phần tử tốt, chúng ta đã phạm lệch lạc, ít phát triển vào bần cố nông mà phát triển nhiều vào trung nông, thậm chí đã kết nạp cả một số địa chủ, phú nông, phần tử xu thời; phát triển nhanh nhưng củng cố kém, công tác tổ chức không kết hợp chặt chẽ với công tác tư tưởng, chú ý giáo dục về tinh thần yêu nước nhưng ít chú ý giáo dục về giai cấp, làm cho trình độ tư tưởng và chính trị của nhiều đảng viên rất thấp.
Trong lúc mạnh dạn mở rộng đội ngũ cán bộ, chúng ta đã phần nào không nắm vững đường lối giai cấp trong công tác cán bộ và không đề ra tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ một cách rõ ràng. Một mặt chúng ta không thấy hết ưu điểm cǎn bản của cán bộ công nông, không tích cực bồi dưỡng và đào tạo cán bộ công nông; mặt khác chúng ta lại thiếu biện pháp tích cực giáo dục cải tạo cán bộ tiểu tư sản, trí thức.
Từ nǎm 1951, đi đôi với việc Đảng ta uốn nắn những lệch lạc trên một số vấn đề về lãnh đạo chính trị và trước yêu cầu của cuộc kháng chiến chuyển vào giai đoạn gay go quyết liệt, Đảng đã nhận ra và kiên quyết sửa chữa những sai lệch trên đây trong công tác xây dựng Đảng và đã đem lại kết quả tốt. Công tác tư tưởng trong Đảng được đặc biệt chú ý. Việc tiến hành chỉnh Đảng, chỉnh huấn đã đem lại kết quả lớn, củng cố được lập trường giai cấp, uốn nắn được tư tưởng hữu khuynh của cán bộ, đảng viên, thiết thực góp phần đẩy mạnh kháng chiến và chuẩn bị điều kiện cho việc tiến lên thực hiện cải cách ruộng đất. Trong công tác tổ chức, do lập trường, quan điểm giai cấp rõ ràng hơn, chúng ta đã chú ý đào tạo, đề bạt cán bộ xuất thân từ công nông, và qua cải cách ruộng đất, đã khai trừ những phần tử bóc lột và đã chú ý phát triển Đảng vào bần cố nông.
Nhưng trong quá trình phê phán, sửa chữa những lệch lạc hữu khuynh, chúng ta lại mắc phải một số lệch lạc "tả" khuynh. Trong chỉnh huấn, khi đánh giá công tác và kiểm thảo tư tưởng cán bộ, đã thiếu phân tích toàn diện, coi nhẹ ưu điểm, nhấn mạnh khuyết điểm, lại không xem xét đầy đủ đến nguyên nhân và hoàn cảnh phạm khuyết điểm; phương pháp kiểm thảo thì có phần gò ép, chụp mũ; việc kết hợp với xử trí về mặt tổ chức lại làm cho chỉnh huấn thêm nặng nề, giảm mất ý nghĩa giáo dục, nâng cao tư tưởng.
Bắt nguồn từ trong chỉnh huấn về ngày một phát triển thêm trong quá trình cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, chúng ta đã đi tới những nhận định lệch lạc nghiêm trọng về tình hình cán bộ, đảng viên, dẫn đến xử trí sai lầm nhiều về mặt tổ chức. Những sai lầm đó đã gây tổn thất một phần lớn lực lượng và uy tín của Đảng và cơ quan Nhà nước, gây không khí cǎng thẳng trong nội bộ Đảng, ảnh hưởng không tốt cả đến tình hình chính trị chung.
Trong công tác cán bộ, trên một chừng mực nhất định, chúng ta đã phạm phải lệch lạc của chủ nghĩa thành phần. Có nơi, có lúc đã đem thành phần giai cấp xuất thân coi là một tiêu chuẩn để đánh giá và sắp xếp, đề bạt cán bộ.
Trong công tác phát triển Đảng cũng có khuynh hướng hẹp hòi: việc đóng cửa Đảng tiến hành nhất loạt và kéo quá dài, trong lúc cuộc kháng chiến đang quyết liệt, quần chúng được thử thách rèn luyện một cách rộng rãi và sâu sắc.
Tuy nhiên, trong công tác xây dựng Đảng lúc này, bên cạnh một số lệch lạc "tả" khuynh nói trên vẫn tồn tại những lệch lạc hữu khuynh. Trong cải cách ruộng đất, việc phát triển Đảng vào bần cố nông đã được xem trọng, nhưng có nhiều nơi chỉ chú ý đến mặt thành phần tốt, lịch sử trong sạch mà chưa xem kỹ về mặt trình độ giác ngộ tư tưởng, chính trị của họ và sau khi kết nạp thì ít chú ý giúp đỡ bồi dưỡng họ. Trong công tác cán bộ, tuy đã chú ý hơn trước đến việc đề bạt cán bộ xuất thân từ công nông nhưng nói chung, chính sách của ta vẫn còn thiếu sót, nhất là thiếu kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng một cách cụ thể, toàn diện và lâu dài.
Những khuyết điểm sai lầm hữu hoặc "tả" trong công tác xây dựng Đảng không tách rời những lệch lạc hữu hoặc "tả" trên một số vấn đề về lãnh đạo chính trị của Đảng trong thời gian đó.
Đứng riêng trong phạm vi công tác xây dựng Đảng mà nói thì những khuyết điểm trên đây đều là do không kết hợp được đầy đủ những nguyên lý cơ bản về xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng nước ta và thực tiễn công tác xây dựng Đảng ta, do nhận thức lệch lạc, khi mơ hồ, khi máy móc, về tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng.
Nguyên nhân cǎn bản của những lệch lạch hữu khuynh trên đây chính là ở chỗ không quán triệt đầy đủ những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng, không giữ vững nguyên tắc, thiếu lập trường, quan điểm giai cấp vững vàng, không thấy được ảnh hưởng của thành phần giai cấp xuất thân đối với tư tưởng, ý thức con người.
Nguyên nhân cǎn bản của những lệch lạc "tả" khuynh trên đây là do lập trường giai cấp không vững, không xuất phát đầy đủ từ thực tiễn cách mạng nước ta và thực tiễn xây dựng Đảng ta, không nắm vững những đặc điểm của quá trình ra đời và trưởng thành của Đảng ta.
Những nǎm qua, Đảng ta đã kiên quyết sửa chữa một cách có hiệu quả những lệch lạc đó. Từ những bài học đã qua, đường lối, phương châm xây dựng Đảng ngày một rõ ràng chính xác và được chấp hành quán triệt hơn, do đó đã đem lại nhiều kết quả tốt.
Song, một phần do ảnh hưởng của những khuyết điểm trên mà hiện nay, bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong Đảng ta đã bộc lộ rõ một số nhược điểm: trình độ tư tưởng và lý luận trong Đảng nói chung còn thấp, trong nhiều cán bộ, đảng viên, lập trường giai cấp còn mơ hồ, phương pháp tư tưởng còn chủ quan, một chiều; thành phần đảng viên xuất thân công nhân còn quá ít; bên cạnh số đông đảng viên tốt còn có một số đảng viên chây lười, thiếu tích cực gương mẫu, kém ý thức Đảng.
3. Cǎn cứ vào tình hình Đảng ta, cǎn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, lúc này hơn bao giờ hết,chúng ta phải nhận rõ và ra sức phấn đấu để nâng cao hơn nữa tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng.
Về vấn đề tính chất của Đảng, Cương lĩnh chung của Điều lệ đã nhấn mạnh "Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân".
Sở dĩ Đảng ta là đảng của giai cấp công nhân, trước hết vì Đảng ta đứng vững trên lập trường tư tưởng của giai cấp công nhân chứ không phải lập trường tư tưởng của một giai cấp nào khác, vì giai cấp công nhân là giai cấp xã hội tiên tiến nhất, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng của quần chúng nhân dân. Sau nữa, Đảng ta không phải là một tổ chức thông thường mà là bộ tham mưu, đội tiên phong của giai cấp công nhân, bao gồm những phần tử ưu tú nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, gắn bó mật thiết với giai cấp và quần chúng nhân dân, Đảng ta là bộ phận có tổ chức thống nhất chặt chẽ và là tổ chức cao nhất trong các tổ chức của giai cấp công nhân, nghĩa là Đảng ta có những đặc điểm cơ bản của một đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Chúng ta cần có lập trường quan điểm giai cấp vững vàng trong công tác xây dựng Đảng, khắc phục những nhận thức mơ hồ về tính chất của Đảng trong một số đồng chí đã vô tình hạ thấp tính chất Đảng gần như tính chất những tổ chức quần chúng thông thường khác, làm cho Đảng bị lỏng lẻo một phần về tư tưởng và tổ chức và bị giảm sút về sức chiến đấu cũng như về nǎng lực lãnh đạo. Đồng thời, chúng ta cũng khắc phục những nhận thức máy móc, một chiều về tính chất của Đảng, như chỉ đơn thuần cǎn cứ về mặt thành phần xã hội của đảng viên mà không nhận rõ là tính chất của Đảng, thể hiện chủ yếu ở tư tưởng và hoạt động chính trị của Đảng; hoặc ngược lại, không nhận thấy vấn đề thành phần xã hội của đảng viên cũng có ảnh hưởng đến việc giữ vững và tǎng cường tính chất của Đảng.
Chúng ta cần có nhận thức đúng đắn, sâu sắc, toàn diện về tính chất của Đảng. Đồng thời chúng ta ra sức phấn đấu để tǎng cường tính chất của Đảng, nhất là về tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng. Đó là mục tiêu phấn đấu cơ bản của mọi mặt công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức. Để đạt mục tiêu đó, chúng ta cần chú trọng tổng kết những kinh nghiệm quý báu về xây dựng Đảng ta, không ngừng đấu tranh khắc phục mọi khuynh hướng lệch lạc, nhằm vận dụng đúng đắn những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin vào công tác xây dựng Đảng ta; chúng ta phải tiếp tục giữ vững phương châm xây dựng Đảng duy nhất đúng đắn là lấy việc xây dựng về tư tưởng và chính trị làm chủ yếu, đồng thời rất coi trọng việc xây dựng về tổ chức và tác phong công tác.
Việc tǎng cường tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng đòi hỏi trước hết, về mặt tư tưởng, phải đặc biệt coi trọng việc xác định và củng cố lập trường giai cấp công nhân, bồi dưỡng tư tưởng vô sản, bồi dưỡng đạo đức cộng sản chủ nghĩa, nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin của cán bộ, đảng viên, đấu tranh không điều hoà với những khuynh hướng tư tưởng không vô sản. Về mặt này, so với tình hình trước kia, chúng ta đang đứng trước những yêu cầu mới, cao hơn. Lúc này cán bộ, đảng viên ta không thể chỉ thoả mãn với lập trường phản đế và phản phong kiến mà còn cần phải có giác ngộ xã hội chủ nghĩa cao, phân rõ bạn thù trong cuộc cách mạng mới, phân rõ ranh giới giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa lao động và bóc lột, giữa chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân. Nhiệm vụ cách mạng lúc này đang gấp rút đòi hỏi Đảng ta phải được vũ trang đầy đủ bằng lý luận Mác-Lênin về những quy luật phổ biến của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội; đồng thời cũng đòi hỏi phải mau chóng nâng cao trình độ vǎn hoá, kỹ thuật của cán bộ, đảng viên. Rõ ràng những hiểu biết và kinh nghiệm cũ của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là không đủ. Chỉ có nâng cao trình độ về mọi mặt, trước hết là về tư tưởng và lý luận, thì Đảng ta mới làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong, mới hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử nặng nề của mình.
Đồng thời, việc tǎng cường tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng còn đòi hỏi, về mặt tổ chức, phải chǎm lo nâng cao tiêu chuẩn đảng viên, thanh trừ những phần tử xấu và quá kém ra khỏi Đảng, thu hút vào Đảng những phần tử ưu tú, tiên tiến trong công nhân, nông dân xã viên, trí thức cách mạng. Chúng ta phải chǎm lo cải thiện thành phần xã hội của đảng viên, trước hết là chú trọng tǎng cường thành phần công nhân, đồng thời, do đặc điểm xã hội nước ta, cũng phải chú trọng tǎng cường thêm thành phần bần nông trong Đảng. Đó là một bộ phận trọng yếu của công tác xây dựng Đảng về mặt tổ chức, là một vấn đề thuộc về nguyên tắc cần giữ vững; trong tình hình Đảng ta hiện nay, điều đó càng có ý nghĩa to lớn, nó có quan hệ đến việc củng cố và nâng cao tính chất của Đảng. Chúng ta cần khắc phục những nhận thức lệch lạc, mơ hồ, đánh giá quá thấp ý nghĩa của vấn đề thành phần xuất thân ở trong Đảng, không chú ý phát triển Đảng vào công nhân và bần nông, không chú ý bồi dưỡng, đề bạt cán bộ xuất thân công nông; đó là những biểu hiện về lập trường giai cấp không vững vàng trong công tác xây dựng Đảng. Mặt khác, chúng ta cũng ngǎn ngừa những khuynh hướng lệch lạc của chủ nghĩa thành phần như hẹp hòi trong việc phát triển Đảng cũng như trong công tác cán bộ.
Sau nữa, việc tǎng cường tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng cũng đòi hỏi phải giữ vững chế độ tập trung dân chủ, tác phong phê bình tự phê bình, đi đường lối quần chúng và nâng cao việc thực hiện những nguyên tắc đó lên một bước cho thích hợp với yêu cầu và điều kiện của tình hình mới.
Phấn đấu để tǎng cường tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng, đó chính là phương hướng chung của các phần sau đây của bản báo cáo nói về các mặt của công tác xây dựng Đảng.
II- Nâng cao trình độ lý luận 
và tư tưởng trong Đảng
Cương lĩnh chung của Điều lệ Đảng, một lần nữa, xác nhận "Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của đảng", nhấn mạnh việc học tập và vận dụng có sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
1. Thật vậy, thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 30 nǎm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Ngay từ khi mới ra đời, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta đã phân tích tình hình giai cấp và các mâu thuẫn của xã hội Việt Nam, đề ra cương lĩnh cách mạng đúng đắn. Trong suốt quá trình cách mạng, trước mọi tình thế phức tạp, khi cao trào lúc thoái trào, khi bí mật lúc công khai, khi đấu tranh chính trị lúc đấu tranh vũ trang, nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta nói chung đã đề ra đường lối, phương châm, chính sách của mình một cách đúng đắn, không ngừng đưa cách mạng Việt Nam tiến lên những bước mới, giành những thắng lợi mới. Điều đó chứng tỏ sức sống mạnh mẽ của học thuyết Mác-Lênin, chứng tỏ Đảng ta tuyệt đối trung thành với học thuyết đó và đã biết vận dụng nó một cách sáng tạo vào điều kiện của Việt Nam.
Nhưng để đi đến thắng lợi vĩ đại ngày nay, Đảng ta đã trải qua những vấp váp và thất bại tạm thời. Đường lối chung của Đảng cǎn bản là đúng, nhưng trên một số vấn đề, trong một chừng mực nhất định, Đảng ta đã phạm thiếu sót, sai lầm. Trước đây, có lúc do nhận thức không đầy đủ về mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ dân chủ, không biết kết hợp hai nhiệm vụ đó một cách đúng mức, chúng ta đã phạm phải một số lệch lạc hữu hoặc "tả" như trong chính sách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức và chính sách mặt trận. Sau khi hoà bình lập lại thì nhận thức hơi chậm về sự chuyển biến giai đoạn cách mạng ở miền Bắc, do đó, chậm đề ra đường lối chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thiếu sự chuẩn bị cần thiết về vật chất và cán bộ cho công cuộc phát triển kinh tế và vǎn hoá theo chủ nghĩa xã hội.
Điều đó cũng nói lên rằng, tuy Đảng ta, nói chung, đã nắm được vũ khí lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng có lúc chưa khéo kết hợp lý luận đó với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Quá trình trưởng thành của Đảng ta cũng chính là quá trình không ngừng đấu tranh khắc phục những biểu hiện hữu hoặc "tả" trong Đảng, quá trình học tập dần dần nắm vững và vận dụng đúng đắn những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Hữu hay là "tả" đều đã gây những tổn thất cho sự nghiệp cách mạng của Đảng. Hai mặt đó thường dính líu với nhau, như có những biểu hiện "tả" mà gốc là hữu. Trong khi tiến hành đấu tranh tư tưởng, có những lúc chúng ta không thấy hết sự diễn biến phức tạp của nó, chỉ nhấn mạnh một chiều như trong cải cách ruộng đất thì một chiều chống hữu, trong quá trình phát hiện và sửa chữa sai lầm của cải cách ruộng đất, khi phê phán "tả" lại thiếu đề phòng chạy sang hữu một cách đầy đủ, làm cho đường lối chính sách của Đảng không được quán triệt, tư tưởng và hành động của nhiều cán bộ, đảng viên lệch lạc từ phía này qua phía khác. Cho nên Đảng phải không ngừng tiến hành đấu tranh trên hai mặt trận chống hữu và chống "tả" để giữ vững đường lối đúng đắn của mình. Tùy tình hình cụ thể từng lúc, từng nơi, có thể và cần nhấn mạnh khắc phục một mặt nào đó là chính, song đồng thời phải phê phán mặt kia, phòng lệch từ mặt này sang mặt khác.
Để sửa chữa khuyết điểm sai lầm một cách có hiệu quả, chúng ta cần tìm đến nguồn gốc của những khuyết điểm sai lầm ấy.
Đảng ta sinh trưởng trong một nước nông nghiệp lạc hậu, nền sản xuất nhỏ chiếm ưu thế, số đông đảng viên xuất thân từ các thành phần tiểu tư sản, được rèn luyện trong cách mạng dân tộc dân chủ, cho nên ý thức dân tộc và dân chủ khá cao, song ý thức giai cấp còn ít được bồi dưỡng. Vì vậy bên cạnh tư tưởng vô sản là tư tưởng chỉ đạo, tư tưởng tiểu tư sản còn tồn tại khá sâu trong Đảng.
Sau khi hoà bình lập lại, phạm vi hoạt động của Đảng ta ở thành thị được mở rộng, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản diễn ra gay go, phức tạp, tư tưởng tư sản không ngừng ảnh hưởng tới Đảng ta. Trong hoàn cảnh cách mạng mới, mấy nǎm đầu, chúng ta lại chậm giáo dục một cách sâu sắc về chủ nghĩa xã hội, củng cố lập trường giai cấp công nhân cho cán bộ, đảng viên.
Ngoài ra, những tàn tích tư tưởng phong kiến trong một nước nông nghiệp lạc hậu cũng còn tồn tại trong nhiều đảng viên.
Vì vậy, sai lầm ở trong Đảng về lập trường, tư tưởng, trước hết là có nguồn gốc giai cấp sâu xa. Từ trước đến nay, nhất là mấy nǎm qua, Đảng ta đã chú ý đến việc củng cố lập trường quan điểm giai cấp công nhân cho cán bộ, đảng viên, phê phán lập trường, tư tưởng không vô sản và công tác đó đã có kết quả tốt. Nhưng chưa thể coi thế là đủ. Lúc này, trên những mức độ khác nhau, ở nhiều đồng chí, trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa chưa cao, lập trường giai cấp công nhân chưa vững, ranh giới giữa quan điểm vô sản và quan điểm không vô sản trên một số công tác không phân rõ, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa quan liêu, mệnh lệnh, tác phong gia trưởng còn khá phổ biến.
Do đó, chúng ta phải tiếp tục bồi dưỡng tư tưởng vô sản trên cơ sở giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin một cách có hệ thống cho cán bộ, đảng viên, đấu tranh chống ảnh hưởng tư tưởng tư sản, chống tư tưởng tiểu tư sản, tiếp tục xoá bỏ tàn tích của tư tưởng phong kiến và tư tưởng không vô sản khác để tǎng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng và nâng cao sức chiến đấu của Đảng.
Song, những khuyết điểm sai lầm trong Đảng, ngoài nguồn gốc về giai cấp còn có nguồn gốc về nhận thức. Trên cơ sở lập trường tốt, ý thức tốt, còn cần có phương pháp tư tưởng đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, giữa hai cái đó có mối liên hệ chặt chẽ, không thể tách rời.
Trong Đảng ta, phương pháp tư tưởng chủ quan còn khá nặng biểu hiện ở chỗ không biết kết hợp đúng đắn lý luận với thực tiễn, dễ phạm sai lầm giáo điều chủ nghĩa hoặc kinh nghiệm chủ nghĩa.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc mới mẻ, kinh nghiệm của chúng ta còn thiếu, cho nên việc học tập kinh nghiệm của các Đảng anh em là rất quan trọng và cần thiết. Chúng ta cần động viên và tổ chức cho tốt việc học tập kinh nghiệm của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác. Đồng thời chúng ta cần khắc phục bệnh giáo điều trong cán bộ lãnh đạo các cấp, biểu hiện trong việc học tập và áp dụng máy móc những kinh nghiệm của các nước anh em. Có những cán bộ đã không xem xét những kinh nghiệm đó một cách toàn diện, không xuất phát từ đặc điểm và điều kiện cụ thể của nước ta, trong nhiều trường hợp cứ đem những kinh nghiệm đó lắp nguyên vào nước ta một cách máy móc. Có những cán bộ xem thường kinh nghiệm của quần chúng, cho thực tiễn nước ta là nghèo nàn, họ chỉ thích đi học kinh nghiệm bên ngoài mà không chịu đi sâu nghiên cứu tình hình nước mình, không nǎng đi xuống cơ sở để học tập và tổng kết kinh nghiệm. Bệnh giáo điều đã hạn chế sức sáng tạo của Đảng và quần chúng, không phát huy được trí tuệ và kinh nghiệm của toàn Đảng. Bệnh giáo điều chẳng những chỉ do thiếu điều tra, nghiên cứu thực tế, không xuất phát từ đặc điểm tình hình của nước mình, mà còn do không học tập lý luận một cách cǎn bản và có hệ thống, vì vậy không phân tích được kinh nghiệm của các nước anh em, dễ đi tới bắt chước một cách mù quáng.
Mặt khác, nhiều cán bộ ít chịu học tập, tầm con mắt bị hạn chế bởi những kinh nghiệm cũ của mình, đã biến thành những người sự vụ tầm thường. Trong công tác, họ thiếu dự kiến, chỉ thấy việc trước mắt mà không thấy việc đằng xa, thấy cục bộ mà không thấy toàn cục, nắm việc nhỏ bỏ việc lớn, chấp hành chỉ thị nghị quyết của cấp trên một cách máy móc, thiếu chủ động, sáng tạo; đối với sự vật mới mẻ, họ chậm nhìn ra, tình hình đã biến đổi nhưng họ vẫn giữ những nhận thức cũ, do đó, dễ bảo thủ, hoặc lúng túng, mất phương hướng. Chủ nghĩa kinh nghiệm tồn tại khá phổ biến và ǎn sâu trong nhiều cán bộ, đảng viên, gây ra nhiều tác hại làm chậm bước tiến của cách mạng, song vì những tác hại đó thường không biểu hiện một cách đột xuất, cho nên có một số đồng chí chưa thấy hết tính chất nghiêm trọng của nó.
Chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm là biểu hiện của chủ nghĩa chủ quan, không biết kết hợp đúng đắn lý luận với thực tiễn, đều là do kém lý luận và không tổng kết nổi thực tiễn cách mạng của mình. Trước đây chúng ta chưa chú trọng phê phán và khắc phục nó một cách đầy đủ. Từ nay, để nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, đi đôi với việc củng cố lập trường, quan điểm giai cấp của cán bộ, đảng viên,cần phải hết sức chú trọng khắc phục cả chủ nghĩa kinh nghiệm lẫn chủ nghĩa giáo điều, cần phải đem phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp lý luận với thực tiễn mà giáo dục sâu sắc trong toàn Đảng, nhất là trong cán bộ trung, cao cấp.
Ngoài ra, chúng ta phải đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại và phải đề phòng ngǎn ngừa ảnh hưởng của nó vào trong Đảng. Trong những nǎm 1956-1957, khi chủ nghĩa xét lại đang tấn công vào phong trào cộng sản quốc tế, ở trong nước, nhân cơ hội Đảng ta tự phê bình về những sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, một số phần tử theo chủ nghĩa xét lại và một số phần tử tư sản phản động mà đại biểu là bọn Nhân vǎn giai phẩm đã đả kích vào sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, vǎn hoá, trong bọn này có cả một vài đảng viên. Một số đảng viên lập trường không vững, không phân biệt nổi đúng sai, ít nhiều chịu ảnh hưởng của chúng, hoài nghi, thậm chí có người cũng vào hùa, đả kích các cơ quan lãnh đạo và đường lối của Đảng.
2. Qua tình hình trên đây, chúng ta thấy rõ một vấn đề lớn và nổi bật lúc này là mâu thuẫn giữa nhu cầu công tác lãnh đạo với trình độ lý luận Mác - Lênin còn thấp, giữa tư tưởng vô sản và các tư tưởng không vô sản trong Đảng. Đấu tranh khắc phục mâu thuẫn đó, nâng cao trình độ lý luận và tư tưởng Mác - Lênintrong Đảng là một yêu cầu cơ bản của tình hình hiện nay nhằm bảo đảm và tǎng cường tính chất giai cấp, tính chất tiên phong và nâng cao sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng chính xác hay không, khả nǎng tránh được và giảm bớt sai lầm có nhiều hay ít, điều quyết định trước hết là ở chỗ Đảng, mà chủ yếu là cán bộ cao cấp của Đảng, có nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin và có biết vận dụng vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước mình hay không.
Mấy nǎm nay, chúng ta đã cố gắng kiện toàn hệ thống trường Đảng, chấn chỉnh việc học tập tại chức, đưa cán bộ lần lượt đi học lý luận dài hạn,... và đã thu được những kết quả tốt. Nhưng chưa đủ, chúng ta còn phải gắng công nhiều nữa.
Trong cán bộ, trước hết là cán bộ cao cấp và trung cấp, cần tǎng cường việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin một cách có hệ thống để họ có thể vận dụng vào việc xem xét và giải quyết những vấn đề trong công tác, vào việc nghiên cứu tình hình, tổng kết kinh nghiệm. Đồng thời phải có kế hoạch giáo dục từng bước cho đông đảo đảng viên, giúp họ có được những tri thức cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, chỉ rõ Đảng ta đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta thế nào.
Phải kết hợp học tập ở trường với học tập tại chức. Phải củng cố hệ thống trường Đảng, phải có kế hoạch trong 5, 6 nǎm tới bảo đảm hầu hết cán bộ cao cấp và trung cấp đều qua trường Đảng để được học tập có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản. Mặt khác, phải cải tiến học tập tại chức cho thích hợp và có hiệu quả. Điều chủ yếu là mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần học tập, coi đó là một nghĩa vụ, một nhu cầu không thể thiếu, khắc phục mọi khó khǎn, tranh thủ mọi cơ hội mà học tập.
Trong các trường đại học và trung cấp của Nhà nước và các trường của các đoàn thể quần chúng cũng phải giảng dạy lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin một cách thích hợp. Cần cải tiến và nâng cao công tác xuất bản để giới thiệu và tuyên truyền rộng rãi chủ nghĩa Mác - Lênin trong Đảng và trong nhân dân.
Phải coi trọng việc đào tạo và tǎng cường đội ngũ cán bộ lý luận và cán bộ giảng dạy của Đảng, phải thành lập và kiện toàn các cơ quan nghiên cứu lý luận.
Mục đích của việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm của các đảng anh em là nhằm vận dụng đúng đắn và có sáng tạo lý luận và kinh nghiệm đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ cách mạng trong nước, để có thể nghiên cứu tình hình thực tế của nước mình, tổng kết kinh nghiệm của mình mà định ra đường lối phương châm, chính sách cho thích hợp. Cho nên phải chống lối học lý luận một cách giáo điều, lối tiếp thụ kinh nghiệm một cách mù quáng, phải đề cao phương pháp học tập lý luận liên hệ với thực tiễn, học tập kinh nghiệm một cách có phân tích; gắn liền việc học tập lý luận và kinh nghiệm của các nước anh em với việc điều tra nghiên cứu thực tế Việt Nam.
Về mặt này, việc tổng kết kinh nghiệm là một phương pháp có ý nghĩa trọng yếu. Tổng kết công tác chính là kết hợp lý luận với thực tiễn một cách chặt chẽ và sinh động nhất, vừa có tác dụng nâng cao trình độ lý luận, vừa nâng cao hiểu biết về thực tiễn cách mạng do đó, khắc phục có hiệu quả chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm. Một khâu yếu hiện nay trong công tác lãnh đạo của các cấp, các ngành là lối làm việc sự vụ, ít chú trọng tổng kết kinh nghiệm, hoặc có làm nhưng thường chất lượng chưa cao. Vì vậy đã ảnh hưởng một phần đến việc nâng cao chất lượng lãnh đạo, đến sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, đến việc đẩy mạnh giáo dục và đấu tranh tư tưởng để quán triệt đường lối, chính sách của Đảng. Lịch sử đấu tranh 30 nǎm qua của Đảng ta có những kinh nghiệm rất phong phú, cần xúc tiến việc nghiên cứu và tổng kết lịch sử Đảng; điều đó có tác dụng lớn đối với việc nâng cao trình độ lý luận, tư tưởng trong Đảng và giúp ích thiết thực cho công tác lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Đồng thời, từ nay việc tổng kết kinh nghiệm công tác phải cố gắng đi dần vào nền nếp, phải coi đó là trách nhiệm của các cấp uỷ và cán bộ lãnh đạo. Phải phấn đấu nâng cao chất lượng tổng kết, không phải chỉ dừng lại ở mức kinh nghiệm cụ thể, rời rạc mà phải đem chủ nghĩa Mác - Lênin soi rọi vào thực tế, nâng cao những kinh nghiệm cụ thể lên trình độ lý luận và tư tưởng, do đó rút ra những bài học sâu sắc, sinh động để giáo dục cho toàn Đảng.
Sau nữa, học tập muốn sâu sắc và thiết thực phải đi đôi với phê bình tự phê bình, phát hiện và đấu tranh chống những khuynh hướng tư tưởng và chính trị sai lầm, thông qua việc đó mà củng cố thêm một bước lập trường tư tưởng, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chỉnh huấn chính là một hình thức kết hợp học tập với phê bình tự phê bình mà kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng như của Đảng ta đã chứng tỏ là tốt. Có một số đồng chí không nhận rõ kết quả cǎn bản tốt của cuộc vận động chỉnh huấn nǎm 1952-1953, chỉ thấy khuyết điểm và không phân tích đúng đắn về nguyên nhân của những khuyết điểm đó, đi tới cho rằng từ nay không nên áp dụng biện pháp chỉnh huấn nữa. Như vậy là không đúng. Trong điều kiện mà ảnh hưởng tư tưởng không vô sản trong Đảng tồn tại khá nghiêm trọng, tinh thần phê bình tự phê bình chưa cao và chưa được thường xuyên, thì từng thời gian nhất định, trước những tư tưởng, tác phong lệch lạc có tính chất phổ biến, cản trở nhiều cho sự nghiệp cách mạng, việc tiến hành chỉnh huấn để đi sâu giáo dục và phê phán một cách tập trung những khuyết điểm đó là điều cần thiết và có lợi. Song chỉnh huấn phải dựa trên cơ sở tổng kết công tác một cách rõ ràng; phải theo phương châm trị bệnh cứu người, lấy nâng cao tư tưởng làm chính và không kết hợp với xử trí về tổ chức; phải đi theo đường lối quần chúng, phát huy tự do tư tưởng, đề cao tính tự nguyện, tự giác của cán bộ, đảng viên. Trong chỉnh huấn trước đây, chủ yếu chúng ta nhằm củng cố lập trường giai cấp, gột rửa ý thức tư tưởng sai lầm, điều đó là đúng; rồi đây chúng ta cần phải chú trọng thêm nữa đến vấn đề chỉnh đốn phương pháp tư tưởng và tác phong công tác. Tất nhiên, không thể lạm dụng hình thức chỉnh huấn vì tự công tác chỉnh huấn chưa đủ giải quyết mọi vấn đề, nó không thể thay thế cho việc phê bình tự phê bình thường xuyên ở trong Đảng, cũng không thể thay thế cho việc học tập lý luận tại trường hoặc tại chức được.
Để cải tạo tư tưởng, củng cố lập trường, để việc học lý luận kết hợp được với thực tiễn sinh động, thì một phương pháp trọng yếu nữa là phải tạo mọi điều kiện cho cán bộ, đảng viên được học tập rèn luyện trong thực tế sinh hoạt và đấu tranh của quần chúng.
Chúng ta đã từng đưa cán bộ đi tham gia những cuộc vận động quần chúng rộng lớn như cải cách ruộng đất, hợp tác hoá nông nghiệp, cải tiến quản lý xí nghiệp, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh... và bước đầu tổ chức cho cán bộ tham gia lao động chân tay. Kết quả đã chứng tỏ đó là những trường học lớn rèn luyện cán bộ rất tốt. Trong tương lai, chúng ta cần tiếp tục có kế hoạch đưa cán bộ đi tham gia các phong trào cách mạng của quần chúng. Cần đặt thành chế độ cán bộ tham gia lao động chân tay; cần đặt chế độ cán bộ các cấp mỗi nǎm phải xuống hẳn cơ sở sinh hoạt và công tác trong một thời gian nhất định. Đó là phương pháp thiết thực để củng cố lập trường giai cấp, khắc phục tệ quan liêu, đồng thời cũng giúp cán bộ kết hợp lý luận với thực tiễn
III- Mở rộng dân chủ và tǎng cường tập trung trong sinh hoạt của đảng
Tập trung dân chủ luôn luôn là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Nó bảo đảm cho sự thống nhất về tư tưởng và chính trị của Đảng được củng cố bằng sự thống nhất về tổ chức; nó làm cho Đảng thành một đội ngũ có kỷ luật chặt chẽ, có sức chiến đấu cao, đồng thời phát huy cao độ tính chủ động và sáng tạo của đông đảo đảng viên. Nhờ đó, Đảng ta đã vượt qua muôn vàn khó khǎn nguy hiểm, không ngừng lớn mạnh và hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của mình.
Tuy nhiên, trước đây do điều kiện hoạt động bí mật và kháng chiến lâu dài ở một nước thuộc địa và nông nghiệp lạc hậu và do công tác giáo dục của Đảng chưa đầy đủ, cho nên ý thức tập trung và dân chủ của đảng viên chưa cao; mặt khác trình độ và hình thức áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trước đây cũng không còn thích hợp với điều kiện ngày nay nữa.
Ngày nay, trên miền Bắc hoàn toàn giải phóng, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế và vǎn hoá được tiến hành một cách có kế hoạch và cân đối, theo quy mô ngày càng lớn. Trong những mối quan hệ giữa cá nhân với tổ chức, giữa trung ương với địa phương, giữa cấp uỷ Đảng với các ngành, giữa các địa phương, các ngành với nhau, đang đặt ra nhiều yêu cầu mới phải giải quyết. Việc kiện toàn chế độ sinh hoạt tập trung dân chủ trong Đảng đã được đề ra một cách cấp thiết.
Vì vậy, cương lĩnh chung của Điều lệ một lần nữa xác nhận tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng, vạch ra những phương hướng chính, nêu lên những lệch lạc phải khắc phục để tǎng cường việc thực hiện nguyên tắc đó. Chương II của Điều lệ lại đề ra những quy định cụ thể, trong đó có những điểm bổ sung quan trọng nhằm kiện toàn chế độ tập trung dân chủ.
1. Để mở rộng dân chủ và tǎng cường tập trung, một vấn đề quan trọng bậc nhất hiện nay là phải tǎng cường lãnh đạo tập thể hơn nữa. Cương lĩnh chung của Điều lệ đã ghi rõ đó là nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của Đảng. Sự lãnh đạo tập thể bảo đảm cho các chủ trương, chính sách của Đảng được đúng đắn trên cơ sở tập trung được kinh nghiệm, ý kiến của đảng viên và quần chúng, giảm được những sai lầm chủ quan, phiến diện, lại phát huy được tinh thần trách nhiệm, tính tích cực và sáng tạo của đảng viên, củng cố được sự thống nhất trong Đảng. Trước đây, mặc dù bị nhiều khó khǎn khách quan hạn chế, Đảng ta vẫn cố gắng bảo đảm những chủ trương chính sách lớn đều do một tập thể thích đáng bàn bạc và quyết định. Từ hoà bình lập lại, nhất là sau khi Hội nghị Trung ương lần thứ mười nǎm 1956 phê phán nghiêm khắc những hiện tượng độc đoán, mệnh lệnh, thì sinh hoạt dân chủ, tập thể trong Đảng đã có nhiều tiến bộ. Nhưng sự lãnh đạo tập thể trong Đảng vẫn còn có những thiếu sót.
Đại hội đại biểu toàn quốc và Đại hội đại biểu các cấp là sinh hoạt tập thể lớn nhất trong Đảng. Nó phát huy tính sáng tạo của đông đảo đảng viên tham gia thảo luận và quyết định những vấn đề trọng yếu của Đảng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của đảng viên đối với vận mệnh và công tác của Đảng, lại có tác dụng tǎng cường tập trung thống nhất trong Đảng. Thế nhưng, đã 10 nǎm nay, trừ Đại hội ở các đảng bộ cơ sở và các đảng bộ trong quân đội, chúng ta mới triệu tập lại Đại hội đại biểu toàn quốc và Đại hội đại biểu các cấp từ huyện trở lên. Điều đó một phần là do tình hình khách quan có những khó khǎn. Để bù đắp vào việc chậm triệu tập Đại hội chúng ta đã mở Hội nghị toàn quốc, những cuộc hội nghị cấp uỷ mở rộng, hội nghị cán bộ và hội nghị toàn đảng bộ. Nhưng những cuộc hội nghị đó cũng không thể có tác dụng đầy đủ như Đại hội đại biểu. Vả lại, trước sự chuyển biến của tình hình, nếu Trung ương không triệu tập được Đại hội toàn quốc thì ít ra cũng cần triệu tập Hội nghị toàn quốc. Không làm được như vậy là một thiếu sót. Trong điều kiện ở miền Bắc ngày nay, cần phải triệu tập đều đặn Đại hội đại biểu toàn quốc và các cấp, và phải phát huy hơn nữa vai trò của Đại hội trong sinh hoạt nội bộ của Đảng.
Giữa hai Đại hội, cơ quan lãnh đạo cao nhất ở các cấp là Ban Chấp hành các cấp. Ban Chấp hành phải lãnh đạo tập thể một cách nghiêm chỉnh. Ở các cấp, nói chung hội nghị các ban chấp hành được triệu tập đều đặn nhưng chất lượng thường chưa cao, tác dụng của lãnh đạo tập thể chưa được phát huy đầy đủ. Hội nghị nhiều, nhưng thiếu chuẩn bị chu đáo, có những vấn đề quan trọng mà có khi chưa trải qua điều tra nghiên cứu, chưa thu thập, lắng nghe ý kiến, kinh nghiệm của đảng viên và quần chúng, lại cũng chưa tạo điều kiện cho mỗi cấp uỷ viên nắm vững vấn đề, suy nghĩ chuẩn bị trước, cho nên cuộc họp kéo dài mà thảo luận không sâu và không quyết nghị dứt khoát được hoặc phải quyết nghị một cách miễn cưỡng. Trong hội nghị, có những ý kiến trái nhau nhưng không nêu lên để thảo luận cho rõ đúng sai, hoặc thảo luận xong nhưng không có kết luận dứt khoát, không có biểu quyết rõ ràng. Sau hội nghị, có trường hợp mỗi cấp uỷ viên hiểu và làm mỗi cách. Có khi đối với vấn đề đã có quyết nghị mà nhận thức cũng không thống nhất. ở các ban chuyên môn và đảng đoàn, trong lề lối làm việc tập thể cũng có những thiếu sót tương tự như ở các ban chấp hành. Vì vậy, để cho lãnh đạo tập thể khỏi sa vào hình thức, chỉ họp hội nghị đều đặn chưa đủ mà trọng yếu hơn là phải phấn đấu nâng cao chất lượng các cuộc hội nghị.
Trong Đảng ta, lãnh đạo tập thể chưa được phát huy đầy đủ là do nhiều nguyên nhân. ý thức dân chủ, quan điểm quần chúng trong một số trường hợp còn thiếu sót; bệnh gia trưởng trong một số cán bộ phụ trách còn khá nặng. Có một số đồng chí bí thư cấp uỷ hoặc cấp uỷ viên phụ trách các ngành không thấy rằng mình phải đứng trong tổ chức mà làm việc, trái lại họ đã thoát ly và đứng lên trên tổ chức. Có những việc quan trọng, họ cũng theo lối cá nhân quyết định mà không đưa ra một tập thể thảo luận. Hoặc về hình thức cũng triệu tập hội nghị đều đặn nhưng vì ý thức tôn trọng tập thể không đầy đủ cho nên không chuẩn bị chu đáo mọi điều kiện bảo đảm cho hội nghị đạt kết quả tốt; trong hội nghị lại đả thông, giải thích nhiều mà ít chịu bàn bạc, lắng nghe ý kiến của các uỷ viên. Mặt khác, có những cấp uỷ viên không thấy hết trách nhiệm của mình, chỉ chǎm chú đến phần công việc mình phụ trách mà thiếu ý thức chǎm lo đến việc lãnh đạo chung của cấp uỷ. Một số cấp uỷ viên lại thiếu độc lập suy nghĩ hoặc có thái độ nể nang, không thẳng thắn phát biểu ý kiến của mình.
Ngoài nguyên nhân về tư tưởng thì còn do trình độ lý luận, chính trị của các cấp uỷ viên chưa được nâng cao đúng mức so với đòi hỏi của nhiệm vụ, làm cho chất lượng của hội nghị bị hạn chế. Sau nữa cũng do chế độ tổ chức, lề lối làm việc còn thiếu kinh nghiệm và chưa có những quy định rõ ràng.
Vì vậy, để thiết thực tǎng cường lãnh đạo tập thể, trước hết chúng ta chú trọng giải quyết về tư tưởng, khắc phục đầu óc cá nhân gia trưởng cũng như tình trạng thiếu trách nhiệm, đồng thời phải coi trọng cải tiến lề lối làm việc, nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên về mọi mặt.
Trong khi đề cao vai trò của tập thể, quyết không thể hạ thấp vai trò của cá nhân, của bộ phận. Lãnh đạo tập thể phải kết hợp chặt chẽ với phân công phụ trách. Lãnh đạo tập thể không đi đôi với phân công phụ trách thì dễ sa vào tình trạng bàn suông, nói mà không làm; ngược lại, phân công phụ trách không dựa trên cơ sở lãnh đạo tập thể thì sẽ đi tới phân tán và độc đoán, chuyên quyền. Thời gian gần đây, khi nhấn mạnh lãnh đạo tập thể, có những nơi đã hạ thấp trách nhiệm của cá nhân, của bộ phận chuyên trách. Sau khi quyết nghị, không phân công rõ ràng, không định trách nhiệm dứt khoát. Đối với việc thuộc quyền hạn của mình, cán bộ hoặc bộ phận chuyên trách cũng không có thái độ dũng cảm phụ trách, mà lại ỷ lại, chờ đợi tập thể quyết định, làm cho công việc bị chậm trễ. Cá nhân phụ trách không đầy đủ đã làm cho lãnh đạo tập thể bị hạ thấp, đi vào sự vụ, vụn vặt. Vì vậy, chúng ta phải đề cao tinh thần trách nhiệm của cá nhân, của bộ phận chuyên trách, phải kết hợp đúng đắn lãnh đạo tập thể với phân công phụ trách.
2. Tuân theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chúng ta còn phải giải quyết đúng đắn quan hệ giữa đảng viên và tổ chức của Đảng, làm cho sinh hoạt trong Đảng vừa dân chủ, vừa có kỷ luật. Người đảng viên là người chủ trong Đảng, Đảng ta luôn luôn tôn trọng mọi quyền dân chủ của đảng viên. Ngày nay, chúng ta đã có điều kiện để mở rộng hơn nữa quyền dân chủ của đảng viên và bảo đảm cho đảng viên có thể sử dụng đầy đủ những quyền đó. Chúng ta cần khắc phục thói độc đoán, mệnh lệnh của một số cán bộ và cơ quan lãnh đạo không chịu lắng nghe ý kiến và nghiên cứu kinh nghiệm của đảng viên, và cán bộ cấp dưới, không khuyến khích đảng viên, cán bộ phê bình và kiểm tra công tác của mình, do đó mà nội bộ kém đoàn kết thống nhất, cán bộ, đảng viên kém phấn khởi công tác. Mặt khác, hiện tượng tự do tản mạn, vô tổ chức, vô kỷ luật còn khá nặng. Đối với chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, có những đồng chí chưa có thái độ chấp hành vô điều kiện. Bộ phận hoặc cá nhân mình chưa đồng ý thì không tích cực chấp hành, hay thậm chí không chấp hành nếu lợi ích bộ phận hoặc cá nhân không được thỏa mãn. Có những đồng chí và cấp uỷ bên dưới không thực hiện đúng chế độ báo cáo và xin chỉ thị, có nơi đã tự động đặt ra chính sách. Có những đồng chí nói nǎng vô trách nhiệm, phê bình lãnh đạo một cách vô nguyên tắc, gặp những vấn đề thuộc về đường lối chính sách mà cấp trên chưa quyết nghị cũng tự tiện phát biểu trước cấp dưới và quần chúng. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, việc khắc phục những lệch lạc này lại càng cấp thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, để nâng cao sức chiến đấu của Đảng, củng cố sự thống nhất trong Đảng, chúng ta phải đấu tranh trên hai mặt, vừa phải mở rộng dân chủ nội bộ, vừa phải tǎng cường kỷ luật trong Đảng, kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cá nhân.
3. Đối với Đảng ta hiện nay, để kiện toàn chế độ tập trung dân chủ, còn cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa cấp uỷ Đảng và các ngành. Vấn đề đặt ra là phải tǎng cường hơn nữa sự lãnh đạo tập trung thống nhất vào Trung ương Đảng trong phạm vi toàn quốc và tập trung thống nhất vào các cấp uỷ Đảng trong những công việc thuộc phạm vi địa phương; ra sức khắc phục tình trạng phân tán và tập trung quan liêu.
Những nǎm vừa qua, chúng ta đã đấu tranh khắc phục tình trạng phân tán do ảnh hưởng của thời kỳ kháng chiến, nhưng trong một thời gian khá dài lại đã tập trung quyền hạn vào các ngành dọc ở trung ương một cách quá đáng dẫn tới vừa tập trung quan liêu vừa phân tán khá nặng. Có việc thuộc phương châm, chính sách lớn không được tập trung vào sự lãnh đạo của Trung ương Đảng; một số ngành tự ý ra chỉ thị cho cấp dưới thi hành những vấn đề thuộc chủ trương chính sách có quan hệ đến đông đảo quần chúng và cán bộ, đảng viên. ở địa phương, nhiều cấp uỷ không thực hiện được sự lãnh đạo toàn diện và thống nhất đối với các ngành; có ngành thành gần như một hệ thống riêng, không tôn trọng đầy đủ sự lãnh đạo của cấp uỷ. Các cấp uỷ Đảng gần như chịu nhiều đầu mối lãnh đạo làm cho công tác của địa phương có lúc lúng túng, bị động; hoặc bị bó tay bởi một số chế độ, thủ tục không hợp lý của các cơ quan ngành dọc cấp trên. Ngược lại, cũng có tình trạng cấp uỷ địa phương không có ý thức tôn trọng các quyết định của ngành dọc cấp trên trong phạm vi quyền hạn đã được Trung ương giao cho, hoặc có ý kiến trái lại mà không bàn bạc với ngành dọc.
Tình trạng phân tán và tập trung quan liêu đã gây nhiều tác hại. Nó làm yếu sự lãnh đạo thống nhất và toàn diện của Đảng, hạn chế tính chủ động và tính sáng tạo của địa phương và của cấp dưới. Nó làm cho tệ quan liêu, bao biện, sự vụ, giấy tờ thêm phát triển.
Trung ương Đảng đã từng phê phán nghiêm khắc tình trạng đó. Qua kiện toàn tổ chức, chúng ta đã bắt đầu tiến hành phân cấp quản lý, định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cấp, các ngành; qua cải tiến quản lý xí nghiệp, chúng ta đã bước đầu sửa đổi một số chế độ. Các cấp uỷ Đảng dần dần đã đi sâu vào lãnh đạo kinh tế và vǎn hoá, sự lãnh đạo mỗi ngày một toàn diện hơn. Song để thích ứng với đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần phải tiếp tục phấn đấu cải tiến công tác lãnh đạo, cải tiến tổ chức và lề lối làm việc theo phương hướng tǎng cường tập trung và mở rộng dân chủ hơn nữa. Chúng ta phải ra sức chống mọi biểu hiện phân tán, cục bộ, địa phương chủ nghĩa và mọi biểu hiện tập trung quan liêu như Cương lĩnh chung của Điều lệ Đảng đã chỉ ra. Chúng ta phải thực hiện đúng đắn mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các địa phương và các ngành với nhau như đã ghi trong chương II của Điều lệ. Chúng ta phải thực hiện sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương Đảng trong phạm vi toàn quốc, đồng thời tôn trọng và mở rộng quyền hạn cho các tổ chức Đảng ở địa phương, phát huy tính tích cực của họ. Dưới điều kiện lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương trong phạm vi toàn quốc và của các cấp uỷ địa phương trong phạm vi địa phương, chúng ta phải phát huy khả nǎng của các ngành; cấp uỷ Đảng địa phương và ngành dọc cấp trên cần lắng nghe ý kiến của nhau, tôn trọng quyền hạn của nhau, cần thực hiện sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau theo tinh thần đồng chí. Dựa theo những tinh thần trên đây của bản Điều lệ, cần có những quy định cụ thể cho thích hợp với yêu cầu của từng thời kỳ phát triển kinh tế và vǎn hoá.
Để khắc phục tình trạng phân tán và tập trung quan liêu, một mặt phải nâng cao trình độ lãnh đạo, trình độ tổ chức của cán bộ, đảng viên; mặt khác phải ra sức chống chủ nghĩa cá nhân cục bộ và bản vị. Những tư tưởng sai lầm đó đã làm cho một số đồng chí có lúc chỉ biết đòi quyền hạn cho mình, vun xới lợi ích hẹp hòi của ngành mình, địa phương mình mà không thấy lợi ích toàn cục, không tôn trọng sự lãnh đạo thống nhất của cấp trên, không tôn trọng quyền hạn của cấp dưới, thiếu hợp tác giúp đỡ các ngành, các địa phương khác. Nếu không chú trọng khắc phục những tư tưởng sai lầm ấy, thì khi nền kinh tế phát triển hơn nữa, phân cấp quản lý rộng rãi hơn nữa, tác hại sẽ rất lớn.
Đó là mấy vấn đề cần giải quyết để kiện toàn chế độ sinh hoạt tập trung dân chủ trong Đảng, làm cho Đảng tǎng cường đoàn kết thống nhất và không ngừng phát huy sức mạnh lãnh đạo của mình.
IV- thấu suốt đường lối quần chúng của Đảng
Cương lĩnh chung của Điều lệ Đảng, một lần nữa, nhấn mạnh về đường lối quần chúng của Đảng. Dựa vào những kinh nghiệm đã qua, làm rõ vấn đề đó trong toàn Đảng là một điều bức thiết, nhất là trong hoàn cảnh Đảng lãnh đạo chính quyền như ngày nay.
1. Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời phải là một bộ phận của giai cấp công nhân, ǎn sâu bám chắc trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Sức mạnh của nhân dân là ở chỗ có Đảng tiên phong lãnh đạo; sức mạnh vô địch của Đảng là ở chỗ liên hệ mật thiết với quần chúng đông đảo.
Đảng ta có truyền thống tốt đẹp liên hệ với quần chúng. Mọi chủ trương chính sách của Đảng ta đều xuất phát từ yêu cầu nguyện vọng của quần chúng, khéo kết hợp lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài của quần chúng. Trong mọi công tác, Đảng ta đều quán triệt tinh thần tin tưởng và dựa chắc vào lực lượng quần chúng, đều nhằm phát động quần chúng lên, nâng cao tính tích cực và tính sáng tạo của họ trong cuộc đấu tranh giành giải phóng và xây dựng cuộc sống mới. Nhờ vậy, Đảng ta được quần chúng hết lòng tín nhiệm và ủng hộ.
Từ sau khi phát hiện sai lầm trong cải cách ruộng đất, có những đồng chí không muốn phát động quần chúng nữa, cho rằng phát động quần chúng lên thì sẽ dẫn tới những sai lầm quá trớn, "tả" khuynh; họ tỏ thái độ miệt thị hoặc giội nước lạnh vào quần chúng cơ bản khi phong trào gặp phải những vấp váp, khuyết điểm nhất thời. Thật ra, sai lầm của cải cách ruộng đất không phải do việc phát động quần chúng gây nên mà trái lại, chính vì trong nhiều trường hợp cán bộ ta đã không phát động quần chúng một cách đầy đủ, phạm quan liêu, mệnh lệnh khá nặng. Nếu chỉ đơn thuần dựa vào biện pháp hành chính, không phát động hàng triệu nông dân đứng lên đấu tranh thì cải cách ruộng đất đã không thể có kết quả tốt.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; toàn bộ cuộc cách mạng do Đảng ta lãnh đạo chính là một cuộc phát động quần chúng rộng lớn, liên tục. Cách mạng Tháng Tám, kháng chiến trường kỳ, cải cách ruộng đất đều là những cuộc phát động quần chúng vĩ đại; không có phát động quần chúng thì không có bất cứ một cuộc cách mạng nhân dân chân chính nào. Một phong trào quần chúng rộng lớn khó tránh khỏi có những khuyết điểm cục bộ và tạm thời; chỉ có tiếp tục dựa hẳn vào quần chúng cơ bản nhất thì mọi khuyết điểm đó mới được khắc phục một cách mau chóng và triệt để.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, có đồng chí nhấn mạnh vai trò của khoa học kỹ thuật, điều đó là đúng, nhưng lại đi tới xem thường vai trò của quần chúng, đem hai cái đó tách rời nhau hoặc đối lập nhau. Khoa học kỹ thuật là do tổng kết từ kinh nghiệm lao động sản xuất và đấu tranh xã hội của quần chúng mà có và xét đến cùng cũng do quần chúng sáng tạo nên. Khoa học kỹ thuật phải phục vụ thực tiễn sản xuất và đấu tranh của quần chúng, và qua đó mà được phát triển không ngừng. Cho nên chúng ta rất xem trọng khoa học và kỹ thuật nhưng phải trên cơ sở phát huy đầy đủ nhiệt tình cách mạng của quần chúng và kết hợp chặt chẽ phát động quần chúng với phát triển khoa học kỹ thuật.
Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện thắng lợi bằng hoạt động tự giác của hàng triệu người lao động. Công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp tiến triển nhanh chóng và lành mạnh, việc phát triển sản xuất nông nghiệp mấy nǎm nay có những thành tích lớn, chủ yếu là do phát động được nông dân trên cơ sở nâng cao giác ngộ về tư tưởng, đã phát huy được nhiệt tình và óc sáng tạo của họ. Cải tiến quản lý xí nghiệp thực chất cũng là cuộc phát động quần chúng công nhân tham gia quản lý xí nghiệp, nhờ đó, đã có tác dụng rõ rệt thúc đẩy sản xuất phát triển.
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà quần chúng nhân dân nước ta, hơn bao giờ hết, có ý thức sâu sắc làm chủ nước nhà, làm chủ vận mệnh của mình và, bằng những hành động tự giác, dồi dào sức sáng tạo, đang thúc đẩy lịch sử tiến lên mau chóng. Đó chính là thắng lợi to lớn của đường lối quần chúng của Đảng.
2. Từ nay về sau, cần phải phát động quần chúng mỗi ngày một rộng rãi và tiến lên những bước cao hơn nữa để đẩy tới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước mắt là hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất. Muốn thế, phải kiên quyết khắc phục những tư tưởng, tác phong trái ngược với đường lối quần chúng còn khá nặng trong Đảng.
Bệnh quan liêu đang tồn tại trong khá nhiều cán bộ, nhân viên các cơ quan của Đảng và của Nhà nước.
Có những đồng chí không có đầy đủ tinh thần trách nhiệm đối với quần chúng, thiếu ý thức phục vụ quần chúng một cách vô điều kiện. Họ vì cấp trên hơn là vì quần chúng mà làm việc. Họ không thông cảm với yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng, thiếu quan tâm đến đời sống của quần chúng; thái độ làm việc thì uể oải, quan dạng.
Có những đồng chí, tuy không phải là không muốn phục vụ quần chúng, nhưng lại xem thường trí tuệ và kinh nghiệm của quần chúng, họ đứng lên trên mà lãnh đạo quần chúng chứ không hoà mình với quần chúng và học tập quần chúng để lãnh đạo quần chúng. Vì vậy mà chủ trương, quyết định của họ thường không phù hợp với tình hình khách quan, không phản ánh nguyện vọng và tập trung kinh nghiệm của quần chúng, thậm chí phạm sai lầm nghiêm trọng. Đã có những nơi, việc xây dựng chỉ tiêu kế hoạch, việc đề ra biện pháp này hoặc là biện pháp khác chỉ cǎn cứ theo cảm giác và nguyện vọng chủ quan của cán bộ lãnh đạo, bất chấp ý kiến và kinh nghiệm của quần chúng và điều kiện cụ thể từng nơi khác nhau. Vì không đi sát học hỏi quần chúng, nghe ý kiến quần chúng, cho nên sự lãnh đạo của họ thường thiếu cụ thể, không kịp thời phát hiện và giải quyết những vấn đề mới trong phong trào. Cũng vì không tin vào lực lượng quần chúng, cho nên trong công tác, họ thường phạm phải bao biện, làm thay, ban ơn cho quần chúng, rốt cuộc là nếu không thất bại thì kết quả cũng không tốt.
Trong hoàn cảnh Đảng nắm chính quyền và lãnh đạo công cuộc xây dựng trong hoà bình, một khuynh hướng nữa của chủ nghĩa quan liêu là bệnh giấy tờ, bệnh hình thức có phần phát triển hơn trước. Có những đồng chí suốt ngày loanh quanh ở bàn giấy, bận rộn vào công việc giấy tờ và hội nghị quá nhiều. Vì không sát với thực tiễn sinh động của phong trào quần chúng, nhiều chỉ thị, nghị quyết của các cấp chỉ là những lời kêu gọi chung chung, không giúp đỡ thiết thực cho công tác của cấp dưới. Sau khi đã ra chỉ thị thì không kiểm tra đôn đốc, không tìm hiểu tình hình chấp hành và rút kinh nghiệm. Bộ máy tổ chức thì cồng kềnh, nhiều tầng nhiều nấc, có việc thì dẫm chân lên nhau, có việc thì chẳng ai phụ trách, gây ra lãng phí sức người sức của, chậm trễ công việc.
Bệnh quan liêu lại đi liền với mệnh lệnh. Một số cán bộ, đảng viên thường dựa vào uy tín của Đảng, vào quyền lực của Nhà nước, thúc ép quần chúng phải làm theo ý muốn của mình; trước những khó khǎn trong công tác, họ thiên về dùng biện pháp mệnh lệnh mà không biết kiên nhẫn tuyên truyền, thuyết phục quần chúng, không biết cách khéo biến chính sách, khẩu hiệu của Đảng thành của quần chúng. Vì vậy, nhiều khi chính sách của Đảng rất đúng, nhưng thực hiện không thành công hoặc kết quả bị hạn chế. Họ chỉ cǎn cứ vào trình độ của một số ít phần tử tiên tiến, vượt quá trình độ thực tế của số đông quần chúng trung gian và quần chúng lạc hậu, mắc phải thói chủ quan nóng vội. Như trong vận động hợp tác hoá nông nghiệp và cải tiến kỹ thuật canh tác, đối với những người chậm hưởng ứng, một số cán bộ đã không hiểu nỗi bǎn khoǎn thắc mắc của những người này, không biết kiên nhẫn thuyết phục, chờ đợi quần chúng, không biết xây dựng điển hình tốt, lấy thực tế để giáo dục quần chúng, lại cứ gò ép thúc bách, thậm chí có thái độ khinh rẻ, đả kích số quần chúng đó.
Cũng có những đồng chí, về hình thức thì có giáo dục tuyên truyền quần chúng, nhưng thực ra chỉ là lối "đả thông" một chiều, không thành tâm bàn bạc, lắng nghe mọi ý kiến của quần chúng, qua thực tiễn mà khảo nghiệm chính sách của ta, để sửa chữa sai lầm hoặc kịp thời thay đổi chủ trương khi tình hình đã biến đổi. Họ không chịu bình tĩnh suy xét những ý kiến phản đối, coi những người này là "bảo thủ", "lạc hậu" làm cho quần chúng e ngại, không dám nói thật ý nghĩ của mình. Vì vậy, trong công tác chúng ta đã từng phạm phải những sai lầm đáng lẽ có thể tránh được, phát hiện và sửa chữa chậm những sai lầm đáng lẽ có thể phát hiện và sửa chữa sớm hơn.
Quan liêu mệnh lệnh đều là những tác phong rất xấu, phá hoại mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng, đã từng gây nhiều tác hại cho sự nghiệp cách mạng của chúng ta.
Trong những đồng chí mắc phải bệnh quan liêu, mệnh lệnh, có một số thì do trình độ tổ chức và lề lối làm việc của họ không tiến kịp trước phạm vi công tác ngày một rộng lớn phức tạp cho nên sinh ra ôm đồm sự vụ, quan liêu vất vả, bao biện làm thay; nhưng cũng có một số thì do chịu ảnh hưởng tư tưởng và tác phong xấu của giai cấp bóc lột; sau khi trở về thành thị thì những ảnh hưởng đó trong một số đồng chí lại càng nặng.
Gần đây, trong Đảng đã chú ý phê phán bệnh quan liêu mệnh lệnh. Qua chỉnh huấn và kiện toàn tổ chức, lề lối làm việc và tác phong lãnh đạo của các cấp đã có những tiến bộ. Nhưng chưa đủ. Khắc phục bệnh quan liêu, mệnh lệnh vẫn là một vấn đề cấp bách trong Đảng.
Trong khi ra sức khắc phục bệnh quan liêu, mệnh lệnh, chúng ta phải đồng thời phê phán bệnh theo đuôi quần chúng vì đó cũng là một biểu hiện xa rời đường lối quần chúng của Đảng. Nếu chủ nghĩa quan liêu mệnh lệnh hạ thấp vai trò của quần chúng trong cách mạng thì bệnh theo đuôi, ngược lại, hạ thấp vai trò tiên phong lãnh đạo của Đảng, và vì vậy đều phá hoại mối quan hệ đúng đắn giữa Đảng lãnh đạo với quần chúng nhân dân.
ý kiến và kinh nghiệm của quần chúng vô cùng phong phú, song vì quần chúng gồm nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ giác ngộ chênh lệch, cho nên ý kiến thường tản mạn, phân tán, phiến diện; vai trò lãnh đạo của Đảng chính là ở chỗ vận dụng lập trường quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin mà nghiên cứu, chỉnh lý, hệ thống hoá những ý kiến đó, rồi đề ra chủ trương chính sách đúng.
Nhưng có những cán bộ, đảng viên tiếp thụ ý kiến của quần chúng mà không qua phân tích phê phán, có khi họ chỉ cǎn cứ vào yêu cầu của một số quần chúng lạc hậu mà không thấy yêu cầu của số đông quần chúng, hoặc chỉ thấy lợi ích bộ phận, trước mắt mà không thấy lợi ích toàn bộ, lâu dài của quần chúng. Họ bỏ mất vai trò lãnh đạo của Đảng, giảm nhẹ tác dụng giáo dục thuyết phục của Đảng đối với quần chúng. Như sau khi phát hiện sai lầm của cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, chúng ta đấu tranh khắc phục những hiện tượng mệnh lệnh, thiếu dân chủ với quần chúng thì một số cán bộ, đảng viên đã có những lệch lạc khác: họ không giữ vững cương vị tiên phong của mình, không dám bảo vệ chân lý, đấu tranh với những tư tưởng lạc hậu. Có đồng chí đã lầm lẫn những luận điệu phản động của những phần tử xấu, bao gồm những phần tử tư sản phản động, với ý kiến và yêu cầu của quần chúng; thậm chí, trước những luận điệu và hoạt động phá hoại của địch, một số nơi cũng rụt rè không dám trấn áp. Hiện nay, trong công tác thu mua, thu nợ, sản xuất nông nghiệp... bên cạnh hiện tượng quan liêu, mệnh lệnh, những hiện tượng theo đuôi quần chúng, không tích cực vận động, thuyết phục, khắc phục những tư tưởng lạc hậu, bảo thủ trong quần chúng cũng khá phổ biến.
Chúng ta không thể vượt quá xa trước quần chúng nhưng cũng không được tụt lại sau quần chúng mà phải cǎn cứ vào trình độ của số đông tích cực dẫn dắt quần chúng tiến lên phía trước. Đi đường lối quần chúng với tǎng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là một, tách rời hoặc đối lập hai cái đó là phạm sai lầm.
Sau nữa, đi đường lối quần chúng với quán triệt đường lối giai cấp của Đảng là nhất trí. Phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân mới hiểu nổi và vận dụng đúng đắn đường lối quần chúng của Đảng. Hiện nay có đồng chí còn những nhận thức và thái độ đối xử không đúng với các tầng lớp quần chúng. Đối với công nhân, có những đồng chí còn chưa thật tin và dựa vào họ, thiếu quan tâm bồi dưỡng họ về tinh thần và vật chất, không thiết thực đề cao vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Đối với nông dân lao động, có đồng chí nhấn mạnh vào mặt tiêu cực, không thấy mặt tích cực của họ là chủ yếu và không chấp hành thấu suốt đường lối "dựa hẳn vào bần nông và trung nông lớp dưới, đoàn kết chặt chẽ với trung nông". Đối với tiểu thương, có đồng chí không thấy mặt chủ yếu của họ là người lao động, không quan tâm đến công ǎn việc làm và đời sống của họ. Đó đều là những biểu hiện không quán triệt đường lối giai cấp mà cũng là không quán triệt đường lối quần chúng của Đảng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
3. Từ nay về sau, để chấp hành thấu suốt đường lối quần chúng của Đảng, chúng ta cần thiết thực tǎng cường một loạt biện pháp về tư tưởng và tổ chức.
Phải tǎng cường giáo dục đường lối quần chúng một cách sâu sắc trong toàn Đảng, phê phán nghiêm khắc mọi khuynh hướng xa rời đường lối đó của Đảng.
Phải cải tiến lề lối làm việc và tác phong lãnh đạo: đặt thành nền nếp và chế độ cán bộ lãnh đạo đi xuống cơ sở; mọi công tác (ít nhất là những công tác quan trọng) đều phải điều tra nghiên cứu, có chỉ đạo riêng, làm thí điểm để rút kinh nghiệm lãnh đạo chung; triệu tập những hội nghị tại chỗ để trực tiếp tổng kết và học tập kinh nghiệm của quần chúng.
Phải tǎng cường mối liên hệ giữa các cơ quan của Đảng và của Nhà nước với quần chúng: tinh giản tổ chức cơ quan; mở rộng sinh hoạt dân chủ và sử dụng những hình thức thích hợp để quần chúng có thể dễ dàng tiếp xúc, phản ánh ý kiến, giám đốc và thẳng thắn phê bình cán bộ và các cơ quan. Phát huy tác dụng của Hội đồng nhân dân các cấp, Đại hội công nhân viên chức trong xí nghiệp, v.v..
Phải tǎng cường kiểm tra và giám sát của Đảng đối với cán bộ và cơ quan Nhà nước, giữ gìn kỷ luật nghiêm minh, xử lý thích đáng đối với những phần tử quan liêu gây tác hại nghiêm trọng cho Đảng và cho Nhà nước.
Cần chú trọng phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, làm cho những tổ chức ấy thành nơi thật sự tập hợp và phản ánh ý kiến của quần chúng cho Đảng và các cơ quan Nhà nước.
V- Tǎng cường đoàn kết và thống nhất trong đảng trên cơ sở đẩy mạnh phê bình và tự phê bình
1. Đảng phải là một khối đoàn kết thống nhất về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Đó là sinh mệnh của Đảng. Đó là cơ sở để thống nhất giai cấp, đoàn kết nhân dân, đánh đổ quân thù.
Đảng ta có truyền thống đoàn kết thống nhất tốt đẹp. Lúc thuận lợi cũng như lúc khó khǎn, lúc bình thường cũng như lúc cách mạng chuyển biến, toàn Đảng cǎn bản đều giữ vững lòng tin tưởng và đoàn kết nhất trí chung quanh Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch. Khối đoàn kết thống nhất đó dựa trên cơ sở tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và ngày càng được củng cố qua cuộc đấu tranh chống kẻ thù và qua cuộc đấu tranh khắc phục những khuynh hướng sai lầm trong Đảng.
Song, Đảng ta có nhược điểm là trình độ lý luận và tư tưởng của đảng viên còn kém, tác phong phê bình tự phê bình còn yếu, lại hoạt động lâu dài trong hoàn cảnh bí mật và nước nhà bị chia cắt, một số vấn đề trong lịch sử Đảng chưa có điều kiện tổng kết rõ ràng; những điều đó đã ảnh hưởng một phần đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Hiện nay, cách mạng nước ta bước vào một giai đoạn mới, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội đang diễn ra gay go phức tạp, thêm nữa, tình hình thế giới và trong nước có nhiều phát triển mới, điều đó không thể không ảnh hưởng vào trong Đảng. Cho nên chúng ta phải đề phòng, ngǎn ngừa những hiện tượng kém đoàn kết thống nhất có thể xảy ra ở trong Đảng. Ngoài ra, trong lúc Đảng nắm chính quyền, kẻ thù càng tǎng cường mọi thủ đoạn chia rẽ, mua chuộc, hủ hoá cán bộ, đảng viên, có khi còn luồn tay chân của chúng vào Đảng để phá hoại.
Cho nên Cương lĩnh chung của Điều lệ Đảng, xuất phát từ tình hình và yêu cầu mới, nhấn mạnh vấn đề tǎng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng là hoàn toàn cần thiết.
2. Sự đoàn kết trong Đảng chỉ có thể dựa trên cơ sở chủ yếu là sự nhất trí về tư tuởng và chính trị đi đôi với sự thống nhất về tổ chức. Vì vậy, việc tǎng cường giáo dục tư tưởng và chính trị cho cán bộ, đảng viên, việc kiện toàn chế độ tập trung dân chủ trong Đảng là điều có ý nghĩa quyết định. Những vấn đề này đã được nói tới trong các phần trên.
Điều cần nêu ở đây là vấn đề đấu tranh nội bộ, phê bình và tự phê bình trong Đảng, là vấn đề quan hệ giữa đoàn kết thống nhất và đấu tranh trong Đảng.
Đoàn kết thống nhất không phủ nhận đấu tranh, trái lại, phải luôn luôn đấu tranh khắc phục mâu thuẫn thì mới đạt tới đoàn kết thống nhất ngày càng cao hơn. Chỉ có trải qua đấu tranh với những khuynh hướng tư tưởng chính trị sai lầm thì mới bảo vệ được sự nhất trí và củng cố kỷ luật trong Đảng. Nhưng có một số đồng chí tỏ ra rất ngại khi nói đến đấu tranh trong Đảng, họ sợ như thế sẽ phá vỡ đoàn kết. Những quan điểm trái nhau thường không được tranh luận đến cùng cho rõ trắng đen, phải trái, những khuyết điểm trong công tác thường không được đem ra phê phán thẳng thắn, nghiêm chỉnh; trong nhiều cấp uỷ và tổ chức có không khí xuề xoà, "dĩ hoà vi quý". Đó chỉ là sự đoàn kết thống nhất giả tạo, hình thức, vì nó xây dựng trên những quan hệ cá nhân chứ không xuất phát từ tư tưởng Mác - Lênin, từ đường lối chính sách của Đảng. Đó là một khuynh hướng của chủ nghĩa tự do tiểu tư sản mà chúng ta phải kiên quyết khắc phục.
Ngược lại, một tình trạng khá phổ biến khác là đấu tranh phê bình không nhằm vào những vấn đề nguyên tắc của Đảng, của cách mạng. Do trình độ lý luận thấp mà bỏ qua không đấu tranh những vấn đề về tư tưởng, về nguyên tắc nhưng lại đấu tranh gay gắt về những việc vụn vặt, không thuộc về nguyên tắc; thậm chí thái độ phê bình thiếu thiện ý, có những động cơ cá nhân không tốt. Đó là một thứ đấu tranh không cần thiết và có hại cho sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đó là hạ thấp và tầm thường hoá việc phê bình và tự phê bình trong Đảng.
Đấu tranh trong Đảng là đấu tranh trên những vấn đề thuộc về nguyên tắc. Đảng yêu cầu mọi đảng viên phải nhất trí trên những vấn đề thuộc về nguyên tắc cơ bản. Chúng ta phải kiên quyết giữ vững chân lý, phải đấu tranh không điều hoà với mọi khuynh hướng sai lầm. Còn đối với những vấn đề lặt vặt, không thuộc về nguyên tắc thì có thể có những ý kiến khác nhau, đó là điều khó tránh khỏi và cũng không có hại mấy. Đối với những vấn đề này, không nên đấu tranh bừa bãi để có thể gây ra chia rẽ về mặt tổ chức.
Hình thức đấu tranh tư tưởng trong Đảng là phê bình và tự phê bình. Chúng ta phải phân biệt rõ ràng phương thức đấu tranh chống kẻ thù giai cấp ngoài xã hội với phương thức đấu tranh trong nội bộ Đảng. Trừ một số rất ít những phần tử phản cách mạng và những phần tử đầu cơ mà Đảng phải thẳng tay vạch mặt và đuổi ra khỏi hàng ngũ mình, còn đối với những đồng chí phạm sai lầm mà không tự giác, chỉ cần họ sẵn sàng tiếp thụ lẽ phải và cố gắng sửa chữa thì việc phê bình họ phải tiến hành với tinh thần đồng chí, theo phương châm trị bệnh cứu người, nhằm mục đích giáo dục và đoàn kết đồng chí. Việc thi hành kỷ luật với những đồng chí phạm sai lầm nghiêm trọng là cần thiết để giữ gìn kỷ luật nghiêm minh của Đảng, song kỷ luật cũng là nhằm giáo dục đồng chí đó và làm bài học giáo dục các đồng chí khác. Tuyệt đối không thể lạm dụng hình thức kỷ luật, áp dụng bừa bãi các biện pháp xử trí về tổ chức, vì phương pháp thô bạo đó không thể giải quyết đến tận gốc những vấn đề tư tưởng. Đối với những đồng chí phạm sai lầm, phải có thái độ thực sự cầu thị, phải phân tích cụ thể bản chất và nguyên nhân đẻ ra sai lầm thì mới nâng cao giác ngộ về tư tưởng của đồng chí đó và rút ra những bài học bổ ích giáo dục cho các đồng chí khác.
Trong Đảng ta, có những đồng chí chưa hiểu hết mục đích và phương châm của phê bình và tự phê bình. Họ phê bình không nhằm vào việc mà cốt nhằm vào người, không làm rõ vấn đề tư tưởng đúng sai ra sao mà lại nhằm đả kích con người cho hả giận. Về thái độ phê bình thì không thực sự cầu thị, thiếu điều tra nghiên cứu, chỉ thấy khuyết điểm, không thấy ưu điểm của người khác. Đối với đồng chí phạm sai lầm thì khinh rẻ, ghét bỏ, thiên về trừng trị mà không có tinh thần giúp đỡ đồng chí, không tin vào sức cải tạo, tiến bộ của đồng chí. Người được phê bình vì vậy mà sinh ra bi quan, mất hết lòng hǎng hái và nhuệ khí trong công tác. Đó là một lệch lạc nữa cần khắc phục.
Đảng ta giàu tính chiến đấu cách mạng chính là ở chỗ Đảng luôn luôn phát huy phê bình và tự phê bình, không ngại vạch trần những thiếu sót trong công tác của mình, luôn luôn đấu tranh với những cái lạc hậu, lỗi thời để đẩy sự nghiệp cách mạng tiến tới không ngừng. Trong hoàn cảnh Đảng nắm chính quyền, chúng ta lại càng có điều kiện mở rộng phê bình, thu hút đông đảo quần chúng tham gia đấu tranh phát hiện và sửa chữa những khuyết điểm của Đảng, làm cho cuộc đấu tranh đó có hiệu quả hơn và nhằm củng cố thêm mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng. Mấy nǎm qua, đi đôi với mở rộng sinh hoạt dân chủ trong Đảng và trong nhân dân, việc phê bình và tự phê bình đã có những tiến bộ. Việc động viên quần chúng tiến hành phê bình công khai trên báo chí, trong các đại hội quần chúng bước đầu đã có những kết quả tốt. Song, hoàn cảnh Đảng nắm chính quyền cũng đang làm cho một số đồng chí sinh ra quan liêu, kiêu ngạo, không tiếp thụ nổi sự phê bình của đồng chí và của quần chúng.
Giữa phê bình và tự phê bình, thì tự phê bình còn yếu. Giữa phê bình từ trên xuống và phê bình từ dưới lên thì phê bình từ dưới lên còn rất yếu. Có tình trạng đó chủ yếu là do nhiều cán bộ lãnh đạo các cấp đã nhiễm phải bệnh quan liêu và tác phong gia trưởng, thích được ca tụng hơn là phê bình, nghiêm khắc với người, dễ dãi với mình, còn nặng tính toán cá nhân, sợ mất thể diện, mất địa vị do đó, không khuyến khích được cấp dưới và quần chúng mạnh dạn phê bình lãnh đạo. Trước những ý kiến của bên dưới trái với ý kiến mình, lãnh đạo thường không bình tĩnh suy sét, cân nhắc kỹ càng, có khi lại quy kết cho cấp dưới một cách thiếu thận trọng là "quan điểm mơ hồ", "lập trường không vững"; nếu những ý kiến phê bình đụng chạm đến cá nhân mình thì có khi còn thành kiến, trù người đã phê bình. Hoặc có cán bộ và cơ quan lãnh đạo tiếp thụ phê bình một cách chiếu lệ, không thiết thực sửa chữa. Thái độ không tốt đó đã hạn chế rất nhiều việc phê bình từ dưới lên, đã không động viên được đông đảo cán bộ đảng viên góp phần tích cực và sáng tạo vào sự nghiệp của Đảng. Quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo vì vậy, có chỗ không được tốt.
Chúng ta phải chú trọng khuyến khích phê bình từ dưới lên. Đó chính là biểu hiện của phương pháp lãnh đạo đi đường lối quần chúng, là biểu hiện chủ yếu của việc mở rộng sinh hoạt dân chủ trong Đảng. Đảng viên và quần chúng bên dưới tham gia càng đông đảo vào sinh hoạt chính trị của Đảng và của Nhà nước thì lãnh đạo càng bớt chủ quan, các khuyết điểm trong công tác càng mau chóng được phát hiện và khắc phục, tính tích cực và tính sáng tạo của đông đảo đảng viên và quần chúng càng được phát huy, quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa Đảng và quần chúng càng đoàn kết nhất trí.
Để phát huy phê bình từ dưới lên, chúng ta phải giáo dục cho mỗi cán bộ, đảng viên có ý thức về quyền lợi và trách nhiệm của mình là đóng góp vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời chúng ta yêu cầu mọi cán bộ và cơ quan lãnh đạo phải gương mẫu tự phê bình, phải khuyến khích và ủng hộ việc phê bình từ dưới lên. Cán bộ và cơ quan lãnh đạo phải khiêm tốn, bình tĩnh lắng nghe, suy xét mọi ý kiến phê bình của đảng viên và quần chúng, kể cả những ý kiến phản đối, miễn là người phê bình có ý định tốt và đề đạt ý kiến trong phạm vi tổ chức. Đảng ta nghiêm khắc phê phán và khi cần thiết, phải có kỷ luật thích đáng với những phần tử lợi dụng quyền lực của mình để trấn áp sự phê bình của cấp dưới. Chúng ta phải quy định thành chế độ nền nếp phê bình và tự phê bình trong Đảng và phải có những hình thức, biện pháp thích hợp để thu hút quần chúng ngoài Đảng tham gia ý kiến phê bình công tác của Đảng và đảng viên; tất nhiên phải đề phòng kẻ địch và phần tử xấu lợi dụng phê bình để chia rẽ, phá hoại.
Nếu chúng ta biết mở rộng đấu tranh, phê bình và tự phê bình trong Đảng một cách đúng đắn thì sự đoàn kết thống nhất trong Đảng ngày càng được củng cố vững chắc, không có một khó khǎn trở ngại nào mà Đảng không vượt qua được.
VI- Tǎng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo
của đảng
1. Vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, điều đó đã được lịch sử đấu tranh cách mạng 30 nǎm qua của nhân dân ta chứng minh rõ ràng. Nhiệm vụ cách mạng khó khǎn phức tạp ngày nay càng đòi hỏi phải củng cố hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng.
Bọn thù địch của chủ nghĩa xã hội biết rõ như vậy cho nên, một trong những mục tiêu chính của chúng là nhằm tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng ta. Chúng ta thấy rõ điều đó trong những hoạt động phá hoại của bọn Nhân vǎn giai phẩm nǎm 1956-1957. Những lúc Đảng gặp khó khǎn như hồi đó chính là những dịp thử thách lớn về lập trường tư tưởng của mỗi cán bộ, đảng viên. Số rất đông đã nêu cao lòng trung thành với Đảng, đoàn kết chặt chẽ chung quanh Trung ương, kiên quyết bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng. Song, có những cán bộ, đảng viên đã tỏ ra không vững vàng trước cơn thử thách đó. Nhiều đồng chí kém cảnh giác chính trị, chậm nhận ra âm mưu của kẻ thù, hoặc tỏ ra nhu nhược yếu đuối trước sự tấn công của chúng và trước những tư tưởng sai lầm trong Đảng, không dũng cảm bảo vệ chân lý, bảo vệ Đảng. Một số ít đồng chí thì hoang mang dao động đến cao độ, không phân biệt nổi đúng sai, phải trái, hoài nghi sự lãnh đạo của Đảng, thậm chí, có đồng chí vào hùa với bọn Nhân vǎn giai phẩm đả kích lại Đảng, hoặc nhân cơ hội đề cao cá nhân, bài xích các cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Cuộc đấu tranh giữa nhân dân ta với đế quốc và bè lũ tay sai, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản còn diễn ra lâu dài và phức tạp. Bất cứ trong tình hình nào, nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi đảng viên là phải bảo vệ Đảng, bảo vệ vai trò lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng, tỉnh táo đề phòng và kiên quyết đấu tranh chống mọi mưu đồ đả kích hoặc làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng bất kỳ trên lĩnh vực nào, và núp dưới hình thức nào.
2. Đảng là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, là công cụ chủ yếu của nền chuyên chính vô sản, đó là một nguyên lý cơ bản trong học thuyết Lênin về xây dựng Đảng. Trong hoàn cảnh Đảng nắm chính quyền, nhất là trong thời kỳ chuyên chính vô sản, việc nhận rõ và nắm vững nguyên lý đó, việc nhận thức cho rõ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức khác trong hệ thống chuyên chính vô sản có ý nghĩa rất quan trọng.
Củng cố sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng đối với mọi ngành, mọi mặt công tác của Nhà nước và của quần chúng là điều không thể thiếu để phối hợp chặt chẽ và đẩy mạnh công tác của các ngành theo đúng đường lối của Đảng. Hạ thấp, làm yếu vai trò lãnh đạo của Đảng thì không thể giữ vững và củng cố chuyên chính vô sản, không thể xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội và thực hiện thống nhất nước nhà.
Mặt khác, bộ máy Nhà nước và các tổ chức quần chúng là những bộ phận không thể thiếu trong hệ thống chuyên chính vô sản, là những sợi dây chuyền nối liền Đảng với quần chúng trên lĩnh vực này hoặc lĩnh vực khác. Vì vậy, coi thường vai trò của các tổ chức này, lầm lẫn Đảng với cơ quan chính quyền Nhà nước là một, đem Đảng bao biện làm thay cho các tổ chức chính quyền và tổ chức quần chúng đều là sai lầm.
Do nhận thức vấn đề này không rõ cho nên, trong quan hệ giữa một số cơ quan của Đảng với các tổ chức quần chúng, đã từng phát sinh những lệch lạc.
Đối với các đoàn thể quần chúng, một số cấp uỷ Đảng không chú ý lãnh đạo chặt chẽ để phát huy và tận dụng khả nǎng của các đoàn thể đó trong việc tổ chức, động viên quần chúng thực hiện các chính sách của Đảng. Ngược lại, có đoàn thể quần chúng thiên về chỉ đạo công tác theo ngành dọc, không chú ý đầy đủ đến việc lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương và lãnh đạo phối hợp công tác của cấp uỷ Đảng bên dưới.
Song, vấn đề cần nói nhiều hơn là về quan hệ lãnh đạo giữa Đảng với các cơ quan Nhà nước.
Vì hiểu rằng vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của cách mạng, Đảng ta chǎm lo củng cố chính quyền và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng để chính quyền luôn luôn là một công cụ trung thành với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng ta đã từng đấu tranh chống mọi âm mưu chia sẻ quyền lãnh đạo đó. Bộ máy chính quyền đã làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình vì nó luôn luôn được đặt dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Song hiện nay, đứng trước nhiệm vụ nặng nề của chính quyền trong giai đoạn cách mạng mới, để kiện toàn sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền, chúng ta còn phải tiếp tục đấu tranh khắc phục một số khuynh hướng lệch lạc.
Một là, có những cấp uỷ Đảng buông lỏng lãnh đạo đối với một số cơ quan Nhà nước, không nắm vững tình hình, không kiểm tra đôn đốc, không chỉ đạo chặt chẽ về mặt chấp hành phương châm, chính sách của Trung ương. Có những Đảng đoàn hoặc những đảng viên sau khi được Đảng giao cho phụ trách một ngành nào đó, đã không có ý thức tôn trọng đầy đủ sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, không giữ vững chế độ báo cáo và xin chỉ thị, coi ngành dọc của mình gần như một hệ thống biệt lập. Đó là khuynh hướng của chủ nghĩa phân tán, làm cho sự lãnh đạo của Đảng không thống nhất và toàn diện.
Hai là, có những cấp uỷ Đảng bao biện làm thay, can thiệp vụn vặt vào công việc của cơ quan Nhà nước, không biết sử dụng và phát huy vai trò của cơ quan Nhà nước. Có những cấp uỷ và cán bộ, đảng viên coi thường chính quyền Nhà nước, không nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị nghị quyết của cơ quan chính quyền cấp trên. Có những đảng viên phụ trách ở các ngành đã không chân thành hợp tác đoàn kết với các nhân sĩ và cán bộ ngoài Đảng, không bàn bạc thuyết phục những người ngoài Đảng làm cho họ tự giác tiếp thụ đường lối chính sách của Đảng. Đó là một khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa mệnh lệnh.
Chúng ta phải khắc phục cả hai loại khuynh hướng sai lầm trên đây, xây dựng đúng đắn quan hệ lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan Nhà nước. Đảng phải nắm vững lãnh đạo các cơ quan Nhà nước làm cho ý chí của giai cấp công nhân và của nhân dân, làm cho đường lối chính sách của Đảng được thể hiện đầy đủ trong công tác của các cơ quan đó. Đảng lãnh đạo Nhà nước có nghĩa là: một mặt, các cấp uỷ Đảng phải đi sâu tìm hiểu tình hình, nghiên cứu đường lối chính sách trong công tác của các cơ quan đó, rồi thông qua Đảng đoàn hoặc bằng những thủ tục nhất định mà đưa đường lối chính sách đó vào thực hiện trong các cơ quan Nhà nước; mặt khác, các cấp uỷ Đảng phải cử cán bộ cốt cán vào trong các cơ quan Nhà nước, làm cho bộ phận lãnh đạo của Đảng trong một mức độ cần thiết lồng vào làm một với bộ phận lãnh đạo của chính quyền; những Đảng đoàn hoặc đảng viên phụ trách ở đó phải nghiêm khắc phục tùng sự lãnh đạo của cấp uỷ, đồng thời phải hợp tác đầy đủ với các nhân sĩ và cán bộ ngoài Đảng, tôn trọng chức vụ và quyền hạn của họ.
Trong các cơ quan Nhà nước, người đảng viên phải nêu gương hợp tác, đoàn kết tốt với các nhân sĩ và cán bộ ngoài Đảng. Họ đã có chức thì phải có quyền. Tất nhiên trong khi hợp tác và đoàn kết, phải đấu tranh khắc phục những quan điểm sai trái với đường lối của Đảng, có như thế mới đạt tới đoàn kết chặt chẽ và thực sự. Song, mọi thái độ hẹp hòi mệnh lệnh đều là sai lầm. Những nhân sĩ và cán bộ ngoài Đảng qua nhiều nǎm đi theo sự lãnh đạo và chịu sự giáo dục của Đảng, đã được cải tạo tư tưởng một phần, lập trường của họ ngày càng gần gũi với lập trường của Đảng. Về những mặt nào đó, họ có những ý kiến giúp ích cho sự lãnh đạo của Đảng. Ta biết học tập họ, thành thật bàn bạc với họ thì công tác của chúng ta có thể bớt chủ quan, phiến diện.
3. Bước vào giai đoạn cách mạng mới, mọi mặt công tác của chúng ta đều phát triển rất rộng và phức tạp. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi Đảng phải có sự lãnh đạo toàn diện và trước hết phải ra sức học tập, đi sâu vào lãnh đạo kinh tế và vǎn hoá. Một số cán bộ và tổ chức Đảng chậm nhận rõ bước ngoặt trong công tác lãnh đạo của Đảng, còn tách rời, đối lập hoạt động chính trị với hoạt động kinh tế, vǎn hoá, coi công tác Đảng chỉ là công tác đảng vụ thuần túy hoặc lãnh đạo chính trị chung chung.
Lúc này, xem xét và đánh giá hoạt động của mỗi tổ chức Đảng, mỗi cấp uỷ trước hết phải cǎn cứ vào kết quả đạt được về mặt lãnh đạo phát triển kinh tế và vǎn hoá. Quần chúng lúc này không những chỉ cần chúng ta tuyên truyền chính trị nâng cao giác ngộ cho họ, mà điều quan trọng là họ đang chờ đợi và đòi hỏi chúng ta đem lại cho họ những sự giúp đỡ thiết thực, những sự hướng dẫn cụ thể trong cuộc đấu tranh hàng ngày nhằm phát triển sản xuất và nâng cao đời sống.
Trong một số người còn lưu hành những quan điểm của bọn Nhân vǎn giai phẩm cho rằng Đảng chỉ có thể lãnh đạo chính trị, chứ không thể lãnh đạo vǎn hoá, khoa học, kỹ thuật được, vì Đảng không am hiểu những cái đó. Có những cán bộ, đảng viên cũng coi vǎn hoá, khoa học, kỹ thuật là thần bí, e ngại không dám đi sâu học tập và lãnh đạo những mặt công tác đó, thậm chí coi đó không thuộc phạm vi trách nhiệm lãnh đạo của mình.
Chúng ta đã từng phê phán những quan điểm sai lầm đó. Nói "chuyên môn thuần túy không cần chính trị lãnh đạo", đó chỉ là luận điệu lừa bịp của giai cấp tư sản. Chuyên môn không thể tách rời chính trị, bất cứ dưới chế độ xã hội nào, chuyên môn cũng phải đi theo đường lối của giai cấp thống trị, nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp đó. Đảng cần phải lãnh đạo và hoàn toàn có thể lãnh đạo chuyên môn và kỹ thuật. Lãnh đạo chuyên môn không phải chỉ là lãnh đạo những vấn đề thuần túy nghiệp vụ mà trước hết và chủ yếu là lãnh đạo tư tưởng và chính trị, lãnh đạo về đường lối, phương châm, chính sách và về tổ chức trên lĩnh vực chuyên môn. Không có sự lãnh đạo đó của Đảng thì chuyên môn không thể phát triển lành mạnh, không thể phục vụ đắc lực cho chủ nghĩa xã hội. Kinh nghiệm thực tế đã chứng tỏ ở đâu và lúc nào mà Đảng buông lỏng lãnh đạo thì ở đó những đường lối quan điểm không vô sản nảy nở mau chóng và gây nhiều tác hại cho sự nghiệp cách mạng.
Song mặt khác, Đảng ta quyết không thể thỏa mãn với trình độ lãnh đạo hiện nay của mình. Nhiệm vụ cách mạng mới đòi hỏi Đảng ta phải ra sức cải tiến và nâng cao sự lãnh đạo của Đảng. Muốn thế, trước hết phải nâng cao nǎng lực lãnh đạo của cán bộ, đảng viên. Phần đông cán bộ đảng viên, trải qua rèn luyện trong cách mạng và kháng chiến, đã tích lũy được những hiểu biết về đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, song những hiểu biết về công tác quản lý kinh tế, vǎn hoá còn thiếu thốn. Chúng ta đang phải phấn đấu để cải biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có vǎn hoá và khoa học tiên tiến. Trước yêu cầu mới của cách mạng, cán bộ, đảng viên lúc này không những phải có trình độ tư tưởng chính trị vững mà lại còn phải có trình độ vǎn hoá, kỹ thuật, phải thông thạo nghiệp vụ của mình. Trình độ vǎn hoá, kỹ thuật của cán bộ, đảng viên chậm được nâng cao đang cản trở lớn tới việc tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng. Nhiều cán bộ đảng viên đã có chuyển biến tốt về nhận thức, đang hǎng hái và bền bỉ học tập vǎn hoá, kỹ thuật nghiệp vụ, thiết thực phấn đấu nâng cao nǎng lực công tác của mình. Nhưng cũng có một số đồng chí thoả mãn với lối lãnh đạo tư tưởng và chính trị chung chung, chưa chịu khó đi sâu học tập vǎn hoá, khoa học kỹ thuật. Nếu chúng ta không mau chóng khắc phục tình trạng lạc hậu trong Đảng về công tác kinh tế, về vǎn hoá, khoa học, kỹ thuật thì công tác lãnh đạo không thể tốt và đi sâu, thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội không thể đạt kết quả tốt. Cần tổ chức cao trào học tập trong Đảng và động viên đảng viên cán bộ trong Đảng cũng như cán bộ ngoài Đảng ra sức học tập, mạnh mẽ tiến vào mặt trận kinh tế, vǎn hoá, khoa học và kỹ thuật.
Đi đôi với tǎng cường lãnh đạo tư tưởng và chính trị, Đảng phải rất xem trọng lãnh đạo tổ chức, đó là một khâu yếu trong công tác lãnh đạo lúc này. Phải nhận rằng công tác tổ chức của chúng ta còn nhiều thiếu sót, chưa tiến kịp và có khi còn tách rời nhiệm vụ chính trị, chưa bảo đảm hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ chính trị. Việc tổ chức bộ máy cũng như việc đào tạo, bố trí cán bộ chưa được chuyển mạnh kịp với đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị, kinh tế. Công tác kiểm tra, đôn đốc làm rất yếu; lề lối làm việc, tác phong công tác của nhiều cán bộ và cấp uỷ chưa vươn lên khỏi tình trạng phân tán, thủ công nghiệp, đại khái, sự vụ giấy tờ, không thích ứng với việc lãnh đạo kinh tế có kế hoạch.
Vì vậy, nâng cao trình độ lãnh đạo tổ chức lên ngang trình độ lãnh đạo chính trị để công tác tổ chức hoàn toàn bảo đảm thực hiện khẩu hiệu, nghị quyết của Đảng là một mặt trọng yếu của việc nâng cao sự lãnh đạo của Đảng lúc này.
Phần thứ hai
Những vấn đề cụ thể về điều lệ Đảng
I- Vấn đề đảng viên
Đây là một vấn đề chủ yếu trong công tác xây dựng Đảng, một trong những vấn đề cơ bản quyết định chất lượng và sức chiến đấu của Đảng.
Lúc Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta chỉ có trên 5.000 đảng viên; ngày nay, ở miền Bắc đã có gần nửa triệu đảng viên (chiếm 3% dân số). Số lượng đảng viên như vậy không phải là quá ít, nhưng lực lượng phân phối không đều: đảng viên ở nhiều vùng tự do cũ chiếm tỷ lệ khá cao so với dân số; cơ sở của Đảng ở các thành phố, khu công nghiệp, vùng mới giải phóng và miền núi còn yếu. Tỷ lệ thành phần đảng viên xuất thân từ công nhân và bần cố nông tuy đã chiếm 54,54% nhưng chưa được nâng lên mức cần thiết; thành phần công nhân, nhất là công nhân trực tiếp sản xuất lại càng quá ít.
Đại đa số đảng viên về cǎn bản rất tốt; trải qua rèn luyện thử thách trong kháng chiến cứu nước và trong đấu tranh chống phong kiến, đã tỏ ra trung thành tận tụy với Đảng và đã đáp ứng yêu cầu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Ngày nay đông đảo đảng viên đang ra sức phấn đấu để đáp ứng yêu cầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đã thu được nhiều kết quả. Những thành tích lớn lao của Đảng trước hết là do sự cố gắng của toàn thể đảng viên. Nhưng ngày nay đông đảo đảng viên về trình độ lý luận và chính trị chưa được nâng lên mức độ cần thiết. Trình độ vǎn hoá của 85,85% đảng viên còn ở cấp I; sự hiểu biết về khoa học, kỹ thuật của nhiều đồng chí lại quá thấp. Tác dụng của đảng viên nói chung chưa được nâng cao đầy đủ. Bên cạnh đó, còn có một số ít quá kém, chây lười, bỏ công tác, bỏ sinh hoạt. Đảng tạm đóng cửa một thời gian khá lâu. Việc đó chẳng những ảnh hưởng đến số lượng đảng viên mà còn bộc lộ những nhược điểm mới về chất lượng của Đảng. Số đảng viên trẻ tỷ lệ quá thấp. Những lực lượng trẻ, mới lớn lên qua các phong trào, một thời gian dài không được kịp thời bổ sung vào Đảng làm cho tổ chức của Đảng chưa phản ánh được sinh động những giá trị mới trong đời sống của quần chúng và phần nào đã hạn chế việc tǎng cường sức chiến đấu của Đảng.
Tình hình trên đây đòi hỏi Đảng phải ra sức phát huy hơn nữa những ưu điểm, kiên quyết khắc phục những khuyết điểm và nhược điểm trong vấn đề đảng viên. Một mặt phải nâng cao hơn nữa chất lượng của Đảng, mặt khác phải tiến hành phát triển Đảng một cách thường xuyên. Yêu cầu đó lại càng cấp thiết trong giai đoạn mà Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, một cuộc cách mạng vĩ đại, sâu sắc và triệt để nhất từ xưa đến nay, đồng thời lại phải lãnh đạo nhân dân cả nước đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Bởi vậy, trước nhiệm vụ nặng nề của cách mạng, trước tình hình thực tế của Đảng ta, với những kinh nghiệm quý báu về vấn đề đảng viên mà Đảng đã thu thập được, nhất thiết Đảng phải nâng cao hơn nữa tiêu chuẩn của đảng viên, trên cơ sở đó mà củng cố Đảng, tǎng cường và cải tiến hơn nữa công tác phát triển Đảng, làm cho Đảng ngày càng vững mạnh.
1. Nâng cao tiêu chuẩn của đảng viên là một yêu cầu cấp thiết và cũng là một thắng lợi của Đảng, đánh dấu sự trưởng thành của Đảng.
Đảng ta đang lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm xoá bỏ vĩnh viễn giai cấp bóc lột, xây dựng một xã hội mới. Người vào Đảng phải là người "có lao động, không bóc lột". Đó là điểm sửa đổi mấu chốt trong điều 1 nói về điều kiện đảng viên. Điều đó là rất cần thiết bởi vì lao động là quang vinh, là bản chất của giai cấp công nhân; bóc lột là xấu xa, là trái với bản chất của Đảng ta, trái với nhiệm vụ cách mạng mà Đảng đang lãnh đạo toàn dân ra sức phấn đấu để thực hiện. Điều kiện trên đây của đảng viên chỉ rõ Đảng ta chẳng những không kết nạp những người bản thân thuộc thành phần bóc lột, mà còn chỉ rõ Đảng không thể kết nạp những người tuy thuộc thành phần lao động nhưng còn có hành vi bóc lột người khác. Điều kiện đó còn đòi hỏi mọi đảng viên phải biết phân biệt ranh giới giữa lao động và bóc lột, chẳng những trên hành động thực tế hàng ngày mà còn cả trên nhận thức tư tưởng. Người đảng viên nào không làm như vậy thì sẽ không thể là đảng viên.
Danh nghĩa cao quý của người đảng viên biểu hiện ở nhiệm vụ đảng viên ghi trong Điều lệ Đảng. Nâng cao danh nghĩa và tiêu chuẩn người đảng viên phải thể hiện chủ yếu trong việc nâng cao yêu cầu về nhiệm vụ của đảng viên. Phải cǎn cứ vào nhiệm vụ chính trị của Đảng, cǎn cứ vào tình hình hiện nay của đảng viên, mà nâng cao một cách thích đáng và bổ sung thêm những nhiệm vụ ghi trong Điều lệ cũ.
Đảng ta là một đảng chiến đấu. Chúng ta xây dựng Đảng chẳng những trên cơ sở thống nhất tư tưởng mà cả trên cơ sở phấn đấu cho việc thực hiện đường lối cách mạng của Đảng. Đảng viên chẳng những phải tích cực phấn đấu mà còn phải biết cách phấn đấu cho có kết quả tốt. Điều đó biểu hiện tính chất tiên phong chiến đấu của Đảng ta. Trong thực tế, đông đảo đảng viên đã vượt mọi khó khǎn, chịu đựng gian khổ, phát huy sáng kiến, hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách vẻ vang. Nhưng còn những đảng viên thi hành chính sách và nghị quyết của Đảng một cách hình thức, bị động, có khi còn làm trái lại. Có những đồng chí không tham gia sinh hoạt Đảng đều đặn, thiếu nghiên cứu chỉ thị, nghị quyết của Đảng, ít quan tâm đến tình hình thực tế, thiếu nghị lực trước những khó khǎn trong công tác. Một số chẳng những không gương mẫu trước quần chúng mà còn theo sau quần chúng, coi nhẹ danh hiệu người chiến sĩ tiên phong của mình.
Chúng ta phải làm cho tất cả đảng viên nêu cao ý chí phấn đấu, quan tâm đầy đủ đến việc chấp hành nghị quyết và chỉ thị của Đảng; chẳng những thế, còn phải yêu cầu đảng viên nâng trình độ chấp hành đó lên một mức cao hơn nữa. Bởi vậy nhiệm vụ thứ nhất của người đảng viên là phải "tích cực phấn đấu để thực hiện mọi nghị quyết và chỉ thị của Đảng, tham gia sinh hoạt Đảng đều đặn, luôn luôn tìm cách hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ Đảng giao cho". Làm như vậy cũng tức là phấn đấu cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và của công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, phấn đấu cho Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng được thực hiện.
Đảng viên phải "giữ gìn và củng cố sự đoàn kết thống nhất của Đảng" vì, như phần cương lĩnh đã chỉ rõ, đoàn kết thống nhất là sinh mệnh của Đảng. Bảo vệ nó như "giữ gìn con ngươi của mắt" là biểu hiện lòng trung thành vô hạn đối với Đảng.
Mỗi đảng viên, bất kỳ ở cương vị nào, dù có thành tích đến đâu, đều phải "phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng", phải "gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của các đoàn thể cách mạng của quần chúng mà mình tham gia". Tính tổ chức và kỷ luật là bản chất của Đảng ta, là ưu điểm của đông đảo đảng viên. Nhưng cũng có một số không ít đồng chí tự do vô kỷ luật, coi thường chi bộ và tổ chức Đảng, coi thường kỷ luật công tác và chỉ thị, nghị quyết của cấp trên. Một số đồng chí thường hay kêu gọi cấp dưới phải giữ gìn kỷ luật nhưng tự mình lại hành động tự do, vì tự cho là mình có công lao, địa vị, có đặc quyền. Lại còn một số đồng chí hình như coi pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của các đoàn thể quần chúng chỉ đặt ra đối với quần chúng nhân dân, còn mình thì đứng trên nhân dân mà ra lệnh. Đó là thái độ hoàn toàn không đúng, coi thường Nhà nước, coi thường quần chúng. Trong giai đoạn mới, để tǎng cường sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng, để bảo đảm cho trật tự xã hội chủ nghĩa được tôn trọng, cho nền chuyên chính vô sản được vững chắc, mỗi đảng viên càng phải ra sức trau dồi ý thức tổ chức và kỷ luật của mình.
Để tǎng cường sự đoàn kết thống nhất và nǎng lực lãnh đạo của Đảng, để hoàn thành công tác được tốt, mỗi đảng viên phải "ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối chính sách của Đảng, học tập vǎn hoá, kỹ thuật và nghiệp vụ...". Phải vì sự nghiệp cách mạng mà tự giác học tập. Người cách mạng chỉ có nhiệt tình thôi không đủ; cần phải có tri thức cách mạng, vả lại nếu không học tập thì không thể có nhiệt tình cao được.
Vấn đề đề ra cho mỗi đảng viên là phải ra sức khắc phục tình trạng thấp kém về chính trị, lạc hậu về vǎn hoá, kỹ thuật. Nhiều đồng chí chúng ta đã nhận thấy điều đó và đã cố gắng vượt mọi khó khǎn, quyết tâm học tập để "nâng cao không ngừng trình độ chính trị, tư tưởng và nǎng lực công tác của mình". Nhưng một số đồng chí chưa thấy nhiệt tình học tập là nhiệt tình cách mạng, đối với bản thân còn dễ dãi, lười biếng, hoặc ỷ lại vào hoàn cảnh khách quan, vin vào điều kiện thời giờ, tuổi tác, thiếu chí tiến thủ. Một số nữa lại tự túc tự mãn, không chịu học tập. Các đồng chí đó không nhận thấy rằng, trong đà tiến lên của cách mạng, quần chúng đang tiến nhanh vùn vụt, còn mình thì bị đẩy lùi dần về phía sau. Như vậy không khỏi một ngày kia những đồng chí đó sẽ trở thành lạc hậu, không đủ sức làm tròn nhiệm vụ cách mạng của Đảng giao cho.
Đảng viên phải "gương mẫu trong lao động sản xuất, trong công tác, trong việc chấp hành chính sách của Đảng và của Chính phủ, trong việc bảo vệ tài sản của Nhà nước và của tập thể, thực hành tiết kiệm, tích cực chống lãng phí, tham ô". Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay là mơ ước hàng bao nǎm nay của đông đảo quần chúng, bởi vì chủ nghĩa xã hội là đời sống hạnh phúc của mọi người lao động. Chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội với một tinh thần lao động hǎng say, với một ý thức chấp hành triệt để mọi chính sách của Đảng và của Chính phủ, với một ý thức bảo vệ của công và của tập thể rất cao nhằm tǎng cường của cải vật chất, cải thiện không ngừng đời sống của quần chúng. Thấm nhuần điều đó, đông đảo đảng viên đang lao động quên mình với quần chúng nhân dân trên mọi lĩnh vực để xây dựng nước nhà. Các đồng chí đó đang tiết kiệm từng cái đinh, từng tờ giấy với một ý thức cao quý. Nhưng một số đảng viên vẫn chưa thấy vinh quang trong lao động, không chǎm sóc của cải của Nhà nước, của hợp tác xã, không thấy đau xót trước những hiện tượng lãng phí, tham ô rất nghiêm trọng. Những đồng chí đó chưa nhận thấy rằng, nếu trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, chúng ta đánh giá nhiệt tình cách mạng của đảng viên qua thái độ của họ đối với đế quốc và phong kiến, thì ngày nay, chúng ta phải đánh giá nhiệt tình đó qua ý thức và thành tích của họ đối với nền kinh tế quốc dân, đối với lao động sản xuất và việc bảo vệ tài sản của Nhà nước và của tập thể.
Bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) còn yêu cầu mỗi đảng viên phải "hết lòng hết sức phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân", lấy đó làm nguyên tắc tối cao của mọi hành động; khi lợi ích cá nhân xung đột với lợi ích của Đảng, của nhân dân thì phải "đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân". Mỗi đảng viên phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng vì đó là nguồn gốc sức mạnh của Đảng. Mỗi đảng viên lại phải "thực hành tự phê bình và phê bình"; đối với người đảng viên, tự phê bình và phê bình cần thiết như không khí, thức ǎn và nước uống. Những nhiệm vụ đó đã được nói kỹ trong phần giải thích về Cương lĩnh chung.
Ngoài ra, bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) còn yêu cầu đảng viên phải "trung thành và thật thà đối với Đảng"; hy sinh phấn đấu cho lợi ích của Đảng chưa đủ, còn phải thật thà với Đảng trong mọi trường hợp. Che giấu khuyết điểm, báo cáo sai sự thật, thổi phồng thành tích là hoàn toàn trái với lòng trung thực của người đảng viên. Đảng viên lại còn "phải giữ gìn bí mật của Đảng và Nhà nước và luôn luôn cảnh giác với âm mưu phá hoại của kẻ địch" để bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng. Điều đó cần được đặc biệt chú ý, nhất là trong hoàn cảnh nước nhà còn tạm bị chia làm hai miền, kẻ địch luôn tìm cách phá hoại Đảng, phá hoại thành tựu mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được. Mọi hiện tượng thiếu cảnh giác, tiết lộ bí mật, đánh mất tài liệu của Đảng và Nhà nước thường xảy ra hiện nay phải được đấu tranh nghiêm khắc và kiên quyết chấm dứt.
Những nhiệm vụ trên đây nhìn qua thì hình như nhiều, nhưng không thể thiếu điểm nào. Phải giáo dục cho tất cả các đảng viên nhận thức đầy đủ và ra sức thực hiện. Song, chỉ giáo dục thôi không đủ. Vì vậy, Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị quy định: "... Ai không thực hiện hoặc làm trái lại thì tổ chức của Đảng cần phê bình giáo dục hoặc thi hành kỷ luật".
Đảng ta, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, luôn luôn chú ý nâng cao tính tích cực và sáng tạo của toàn Đảng, bảo đảm cho đảng viên phát huy hết khả nǎng và trí tuệ để làm tròn nhiệm vụ của mình tới mức cao nhất. Bởi vậy, đi đôi với việc nâng cao yêu cầu đối với nhiệm vụ đảng viên, bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đã nói rõ và bổ sung một số điểm nhằm mở rộng quyền dân chủ của đảng viên.
Trước hết, đảng viên có quyền "thảo luận một cách tự do và nghiêm chỉnh các vấn đề về đường lối, chính sách và công tác của Đảng trong các cuộc hội nghị của Đảng". Điều đó xuất phát từ nhận thức sự nghiệp của Đảng là sự nghiệp của toàn thể đảng viên, thể hiện đường lối quần chúng của Đảng.
Thảo luận tự do là nói rõ ý kiến của mình, không ai được ngǎn cấm. Nghiêm chỉnh tức là nói với ý thức xây dựng, không xuyên qua động cơ cá nhân mà xuyên tạc sự thật, cũng không phải là lợi dụng quyền tự do để tuyên truyền những tư tưởng chống lại Đảng, chống lại chủ nghĩa Mác – Lênin, gây chia rẽ bè phái trong Đảng. Bởi vậy, khi nói nghiêm chỉnh hoàn toàn không có nghĩa là hạn chế quyền tự do thảo luận mà là để bảo đảm cho quyền đó được sử dụng đầy đủ vì lợi ích của Đảng.
Ngoài quyền biểu quyết, quyền tuyển cử và ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng mà chỉ có đảng viên chính thức mới được hưởng như chúng ta đều rõ, "trong hội nghị của Đảng, đảng viên được phê bình, chất vấn về công tác của cán bộ, đảng viên và tổ chức của Đảng". Phê bình không những là nhiệm vụ mà còn là quyền hạn của đảng viên. E dè nể nang, thủ tiêu phê bình, đàn áp hoặc không tôn trọng phê bình đều là hoàn toàn trái với nguyên tắc và quy luật phát triển của Đảng. Dĩ nhiên phê bình phải thực sự cầu thị, có tổ chức, có ý thức xây dựng để có thể thực hiện đoàn kết thống nhất của Đảng trên cơ sở mới. Chẳng những đảng viên được quyền phê bình chất vấn như trên, mà "đối với những vấn đề xét thấy cần, đều có thể báo cáo, đề đạt ý kiến hoặc khiếu nại lên các cơ quan lãnh đạo của Đảng".
Đối với các nghị quyết của Đảng, đảng viên phải chấp hành vô điều kiện, nhưng "nếu có chỗ không đồng ý thì vẫn có thể đề đạt ý kiến của mình lên cơ quan lãnh đạo của Đảng cho tới Đại hội toàn quốc". Quyền đó của đảng viên là rất chính đáng. Chân lý thường thuộc về đa số, nhưng không phải nhất thiết lúc nào cũng thuộc về đa số. Cho nên, những ý kiến của thiểu số, có khi chỉ là ý kiến của cá nhân đều cần được xem xét và chú ý đưa lên cấp trên để xét. Nếu ý kiến đó đúng thì chỉ có lợi, nếu là sai thì không phải là ra lệnh phải bỏ ý kiến mà giải quyết được tư tưởng. Vấn đề là phải thuyết phục và chóng hoặc muộn, thực tế sẽ chứng minh.
Cuối cùng, khi tổ chức của Đảng thảo luận để quyết định kỷ luật đối với mình, hoặc nhận xét có ra nghị quyết về hoạt động hoặc đạo đức của mình thì đảng viên được yêu cầu tổ chức của Đảng triệu tập mình đến để trình bày ý kiến. Quyền đó của đảng viên bảo đảm cho việc thi hành kỷ luật và nhận xét đảng viên được thận trọng và dân chủ. Chi bộ hoặc tổ chức khác của Đảng, khi nhận xét hoặc thi hành kỷ luật đảng viên, trừ trường hợp đặc biệt còn thì cần triệu tập đảng viên đến để trình bày ý kiến. Như vậy sẽ nghe được đầy đủ nhiều mặt và nghị quyết mới được chính xác.
Những điều trên đây chẳng những tạo điều kiện cho đảng viên phát huy tính tích cực và tính sáng tạo trong công tác mà còn là một vũ khí giúp cho đảng viên đấu tranh chống tất cả mọi trở lực trong sinh hoạt của Đảng, chống lại bệnh quan liêu, độc đoán, mệnh lệnh của những cán bộ, đảng viên hoặc tổ chức của Đảng. Tất cả đảng viên cần hiểu rõ và sử dụng đúng đắn quyền hạn của mình và không ai được xâm phạm đến quyền hạn đó. Trong thực tế còn có một số đồng chí tự cho là "lép vế", sợ cấp trên "trù", bi quan tiêu cực trước những hành động sai trái trong Đảng. Trái lại, một số đồng chí sử dụng quyền dân chủ một cách lệch lạc, tự do vô nguyên tắc. Lại có một số đồng chí và tổ chức của Đảng không tôn trọng quyền của đảng viên và nghiêm trọng hơn, có khi còn xâm phạm đến quyền đó một cách thô bạo: trấn áp phê bình, ngǎn cản đảng viên không được báo cáo, đề đạt ý kiến hoặc khiếu nại lên cấp trên, v.v.. Đối với những hành động đó, từ trước đến nay chúng ta ít có phê bình, giáo dục hoặc thi hành kỷ luật cần thiết. Để bảo đảm quyền dân chủ của đảng viên, từ nay về sau, nếu đảng viên hoặc người phụ trách tổ chức nào của Đảng không tôn trọng hoặc xâm phạm đến những quyền đó thì tổ chức có thẩm quyền của Đảng cần phê bình, giáo dục hoặc thi hành kỷ luật thích đáng.
2. Đi đôi với việc nâng cao tiêu chuẩn của đảng viên chúng ta phải quan tâm đúng mức đến vấn đề phát triển Đảng và cải tiến thủ tục kết nạp đảng viên để bảo đảm yêu cầu mới về chất lượng của Đảng.
Phát triển Đảng phải được coi là một nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên trong toàn Đảng.
Muốn làm tốt công tác phát triển Đảng trước hết cần xác định đúng đắn phương hướng phát triển Đảng trong giai đoạn mới. Trước kia, trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng trường kỳ hoạt động ở nông thôn, việc phát triển Đảng trong công nhân rất bị hạn chế. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đang trở thành nhiệm vụ trung tâm của Đảng và Nhà nước. Hàng chục vạn người sẽ được bổ sung vào đội ngũ giai cấp công nhân. Vì yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, vì yêu cầu phải nâng cao hơn nữa tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng, một vấn đề rất trọng yếu là phải cải thiện thành phần của Đảng. Bởi vậy, phát triển Đảng vào giai cấp công nhân phải là phương hướng chủ yếu trong công tác phát triển Đảng. Chúng ta nhất thiết phải quán triệt phương hướng đó, làm sao cho thành phần xuất thân từ công nhân, nhất là công nhân chuyên nghiệp, kỹ thuật, công nhân đang trực tiếp sản xuất, tǎng lên nhanh hơn nữa trong tỷ lệ thành phần đảng viên.
Song trong khi coi rất trọng việc phát triển Đảng vào công nhân, chúng ta không thể có thái độ hẹp hòi đối với các thành phần khác có đủ điều kiện vào Đảng. Chúng ta phải tǎng cường việc phát triển Đảng vào nông dân tập thể, nhất là trong tầng lớp bần nông và trung nông lớp dưới. Chúng ta lại phải tǎng cường phát triển Đảng trong trí thức cách mạng, nhất là trong cán bộ khoa học, kỹ thuật, trong trí thức cao cấp qua thử thách đã tỏ ra vững vàng. Ngoài ra, cũng không nên quên những người thuộc các thành phần lao động khác có đủ điều kiện vào Đảng.
Trong khi nắm vững phương hướng giai cấp trên đây, chúng ta phải rất chú ý đến việc phát triển Đảng trong thanh niên, phụ nữ và ở các vùng dân tộc thiểu số.
Để bảo đảm cho công tác phát triển Đảng được tốt, cần rút bài học kinh nghiệm phong phú của Đảng trong công tác đó từ Cách mạng Tháng Tám đến đợt phát triển Đảng lớp 6-1 vừa qua.
Bài học đó trước hết là: công tác phát triển Đảng phải bảo đảm đầy đủ tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng. Muốn vậy, cần phải học những kinh nghiệm tốt và chống lại những biểu hiện khuynh hữu, hoặc khuynh "tả" trong công tác phát triển Đảng như phần tính chất Đảng đã chỉ rõ. Bài học đó nhắc chúng ta rằng, phải nắm phương hướng chính trong công tác phát triển Đảng, nhưng khi nắm phương hướng chính thì tuyệt đối không nên hẹp hòi hoặc đóng cửa Đảng đối với các thành phần khác có đủ điều kiện vào Đảng. Trong kháng chiến, trong đấu tranh chống phong kiến, khi lấy thái độ chống đế quốc, chống địa chủ làm tiêu chuẩn chính để xem xét người vào Đảng, chúng ta đã có nơi, có lúc coi nhẹ việc xem xét các mặt khác. Ngày nay, trong khi chú trọng kết nạp những công nhân, nông dân đạt chỉ tiêu sản xuất cao, có nhiều thành tích lao động, những trí thức có trình độ khoa học kỹ thuật, có nhiều thành tích trong công tác, chúng ta nhất thiết phải xem xét họ một cách toàn diện. Phải xem xét cả về phẩm chất chính trị, mức độ giác ngộ và động cơ vào Đảng của họ như thế nào để có kế hoạch giáo dục và lựa chọn cho chính xác.
Bài học thứ hai là: để bảo đảm tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng, phải nắm vững phương châm trọng chất hơn lượng, phải nhằm vào những người đã được thử thách qua các phong trào và công tác thực tế mà phát triển Đảng. Đảng ta là một thành trì; cửa Đảng chỉ mở cho những người đã được thử thách. Những bài học kinh nghiệm về phát triển Đảng đã chỉ rõ rằng: phải theo đúng những điều kiện và thủ tục kết nạp người vào Đảng, không thể phát triển Đảng theo lối cảm tình, hoặc chỉ chạy theo số lượng. Phải phát triển Đảng một cách thường xuyên; qua từng phong trào, phải kịp thời phát hiện những phần tử ưu tú có đủ điều kiện mà giáo dục và kết nạp vào Đảng và chỉ có qua các phong trào và công tác thực tế mới có thể phát hiện được những người như vậy.
Bài học thứ ba là: muốn bảo đảm tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng, phát triển Đảng phải đi đôi với củng cố. Hai mặt đó của công tác xây dựng Đảng liên quan chặt chẽ với nhau. Chẳng những chúng ta phải chỉ đạo nhịp độ phát triển Đảng cho phù hợp với yêu cầu khách quan và khả nǎng củng cố của Đảng, mà sau khi phát triển Đảng, còn phải chú trọng giáo dục lý luận và tư tưởng, giáo dục đường lối chính sách và nhất là giáo dục, rèn luyện đảng viên trong công tác thực tế, trong lao động sản xuất. Đồng thời, trải qua những cuộc thử thách của phong trào, phải kịp thời thanh trừ những phần tử xấu ra khỏi Đảng.
Muốn làm công tác phát triển Đảng được tốt, còn phải quan tâm đến thủ tục phát triển Đảng. Thủ tục phát triển Đảng là để bảo đảm việc lựa chọn đảng viên có đầy đủ chất lượng và đề phòng những phần tử xấu, những kẻ đầu cơ lợi dụng chui vào Đảng.
Có những chi bộ và cấp uỷ Đảng chưa nhận thức đầy đủ điều đó. Việc giáo dục người xin vào Đảng nhiều khi chưa được chú ý đúng mức. Việc nghiên cứu, điều tra, xem xét lý lịch, phẩm chất của họ trong một số trường hợp chưa được kỹ lưỡng, việc chuẩn y có khi còn làm chiếu lệ. Bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) trong chương II đã có những quy định bổ sung nhằm nhắc nhở tổ chức của Đảng tránh những khuyết điểm đó. Bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi), xuất phát từ tính chất của Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam là đội hậu bị của Đảng, đề nghị quy định: "nếu Đoàn viên Thanh niên Lao động Việt Nam được Ban Chấp hành của Đoàn ở đơn vị cơ sở giới thiệu vào Đảng thì người đoàn viên đó chỉ cần có thêm một đảng viên chính thức nữa có đủ điều kiện đã quy định, giới thiệu". Bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) còn có những quy định chặt chẽ hơn trước về thủ tục kết nạp đảng viên như yêu cầu người giới thiệu phải cùng công tác một nǎm trở lên với người được giới thiệu, yêu cầu những thanh niên từ 18 đến 26 tuổi phải là đoàn viên thanh niên lao động (ở những nơi đã có chi đoàn) thì mới được kết nạp vào Đảng. Ngoài ra còn đặc biệt chú trọng đến vấn đề thời kỳ dự bị của đảng viên dự bị.
ở miền Bắc nước ta, trong thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự chuyển biến nhanh chóng và phức tạp về thành phần xã hội trong công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản, v.v. đề ra vấn đề khó mà quy định từng loại thời kỳ dự bị cho từng loại thành phần. Bởi vậy, Dự thảo Điều lệ đề nghị chỉ quy định hai loại thời kỳ dự bị: công nhân 9 tháng, các thành phần khác một nǎm. Việc quy định riêng cho công nhân một thời kỳ dự bị thực tế cũng có những điều khá phức tạp. Song, vì thành phần đảng viên xuất thân công nhân trong Đảng còn quá ít, để đề cao ý thức đối với việc phát triển Đảng vào giai cấp công nhân, quy định như vậy là cần thiết và sẽ có tác dụng tốt. Đại hội sẽ giao cho Ban Chấp hành Trung ương cǎn cứ vào việc quy định thành phần ngoài xã hội mà định rõ những người như thế nào thì, khi vào Đảng, được hưởng thời kỳ dự bị của công nhân.
Việc quy định thời kỳ dự bị có ý nghĩa quan trọng là bảo đảm chất lượng đảng viên và giữ gìn tính chất trong sạch và tính chất tiên phong của Đảng. Nhiều tổ chức Đảng trước đây chưa nhận rõ thời kỳ dự bị là "trường giáo dục và rèn luyện chính trị" như Lênin đã chỉ rõ, trái lại biến nó thành một thứ hình thức tầm thường, một thứ thủ tục giản đơn. Một số chi bộ và cấp uỷ Đảng coi như tuyên bố kết nạp vào Đảng rồi là xong, hoặc có chú ý hơn nữa thì mở cho một lớp huấn luyện ngắn ngày; còn như đảng viên dự bị tiến bộ thế nào, phẩm chất ra sao, gặp khó khǎn gì trong công tác, có mắc mứu gì về tư tưởng thì nhiều khi không chú ý tới. Trong nhiều trường hợp lại quên không chuyển đảng viên dự bị lên chính thức, để kéo dài thời kỳ dự bị có khi hàng nǎm, hoặc ngược lại, chuyển đảng viên dự bị lên chính thức một cách hình thức trong khi việc giáo dục chưa làm được đầy đủ. Bởi vậy Dự thảo Điều lệ quy định: "Trong thời kỳ dự bị, chi bộ cần giáo dục cho người đảng viên dự bị những điều tối thiểu cần thiết về chủ nghĩa cộng sản, về đường lối chính sách và nguyên tắc tổ chức của Đảng và dìu dắt, giúp đỡ các đảng viên đó tiến bộ". Khi hết thời kỳ dự bị, người đảng viên dự bị phải được xét để chuyển thành chính thức. Nếu vì một lý do gì mà thấy chưa thể chuyển thành chính thức được thì chi bộ có thể quyết định kéo dài thêm thời kỳ dự bị nhưng không quá một nǎm nữa. Nếu đã xét thấy không đủ tư cách đảng viên thì đưa ra khỏi Đảng, v.v..
Những điều quy định trên đây về vấn đề đảng viên, sau khi được Đại hội bổ sung và thông qua, nhất định sẽ có tác dụng lớn lao đối với việc xây dựng và củng cố Đảng, làm cho Đảng ngày càng lớn mạnh hơn nữa để có thể hoàn thành nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng mới.
II- Bộ máy tổ chức của Đảng
Song song với sự biến đổi của tình hình và nhiệm vụ chính trị, bộ máy tổ chức của Đảng, dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ mà lập nên, cần được xem xét lại và quy định cho thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới, nhằm bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được tǎng cường, nhiệm vụ chính trị của Đảng được hoàn thành tốt đẹp.
Trong những nǎm vừa qua, chúng ta đã có nhiều cố gắng làm cho tổ chức các cấp của Đảng đáp ứng, trên một mức độ nhất định, với những yêu cầu của nhiệm vụ chính trị mới. Song, phần vì những thiếu sót của chúng ta, phần vì một số vấn đề phải chờ Đại hội toàn quốc quyết định cho nên bộ máy tổ chức của Đảng còn có những khuyết điểm và nhược điểm cần ra sức khắc phục.
1. Hệ thống tổ chức
Về hệ thống tổ chức của Đảng, chúng ta đã giải thể cấp khu ở vùng đồng bằng. Việc đó đã được thực tế chứng minh là đúng và đã có tác dụng tích cực làm cho quan hệ giữa trung ương và địa phương được sát và nhanh chóng hơn trước. Bởi vậy, bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị chia hệ thống tổ chức hiện nay của Đảng ra làm bốn cấp: trong toàn Đảng có tổ chức trung ương của Đảng; tiếp đó là tổ chức của Đảng ở cấp khu tự trị, tỉnh và thành phố trực thuộc; rồi đến tổ chức của Đảng ở huyện, quận, khu phố (thuộc thành phố trực thuộc), thị xã và các thành phố khác; cuối cùng là tổ chức cơ sở của Đảng. Quy định đó là phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới, phù hợp với nguyên tắc "tổ chức của Đảng được lập ra theo đơn vị hành chính, đơn vị sản xuất hoặc công tác".
Trong hệ thống tổ chức của Đảng hiện nay còn có tình trạng phân tán. Một số tổ chức của Đảng, trong trường hợp không cần thiết, cũng đã được lập ra theo hệ thống ngành dọc không đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng ở địa phương. Tình hình đó gần đây đã được Trung ương uốn nắn song việc sửa chữa đang gặp những khó khǎn về mặt tổ chức cũng như về tư tưởng. Việc giao một số tổ chức cơ sở của Đảng về các cấp uỷ địa phương cố nhiên là phải tiến hành song song với việc kiện toàn các cấp uỷ đó cho nên không thể ngay một lúc mà giao về hết được. Cũng không nhất thiết bất kỳ tổ chức cơ sở nào cũng đều phải giao về các cấp uỷ huyện, quận, v.v. là những cấp uỷ cấp trên trực tiếp của các tổ chức cơ sở nói chung. Những tổ chức cơ sở lớn, nếu cần thiết, vẫn có thể trực tiếp đặt dưới sự lãnh đạo của khu uỷ, tỉnh uỷ, thành uỷ, v.v.. Nhưng trong một số cán bộ phụ trách ngành dọc hiện nay còn nặng tư tưởng cho rằng, muốn chỉ đạo công tác chuyên môn thì phải trực tiếp chỉ đạo cả về mặt công tác Đảng, theo hệ thống dọc từ trên xuống. Tư tưởng đó phần nào đã ảnh hưởng đến việc khắc phục tình trạng phân tán hiện nay trong hệ thống tổ chức của Đảng. Việc lập tổ chức của Đảng theo hệ thống ngành dọc là một việc bất đắc dĩ khi không có cách tổ chức nào khác thích hợp hơn. Bởi vậy, chỉ có tổ chức của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và một số "trường hợp đặc biệt và hạn chế khác được Trung ương ra quyết nghị" là có thể thành lập tổ chức của Đảng theo hệ thống ngành dọc.
2. Bộ máy tổ chức của các cấp uỷ từ Trung ương đến huyện
Bộ máy tổ chức của các cấp uỷ Đảng từ Trung ương đến cấp huyện cần được kiện toàn đúng mức để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và để bảo đảm đầy đủ vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho nghị quyết, chỉ thị của Đảng thấu triệt đến tổ chức cơ sở của Đảng một cách nhanh chóng và được thực hiện đầy đủ.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Đại hội toàn quốc lần thứ II cử ra đã lãnh đạo toàn Đảng hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ khó khǎn và phức tạp trong gần 10 nǎm nay. Thế nhưng, so với yêu cầu của nhiệm vụ mới, số lượng uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương còn quá ít. Điều đó đã ảnh hưởng đến việc lãnh đạo công tác của toàn Đảng trong hoàn cảnh mới. Bởi vậy, một nhiệm vụ của Đại hội lần này là phải kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương về số lượng và chất lượng để có thể tập trung được trí tuệ của toàn Đảng một cách đầy đủ hơn nữa. Trên cơ sở đó, cần chỉnh đốn lại tổ chức và lề lối làm việc của Ban Chấp hành Trung ương cho phù hợp với nhiệm vụ mới, đặc biệt là nhiệm vụ lãnh đạo kinh tế và vǎn hoá và đấu tranh thống nhất nước nhà. Phải bảo đảm có đủ đồng chí công tác ở các ngành quan trọng của Đảng và Nhà nước để giải quyết công việc hàng ngày một cách nhanh chóng. Phải có một số đồng chí công tác ở các địa phương và cơ sở sản xuất để sát với thực tế sinh động ở bên dưới. Đồng thời, phải bảo đảm cho công tác lý luận của Đảng được phát triển và việc nghiên cứu những vấn đề về đường lối, phương châm công tác lâu dài được chú ý đúng mức.
Việc kiện toàn các ban chấp hành các cấp khu tự trị, tỉnh, thành phố trực thuộc, huyện, thị, v.v. cho phù hợp với yêu cầu của sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới là rất cần thiết. Song, việc đó chỉ có thể thực hiện được tốt trên cơ sở củng cố các tổ chức cơ sở của Đảng. Nhìn chung hiện nay các cấp uỷ đã được kiện toàn về số lượng và chất lượng, nhưng còn phải chú ý rất nhiều về mặt cải tiến lề lối làm việc và về mặt phân phối các cấp uỷ viên cho phù hợp với nhiệm vụ chính trị. Một số cấp uỷ gần đây có khuynh hướng muốn tǎng số lượng cấp uỷ viên lên một cách quá đáng để rải đều ở các ngành mà không chú ý đầy đủ đến việc cải tiến công tác lãnh đạo. Vì vậy, trên thực tế đã có một số cấp uỷ vô tình đã lãnh đạo các ngành theo lối liên hiệp, khoán trắng công việc cho các cấp uỷ viên ở các ngành, dẫn đến tình trạng phân tán, không bảo đảm đầy đủ sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng. Cố nhiên số lượng cấp uỷ không nên quá ít; phải có đủ đồng chí công tác ở các ngành quan trọng và ở một số địa phương cấp dưới và đơn vị cơ sở nhưng không nhất thiết ngành nào cũng đều phải có cấp uỷ viên. Vả lại, cũng cần thống nhất nhận định rằng: các cấp uỷ viên khi công tác trong một ngành nào không có nghĩa là lấy tư cách cấp uỷ viên mà phụ trách ngành đó; các đồng chí đó đều phải đứng trên cương vị công tác của mình ở trong ngành mà giải quyết công việc như các cán bộ phụ trách ở ngành khác không phải là cấp uỷ viên. Để bảo đảm cho công việc thường xuyên được giải quyết nhanh, gọn và tốt, Ban Thường vụ của mỗi cấp uỷ cần giữ vững nếp sinh hoạt đều đặn, có chuẩn bị chu đáo. Cần tǎng cường việc hội ý giữa bí thư và các phó bí thư, giữa bí thư, các phó bí thư và các đồng chí phụ trách ngành để kịp thời giải quyết công việc hàng ngày, không cần phải thành lập Ban Bí thư như ở Trung ương. Phải coi trọng việc bồi dưỡng nǎng lực lãnh đạo cho các cấp uỷ viên và trên cơ sở đó cải tiến lề lối làm việc của các cấp uỷ Đảng. Việc đó có liên quan đến việc sửa đổi lề lối làm việc và giải quyết tốt bộ máy tổ chức của toàn Đảng từ Trung ương đến tổ chức cơ sở, song mỗi cấp uỷ Đảng phải có tính chủ động cải tiến công tác của mình, tránh ỷ lại vào Trung ương hoặc cấp trên.
Trong các cấp uỷ Đảng từ Trung ương đến cấp huyện, Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) chú trọng đến việc thành lập Uỷ ban kiểm tra. Uỷ ban kiểm tra do cấp uỷ bầu cử ra, làm việc dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ có những quyền hạn nhất định đối với việc kiểm tra kỷ luật và dân chủ trong Đảng và đối với việc thi hành kỷ luật đảng viên, đồng thời phụ trách cả việc kiểm tra tài chính của Đảng. Những quy định về quyền hạn, nhiệm vụ và cách làm việc của Uỷ ban Kiểm tra ghi trong chương VII (Uỷ ban Kiểm tra các cấp) và chương X (kỷ luật trong Đảng) là cần thiết. Việc thi hành kỷ luật trong Đảng cần phải bảo đảm hết sức thận trọng và chính xác; nếu không có một cơ quan chuyên trách có đủ uy tín, có đủ thời giờ để suy nghĩ kỹ lưỡng, biết nắm vững đường lối, phương châm thi hành kỷ luật và có đủ cán bộ để kịp thời kiểm tra và giải quyết các vụ kỷ luật thì không thể tránh khỏi những hiện tượng thiếu chính xác hoặc chậm trễ như trước đây thường mắc phải.
Để giúp việc các cấp uỷ Đảng, Điều lệ Đảng quy định thành lập các ban chuyên môn và các đảng đoàn.Các ban chuyên môn và các đảng đoàn đã đóng góp phần quan trọng trong công tác lãnh đạo của các cấp uỷ đảng. Nhưng về tổ chức và lề lối làm việc hiện nay còn có nhiều điểm không hợp lý cần phải sửa đổi cho thích hợp.
Đối với các ban chuyên môn, chúng ta cần kiện toàn về mặt chất lượng. Cần chú trọng đưa những cán bộ vừa vững về chính trị, vừa am hiểu về chuyên môn vào các ban. Cần nghiên cứu để thực hiện việc cải tiến tổ chức và lề lối làm việc của các ban chuyên môn nhằm bảo đảm vừa phát triển được trí tuệ của tập thể, vừa đề cao được trách nhiệm của cá nhân, vừa làm cho công việc giúp cấp uỷ của ban được nhanh gọn và chính xác. Các ban chuyên môn cần tận dụng khả nǎng của cán bộ giúp việc, phát huy đầy đủ sáng kiến và nǎng lực của cán bộ, làm cho bộ máy tổ chức của ban vừa gọn nhẹ vừa có đầy đủ tác dụng cần có.
Nói chung trong các ban chấp hành các đoàn thể quần chúng (trừ Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam) và các cơ quan Nhà nước do dân cử như Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp đều phải thành lập đảng đoàn. Ở các Bộ hiện nay vẫn nên lập đảng đoàn. Tuy nhiên, ở đó tổ chức đảng đoàn phải gọn nhẹ, coi trọng chất lượng, không nên mở rộng quá làm cho sinh hoạt tập thể gặp khó khǎn, công việc không được giải quyết kịp thời và mau chóng. ở các sở, ty, tùy theo tính chất quan trọng, khối lượng công tác và khả nǎng cán bộ của từng cơ quan mà quy định nên lập đảng đoàn hay là nên chỉ định một đồng chí chịu trách nhiệm trước cấp uỷ. Trách nhiệm và cách làm việc của các đảng đoàn, Điều lệ Đảng đã ghi rõ. ở những nơi không lập đảng đoàn, các đồng chí chịu trách nhiệm trước cấp uỷ cần chú ý phát huy đầy đủ sinh hoạt tập thể dân chủ trong cơ quan, không nên dựa vào quyền hạn cá nhân mà làm việc một cách độc đoán, mệnh lệnh.
Các cấp uỷ đảng cần chấn chỉnh lại các ban, đảng đoàn theo phương hướng trên đây. Phải tận dụng khả nǎng của các ban, đảng đoàn, phát huy đầy đủ tính chủ động và sáng tạo của các tổ chức đó và tǎng cường kiểm tra đôn đốc, tránh buông trôi khoán trắng.
3. Tổ chức cơ sở của Đảng
Tổ chức cơ sở của Đảng, tức là tổ chức của Đảng ở đơn vị cơ sở, đóng vai trò hết sức quan trọng. Các tổ chức cơ sở của Đảng lập thành nền tảng của Đảng và nối liền Đảng và các cơ quan lãnh đạo của Đảng với quần chúng công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Tổ chức cơ sở là nơi tập thể lãnh đạo, giám đốc, giáo dục và rèn luyện tất cả các đảng viên; nó là xuất phát điểm bầu ra các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ dưới lên; là đơn vị lãnh đạo và chiến đấu thống nhất nằm trong quần chúng, tổ chức cơ sở có nhiệm vụ cùng với quần chúng trực tiếp phấn đấu cho đường lối chính sách của Đảng được thực hiện. Quan hệ giữa Đảng và quần chúng tốt hay là xấu, chủ trương chính sách của Đảng có thực hiện được tốt hay là không, phần quan trọng là do tổ chức cơ sở của Đảng thông qua các chi bộ là tế bào đầu tiên của Đảng, quyết định.
a) Trước đây, nói chung chi bộ là tổ chức cơ sở của Đảng vì ở mỗi đơn vị cơ sở thường chỉ thành lập một chi bộ. Nhưng trong tình hình hiện nay, bên cạnh những tổ chức cơ sở có ít nhất là ba đảng viên chính thức, còn có những tổ chức cơ sở có hàng trǎm và có nơi đã có trên một nghìn đảng viên. Bởi vậy cần quy định lại hình thức tổ chức của tổ chức cơ sở, sao cho thích hợp với sinh hoạt tập thể và dân chủ trong Đảng, thích hợp với yêu cầu về công tác lãnh đạo của các tổ chức cơ sở, đặc biệt là về lãnh đạo kinh tế. Theo yêu cầu đó, Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị chia hình thức tổ chức cơ sở của Đảng chủ yếu làm hai loại: ở những đơn vị cơ sở có dưới 50 đảng viên thì nói chung chỉ thành lập một chi bộ; chi bộ ở đó chính là tổ chức cơ sở của Đảng. ở những đơn vị cơ sở có từ 50 đảng viên trở lên thì nói chung sẽ cǎn cứ vào đơn vị sản xuất, đơn vị công tác mà thành lập một số chi bộ (chi bộ ở phân xưởng, ca, vụ, phòng, khoa, v.v.), trên các chi bộ có ban chấp hành của tổ chức cơ sở gọi tắt là đảng uỷ cơ sở; ở những nơi đó, chi bộ là một bộ phận của tổ chức cơ sở.
Trong thực tế còn có một loại tổ chức cơ sở có quá đông đảng viên, nếu chỉ thành lập đảng uỷ cơ sở và các chi bộ thì sẽ có trở ngại trong công tác lãnh đạo và sinh hoạt. ở những nơi đó, Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị, nếu được Ban Chấp hành Trung ương hoặc một cấp uỷ do Trung ương uỷ nhiệm ra quyết nghị thì trong một bộ phận của đơn vị cơ sở (như phân xưởng ở xí nghiệp, cục ở cơ quan, khoa ở trường học, v.v.), nếu có đông đảng viên phải chia ra làm nhiều chi bộ thì ở bộ phận đó có thể thành lập một liên chi. Liên chi sẽ họp Đại hội đại biểu hay là Đại hội đảng viên để bầu ra liên chi uỷ. Liên chi uỷ làm việc dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ cơ sở và trực tiếp lãnh đạo các chi bộ trong liên chi. Đảng uỷ cơ sở, liên chi uỷ, các chi bộ đều là những bộ phận tổ chức của tổ chức cơ sở vì tổ chức cơ sở của Đảng là đơn vị lãnh đạo và chiến đấu thống nhất của Đảng ở mỗi xí nghiệp, xã, trường học, cơ quan, v.v.. Những tổ chức cơ sở có số lượng đảng viên như thế nào mới được thành lập liên chi, quyền hạn, nhiệm vụ cụ thể của liên chi uỷ sẽ do Trung ương cǎn cứ vào tình hình thực tế mà có một quy định chung. Tuy nhiên, việc thành lập liên chi cần phải hạn chế để tránh làm cho tổ chức cơ sở phải chia làm nhiều tầng nấc khi không cần thiết.
Việc chia các tổ chức cơ sở lớn ra nhiều chi bộ là hợp lý. Nhưng khi đã chia, Đảng uỷ cơ sở cần coi trọng và phát huy đầy đủ vai trò và tác dụng tích cực của các chi bộ, mặt khác các chi bộ phải phát huy tính chủ động của mình, lãnh đạo các mặt công tác trong đơn vị mình phụ trách, bàn bạc góp ý kiến với Đảng uỷ cơ sở về công việc chung của tổ chức cơ sở khi cần thiết, đồng thời phải tôn trọng đầy đủ sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng uỷ cơ sở.
b) Tổ chức cơ sở của Đảng về cǎn bản là rất tốt và đã được củng cố nhiều lần. Nhưng trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, chúng ta không thể thoả mãn với những ưu điểm sẵn có. Hơn nữa, trong các tổ chức cơ sở không khỏi không có những khuyết điểm và nhược điểm. Bởi vậy, song song với việc quy định hình thức của tổ chức cơ sở, phải ra sức củng cố và nâng cao chi bộ, củng cố và nâng cao tổ chức cơ sở nói chung để củng cố và nâng cao toàn Đảng. Vấn đề này có liên quan đến vấn đề đảng viên. ở đây chỉ đề cập tới một số vấn đề khác.
Trước hết, phải nâng cao yêu cầu về nhiệm vụ của tổ chức cơ sở.
Là đơn vị trực tiếp chiến đấu của Đảng, tổ chức cơ sở, như trước đây đã quy định, có nhiệm vụ "thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, tuyên truyền, tổ chức quần chúng thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và của Nhà nước".
Song vì chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước không có gì khác là nhằm nâng cao đời sống của quần chúng, lề lối lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo theo đường lối quần chúng, và vì tổ chức cơ sở của Đảng nối liền Đảng với quần chúng, cho nên, trong quá trình làm công tác, tổ chức cơ sở phải thường xuyên "phản ánh lên cấp trên yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng, hết sức chǎm lo đến việc nâng cao mức sống vật chất và vǎn hoá của quần chúng".
Tổ chức cơ sở của Đảng còn phải biết "lãnh đạo quần chúng phát huy tính sáng tạo, tích cực tham gia sinh hoạt chính trị của Nhà nước, củng cố kỷ luật lao động, ra sức thi đua yêu nước, bảo đảm hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất và kế hoạch công tác". Đó là nhiệm vụ cơ bản của tổ chức cơ sở, bởi vì, chỉ có trên cơ sở đó mới có thể có điều kiện cải thiện đời sống của quần chúng một cách toàn diện và lâu dài. Trong giai đoạn cách mạng mới, đánh giá thành tích của tổ chức cơ sở của Đảng trước hết là phải xem xét việc thực hiện kế hoạch sản xuất và công tác tốt hay là xấu. Chẳng những phải xem xét chỉ tiêu kế hoạch có đạt hoặc vượt mức không mà còn phải xem xét thực chất kết quả đó như thế nào. Phải xem xét cả những biện pháp thực hiện, tác phong lãnh đạo, v.v.. Đó tức là những vấn đề quyết định, chẳng những về số lượng mà cả về mặt chất lượng của kế hoạch, quyết định chẳng những kết quả về mặt kinh tế mà còn cả về mặt chính trị và tư tưởng.
Muốn đạt kết quả tốt về mặt lãnh đạo kinh tế, chính trị trên đây phải quan tâm đến công tác nội bộ Đảng. Về điểm này, ngoài nhiệm vụ "phân phối và kiểm tra công tác của đảng viên, làm công tác kết nạp đảng viên mới, thu đảng phí, thi hành kỷ luật đảng viên, v.v.", Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị giao cho tổ chức cơ sở thêm nhiệm vụ "tổ chức cho đảng viên học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập đường lối chính sách, nâng cao trình độ chính trị và nǎng lực công tác của đảng viên, tǎng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng". Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) còn yêu cầu tổ chức cơ sở phải "mở rộng phê bình, tự phê bình, phát huy ưu điểm, vạch trần khuyết điểm sai lầm trong công tác, đấu tranh chống tất cả những hiện tượng phạm pháp, trái kỷ luật, quan liêu, lãng phí, tham ô" và "bồi dưỡng chí khí phấn đấu, nâng cao tinh thần cảnh giác cho đảng viên và quần chúng".
Có làm tròn các nhiệm vụ đó thì tổ chức cơ sở của Đảng mới thật sự là pháo đài chiến đấu xã hội chủ nghĩa của Đảng và của quần chúng, được quần chúng tín nhiệm và bảo vệ.
Cǎn cứ vào những nhiệm vụ trên đây, nói chung, tổ chức cơ sở của Đảng đều phải lãnh đạo toàn diện.Chẳng những phải làm công tác nội bộ Đảng, lãnh đạo các tổ chức quần chúng, mà còn phải biết lãnh đạo kinh tế, lãnh đạo sản xuất và công tác chuyên môn. Trước đây đã có lúc chúng ta hạ thấp vai trò của một số tổ chức cơ sở, chỉ giao cho tổ chức cơ sở lãnh đạo chính trị và tư tưởng chung chung, thoát ly sản xuất, tách rời chính trị với chuyên môn. Thiếu sót đó đã được sửa chữa.
Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị ghi rõ: "Tổ chức cơ sở của Đảng ở xí nghiệp, xã, thị trấn, khu phố, bệnh viện, trường học, đơn vị đại đội trong Quân đội nhân dân, v.v. phải lãnh đạo và kiểm tra tổ chức chính quyền và tổ chức quần chúng trong đơn vị mình tích cực thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị của tổ chức Đảng cấp trên và cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời phải tích cực cải tiến công tác của đơn vị mình".
Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng là một vấn đề về nguyên tắc. Các tổ chức cơ sở của Đảng ở xí nghiệp, xã, bệnh viện, trường học, v.v. phải ra sức cố gắng học tập, đi đúng đường lối quần chúng để tǎng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong đơn vị. Song, Đảng lãnh đạo không có nghĩa là Đảng bao biện, làm thay công tác của tổ chức chính quyền và của các đoàn thể quần chúng. Tǎng cường sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở của Đảng phải đi đôi với việc phát huy vai trò và trách nhiệm của tổ chức chính quyền, phát huy vai trò và tác dụng của các tổ chức quần chúng. Hai mặt đó phải gắn liền với nhau, coi nhẹ hoặc buông lỏng mặt nào cũng sẽ dẫn đến sai lầm, khuyết điểm.
Trong công tác lãnh đạo, tổ chức cơ sở của Đảng phải luôn luôn kết hợp chặt chẽ công tác chính trị và tư tưởng với công tác kinh tế, sản xuất, chuyên môn, lấy công tác chính trị và tư tưởng làm gốc, đi đầu để đẩy mạnh mọi mặt công tác của đơn vị.
Muốn lãnh đạo tốt, tổ chức cơ sở của Đảng còn phải tǎng cường việc kiểm tra, xem xét công tác của tổ chức chính quyền và của tổ chức quần chúng trong mọi mặt công tác của đơn vị cơ sở, đặc biệt là trong công tác sản xuất và chuyên môn, để kịp thời phát hiện những khuyết điểm và khó khǎn mà có chủ trương uốn nắn và khắc phục, kịp thời phát hiện những kinh nghiệm thành công hoặc thất bại mà bồi bổ cho công tác lãnh đạo của mình. Lãnh đạo mà không kiểm tra thì lãnh đạo sẽ trở thành quan liêu.
Trong các loại tổ chức cơ sở như Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đã chỉ rõ, thì "tổ chức cơ sở ở các cơ quan không lãnh đạo và kiểm tra công tác chuyên môn của cơ quan được", vì đó là trách nhiệm của các ban, đảng đoàn hoặc các đồng chí chịu trách nhiệm trước cấp uỷ. Nhưng tổ chức cơ sở của Đảng ở các cơ quan vẫn phải "lãnh đạo tình hình tư tưởng và chính trị của đảng viên trong cơ quan, tǎng cường kỷ luật công tác, động viên cải tiến công tác cơ quan, chống bệnh quan liêu. Khi thấy công tác của cơ quan có khuyết điểm, cần kịp thời phản ánh cho người phụ trách cơ quan và báo cáo lên tổ chức Đảng cấp trên". Còn các mặt công tác khác như lãnh đạo các tổ chức quần chúng, quan tâm đến đời sống của quần chúng, công tác nội bộ Đảng, v.v. đều phải cǎn cứ vào các nhiệm vụ của tổ chức cơ sở mà thực hiện. Đối với tổ chức cơ sở ở cơ quan, công tác chính trị và tư tưởng giữ vị trí chủ yếu; công tác đó không thể chỉ làm một cách chung chung mà trái lại phải rất thiết thực, gắn liền với công tác chuyên môn. Giữa các ban, đảng đoàn với tổ chức cơ sở ở cơ quan không có quan hệ lãnh đạo và bị lãnh đạo, nhưng cần có sự phối hợp mật thiết. Các ban, đảng đoàn và đồng chí thủ trưởng cơ quan cần trao đổi với các đồng chí trong Ban chấp hành của tổ chức cơ sở những nét lớn về chương trình công tác của cơ quan trong từng thời kỳ, về những khó khǎn thuận lợi sẽ có. Ngược lại, các đồng chí trong Ban chấp hành của tổ chức cơ sở cần thường xuyên phản ánh cho ban, đảng đoàn hoặc đồng chí phụ trách cơ quan về công tác của mình, nhất là về tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng trong cơ quan. Trên cơ sở đó sẽ cùng nhau bàn bạc góp ý kiến làm cho công tác của tổ chức cơ sở được tốt. Các đồng chí phụ trách cơ quan cần tham gia sinh hoạt chi bộ, làm trách nhiệm của mình đối với tổ chức cơ sở và trong điều kiện có thể, nên có một số đồng chí ứng cử vào Ban chấp hành của tổ chức cơ sở để sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở được vững và sát với công tác chuyên môn hơn.
Hiện nay, đảng viên trong các xí nghiệp ở những khu công nghiệp tập trung và trong các cơ quan có hiện tượng tách rời với sinh hoạt chính trị và xã hội nơi mình ở. Điều đó không phải chỉ do những nguyên nhân về tư tưởng mà còn có những nguyên nhân về mặt tổ chức. Ban Chấp hành Trung ương cần nghiên cứu rút kinh nghiệm và có những quy định cụ thể về mặt tổ chức để tǎng cường mối quan hệ giữa đảng viên trong các xí nghiệp và cơ quan với quần chúng ở địa phương nơi ở của các đảng viên đó.
c) Để củng cố và nâng cao vai trò của tổ chức cơ sở, hiện nay còn phải chú ý rất nhiều đến việc cải tiến sinh hoạt của các chi bộ, kiện toàn các chi uỷ và đảng uỷ cơ sở, giải quyết tốt vấn đề đảng viên quá kém và quản lý đảng viên cho tốt.
Cải tiến sinh hoạt của chi bộ là một khâu quan trọng để đẩy mạnh công tác của tổ chức cơ sở. Sinh hoạt chi bộ là trường học giáo dục của đảng viên, phải chú ý đến nội dung tư tưởng và chính sách; phải bảo đảm chẳng những làm cho đảng viên quán triệt chủ trương chính sách của Đảng để ra sức thực hiện mà còn phải phát huy được sáng kiến của đảng viên, làm cho họ đóng góp được phần tích cực vào công tác của tổ chức cơ sở và của toàn Đảng nói chung. Phải lồng phê bình tự phê bình vào nội dung các vấn đề thảo luận làm cho sinh hoạt được phong phú, sôi nổi. Chương trình bàn bạc phải có trọng tâm. Đảng viên phải có chuẩn bị ý kiến trước khi họp. Tránh tình trạng gặp việc gì bàn việc ấy, bàn tràn lan, ít có nội dung tư tưởng và chính trị, như nhiều nơi đã mắc phải.
Một số đảng uỷ cơ sở và chi uỷ chưa được thật sự kiện toàn, nhất là về mặt chất lượng. Một số chi uỷ viên ở xã, nhất là trong một số đồng chí xuất thân từ thành phần trung nông lớp trên, chưa chịu tiếp thụ giáo dục của Đảng, đã thiếu gương mẫu trong việc chấp hành chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là trong chính sách thu mua, thu thuế và chính sách hợp tác hoá. Trong một số cấp ủy ở xí nghiệp, còn có một số đồng chí thiếu gương mẫu trong lao động sản xuất, không quan tâm đến đời sống của công nhân, quan liêu, hống hách. Trong số đó, có những đồng chí tuy hiện nay là công nhân nhưng còn mang theo tư tưởng của thành phần giai cấp cũ. Tổ chức cơ sở của Đảng khi đưa họ vào cấp uỷ đã không xét kỹ xem bản chất giai cấp cũ còn tồn tại trong tư tưởng họ như thế nào mà thường chỉ cǎn cứ vào thành tích đã qua hoặc những biểu hiện tích cực nhất thời.
Đối với những đồng chí nói trên, một mặt chúng ta phải ra sức giáo dục, mặt khác, nếu họ phạm khuyết điểm nặng hoặc không chịu sửa chữa thì phải kiên quyết đưa ra khỏi cấp uỷ hoặc thi hành kỷ luật thích đáng. Chúng ta phải chú ý kiện toàn các đảng uỷ và chi uỷ, nhất là về chất lượng, chú ý hơn nữa việc đưa những đồng chí công nhân tốt và những đồng chí bần cố nông và trung nông lớp dưới có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo ở tổ chức cơ sở làm cho sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở có thể đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong nhiều chi bộ, nhất là ở chi bộ nông thôn, còn có một số đảng viên rất ít tham gia sinh hoạt Đảng, không đóng đảng phí, chây lười trong công tác, thiếu gương mẫu trong việc chấp hành các chính sách của Đảng và Chính phủ, hoặc quá kém; trải qua giáo dục và dìu dắt trong thực tế đấu tranh, nhiều đồng chí nói trên đã có chuyển biến tốt. Chúng ta phải đặc biệt coi trọng việc giáo dục các đảng viên đó. Sau Đại hội Đảng cần tổ chức cho họ cùng với các đảng viên khác học tập Điều lệ mới của Đảng và trên cơ sở đó mà dìu dắt họ tiến lên trong công tác thực tế. Đối với người không tiến bộ được thì cǎn cứ vào Điều lệ mà đưa ra khỏi Đảng. Đó là một biện pháp tích cực nhưng không phải là một vấn đề đơn giản vì nó có quan hệ đến nhiều đồng chí ở trong những hoàn cảnh và trường hợp khác nhau. Trung ương cần có kế hoạch chu đáo, các địa phương phải tích cực tiến hành để bảo đảm đầy đủ tính chất tiên phong của Đảng.
Vấn đề quản lý đảng viên hiện nay còn có nhiều thiếu sót. Việc giới thiệu đảng viên khi thay đổi công tác, có nơi làm không đúng thủ tục; việc kê khai lý lịch, nhận xét, giúp đỡ đảng viên trong quá trình công tác còn chưa được chu đáo. Vì vậy, có phần tử đầu cơ đã lợi dụng chui vào Đảng, có đảng viên đã khai man lý lịch, có những đồng chí bị mất liên lạc với Đảng, v.v.. Để tránh những khuyết điểm trên đây, chế độ quản lý đảng viên cần phải đi vào nền nếp chặt chẽ.
Chúng ta cần ra sức củng cố và nâng cao hơn nữa tổ chức cơ sở của Đảng. Việc đó đòi hỏi chẳng những sự cố gắng chủ quan của các tổ chức cơ sở, mà còn đòi hỏi các cấp uỷ cấp trên phải ra sức cải tiến công tác lãnh đạo của mình, tǎng cường đi sát, giúp đỡ tổ chức cơ sở và có kế hoạch chu đáo trong công tác giáo dục, bồi dưỡng từng loại cán bộ, đảng viên của tổ chức cơ sở.
4. Cuối cùng có vấn đề Đảng đối với Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam
Đảng ta từ trước đến nay rất quan tâm đến phong trào thanh niên. Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam hiện nay có nguồn gốc lịch sử từ khi Đảng mới thành lập, đã đóng góp phần quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Bởi vậy, trong Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Đoàn Thanh niên Lao động đã ghi rõ: "Đoàn Thanh niên Lao động là tổ chức gần Đảng hơn hết, là tổ chức cánh tay và đội hậu bị của Đảng". Xuất phát từ quan điểm đó, bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị một chương dành riêng nói về "Đảng đối với Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam". Bản Dự thảo đã quy định rõ: Đảng coi Đoàn Thanh niên Lao động là cánh tay đắc lực và đội hậu bị của Đảng. Đoàn có nhiệm vụ góp phần tích cực vào việc tuyên truyền và thực hiện các chính sách của Đảng và đề nghị ý kiến và kinh nghiệm của mình với tổ chức Đảng. Đoàn hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, không phải thông qua hình thức Đảng đoàn. Tổ chức Đoàn thanh niên các cấp địa phương cũng chịu sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức Đảng cùng cấp, đồng thời chịu sự lãnh đạo của tổ chức Đoàn Thanh niên cấp trên... Bản dự thảo còn yêu cầu tổ chức các cấp của Đảng lãnh đạo và giúp đỡ tổ chức Đoàn Thanh niên các cấp trong công tác tư tưởng và công tác tổ chức. Những điều quy định đó được chấp hành đầy đủ, chẳng những sẽ có tác động mạnh mẽ đối với phong trào thanh niên là lực lượng tương lai của nước nhà, mà còn có tác dụng thúc đẩy phong trào quần chúng nói chung trong sự nghiệp cách mạng; đồng thời còn có tác dụng rất lớn đến việc củng cố và xây dựng Đảng ta bởi vì, Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam cũng là nơi để Đảng đào tạo và lựa chọn những phần tử ưu tú trong công nhân, nông dân, lao động trí óc nhằm bổ sung vào đội ngũ của Đảng những thanh niên tích cực, hǎng hái, đầy sức sống. Các cấp bộ của Đảng và tổ chức của Đảng cần nhận rõ ý nghĩa quan trọng của vấn đề để thực hiện một cách đầy đủ.
III- Vấn đề cán bộ
Vấn đề cán bộ có tầm quan trọng đặc biệt đối với toàn bộ công tác của Đảng. "Cán bộ quyết định hết thảy", điều đó chúng ta đã rõ.
1. Lịch sử chứng minh rằng, mỗi chính đảng đại biểu quyền lợi của một giai cấp, phải đào tạo, lựa chọn và đề bạt cán bộ theo yêu cầu và phương hướng của giai cấp mình và giáo dục cán bộ đứng vững trên lập trường của giai cấp mình. Đó là nội dung chủ yếu của đường lối cán bộ.
Đảng ta là chính đảng của giai cấp công nhân. Sự hình thành đội ngũ cán bộ của Đảng trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam có những đặc điểm riêng, nhưng về cǎn bản phải theo đúng đường lối cán bộ của giai cấp công nhân. Muốn có một nhận định đúng đắn về vấn đề đường lối cán bộ của Đảng, trước hết cần đánh giá đúng đội ngũ cán bộ đó.
Quá trình xây dựng Đảng ta cũng là quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng ngày càng lớn mạnh. Trước những chuyển biến của cách mạng, Đảng ta luôn luôn có ưu điểm là kịp thời mở rộng đội ngũ cán bộ của mình trong công nhân, nông dân và trong tiểu tư sản, trí thức, kịp thời đề bạt những cán bộ cũ đã được thử thách và những cán bộ ưu tú mới xuất hiện trong phong trào lên các cương vị lãnh đạo để kịp thời đáp ứng yêu cầu của cách mạng. So với hồi Tổng khởi nghĩa Tháng Tám nǎm 1945 thì số lượng cán bộ ngày nay đã tǎng lên gấp bội. Chưa kể hàng chục vạn cán bộ nửa thoát ly và không thoát ly ở các đơn vị cơ sở, hiện nay, đội ngũ cán bộ thoát ly của Đảng và Nhà nước (chưa kể trong quân đội) đã lên tới trên 11 vạn, trong số đó quá nửa là đảng viên.
Trong đội ngũ cán bộ đó, có nhiều đồng chí xuất thân từ công nhân và nông dân (59,44%), cũng có rất nhiều đồng chí xuất thân là trí thức và tiểu tư sản khác (39,02%). Việc cấu tạo thành phần của đội ngũ cán bộ trên về cǎn bản là đúng; nó phản ánh quá trình xây dựng Đảng ta, phản ánh điều kiện và đặc điểm của cách mạng Việt Nam. Song, sự cấu tạo của đội ngũ cán bộ đó không khỏi có nhược điểm và khuyết điểm. Tỷ lệ thành phần công nhân và bần cố nông còn thấp (32,70%)1).
Khuyết điểm và nhược điểm đó một mặt khá quan trọng là do chúng ta chưa quan tâm đầy đủ đến vấn đề cán bộ công nông, cho nên đã thiếu một kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ xuất thân từ các tầng lớp đó một cách lâu dài và toàn diện và mặt khác, phần nào cũng do hoàn cảnh khách quan trước đây hạn chế như phần tính chất Đảng đã nói kỹ.
Tuy nhiên khi đánh giá đội ngũ cán bộ của Đảng, không thể chỉ xem xét về mặt thành phần mà điều quan trọng là phải xem xét cả về mặt tư tưởng. Trong hàng ngũ cán bộ của Đảng từ trước đến nay, trước sự khủng bố, tàn sát của quân thù trong thời kỳ Đảng hoạt động bí mật và trải qua thử thách của cuộc kháng chiến gian khổ, cũng có một số cán bộ, nhất là trong số xuất thân từ thành phần trí thức tiểu tư sản và giai cấp bóc lột, do được lựa chọn không đúng hoặc do chỗ họ chưa được giáo dục đầy đủ, đã dao động, cầu an, nửa chừng rời bỏ hàng ngũ chiến đấu, hoặc thậm chí, có người phản bội Đảng, phản bội Tổ quốc. Từ hoà bình lập lại, trong cuộc đấu tranh với giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản, một số ít cũng đã bị hủ hoá về mặt sinh hoạt hoặc đã theo nhóm Nhân vǎn Giai phẩm chống lại sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng số cán bộ trên đây so với đội ngũ cán bộ nói chung, chỉ là số rất ít. Tuyệt đại đa số cán bộ của Đảng đã tỏ ra rất xứng đáng với truyền thống đấu tranh anh dũng và bất khuất của Đảng và của dân tộc. Hàng vạn cán bộ ưu tú đã hy sinh tính mạng cho sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng dân tộc. Đại đa số cán bộ còn lại đã phấn đấu bền bỉ vượt qua mọi thử thách của kháng chiến và tiếp đó được rèn luyện trong đấu tranh chống phong kiến, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng hòa bình, đã giữ vững bản chất cách mạng, trung thành với sự nghiệp xã hội chủ nghĩa và thống nhất Tổ quốc. Nếu không có một đội ngũ cán bộ được giáo dục theo chủ nghĩa Mác - Lênin trung thành với sự nghiệp của Đảng và của dân tộc, biết phát huy tính tích cực của đông đảo đảng viên và quần chúng thì không thể giải thích được tại sao, khi lệnh Tổng khởi nghĩa được ban hành, các đảng bộ đã lãnh đạo quần chúng nhân dân nổi dậy giành chính quyền, và Cách mạng Tháng Tám đã thành công trong toàn quốc; khi Chỉ thị kháng chiến trường kỳ đưa xuống, toàn Đảng đã nhất tề đứng dậy lãnh đạo quần chúng hy sinh phấn đấu lâu dài, đưa kháng chiến đến thắng lợi. Ngày nay, đội ngũ cán bộ đó, mặc dù trình độ vǎn hoá, khoa học, kỹ thuật còn thấp kém, trong tình hình công tác có nhiều khó khǎn, phức tạp, vẫn có những cố gắng vượt bậc, đưa công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội tiến lên những bước lớn. Những điều đó nói lên bản chất tốt đẹp của đội ngũ cán bộ của Đảng ta. Đó là một thành công của Đảng, một thành công quyết định những thành công khác của cách mạng. Bởi vậy có thể khẳng định rằng về cǎn bản Đảng ta đã theo đúng đường lối cán bộ của giai cấp công nhân.
Có đồng chí không nhìn thấy hết khuyết điểm và nhược điểm trong công tác cán bộ của Đảng, quá nhấn mạnh đến đặc điểm và hoàn cảnh khách quan, hoặc do ý thức giai cấp còn kém, đã đi đến coi nhẹ việc đào tạo, lựa chọn và đề bạt cán bộ xuất thân từ những thành phần công nhân và bần cố nông, không thấy hết tầm quan trọng của vấn đề cán bộ công nông, lại không thấy hết nhược điểm và khuyết điểm của cán bộ xuất thân từ thành phần trí thức, tiểu tư sản, đi đến coi nhẹ rèn luyện và cải tạo họ. Điều đó đương nhiên là không đúng và chính đó là nguồn gốc của những sai lầm hữu khuynh trong công tác cán bộ. Lại có những đồng chí không nhìn thấy hết đặc điểm và tình hình cấu tạo của đội ngũ cán bộ của Đảng, hoặc chỉ nhìn đến thành phần xuất thân, không xét kỹ lập trường, tư tưởng của cán bộ và khả nǎng giáo dục, cải tạo của Đảng đối với họ, hoặc chỉ nặng nhìn về mặt khuyết điểm, không nhìn thấy mặt ưu điểm nên đã hoài nghi tính chất vô sản của đội ngũ cán bộ của Đảng. Do đó, đã có những quan điểm phiến diện hẹp hòi trong công tác cán bộ.
Chúng ta kiên quyết chống lại mọi quan điểm lệch lạc trên đây về đường lối cán bộ của Đảng. Dựa vào tình hình thực tế của Đảng ta và theo đúng những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng, chúng ta cần có một nhận định tổng quát về đường lối cán bộ đó.
Từ trước đến nay, Đảng ta đã đào tạo, lựa chọn cán bộ trong công nhân, nông dân ưu tú, đồng thời cũng đã đào tạo và lựa chọn cán bộ cả trong những phần tử trí thức, tiểu tư sản ưu tú. Đó là những nguồn cán bộ của Đảng ta. Nhưng cũng cần nhận rõ rằng: Vì Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân và thành phần công nông, nhất là công nhân và bần cố nông, là lực lượng chủ yếu và kiên quyết nhất của cách mạng cho nên Đảng phải đặc biệt chú trọng đào tạo, lựa chọn và đề bạt cán bộ công nhân và bần cố nông. Hoàn cảnh khách quan và nhất là khuyết điểm chủ quan của ta trước đây đã hạn chế đến một mức độ nhất định tỷ lệ thành phần cơ bản đó trong hàng ngũ cán bộ. Ngày nay, bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, công nông, đặc biệt là công nhân, đang đóng một vai trò quyết định trong nền sản xuất tiên tiến. Chúng ta có đủ điều kiện và nhất định phải làm cho các thành phần cơ bản đó dần dần chiếm số đông trong đội ngũ cán bộ. Đó chẳng những là một vấn đề thuộc về lập trường giai cấp và quan điểm quần chúng mà còn là một vấn đề thực tế. Có thể khẳng định rằng, nếu ngày nay không giải quyết tốt vấn đề cán bộ công nông, không tích cực đào tạo, đề bạt được nhiều cán bộ xuất thân từ công nhân, bần cố nông và trung nông lớp dưới, nhất là công nhân, thì không thể giải quyết được tốt vấn đề cán bộ và như vậy, sẽ không hoàn thành được tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng. Tuy nhiên, Đảng cũng không thể vì vậy mà coi nhẹ vấn đề cán bộ xuất thân từ thành phần trí thức, tiểu tư sản. ở nước ta, những thành phần đó cũng bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột, họ cũng quyết tâm làm cách mạng. Phần đông các cán bộ đó ít nhiều đã được rèn luyện trong kháng chiến. Chúng ta đã coi trọng tác dụng của cán bộ xuất thân từ trí thức, tiểu tư sản trong cách mạng dân tộc dân chủ, chúng ta càng không thể không thấy rằng tác dụng của các cán bộ đó ngày nay lại có điều kiện phát huy hơn nữa, nhất là đối với công cuộc xây dựng kinh tế và phát triển vǎn hoá.
Kinh nghiệm thực tế đấu tranh của Đảng ta cũng chỉ rõ rằng mỗi loại cán bộ đều có những ưu điểm và nhược điểm khác nhau. Cán bộ xuất thân công nông, nhất là công nhân và bần cố nông, nói chung, có ưu điểm rất lớn là rất kiên quyết cách mạng, tư tưởng và lập trường nói chung là vững vàng, hiểu rõ đời sống và nguyện vọng của quần chúng, có liên hệ tốt với quần chúng và am hiểu về sản xuất, nhưng trình độ vǎn hoá và lý luận thường lại thấp. Cán bộ xuất thân từ trí thức, tiểu tư sản cũng rất tích cực và tương đối có trình độ vǎn hoá và lý luận, có khả nǎng tiếp thu mau, nhưng nói chung, khi chưa được giáo dục và thử thách đầy đủ thì thường lập trường không vững, dễ dao động, ít thực tế, xa quần chúng. Cho nên chúng ta cần phải khéo phối hợp hai loại cán bộ đó lại để bổ sung ưu điểm cho nhau, cùng nhau khắc phục khuyết điểm và nhược điểm. Quyết không thể coi khinh hoặc chỉ coi trọng một loại cán bộ nào. Tuy nhiên, vì mỗi loại cán bộ có những đặc điểm khác nhau cho nên Đảng phải hết sức chú trọng bồi dưỡng cán bộ công nông về mặt vǎn hoá, lý luận và trong việc lựa chọn, đề bạt, tiến tới yêu cầu họ có một trình độ vǎn hóa nhất định, lúc đầu có thể thấp, nhưng dần dần phải nâng cao lên. Đối với cán bộ xuất thân từ trí thức, tiểu tư sản, Đảng lại phải chú trọng giáo dục tư tưởng, rèn luyện họ trong thực tế đấu tranh ở cơ sở và trong lao động sản xuất; khi lựa chọn, đề bạt lại phải rất chú ý xem xét sự liên hệ của họ với quần chúng như thế nào, xem họ đã hết lòng, hết sức phục vụ công nông chưa. Phương hướng giáo dục và lựa chọn, đề bạt đó là xuất phát từ lập trường giai cấp của Đảng, từ tinh thần quý mến cán bộ và chính sách đoàn kết cán bộ, muốn cho cán bộ cống hiến được nhiều nhất cho cách mạng. Đó chính là thực hiện khẩu hiệu "công nông hoá trí thức, trí thức hoá công nông" mà Đảng đã đề ra.
Trong việc lựa chọn, đề bạt cán bộ, Đảng còn đề ra tiêu chuẩn đạo đức cách mạng và tài nǎng đều phải có. Đức chủ yếu là trung thành với cách mạng, liên hệ tốt với quần chúng, vì quần chúng mà phục vụ. Tài tức là có một nǎng lực công tác nhất định có thể gánh vác được nhiệm vụ mà Đảng giao cho. Cán bộ dù xuất thân thành phần nào, cũng phải có đủ tiêu chuẩn đó. Trong thực tế trước đây, có nơi, có lúc chúng ta đã coi trọng tài, coi nhẹ đức hoặc ngược lại, lấy đức làm chủ yếu, coi tài chỉ là thứ yếu. Đảng ta chống mọi thiên hướng lệch lạc đó. Đảng nhận định rằng, nếu có đạo đức cách mạng cao thì dễ có điều kiện phát triển tài nǎng; nếu có "tài" mà thiếu đạo đức thì "tài" đó cũng không thể đem phục vụ cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Bởi vậy, khi nói đức là cơ bản, chính là theo nghĩa đó, chứ không phải là coi nhẹ tài nǎng. Việc đề ra tiêu chuẩn trên đây chứng tỏ rằng Đảng không lấy thành phần xuất thân để phân biệt đối xử với cán bộ nhưng cũng nói lên rằng, tất cả cán bộ của Đảng, nhất là cán bộ xuất thân thành phần không vô sản, muốn xứng đáng là cán bộ ưu tú của giai cấp công nhân, thì phải ra sức trau dồi đạo đức cách mạng để có thể đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân. Điều đó còn thể hiện phương châm xây dựng Đảng ta, lấy xây dựng tư tưởng là chủ yếu trong khi vẫn coi trọng mặt tổ chức.
Những điều trên đây thể hiện nội dung của đường lối cán bộ của Đảng ta. Đường lối cán bộ đó phải là chú trọng lựa chọn, bồi dưỡng và đề bạt cán bộ trong những người ưu tú xuất thân từ công nhân và nông dân, đồng thời lựa chọn, bồi dưỡng, và đề bạt cán bộ trong những người ưu tú xuất thân từ trí thức có liên hệ chặt chẽ với công nông, một lòng một dạ phục vụ công nông. Trong khi thực hiện đường lối cán bộ đó, phải coi trọng việc bồi dưỡng và đề bạt cán bộ cũ đã qua thử thách, nhưng cũng phải rất chú ý đến những phần tử ưu tú trẻ tuổi mới xuất hiện qua các phong trào quần chúng. Trước kia, chúng ta theo đường lối công tác cán bộ đó, nhưng có lúc chưa nắm vững phương hướng và quan điểm giai cấp trong công tác cán bộ, nhất là chưa chú trọng đầy đủ đến cán bộ công nông. Từ nay về sau, chúng ta nhất thiết phải quán triệt hơn nữa đường lối công tác cán bộ của Đảng, đặc biệt phải sửa chữa những khuyết điểm trong công tác đối với cán bộ công nông.
2. Trên cơ sở quán triệt hơn nữa đường lối công tác cán bộ của Đảng, phải có kế hoạch tích cực bồi dưỡng, đào tạo, đề bạt, sử dụng cán bộ cho đúng.
a) Bồi dưỡng, đào tạo cán bộ là một nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng. Sự cố gắng của chúng ta, nhất là gần đây, về phương diện đó, đã đem lại kết quả nhất định tuy chưa đạt được yêu cầu cần thiết. Do thiếu nhìn xa thấy rộng cho nên kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ của chúng ta thiếu toàn diện, thiếu gắn liền với nhiệm vụ chính trị lâu dài và còn nhiều tính chất chắp vá, thủ công nghiệp. Hiện nay, chúng ta đang đứng trước một mâu thuẫn lớn giữa số lượng và chất lượng của cán bộ và yêu cầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trình độ lý luận, trình độ vǎn hoá và kỹ thuật của cán bộ và số lượng cán bộ kỹ thuật hết sức nghèo nàn hiện nay đang trở ngại đến công tác của Đảng và của Nhà nước. Sự cố gắng gần đây của chúng ta đã có kết quả, nhưng hoàn toàn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của cách mạng.
Trong giai đoạn hiện nay, người cán bộ nếu chỉ hiểu biết về chính trị chung chung thì không thể lãnh đạo tốt kinh tế và vǎn hoá, hoặc nếu chỉ có kỹ thuật, nghiệp vụ đơn thuần thì nhất định không thể làm tốt công tác chuyên môn. Bởi vậy, chúng ta phải có một đội ngũ cán bộ đông đảo vừa am hiểu về chính trị, vừa thông thạo về chuyên môn, đặc biệt là phải có một đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật rất lớn, tuyệt đối trung thành với giai cấp công nhân. Trong đội ngũ cán bộ ấy, cán bộ là đảng viên phải có mặt ở khắp các lĩnh vực công tác để cùng với cán bộ ngoài Đảng hoàn thành nhiệm vụ lớn lao của Đảng. Muốn như vậy, phải tổ chức cho cán bộ học tập lý luận một cách có hệ thống, và rèn luyện cán bộ trong thực tế đấu tranh, đồng thời phải coi trọng việc đào tạo cán bộ về mặt kỹ thuật và nghiệp vụ. Vấn đề đó đòi hỏi trước hết phải ra sức nâng cao trình độ vǎn hoá của cán bộ, nhất là đối với cán bộ công nông. Phải ra sức đào tạo một đội ngũ cán bộ trí thức xuất thân từ công nông thật đông đảo, đồng thời phải chú ý cải tạo những trí thức cũ chưa được rèn luyện thử thách đầy đủ để họ có thể trở thành những cán bộ chân chính của giai cấp công nhân.
Chúng ta phải ra sức thực hiện những điều đã quy định về học tập lý luận trong Đảng. Mỗi ngành, mỗi cấp phải mở rộng trường hoặc lớp học để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho ngành mình, cấp mình. Phải mở rộng hơn nữa các trường phổ thông, chuyên nghiệp và đại học. Phải cử nhiều cán bộ sang học tập ở các nước anh em, đồng thời phải ra sức đào tạo cán bộ trong thực tế sản xuất. Phải bồi dưỡng bằng mọi biện pháp cho những chiến sĩ thi đua, những tổ trưởng sản xuất, những công nhân, những uỷ viên quản trị và xã viên hợp tác xã, v.v. có nhiệt tình lao động và cầu tiến bộ; phải bồi dưỡng hơn nữa cho những đảng uỷ viên, chi uỷ viên, những đảng viên, những cán bộ và Đoàn viên Thanh niên Lao động xuất sắc ở cơ sở; phải mạnh dạn giao việc cho họ, đưa họ dần dần từ dưới lên. Qua công tác thực tế, cần tổ chức cho cán bộ, công nhân và nhân viên công tác học tập chuyên gia các nước anh em một cách thường xuyên và có hệ thống để họ nhanh chóng tiếp thụ được những kinh nghiệm quý báu của các nước anh em.
Kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo cán bộ phải toàn diện, nhưng có trọng tâm, phải chủ động và lâu dài, phải nhìn thấy yêu cầu của công cuộc xây dựng miền Bắc, đồng thời phải thấy cả yêu cầu của sự nghiệp thống nhất nước nhà. Phải coi trọng hơn nữa việc đào tạo cán bộ phụ nữ, cán bộ người thiểu số và cán bộ người miền Nam. Chúng ta không thể tiếc thì giờ, sức lực trong việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nói chung, đặc biệt là các loại cán bộ trên đây. Đó là nhiệm vụ mà toàn Đảng phải ra sức thực hiện. Dựa vào kế hoạch chung, mỗi ngành, mỗi cấp phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng riêng, quyết không thể ỷ lại vào việc đào tạo, bồi dưỡng của Trung ương.
b) Song song với việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, phải chú ý đề bạt cán bộ. Phải đề bạt chẳng những để có đủ người phụ trách công việc trước mắt mà còn để đào tạo cán bộ cho công tác sau này.
Công tác đề bạt cán bộ của chúng ta ngày càng tiến bộ và cǎn bản là tốt. Thế nhưng vẫn còn một số không ít cán bộ và tổ chức của Đảng chưa thật mạnh dạn đề bạt cán bộ hoặc còn có quan niệm lệch lạc khi đề bạt cán bộ.
Trong thực tế, có những đồng chí mất ǎn, mất ngủ, ôm đồm, bao biện, quan liêu, vất vả, không có thì giờ học tập, nhưng không tin ở khả nǎng cán bộ, không tìm ra cán bộ để đề bạt. Các đồng chí đó không thấy rằng đông đảo cán bộ hiện nay đã trải qua ít nhất là 10, 15 nǎm đấu tranh cách mạng hoặc phần đông đã có trên 10 tuổi Đảng; được Đảng giáo dục và tiếp thụ được kinh nghiệm phong phú của Đảng, họ đã trưởng thành. Chỉ có mạnh dạn giao trách nhiệm cho họ, tích cực bồi dưỡng và đề bạt họ lên những cương vị xứng đáng thì công việc của Đảng mới có thể hoàn thành tốt. Tất nhiên không phải vì vậy mà đề bạt một cách gượng ép, bừa bãi.
Nhiều đồng chí còn vận dụng hoặc quan niệm tiêu chuẩn đề bạt cán bộ một cách phiến diện. Có đồng chí đã lấy tuổi Đảng, quá trình tham gia cách mạng và việc tham gia cấp uỷ, v.v. làm tiêu chuẩn chính để đề bạt cán bộ. Trong nhiều trường hợp, họ đã đề bạt cán bộ theo lối "tôn ti, trật tự", "sống lâu lên lão làng". Ngược lại, có đồng chí chỉ nhìn đến mặt nói hay viết thạo, nhanh nhẹn tháo vát bề ngoài của cán bộ, còn khả nǎng thực tế và đạo đức ra sao thì coi nhẹ. Có đồng chí nhìn cán bộ một cách cầu toàn, thành kiến với cán bộ phạm sai lầm, không xem xét họ đã tiến bộ ra sao mà chỉ cǎn cứ một mặt vào những sai lầm đã qua. Những đồng chí đó không thấy rằng trong nhiều trường hợp có những đồng chí đã phạm sai lầm, có khi bị thi hành kỷ luật, một khi đã cố gắng sửa chữa, không hề kém hơn một số đồng chí khác chưa từng bị thi hành kỷ luật. Trái lại, có đồng chí hoàn toàn không xem xét những khuyết điểm, sai lầm đã qua của cán bộ để hiểu cán bộ một cách sâu sắc hơn, chỉ tìm hiểu cán bộ đơn thuần qua khả nǎng và thái độ hiện tại. Đó cũng là một lệch lạc nữa cần phải tránh.
Một số đồng chí lại đem cảm tình cá nhân thay thế cho tiêu chuẩn đề bạt cán bộ, như đề bạt người thân thích của mình không đủ tiêu chuẩn, có khi còn xem ai hẩu với mình thì đề bạt, thành kiến, ác cảm với ai thì dìm xuống. Ngoài ra, không ít đồng chí nhìn cán bộ một cách thành kiến, phiến diện: thường chỉ nhìn thấy những việc đã qua, không nhìn thấy những việc hiện nay, chỉ nhìn thấy một mặt ưu điểm hoặc khuyết điểm, không nhìn thấy mặt khác, không phân biệt mặt nào là chính, mặt nào chỉ là phụ, hoặc nhiều khi lại nhận xét theo cảm tính hoặc chỉ nhìn thấy hiện tượng bên ngoài, không nhìn đúng bản chất của cán bộ.
Những quan điểm trên đây đã dẫn đến sai lầm bảo thủ và phiến diện trong việc đề bạt cán bộ. Những quan điểm đó chẳng những có trong một số đồng chí phụ trách hoặc một số cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước mà còn có trong nhiều cán bộ và đảng viên khác. Những quan điểm đó cộng với những động cơ cá nhân không chính đáng đã dẫn đến tình trạng suy bì, so sánh giữa cá nhân này với cá nhân khác trong các dịp đề bạt cán bộ. Các đồng chí đó không thấy rằng đề bạt cán bộ chỉ là vấn đề phân công trong công tác của Đảng theo yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, mà lại coi việc đề bạt cán bộ là một vấn đề "thǎng quan tiến chức", do đó có đồng chí đã hết so sánh dọc lại so sánh ngang, không yên tâm phục vụ, hoặc thắc mắc về tiền đồ, địa vị, làm tổn thương đến đoàn kết nội bộ và ảnh hưởng không tốt đến việc hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và của Nhà nước.
Cần phải mạnh dạn đề bạt cán bộ hơn nữa, nhất là cán bộ công nông và cán bộ trẻ, lựa chọn trong những phần tử ưu tú xuất hiện qua các phong trào. Đồng thời, vẫn phải tiếp tục chú ý đề bạt cán bộ cũ đã được rèn luyện thử thách và có nǎng lực; việc đó là hoàn toàn đúng và cần thiết. Cán bộ cũ nói chung thường chắc chắn, vững vàng, có nhiều kinh nghiệm, nhưng một số không ít đồng chí thường hay bảo thủ, tiếp thụ không kịp những cái mới; cán bộ trẻ nói chung không được từng trải và vững vàng bằng cán bộ cũ nhưng thường hay dễ nhạy cảm với cái mới, tiếp thụ lý luận, khoa học, kỹ thuật nhanh. Chỉ có biết kết hợp cán bộ trẻ, cán bộ mới với cán bộ già, cán bộ cũ, cũng như kết hợp cán bộ xuất thân từ công nông và xuất thân từ trí thức, tiểu tư sản thì công tác cán bộ mới có thể thành công và nhiệm vụ chính trị của Đảng mới có thể được hoàn thành tốt đẹp.
Trong khi đề bạt cán bộ, phải nắm vững tiêu chuẩn một cách toàn diện. Xem xét lịch sử, quá trình công tác trước kia và hiện nay, những khuyết điểm, nhược điểm hoặc ưu điểm, v.v. là hoàn toàn đúng nhưng nếu chỉ nhìn một mặt nào đó đi đến nhận xét, đánh giá cán bộ không toàn diện thì nhất định sẽ phạm khuyết điểm trong việc đề bạt và sử dụng cán bộ.
c) Muốn làm tốt công tác cán bộ, còn phải biết tập trung lực lượng cán bộ của Đảng vào các ngành công tác trọng yếu nhất; phải tiếp tục bổ sung nhiều cán bộ ưu tú hơn nữa cho công tác kinh tế và vǎn hoá, nhất là kinh tế, và cho các cơ sở sản xuất. Việc phân phối và điều chỉnh cán bộ phải cǎn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, theo một kế hoạch chung, toàn diện. Tránh điều động xáo trộn cán bộ một cách không cần thiết để có thể ổn định công tác của cán bộ và giúp họ tích lũy kinh nghiệm; nhưng đồng thời cũng phải tích cực chống tư tưởng bản vị, cục bộ, địa phương chủ nghĩa thiếu ý thức tổ chức và kỷ luật đã làm trở ngại không ít đến việc điều động cán bộ.
Chúng ta còn phải có chính sách đãi ngộ cán bộ cho đúng. Cán bộ là vốn quý nhất của Đảng, phải yêu quý và chǎm sóc cán bộ, làm cho cán bộ có thể đem hết khả nǎng và sức lực phục vụ nhân dân. Phải nghiên cứu và bổ sung các chính sách đối với cán bộ xã, cán bộ miền núi, cán bộ phụ nữ, v.v. nhằm bồi dưỡng nǎng lực công tác về mọi mặt, đồng thời chú ý chǎm sóc đời sống tinh thần và vật chất để giảm bớt những khó khǎn hiện đang cản trở đến sự tiến bộ và công tác của anh chị em. Đối với cán bộ già yếu, cần có chế độ nghỉ ngơi và bồi dưỡng về tinh thần và vật chất cho chu đáo. Việc bổ sung các chính sách là cần thiết, song điều quan trọng nữa là phải tích cực kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các chính sách ấy một cách đầy đủ.
Phải có một chế độ phân cấp quản lý cán bộ cho rõ ràng; chống quản lý cán bộ một cách quan liêu, hời hợt trên giấy tờ.
Phải chǎm nom đến vấn đề đoàn kết cán bộ. Phải gìn giữ sự đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới, giữa cán bộ xuất thân từ công nông và cán bộ xuất thân từ trí thức, tiểu tư sản, giữa cán bộ người Kinh và cán bộ các dân tộc ít người, giữa cán bộ người ở địa phương và cán bộ ở địa phương khác đến. Cần phải nhận rõ rằng: sự nghiệp cách mạng là của quần chúng nhân dân do Đảng ta lãnh đạo, không phải là của riêng Đảng và cán bộ trong Đảng. Phải đoàn kết cán bộ trong Đảng và cán bộ ngoài Đảng, mạnh dạn đào tạo, đề bạt, sử dụng cán bộ ngoài Đảng, thực hiện đúng khẩu hiệu có chức phải có quyền. Cán bộ ngoài Đảng chiếm số khá đông, có đoàn kết thật sự với cán bộ ngoài Đảng mới làm tròn được nhiệm vụ cách mạng.
Đường lối, chính sách cán bộ trên đây đều áp dụng chung cho cả cán bộ trong Đảng và cán bộ ngoài Đảng; các cấp uỷ Đảng phải chú ý lãnh đạo việc thực hiện cho chặt chẽ. Cần tránh tình trạng khoán trắng cho ban tổ chức các cấp hoặc cho các cơ quan giúp việc quản lý cán bộ của các đơn vị, các ngành. Coi nhẹ công tác cán bộ của Đảng là một sai lầm nguy hiểm trong sự nghiệp xây dựng và củng cố Đảng, cũng như trong việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng.
IV- vấn đề kỷ luật và khen thưởng trong đảng
Đảng ta là một tổ chức chiến đấu, đoàn kết, thống nhất. Mọi đảng viên và tổ chức của Đảng liên kết với nhau theo một kỷ luật chung dựa trên những nguyên tắc thống nhất về tư tưởng và tổ chức, thể hiện trong Điều lệ Đảng. Kỷ luật đó nhằm bảo đảm sự thống nhất và tập trung cao độ trong Đảng, đồng thời cũng là để phát huy dân chủ nội bộ, phát huy tính tích cực và sáng tạo của toàn thể đảng viên và tổ chức của Đảng. Kỷ luật của Đảng là kỷ luật sắt. Nếu không có một kỷ luật nghiêm minh mà toàn Đảng tự nguyện, tự giác tuân theo thì Đảng không thể là một đảng chân chính của giai cấp công nhân, không thể lãnh đạo cách mạng thắng lợi được. Bởi vậy, tǎng cường kỷ luật của Đảng là một nhiệm vụ thường xuyên; nhiệm vụ đó đối với giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay lại càng cấp thiết.
Nhưng tǎng cường kỷ luật của Đảng tuyệt nhiên không phải là để thi hành kỷ luật cho nhiều mà chủ yếu là phải nâng cao được tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức, tinh thần chấp hành chỉ thị, nghị quyết của đông đảo đảng viên và cán bộ của Đảng. Như vậy, sự đoàn kết, thống nhất của Đảng mới được bảo đảm, đường lối, chính sách của Đảng mới được triệt để chấp hành. Do đó, cán bộ, đảng viên càng phát huy được nhiều ưu điểm, càng ít phạm sai lầm và ít bị thi hành kỷ luật.
Nhưng mặt khác, để bảo đảm kỷ luật của Đảng được nghiêm minh, nếu đảng viên hoặc tổ chức của Đảng phạm sai lầm đến mức độ cần phải thi hành kỷ luật thì cần xử trí đúng mức, không nhân nhượng, nể nang, cũng không cường điệu sai lầm, xử trí quá mức. Thi hành kỷ luật như thế nào cho đúng là vấn đề ở đây chúng ta cần quan niệm cho thống nhất.
1. Trước hết, cần nắm vững ý nghĩa giáo dục của việc thi hành kỷ luật trong Đảng. ý nghĩa đó đã được ghi trong Điều lệ cũ của Đảng, không phải bây giờ Đảng ta mới đề ra. Việc thi hành kỷ luật trong Đảng bởi vậy, nói chung đã có tác dụng tích cực. Thế nhưng, không phải mọi nơi, mọi lúc đều không có những lệch lạc này hay lệch lạc khác.
Một số đồng chí trong các cấp uỷ khi thi hành kỷ luật đảng viên, không chú ý làm công tác tư tưởng một cách sâu sắc và tỷ mỷ, thiếu nhẫn nại, kiên trì thuyết phục, thiếu phân tích tính chất sai lầm, làm rõ nguồn gốc sai lầm và vạch rõ phương pháp sửa chữa, sau đó lại không theo dõi, giúp đỡ, tạo điều kiện cho đảng viên phạm lỗi tiến bộ. Trái lại, trong nhiều trường hợp đã tỏ thái độ lãnh đạm, xa lánh, hắt hủi, coi khinh đồng chí đã mắc sai lầm, hoặc có thành kiến với sai lầm của đồng chí đó rất lâu. Thái độ đó chẳng những làm tổn thương đến tình đồng chí, không giúp cho đồng chí phạm sai lầm có cơ hội sửa chữa mà còn làm cho đồng chí phạm sai lầm đó sinh bi quan, tiêu cực, không nhìn thấy phương hướng tiến lên. Chỉ có tình thương yêu đồng chí một cách thiết tha, nắm vững ý nghĩa "trị bệnh cứu người" của việc thi hành kỷ luật thì mới có thể hết lòng hết sức giúp đỡ đồng chí sửa chữa sai lầm. Không làm như vậy là biểu hiện tính đảng chưa thuần, ý thức xây dựng Đảng chưa cao. Chẳng những đối với đồng chí phạm sai lầm còn ở trong Đảng chúng ta phải có thái độ như thế, mà ngay cả với những người đã bị khai trừ ra khỏi Đảng, chúng ta cũng cần phải gần gũi giúp đỡ họ tiến bộ.
Vì ý nghĩa của việc thi hành kỷ luật là để giáo dục đồng chí, giáo dục quần chúng, tǎng cường sức chiến đấu của Đảng, cho nên Đảng ta phản đối mọi khuynh hướng muốn dùng kỷ luật thay cho việc giáo dục, dùng kỷ luật một cách quá đáng để trừng trị đảng viên. Chỉ có kỷ luật đúng mức mới có thể là kỷ luật nghiêm minh. Đấu tranh trong Đảng chủ yếu là đấu tranh tư tưởng trên tình đồng chí, không phải là thổi phồng khuyết điểm, phủ nhận ưu điểm, đấu tranh không thương tiếc, có tính cách để trừng trị đảng viên. Thi hành kỷ luật theo tinh thần đó chỉ có nghĩa là uy hiếp đồng chí phạm sai lầm, uy hiếp các đồng chí khác và quần chúng, dẫn đến thủ tiêu phê bình và tự phê bình, biến kỷ luật tự giác của Đảng thành một thứ hình phạt máy móc, cứng đờ. Như vậy sẽ tổn thương đến đoàn kết trong Đảng, gây tác hại cho sự nghiệp cách mạng. Trong Đảng ta, trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, nhiều nơi đã mắc phải sai lầm đó. Đảng đã ra sức sửa chữa và kỷ luật của Đảng đã được hướng theo ý nghĩa đúng đắn và có tác dụng tốt trong việc giáo dục đảng viên và đoàn kết toàn Đảng. Thế nhưng vẫn có một số đồng chí còn muốn dùng kỷ luật quá mức, có tính cách trừng trị đối với một số đồng chí phạm sai lầm, với ý định để ngǎn ngừa các đồng chí khác không phạm lỗi. Làm như vậy là trái với tinh thần kỷ luật của Đảng, trái với tính chất tự giác gìn giữ kỷ luật của người đảng viên.
Cũng vì ý nghĩa của việc thi hành kỷ luật là để giáo dục đảng viên và quần chúng, tǎng cường sức chiến đấu của Đảng, cho nên Đảng ta phản đối mọi thiên hướng muốn buông lỏng kỷ luật. Trong Đảng hiện nay có một số đồng chí đã phạm sai lầm đến mức độ nghiêm trọng cần phải thi hành kỷ luật, nhưng một số cán bộ và tổ chức của Đảng lại có thái độ nuông chiều; hoặc e ngại, sợ mất đoàn kết, sợ bị thù oán, sợ phạm khuyết điểm trong việc xử lý cán bộ, cho nên không thi hành kỷ luật và không có thái độ đấu tranh cần thiết. Một số đồng chí lại cố vin vào phương châm giáo dục của Đảng, hiểu phương châm đó một cách phiến diện, cho nên đã không kiên quyết dùng những biện pháp kỷ luật về mặt tổ chức trong những trường hợp cần thiết. Nơi nào đã làm như vậy thì chẳng những kỷ luật của Đảng bị lỏng lẻo, đoàn kết nội bộ bị giảm sút mà đồng chí phạm sai lầm lại càng dễ đi sâu vào tội lỗi, làm gương xấu cho đảng viên khác và quần chúng, và đến một lúc nào đó họ đã phải chịu kỷ luật nặng nề hơn. Như vậy vừa không lợi cho đồng chí, vừa có hại cho Đảng. Đó là thái độ tự do, vô trách nhiệm, phủ nhận nhân tố tích cực của việc thi hành kỷ luật, trái với tính tổ chức của Đảng ta. Chúng ta nhất định phải đề cao hơn nữa kỷ luật nghiêm minh của Đảng.
2. Quán triệt mục đích, ý nghĩa của việc thi hành kỷ luật chưa đủ, phải theo phương hướng đúng đắn và bảo đảm đầy đủ tính nghiêm túc và thận trọng trong việc thi hành kỷ luật
Đảng ta đã nhiều lần chỉ rõ phương hướng thi hành kỷ luật song, trong nhiều tổ chức của Đảng còn có hiện tượng thi hành kỷ luật nặng nề, khắt khe đối với những khuyết điểm nhỏ, những khuyết điểm về sinh hoạt, trái lại lại lỏng lẻo đối với những sai lầm thuộc về nguyên tắc và đường lối, chính sách. Phương hướng thi hành kỷ luật như vậy hoàn toàn là không đúng. Bởi vậy, phải nhằm vào những sai lầm lớn thuộc về nguyên tắc và đường lối, chính sách mà thi hành kỷ luật, không nên chỉ nhằm vào những vấn đề vụn vặt trong sinh hoạt, làm cho ý thức của đảng viên đối với tính tổ chức và kỷ luật của Đảng bị ảnh hưởng lệch lạc, người đảng viên sẽ không nhận thức đầy đủ đâu là những vấn đề nguyên tắc cần coi trọng, đâu là những khuyết điểm có tính chất thông thường về sinh hoạt. Cố nhiên những vấn đề thuộc về sinh hoạt thông thường cũng thuộc về đạo đức của người cộng sản, chúng ta không nên bỏ qua. Nhưng đó không phải là những vấn đề cǎn bản, chỉ cần giáo dục, giúp đỡ đồng chí phạm khuyết điểm sửa chữa. Nếu họ không ǎn nǎn hối lỗi đi đến trụy lạc, hủ hoá nghiêm trọng thì việc đó không còn thuộc phạm vi sinh hoạt thông thường nữa, cần có kỷ luật nghiêm khắc, cho đến khai trừ ra khỏi Đảng.
Việc thi hành kỷ luật của Đảng phải cứng rắn về nguyên tắc nhưng về hình thức thì phải hết sức linh hoạt. Đối với những đảng viên phạm sai lầm nghiêm trọng, đã biến chất, không còn có phẩm chất tối thiểu của người đảng viên nữa thì khai trừ đảng tịch. Tuy nhiên đối với những đồng chí tuy phạm sai lầm nghiêm trọng nhưng xét còn có thể để lại trong Đảng để giáo dục, giúp đỡ sửa chữa, đồng thời họ cũng tự nguyện và tích cực sửa chữa thì thi hành kỷ luật đúng mức, nhưng vẫn có thể giữ lại trong Đảng. Còn đối với những phần tử xấu chui vào Đảng để phá hoại, nếu qua điều tra, nghiên cứu đã có cǎn cứ xác đáng thì phải đuổi chúng ra khỏi Đảng. Đó không phải thuộc phạm vi thi hành kỷ luật đảng viên.
Sai lầm trong Đảng có nguồn gốc sâu xa ngoài xã hội, có những cǎn nguyên tư tưởng khác nhau; những hoàn cảnh, mức độ, tính chất của sai lầm và ảnh hưởng của nó trong Đảng và ngoài Đảng cũng khác nhau. Bởi vậy, phải xét rõ hoàn cảnh phạm lỗi, tính chất của sai lầm mà có cách xử trí thích đáng. Chẳng những vì tính chất phức tạp của vấn đề đòi hỏi phải nghiêm túc và thận trọng mà sinh mệnh chính trị của đảng viên cũng đòi hỏi chúng ta phải làm như thế. Bởi vậy, trước khi quyết định kỷ luật, tổ chức của Đảng phải điều tra, nghiên cứu tại chỗ cho rõ ràng sự thực, tập hợp đầy đủ chứng cớ mọi mặt; trên cơ sở đó mà phân tích một cách cụ thể, toàn diện và khách quan, xác định đúng mức độ, tính chất, nguyên nhân, v.v. đồng thời phải phân biệt rõ trách nhiệm của cá nhân hay là trách nhiệm của một tập thể; trong trách nhiệm của tập thể, nhiều trường hợp cũng có trách nhiệm của cá nhân, tuy nhiên, trong những trường hợp đó không nên nhấn mạnh quá đáng đến trách nhiệm của cá nhân. Phải xem xét việc đã qua hay là việc hiện nay, sai lầm khuyết điểm do trình độ hiểu biết thấp kém hay là có ý thức và đã trải qua nhiều lần giáo dục. Phải phân biệt bản chất và hiện tượng, phân biệt vấn đề tư tưởng với vấn đề chính trị, phân biệt vấn đề thuộc về nguyên tắc với vấn đề không thuộc về nguyên tắc, tác hại nhiều hay là ít, v.v.. Lại phải cân nhắc giữa sai lầm khuyết điểm và thành tích, xem xét thái độ tiếp thụ sự giáo dục của Đảng và sửa chữa sai lầm của người phạm kỷ luật như thế nào. Có cân nhắc, xem xét kỹ trên các mặt đó để phân biệt xử trí thì thi hành kỷ luật mới có thể chính xác được.
3. Vì sai lầm khuyết điểm của đảng viên có tính chất và mức độ khác nhau cho nên, cần có những hình thức kỷ luật khác nhau. Dựa trên những quy định của Điều lệ cũ, Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị thêm hình thức khiển trách, coi đó là hình thức kỷ luật thấp nhất; đề nghị bỏ hình thức "cảnh cáo trước quần chúng", vì nếu hiểu là đưa đảng viên ra cảnh cáo trước quần chúng để giáo dục thì không đúng với tính chất giáo dục, còn nếu chỉ hiểu là công bố việc thi hành kỷ luật trước quần chúng thì đối với các hình thức khác khi cần thiết cũng đều có thể công bố. Trước đây có hình thức kỷ luật "hạ tầng công tác". Nhưng chúng ta không thể hạ tầng công tác một đồng chí uỷ viên cấp trên xuống làm một uỷ viên cấp dưới vì cấp uỷ viên một cấp uỷ là do bầu cử mà có. Bởi vậy, bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) còn đề nghị thay hình thức hạ tầng công tác bằng hình thức cách chức trong Đảng. Hình thức ấy sẽ áp dụng đối với những cấp ủy viên phạm sai lầm không còn xứng đáng để trong cấp uỷ và đối với các cán bộ khác phạm sai lầm xét không thể để ở cương vị cũ. Truớc đây có hình thức "khai trừ có thời hạn". Thực tế đã chỉ rõ, với hình thức kỷ luật đó, đảng viên phạm sai lầm ít có điều kiện được tập thể giáo dục để sửa chữa sai lầm. Bởi vậy, đề nghị thay bằng hình thức "lưu lại trong Đảng để giáo dục và xem xét một thời gian" không quá một nǎm. Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) còn đề nghị quy định các hình thức khiển trách, cảnh cáo đối với các tổ chức của Đảng phạm sai lầm khuyết điểm. Những hình thức khác ghi trong Điều lệ trước đây, ngày nay xét thấy không cần thiết.
Những quy định về hình thức kỷ luật ghi trong Điều lệ Đảng phải được chấp hành nghiêm chỉnh. Trong Đảng không có hình thức kỷ luật nào khác. Trước đây đã có hiện tượng lẫn lộn giữa hình thức kỷ luật của Đảng và của Nhà nước; có những hình thức kỷ luật không quy định trong Điều lệ đã được áp dụng vào trong Đảng. Điều đó là không đúng. Những trường hợp đảng viên phạm sai lầm khuyết điểm bị cơ quan Nhà nước thi hành kỷ luật thì tổ chức của Đảng cũng cần có kỷ luật thích đáng về phương diện Đảng; nhưng nếu chỉ là sai lầm thông thường mà xét không cần thiết phải thi hành kỷ luật của Đảng nữa thì cũng không nhất thiết cứ máy móc phải thi hành. Trước đây có hình thức kỷ luật "cắt tuổi Đảng" đối với một số đồng chí phạm khuyết điểm khai báo nặng, hoặc nằm im một thời gian nhưng sau đó lại tiếp tục hoạt động và đã báo cáo rõ với Đảng. Hình thức đó vừa có ý nghĩa thực tiễn là tính lại tuổi Đảng cho đúng với hoạt động thực tế của các đồng chí đó, vừa để nhắc nhở và khuyên rǎn đồng chí không được tái phạm. Từ nay về sau, nếu có những trường hợp như vậy thì tùy theo tính chất, mức độ của từng trường hợp phạm sai lầm, Đảng sẽ có thái độ cần thiết. Nếu cần thi hành kỷ luật thì phải theo đúng quy định của Điều lệ; còn việc tính lại tuổi Đảng thì không xem là hình thức thi hành kỷ luật như trước nữa.
4. Để bảo đảm việc thi hành kỷ luật được chính xác, cần phải theo đúng thủ tục thi hành kỷ luật và tôn trọng đầy đủ quyền dân chủ của đảng viên
Trong Đảng ta, không một cá nhân nào được quyết định thi hành kỷ luật đảng viên; chỉ có một tập thể thích đáng giải quyết thì việc thi hành kỷ luật mới bảo đảm được tính nghiêm túc và thận trọng. Tinh thần đó của Điều lệ cũ đã được nhấn mạnh hơn nữa trong Dự thảo Điều lệ (sửa đổi). Từ trước đến nay, trong nhiều trường hợp, chúng ta đã không tôn trọng những thủ tục thi hành kỷ luật. Trong chương X của bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đã nhấn mạnh đến vai trò của tập thể trong việc thi hành kỷ luật. Chẳng những nhấn mạnh đến quyền hạn của hội nghị chi bộ, của tập thể uỷ ban kiểm tra và các cấp uỷ Đảng mà còn nhấn mạnh đến vai trò của Đại hội đại biểu toàn quốc và các cấp trong những khi cần thiết.
Mặt khác, chương X lại cũng chú trọng bảo đảm cho đồng chí phạm lỗi được sử dụng đầy đủ quyền dân chủ của người đảng viên khi tổ chức của Đảng quyết định kỷ luật đối với họ. Một số không ít tổ chức của Đảng khi họp để quyết định kỷ luật đã không chú ý cho đồng chí phạm khuyết điểm sai lầm đến để trình bày ý kiến, hoặc nếu có cho đến thì cũng không lắng nghe đầy đủ lời bào chữa; hễ người bị kỷ luật cứ một mực nhận lỗi thì cho là thành khẩn, nếu bào chữa thì nhiều khi không phân biệt đúng sai, cứ cho là không tự giác nhận sai lầm. Sau khi quyết định kỷ luật, nếu đảng viên khiếu nại thì xét rất chậm, có khi không xét hoặc không chuyển thư khiếu nại lên cấp trên, thậm chí, trong một số trường hợp, còn đe dọa dùng kỷ luật nặng hơn để uy hiếp, v.v.. Những hiện tượng đó tuy không phải hiện nay còn phổ biến, nhưng chưa phải đã hoàn toàn chấm dứt. Bởi vậy, Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) trong các điều 55 và 56 đã đề nghị những quy định nhằm bảo đảm dân chủ cao độ trong việc thi hành kỷ luật của Đảng.
5. Song song với việc thi hành kỷ luật, Điều lệ Đảng trước đây có quy định việc khen thưởng đảng viên. Những quy định đó đã có tác dụng nhất định. Song với sự trưởng thành của Đảng, với yêu cầu nâng cao hơn nữa tiêu chuẩn đảng viên, việc đó ngày nay xét thấy không cần thiết nữa. Bởi vì, một khi người đảng viên cộng sản hiểu rõ nhiệm vụ của mình, có nhiệt tình cách mạng cao, thì phần thưởng quý giá nhất đối với họ là kết quả của công tác, là sự tín nhiệm của quần chúng nhân dân. Đối với các đồng chí có thành tích, nêu gương cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, được quần chúng mến phục, Đảng sẽ chú ý khuyến khích, biểu dương và phổ biến kinh nghiệm của họ cho các đồng chí khác học tập. Đó là những phần thưởng xứng đáng. Ngoài ra, đảng viên hoạt động trong bộ máy Nhà nước hoặc trong các tổ chức quần chúng, nếu họ cống hiến được nhiều cho sự nghiệp cách mạng thì Nhà nước hoặc các đoàn thể quần chúng sẽ khen thưởng. Bởi vậy, Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị bỏ những quy định về khen thưởng trong Đảng.
Việc bỏ quy định về khen thưởng trong Đảng và làm rõ những vấn đề về kỷ luật của Đảng nhất định sẽ có tác dụng đối với việc nâng cao tính tích cực của đảng viên và bảo đảm cho kỷ luật của Đảng được tǎng cường, đoàn kết, thống nhất trong Đảng ngày càng chặt chẽ.
*
*      *
Thưa các đồng chí,
Bản Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) được thảo luận rộng rãi sôi nổi tại Đại hội các cấp từ chi bộ trở lên, đã được bổ sung nhiều ý kiến quý báu. Điều đó nói lên nhiệt tình của toàn thể đảng viên đối với việc xây dựng Đảng, lực lượng cổ vũ và lãnh đạo toàn dân xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.
Dưới ngọn cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng ta không ngừng được phát triển và củng cố. Mỗi bước trưởng thành của Đảng gắn chặt với bước đường phát triển của cách mạng nước ta, đều chuẩn bị cho những thắng lợi to lớn hơn của cách mạng nước ta.
Việc sửa đổi Điều lệ lần này là một sự kiện lớn trong sinh hoạt của Đảng, phản ánh bước trưởng thành mới của Đảng ta. Bản Điều lệ, sau khi được đại hội thông qua, sẽ là vũ khí sắc bén để củng cố Đảng vững mạnh hơn nữa về tư tưởng và tổ chức, tǎng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng, nâng cao sức chiến đấu và nǎng lực lãnh đạo của Đảng, thắt chặt mối liên hệ ruột thịt giữa Đảng và nhân dân ta.
Được cổ vũ mạnh mẽ bởi những nghị quyết lịch sử của Đại hội lần này, chúng ta hãy ra sức phấn đấu đạt tới những tiến bộ mới trong sự nghiệp xây dựng Đảng, do đó nhất định sẽ thúc đẩy công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, tiến lên giành những thắng lợi rực rỡ.
Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương đứng đầu là đồng chí Hồ Chí Minh, người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta, nhất định toàn Đảng ta sẽ cùng với nhân dân hoàn thành nhiệm vụ vĩ đại mà lịch sử đã giao phó.
Đảng Lao động Việt Nam, người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, muôn nǎm!
- Tình đoàn kết không gì lay chuyển nổi giữa các Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân trên thế giới và giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô vĩ đại đứng đầu, muôn nǎm! 

2. Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, ngày 10-9-1960 

I
Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng nhất trí nhận định rằng, hơn 9 nǎm qua, từ Đại hội lần thứ II đến Đại hội lần này, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi vĩ đại.
Cuộc kháng chiến trường kỳ anh dũng của quân và dân ta đã đánh bại bọn thực dân xâm lược Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Tiếp theo chiến thắng oanh liệt Điện Biên Phủ, chúng ta đã giành được thắng lợi trong việc ký kết Hiệp nghị Giơnevơ, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương, phá tan âm mưu của đế quốc Mỹ kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dương. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã được Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, giai cấp công nhân và nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới nhiệt liệt ủng hộ. Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã củng cố thêm lòng tin tưởng và tự hào của nhân dân ta ở sức đoàn kết chiến đấu của mình và ở sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng.
Thắng lợi của nhân dân ta chứng tỏ rằng trong thời đại ngày nay, một dân tộc thuộc địa nhỏ yếu đoàn kết chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân thì có thể đánh bại bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và tự do thật sự. Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã đặt cơ sở để tiếp tục phát triển sự nghiệp cách mạng của nhân dân cả nước ta.
Ở miền Bắc, sau khi hoàn toàn giải phóng khỏi ách thực dân, chúng ta đã làm xong cuộc cải cách ruộng đất,đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, đưa lại ruộng đất cho nông dân, hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã tiến một bước quan trọng. Chúng ta đã hoàn thành khôi phục kinh tế, hàn gắn những vết thương chiến tranh, đẩy mạnh thực hiện kế hoạch ba nǎm phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển vǎn hóa, và đã đạt được những thành tựu to lớn. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩađối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và đối với công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh đang giành được thắng lợi có tính chất quyết định. Sản xuất nông nghiệp, công nghiệp đang có đà phát triển mạnh; nền kinh tế quốc dân đã đi vào kế hoạch hóa. Sự nghiệp giáo dục vǎn hóa cũng đang phát triển mạnh mẽ; nạn mù chữ đã được cǎn bản xoá bỏ. Đời sống vật chất và vǎn hóa của nhân dân lao động đã được cải thiện một bước.
Hàng ngũ của Đảng được củng cố, mở rộng và ngày càng lớn mạnh. Giác ngộ giai cấp của đảng viên được nâng cao hơn trước. Trải qua thử thách trong khó khǎn, sự đoàn kết nhất trí trong Đảng được giữ vững và tǎng cường. Sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng được kiện toàn thêm, tác phong đi sát quần chúng, đi sát cơ sở có tiến bộ.
Chính quyền dân chủ nhân dân ngày càng kiện toàn, là công cụ đắc lực để thực hiện những nhiệm vụ của chuyên chính vô sản, đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời để đấu tranh củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất Tổ quốc. Quân đội nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã phát huy mạnh mẽ bản chất cách mạng, lập được nhiều thành tích mới trong học tập và công tác, đang tiến bước vững chắc trên con đường chính quy và hiện đại.
Mặt trận dân tộc thống nhất được củng cố; khối liên minh công nông được tǎng cường. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các chính đảng, các đoàn thể trong Mặt trận đã góp phần tích cực vào công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.
Ở miền Nam, cuộc đấu tranh của đồng bào ta chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai Ngô Đình Diệm, tuy gặp nhiều khó khǎn, vẫn được giữ vững và ngày càng phát triển. Nhân dân cả nước một lòng đoàn kết phấn đấu và được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới. Đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng ngày càng bị cô lập.
Thay mặt toàn Đảng, Đại hội toàn quốc lần thứ III nhiệt liệt biểu dương tinh thần đoàn kết chiến đấu anh dũng của quân và dân ta trong kháng chiến, tinh thần đấu tranh cách mạng anh dũng của đồng bào miền Nam chống Mỹ - Diệm, tinh thần lao động cần cù của đồng bào, quân đội và cán bộ ở miền Bắc trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhận định toàn diện những thành quả cách mạng đã giành được, Đại hội kết luận rằng: từ Đại hội lần thứ II đến nay, đường lối của Đảng và sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương do đồng chí Hồ Chí Minh đứng đầu là đúng. Đảng ta tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đã không ngừng đoàn kết và phát triển lực lượng cách mạng trong cả nước, đưa cách mạng đến thắng lợi vẻ vang.
II
Từ khi hòa bình lập lại, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, miền Bắc đang tiến những bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, tǎng cường lực lượng về mọi mặt, trở thành thành trì của cách mạng cả nước. Trong khi đó thì đế quốc Mỹ và bọn Ngô Đình Diệm dựng lên ở miền Nam một chính quyền độc tài và hiếu chiến, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và cǎn cứ quân sự của đế quốc Mỹ. Sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta đang bị chúng cản trở và phá hoại.
Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau.
Đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ tất yếu sau khi đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm cho miền Bắc được ngày càng vững mạnh về mọi mặt thì càng có lợi cho cách mạng giải phóng miền Nam, cho sự phát triển của cách mạng trong cả nước, cho việc gìn giữ và củng cố hòa bình ở Đông Dương, Đông - Nam á và thế giới. Vì vậy, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tiến hành trong khi ở miền Nam phải ra sức tập hợp mọi lực lượng dân tộc và dân chủ, mở rộng và củng cố khối đoàn kết dân tộc, cô lập đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thúc đẩy sự nghiệp đấu tranh củng cố hòa bình, thống nhất Tổ quốc. Vì vậy phương châm tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam.
Trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà, đồng bào ta ở miền Nam có nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng để giải phóng miền Nam. Cuộc đấu tranh cách mạng của đồng bào miền Nam còn có tác dụng ngǎn chặn âm mưu của Mỹ - Diệm gây lại chiến tranh, tích cực góp phần giữ gìn hòa bình ở Đông Dương, Đông - Nam á và thế giới.
Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam hiện nay là: tǎng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tǎng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông - Nam á và thế giới.
III
1. Ở miền Nam, mấy nǎm nay, đế quốc Mỹ và bọn tay sai Ngô Đình Diệm thi hành chính sách ráo riết tǎng cường quân bị, chuẩn bị chiến tranh, khủng bố cực kỳ dã man phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam, nhằm phá hoại độc lập, thống nhất của dân tộc ta, phá hoại Hiệp nghị Giơnevơ, phá hoại hòa bình ở Đông - Nam á và thế giới. Chúng ra sức bóc lột vơ vét, bần cùng hóa các tầng lớp nhân dân ta, làm cho nền kinh tế miền Nam đang suy sụp nghiêm trọng, xã hội miền Nam rối loạn, đời sống của đồng bào ta ở miền Nam vô cùng khốn khổ.
Sống trong cảnh nước sôi lửa bỏng, đồng bào ta ở miền Nam không hề khuất phục, không ngừng giương cao ngọn cờ dân tộc và dân chủ, đoàn kết phấn đấu rất anh dũng. ở khắp nông thôn và thành thị, đồng bằng và miền núi, phong trào đấu tranh chống Mỹ - Diệm, đòi độc lập dân tộc, tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, đòi hòa bình thống nhất Tổ quốc ngày càng lan rộng trong mọi tầng lớp nhân dân ta. Trong binh sĩ và nhân viên chính quyền ở miền Nam ngày càng có nhiều người thấy rõ bộ mặt phi nghĩa cuả Mỹ - Diệm. Mỹ - Diệm càng đàn áp khủng bố thì ngọn lửa cǎm thù và yêu nước ở miền Nam bốc cháy càng cao, nhân dân ta càng đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ làm cho chúng càng bị cô lập; phong trào dân tộc dân chủ miền Nam càng phát triển mạnh mẽ.
2. Chế độ thực dân và nửa phong kiến ở miền Nam là trở lực ngǎn cản sự nghiệp hòa bình, thống nhất của dân tộc ta, là nguồn gốc của mọi nỗi đau đớn, khổ cực của đồng bào ta ở miền Nam. Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Hiện nay, ở miền Nam, mâu thuẫn sâu sắc nhất là mâu thuẫn giữa một bên là nhân dân miền Nam bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản, giai cấp tư sản dân tộc, các tầng lớp và cá nhân yêu nước khác, và một bên là đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng gồm những bọn thân Mỹ phản động nhất trong giai cấp địa chủ và tư sản mại bản. Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông - Nam á và thế giới.
3. Cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam là một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ, phức tạp, kết hợp nhiều hình thức đấu tranh linh hoạt từ thấp đến cao, lấy việc xây dựng, củng cố, phát triển lực lượng cách mạng của quần chúng làm cơ sở. Trong quá trình ấy, phải đặc biệt coi trọng công tác tổ chức và giáo dục nhân dân, trước hết là công nhân, nông dân và trí thức; phải phát huy đến cao độ tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân; phải không ngừng vạch trần những âm mưu và hành động gian ác của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, triệt để phân hóa và cô lập chúng.
Để bảo đảm cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam giành được toàn thắng, đồng bào ta ở miền Nam cần ra sức xây dựng khối công nông binh liên hợp và thực hiện một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống Mỹ - Diệm lấy liên minh công nông làm cơ sở. Mặt trận này phải đoàn kết các giai cấp và các tầng lớp yêu nước, dân tộc đa số, các dân tộc thiểu số, các đảng phái yêu nước và các tôn giáo, và tất cả những người có khuynh hướng chống Mỹ - DiệmMục tiêu phấn đấu của mặt trận này là hòa bình, độc lập dân tộc, tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa bình thống nhất Tổ quốc. Công tác mặt trận phải nhằm đoàn kết tất cả những lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ bất cứ lực lượng nào có thể tranh thủ, trung lập những thế lực cần phải trung lập, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân vào phong trào đấu tranh chung chống Mỹ - Diệm nhằm giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc.
4. Phong trào cách mạng ở miền Nam có một vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp thống nhất nước nhà. Đi đôi với việc ra sức xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta cần ra sức giữ vững và phát triển lực lượng cách mạng ở miền Nam tạo những điều kiện thuận lợi cho việc hòa bình thống nhất nước nhà.
Cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà của nhân dân ta là một cuộc đấu tranh chính nghĩa, chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai phá hoại Hiệp nghị Giơnevơ, là một hiệp nghị quốc tế thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của nước ta. Chính phủ và nhân dân ta kiên quyết giữ vững đường lối hòa bình thống nhất nước nhà, giữ vững Hiệp nghị Giơnevơ. Chúng ta chủ trương thực hiện thống nhất nước nhà từng bước theo tinh thần của Cương lĩnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng dậy đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc.
Đồng bào miền Nam đã từng đứng dậy chống bọn thực dân xâm lược; đã từng vùng lên trong các cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, Ba Tơ; đã cùng đồng bào cả nước tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám và đưa kháng chiến đến thành công, giải phóng hoàn toàn miền Bắc. Cuộc đấu tranh cách mạng của đồng bào ta ở miền Nam hiện nay là sự tiếp tục của những cuộc đấu tranh cách mạng ấy trong những điều kiện lịch sử mới.
Đại hội tin tưởng rằng đồng bào miền Nam sẽ tǎng cường đoàn kết, tiếp tục phát huy truyền thống chiến đấu anh dũng của dân tộc, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, luôn luôn xứng đáng là thành đồng Tổ quốc. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam ta là một; ý chí thống nhất Tổ quốc của nhân dân cả nước ta không bao giờ lay chuyển, cuối cùng chúng ta nhất định sẽ thắng lợi.
IV
1. Từ khi hòa bình được lập lại, miền Bắc nước ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội nhận định rằng: miền Bắc nước ta có đủ điều kiện vượt qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Luận điểm ấy được đề ra trong bản Luận cương chính trị nǎm 1930, ngày nay đang được thực tiễn chứng minh là đúng.
Đường lối chung của Đảng ta trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là:
Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn, truyền thống phấn đấu anh dũng và lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tǎng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, góp phần tǎng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hòa bình ở Đông - Nam á và thế giới.
Muốn đạt mục tiêu ấy, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, vǎn hóa và kỹ thuật; biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, vǎn hóa và khoa học tiên tiến.
2. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt, nhằm đưa miền Bắc nước ta từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ tiến lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ tình trạng kinh tế rời rạc và lạc hậu tiến lên một nền kinh tế cân đối và hiện đại.
Một mặt, cần phải đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm cải tạo những quan hệ sản xuất không xã hội chủ nghĩa thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trong đó mấu chốt là cải biến chế độ sở hữu cá thể và chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thành các hình thức khác nhau của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa để giải phóng sức sản xuất, mở đường cho sức sản xuất phát triển. Mặt khác, cần đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm phát triển sức sản xuất đã được giải phóng, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ tình trạng lạc hậu, cải biến nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, không ngừng phát triển và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới.
Cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội là hai mặt khǎng khít của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta. Do tình hình cụ thể của miền Bắc, trong thời kỳ đầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta lấy cải tạo xã hội chủ nghĩa làm trọng tâm, đồng thời tiến hành một bước việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khi công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã giành được thắng lợi quyết định, chúng ta chuyển sang lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đồng thời hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp là khâu chính của toàn bộ công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Để tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp, chúng ta phải giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho nông dân, kết hợp cải tạo quan hệ sản xuất với cải tiến kỹ thuật. Bước đi của phong trào hợp tác hóa nông nghiệp nói chung là đi từ tổ đổi công lên hợp tác xã sản xuất bậc thấp và hợp tác xã bậc cao, từ hợp tác xã quy mô nhỏ lên hợp tác xã quy mô lớn, đồng thời phát triển những hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng, để biến nông dân cá thể thành nông dân tập thể, biến sản xuất cá thể thành sản xuất tập thể, phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Trong cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp, chúng ta phải luôn luôn nắm vững đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn, trong đó trọng yếu nhất là dựa hẳn vào bần nông và trung nông lớp dưới, đoàn kết chặt chẽ với trung nông; phải luôn luôn nắm vững ba nguyên tắc: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.
Cải tạo thủ công nghiệp theo chủ nghĩa xã hội là tạo điều kiện cơ bản cho thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ theo hướng có lợi cho kinh tế quốc dân và cho thợ thủ công. Con đường hợp tác hóa thủ công nghiệp của ta là thông qua các hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã cung tiêu sản xuất và hợp tác xã sản xuất; kết hợp chặt chẽ việc cải tạo quan hệ sản xuất với việc cải tiến công cụ, tǎng cường thiết bị, cải tiến kỹ thuật sản xuất, cải tiến tổ chức lao động để đưa thủ công nghiệp và thợ thủ công tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với người buôn bán nhỏ, dùng các hình thức tổ hợp tác mua và bán, tổ hợp tác vừa mua bán vừa sản xuất và cửa hàng hợp tác, v.v. để cải tạo họ theo chủ nghĩa xã hội, chuyển dần phần lớn những người buôn bán nhỏ sang sản xuất.
Chúng ta chủ trương dùng phương pháp hòa bình để cải tạo công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh theo chủ nghĩa xã hội, thông qua các hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước, từ bậc thấp như gia công, đặt hàng, kinh tiêu, đại lý... tiến lên bậc cao là xí nghiệp công tư hợp doanh; ngoài ra, còn dùng hình thức xí nghiệp hợp tác. Trong quá trình cải tạo, chúng ta phải kết hợp các biện pháp kinh tế, hành chính và giáo dục, kết hợp cải tạo kinh tế với cải tạo tư tưởng, dần dần xoá bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, làm cho những người tư sản trở thành những người lao động dưới chế độ mới.
Cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một cuộc đấu tranh cách mạng gay go và phức tạp giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa. Muốn cho công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa thắng lợi hoàn toàn thì phải không ngừng tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng trong mọi lĩnh vực, ra sức phát huy quyền lực chính trị và vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước, tích cực phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, cổ vũ tinh thần phấn khởi cách mạng của quần chúng công nhân và nhân dân lao động, đè bẹp mọi âm mưu phá hoại của bọn phản cách mạng.
3. Nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.
Trong nền kinh tế quốc dân, công nghiệp và nông nghiệp là hai bộ phận chủ yếu quan hệ mật thiết với nhau: công nghiệp, trước hết là công nghiệp nặng, giữ vai trò chủ đạo, và nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp. Vì vậy, chủ trương của Đảng ta về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại.
Chúng ta phải xây dựng hệ thống công nghiệp nặng có cơ cấu và quy mô thích hợp với điều kiện và nhu cầu của ta, phù hợp với sự phân công hợp tác giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Công nghiệp nặng của nước ta bao gồm những ngành cần phải xây dựng và có điều kiện xây dựng như: điện lực, luyện kim, chế tạo cơ khí, khai mỏ, vật liệu xây dựng, hóa học, v.v. trong đó ngành chế tạo cơ khí là ngành then chốt.
Đồng thời với việc phát triển công nghiệp nặng, chúng ta phải ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, bảo đảm sản xuất hầu hết những vật phẩm tiêu dùng của nhân dân và sản xuất những hàng xuất khẩu có phẩm chất tốt.
Phương châm xây dựng và phát triển công nghiệp của chúng ta là: kết hợp những xí nghiệp quy mô lớn với những xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ, kết hợp kỹ thuật hiện đại với kỹ thuật thô sơ, kết hợp việc xây dựng những xí nghiệp mới với việc tận dụng những xí nghiệp cũ, kết hợp việc phát triển công nghiệp trung ương với việc phát triển công nghiệp địa phương.
Đối với miền Bắc nước ta, sản xuất nông nghiệp giữ một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Cần phải ra sức phát triển nông nghiệp đi đôi với việc phát triển công nghiệp. Chúng ta chủ trương lấy sản xuất lương thực làm trọng tâm, đồng thời phát triển nông nghiệp một cách toàn diện. Phải ra sức phát huy mọi khả nǎng thuận lợi của nông nghiệp nhiệt đới, tích cực xây dựng hợp tác xã nông nghiệp và mở mang nông trường quốc doanh; phải thực hiện từng bước thủy lợi hóa và cải tạo đất; cải tiến nông cụ và cơ giới hóa từng bước; mở rộng diện tích bằng cách tǎng vụ và khai hoang, đồng thời ra sức thực hiện thâm canh, tǎng nǎng suất.
Đi đôi với việc phát triển công nghiệp và nông nghiệp, cần ra sức phát triển giao thông vận tải để phục vụ kịp yêu cầu của các ngành kinh tế quốc dân, phục vụ yêu cầu củng cố quốc phòng và mở rộng giao thông liên lạc với các nước anh em.
Thương nghiệp giữ một vai trò trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ quá độ. Cần tǎng cường lực lượng của thương nghiệp quốc doanh và của hợp tác xã mua bán, củng cố thị trường xã hội chủ nghĩa thống nhất, thực hiện thu mua và cung cấp có kế hoạch các loại hàng nông sản và hàng công nghiệp chủ yếu. Trên cơ sở phát triển sản xuất, tiếp tục ổn định giá cả một cách vững chắc, điều chỉnh những giá cả chưa hợp lý, ra sức phấn đấu để giảm giá hàng.
Chúng ta có tài nguyên tự nhiên phong phú, sức người dồi dào; chúng ta lại được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác; cho nên chúng ta có điều kiện thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa với tốc độ cao. Để đạt được tốc độ đó, cần phải bảo đảm phát triển cân đối các ngành kinh tế quốc dân, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ; giữa công, nông nghiệp và giao thông vận tải; giữa công, nông nghiệp và các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân.
Phải phân bố hợp lý sức sản xuất ở đồng bằng, trung du và miền núi, điều chỉnh sức người giữa các vùng, quy hoạch từng bước các vùng kinh tế, thực hiện sự phân công phối hợp giữa các vùng kinh tế với nhau.
Phải phát triển và bồi dưỡng lực lượng công nhân và cán bộ xây dựng kinh tế về các mặt chính trị, vǎn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ, tǎng cường việc bảo hộ lao động, đẩy mạnh phong trào thi đua cải tiến kỹ thuật, không ngừng nâng cao nǎng suất lao động, ra sức phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống quan liêu, lãng phí, tham ô.
Đi đôi với phát triển kinh tế, phải kết hợp tǎng cường củng cố quốc phòng, tích cực bảo vệ công cuộc lao động hòa bình ở miền Bắc.
Trong việc phát triển kinh tế, vǎn hóa, chúng ta cần phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng,phù hợp với yêu cầu kinh tế và chính trị của mỗi thời kỳ, vừa bảo đảm phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa của miền Bắc theo tốc độ cao, lại vừa bảo đảm trên cơ sở phát triển sản xuất, cải thiện không ngừng đời sống của nhân dân. Trong sản xuất cũng như trong sinh hoạt, mọi người phải hết sức phát huy tinh thần cần kiệm xây dựng Tổ quốc.
Đối với nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, thì sự giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa là không thể thiếu được, là một nhân tố rất quan trọng. Chúng ta phải sử dụng tốt sự giúp đỡ của các nước anh em, đồng thời phải phát huy đến cao độ tinh thần tự lực cánh sinh để xây dựng một nền kinh tế tự chủ và phải góp phần tích cực của ta vào sự hợp tác với các nước anh em.
4. Đi đôi với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, cần phải đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, vǎn hóa và kỹ thuật.
Mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng là làm cho tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống tinh thần của nước ta và trở thành hệ tư tưởng của toàn dân, trên cơ sở đó mà xây dựng đạo đức mới của nhân dân ta.
Mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về vǎn hóa và kỹ thuật là làm cho nhân dân lao động có trình độ vǎn hóa ngày càng cao, nắm được những hiểu biết cần thiết về khoa học và kỹ thuật, và áp dụng được những hiểu biết đó vào việc xây dựng một nền vǎn hóa, khoa học và kỹ thuật tiên tiến, thiết thực phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao không ngừng đời sống vật chất và vǎn hóa của nhân dân ta.
Để đạt được những mục tiêu nói trên của cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, vǎn hóa và kỹ thuật, cần phải đẩy mạnhcông tác giáo dục và đấu tranh tư tưởng, nhằm phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, nâng cao không ngừng trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa, tinh thần yêu nước, ý chí thống nhất Tổ quốc và ý thức làm chủ nước nhà của nhân dân ta, chống lại mọi biểu hiện của tư tưởng tư sản, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, tiếp tục xoá bỏ mọi tàn tích của tư tưởng phong kiến và những tư tưởng sai lầm khác.
Công tác giáo dục phải được phát triển theo quy mô lớn nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ nước nhà, có giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có vǎn hóa và kỹ thuật, có sức khoẻ, nhằm phục vụ đắc lực cho việc đào tạo cán bộ và nâng cao trình độ vǎn hóa của nhân dân lao động. Công tác giáo dục phải phục vụ đường lối và nhiệm vụ cách mạng của Đảng, phải kết hợp giáo dục với lao động sản xuất, kết hợp lý luận với thực tế, giáo dục nhà trường với giáo dục của xã hội.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu và phổ biến khoa học và kỹ thuật một cách có trọng điểm, có từng bước vững chắc, nhằm phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh, phục vụ quốc phòng. Ra sức đào tạo cán bộ khoa học và xây dựng các cơ sở nghiên cứu khoa học cần thiết, kết hợp với việc phổ biến rộng rãi những hiểu biết khoa học và kỹ thuật trong đông đảo quần chúng, thúc đẩy phong trào thi đua cải tiến kỹ thuật, sáng chế phát minh. Mở rộng sự hợp tác với các nước anh em trong việc nghiên cứu khoa học, kỹ thuật.
Phát triển nền vǎn nghệ mới với nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc. Nắm vững phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, phấn đấu để có thêm nhiều tác phẩm phản ánh chân thật cuộc sống mới, con người mới, góp phần giáo dục và động viên nhân dân đấu tranh cho cách mạng xã hội chủ nghĩa và cho sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Báo chí, xuất bản, thông tin, truyền thanh, điện ảnh và các công tác vǎn hóa khác phải thật sự trở thành vũ khí ngày càng sắc bén của giai cấp công nhân trên mặt trận tư tưởng và chính trị. Cần ra sức nâng cao tính tư tưởng, tính chiến đấu, tính quần chúng của các công tác đó. Chú trọng công tác thư viện, bảo tồn bảo tàng.
Tiếp tục phát triển phong trào vệ sinh phòng bệnh và phong trào thể dục thể thao yêu nước, dần dần thanh toán các bệnh dịch và các bệnh nhân dân thường mắc, nhằm nâng cao không ngừng sức khoẻ của nhân dân. Kết hợp Tây y với Đông y. Chǎm lo cải thiện điều kiện ǎn ở, làm việc của nhân dân ta, chú trọng bảo vệ sức khoẻ của các bà mẹ và trẻ em.
5. Trên cơ sở những thành tựu to lớn về cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển vǎn hóa đã giành được, cǎn cứ vào đường lối chung do Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng đã thông qua, Ban Chấp hành Trung ương có nhiệm vụ định ra kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất (1961-1965)nhằm mục tiêu phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Sau đây là những nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất:
a) Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, phát triển công nghiệp nhẹ, phát triển giao thông vận tải, tǎng cường thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã, chuẩn bị cơ sở để tiến lên, biến nước ta thành một nước công nghiệp và nông nghiệp xã hội chủ nghĩa.
b) Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh, tǎng cường mối quan hệ giữa sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
c) Nâng cao trình độ vǎn hóa của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ xây dựng kinh tế và công nhân lành nghề, nâng cao nǎng lực quản lý kinh tế của cán bộ, công nhân và nhân dân lao động, đẩy mạnh công tác khoa học và kỹ thuật, đẩy mạnh thǎm dò tài nguyên thiên nhiên và điều tra cơ bản, nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và vǎn hóa.
d) Cải thiện đời sống vật chất và vǎn hóa của nhân dân thêm một bước, làm cho nhân dân ta được ǎn no, mặc ấm, tǎng thêm sức khoẻ, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.
đ) Đi đôi và kết hợp với việc phát triển kinh tế, cần ra sức củng cố quốc phòng, tǎng cường trật tự an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Nǎm nhiệm vụ nói trên liên hệ chặt chẽ với nhau và đều nhằm tǎng cường lực lượng mọi mặt của miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành cơ sở ngày càng vững chắc của nhân dân cả nước trong cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
6. Để bảo đảm thực hiện những mục tiêu và những phương hướng cơ bản đã đề ra trong đường lối chung, đi đôi với việc tǎng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, cần phải tǎng cường Nhà nước dân chủ nhân dân, củng cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân; tǎng cường sự đoàn kết hợp tác với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước dân tộc chủ nghĩa, với nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Nhà nước dân chủ nhân dân ở miền Bắc trong giai đoạn hiện nay là công cụ chủ yếu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng trên mọi mặt trận, giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội và thống nhất nước nhà.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước dân chủ nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập dân tộc, đập tan mọi hành động phá hoại, khiêu khích và xâm lược của bọn Mỹ - Diệm, trừng trị bọn phản cách mạng tay sai của chúng ở miền Bắc, đấu tranh để thi hành đúng đắn Hiệp nghị Giơnevơ, thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc. Nhà nước dân chủ nhân dân có nhiệm vụ tiến hành công tác giáo dục, tổ chức và hướng dẫn nhân dân thực hiện sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng và củng cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân.
Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm mọi quyền lợi của nhân dân, không ngừng mở rộng dân chủ, thi hành đúng Hiến pháp và các luật lệ đã ban hành, xây dựng pháp chế xã hội chủ nghĩa và giáo dục mọi người tôn trọng pháp luật; phát huy tinh thần làm chủ, nâng cao trình độ chính trị, vǎn hóa của nhân dân.
Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên cơ sở liên minh công nông và được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân, phải thực hành chuyên chính với bọn phản cách mạng, nghiêm trị những kẻ chống lại cách mạng xã hội chủ nghĩa và công cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Phải kiện toàn cơ quan công an nhân dân; toà án nhân dân, cơ quan kiểm sát nhân dân, giáo dục nhân dân nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng; động viên và tổ chức quần chúng tích cực tham gia giữ gìn trật tự trị an, đấu tranh nhằm trừng trị bọn phản cách mạng và cải tạo những phần tử lạc hậu.
Quân đội nhân dân là lực lượng trụ cột của Nhà nước để bảo vệ độc lập của Tổ quốc, bảo vệ công cuộc lao động hòa bình của nhân dân ở miền Bắc, đồng thời là hậu thuẫn vững chắc của cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Phải tǎng cường củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội thường trực tiến lên chính quy và hiện đại, củng cố lực lượng công an nhân dân vũ trang, đồng thời phải chǎm lo củng cố và phát triển dân quân tự vệ, xây dựng lực lượng hậu bị.
Củng cố và tǎng cường các cơ quan Nhà nước, phát huy vai trò của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, động viên quần chúng tham gia quản lý Nhà nước, xây dựng kinh tế, phát triển vǎn hóa. Tǎng cường các cơ quan của Nhà nước ở các cấp, trước hết là các cơ quan quản lý kinh tế, quản lý kế hoạch Nhà nước, bổ sung cho những cơ quan ấy những cán bộ có nǎng lực và có tinh thần trách nhiệm cao. Thi hành đúng chế độ tập trung dân chủ trong sinh hoạt của các cơ quan Nhà nước. Tǎng cường sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của Chính phủ trung ương, thực hiện tốt việc phân cấp quản lý, phát huy tính sáng tạo của các cấp, các ngành.
Nhà nước dân chủ nhân dân phải đặc biệt chú ý tǎng cường sự liên hệ với quần chúng nhân dân, ra sức khắc phục tệ quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng. Tất cả cán bộ của Nhà nước bất kỳ ở cương vị công tác nào, đều phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân, cần kiệm liên chính, chí công vô tư.
7. Sau khi hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, tình hình các giai cấp trong xã hội miền Bắc sẽ có sự thay đổi cǎn bản. Cơ sở xã hội mới ở miền Bắc sẽ là sự liên minh giữa giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, chủ yếu là giữa công nhân và nông dân tập thể. Để củng cố và phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa, phải củng cố cơ sở xã hội mới ấy, thực hiện sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân.
Giai cấp công nhân ở miền Bắc nước ta đã phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của mình, đi tiên phong trong công cuộc khôi phục, phát triển và cải tạo kinh tế. Đảng phải tǎng cường giáo dục cho công nhân không ngừng nâng cao ý thức về vai trò tiên phong, trách nhiệm lãnh đạo của giai cấp công nhân và nghĩa vụ liên minh đối với nông dân lao động, nâng cao trình độ vǎn hóa và kỹ thuật, làm cho giai cấp công nhân phát huy đầy đủ vai trò của mình trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nâng cao vị trí của công đoàn trong mọi mặt hoạt động xã hội theo đúng luật công đoàn, làm cho công đoàn thật sự trở thành trường học quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước, trường học của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Nông dân là lực lượng cách mạng to lớn ở nước ta, Đảng và Nhà nước phải không ngừng tǎng cường lãnh đạo, tổ chức và giáo dục cho nông dân tiến mạnh trên con đường hợp tác hóa, phát triển sản xuất, làm cho nông dân miền Bắc nước ta vĩnh viễn thoát khỏi nghèo đói và lạc hậu, xây dựng đời sống ấm no và hạnh phúc. Các chính sách đối với nông dân phải chiếu cố thích đáng lợi ích trước mắt kết hợp với lợi ích lâu dài. Phát huy lực lượng cách mạng to lớn của nông dân, củng cố vững chắc khối liên minh công nông.
Đối với thợ thủ công và những người buôn bán nhỏ đã được tổ chức, cần tiến hành giáo dục tư tưởng và đấu tranh chống những tư tưởng và tập quán xấu của xã hội cũ; giúp họ không ngừng cải tiến quản lý sản xuất, cải tiến kỹ thuật và cải tiến kinh doanh.
Công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có một đội ngũ trí thức lớn mạnh, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa xã hội. Đảng và Nhà nước phải giúp đỡ những người trí thức yêu nước cải tạo và nâng cao tư tưởng, ra sức đào tạo những người trí thức mới xuất thân từ công nông, làm cho hàng ngũ trí thức của giai cấp công nhân ngày càng đông đảo, phát huy vai trò tích cực của những người trí thức trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Thanh niên nước ta đã nêu cao tinh thần hy sinh anh dũng trong kháng chiến và trong lao động hòa bình. Thanh niên là lớp người đang xây dựng chủ nghĩa xã hội và sẽ xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở nước ta. Phải giáo dục và rèn luyện thế hệ trẻ thành những chiến sĩ trung thành với Tổ quốc, với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, động viên thanh niên đem hết nhiệt tình của tuổi trẻ tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải củng cố và phát triển mạnh mẽ Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam. Coi trọng hơn nữa việc tổ chức và giáo dục thiếu niên và nhi đồng.
Phụ nữ nước ta là một lực lượng quan trọng trong cách mạng và sản xuất. Đảng ta có trách nhiệm lớn đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ và phát huy nǎng lực dồi dào của phụ nữ để xây dựng xã hội mới. Cần bồi dưỡng tư tưởng, nâng cao trình độ chính trị, vǎn hóa của phụ nữ, giúp phụ nữ giảm nhẹ dần gánh nặng gia đình để tham gia sản xuất và hoạt động xã hội, sử dụng hợp lý sức lao động của phụ nữ, do đó mà nâng cao không ngừng vai trò của phụ nữ trong sản xuất và quản lý Nhà nước. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam phải đoàn kết hơn nữa tất cả các tầng lớp phụ nữ, giáo dục và cổ vũ phụ nữ ra sức phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng.
Sau khi hoàn thành việc thực hiện công tư hợp doanh, các người tư sản bắt đầu đi vào con đường làm ǎn chính đáng, Đảng và Nhà nước cần giáo dục họ tiếp tục cải tạo để trở thành những người lao động của chế độ mới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, các dân tộc đa số và thiểu số có một truyền thống đoàn kết anh em, Đảng và Nhà nước cần phải có kế hoạch toàn diện và lâu dài phát triển kinh tế và vǎn hóa ở miền núi, củng cố và xây dựng các khu vực tự trị, làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, các dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc đa số, giúp các dân tộc phát huy tinh thần cách mạng và khả nǎng to lớn của mình. Trong cán bộ cũng như trong nhân dân, cần khắc phục tư tưởng dân tộc lớn và tư tưởng dân tộc hẹp hòi, đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với đồng bào các tôn giáo, chính sách trước sau như một của Đảng và Nhà nước là tôn trọng tự do tín ngưỡng, đoàn kết tất cả những người yêu nước và tiến bộ trong các tôn giáo, đoàn kết đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo để cùng nhau phục vụ sự nghiệp giải phóng hoàn toàn đất nước, xây dựng hạnh phúc chung.
Đối với những kiều bào về nước, cần sắp xếp công việc làm ǎn để kiều bào góp phần tích cực xây dựng Tổ quốc.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đoàn kết các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước và tán thành chủ nghĩa xã hội, nhờ đó đã động viên mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ của dân tộc để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Chúng ta cần phải không ngừng tǎng cường công tác mặt trận. Đối với Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam đã đóng vai trò tích cực trong Mặt trận, Đảng ta luôn luôn đoàn kết thân ái, hợp tác lâu dài, để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
8. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào quốc tế đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc và hòa bình thế giới.
Sự phát triển của tình hình thế giới ngày càng chứng tỏ những luận điểm nêu lên trong bản Tuyên bố và bản Tuyên ngôn hòa bình Mátxcơva nǎm 1957 là hoàn toàn đúng.
Ngày nay, lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu về nhiều mặt đã mạnh hơn lực lượng của chủ nghĩa đế quốc và trở thành nhân tố quyết định trong sự phát triển của tình hình thế giới. Phong trào giải phóng dân tộc của châu á, châu Phi và châu Mỹ latinh đang phát triển mạnh mẽ. Phong trào công nhân và nhân dân lao động trong các nước tư bản chủ nghĩa ngày càng phát triển. Phong trào đấu tranh bảo vệ hòa bình, chống nguy cơ chiến tranh mới, đòi cấm vũ khí nguyên tử và vũ khí hạt nhân, đòi giải trừ quân bị, v.v. ngày càng lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân trên thế giới.
Lực lượng so sánh trên phạm vi toàn thế giới ngày nay đã thay đổi cǎn bản: lực lượng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình thế giới đã mạnh hơn hẳn lực lượng của đế quốc hiếu chiến. Tình hình đó đã tạo ra khả nǎng thực tế ngǎn ngừa chiến tranh thế giới mới, và khả nǎng ấy đang ngày càng tǎng thêm. Nhưng còn chủ nghĩa đế quốc thì nguy cơ chiến tranh vẫn còn. Bọn đế quốc hiếu chiến do Mỹ cầm đầu vẫn ngoan cố tiếp tục chạy đua vũ trang, lập cǎn cứ quân sự ở nước ngoài, tǎng cường các khối liên minh quân sự xâm lược, tiếp tục chính sách xâm lược và chính sách gây chiến của chúng. Cho nên, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới cần phải không ngừng nâng cao cảnh giác, nỗ lực hơn nữa trong công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc gây chiến, bảo vệ và củng cố hòa bình, xem đó là nhiệm vụ hàng đầu của mình.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của chúng ta là một nước xã hội chủ nghĩa có một vị trí quan trọng ở Đông Dương và Đông - Nam Á. Chúng ta có nhiệm vụ góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh chung cho chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc và hòa bình thế giới.
Nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại của Chính phủ ta là:
a) Ra sức góp phần tǎng cường lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu, tǎng cường sự đoàn kết nhất trí và củng cố tình hữu nghị không gì lay chuyển nổi giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa anh em; phát triển quan hệ tương trợ hợp tác với các nước anh em theo những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
b) Kiên quyết cùng các nước anh em và nhân dân yêu chuộng hòa bình và tiến bộ trên thế giới tiếp tục chung sức đấu tranh để bảo vệ và củng cố hòa bình; chống lại chính sách xâm lược và chính sách gây chiến của đế quốc Mỹ, thực hiện chung sống hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau; thực hiện giải trừ quân bị toàn diện và triệt để và cấm vũ khí nguyên tử và hạt nhân, thủ tiêu các cǎn cứ quân sự ở nước ngoài và các khối quân sự xâm lược, tiến tới thành lập hệ thống an ninh tập thể ở châu Âu và châu á.
c) Ra sức ủng hộ phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và giành độc lập dân tộc của nhân dân các nước châu á, châu Phi và châu Mỹ latinh. Tǎng cường quan hệ hữu nghị với các nước dân tộc chủ nghĩa, phát triển sự hợp tác kinh tế và vǎn hóa với các nước đó trên cơ sở nǎm nguyên tắc chung sống hòa bình và tinh thần Hội nghị Bǎngđung.
Chúng ta hoan nghênh và ủng hộ đường lối hòa bình trung lập của Campuchia và sẽ tǎng cường hơn nữa quan hệ hữu nghị với Vương quốc Campuchia.
Chúng ta ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Lào nhằm thực hiện đường lối hòa bình trung lập thật sự và hòa hợp dân tộc và mong muốn xây dựng quan hệ hữu nghị với Vương quốc Lào.
Đối với tất cả các nước khác, chúng ta sẵn sàng đặt quan hệ hữu nghị trên cơ sở bình đẳng và hai bên cùng có lợi.
d) Kiên quyết đấu tranh làm cho Hiệp nghị Giơnevơ về Đông Dương được thi hành đầy đủ nhằm duy trì hòa bình ở Đông Dương và Đông - Nam Á.
đ) Đi đôi với việc xây dựng và tǎng cường quan hệ giữa Chính phủ ta và Chính phủ các nước, cần mở rộng quan hệ hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước.
V
1. Sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta cần phải tǎng cường sự lãnh đạo đối với công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, và đối với cuộc đấu tranh nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà. Muốn thế, cần phải tǎng cường tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng,tǎng cường sức chiến đấu của Đảng và phải quán triệt yêu cầu ấy trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng.
Sự đoàn kết nhất trí trong Đảng là điều kiện cơ bản để đoàn kết toàn dân, phát huy nǎng lực cách mạng của quần chúng nhân dân, đưa cách mạng tới thắng lợi. Chúng ta phải ra sức phát huy truyền thống đoàn kết, nhất trí của Đảng trên cơ sở của chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối chính sách, nguyên tắc tổ chức của Đảng, đấu tranh chống những tư tưởng không vô sản trong Đảng.
Là một bộ phận của phong trào cộng sản quốc tế lớn mạnh, Đảng ta cố gắng góp phần tǎng cường sự đoàn kết nhất trí giữa các đảng cộng sản và đảng công nhân, trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản và những nguyên tắc đã nêu ra trong các bản Tuyên bố và bản Tuyên ngôn hòa bình Mátxcơva nǎm 1957, tích cực đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, kiên quyết chống chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa giáo điều.
2. Nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin của cán bộ và đảng viên là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của công tác xây dựng Đảng. Cần phải tǎng cường giáo dục lý luận cho toàn thể cán bộ và đảng viên, trước hết là đối với cán bộ cao cấp và trung cấp, để cho cán bộ và đảng viên nắm được những hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác – Lênin, và biết áp dụng những hiểu biết ấy để giải quyết những vấn đề cụ thể của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và của cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Mở rộng và kiện toàn hệ thống trường Đảng ở các cấp, đào tạo giảng viên lý luận. Xây dựng đội ngũ những người công tác lý luận và tǎng cường công tác nghiên cứu lý luận của Đảng; phát triển việc phiên dịch các loại sách lý luận kinh điển và việc biên soạn những loại sách lý luận phổ thông; cải tiến chế độ học tập tại chức cho cán bộ, đảng viên và động viên mọi người tích cực học tập. Trong việc lãnh đạo học tập lý luận, phải thấu suốt phương châm lý luận liên hệ với thực tiễn.
Tổng kết kinh nghiệm là một phương pháp hết sức quan trọng để nâng cao trình độ lý luận và nǎng lực công tác của cán bộ, đảng viên. Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương tổ chức việc tổng kết kinh nghiệm hơn 30 nǎm lãnh đạo cách mạng của Đảng, tổ chức viết cuốn Lịch sử Đảng và định ra chế độ tổng kết kinh nghiệm từ nay về sau.
Phải thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình ở trong Đảng, nhất là phê bình từ dưới lên, nhằm mục đích nâng cao tư tưởng, cải tiến công tác, phát huy các ưu điểm và kịp thời khắc phục các khuyết điểm, sai lầm.
Phương hướng công tác tư tưởng trong Đảng là bồi dưỡng tư tưởng vô sản, chống ảnh hưởng của tư tưởng tư sản, chống tư tưởng tiểu tư sản, tiếp tục xoá bỏ tàn tích của tư tưởng phong kiến và tư tưởng không vô sản khác. Khi tiến hành công tác tư tưởng, phải cǎn cứ vào yêu cầu cụ thể của nhiệm vụ cách mạng, vào tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên mà áp dụng cho thích hợp.
3. Để cải tiến công tác lãnh đạo của Đảng, phải tổ chức công tác lãnh đạo theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Kiện toàn cơ quan lãnh đạo ở các cấp, tǎng cường sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương và sự lãnh đạo toàn diện của các cấp uỷ, khắc phục hiện tượng phân tán, và chống lối tập trung quan liêu. Các cơ quan lãnh đạo và cán bộ phụ trách phải đi sâu vào công tác thực tế, nắm vững những nhiệm vụ công tác quan trọng, đồng thời giữ vững sự lãnh đạo toàn diện; tǎng cường công tác chỉ đạo thực hiện.
Các cấp uỷ Đảng cần phải thực hiện đúngchế độ lãnh đạo tập thể, kết hợp với phân công phụ trách và những nguyên tắc sinh hoạt của Đảng. Các cơ quan chuyên môn của Ban Chấp hành Trung ương và của các cấp uỷ Đảng phải được tǎng cường về chất lượng để giúp Trung ương và các cấp uỷ một cách đắc lực trong việc nắm tình hình và quyết định chính sách, chủ trương. Khắc phục tình trạng tổ chức cồng kềnh, phân tán và lề lối làm việc quan liêu luộm thuộm, chậm chạp; làm cho tổ chức gọn nhẹ, giảm bớt những cấp trung gian không cần thiết; phát huy tác phong khẩn trương, hoạt bát; kiện toàn và tǎng cường tổ chức cho các cấp và các ngành cần thiết.
4. Tǎng cường sự liên hệ giữa Đảng và quần chúng. Cán bộ và đảng viên phải bồi dưỡng tác phong đi đường lối quần chúng, chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Phải quy định chế độ cho cán bộ các cấp đi sát thực tế và quần chúng, thường đi xuống cơ sở điều tra, nghiên cứu tình hình thực tế, học tập và tổng kết kinh nghiệm của quần chúng. Kịp thời giải quyết những đề nghị hợp lý của quần chúng. Tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các đoàn thể quần chúng, phát huy vai trò tích cực của các đoàn thể ấy trong việc vận động quần chúng thực hiện đường lối chính sách của Đảng và phản ánh với Đảng nguyện vọng và ý kiến của quần chúng.
5. Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, không ngừng tǎng cường lực lượng cán bộ là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đảng ta. Đường lối công tác cán bộ của Đảng là chú trọng lựa chọn, bồi dưỡng và cất nhắc cán bộ trong những người ưu tú xuất thân từ công nhân và nông dân, đồng thời lựa chọn, bồi dưỡng và cất nhắc cán bộ trong những người ưu tú xuất thân từ trí thức có liên hệ chặt chẽ với công nông, một lòng một dạ phục vụ công nông.
Đi đôi với việc tǎng cường giáo dục chính trị và tư tưởng, phải chú trọng bổ túc vǎn hóa và nâng cao trình độ hiểu biết về kinh tế, khoa học, kỹ thuật và nghiệp vụ cho cán bộ. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các dân tộc, cán bộ người miền Nam, cán bộ phụ nữ và phát huy nǎng lực và tác dụng của cán bộ trẻ. Bồi dưỡng nǎng lực công tác về mọi mặt, đồng thời có chính sách thích đáng sǎn sóc cán bộ xã.
6. Để đáp ứng những yêu cầu mới của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đang được tiến hành mạnh mẽ trên toàn miền Bắc nước ta, cần phải hết sức quan tâm đến việc củng cố các tổ chức cơ sở của Đảng, và phải thường xuyên làm công tác phát triển Đảng, đặc biệt chú trọng phát triển Đảng trong công nhân. Các tổ chức cơ sở, các chi bộ của Đảng phải là những đơn vị lãnh đạo và chiến đấu, trực tiếp thực hiện công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng viên phải nêu cao vai trò gương mẫu trong công tác hàng ngày của mình. Ra sức bồi dưỡng cho các tổ chức cơ sở của Đảng ở nông thôn, xí nghiệp và các nơi khác có nǎng lực lãnh đạo toàn diện, nhất là lãnh đạo sản xuất.
Các tổ chức cơ sở của Đảng phải thật sự lãnh đạo chi đoàn thanh niên lao động thực hiện đường lối chính sách của Đảng.
*
* *
Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng ta là một sự kiện rất quan trọng trong sinh hoạt chính trị của Đảng và nhân dân ta. Đại hội này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà. Đại diện cho ý chí của toàn Đảng, Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua đường lối và nhiệm vụ cách mạng của Đảng trong giai đoạn mới. Thực hiện thắng lợi những nhiệm
vụ và đường lối cách mạng do Đại hội thông qua, tức là hoàn thành những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Cuộc đấu tranh cách mạng và xây dựng cuộc sống mới của nhân dân ta tiến hành trong hoàn cảnh lịch sử thuận lợi, nhưng con đường dẫn tới thắng lợi cuối cùng vẫn còn nhiều khó khǎn, gian khổ. Toàn Đảng và toàn dân ta phải đoàn kết nhất trí, phát huy cao độ truyền thống đấu tranh anh dũng và lao động cần cù, ra sức khắc phục khó khǎn, đánh bại mọi âm mưu và hành động của địch, bảo vệ và phát triển những thành quả cách mạng, trước mắt là phấn đấu thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất và đẩy mạnh cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà. Những thắng lợi đã giành được vô cùng to lớn, nhưng so với toàn bộ nhiệm vụ cách mạng còn phải tiếp tục thì những thắng lợi đó mới là những bước đầu trên con đường nghìn dặm. Toàn Đảng ta cần phải nhận rõ nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang của mình. Mỗi đảng viên cần phải ra sức thi đua, gương mẫu trong mọi công tác, không ngừng bồi dưỡng tính chiến đấu anh dũng của người cộng sản để làm tròn nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, đứng đầu là đồng chí Hồ Chí Minh, toàn Đảng và toàn dân ta hãy tǎng cường đoàn kết, anh dũng tiến lên dưới ngọn cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác-Lênin. 

3. Danh sách các đồng chí trúng cử Ban Chấp hành Trung ương khóa III (trích Báo cáo kết quả cuộc bầu cử Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, ngày 10-9-1960) 

Đại hội toàn quốc lần thứ III 
Kết quả cuộc bầu ban chấp hành trung ương
(Đây là kết quả cuộc bầu chính thức ngày 10 tháng 9 nǎm 1960 tiếp theo Báo cáo kết quả cuộc bầu thử ngày 26 và 27-8-1960)
Đại hội quyết định bầu Ban Chấp hành Trung ương 78 đồng chí, gồm 47 chính thức và 31 dự khuyết. Chủ tịch đoàn giới thiệu 78 đồng chí, các đoàn giới thiệu thêm 11 đồng chí, tất cả có 89 đồng chí được đề cử.
1. Kết quả cuộc bầu 47 đồng chí Trung ương uỷ viên chính thức
Trong Đại hội có 525 đại biểu
Số đại biểu vắng mặt 7
Số đại biểu bỏ phiếu 518
Số phiếu không hợp lệ 16
Số phiếu hợp lệ 502
Kết quả 47 đồng chí được Chủ tịch đoàn giới thiệu đều trúng cử.
Trong đó có 9 đồng chí được 100% số phiếu hợp lệ.
31 đồng chí - 95% - trở lên
6 - - 90% - -
1 - - 79% số phiếu hợp lệ (ít nhất)
Cụ thể như sau:
STT
Họ và tên
1
Hồ Chí Minh
2
Lê Duẩn
3
Võ Nguyên Giáp
4
Phạm Hùng
5
Nguyễn Duy Trinh
6
Nguyễn Chí Thanh
7
Tôn Đức Thắng
8
Chu Vǎn Tấn
9
N.V.C (Nam Bộ)*
10
Trường Chinh
11
Phạm Vǎn Đồng
12
Nguyễn Lương Bằng
13
Vǎn Tiến Dũng
14
Nguyễn Vǎn Trân
15
Song Hào
16
P.V.Đ (Nam Bộ)**
17
P.V.X (Nam Bộ)***
18
Trần Tử Bình
19
Lê Thanh Nghị
20
Tố Hữu
21
Xuân Thuỷ
22
Ung Vǎn Khiêm
23
Lê Vǎn Lương
24
Nguyễn Thị Thập
25
V.T (LK5)*
26
Lê Đức Thọ
27
Trần Quốc Hoàn
28
Hoàng Anh
29
Đỗ Mười
30
Hoàng Quốc Việt
31
Hoàng Vǎn Hoan
32
Lê Hiến Mai
33
Lê Quảng Ba
34
Trần Lương
35
Nguyễn Côn
36
Hà Huy Giáp
37
Bùi Quang Tạo
38
Trần Hữu Dực
39
Nguyễn Lam
40
Nguyễn Khang
41
Hà Thị Quế
42
Hoàng Vǎn Thái
43
Chu Huy Mân
44
Võ Thúc Đồng
45
Nguyễn Vǎn Kỉnh
46
Lê Quốc Thân
47
Phan Trọng Tuệ
2. Kết quả cuộc bầu 31 đồng chí Trung ương uỷ viên dự khuyết
Trong Đại hội có 525 đại biểu chính thức
Số đại biểu vắng mặt 7
Số đại biểu bỏ phiếu 518
Số phiếu không hợp lệ 2
Số phiếu hợp lệ 516
Kết quả 31 đồng chí được Chủ tịch đoàn giới thiệu đều trúng cử.
Trong đó có 2 đồng chí được 100% số phiếu hợp lệ
7 - 99% - trở lên
13 - 95% - trở lên
9 - 85,8% - trở lên
Đồng chí ít phiếu nhất được 85,8%
Cụ thể như sau:
STT
Họ và tên
1
P.T.B (Nam Bộ)*
2
V.V.K (Nam Bộ)**
3
L.T.T (Nam Bộ)***
4
Lê Quang Đạo
5
Trần Độ
6
Lý Ban
7
Lê Liêm
8
Nguyễn Hữu Mai
9
Nguyễn Đôn
10
Bùi Công Trừng
11
Ngô Minh Loan
12
Trần Quang Huy
13
Trần Danh Tuyên
14
Nguyễn Vǎn Lộc
15
Nguyễn Thanh Bình
16
Hoàng Tùng
17
Nguyễn Thọ Chân
18
Nguyễn Khai
19
Trần Vǎn Trà
20
Nguyễn Trọng Vĩnh
21
Hoàng Vǎn Kiểu
22
Hà Kế Tấn
23
Lê Hoàng
24
Lê Thành
25
Trần Quý Hai
26
Nguyễn Khánh Toàn
27
Nguyễn Vǎn Vịnh
28
Đinh Đức Thiện
29
Nguyễn Hữu Khiếu
30
Ngô Thuyền
31
Đinh Thị Cẩn
3. Phân tích số 78 đồng chí Trung ương uỷ viên
1) Thành phần:
- Công nhân: 29 đồng chí (có 5 là thợ thủ công)
- Cố nông: 1 đồng chí
- Bần nông: 8 đồng chí (có 1 làm công)
- Trung nông: 6 đồng chí
- Tiểu tư sản: 34 đồng chí (có 18 là học sinh, 11 dạy học và trí thức)
78 đồng chí
2) Tuổi Đảng:
- Từ nǎm 1930 về trước: 22 đồng chí (Bác nǎm 1920)
- Từ 1931 đến 1935: 9 đồng chí
- Từ 1936 đến 1940: 39 -
- Từ 1941 đến 1945: 8 đồng chí (đ/c Khai, Cẩn 
nǎm 1945)
78 đồng chí
3) Tuổi đời:
- Từ 37 đến 40 tuổi: 15 đồng chí (đồng chí Trần Độ 37 tuổi)
- Từ 41 - 50 - : 49 -
- Từ 51 - 60 - : 12 -
- Từ 61 - 70 - : 1 - (Bác 70 tuổi)
- Từ 71 trở lên : 1 - (Bác Tôn 72 tuổi)
78 đồng chí
4) Vǎn hóa:
- Cấp I : 19 đồng chí
- Cấp II : 50 -
- Cấp III : 4 -
- Đại học : 5 -
78 đồng chí
5) Quân sự: 16 đồng chí
1. Võ Nguyên Giáp Chính thức
2. Nguyễn Chí Thanh -
3. Vǎn Tiến Dũng -
4. Song Hào -
5. Hoàng Vǎn Thái -
6. Lê Quảng Ba -
7. Lê Hiến Mai Chính thức
8. Chu Huy Mân -
9. Trần Độ dự khuyết
10. Nguyễn Thanh Bình -
11. Lê Quang Đạo -
12. Nguyễn Đôn -
13. Trần Quý Hai -
14. Trần Vǎn Trà -
15. Nguyễn Vǎn Vịnh -
16. Nguyễn Trọng Vĩnh -
6) Dân tộc: 3
1. Chu Vǎn Tấn Chính thức
2. Lê Quảng Ba -
3. Hoàng Vǎn Kiểu dự khuyết
7) Phụ nữ: 3
1. Nguyễn Thị Thập Chính thức
2. Hà Thị Quế -
3. Đinh Thị Cẩn dự khuyết
8) Địa phương: 6
1. Võ Thúc Đồng Chính thức
2. Trần Danh Tuyên dự khuyết
3. Nguyễn Thọ Chân -
4. Hoàng Vǎn Kiểu -
5. Lê Thành -
6. Ngô Thuyền -
9) Cơ sở xí nghiệp: 2
1. Đinh Đức Thiện dự khuyết
2. Lê Hoàng -
10) Công tác miền Nam: 7
1. N.V.C (Nam Bộ) Chính thức
2. P.V.Đ (Nam Bộ) -
3. P.V.X ( - ) -
4. P.T.B ( - ) dự khuyết
5. V.V.K ( - ) -
6. L.T.T ( - ) -
7. V.T (LKV) chính thức

Lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng. 



4. Nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế quốc dân (1961-1965). Báo cáo bổ sung tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III do đồng chí Nguyễn Duy Trinh trình bày, ngày 7-9-1960
Thưa các đồng chí thân mến,
Kế hoạch nǎm 1960 và kế hoạch 3 nǎm sắp kết thúc; bắt đầu từ nǎm 1961, chúng ta sẽ bước vào kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất.
Trong quá trình chuẩn bị Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận những nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 nǎm, và đã giao cho Uỷ ban kế hoạch Nhà nước cùng với một số đồng chí phụ trách các ngành kinh tế và vǎn hoá xây dựng bản dự án số kiểm tra của kế hoạch 5 nǎm.
Vì việc nghiên cứu mới tiến hành một bước, còn phải tổ chức nghiên cứu ở các ngành, các cấp, bảo đảm chính xác hơn, cho nên Ban Chấp hành Trung ương chỉ trình ra Đại hội trong phần thứ IV của Báo cáo Chính trị, những nhiệm vụ cơ bản và những phương hướng chủ yếu của kế hoạch 5 nǎm. Những nhiệm vụ và phương hướng ấy được Đại hội thông qua sẽ là những cǎn cứ để Ban Chấp hành Trung ương lãnh đạo việc xây dựng dự án kế hoạch và quyết định bản kiến nghị về kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất.
Theo sự uỷ nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương, tôi xin trình bày sau đây bản báo cáo bổ sung về "Nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất phát triển kinh tế quốc dân (1961-1965)". Nội dung bản báo cáo bổ sung này dựa theo kết quả thảo luận của Ban Chấp hành Trung ương kết hợp với kết quả nghiên cứu dự án số kiểm tra, nhằm trình bày rõ thêm những nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 nǎm đã nêu lên trong bản Báo cáo Chính trị.
I- NHẬN ĐỊNH TÌNH HÌNH MIỀN BẮC 
SAU KHI HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH 3 NĂM
Từ khi hoà bình lập lại, miền Bắc nước ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và nhờ sự giúp đỡ tận tình của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác, nhân dân lao động miền Bắc nước ta đã vươn lên với một khí thế cách mạng mới, đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ cải cách ruộng đất và nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hiện đang hoàn thành kế hoạch 3 nǎm phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển vǎn hoá.
Những thắng lợi to lớn ấy của chủ nghĩa xã hội và hoà bình, là tiếp tục thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám và của cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân ta. Điều đó nói lên một sự thật hùng hồn là: nhân dân một nước nhỏ yếu, kinh tế lạc hậu, có sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân thì có thể phát huy mọi nǎng lực tiềm tàng của mình, đánh thắng kẻ thù thực dân và phong kiến, giành độc lập và tự do thật sự, và sử dụng quyền làm chủ của mình để đẩy mạnh phát triển kinh tế và vǎn hoá theo con đường xã hội chủ nghĩa, đưa nước nhà nhanh chóng thoát khỏi tình trạng lạc hậu và nghèo đói, tiến lên xây dựng một nền kinh tế và vǎn hoá tiên tiến, đem lại hạnh phúc cho toàn dân. Điều đó nói lên tính hơn hẳn của chế độ dân chủ nhân dân và nǎng lực cách mạng dồi dào của nhân dân ta ở miền Bắc đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng nói lên sự phát triển tất yếu của cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào ta ở miền Nam, của cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong cả nước nhằm chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện thống nhất Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Nắm vững những bài học kinh nghiệm trong hơn 30 nǎm vận động cách mạng và chấp hành đúng đắn đường lối cách mạng trong giai đoạn mới của Đảng ta, nhất định chúng ta sẽ giành được những thắng lợi to lớn hơn nữa, không một sức phản động nào ngǎn cản nổi bước tiến của dân tộc ta.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc mới trải qua 6 nǎm, đó chỉ mới là một quãng ngắn trên con đường ngàn dặm đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chúng ta đã giành được những thắng lợi bước đầu, nhưng là những thắng lợi rất quan trọng.
1. Các ngành kinh tế và vǎn hoá đều bắt đầu phát triển với nhịp độ nhanh*
Đến cuối nǎm 1960, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp và công nghiệp tǎng gấp đôi so với nǎm 1955; riêng nông nghiệp tǎng 43,5%, công nghiệp và thủ công nghiệp tǎng 384,5%. Trong những nǎm đầu khôi phục kinh tế, giá trị sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp nǎm 1956 tǎng gần gấp đôi so với nǎm 1955; tính từ nǎm 1956 đến nǎm 1960, công nghiệp và thủ công nghiệp bình quân hàng nǎm tǎng 25,1%. Về nông nghiệp, từ nǎm 1955 đến nǎm 1959, giá trị sản lượng đều tǎng, riêng nǎm 1960 có thể sút thua nǎm 1959 nhưng vẫn trội hơn nǎm 1958. Lấy giá trị sản lượng nông nghiệp nǎm 1959 so với nǎm 1955 thì tǎng 52,4%, bình quân hàng nǎm tǎng 11,2%.
Nông nghiệp và công nghiệp cùng song song phát triển, nhờ công nghiệp tǎng nhanh hơn cho nên tỷ trọng giữa công nghiệp và nông nghiệp được điều chỉnh bước đầu tiến bộ hơn trước:
Công nghiệp và nông nghiệp...
1955
1957
1960

100
100
100
Trong đó:



Công nghiệp và thủ công nghiệp
16,9
31,4
40
Nông nghiệp ...............
83,1
68,6
60
Về nông nghiệp, nǎm 1960, vụ chiêm gặp nhiều khó khǎn về thời tiết, thu hoạch bị sút kém, kế hoạch cả nǎm vì thế sẽ không đạt. Để đánh giá đúng sự phát triển của nền nông nghiệp của ta, cần phải nhìn qua các nǎm. Nǎm 1955, toàn miền Bắc sản xuất 3.893.000 tấn lương thực, trong đó riêng thóc là 3.523.000 tấn; nǎm 1959 sản xuất 5.700.000 tấn lương thực, trong đó riêng thóc là 5.193.000 tấn. Sản lượng lương thực bình quân đầu người đã tǎng từ 286,8kg lên 367,2kg, riêng về thóc từ 259,5kg tǎng lên 334kg. Nǎng suất thóc bình quân mỗi hécta cũng tǎng từ 16,2 tạ lên 22,84 tạ. Từ một nền sản xuất nông nghiệp vốn rất thấp kém, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, chỉ trong 5 nǎm sau khi lập lại hoà bình, miền Bắc nước ta đã tiến lên hàng đầu trong các nước Đông - Nam á về nǎng suất lương thực bình quân mỗi hécta và sản lượng lương thực tính theo đầu người,đó là một thắng lợi có ý nghĩa kinh tế và chính trị rất lớn. Mặt khác, nền nông nghiệp của ta trước đây có tính chất độc canh, nay đã bắt đầu phát triển toàn diện hơn. Lương thực tǎng nhanh và vẫn giữ địa vị chủ yếu, nhưng cây công nghiệp, chǎn nuôi phát triển nhanh hơn, cho nên từ nǎm 1955 đến nǎm 1959, tỷ trọng của cây lương thực từ 54,5% xuống 52,5%, tỷ trọng của cây công nghiệp từ 1,7% tǎng lên 3,2%, tỷ trọng của chǎn nuôi từ 14,6% tǎng lên 19,4%.
Về công nghiệp, cuối nǎm 1960, chúng ta có 172 xí nghiệp do trung ương quản lý. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh nǎm 1960 có thể vượt kế hoạch 3,8% và tǎng hơn hai lần so với nǎm 1957. Công nghiệp quốc doanh địa phương bước đầu được phát triển, đã chiếm 19% trong giá trị sản lượng công nghiệp quốc doanh. Nǎng suất lao động trong các ngành công nghiệp quốc doanh nǎm 1959 tǎng 3,8 lần so với nǎm 1955 và tǎng hơn 60% so với nǎm 1957. Thủ công nghiệp được khuyến khích, nǎm 1960 tǎng gần hai lần so với nǎm 1955 và tǎng 34% so với nǎm 1957.
Các sản phẩm chủ yếu về công nghiệp và thủ công nghiệp tǎng khá nhanh. Trong 6 nǎm, điện tǎng 3,8 lần, than đá tǎng 2,8 lần, xi mǎng tǎng 3,5 lần, gỗ khai thác tǎng gấp đôi, phốt phát tǎng hơn 6 lần... công nghiệp cơ khí trước kia không có, nay đã có một số cơ sở đầu tiên, sản xuất được một số loại máy công cụ hạng nhỏ và hạng vừa, máy dập gạch ngói, máy xát gạo, tàu kéo, ca nô, toa xe hỏa, máy phát điện...; cung cấp cho nông nghiệp hàng vạn nông cụ cải tiến, một số máy bơm nước và máy móc nông nghiệp nhỏ và một số loại phụ tùng trước vẫn phải mua ở nước ngoài. Về gang thép, đi đôi với việc xây dựng nhà máy liên hợp Thái Nguyên, chúng ta đã xây dựng 6 lò cao cỡ nhỏ ở các địa phương, với dung tích tính chung là 56 mét khối, có thể sản xuất hàng nǎm khoảng một vạn tấn gang; đó là một bài học tốt về lãnh đạo quần chúng làm kỹ thuật, về lợi dụng tài nguyên, về tinh thần tích cực và sáng tạo của quần chúng trong lao động sản xuất. Về vật liệu xây dựng, chúng ta đã sản xuất được gạch chịu lửa và các loại bê tông đúc sẵn. Công nghiệp hoá học đã sản xuất được axít sunfuric, thuốc trừ sâu. Cũng trong sáu nǎm, vải tǎng hơn 8,5 lần, đường mật tǎng hơn 3 lần, muối tǎng gấp rưỡi, thuốc lá tǎng hơn gấp đôi, diêm tǎng 5,5 lần, giấy viết tǎng 4,5 lần. Chúng ta đã sản xuất được nhiều mặt hàng mới về vải, hàng dệt kim, đồ nhựa, đồ sắt tráng men, đồ dùng gia đình, vǎn phòng phẩm, sǎm lốp xe đạp, một số loại dược phẩm...
Nền kinh tế nước ta trong gần một thế kỷ đã bị thực dân Pháp kìm hãm trong tình trạng lạc hậu và phụ thuộc; về công nghiệp, chỉ có một số ít cơ sở khai thác nguyên liệu và chế biến thô sơ, thiết bị đã già cỗi. Hầu hết các cơ sở lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề; khi hoà bình lập lại, thực dân Pháp thoả hiệp với bọn Mỹ - Diệm lại tháo gỡ một phần máy móc quan trọng mang vào Nam. Tình hình nói trên đang được cải biến một cách rõ rệt; cơ cấu công nghiệp ở miền Bắc nước ta đang hình thành, các ngành cần thiết đã có một số cơ sở, cung cấp được một phần quan trọng về tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng. Trong việc thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà, chúng ta mới đi một bước đầu tiên; chúng ta phải khắc phục nhiều khó khǎn nhưng có những thuận lợi cǎn bản: chúng ta được các nước anh em giúp đỡ về thiết bị và kỹ thuật; nguồn tài nguyên tự nhiên của ta tương đối dồi dào; cán bộ và công nhân của ta ham học và có thể tiến bộ nhanh. Phong trào thi đua phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật trong công nghiệp gần đây có những tiến bộ mới như ở công trường Cọc 6 Khu mỏ Hòn Gai, ở Nhà máy dệt Nam Định, ở Nhà máy cơ khí Hà Nội, trong các xưởng sửa chữa ôtô, ở Đoàn 8 thǎm dò địa chất... Chúng ta cần bồi dưỡng và phát huy những mầm phát triển ấy, mở rộng phong trào một cách đều đặn và liên tục.
Về giao thông, cuối nǎm 1959, chúng ta đã khôi phục, củng cố và làm mới 720 cây số đường sắt, 2.910 cây số đường bộ. Các Cảng Hải Phòng, Hòn Gai, Cửa Ông, Bến Thủy đều được nạo vét và mở rộng thêm. Khối lượng vận tải tính theo tấn cây số tǎng 3,5 lần so với nǎm 1955 và 1,5 lần so với nǎm 1957. Riêng vận tải đường sắt, trong ba nǎm qua tǎng hơn 2 lần, vận tải đường biển tǎng gần 2 lần, vận tải đường sông tǎng gần gấp đôi, vận tải đường ôtô tǎng 1,5 lần. Ngành giao thông tuy chưa phục vụ kịp yêu cầu của kinh tế và quốc phòng, nhưng đã có những cố gắng và tiến bộ. Phong trào thi đua giải phóng đôi vai ở một số công trường và một số địa phương, phấn đấu nâng cao nǎng lực trọng tải và bảo dưỡng xe cộ ở một số cơ sở gần đây đang phát triển, cần được hết sức khuyến khích, thúc đẩy.
Về vǎn hoá, chúng ta đã cǎn bản xoá nạn mù chữ ở miền xuôi cho những người lớn dưới 50 tuổi; hơn 10 triệu người đã biết đọc, biết viết. Phong trào bổ túc vǎn hóa đang được đẩy mạnh. Nǎm 1960, cứ 10 người có một người tham gia các lớp học ngoài giờ làm việc. Về giáo dục phổ thông, tổng số học sinh là 1.815.000 người, tǎng 1,5 lần so với nǎm 1955 và tǎng 80% so với nǎm 1957. Để mở rộng việc đào tạo cán bộ, chúng ta đã mở thêm một số trường chuyên nghiệp trung cấp và một số trường đại học và đưa ngày càng nhiều lưu học sinh, thực tập sinh đi học ở Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác. Nǎm 1960, ngoài 2.400 lưu học sinh, trong nước có 9 trường đại học với 11.070 sinh viên, tǎng hai lần so với nǎm 1957; và có 50 trường chuyên nghiệp trung cấp với 26.330 học sinh, tǎng 2,3 lần so với nǎm 1957. Trong phong trào xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa, việc giảng dạy và học tập đã có những tiến bộ. Khi hoà bình lập lại, chúng ta chỉ có khoảng 700 cán bộ chuyên môn có trình độ đại học; trong sáu nǎm, chúng ta đã đào tạo gần 2.500 cán bộ có trình độ đại học và trên một vạn cán bộ chuyên nghiệp trung cấp. Công tác khoa học và kỹ thuật bắt đầu có tổ chức và đi vào nền nếp. Nhờ sự giúp đỡ quý báu của Đoàn đại biểu Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, chúng ta đang xây dựng một kế hoạch dài hạn về công tác khoa học và kỹ thuật để phục vụ thiết thực yêu cầu phát triển kinh tế và vǎn hoá xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở phát triển sản xuất, đời sống vật chất của nhân dân được dần dần cải thiện rõ rệt. Nǎm 1959 so với nǎm 1957, thu nhập quốc dân tính theo đầu người tǎng 19,3%; thu nhập thực tế bình quân đầu người của nông dân tǎng 14,8%. Tiền lương thực tế của công nhân, viên chức từ nǎm 1955 đến nǎm 1959 tǎng 33%; tiền lương nǎm 1960 đã được tǎng 25% so với nǎm 1957. Chế độ tiền lương của công nhân, viên chức qua hai lần cải tiến nhằm thực hiện từng bước nguyên tắc phân phối theo lao động, đã được hợp lý hơn trước, dần dần có tác dụng tốt khuyến khích mọi người hǎng hái sản xuất và công tác. Để giải quyết một phần khó khǎn về nhà ở, trong sáu nǎm qua Nhà nước đã chi trên 145 triệu đồng, xây dựng khoảng 1 triệu rưởi mét vuông nhà kiên cố và nửa kiên cố. Công tác phòng bệnh và công tác điều trị được tǎng cường, đã góp phần quan trọng bảo vệ sức khoẻ của nhân dân. Nạn thất nghiệp ở các thành phố do chế độ cũ để lại về cǎn bản đã được giải quyết, trên 10 vạn người đã được sắp xếp công việc làm. Vật giá dần dần được ổn định; chỉ số vật giá bán lẻ nǎm 1959 bằng 89,2% so với nǎm 1957, trong khi đó sức mua của nhân dân tǎng 15,1%.
2. Trên miền Bắc nước ta, chủ nghĩa xã hội đang dần dần chiếm ưu thế
Đi đôi với những thành tích trên đây về phát triển sản xuất, cải thiện đời sống vật chất và vǎn hoá của nhân dân, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cùng với việc mở mang xây dựng cơ bản đã thu được những thắng lợi rất to lớn. Những thắng lợi đó đã có ảnh hưởng quyết định thúc đẩy mọi mặt tiến bộ ở miền Bắc.
Phong trào hợp tác hoá nông nghiệpđã trở thành một phong trào quần chúng sâu rộng, kết hợp chặt chẽ việc cải tạo quan hệ sản xuất với cải tạo tư tưởng, cải tiến công cụ và cải tiến kỹ thuật để đẩy mạnh sản xuất. Đến cuối nǎm 1960, dự tính có thể có từ 70 đến 75% số hộ nông dân lao động tham gia các hợp tác xã, trong đó phần lớn là hợp tác xã cấp thấp, các hợp tác xã cấp cao chiếm khoảng 7-8% số nông hộ. Mặc dù có những thiếu sót về chấp hành đường lối và những khó khǎn về quản lý, phong trào hợp tác hoá nông nghiệp đã phát triển một cách lành mạnh và cǎn bản là tốt; nhiều hợp tác xã đã đi đầu trong việc cải tiến kỹ thuật, làm thủy lợi, làm phân và bón phân..., tǎng thêm thu nhập, bước đầu phát huy tính hơn hẳn của hợp tác xã so với lối làm ǎn riêng lẻ.
Về thủ công nghiệp, gần đây phong trào hợp tác hoá phát triển khá đều và mạnh; đến tháng 6 nǎm 1960, đã có 67,8% số thợ thủ công chuyên nghiệp tham gia các tổ chức hợp tác, trong đó các hợp tác xã chiếm tỷ lệ 44,2%. Nhiều hợp tác xã đã phát huy tác dụng tốt, chǎm lo cải tiến công cụ, cải tiến kỹ thuật, dựa vào khả nǎng sẵn có để khắc phục khó khǎn về thiếu nguyên liệu, tạo thêm mặt hàng, hạ giá thành sản phẩm.
Trong những người buôn bán nhỏ, hơn một nửa đã tham gia các hình thức tổ chức hợp tác; và 5,5% đã chuyển sang sản xuất. Riêng ở các thành thị, hầu hết những người buôn bán nhỏ thuộc các ngành nghề chủ yếu đã được tổ chức lại. Nhờ được giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa, những người buôn bán nhỏ hợp tác hoá nói chung đã có nhiều tiến bộ trong việc chấp hành các chính sách, giữ vững giá cả, phục vụ người tiêu thụ; nhiều người đã sử dụng thì giờ nhàn rỗi để tham gia sản xuất, tǎng thêm thu nhập.
Đối với công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh, cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã giành được thắng lợi có tính chất quyết định. Đến cuối nǎm, tất cả các cơ sở thuộc các ngành công nghiệp, thương nghiệp, vận tải, kinh doanh vǎn hoá và nghệ thuật sẽ được cải tạo thành xí nghiệp công tư hợp doanh hoặc xí nghiệp hợp tác, bao gồm khoảng 57 triệu tiền vốn đǎng ký. ở các xí nghiệp công tư hợp doanh đều đã có tổ chức công đoàn, những nơi có thanh niên đều có tổ chức thanh niên lao động; ở nhiều nơi, chúng ta đã phát triển được đảng viên mới trong công nhân, nhờ đó, việc lãnh đạo chính trị được củng cố, vai trò làm chủ của công nhân được đề cao. Về mặt kinh tế, các xí nghiệp công tư hợp doanh đều có nhiều tiến bộ trong việc sử dụng sức lao động, sử dụng máy móc, một số nơi có cải tiến và tǎng thêm thiết bị, cho nên nǎng suất và sản lượng được tǎng thêm rõ rệt.
Nhìn chung, nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và đối với công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa đề ra trong các Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 14 và 16 có thể được hoàn thành tốt. Trải qua cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tình hình chính trị, tư tưởng, kinh tế, vǎn hoá ở miền Bắc đã có những tiến bộ sâu sắc. Đến cuối nǎm 1960, có thể nói là công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã giành được thắng lợi có tính chất quyết định, tuy cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vẫn còn phải tiếp tục. Sau cuộc cải cách ruộng đất, chế độ chiếm hữu phong kiến đã được xóa bỏ ở miền bắc; sau khi cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa hoàn thành, chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa và con đường phát triển tư bản chủ nghĩa cũng sẽ được xoá bỏ. Những chuyển biến cách mạng ấy có một ý nghĩa lịch sử vĩ đại, giải phóng xã hội miền Bắc thoát khỏi quan hệ người bóc lột người, mở đường cho chủ nghĩa xã hội giành thắng lợi hoàn toàn, thúc đẩy lực lượng sản xuất không ngừng phát triển.
Đi đôi với việc đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng thành phần kinh tế hợp tác xã và thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa Nhà nước, thành phần kinh tế quốc doanh ngày càng được mở rộng và tǎng cường, nắm vững vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân. Cuộc vận động cải tiến quản lý xí nghiệp đã hoàn thành, cǎn bản thực hiện được các yêu cầu đã đề ra về việc bước đầu xây dựng chế độ quản lý xã hội chủ nghĩa trong các xí nghiệp quốc doanh. Nhờ mở mang thêm nhiều công trường, xí nghiệp, lực lượng công nhân, viên chức thuộc biên chế khu vực sản xuất của Nhà nước nǎm 1960 có khoảng 255.000 người, tǎng thêm hơn hai lần so với nǎm 1955. Trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp nǎm 1960, công nghiệp quốc doanh chiếm 49,5%; tỷ trọng của mậu dịch quốc doanh nǎm 1960 trong tổng mức bán lẻ của thương nghiệp thuần tuý lên tới 47,8%; vận tải quốc doanh bảo đảm 75,6% khối lượng hàng hoá vận chuyển. Tính chung các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh và các hợp tác xã thủ công nghiệp nǎm 1960 chiếm 73,1% giá trị sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp; mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã mua bán và thương nghiệp tư bản chủ nghĩa Nhà nước chiếm 91,5% trong tổng mức bán lẻ của thương nghiệp thuần túy.
Để mở mang xây dựng cơ bản về kinh tế và vǎn hoá, trong 6 nǎm, từ 1955 đến 1960, Nhà nước đã đầu tư 2.155,2 triệu đồng. Trong kế hoạch 3 nǎm 1958-1960, tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản tǎng 130,7% so với 3 nǎm khôi phục kinh tế; lấy nǎm 1960 so với nǎm 1955 thì vốn đầu tư tǎng hơn 5 lần.
Trong tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước từ nǎm 1958 đến nǎm 1960, khoản dành cho nông nghiệp chiếm 12,6%, công nghiệp 41,1%, giao thông và bưu điện 20,6%, thương nghiệp 7,6%; các ngành vǎn hoá, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học chiếm 8,6%, xây dựng nhà ở, các sự nghiệp công cộng thành phố và cơ quan hành chính chiếm 9,5%.
Về nông nghiệp, trong ba nǎm qua, Nhà nước đã xây dựng 19 công trình thủy lợi hạng lớn, bảo đảm tưới nước cho 153 vạn hécta ruộng đất. Kết hợp với lực lượng của Nhà nước, nhân dân ta đã góp hàng chục triệu ngày công để củng cố và tǎng cường các đê sông, đê biển và phát triển nhiều công trình thủy lợi hạng nhỏ. Tính chung, các công trình thuỷ lợi hạng lớn và hạng vừa được khôi phục, mở rộng và mới xây dựng đã bảo đảm tưới nước cho 55% diện tích gieo cấy; kể cả các công trình thủy lợi hạng nhỏ do nhân dân làm thì có trên 70% diện tích gieo cấy được tưới nước.
Về công nghiệp, đến cuối nǎm 1960, trong 172 xí nghiệp do trung ương quản lý, chúng ta đã mở rộng và xây dựng mới 170 xí nghiệp; ngoài ra, có 24 xí nghiệp đang xây dựng, sẽ chuyển sang kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất. Việc xây dựng công nghiệp địa phương bắt đầu từ nǎm 1959 đã có trên 500 cơ sở. Do việc mở mang xây dựng công nghiệp, một số khu công nghiệp mới như Thái Nguyên, Việt Trì, Thanh Hoá, Vinh... đang mọc lên; thủ đô Hà Nội có thêm nhiều xí nghiệp mới, đang trở thành một thành phố công nghiệp.
Để phục vụ việc mở mang xây dựng cơ bản, nhất là về công nghiệp, công tác điều tra thǎm dò địa chất đã có những tiến bộ đáng kể.
Về mặt thi công và quản lý công tác xây dựng, chúng ta đã trưởng thành một bước. Việc khai thác và vận chuyển vật liệu có nhiều khó khǎn nhưng nói chung các ngành, các địa phương đều cố gắng bảo đảm yêu cầu. Việc quản lý sử dụng vật liệu, quản lý kỹ thuật dần dần đi vào nền nếp, tình trạng lãng phí có giảm bớt, chất lượng công trình được nâng cao. Đi đôi với việc cải tiến dụng cụ, cải tiến kỹ thuật xây lắp, chúng ta đã bắt đầu mở rộng việc thi công cơ giới hoá, tập trung lực lượng về người, về phương tiện, về vật liệu cho các công trình chủ chốt. Lối xây dựng bằng cách lắp các bộ phận đúc sẵn cũng được bắt đầu áp dụng.
3. Những thắng lợi đã giành được là thắng lợi chung của Đảng ta, nhân dân ta và của sự hợp tác quốc tế.
Những tiến bộ trên đây cho thấy: từ khi hoà bình lập lại đến nay, nền kinh tế quốc dân ở miền Bắc đã được khôi phục và phát triển một cách lành mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa. Dưới ảnh hưởng của tư tưởng xã hội chủ nghĩa và dựa trên quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và nửa xã hội chủ nghĩa đang dần dần chiếm ưu thế, phong trào quần chúng phát triển liên tục và ngày càng sâu rộng; các ngành hoạt động đều phát triển với nhịp độ nhanh; cơ cấu của nền kinh tế quốc dân cũng được điều chỉnh ngày càng cân đối hơn. Đó là kết quả bước đầu của những chuyển biến cách mạng sâu sắc, những chuyển biến cách mạng ấy sẽ phát triển không ngừng, bảo đảm đưa công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc tiếp tục tiến lên với nhịp độ nhanh.
Những thành tựu ấy chỉ rõ những chủ trương của Đảng ta về khôi phục kinh tế, phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển vǎn hoá là đúng đắn. Sau khi hoà bình lập lại, chúng ta đã kết hợp đẩy mạnh cải cách ruộng đất và khôi phục kinh tế, chú trọng nắm vững lãnh đạo nông nghiệp và thương nghiệp, phấn đấu ổn định tình hình kinh tế và chính trị ở nông thôn và thành thị. Trong kế hoạch 3 nǎm, chúng ta đã kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, lấy cải tạo xã hội chủ nghĩa làm trọng tâm, tích cực vận động quần chúng đấu tranh để giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Trong hoàn cảnh kinh tế nông nghiệp lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá lâu ngày, chúng ta đã nắm vững khâu chính của nhiệm vụ kinh tế là ra sức khôi phục và phát triển nông nghiệp, đồng thời đẩy mạnh khôi phục và phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp, chú trọng sản xuất hàng tiêu dùng và đã tiến lên đẩy mạnh sản xuất các tư liệu sản xuất. Chủ trương của Đảng ta về khôi phục và phát triển nông nghiệp, công nghiệp trong mấy nǎm qua là hoàn toàn thích hợp với hoàn cảnh miền Bắc nước ta, một mặt đã giải quyết đúng những yêu cầu trước mắt của nền kinh tế quốc dân; mặt khác đã chuẩn bị điều kiện cho việc thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong thời gian sắp đến. Chúng ta đã chú trọng song song phát triển kinh tế và vǎn hoá, làm cho kinh tế và vǎn hoá cùng thúc đẩy nhau phát triển. Chúng ta đã chú trọng giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho đảng viên và quần chúng và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bồi dưỡng nhiệt tình cách mạng và nǎng lực lao động của quần chúng, thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy phong trào thi đua cải tiến kỹ thuật nâng cao nǎng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm, tǎng gia sản xuất và tiết kiệm. Nhờ củng cố không ngừng vai trò lãnh đạo của mình và sử dụng nền chuyên chính dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, Đảng ta đã lãnh đạo quần chúng đấu tranh giành được những thắng lợi to lớn, làm cho chủ nghĩa xã hội ngày càng chiếm ưu thế. Đảng ta cũng đã nắm được quy luật phát triển nhanh của chủ nghĩa xã hội, đề ra khẩu hiệu "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc", chú trọng vừa đẩy mạnh, vừa củng cố các phong trào quần chúng, động viên cán bộ và quần chúng hǎng hái tiến lên trong mọi ngành, mọi mặt hoạt động.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, nhân dân lao động miền Bắc đã phát huy vai trò làm chủ, phát huy truyền thống yêu nước và lao động cần cù, phấn đấu không mệt mỏi cho chủ nghĩa xã hội và thống nhất Tổ quốc.Lực lượng của công nhân ngày càng phát triển và củng cố, đã tỏ rõ vai trò tiên phong trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, sản xuất, xây dựng và học tập. Nông dân, thợ thủ công, những người bạn chiến đấu lâu nǎm cùng chung quyền lợi với công nhân, phần lớn bắt đầu thấy rõ ràng con đường phát triển tư bản chủ nghĩa là nguy hại, và ngày càng kiên quyết đi theo con đường hợp tác hoá xã hội chủ nghĩa. Quân đội nhân dân không ngừng phát huy truyền thống vì nhân dân phục vụ, đã ngày đêm luyện tập, nâng cao nǎng lực quốc phòng, đồng thời đã tích cực tham gia mọi mặt hoạt động, thiết thực góp phần đẩy mạnh phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển vǎn hoá. Các bạn trí thức bước đầu được cải tạo tư tưởng, đội ngũ được mở rộng thêm, đã có những cống hiến quan trọng vào sự nghiệp xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Hoà mình trong các tầng lớp nhân dân lao động miền Bắc, cán bộ và đồng bào miền Nam tập kết đã tỏ rõ một tinh thần yêu nước rất cao, góp nhiều thành tích trong mọi mặt công tác, tích cực tham gia củng cố miền Bắc, phối hợp thiết thực với phong trào đấu tranh anh dũng của đồng bào ở miền Nam. Đi theo con đường của Đảng, nhân dân lao động nước ta là lực lượng vĩ đại sáng tạo mọi thành quả của cách mạng. ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa của quần chúng dần dần được nâng cao là động lực thúc đẩy sự phát triển của mọi ngành hoạt động, bảo đảm giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội.
Trong hoàn cảnh kinh tế thấp kém, miền Bắc nước ta sở dĩ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, phát triển nhanh chóng kinh tế và vǎn hoá xã hội chủ nghĩa, một mặt là do cố gắng của nhân dân ta, mặt khác là nhờ sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác. Trong khi khôi phục kinh tế, công nghiệp quốc doanh của ta rất nhỏ yếu, chính nhờ sự giúp đỡ của các nước anh em về hàng công nghiệp, chúng ta đã mở rộng hoạt động của mậu dịch quốc doanh, thông qua việc trao đổi hàng hoá giữa Nhà nước và nông dân mà củng cố khối liên minh công nông, ổn định thị trường, thúc đẩy sản xuất phát triển. Đặc biệt là các nước anh em đã giúp đỡ ta một cách toàn diện về vốn, thiết bị, nguyên liệu, kỹ thuật và chuyên gia; nhờ sự giúp đỡ ấy, chúng ta đã xây dựng những nền móng đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, dần dần phát huy khả nǎng tự lực cánh sinh của mình, đẩy mạnh phát triển công nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân, mở rộng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Chúng ta lại được học tập những kinh nghiệm quý báu của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác, nhờ đó đã đưa công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta tiến lên một cách vững vàng. Thêm nữa, những bước tiến khổng lồ của Liên Xô trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản, những thành tựu vĩ đại của Liên Xô về khoa học và kỹ thuật, những bước tiến nhảy vọt của Trung Quốc và các nước anh em khác trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đối với chúng ta, là một sự giúp đỡ rất lớn về tinh thần, làm tǎng thêm lòng tin tưởng và chí hǎng hái phấn đấu của nhân dân ta.
*
* *
Sự nghiệp cách mạng của chúng ta đang phát triển rất thuận lợi, nhưng chúng ta vẫn không chủ quan với các khó khǎn, thiếu sót.
Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp phát triển nhanh, nhiều hợp tác xã mới thành lập, phần lớn còn có tính chất nửa xã hội chủ nghĩa, việc củng cố chưa theo kịp. Bên cạnh công tác quản lý kinh tế còn non kém, việc giáo dục tư tưởng trong các hợp tác xã vẫn còn yếu; ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa của khá nhiều xã viên còn thấp, nhiều người chưa thật sự coi công việc và lợi ích của hợp tác xã như của nhà mình, dễ bi quan dao động mỗi khi sản xuất gặp khó khǎn. Đối với chính sách mua nông sản, mua lương thực của Nhà nước, một khâu quan trọng để thực hiện sự liên minh về kinh tế giữa công nhân và nông dân, do đó mà củng cố sự liên minh về chính trị, nhiều hợp tác xã và xã viên, kể cả một số đảng viên, không chấp hành đúng. Trong cán bộ vẫn có tình trạng chưa quán triệt chính sách quản lý lương thực của Nhà nước, tư tưởng của nông dân chưa được giải quyết tốt, tâm lý giữ thóc còn nặng. Nông dân ta rất tốt, tin tưởng vững chắc ở sự lãnh đạo của Đảng nhưng vẫn chưa xoá bỏ được hết những tư tưởng và tập quán của chế độ làm ǎn riêng lẻ, nhất là trong những người trung nông lớp trên. Chúng ta nhận rõ rằng mặt tiêu cực ấy không phải là chủ yếu và có thể khắc phục được. Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp không khỏi có những bước quanh co, và trải qua thử thách sẽ càng được củng cố vững chắc hơn. Vấn đề là chúng ta phải làm tốt công tác lãnh đạo, nhất là phải tǎng cường việc giáo dục tư tưởng đối với nông dân.
Dựa trên quan hệ sản xuất tập thể đang mở rộng, sức sản xuất bước đầu phát triển, nhưng nói chung trình độ sản xuất, trình độ kỹ thuật vẫn còn lạc hậu. Sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, thường xuyên bị nắng hạn, bão lụt uy hiếp. Công cụ sản xuất thô sơ mới được cải tiến một bộ phận nhỏ, sức kéo còn thiếu, việc cải tiến kỹ thuật chưa được đẩy mạnh. Vấn đề lương thực chưa được giải quyết vững chắc; các ngành khác trong nông nghiệp như cây công nghiệp, chǎn nuôi... phát triển chưa đúng mức. Nǎng suất lao động trong nông nghiệp còn kém, mức sử dụng sức lao động còn thấp, chi phí sản xuất còn cao, cho nên thu nhập của nông dân chưa tǎng được nhiều, đời sống vẫn còn thiếu thốn.
Trong thủ công nghiệp, việc cải tiến kỹ thuật, cải tiến công cụ mới được thực hiện trong một phạm vi nhất định; nhiều ngành gặp khó khǎn về nguyên liệu, sản xuất bị hạn chế, ảnh hưởng đến đời sống của một số lao động thủ công.
Công tác quản lý xí nghiệp, công trường của ta đã được cải tiến một bước nhưng vẫn chưa theo kịp yêu cầu phát triển của sức sản xuất, chưa phát huy được đầy đủ nhiệt tình lao động của công nhân. Cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề thiếu nhiều; việc lãnh đạo và quản lý kỹ thuật còn lỏng lẻo; bảo quản và sử dụng máy móc còn nhiều thiếu sót, thường xảy ra hư hỏng nhưng thiếu phụ tùng thay thế, mức lợi dụng công suất thiết bị nói chung còn thấp. Các nguyên liệu, vật liệu trong nước thường phân tán, có nơi, có lúc vận chuyển không kịp thời gian. Nhiều thứ nguyên liệu, vật liệu quan trọng phải nhập khẩu; tình trạng cung cấp nguyên liệu, vật liệu, nhất là sắt, thép và gỗ không được đều đặn, đã gây ra lãng phí nhân lực, ảnh hưởng không tốt đến việc thi công xây dựng cơ bản và đến sản xuất.
Do yêu cầu của nhiệm vụ củng cố và bảo vệ miền Bắc, chúng ta cần phải kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng, nhưng làm chưa được tốt. Chúng ta có cố gắng phát triển giao thông vận tải, tuy nhiên vẫn chưa phục vụ kịp yêu cầu về kinh tế cũng như về quốc phòng.
Về chỉ đạo, chúng ta có một số thiếu sót: trong việc lập kế hoạch, chúng ta có phần chủ quan, có một số chỉ tiêu đặt quá cao, gây ra tình hình cǎng thẳng trong khi thực hiện. Một số bộ phận không đạt kế hoạch làm cho tác dụng động viên có bị hạn chế. Một số chính sách cụ thể đề ra chậm hoặc không được kịp thời bổ sung; công tác kiểm tra không được chặt chẽ, tình trạng lãng phí, tham ô còn khá phổ biến. Công tác giáo dục quần chúng, phát động tư tưởng của quần chúng làm chưa được sâu sắc, chỉ đạo về biện pháp thiếu cụ thể, thiếu khẩn trương; nhiều nǎng lực tiềm tàng chưa được phát huy đúng mức. Việc phân cấp quản lý kinh tế không được nghiên cứu một cách ǎn khớp giữa các ngành, thi hành còn dở dang, đó là một trở ngại lớn cho việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch.
*
Nhìn chung, chúng ta nhận định rằng:
- Sau khi hoàn thành kế hoạch 3 nǎm, nền kinh tế quốc dân ở miền Bắc bắt đầu có những chuyển biến sâu sắc. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã giành được thắng lợi có tính chất quyết định. Thông qua cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, phong trào quần chúng phát triển ngày càng sâu rộng, tư tưởng xã hội chủ nghĩa đang dần dần chiếm ưu thế. Về mặt quan hệ sản xuất, các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa và nửa xã hội chủ nghĩa đã chiếm đại bộ phận trong nền kinh tế quốc dân. Theo đà chuyển biến của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, các ngành kinh tế và vǎn hoá, nhất là sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, bắt đầu phát triển với nhịp độ nhanh; cơ cấu của các ngành công nghiệp và nông nghiệp được điều chỉnh tiến bộ hơn trước. Trên cơ sở phát triển sản xuất, đời sống của nhân dân dần dần được cải thiện.
- Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mở rộng chưa khắp và chưa được củng cố vững chắc; trình độ sản xuất vẫn còn lạc hậu. Việc giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho quần chúng làm chưa được sâu sắc. Sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm bộ phận lớn và còn bấp bênh; công nghiệp hiện đại, nhất là công nghiệp nặng còn nhỏ bé, chưa giải quyết được các nhu cầu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Các ngành sản xuất và vận tải còn nhiều khả nǎng tiềm tàng chưa được phát huy. Lực lượng cán bộ và công nhân kỹ thuật còn ít, trình độ kỹ thuật còn non kém. Nhân lực dồi dào nhưng sử dụng chưa được hợp lý. Vì nǎng suất lao động xã hội còn thấp cho nên thu nhập và mức sống của nhân dân còn thấp.
Chúng ta cần nhận rõ hai mặt ấy của tình hình miền Bắc trong khi xây dựng kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất và chỉ đạo thực hiện kế hoạch.
II- NHIỆM VỤ CƠ BẢN CỦA KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT
Cǎn cứ vào nhận định về đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội và tình hình miền Bắc sau khi hoàn thành kế hoạch 3 nǎm, Ban Chấp hành Trung ương nhận định:
Trong thời gian kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất, sau khi cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa giành được thắng lợi có tính chất quyết định, chúng ta cần phải chuyển sang lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế miền Bắc nước ta trở thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Về những nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất, Ban Chấp hành Trung ương thấy cần phải:
a) Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm, tích cực phát triển giao thông vận tải, tǎng cường thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã, chuẩn bị cơ sở để tiến lên biến nước ta thành một nước công nghiệp và nông nghiệp xã hội chủ nghĩa.
b) Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa; củng cố và tǎng cường thành phần kinh tế quốc doanh, tǎng cường mối quan hệ giữa sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
c) Nâng cao trình độ vǎn hoá của nhân dân; đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xây dựng kinh tế và công nhân lành nghề, nâng cao nǎng lực quản lý kinh tế của cán bộ, công nhân và nhân dân lao động; đẩy mạnh công tác khoa học và kỹ thuật, đẩy mạnh thǎm dò tài nguyên tự nhiên và điều tra cơ bản, nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và vǎn hoá xã hội chủ nghĩa.
d) Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và vǎn hoá của nhân dân lao động, làm cho nhân dân ta được ǎn no, mặc ấm, tǎng thêm sức khoẻ, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.
e) Đi đôi và kết hợp với phát triển kinh tế, cần ra sức củng cố quốc phòng, tǎng cường trật tự an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Nǎm nhiệm vụ ấy liên hệ mật thiết với nhau, thể hiện yêu cầu phát triển có trọng tâm và toàn diện, phát triển với nhịp độ nhanh và theo tỷ lệ của nền kinh tế và vǎn hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong thời gian kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất, nhằm củng cố miền Bắc thành cơ sở ngày càng vững chắc của nhân dân cả nước trong cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.
Dựa theo sự tính toán bước đầu, chúng tôi đề nghị lấy những con số kiểm tra chủ yếu sau đây để làm cǎn cứ cho việc xây dựng kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất:
Đến nǎm 1965, giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp có thể tǎng gần 1,5 lần so với nǎm 1960*, bình quân hàng nǎm tǎng khoảng 20%, trong đó nhóm A tǎng 25,8%, nhóm B tǎng 16%. Nhịp độ phát triển ấy là tích cực, xấp xỉ với tốc độ bình quân trong thời gian kế hoạch 3 nǎm 1958-1960 (dự tính là 21%). Để bảo đảm mức phát triển ấy, cần phải huy động các nǎng lực tiềm tàng của thủ công nghiệp hợp tác hoá, của các xí nghiệp công tư hợp doanh, các xí nghiệp hợp tác; quan trọng nhất là phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc doanh. Về các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh do trung ương quản lý, dự định có thể tǎng 199% so với nǎm 1960; bình quân hàng nǎm tǎng 24,5%. Trong việc định chỉ tiêu về tốc độ phát triển của công nghiệp quốc doanh, chúng tôi dựa vào yêu cầu và khả nǎng động viên các nhân tố tích cực trong việc xây dựng cơ bản cũng như trong sản xuất. Cần phải hoàn thành phần lớn các công trình mới xây dựng trong thời gian kế hoạch 5 nǎm, tích cực cải tiến và mở rộng các xí nghiệp sẵn có, tranh thủ đưa vào sản xuất đúng thời hạn; đồng thời, phải nâng mức lợi dụng nǎng lực các xí nghiệp sẵn có cũng như các xí nghiệp mới lên khoảng 70 đến 99% công suất thiết kế; chúng tôi dự tính ngoài việc sử dụng tốt các xí nghiệp sẵn có, các xí nghiệp mới xây dựng trong kế hoạch 5 nǎm, đến nǎm 1965, sẽ chiếm trên 60% tổng giá trị sản lượng. Về công nghiệp quốc doanh địa phương, tốc độ dự kiến phát triển còn có phần thấp, trong khi lập kế hoạch chúng tôi sẽ cùng với các địa phương nghiên cứu để đẩy mạnh hơn nữa.
Về nông nghiệp, giá trị tổng sản lượng nǎm 1965 có thể tǎng khoảng 61% so với dự tính thực hiện kế hoạch nǎm 1960, bình quân hàng nǎm tǎng khoảng 10%. So với mấy nǎm trước đây, chúng ta thấy rằng trong kế hoạch 5 nǎm, sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển với nhịp độ nhanh (trong ba nǎm khôi phục kinh tế 1955-1957, bình quân hàng nǎm nông nghiệp tǎng 10%; từ nǎm 1955 đến nǎm 1959 bình quân hàng nǎm tǎng 11,2%). Trong khi xây dựng chỉ tiêu về tốc độ phát triển của nông nghiệp, chúng tôi đã chú ý vận dụng phương châm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, đã tính đến những cố gắng rất lớn của chúng ta về các mặt phát triển và củng cố các hợp tác xã, các nông trường quốc doanh, đẩy mạnh công tác thủy lợi, xúc tiến việc cải tiến nông cụ, cải tiến kỹ thuật..., hết sức phát huy sự giúp đỡ của công nghiệp đối với nông nghiệp; mặt khác, cũng có chiếu cố những khó khǎn do thiên tai thường xuyên gây ra và khả nǎng khắc phục những khó khǎn ấy trong những nǎm tới.
Theo những dự tính đã đề ra, đến nǎm 1965, trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp và nông nghiệp, tỷ trọng của công nghiệp và thủ công nghiệp sẽ chiếm khoảng 51%, nông nghiệp sẽ chiếm khoảng 49%.
Về tỷ trọng của các thành phần kinh tế, dự tính: trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp, nǎm 1965, công nghiệp quốc doanh có thể chiếm 68,9%, các xí nghiệp công tư hợp doanh và xí nghiệp hợp tác chiếm 5,3%, thủ công nghiệp hợp tác hoá chiếm 17,7%. Trong tổng giá trị sản lượng nông nghiệp, các nông trường quốc doanh sẽ tǎng giá trị sản lượng lên gấp hơn 10 lần, chiếm khoảng 5,8%, các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp chiếm khoảng 86,2%, sản xuất cá thể còn khoảng 8%.
Về xây dựng cơ bản kinh tế và vǎn hoá, dự định trong kế hoạch 5 nǎm, Nhà nước sẽ đầu tư 5.100 triệu đồng, chiếm khoảng 48% ngân sách chi. So với số vốn đã đầu tư trong 5 nǎm trước đây thì tổng mức đầu tư trong kế hoạch 5 nǎm tǎng 1,5 lần. Với tổng mức đầu tư ấy, vốn xây dựng cơ bản bình quân hàng nǎm tǎng hơn gấp đôi so với thời gian kế hoạch 3 nǎm. Trong kế hoạch 5 nǎm, chúng ta cần phải ra sức xây dựng cơ bản có tính chất sản xuất, tập trung khả nǎng về vốn, vật tư và thi công, xây dựng kịp thời các công trình trọng điểm về công nghiệp, nông nghiệp, giao thông có tác dụng lớn thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển với nhịp độ nhanh. Đồng thời, cần phải đẩy mạnh xây dựng cơ bản phục vụ việc đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề, nghiên cứu khoa học và kỹ thuật; coi trọng đúng mức việc xây dựng các công trình vǎn hoá và công trình phúc lợi để nâng cao đời sống của nhân dân, xúc tiến một bước xây dựng các thành thị, các khu công nhân và hướng dẫn xây dựng nông thôn mới, dần dần thay đổi bộ mặt thành thị và nông thôn ở miền Bắc.
Vấn đề tǎng nǎng suất và hạ giá thành là một mục tiêu phấn đấu rất quan trọng trong kế hoạch 5 nǎm. Dự định bình quân hàng nǎm, nǎng suất của ngành công nghiệp quốc doanh sẽ tǎng khoảng 9%; ngành xây dựng cơ bản sẽ tǎng khoảng 6%...
Về giáo dục và đào tạo cán bộ: tổng số học sinh phổ thông nǎm 1965 sẽ tǎng gần gấp đôi so với nǎm 1960; số học sinh chuyên nghiệp trung cấp sẽ là 85.000 người, tǎng thêm hơn 1,5 lần; số sinh viên đại học sẽ là 40.000 người, tǎng thêm hơn 2 lần. Trong 5 nǎm, sẽ có thêm gần 25.000 cán bộ tốt nghiệp đại học và gần 10 vạn cán bộ tốt nghiệp chuyên nghiệp trung cấp.
Trên cơ sở sản xuất phát triển và nǎng suất lao động nâng cao, đời sống của nhân dân lao động sẽ được cải thiện thêm một bước. Dự tính trung bình thu nhập thực tế của công nhân và nông dân nǎm 1965 có thể tǎng khoảng 30% so với nǎm 1960.
Để chấp hành đúng đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, và phương hướng nhiệm vụ đã đề ra, chúng tôi nhận thấy trong khi xây dựng kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất, cần nắm vững mấy chủ trương lớn sau đây:
1. Xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và ra sức hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa
Sau kế hoạch 3 nǎm, các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa và nửa xã hội chủ nghĩa đã chiếm ưu thế nhưng vẫn chưa được mở rộng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa vẫn chưa được củng cố vững chắc, trình độ sản xuất và trình độ kỹ thuật nói chung vẫn còn lạc hậu. Tình hình ấy đòi hỏi trong thời gian kế hoạch 5 nǎm: Một mặt, cần phải xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội để phát triển sức sản xuất và để tǎng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, mở mang kinh tế quốc doanh, nhất là công nghiệp quốc doanh là lực lượng lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân, và giúp đỡ các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp đẩy mạnh cải tiến kỹ thuật, cải tiến công cụ, thực hiện nửa cơ giới hoá và bước đầu cơ giới hoá sản xuất, củng cố vững chắc chế độ sở hữu tập thể. Mặt khác, cần phải làm xong việc đưa quần chúng lao động vào các hợp tác xã, chuyển các hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao, không ngừng củng cố các hợp tác xã, chú trọng nâng cao ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa của xã viên, tǎng cường công tác quản lý kinh tế trong các hợp tác xã cho phù hợp với yêu cầu phát triển của sức sản xuất. Cần kết hợp chặt chẽ việc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội với việc hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa để mở rộng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ sản xuất và trình độ kỹ thuật, đẩy mạnh phát triển sức sản xuất. Trong hai nhiệm vụ ấy, việc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là khâu quyết định nhất để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên, đồng thời việc hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa là một khâu rất quan trọng. Cho nên chúng ta cần chuyển trọng tâm vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, và phải chú trọng đầy đủ hoàn thành tốt công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện những nhiệm vụ ấy là vừa tiến hành đấu tranh giai cấp, vừa đấu tranh với tự nhiên, là làm cách mạng xã hội chủ nghĩa đồng thời trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, vǎn hoá và kỹ thuật. Trong thời gian kế hoạch 3 nǎm, trọng tâm của nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa; chúng ta đã chú trọng tǎng cường đấu tranh về kinh tế, chính trị và tư tưởng để giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Trong thời gian kế hoạch 5 nǎm, chúng ta chuyển trọng tâm vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải chú trọng lãnh đạo cán bộ và quần chúng học tập vǎn hoá, học tập kỹ thuật, phải nắm vững việc lãnh đạo và quản lý kỹ thuật; nhưng không phải vì thế mà coi nhẹ cuộc đấu tranh về kinh tế, chính trị, tư tưởng. Sau khi thực hiện xong công tư hợp doanh đối với công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa và cǎn bản hoàn thành hợp tác hoá bậc thấp đối với nông nghiệp và thủ công nghiệp, chúng ta phải phát triển và củng cố những thắng lợi đã giành được, nhất là còn phải tiếp tục lâu dài cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị và tư tưởng song song với việc phát triển vǎn hoá, khoa học và kỹ thuật để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn cho chủ nghĩa xã hội.Phải ra sức cải tạo tự nhiên, khắc phục các thiên tai, lợi dụng tốt các nguồn tài nguyên và các điều kiện tự nhiên thuận lợi để phục vụ đời sống; muốn thế, phải tiến quân từng bước vào khoa học, phải cải tạo thiết bị, cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ sử dụng máy móc, bảo đảm cho nền kinh tế quốc dân phát triển không ngừng trên những cơ sở vật chất và kỹ thuật ngày càng nâng cao. Cuộc đấu tranh đó tiến hành được tốt là nhờ có đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, nhờ dựa trên những cơ sở xã hội ngày càng vững chắc của chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì thế, phải nắm vững việc lãnh đạo chính trị làm gốc, ra sức phấn đấu cải tạo xã hội, cải tạo con người, phát huy tinh thần yêu nước, nâng cao ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa của quần chúng, làm cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa trở thành hệ tư tưởng của toàn dân, chống lại mọi biểu hiện của tư tưởng tư sản, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, tiếp tục xóa bỏ mọi tàn tích của tư tưởng phong kiến và những tư tưởng sai lầm khác; phải đập tan mọi thế lực phản động chống lại chủ nghĩa xã hội, chống lại nhân dân; phải tǎng cường củng cố mối quan hệ nhất trí giữa nhân dân và Nhà nước, kết hợp chặt chẽ lực lượng của Nhà nước và của nhân dân, của kinh tế quốc doanh và của kinh tế tập thể để đẩy mạnh phát triển kinh tế và vǎn hoá xã hội chủ nghĩa.
2. Song song phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện và ra sức phát triển công nghiệp nhẹ
Với yêu cầu chuyển trọng tâm của nhiệm vụ chính trị vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất mở đầu cho một thời kỳ phát triển mới có ý nghĩa quyết định của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Chuyển trọng tâm vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa thì đương nhiên phải ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, làm cho công nghiệp giữ địa vị chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Muốn thanh toán tình trạng lạc hậu trong các ngành sản xuất của ta, nâng cao đời sống của nhân dân thì chúng ta phải tiến lên xây dựng một cơ cấu công nghiệp hiện đại, phải phát triển điện lực, phát triển công nghiệp gang thép, công nghiệp chế tạo cơ khí làm tiền đề để đổi mới kỹ thuật, nâng cao nǎng suất lao động, thực hiện tái sản xuất mở rộng xã hội chủ nghĩa. Đó là phương hướng phấn đấu để vừa đẩy mạnh phát triển công nghiệp vừa đẩy mạnh phát triển nông nghiệp; công nghiệp càng phát triển thì càng phát huy tác dụng lãnh đạo và giúp đỡ đối với nông nghiệp, thúc đẩy nông nghiệp phát triển mạnh mẽ.
Một vấn đề khác là chúng ta dựa vào đâu để tiến lên theo phương hướng ấy? Đứng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, chúng ta được sự giúp đỡ to lớn của nền công nghiệp tiên tiến của các nước anh em, đó là một thuận lợi cǎn bản. Bên cạnh sự giúp đỡ ấy, chỗ dựa chính của ta là lực lượng kinh tế trong nước mà hiện nay đại bộ phận là kinh tế nông nghiệp. Chúng ta phảiđi từ nông nghiệp mà tiến lên, phải lợi dụng tốt điều kiện khí hậu nhiệt đới, giải quyết vững chắc vấn đề lương thực là chủ yếu, đồng thời đẩy mạnh phát triển các ngành khác trong nông nghiệp, dựa vào cơ sở của nông nghiệp ngày càng phát triển mà thực hiện từng bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa một cách thuận lợi. Nông nghiệp là cơ sở của công nghiệp, có nhiệm vụ phải bảo đảm cung cấp lương thực và thực phẩm cho các thành phố và khu công nghiệp; cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm; tǎng cường nguồn hàng nông sản xuất khẩu để đổi lấy thiết bị cho công nghiệp; bổ sung nhân lực cho sản xuất công nghiệp và xây dựng cơ bản; nâng cao thu nhập, nâng cao sức mua bằng tiền của nông dân, mở rộng việc tiêu thụ hàng công nghiệp, kể cả các tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng ở nông thôn và góp phần tǎng tích lũy cho sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Chúng ta chú trọng nắm vững việc lãnh đạo nông nghiệp thì nền nông nghiệp nước ta có đầy đủ khả nǎng để thực hiện các nhiệm vụ ấy. Cần phải hướng công nghiệp phục vụ nông nghiệp, đồng thời phải hết sức động viên mọi nǎng lực tiềm tàng trong nông nghiệp để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp.
Song song phát triển công nghiệp và nông nghiệp theo con đường xã hội chủ nghĩa là xây dựng nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Trong kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất, chúng ta phấn đấu nhằm thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện và ra sức phát triển công nghiệp nhẹ. Ba bộ phận ấy - công nghiệp nặng, nông nghiệp và công nghiệp nhẹ - quan hệ mật thiết với nhau, cùng nương tựa nhau, thúc đẩy nhau phát triển với nhịp độ nhanh và theo tỷ lệ cân đối. Mục tiêu là phải bảo đảm cung cấp lương thực và tǎng thêm các nguồn thực phẩm; bảo đảm cung cấp sức điện, các nguyên liệu về nông nghiệp cũng như về công nghiệp, nhiên liệu và các vật liệu mà trong nước có khả nǎng và cần phải tự giải quyết cho các ngành sản xuất và xây dựng; nâng cao khả nǎng chế tạo máy móc theo những yêu cầu nhất định, phối hợp một cách có lợi nhất với sự giúp đỡ về thiết bị của các nước anh em để thiết bị cho các ngành kinh tế quốc dân; bảo đảm cung cấp các loại hàng thông dụng cho đời sống của nhân dân; tǎng nguồn hàng xuất khẩu gồm các nông sản, lâm sản, hải sản, khoáng sản, các sản phẩm công nghiệp và thủ công nghiệp để mở rộng việc trao đổi ngoại thương. Thực hiện những mục tiêu ấy cũng là phấn đấu để nâng cao thu nhập quốc dân, tǎng thêm tích lũy cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân lao động.
Trong việc thực hiện những mục tiêu ấy, cần giải quyết đúng đắn quan hệ cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa nhóm A và nhóm B, giữa sản xuất, xây dựng và cung cấp vật tư, tiêu thụ sản phẩm. Đi đôi với phát triển công nghiệp và nông nghiệp, cần đẩy mạnh phát triển giao thông, thỏa mãn đầy đủ yêu cầu về vận chuyển. Cần xúc tiến việc trị thủy và khai thác hệ thống sông Hồng, lợi dụng tổng hợp các mặt điện lực, thủy lợi và vận tải để phục vụ đắc lực cho công nghiệp và nông nghiệp.
Tóm lại, chúng ta cần phải tập trung sức vào việc phát triển công nghiệp nhiều hơn trước đây, đồng thời vẫn phải rất coi trọng nông nghiệp. Trung ương cần tǎng cường lãnh đạo công nghiệp và vẫn phải rất coi trọng lãnh đạo nông nghiệp, nắm vững lãnh đạo nông nghiệp; và tùy tình hình cụ thể từng lúc, từng nơi, sẽ định rõ trọng tâm trong việc chỉ đạo thực hiện. Đối với các thành phố, các khu công nghiệp thì nhiệm vụ trọng tâm là phát triển công nghiệp; đối với các vùng nông thôn thì nhiệm vụ trọng tâm là phát triển nông nghiệp, đồng thời coi trọng phát triển công nghiệp địa phương và phục vụ đắc lực sự phát triển công nghiệp của trung ương, của toàn quốc.
3. Tiến dần lên phân bố hợp lý sức sản xuất
Trong nền kinh tế miền Bắc nước ta, trình độ sản xuất nói chung còn lạc hậu, tình hình phân phối sức sản xuất giữa công nghiệp và nông nghiệp, và giữa các vùng rất không đều nhau. Chúng ta phải phấn đấu để xoá bỏ những di tích ấy của chế độ thực dân và phong kiến. Đi đôi với việc mở rộng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, và dựa trên cơ sở ấy, chúng ta phải đẩy mạnh phát triển sức sản xuất và tiến dần lên phân bố sức sản xuất cho hợp lý.
Trong quá trình thực hiện đường lối ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, chúng ta sẽ điều chỉnh sức sản xuất giữa công nghiệp và nông nghiệp, kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa công, nông nghiệp và giao thông vận tải. Cũng trong quá trình ấy, chúng ta cần chú trọng tiến dần lên phân bố hợp lý sức sản xuất ở miền xuôi và miền núi,mở mang các vùng kinh tế, thực hiện từng bước và một cách có kế hoạch sự phân công và phối hợp giữa các vùng kinh tế. Giải quyết vấn đề này, chúng ta cần kết hợp ba mặt: hết sức lợi dụng mọi khả nǎng về tài nguyên và đất đai, về người, về kỹ thuật, đẩy mạnh phát triển kinh tế và vǎn hoá ở đồng bằng và miền núi một cách nhịp nhàng để bổ sung cho nhau; giúp đỡ đồng bào các dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc đa số; nâng cao dần đời sống vật chất và vǎn hoá của nhân dân ở miền núi, tǎng cường đoàn kết giữa các dân tộc trong nước để phấn đấu cho chủ nghĩa xã hội; kết hợp giữa phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng, tǎng cường củng cố hậu phương, củng cố biên giới, tích cực bảo vệ miền Bắc là cơ sở vững mạnh của cuộc đấu tranh thống nhất Tổ quốc.
Trong kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất, chúng ta cần đẩy mạnh phát triển kinh tế và vǎn hoá ở miền xuôi, đó là chỗ dựa để tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn miền Bắc. Đối với các thành phố, các khu công nghiệp sẵn có, cần tích cực mở rộng theo một quy hoạch hợp lý; riêng ở Hà Nội sẽ xây dựng thêm một số xí nghiệp, dần dần xây dựng thủ đô của ta thành một trung tâm công nghiệp quan trọng, nhưng cũng phải đề phòng xu hướng muốn tập trung xây dựng trong một thời gian ngắn quá nhiều xí nghiệp ở Hà Nội, gây nên khó khǎn về nhiều mặt.
Đi đôi với việc phát triển kinh tế và vǎn hoá ở miền xuôi, cần ra sức phấn đấu để thay đổi một bước bộ mặt kinh tế và vǎn hoá ở miền núi, tạo cơ sở vững chắc cho những bước phát triển về sau với quy mô lớn hơn.Cần chuyển một bộ phận lực lượng của Nhà nước và của nhân dân ở miền xuôi lên một số vùng miền núi, xây dựng một số nông trường và lâm trường, một số công trình thủy lợi, một số xí nghiệp công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, mở một số trường chuyên nghiệp cần cho việc đào tạo cán bộ, phát triển và củng cố các trục giao thông chính về đường sắt, đường bộ và đường thủy nối thông giữa các vùng, xây dựng các khu vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng một số thành thị ở miền núi. Kết hợp với các công trình do trung ương xây dựng, các địa phương miền núi cần nắm trọng tâm là ra sức phát triển nông nghiệp và lâm nghiệp, đồng thời tích cực phát triển công nghiệp địa phương, mở mang các đường giao thông địa phương đến các hợp tác xã, mở rộng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh phát triển các sự nghiệp giáo dục, vǎn hoá, y tế.
Trong kế hoạch 5 nǎm và trong các kế hoạch sau, chúng ta sẽ xây dựng nhiều công trình về công nghiệp, nông nghiệp, giao thông..., cơ cấu kinh tế ở miền Bắc sẽ có những tiến bộ cǎn bản, các khu vực sản xuất công nghiệp và nông nghiệp cũng sẽ ngày càng mở rộng. Tình hình ấy đòi hỏi chúng ta phải chú trọng điều tra nghiên cứu mọi mặt, phải xây dựng quy hoạch về các ngành cần thiết, quy hoạch của một số vùng kinh tế, xây dựng quy hoạch chung của toàn quốc về các công trình trọng điểm, sắp xếp toàn diện các cơ sở cho phù hợp với yêu cầu phân bố sức sản xuất. Không coi trọng đầy đủ và giải quyết tốt vấn đề này thì sẽ gây ra những lãng phí rất lớn trong việc sử dụng vốn đầu tư cũng như trong việc lợi dụng công suất thiết bị và sẽ gây ra nhiều khó khǎn cho việc quản lý kinh tế. Cần xúc tiến công tác điều tra thǎm dò tài nguyên tự nhiên và điều tra cơ bản để phục vụ việc nghiên cứu các quy hoạch. Giữa các ngành và các địa phương có liên quan, cần phải phối hợp chặt chẽ trong việc lập các quy hoạch và trong việc xây dựng nhiệm vụ thiết kế của các công trình, hết sức khắc phục bệnh quan liêu, đại khái và tư tưởng bản vị, cục bộ.
Để đẩy mạnh phát triển sức sản xuất và tiến dần lên phân bố hợp lý sức sản xuất, chúng ta phải chấp hành đúng đắn phương châm kết hợp các công trình loại lớn, loại vừa và loại nhỏ. Về những ngành cần thiết và ở những nơi có điều kiện, chúng ta phải xây dựng một số công trình loại lớn và loại vừa, theo phương pháp sản xuất tiên tiến; quy mô của các công trình ấy phải được sắp xếp phù hợp với yêu cầu trước mắt và về sau, nhằm phát huy hiệu quả kinh tế cao nhất. Kết hợp với các công trình trọng điểm, cần xây dựng nhiều cơ sở sản xuất loại nhỏ thiết bị bằng công cụ nửa cơ khí, hoặc đi từ sản xuất thủ công tiến lên nửa cơ khí hoá và cơ khí hoá. Trong một số ngành, tùy theo điều kiện tài nguyên và tiêu thụ ở từng nơi, có thể xây dựng một hệ thống xí nghiệp gồm cả quy mô lớn, vừa và nhỏ. Đối với những ngành mà nguyên liệu và nhu cầu phân tán, không cần phải xây dựng xí nghiệp lớn, không đòi hỏi kỹ thuật cao, thì nên phát triển các cơ sở sản xuất nhỏ rải rác ở các địa phương. Bên cạnh một số xí nghiệp lớn, có thể xây dựng một số cơ sở nhỏ để phục vụ việc chế biến ban đầu hoặc lợi dụng các nguyên liệu không đúng quy cách và các phế phẩm... Kết quả bước đầu trong việc xây dựng công nghiệp địa phương cho chúng ta thấy rõ: bằng cách phát triển các cơ sở loại nhỏ, chúng ta có thể động viên được lực lượng phân tán của các địa phương vào việc xây dựng kinh tế, tiêu ít vốn mà làm được nhiều việc, đưa vào sản xuất nhanh, lợi dụng được các nguyên liệu, vật liệu ở địa phương, tạo thêm công việc làm cho quần chúng lao động, tǎng thêm các loại hàng và thu nhập cho nhân dân. Đó cũng là một cách rất tốt để hướng dẫn quần chúng làm kỹ thuật; động viên nông dân và những người lao động khác làm công nghiệp, phát triển nhanh chóng công nghiệp không những ở thành thị mà cả ở nông thôn, ở miền núi, kết hợp chặt chẽ giữa nông dân và công nhân, giữa nông nghiệp và công nghiệp. Tóm lại, chủ trương xây dựng các xí nghiệp loại nhỏ, phát triển công nghiệp địa phương là thích hợp với các điều kiện hiện nay về kinh tế và kỹ thuật của nước ta. Để bảo đảm kết quả tốt, cũng cần phải nghiên cứu quy hoạch phát triển công nghiệp địa phương cho từng tỉnh, thành phố, cho từng ngành, xây dựng các cơ sở một cách có tổ chức; và phải nắm vững công tác quản lý, thường xuyên củng cố các cơ sở đã xây dựng. Vì đất đai mỗi địa phương của ta hẹp, chúng ta càng phải coi trọng việc sắp xếp màng lưới công nghiệp địa phương, hết sức tránh phát triển bừa bãi.
4. Đề cao tinh thần cần kiệm xây dựng Tổ quốc, giải quyết đúng đắn quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng
Nước ta, nhân dân ta còn nghèo, sự nghiệp phát triển kinh tế và vǎn hoá đòi hỏi phải có nhiều vốn, chúng ta phải hết sức đề cao tinh thần cần kiệm xây dựng Tổ quốc. Cần và kiệm trong việc mở mang xây dựng cơ bản, trong việc tǎng gia sản xuất, trong việc phân phối, thu nhập, làm cho ba mặt ấy hỗ trợ nhau và cùng tiến triển một cách điều hoà.
Các ngành xây dựng, sản xuất, vận tải và thương nghiệp phải ra sức nâng cao nǎng suất lao động và hạ giá thành, thực hiện phương châm nhiều, nhanh, tốt, rẻ trong phạm vi hoạt động của mỗi ngành. Cần phải giáo dục cho mỗi cán bộ, công nhân, nông dân, cho mọi người biết quý trọng từng đồng xu, từng hạt gạo làm ra, từng phút lao động, quý trọng của công và của tập thể như của riêng mình, triệt để chống quan liêu, lãng phí, tham ô, hết sức phát huy tính tích cực và sáng tạo, làm lợi cho nước, cho nhà. Cần phát động quần chúng, làm cho mỗi người tự thấy cần thiết phải làm như vậy, giúp đỡ và thúc đẩy mọi người chung quanh cùng làm như vậy, xây dựng thành một tác phong công tác, tác phong sinh hoạt của xã hội xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan quản lý kinh tế, các cơ quan hành chính, sự nghiệp phải hết sức đề cao ý thức trách nhiệm và tinh thần kỷ luật trong mọi chi tiêu, cố gắng tiêu ít tiền mà làm được nhiều việc, đạt được kết quả tốt. Cần phải khắc phục tình trạng ứ đọng tiền vốn và vật tư, nơi thừa thì tiêu dùng bừa bãi, để xảy ra lãng phí, trái lại có những nơi không được bảo đảm nhu cầu để phát triển công tác. Biên chế các cơ quan gần đây tǎng lên nhiều, vượt mức chỉ đạo của kế hoạch, phải kịp thời giải quyết tình hình ấy, coi đó là một hướng quan trọng trong việc chống quan liêu, lãng phí.
Bằng cách ra sức tǎng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, chúng ta làm cho thu nhập quốc dân không ngừng tǎng thêm. Trong việc phân phối vốn tích lũy và tiêu dùng, chúng ta cũng phải hết sức đề cao ý thức cần kiệm xây dựng Tổ quốc. Cần chú trọng tǎng tích lũy nhiều hơn để đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất; đồng thời trên cơ sở phát triển sản xuất, phải rất chǎm lo cải thiện dần đời sống của nhân dân. Chúng ta tǎng tích lũy nhiều hơn là nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế và vǎn hoá, tạo điều kiện để không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân. Sở dĩ chúng ta có thể tǎng tích lũy nhiều hơn trước đây là nhờ thu nhập quốc dân được nâng cao dần; tǎng tích lũy nhiều hơn mà vẫn bảo đảm tiếp tục cải thiện đời sống của nhân dân. Để giải quyết đúng đắn quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, phải dựa trên cơ sở phát triển sản xuất mà cải thiện đời sống, dành phần thích đáng cho tích lũy.
Các chính sách về tài chính, về giá cả, về tiêu dùng, về tiền lương... của Nhà nước cần phải quán triệt đầy đủ phương châm nói trên. Các hợp tác xã, trong việc phân chia hoa lợi, phân chia thu nhập, tùy theo điều kiện cụ thể từng nơi, từng lúc, cũng phải chấp hành đúng phương châm ấy. Mỗi người đối với phần thu nhập của mình cũng phải có kế hoạch chi tiêu hợp lý, cố gắng tiết kiệm tiêu dùng.
5. Tǎng cường sự hợp tác kinh tế với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa
Đối với nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu đang xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, sự giúp đỡ và hợp tác quốc tế của các nước anh em là một điều kiện không thể thiếu được, là một nhân tố thuận lợi cǎn bản.
Dựa vào sự giúp đỡ và hợp tác quốc tế của các nước anh em, chúng ta cần tranh thủ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền kinh tế của ta thành một nền kinh tế tự chủ, làm cơ sở để củng cố độc lập, đồng thời thành một đơn vị khǎng khít trong hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện yêu cầu ấy, theo tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản, chúng ta cần khắc phục tư tưởng ỷ lại còn tồn tại trong cán bộ và nhân dân và phải kết hợp chặt chẽ ba mặt: phát huy cao độ tinh thần tự lực cánh sinh, sử dụng sự giúp đỡ của các nước anh em một cách hợp lý và có lợi nhất, và tích cực mở rộng sự hợp tác kinh tế của ta với các nước anh em.
Trong kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất, chúng ta tiếp tục nhờ Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác giúp đỡ toàn diện trong việc xây dựng các công trình trọng điểm về trị thủy và điện lực, luyện gang thép, luyện chì kẽm, chế tạo cơ khí, khai thác mỏ, sản xuất phân bón, sản xuất một số vật liệu xây dựng, xây dựng một số cơ sở công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm, phát triển các nông trường quốc doanh, mở rộng đường sắt...
Trong quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, chủ yếu là ta nhận sự giúp đỡ của bạn, đồng thời hết sức phát huy sự hợp tác của ta với bạn. Đối với các nước anh em khác, cần cân nhắc yêu cầu và khả nǎng của ta cũng như của bạn, bảo đảm lợi ích chính trị và kinh tế của hai bên.
Về hợp tác khoa học và kỹ thuật, cần tranh thủ học tập kinh nghiệm tiên tiến của Liên Xô, Trung Quốc và của các nước anh em khác, nhờ giúp đỡ trong việc điều tra, thǎm dò, thiết kế, đào tạo cán bộ nghiên cứu khoa học và cán bộ kỹ thuật, nghiên cứu giải quyết một số vấn đề kỹ thuật theo yêu cầu của điều kiện tự nhiên ở nước ta.
Trong việc trao đổi ngoại thương, cần bảo đảm phân phối phần lớn kim ngạch xuất nhập khẩu trong khối các nước xã hội chủ nghĩa, hết sức cố gắng tǎng kim ngạch hàng nǎm với các nước anh em; cần chú trọng cung cấp những loại hàng mà các nước anh em cần với khối lượng ngày càng tǎng như apatít, crômmít, gỗ, các đặc sản nhiệt đới... Trong việc mở rộng quan hệ buôn bán với các nước á - Phi, cần phối hợp chặt chẽ với các nước anh em để phát huy ảnh hưởng tốt của cả phe xã hội chủ nghĩa và nâng cao địa vị quốc tế của nước ta. Đồng thời, cần phối hợp chặt chẽ với các nước anh em trong quan hệ giao dịch với các nước tư bản chủ nghĩa để đấu tranh có lợi về mặt ngoại thương và về mặt chính trị.
III- NHIỆM VỤ VỦA CÁC NGÀNH KINH TẾ
VÀ VĂN HOÁ TRONG KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT
1. Phát triển công nghiệp
Trong kế hoạch 5 nǎm, chúng ta cần phải xây dựng một bước cơ sở vật chất và kỹ thuật cho một nền công nghiệp hiện đại xã hội chủ nghĩa theo đường lối phát triển ưu tiên công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển công nghiệp nhẹ. Kết hợp với phát triển công nghiệp hiện đại của Nhà nước, vẫn phải coi trọng và ra sức phát triển thủ công nghiệp hợp tác hoá bằng cách đẩy mạnh cải tiến công cụ, cải tiến thiết bị và cải tiến kỹ thuật.
Cần đẩy mạnh sản xuất các tư liệu sản xuất, chủ yếu là phát triển điện lực đi trước một bước, phát triển công nghiệp gang thép và công nghiệp chế tạo cơ khí, đồng thời phát triển công nghiệp than, công nghiệp vật liệu xây dựng, và bước đầu xây dựng công nghiệp hoá học, nhằm phát huy nǎng lực trong nước, cung cấp một số loại vật tư kỹ thuật, nguyên liệu, vật liệu cho xây dựng cơ bản, cho sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải. Đặc biệt cần chú trọng hướng công nghiệp phục vụ nông nghiệp, phục vụ cải tiến nông cụ, cải tiến kỹ thuật và chế biến nông sản.
Cần ra sức phát triển các hàng tiêu dùng, thỏa mãn hầu hết các nhu cầu phổ thông về mặc, ǎn uống, đồ dùng, học tập, bảo vệ sức khoẻ, nâng cao dần đời sống của nhân dân.
Việc phát triển công nghiệp còn phải nhằm đẩy mạnh chế biến các nông sản, mở rộng khai thác một số khoáng sản, mở rộng gia công các loại hàng thủ công có giá trị để tǎng thêm nguồn hàng xuất khẩu.
Sau đây là phương hướng phát triển của các ngành công nghiệp.
Điện lực: Cần phát triển thủy điện kết hợp với phát triển nhiệt điện, nhằm giảm giá thành xây dựng và giá thành phát điện, điều hoà việc cung cấp điện, phục vụ kịp thời cho nhu cầu phát triển kinh tế trong kế hoạch 5 nǎm và chuẩn bị một phần cho kế hoạch sau. Đi đôi với việc xây dựng các nhà máy mới, cần cải tiến thiết bị, tǎng thêm công suất một số nhà máy sẵn có. ở các địa phương, cần chú trọng lợi dụng sức nước, sức gió, hơi mêtan, xây dựng những trạm phát điện nhỏ để phục vụ cho nhu cầu của địa phương.
Để sử dụng hợp lý khả nǎng các nhà máy điện, cần xây dựng hệ thống lưới điện nối liền các nhà máy loại lớn và loại vừa với nhau và với những nơi tiêu thụ điện. Mặt khác, cần tǎng cường quản lý việc dùng điện, hết sức tiết kiệm điện. Trong những nǎm 1961-1963, cần nghiên cứu mọi biện pháp để giảm nhẹ tình hình cǎng thẳng về cung cấp điện, đồng thời phải tập trung sức xây dựng xong các công trình đúng thời hạn để khắc phục sớm khó khǎn về thiếu điện.
Luyện kim: Nhiệm vụ chủ yếu về công nghiệp luyện kim là cố gắng cung cấp phần lớn nhu cầu về gang, thép thông thường cho xây dựng cơ bản và một phần cho việc chế tạo cơ khí. Cần xây dựng xong khu gang thép Thái Nguyên với công suất là 200.000 tấn, và chú trọng phát triển sớm các lò cao cỡ nhỏ ở những nơi có điều kiện để sản xuất gang và xây dựng một số xí nghiệp liên hợp gang thép cỡ nhỏ. Để phục vụ cho công nghiệp gang thép, cần xây dựng và khai thác các mỏ sắt, đá vôi, đất chịu lửa, v.v., xây dựng một số xưởng luyện các loại hợp kim gang cần cho việc nấu thép. Đồng thời, cần xúc tiến việc điều tra, thǎm dò, thiết kế, tích cực chuẩn bị để tiếp tục phát triển hơn nữa công nghiệp gang thép trong kế hoạch 5 nǎm lần thứ hai.
Về luyện kim không có chất sắt, cần xúc tiến việc khai thác và sản xuất chì, kẽm, khai thác bốcxít và luyện nhôm, tích cực tǎng thêm khả nǎng khai thác crômmít, huy động tốt nhà máy thiếc. Đối với những mỏ đồng có trữ lượng ít, cần xây dựng cơ sở khai thác và sản xuất quy mô nhỏ.
Chế tạo cơ khí: Trong kế hoạch 5 nǎm, ngành chế tạo cơ khí có nhiệm vụ:
- Sản xuất một số loại máy móc công cụ chính xác cấp II trở xuống, một số loại thiết bị phối hợp đi theo với thiết bị toàn bộ, thiết bị về điện từ 100 kilôoát trở xuống, tàu thủy từ 1.000 tấn trở xuống, xà lan, tàu kéo, canô, toa xe, một số thiết bị khoan lò, thiết bị thi công xây dựng cơ bản loại nhỏ.
- Sản xuất các loại nông cụ cải tiến, một số máy móc nông nghiệp loại nhỏ, các loại máy móc giản đơn chế biến nông sản, ép gạch... để phục vụ nông nghiệp và công nghiệp địa phương.
- Bảo đảm sửa chữa lớn và sản xuất một số loại phụ tùng, dụng cụ cho các ngành công nghiệp, vận tải, xây dựng cơ bản...
Cần kết hợp các xưởng cơ khí sẽ xây dựng trong kế hoạch 5 nǎm với các cơ sở sẵn có, bố trí thành một màng lưới cơ khí ở các địa phương để thực hiện các nhiệm vụ nói trên.
Vấn đề quan trọng bậc nhất là phải gấp rút thống nhất và tǎng cường quản lý ngành cơ khí, phân công sản xuất hợp lý giữa các cơ sở quốc doanh và công tư hợp doanh, giữa các cơ sở của trung ương và các cơ sở địa phương để tận dụng khả nǎng hiện có và sử dụng tốt các cơ sở sẽ xây dựng thêm.
Than: Cần thỏa mãn đầy đủ nhu cầu trong nước về các loại than không khói, đồng thời tǎng thêm mức xuất khẩu. Về than mỡ, cần hết sức đẩy mạnh thǎm dò, thiết kế... để tiến tới giải quyết cho nhu cầu luyện than cốc.
Hướng chính để tǎng sản lượng than vẫn là Hòn Gai, Cẩm Phả. Cần chú trọng nâng cao trình độ khai thác cơ giới hoá ở đấy và dần dần mở rộng việc khai thác bằng hầm lò. Đồng thời tranh thủ mở các công trường khai thác ở Uông Bí, Mạo Khê, Tràng Bạch, Làng Cẩm. Ngoài ra, các địa phương có những mỏ than nhỏ, cần tổ chức khai thác để phục vụ nhu cầu của công nghiệp địa phương.
Vật liệu xây dựng: Cần thống nhất quản lý ngành vật liệu xây dựng, cố gắng đẩy mạnh sản xuất và khai thác để thoả mãn nhu cầu về xây dựng cơ bản: tǎng thêm cơ sở và phát triển sản xuất các loại gạch máy, ngói máy, gạch chịu lửa, cải tiến kỹ thuật và nâng cao chất lượng gạch ngói thủ công; đẩy mạnh khai thác cát, sỏi, đá; tǎng thêm sản xuất các loại xi mǎng và các loại vôi; sản xuất các loại vật liệu đúc sẵn để phục vụ việc cơ giới hoá ngành xây dựng; sản xuất các loại kính, đồ dùng vệ sinh..., cần cho việc xây dựng ở thành phố và xây dựng các nhà máy; đồng thời nghiên cứu, sản xuất các loại vật liệu rẻ tiền cần cho việc xây dựng nhà cửa ở nông thôn.
Hóa chất và phân bón: Nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất phân bón và thuốc trừ sâu cho nông nghiệp, đồng thời sản xuất một số hoá chất cơ bản như xút, axítsunfuric, một số loại nguyên liệu hóa chất như thuốc nhuộm, sản xuất thuốc kháng sinh và một số dược liệu, sản xuất bông tơ nhân tạo theo quy mô nhỏ và tích cực chuẩn bị tiến tới sản xuất bông tơ nhân tạo theo quy mô lớn.
Cần xây dựng sớm nhà máy phân đạm; tích cực mở rộng khai thác mỏ apatít, xây dựng nhà máy làm giàu quặng, đẩy mạnh khai thác apatít để trao đổi với các nước anh em; tích cực thǎm dò quặng lưu huỳnh cần cho việc sản xuất axít sunfuric.
Khai thác gỗ và chế biến gỗ: Nhiệm vụ chính là tǎng khối lượng gỗ khai thác, hết sức lợi dụng các loại gỗ cành, gỗ nhánh; cơ giới hoá việc cưa, xẻ gỗ; nghiên cứu, tổ chức ép gỗ vụn và sấy gỗ để tiết kiệm gỗ; chú trọng sản xuất các đồ gỗ dùng trong gia đình, cung cấp cho một phần nhu cầu của nhân dân.
Cần cố gắng thỏa mãn nhu cầu về giấy cho việc phát triển vǎn hoá. Đi đôi với việc xây dựng các xưởng hiện đại sản xuất giấy viết, giấy in, giấy báo, cần mở những xưởng giấy nhỏ ở các địa phương để sản xuất loại giấy thường.
Dệt, may mặc và da: Cần mở rộng và cải tiến Nhà máy dệt Nam Định, xây dựng và lợi dụng tốt Nhà máy dệt Hà Nội, Nhà máy sợi, và cải tiến nghề dệt thủ công. Xây dựng các nhà máy dệt kim, dệt bao tải, chế biến gai, đan lưới đánh cá, thuộc da, đóng giầy.
Cần nâng cao kỹ thuật bật bông, kéo sợi để nâng cao hơn nữa mức lợi dụng bông sợi; nghiên cứu dùng các loại cây có sợi như đay, gai... để dệt vải. Cần tổ chức thu mua và thuộc da lợn để tǎng sản lượng da.
Công nghiệp thực phẩm: Cần thỏa mãn nhu cầu về một số thực phẩm chủ yếu như đường, nước mắm và tǎng thêm mức cung cấp về một số sản phẩm khác. Đồng thời, cần đẩy mạnh việc chế biến những sản phẩm để xuất khẩu.
Cần sử dụng tốt nǎng lực của nhà máy cá hộp; phát triển thêm các nhà máy xay loại vừa và nhỏ. Đi đôi với kế hoạch phát triển nông trường quốc doanh, cần xây dựng và sắp xếp hợp lý các cơ sở chế biến nông sản, như xưởng chè, xưởng chế biến cà phê, xưởng làm hoa quả hộp, bột, thịt, sữa.
Về các ngành công nghiệp nhẹ khác:Cần chú trọng phát triển sản xuất các đồ dùng trong gia đình, xây dựng thêm nhà in, xây dựng xưởng phim, xưởng sản xuất đồ dùng thể thao, xưởng sản xuất học cụ, xưởng sản xuất xe đạp, kết hợp với xưởng máy điện thoại, sản xuất các phụ tùng thông dụng về vô tuyến điện để phục vụ công tác truyền thanh...
Đi đôi với phát triển công nghiệp quốc doanh hiện đại do trung ương quản lý, cần phát triển công nghiệp quốc doanh địa phương một cách có kế hoạch, đẩy mạnh phát triển thủ công nghiệp và tận dụng nǎng lực sản xuất của các cơ sở công nghiệp công tư hợp doanh. Cần có kế hoạchkết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp do trung ương quản lý và công nghiệp địa phương, giữa công nghiệp quốc doanh, công nghiệp công tư hợp doanh và thủ công nghiệp hợp tác hoá để hỗ trợ nhau cùng phát triển và bổ sung cho nhau.
Về công nghiệp quốc doanh địa phương, nên xây dựng những cơ sở nhỏ sản xuất theo lối nửa cơ khí, nhằm giải quyết những nhu cầu của địa phương và hỗ trợ cho công nghiệp của trung ương. Về hướng phát triển, cần chú trọng những ngành nghề mà thủ công nghiệp không giải quyết được, hoặc không cung cấp đủ như nông cụ cải tiến, phương tiện vận tải thô sơ cải tiến, phân bón, vật liệu xây dựng, xay xát gạo, đường, bột, nước mắm, cá sấy... Những cơ sở đòi hỏi phải có một trình độ kỹ thuật nhất định như luyện gang thép, khai thác than, xưởng cơ khí nhỏ... thì trung ương tích cực giúp đỡ địa phương xây dựng, hoặc trung ương xây dựng rồi giao cho địa phương quản lý. Trong việc xây dựng công nghiệp quốc doanh địa phương, cần chú trọng khả nǎng giải quyết nguyên liệu của địa phương trên cơ sở bảo đảm cung cấp nguyên liệu cho trung ương và không ỷ lại vào việc trung ương cung cấp nguyên liệu; cố gắng bảo đảm phẩm chất và tiêu thụ; một số loại sản phẩm cần đặc biệt khuyến khích như gang, thép... thì Nhà nước cần có chính sách bù lỗ trong thời gian đầu giá thành sản xuất còn cao, nhưng địa phương và cơ sở sản xuất phải phấn đấu để hạ dần giá thành.
Đối với thủ công nghiệp, cần hướng dẫn và giúp đỡ đẩy mạnh sản xuất vật liệu xây dựng nhà cửa cho nhân dân, chế biến thực phẩm dùng ở địa phương, chế biến lần đầu các loại nông sản, lâm sản, hải sản để cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, phát triển các nghề làm đồ mây, cói, tre, song, các hàng mỹ nghệ và các hàng khác có giá trị xuất khẩu. Những ngành quan trọng như sản xuất ngũ kim nhỏ, sản xuất vật liệu xây dựng cung cấp cho Nhà nước, dệt vải, thuộc da... cần được chú ý giúp đỡ cải tiến thiết bị, cải tiến kỹ thuật, nâng cao phẩm chất và hạ giá thành sản phẩm.
2. Phát triển nông nghiệp
Trong kế hoạch 5 nǎm, chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh cải tạo và phát triển nông nghiệp.
Cần ra sức hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp, đồng thời tích cực phát triển nông trường quốc doanh, tạo cơ sở thuận lợi để phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc.
Nhiệm vụ trọng tâm về sản xuất nông nghiệp là giải quyết tốt vấn đề lương thực, đồng thời hết sức phát triển cây công nghiệp, chǎn nuôi, ngư nghiệp, lâm nghiệp. Một mặt, cần phải bảo đảm nhu cầu về lương thực và thực phẩm của nhân dân; sức kéo và phân bón cho nông nghiệp; cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp thực phẩm, công nghiệp dệt, công nghiệp gỗ và công nghiệp giấy. Mặt khác, cần phải tǎng thêm nguồn hàng nông sản xuất khẩu, nhất là các đặc sản vùng nhiệt đới.
Sau đây là phương hướng phát triển của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp:
Lương thực: Mục tiêu phấn đấu là tiến tới bảo đảm cho nông dân ǎn no, bảo đảm cung cấp lương thực cho các vùng phi nông nghiệp, đồng thời có dự trữ vững chắc và dành một phần xuất khẩu thích đáng.
Trong việc sản xuất lương thực, vẫn lấy lúa làm chủ yếu, đồng thời phải hết sức coi trọng ngô, khoai, sắn để bổ sung một phần lương thực cho người và cung cấp thức ǎn cho gia súc. Cần hướng dẫn các hợp tác xã đẩy mạnh sản xuất rau, đậu là một nguồn thực phẩm quan trọng; các thành thị, khu công nghiệp phải có kế hoạch phát triển sản xuất rau, đậu và các thực phẩm khác ở các vùng lân cận, hết sức tránh phải vận chuyển từ xa đến.
Để giải quyết tốt vấn đề lương thực, cần tích cực tǎng thêm diện tích trồng lúa và hoa màu, nhất là ở các vùng miền núi, bằng cách tǎng vụ, khai hoang, và hết sức đẩy mạnh thâm canh, tǎng nǎng suất trên toàn bộ diện tích trồng trọt.
Cây công nghiệp và cây ǎn quả: Đi đôi với việc giải quyết tốt vấn đề lương thực, cần hết sức phát triển cây công nghiệp và cây ǎn quả, nhằm bảo đảm nhu cầu về ǎn (các loại cây có dầu và mía), nhu cầu về mặc (các loại cây có sợi) và đẩy mạnh phát triển các cây đặc sản cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và hàng cho xuất khẩu (chú trọng cao su, cà phê, chè...).
Cần song song phát triển các loại cây từng vụ và các loại cây dài ngày. Các nông trường quốc doanh chủ yếu trồng cây dài ngày, các hợp tác xã chủ yếu trồng cây từng vụ.
Trong việc phát triển cây công nghiệp, cần chú ý tǎng diện tích đi đôi với tǎng nǎng suất và tǎng phẩm chất, tǎng cường việc chế biến đi đôi với phát triển trồng trọt.
Cần đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu để giải quyết một số vấn đề về kỹ thuật trồng cây công nghiệp. Hết sức chú trọng giải quyết kỹ thuật trồng bông, cải tạo và phổ biến giống bông dài sợi, quy định thời vụ thích hợp cho từng vùng, cải tiến phương pháp trồng trọt và chǎm bón... nhằm nâng cao nǎng suất và bảo đảm thu hoạch. Đi đôi với việc tǎng sản lượng bông, cần ra sức phát triển các loại cây có sợi khác, hết sức đẩy mạnh phát triển trồng dâu nuôi tằm, cố gắng tǎng thêm nguyên liệu trong nước cho ngành dệt.
Chǎn nuôi: Nhiệm vụ của ngành chǎn nuôi là phải cung cấp đầy đủ sức kéo và phân bón theo yêu cầu tǎng diện tích trồng trọt, cải tiến kỹ thuật canh tác và cải tiến việc vận chuyển; đồng thời tǎng mức cung cấp thịt, trứng, sữa cho nhu cầu của nhân dân; cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
Cần ra sức phát triển chǎn nuôi trâu bò, nhất là trâu bò cày, hết sức đẩy mạnh chǎn nuôi lợn, coi trọng phát triển chǎn nuôi ngựa ở miền núi và phát triển chǎn nuôi các loại gia súc khác. Nghề nuôi ong cần được phát triển rộng rãi.
Để đẩy mạnh phát triển chǎn nuôi về số lượng cũng như tǎng trọng lượng của súc vật, cần giải quyết vấn đề mấu chốt là cung cấp đầy đủ thức ǎn cho gia súc, đồng thời cần đẩy mạnh việc chọn giống, thực hiện rộng rãi phương pháp thụ tinh nhân tạo, chú trọng bảo vệ đi đôi với phát triển.
Về trâu bò, lấy chǎn nuôi của hợp tác xã làm chính, đẩy mạnh phát triển ở các vùng trung du và miền núi, đồng thời vẫn tích cực phát triển ở đồng bằng.
Về lợn và các loại gia súc nhỏ khác, cần khuyến khích việc chǎn nuôi của xã viên, kết hợp phát triển chǎn nuôi của hợp tác xã (hợp tác xã cần phải coi trọng chǎn nuôi lợn nái).
Ngư nghiệp: Cần song song đẩy mạnh phát triển nghề nuôi cá và nghề đánh cá để nâng cao mức cung cấp cá, nước mắm, nhằm tǎng thêm thành phần thức ǎn có chất đạm cho nhân dân.
Đối với nghề đánh cá biển, phương châm sản xuất là đẩy mạnh nghề lộng, phát triển nghề khơi, đánh cá quanh nǎm, phát triển nhiều nghề. Cần cải tiến phương pháp đánh cá, cải tiến và phát triển thêm các loại dụng cụ, thuyền lưới thích hợp với từng loại cá, từng mùa cá và khu vực đánh cá, để đánh được nhiều loại cá và các hải sản khác; dần dần dùng những thuyền có gắn máy đẩy, chú trọng cải tạo các cửa lạch, tǎng thêm phương tiện bảo đảm an toàn lao động cho ngư dân để phát triển nghề khơi và đánh cá quanh nǎm.
Về cơ sở quốc doanh đánh cá biển, cần nâng cao trình độ quản lý và kỹ thuật, lợi dụng tốt thiết bị để tǎng thêm nguồn cung cấp cá cho nhà máy cá hộp, kết hợp hướng dẫn việc cơ giới hoá nghề đánh cá biển.
Nghề nuôi cá ít vốn, dễ làm, thu hoạch chắc chắn, có điều kiện phát triển mạnh. Cần lợi dụng các đập và hồ chứa nước, các ao hồ, sông cụt, đẩy mạnh phát triển nghề nuôi cá nước sâu, đồng thời chú trọng phát triển nuôi cá ruộng, nuôi cá biển và các hải sản khác. Cần mở rộng diện tích nuôi cá đồng thì rất coi trọng nâng cao nǎng suất; tích cực khai thác nguồn cá giống thiên nhiên và sản xuất cá giống, tạo thêm giống tốt.
Lâm nghiệp: Nhiệm vụ phát triển lâm nghiệp cần kết hợp chặt chẽ ba mặt: trồng rừng và tu bổ rừng, bảo vệ rừng, khai thác rừng hợp lý, nhằm bảo đảm tái sinh rừng kịp với tốc độ khai thác, phát huy tác dụng của rừng trong việc chống bão lụt, chống xói lở, giữ nước ở các đầu nguồn.
Cần kết hợp giữa Nhà nước và hợp tác xã để trồng rừng, vận động trồng cây gây rừng thành phong trào quần chúng. Cần đẩy mạnh trồng cây chắn gió, chống cát bay ở ven biển, hoàn thành việc trồng cây chống sóng cho đê biển và đê sông; khuyến khích nhân dân trồng cây ở đồng bằng để tự túc củi, gỗ, và đẩy mạnh trồng tre quanh làng, đi đến bảo đảm cung cấp tre làm nhà tại chỗ; đẩy mạnh trồng cây trên các đồi trọc và cải tạo rừng để chuẩn bị cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp; phát triển trồng các loại cây lâm sản phụ có giá trị cao.
Dựa vào các hợp tác xã ở miền núi để bảo vệ tốt mọi tài nguyên về rừng, thanh toán về cǎn bản nạn đốt rẫy và lửa rừng.
Cần tích cực xây dựng các lâm trường quốc doanh và giúp đỡ, hướng dẫn các hợp tác xã làm tốt việc khai thác rừng và chế biến lâm sản. Mở rộng kinh doanh lâm nghiệp một cách toàn diện, hết sức chú ý kinh doanh các loại lâm sản phụ; đề cao tiết kiệm trong việc sử dụng gỗ, củi, bài trừ lối khai thác bừa bãi, lãng phí tài nguyên về rừng. Cần mở thêm đường vận xuất và vận chuyển nhằm kinh doanh vào những rừng xa, thực hiện cơ giới hoá việc vận chuyển và chế biến; về chặt hạ và vận xuất, phải tận dụng các phương tiện thủ công, chú ý cải tiến kỹ thuật kéo bằng trâu.
Trong kế hoạch 5 nǎm, với sự giúp đỡ của các nước anh em, chủ yếu là Liên Xô và Trung Quốc, cần đẩy mạnh phát triển nông trường quốc doanh, mở những vùng kinh tế mới ở trung du và miền núi, nhằm phát triển cây công nghiệp nhiệt đới, cây ǎn quả và chǎn nuôi để phục vụ cho nhu cầu trong nước và mở rộng sự hợp tác quốc tế; tùy điều kiện từng vùng, các nông trường phải cố gắng tự túc toàn bộ hoặc một phần về lương thực và rau.
Các nông trường quốc doanh phải áp dụng kỹ thuật tiên tiến, thực hiện cơ giới hoá một cách phổ biến, tổ chức sản xuất hợp lý để không ngừng tǎng nǎng suất trồng trọt và chǎn nuôi, nâng cao nǎng suất lao động, phát huy ảnh hưởng tốt đối với các hợp tác xã và giúp đỡ các hợp tác xã về giống, kinh nghiệm kỹ thuật, đào tạo cán bộ và công nhân chuyên nghiệp...
Về mặt quản lý kinh doanh, các nông trường phải "lấy ngắn nuôi dài", kết hợp giữa xây dựng và sản xuất, kết hợp giữa trồng trọt, chǎn nuôi và chế biến, thi hành chặt chẽ chế độ hạch toán kinh tế, triệt để chống lãng phí, tham ô, phấn đấu giảm giá thành sản phẩm, tǎng thu giảm chi, bảo đảm kinh doanh có lãi, tích lũy vốn để không ngừng mở rộng sản xuất.
Thực hiện tốt các nhiệm vụ trên đây, các nông trường quốc doanh cũng đồng thời góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế miền núi.
Các nông trường cần phải hết sức coi trọng công tác điều tra nghiên cứu, phải có quy hoạch toàn diện và có kế hoạch từng bước, có biện pháp cụ thể để bảo đảm tiến hành xây dựng và sản xuất một cách vững chắc. Công tác chính trị và tư tưởng phải được rất coi trọng, làm cho toàn thể cán bộ, công nhân, nhân viên quán triệt và chấp hành tốt các nhiệm vụ.
Để bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ phát triển nông nghiệp trong kế hoạch 5 nǎm, cần phải cải tạo một bước cơ sở sản xuất còn lạc hậu của nền nông nghiệp miền Bắc. Chủ yếu cần tập trung sức giải quyết mấy vấn đề sau đây:
Diện tích ruộng đất ở miền Bắc tương đối ít, dân số tǎng nhanh, việc khai hoang chưa được đẩy mạnh, cho nên diện tích ruộng đất bình quân đầu người ngày càng bị rút bớt. Hệ số sử dụng ruộng đất của ta còn thấp, trong khi nhân lực của ta dồi dào chưa được sử dụng hết, trong khi chúng ta có những điều kiện khí hậu cǎn bản thuận lợi. Vì thế, trong kế hoạch 5 nǎm, cần tích cực đẩy mạnh tǎng vụ, cố gắng đạt mức bình quân làm gần hai vụ trên toàn bộ diện tích ruộng đất. Đồng thời, cần bước đầu điều chỉnh một bộ phận nhân lực ở những nơi mật độ dân số cao đến những nơi dân cư thưa thớt, tổ chức khai hoang để tǎng thêm diện tích canh tác. Trong việc phát triển nông trường quốc doanh, Nhà nước sẽ tổ chức di dân, khai hoang theo quy mô tương đối lớn; mặt khác, cần giúp đỡ, khuyến khích các hợp tác xã tổ chức di dân và khai hoang nhỏ, kết hợp tǎng vụ, chủ yếu nhằm những vùng ở gần, tương đối dễ làm ǎn. Đi đôi với việc di dân, cần tǎng thêm số ngày công lao động bình quân hàng nǎm của nông dân, giảm bớt thì giờ nhàn rỗi và chú trọng sử dụng hợp lý nguồn nhân lực rất dồi dào của phụ nữ nông thôn vào sản xuất.
Trên diện tích gieo cấy được mở rộng, cần đẩy mạnh cải tiến kỹ thuật, thực hiện thâm canh, tǎng nǎng suất. Muốn tǎng vụ và khai hoang có kết quả tốt và để phục vụ cải tiến kỹ thuật, thâm canh, tǎng nǎng suất, trước hết phải đẩy mạnh công tác thủy lợi hơn nữa, nhằm cǎn bản giải quyết nạn hạn hán phổ biến, thanh toán nạn chua, mặn, thu hẹp đến mức tối thiểu diện tích bị úng và bảo đảm chống lụt, chống bão, mặn theo yêu cầu nhất định. Để đạt mục tiêu ấy, cần xúc tiến xây dựng màng lưới thủy lợi, kết hợp những công trình hạng nhỏ do nhân dân làm với những công trình hạng vừa và hạng lớn do Nhà nước làm hoặc do Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Công tác thủy lợi phải gắn liền với việc cải tạo đất nhằm giữ độ ẩm và tǎng thêm màu mỡ cho đất gieo trồng. Cần phải cải tiến kỹ thuật cấy trồng, vận động nông dân cày mỗi nǎm sâu thêm một ít, và tích cực phát triển phong trào làm phân, bón phân. Cần tǎng chất đạm, chất lân cho đất đai và bón vôi cho những ruộng chua mặn. Nguồn phân chủ yếu cần phải phát triển là phân chuồng, phân xanh và các loại phân khác do nông dân làm ra, đồng thời cần tǎng thêm mức dùng các loại phân hoá học. Để cho việc bón phân đạt được hiệu quả tốt, cần nghiên cứu và hướng dẫn cách làm phân và cách bón phân thích hợp với mỗi loại đất, mỗi loại cây.
Để đẩy mạnh cải tiến kỹ thuật, chúng ta phải hết sức coi trọng vấn đề cải tiến nông cụ và thực hiện cơ giới hoá nông nghiệp. Các nông trường quốc doanh cần thực hiện cơ giới hoá với các máy móc hiện đại; các hợp tác xã thì phải hết sức tǎng thêm súc vật kéo, đẩy mạnh cải tiến nông cụ và phương tiện vận chuyển, thực hiện rộng rãi việc cày 2 trâu 2 bò, tích cực dùng các loại nông cụ nửa cơ giới, qua con đường đó mà tiến lên thực hiện cơ giới hoá từng bước. Trong thời gian kế hoạch 5 nǎm, cần lập một số trạm máy móc nông nghiệp ở những nơi nhất định, nhằm mở rộng việc thí nghiệm dùng máy móc nông nghiệp, giải quyết một phần khó khǎn về thiếu sức kéo...
Trong điều kiện hiện nay của nước ta, việc áp dụng hệ thống kỹ thuật liên hoàn có tác dụng rất lớn thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. Cần giải quyết tốt mấy vấn đề trên đây để mở rộng thêm diện tích gieo cấy và tạo điều kiện áp dụng rộng rãi hệ thống kỹ thuật liên hoàn một cách có hiệu quả.
3. Phát triển giao thông và bưu điện
Trong kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất, cần ra sức phát triển giao thông và bưu điện để phục vụ kịp yêu cầu của các ngành kinh tế quốc dân, mở rộng sự liên lạc với các nước anh em, đồng thời phục vụ yêu cầu củng cố quốc phòng.
Cần nghiên cứu các mối quan hệ ngày càng phát triển giữa các khu vực kinh tế, nghiên cứu tính chất và khối lượng các luồng vận chuyển để xây dựng từng bước màng lưới giao thông và bưu điện một cách hợp lý nhất, kết hợp giữa yêu cầu về kinh tế và yêu cầu về quốc phòng, kết hợp giữa đường sắt, đường bộ và đường thủy, kết hợp giữa các đường trục chính và các đường nhánh, cải tạo dần màng lưới giao thông và bưu điện cũ.
Nhằm yêu cầu nói trên, cần tích cực củng cố, mở rộng và phát triển thêm đường sắt, đường bộ, đường thủy, bước đầu tǎng cường thích đáng hàng không dân dụng và bước đầu xây dụng vận tải biển đường xa, tǎng thêm các loại phương tiện vận tải cơ giới; đồng thời coi trọng phát triển nhiều đường nhỏ, đi sâu vào nông thôn và miền núi, sử dụng phổ biến các loại phương tiện vận tải thô sơ cải tiến, thực hiện giải phóng đôi vai. Nhà nước cần tǎng cường lực lượng thi công cơ giới, tập trung sức xây dựng các đường giao thông chính, các công trình quan trọng, đồng thời động viên lực lượng của nhân dân xây dựng và tu bổ các đường địa phương.
Để phục vụ kịp nhu cầu vận chuyển, cần hết sức phát huy các nǎng lực tiềm tàng, nâng cao mức sử dụng các loại phương tiện, tích cực phấn đấu giảm giá cước vận tải. Kết hợp với việc nâng cao chất lượng đường sá, cần chú trọng cải tiến việc bốc dỡ, cơ giới hoá việc bốc dỡ ở những nơi có điều kiện; phát động công nhân sử dụng tốt và bảo dưỡng tốt các loại phương tiện, hết sức tiết kiệm xǎng dầu; nâng cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa giữa các cơ quan có hàng và các cơ quan vận tải, thi hành đúng các hợp đồng về vận chuyển.
Sau đây là phương hướng phát triển của các ngành giao thông và bưu điện:
Đường sắt: Cần tập trung sức mở rộng đường Yên Viên - Mục Nam Quan và đoạn đường Đông Anh - Thái Nguyên thành đường 1 mét 435, bảo đảm chất lượng tốt. Đồng thời cần kéo dài đường 1 mét Hà Nội - Thanh Hoá vào đến Vinh. Đối với đường Lào Cai - Hải Phòng, cần chuẩn bị để mở rộng trong kế hoạch 5 nǎm sau. Để phục vụ việc vận tải apatít, cần củng cố và phát huy đầy đủ nǎng lực thông qua của đường 1 mét hiện nay, kết hợp dùng đường sông để hỗ trợ cho đường sắt.
Theo yêu cầu phát triển của thành phố Hà Nội, và yêu cầu phát triển về giao thông, cần xây dựng ga lắp tàu Yên Viên và chuẩn bị xây dựng cầu mới qua sông Hồng.
Đường bộ: Cần củng cố và nâng cao chất lượng các tuyến đường bộ ở đồng bằng, mở rộng màng lưới đường bộ ở miền núi, củng cố các trục quan trọng, phát triển vận tải ôtô xuống đến các huyện. Đồng thời cần hướng dẫn các hợp tác xã phát triển đường nhỏ ở nông thôn và miền núi, tǎng thêm các loại phương tiện vận tải thô sơ cải tiến.
Trên cơ sở đường sá được củng cố tốt hơn, cần nâng cao mức sử dụng xe, chú trọng mở rộng việc kéo rơmoóc.
Đường thuỷ: Cần củng cố cảng Hải Phòng, tǎng thêm thiết bị để đưa nǎng lực thông qua lên gấp đôi; đồng thời tích cực khảo sát, thiết kế để chuẩn bị xây dựng cảng mới. Ngoài ra, củng cố các cảng chuyên dụng Hòn Gai, Cửa Ông và các cảng khác.
Cần nạo vét, phá đá các luồng lạch, nối liền các đường sông với các đường ven biển và các đường bộ để đi sâu vào nội địa; củng cố và xây dựng một số bến sông cần thiết, xây dựng hệ thống phao, đèn hoa tiêu ở các bến và các luồng lạch. Kết hợp với việc xây dựng thủy điện và thủy lợi, cần tích cực phát triển hơn nữa giao thông đường sông nhằm có thể dùng loại xà lan 50 tấn đi lên một số nguồn cao và dùng loại xà lan 100 tấn, 200 tấn đi suốt từ miền xuôi lên các vùng trung du. Cần tǎng thêm canô, xà lan, tàu kéo, phát triển lực lượng vận tải cơ giới quốc doanh đường sông.
Về vận tải biển đường xa, cần chuẩn bị cán bộ, thủy thủ và tàu hạng vừa để phục vụ cho yêu cầu của ngoại thương.
Hàng không: Tǎng cường thích đáng ngành hàng không dân dụng.
Bưu điện: Cần tǎng cường liên lạc với nước ngoài, mở rộng và củng cố màng lưới bưu điện từ trung ương xuống các tỉnh, các thành phố, các khu công nghiệp, phát triển màng lưới liên tỉnh và từ tỉnh xuống huyện để phục vụ sự chỉ đạo của trung ương và các tỉnh. Từ huyện xuống xã, trong thời gian kế hoạch 5 nǎm, chỉ nên giải quyết cho một số nơi thật cần thiết và có điều kiện. ở các vùng miền núi, cần phát triển liên lạc bằng vô tuyến điện.
4. Tǎng cường thương nghiệp xã hội chủ nghĩa
Công tác thương nghiệp vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng phục vụ phát triển sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, mở rộng và củng cố khối liên minh kinh tế và chính trị giữa công nhân và nông dân, giữa thành thị và nông thôn, nâng cao đời sống của nhân dân; mở rộng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân; đồng thời mở rộng và tǎng cường quan hệ buôn bán giữa trong nước và ngoài nước, góp phần thúc đẩy thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Về nội thương, cần tǎng cường lực lượng của thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp nhỏ, sắp xếp và sử dụng tốt các cơ sở thương nghiệp công tư hợp doanh. Cần điều chỉnh và sắp xếp toàn diện màng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, cải tiến quản lý kinh doanh, giảm bớt khâu trung gian, giảm bớt chi phí lưu thông, do đó mà phục vụ tốt cho sản xuất và tiêu thụ. Giữa các thành phần kinh tế trong thương nghiệp, cần điều chỉnh tỷ trọng cho hợp lý, phối hợp hoạt động chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của thương nghiệp quốc doanh để đẩy mạnh lưu thông hàng hoá. Nhất là thương nghiệp quốc doanh phải kết hợp với hợp tác xã mua bán thành một khối thống nhất, giao nhiệm vụ rõ ràng cho hợp tác xã mua bán, giúp đỡ hợp tác xã mua bán tǎng cường lực lượng, làm cho hợp tác xã mua bán trở thành cánh tay đắc lực của thương nghiệp quốc doanh, phối hợp với thương nghiệp quốc doanh mở rộng và củng cố thị trường xã hội chủ nghĩa, làm tốt nhiệm vụ thu mua và cung cấp hàng hoá.
Dựa vào thị trường xã hội chủ nghĩa thống nhất dần dần được củng cố, cần thực hiện việc thu mua và cung cấp có kế hoạch. Để giữ vững cân đối giữa cung và cầu về các hàng nông sản, Nhà nước cần phải nắm toàn bộ lương thực hàng hoá và đại bộ phận các nông sản hàng hoá khác, quản lý chặt chẽ việc mua bán, cho nên cần phải định nghĩa vụ cho nông dân bán thóc và các nông sản khác cho Nhà nước và thực hiện chế độ hợp đồng thu mua giữa các cơ quan thu mua của Nhà nước và các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Về phương thức thực hiện thu mua có kế hoạch các loại nông sản, cần cǎn cứ vào yêu cầu đối với từng loại nông sản để định cho thích hợp. Đối với hàng công nghiệp, cần thi hành chế độ hợp đồng bán nguyên liệu và đặt mua sản phẩm, bảo đảm thu mua và tiêu thụ toàn bộ sản phẩm của công nghiệp quốc doanh và của các xí nghiệp công tư hợp doanh; và thu mua phần lớn các hàng thủ công nghiệp có phẩm chất nhất định. Trong việc thực hiện chế độ hợp đồng thu mua, đối với hàng nông sản cũng như hàng công nghiệp, cần quán triệt tinh thần hết sức khuyến khích cải tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất, trên cơ sở đó mà bảo đảm vững chắc lực lượng vật tư của Nhà nước.
Về mặt tiêu thụ, cần quy định các chính sách cần thiết, cố gắng bảo đảm nhu cầu ngày càng tǎng của nhân dân, đồng thời hướng dẫn nhân dân tiết kiệm tiêu dùng. Đối với những loại hàng thiết yếu, những loại hàng mà yêu cầu tiêu thụ nhiều nhưng khả nǎng cung cấp có hạn, thì cần tổ chức cung cấp có kế hoạch để giữ vững cung và cầu, tránh tình trạng thừa thiếu không hợp lý.
Trong điều kiện cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã hoàn thành, thị trường xã hội chủ nghĩa thống nhất được củng cố, cần và có thể duy trì trong một phạm vi nhất định sự trao đổi tự do giữa các đơn vị sản xuất và các đối tượng tiêu thụ; thương nghiệp quốc doanh phải nắm vững lãnh đạo các hoạt động ấy.
Trong công tác quản lý giá cả, cần nắm vững chính sách của Đảng và Nhà nước, và nắm vững việc chỉ đạo thực hiện, tiếp tục ổn định giá cả một cách vững chắc, đồng thời tiếp tục điều chỉnh những giá chưa hợp lý và phấn đấu về mọi mặt, nhằm tiến tới giảm giá một số hàng, trên nguyên tắc vừa có lợi cho sản xuất phát triển, vừa có lợi cho người tiêu thụ, đồng thời bảo đảm tích luỹ thích đáng cho Nhà nước.
Về ngoại thương, phải nắm khâu chính là đẩy mạnh xuất khẩu, chủ yếu nhằm mở rộng khối lượng hàng hoá trao đổi với các nước anh em. Các ngành công nghiệp, nông nghiệp, nội thương... và các địa phương cần phối hợp chặt chẽ với ngành ngoại thương để phục vụ tốt việc đẩy mạnh xuất khẩu. Cần giải quyết đúng đắn quan hệ giữa tiêu thụ trong nước và ngoài nước, tiết kiệm tiêu dùng đúng mức những thứ có thể và cần phải tiết kiệm như lạc, cà phê, chè, một số loại hoa quả; đối với những loại hàng như ximǎng, than..., cần đẩy mạnh sản xuất, vừa bảo đảm nhu cầu trong nước, vừa cố gắng tǎng thêm khối lượng xuất khẩu.
Về mặt nhập khẩu, trên tinh thần hết sức tiết kiệm ngoại hối, ngành ngoại thương cần phối hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan để bảo đảm cung cấp kịp thời, đúng quy cách phẩm chất các loại vật tư cần thiết cho xây dựng và sản xuất.
5. Nâng cao nǎng suất và hạ giá thành, quản lý tốt công tác tài chính và tiền tệ
Theo tinh thần cần kiệm xây dựng Tổ quốc, trong kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất, chúng ta phải ra sức phấn đấu tǎng nǎng suất, hạ giá thành và phải quản lý tốt công tác tài chính, tiền tệ.
Nâng cao nǎng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm là hai mặt của một vấn đề cơ bản của cuộc vận động sản xuất và tiết kiệm, là hướng chính để tǎng tích lũy và tạo cơ sở tiến tới thực hiện giảm giá một số hàng, cải thiện đời sống của nhân dân. Các ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản, vận tải, thương nghiệp, trước hết là các ngành kinh doanh của Nhà nước phải coi đó là nhiệm vụ thường xuyên của mình; phải động viên toàn thể cán bộ, công nhân, viên chức hết sức phát huy mọi khả nǎng tiềm tàng, phấn đấu không ngừng tǎng nǎng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Cần phải nghiêm khắc phê phán xu hướng lệch lạc trong khi thực hiện kế hoạch là chỉ chạy theo sản lượng, không chú trọng các chỉ tiêu về nǎng suất, giá thành và phẩm chất sản phẩm. Đồng thời, cần phải đề cao trong cán bộ và công nhân ý thức bảo hộ lao động, thường xuyên kiểm tra việc thi hành các quy chế về bảo đảm an toàn lao động, hết sức ngǎn ngừa các tai nạn lao động.
Để nâng cao nǎng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, cần phải tích cực phấn đấu trên các mặt sau đây:
Bồi dưỡng nhiệt tình lao động và đề cao kỷ luật lao động trong công nhân, đi đôi với nâng cao trình độ kỹ thuật, khuyến khích cải tiến công cụ, cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật tiên tiến.
Nghiên cứu biên chế lao động thật sát, và chấp hành đúng kỷ luật về biên chế; cải tiến tổ chức lao động và sử dụng lao động cho thật tốt và chấp hành nghiêm chỉnh chế độ lao động.
Sử dụng tốt công suất thiết bị, hết sức phát huy nǎng lực của thiết bị, đi đôi với bảo dưỡng thiết bị.
Bảo đảm cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu đều đặn; tích cực dùng các thế phẩm trong nước thay cho các hàng nhập đắt tiền; đồng thời hết sức tiết kiệm trong việc sử dụng, hạ thấp mức tiêu hao nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu và tỷ lệ phế phẩm; bảo quản hàng hoá cho tốt, hết sức tránh hư hỏng, mất mát; tǎng nhanh tốc độ lưu chuyển vốn lưu động.
Tǎng nǎng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm là kết quả phấn đấu của tập thể công nhân trong cả dây chuyền sản xuất, của cả lãnh đạo và quần chúng trong toàn bộ công tác quản lý xí nghiệp, của tất cả các ngành có quan hệ với nhau trong các hoạt động kinh tế; cho nên cần phải đề cao ý thức trách nhiệm của mỗi bộ phận đối với tập thể sản xuất, bồi dưỡng tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa trong lao động. Về lãnh đạo, phải lập kế hoạch chính xác, dựa trên những định mức tiên tiến về lao động, về sử dụng máy móc, về tiêu hao nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu; và phải nắm vững việc chỉ đạo thực hiện, quán xuyến mọi mặt, tập trung sức thúc đẩy các khâu yếu và các khâu quan trọng để thúc đẩy toàn diện; nâng cao trình độ quản lý xí nghiệp theo kịp yêu cầu phát triển của sản xuất, hết sức phát huy tính tích cực và sáng tạo của công nhân.
Các cấp uỷ Đảng, các cơ quan phụ trách kinh tế và các cơ sở kinh doanh phải nhận thức đầy đủ ý nghĩa quan trọng của vấn đề tǎng nǎng suất và hạ giá thành sản phẩm, ra sức tǎng cường quản lý các mặt ấy, kết hợp chặt chẽ giữa quản lý sản xuất, quản lý kỹ thuật và quản lý tài vụ. Cần hướng dẫn các xí nghiệp, công trường thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế; trên cơ sở đó mà đi sâu nghiên cứu tǎng nǎng suất và hạ giá thành, vạch ra phương hướng phấn đấu đúng đắn để động viên quần chúng thực hiện.
Nhiệm vụ về mặt tài chính là trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất và lưu thông hàng hoá, ra sức mở rộng các nguồn thu, tǎng cường quản lý và tiết kiệm chi, phát huy hiệu lực của tiền vốn nhằm thỏa mãn yêu cầu phát triển của công cuộc xây dựng kinh tế và vǎn hoá. Cần phải ra sức tǎng thu để có điều kiện tǎng chi, bảo đảm thǎng bằng thu chi một cách tích cực.
Về thu, nguồn thu của kinh tế quốc doanh có khả nǎng tǎng nhanh và chiếm một tỷ lệ ngày càng lớn trong ngân sách; nguồn thu về sự nghiệp cũng ngày càng tǎng; nguồn thu về thuế trong một thời gian dài vẫn giữ địa vị khá quan trọng. Để bảo đảm phương hướng phát triển ấy, cần tǎng cường quản lý các nguồn thu xí nghiệp và sự nghiệp, đồng thời động viên nhân dân làm đầy đủ nghĩa vụ đóng góp để xây dựng nước nhà. Các xí nghiệp quốc doanh phải không ngừng phấn đấu nâng cao nǎng suất, hạ giá thành và tǎng phẩm chất sản phẩm để tǎng tích lũy qua ngân sách; đồng thời phải đưa công tác quản lý tài chính đi vào chế độ, kỷ luật ngày càng chặt chẽ, ra sức thực hiện chế độ hạch toán kinh tế và nâng cao không ngừng trình độ hạch toán kinh tế. Về phía Nhà nước, cần nghiên cứu sớm các chính sách thu đối với kinh tế quốc doanh, đối với kinh tế hợp tác xã, chính sách thuế nông nghiệp cho phù hợp với tình hình quan hệ sản xuất mới, thi hành những cải cách cần thiết về các chế độ thu tài chính để nâng cao thích đáng nguồn tích lũy qua ngân sách Nhà nước, tập trung tiền vốn nhanh chóng và thúc đẩy các ngành, các đơn vị ra sức cải tiến kinh doanh, tǎng cường quản lý sản xuất và quản lý tài vụ. Đồng thời, cần có chính sách động viên cán bộ và nhân dân góp tiền tiết kiệm, góp sức lao động vào việc xây dựng kinh tế và vǎn hoá xã hội chủ nghĩa.
Vì nguồn thu trong nước vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển kinh tế quốc dân và kim ngạch xuất nhập khẩu của ta vẫn chưa thǎng bằng, cho nên trong kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất, chúng ta vẫn cần phải vay một phần vốn của các nước anh em, chủ yếu để nhập các thiết bị toàn bộ.
Về chi, cần phải phân phối vốn toàn diện và có trọng tâm, chú trọng sử dụng vốn một cách tập trung hơn.
Cần dành khoảng một nửa ngân sách để đầu tư vào xây dựng cơ bản về kinh tế và vǎn hoá, kết hợp bảo đảm cân đối về vật tư và lực lượng thi công. Về vốn lưu động, cần dự trù sát với yêu cầu về tǎng sản lượng, đồng thời phải hết sức tiết kiệm vốn, thúc đẩy luân chuyển vốn nhanh. Vì phần chi về kinh tế và vǎn hoá trong ngân sách ngày càng tǎng và chiếm phần rất lớn, cho nên cần phải tǎng cường quản lý, bảo đảm sử dụng vốn hợp lý nhất, tiết kiệm nhất. Chi về hành chính, về quốc phòng cần được bảo đảm thích đáng nhưng tỷ lệ trong ngân sách phải giảm bớt hơn nữa và phải được quản lý chặt chẽ.
Phương hướng công tác tiền tệ trong kế hoạch 5 nǎm là phải củng cố hơn nữa sức mua của đồng tiền; dựa trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất và lưu thông hàng hoá, tiến thêm một bước trong việc kế hoạch hoá lưu thông tiền tệ, điều hoà lưu thông tiền tệ, giữa các khu vực kinh tế. Đi đôi với việc đẩy mạnh tín dụng, Nhà nước cần khuyến khích nhân dân gửi tiền tiết kiệm để góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngoài việc động viên mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân, Ngân hàng phải tǎng cường quản lý vốn của các cơ quan, các xí nghiệp quốc doanh và các hợp tác xã để phát triển việc cho vay, nhằm khuyến khích sản xuất, đẩy mạnh lưu thông tiền tệ.
6. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân lành nghề; đẩy mạnh công tác nghiên cứu và phổ biến khoa học, kỹ thuật
Để phục vụ kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất và chuẩn bị cho kế hoạch sau, cần phải ra sức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân lành nghề theo quy mô lớn và đẩy mạnh công tác khoa học, kỹ thuật. Đó là những vấn đề mấu chốt để bảo đảm đẩy mạnh phát triển kinh tế, cũng là những vấn đề cơ bản của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về vǎn hoá và kỹ thuật.
Cần phải có kế hoạch dài hạn về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, phương hướng chủ yếu là đào tạo nhiều cán bộ kỹ thuật, khoa học cho những ngành sản xuất có tầm quan trọng lớn đối với việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội như công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản, thủy lợi và cải tạo đất, giao thông vận tải và các ngành phục vụ việc mở rộng công tác đào tạo cán bộ như sư phạm, khoa học cơ bản. Đồng thời cần chú trọng đào tạo nhiều cán bộ quản lý kinh tế, quản lý hành chính, cán bộ các ngành khoa học xã hội. Cần kết hợp cả ba mặt chính trị, vǎn hoá và kỹ thuật, nghiệp vụ, lấy chính trị làm gốc, nhằm xây dựng một đội ngũ trí thức trung thành với chủ nghĩa xã hội, có trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ ngày càng được nâng cao. Trước mắt, cần đào tạo nhanh và nhiều để kịp cung cấp cho nhu cầu về cán bộ của các ngành, đồng thời cần coi trọng chất lượng; cần đào tạo nhiều cán bộ trung cấp, đồng thời chú trọng đào tạo cán bộ cao cấp. Cần chú ý bồi dưỡng và đào tạo cán bộ người các dân tộc thiểu số, chủ yếu nhằm phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế và vǎn hoá ở miền núi; bồi dưỡng và đào tạo cán bộ phụ nữ nhằm những ngành hợp với khả nǎng của phụ nữ; tích cực bồi dưỡng và đào tạo cán bộ người miền Nam, kết hợp phục vụ cho nhu cầu trước mắt và về sau. Song song với việc đào tạo cán bộ mới, cần coi trọng nâng cao trình độ chính trị và kỹ thuật, nghiệp vụ cho số cán bộ hiện có.
Để thực hiện phương hướng nói trên, cần phải áp dụng nhiều hình thức khác nhau: đi đôi với việc mở các trường chính quy học ban ngày, cần sử dụng rộng rãi các hình thức học tại chức, học ban đêm, học hàm thụ, mở lớp học tại các cơ sở sản xuất... Về đại học, tùy theo điều kiện và yêu cầu từng ngành, cần rút ngắn bớt thời hạn học tập và cần có kế hoạch tiếp tục bồi dưỡng cán bộ sau khi ra trường để dần dần nâng cao trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ. Kết hợp với việc đào tạo trong nước, cần đưa thêm nhiều lưu học sinh, nghiên cứu sinh, thực tập sinh đi học ở Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác, chủ yếu nhằm đào tạo cán bộ giảng dạy đại học, cán bộ nghiên cứu khoa học kỹ thuật, cán bộ lý luận cơ bản có trình độ cao; đồng thời cũng gửi người đi học một số ngành mà cơ sở giảng dạy trong nước còn yếu hoặc chưa có.
Đi đôi với việc đào tạo cán bộ, cần quan tâm đầy đủ và xúc tiến mạnh việc đào tạo công nhân lành nghề,nhất là công nhân cơ khí và công nhân luyện kim, nhằm phát triển đội ngũ công nhân, nâng cao trình độ chính trị, vǎn hoá và kỹ thuật của công nhân. Cần lấy việc kèm cặp trong sản xuất tại các xí nghiệp, công trường, nông trường, hợp tác xã làm chủ yếu, đồng thời chú trọng mở trường lớp bên cạnh các cơ sở sản xuất để đào tạo một số công nhân vừa có lý thuyết, vừa có trình độ kỹ thuật nhất định. Đối với một số ngành nghề trong nước thiếu cơ sở để đào tạo, cần đưa một số công nhân đi học ở các nước anh em.
Công tác nghiên cứu và phổ biến khoa học kỹ thuật cần gắn liền với nhau và phải phục vụ sát yêu cầu phát triển kinh tế và vǎn hoá trong kế hoạch 5 nǎm; đồng thời cần chú trọng phương hướng phát triển lâu dài hơn, nhằm phục vụ xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Khoa học nông nghiệp phải coi trọng và đi sâu vào việc nghiên cứu đất và cải tạo đất; nghiên cứu việc sản xuất và sử dụng các loại phân bón; nghiên cứu chọn giống và tạo giống tốt về các loại cây trồng và súc vật; nghiên cứu các biện pháp cải tiến kỹ thuật sản xuất, cải tiến công cụ, sử dụng hợp lý và tǎng cường sức kéo của súc vật, thực hiện nửa cơ giới hoá và cơ giới hoá sản xuất, nghiên cứu các biện pháp bài trừ sâu bệnh cho cây trồng và trừ dịch cho súc vật; phát triển công tác khí tượng để thiết thực phục vụ sản xuất nông nghiệp và ngư nghiệp.
Khoa học và kỹ thuật phải bắt đầu ngay việc nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề nhiệt đới hoá kỹ thuật, nghiên cứu một số vấn đề kỹ thuật theo đòi hỏi của điều kiện tự nhiên của ta (như mẫu máy kéo, lưới điện, phương pháp khai mỏ...); đặc biệt chú trọng nghiên cứu lợi dụng tổng hợp các loại nguyên liệu trong nước, dùng nguyên liệu trong nước thay thế cho các nguyên liệu nhập khẩu (chế biến các loại cây có sợi, sản xuất bông, tơ nhân tạo để dệt vải; dùng than không khói vào việc luyện kim, v.v.) và dùng các vật liệu trong nước vào việc xây dựng cơ bản; nâng cao trình độ thiết kế kỹ thuật lên một bước trong các ngành công nghiệp, thủy lợi, giao thông; xây dựng từng bước hệ thống các định mức, quy phạm và quy trình về kỹ thuật...
Khoa học địa chất phải chú trọng cả hai mặt tìm kiếm, thǎm dò địa chất và điều tra về địa chất thủy vǎn, địa chất công trình, trọng tâm là thǎm dò các khoáng sản cần thiết cho việc phát triển công nghiệp; hoàn thành việc phân tích cấu tạo địa chất ở miền Bắc, lập bản đồ địa chất các vùng quặng và bản đồ địa chất miền Bắc.
Các ngành khoa học cơ bản như toán học, vật lý học, hoá học... cần được xúc tiến. Nước ta rất giàu về khoáng sản và về thực vật nhiệt đới, cho nên việc xây dựng và phát triển khoa học có tác dụng quan trọng đối với tiền đồ công nghiệp và nông nghiệp của ta.
Y học cần chú trọng nghiên cứu tỷ lệ các bệnh tật trong nhân dân, các nguyên nhân gây ra bệnh và làm chết người, nghiên cứu một số bệnh nhiệt đới và những bệnh nghề nghiệp thường xảy ra; thừa kế và phát huy các kinh nghiệm quý báu về Đông y; nghiên cứu những nguồn dược liệu trong cây cỏ nước ta; nghiên cứu thức ǎn uống và tiêu chuẩn ǎn uống thích hợp với hoàn cảnh khí hậu nhiệt đới, phù hợp với điều kiện sinh hoạt của ta.
Cần phối hợp giữa các ngành, tiến hành một cách có hệ thống việc điều tra cơ bản để phục vụ việc lập các quy hoạch kinh tế.
Các ngành triết học và khoa học xã hội cần tập trung nghiên cứu những quy luật chung và những đặc điểm trong sự phát triển của cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng ở miền Bắc nước ta trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, xúc tiến việc sưu tầm các di sản dân tộc về triết học và khoa học xã hội. Cần tiến hành phân tích, phê phán, đánh bại những quan điểm tư tưởng không vô sản ở miền Bắc và đánh bại những lý luận, quan điểm phản động của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng gieo rắc ở miền Nam. Đi đôi với việc đẩy mạnh công tác nghiên cứu, cần ra sức phổ biến một cách có hệ thống và có trọng điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và những hiểu biết cơ bản về từng ngành khoa học xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa trong cán bộ và nhân dân lao động. Để thực hiện nhiệm vụ này, cần coi trọng việc xuất bản các loại sách giáo khoa và sách phổ thông.
Đảng ta cần tǎng cường lãnh đạo công tác khoa học, hướng công tác khoa học phát triển theo đường lối của Đảng, phục vụ đúng yêu cầu của cách mạng, của quần chúng. Cần tǎng cường các cơ quan phụ trách khoa học, các cơ sở nghiên cứu ở trung ương và các cơ sở thí nghiệm ở các địa phương, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ làm công tác khoa học về mặt tư tưởng và chuyên môn, tǎng thêm các thiết bị khoa học và hết sức giúp đỡ những người làm công tác khoa học có các điều kiện thuận lợi cần thiết để tiến hành việc nghiên cứu. Để bảo đảm công tác khoa học đạt kết quả tốt, một mặt cần mở rộng sự hợp tác và trao đổi với các nước anh em trong việc nghiên cứu; mặt khác, cần kết hợp chặt chẽ giữa những người làm công tác khoa học với công nhân và nông dân, kết hợp việc nghiên cứu lý luận với kinh nghiệm của quần chúng trong sản xuất, phát triển rộng rãi phong trào học tập kỹ thuật và làm kỹ thuật, sáng kiến phát minh.
7. Phát triển các công tác giáo dục, vǎn hoá, y tế, thể dục, thể thao
Trong kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất, song song với việc xây dựng kinh tế, cần xúc tiến mạnh mẽ các công tác giáo dục, vǎn hoá, y tế, thể dục, thể thao để thiết thực phục vụ phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của nhân dân.
Về giáo dục, trước mắt cần coi việc bổ túc vǎn hoá cho những người lớn tuổi là nhiệm vụ hàng đầu, nhằm tạo cơ sở mở rộng công tác phổ biến khoa học và kỹ thuật, đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị và tư tưởng trong quần chúng cơ bản và tạo cơ sở vững chắc cho việc đào tạo cán bộ theo quy mô lớn. Đối tượng chủ yếu trong việc bổ túc vǎn hoá là cán bộ lãnh đạo các cấp; các cán bộ và nhân viên trẻ tuổi, thanh niên công nông ưu tú cần được chuẩn bị về vǎn hoá để đưa vào các trường đại học và đưa đi học nước ngoài. Đối với công nhân, nông dân và quần chúng lao động khác, cần thực hiện phổ cập giáo dục cấp I. Hình thức chính để mở rộng việc bổ túc vǎn hoá là mở các lớp ngoài giờ làm việc; đồng thời cũng cần mở thêm các trường, lớp chính quy để bổ túc vǎn hoá nhanh cho những đối tượng cần thiết.
Song song với việc bổ túc vǎn hoá cho người lớn, cần ra sức phát triển mạnh mẽ ngành giáo dục phổ thông nhằm đào tạo những thế hệ thanh niên có đạo đức, có vǎn hoá, có sức khoẻ, sẵn sàng phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Công tác giáo dục phải phục vụ nhiệm vụ và đường lối cách mạng của Đảng, phải nắm vững phương châm giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tế, học đi đôi với hành, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục xã hội; kết hợp lực lượng của Nhà nước với lực lượng của nhân dân.
Cần phát triển và củng cố chất lượng các lớp mẫu giáo, vỡ lòng nhằm thu hút hết các trẻ em đến tuổi đi học. Ở miền xuôi, phấn đấu hoàn thành phổ cập giáo dục cấp I vào nǎm 1963-1964, chuẩn bị để phổ cập cấp II trong kế hoạch 5 nǎm lần thứ hai; tích cực mở thêm trường cấp III để thoả mãn nhu cầu tuyển sinh cho các trường đại học và một phần cho các nhu cầu khác. ở miền núi, cần hoàn thành xoá nạn mù chữ, thực hiện phổ cập cấp I ở một số địa phương và phát triển mạnh mẽ cấp II, cấp III. Song song với các trường phổ thông, cần mở thêm những trường vừa dạy vǎn hoá, vừa dạy nghề, chủ yếu là về nông nghiệp cho các em lớn tuổi.
Để bảo đảm phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục, cần mở rộng các trường sư phạm sơ cấp, trung cấp và đại học, nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên và chú trọng bồi dưỡng số giáo viên sẵn có về mọi mặt; tích cực xây dựng trường sở, tǎng thêm các thiết bị thí nghiệm và xây dựng thư viện, tủ sách cho các trường bổ túc vǎn hoá và các trường phổ thông.
Về vǎn hoá, cần tiếp tục đấu tranh chống những tàn tích lạc hậu của vǎn hoá cũ, có kế hoạch đẩy mạnh xây dựng nền vǎn hoá mới, làm cho đời sống vǎn hoá của miền Bắc ngày càng lành mạnh và có nội dung phong phú.
Công tác xuất bản cần được coi là công tác quan trọng nhất về vǎn hoá. Chú trọng tǎng thêm sách giáo khoa, sách kinh điển, các loại sách phổ thông về chính trị, khoa học, kỹ thuật. Cần nâng cao chất lượng và mở rộng phát hành các báo chí, nhất là báo Đảng và các tập san hướng dẫn kỹ thuật, nghiệp vụ cho cán bộ.
Về công tác thư viện, cần mở rộng các thư viện hiện có, xây dựng thêm một số thư viện ở các khu công nhân, các thị xã và mở rộng phong trào quần chúng đọc sách báo.
Về điện ảnh, cần tǎng cường lãnh đạo để nâng cao trình độ tư tưởng và trình độ nghệ thuật các phim sản xuất trong nước, tǎng thêm các loại phim thời sự, phim tài liệu khoa học, chú ý sản xuất các loại phim cho thiếu nhi. Cần hoàn thành đợt đầu của xưởng phim mới và tǎng cường sản xuất phim truyện. Phát triển thêm các đội chiếu bóng cho nông thôn, miền núi và các công trường, nông trường.
Công tác bảo tồn, bảo tàng cần nhằm sưu tầm và bảo vệ các di tích lịch sử và kháng chiến, các di tích cổ phát hiện trong khi mở mang xây dựng; mở rộng các nhà bảo tàng hiện có và xây dựng thêm một số nhà bảo tàng nhỏ ở những địa phương cần thiết.
Về nghệ thuật, cần làm xong về cǎn bản việc sưu tầm vốn cổ dân tộc, chú trọng cải biên, nâng cao và sử dụng những tiết mục có nội dung lành mạnh và có giá trị nghệ thuật; nâng cao trình độ nghệ thuật của các đoàn vǎn công của Nhà nước; xây dựng một số nhà hát cho các thành phố, thị xã.
Về công tác vǎn hoá, vǎn nghệ quần chúng, cần sử dụng rộng rãi các hình thức triển lãm, ảo đǎng, sáng tác thơ ca...; cải tiến và đẩy mạnh sinh hoạt của các nhà vǎn hoá, câu lạc bộ.
Về truyền thanh, cần tǎng cường thiết bị để bảo đảm ưu thế về sức mạnh của làn sóng, tǎng thêm giờ phát thanh tiếng các dân tộc, tǎng cường việc phát thanh đối ngoại, phát triển các hệ thống phát thanh đường dây và mở rộng việc dùng máy thu thanh loại rẻ tiền trong nhân dân.
Để đẩy mạnh các hoạt động vǎn hoá, nghệ thuật, cần đặc biệt chú trọng đào tạo cán bộ cho từng bộ môn..., mở các lớp đào tạo cán bộ thư viện, truyền thanh, báo chí...; tǎng cường công tác sưu tầm và nghiên cứu về vǎn học, nghệ thuật.
Nhiệm vụ công tác y tế là tích cực bảo vệ và tǎng cường sức khoẻ cho nhân dân lao động, nhằm phục vụ đời sống, phục vụ sản xuất, phục vụ quốc phòng. Cần lấy vệ sinh phòng bệnh làm chính, đồng thời chú trọng tǎng cường việc chữa bệnh; kết hợp Tây y và Đông y trên mọi mặt phòng bệnh, chữa bệnh, sản xuất thuốc men, đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học.
Cần đẩy mạnh công tác vệ sinh phòng bệnh, phát động phong trào bốn diệt (diệt ruồi, muỗi, chuột và các loại chấy, rận, rệp) và ba sạch (ǎn sạch, uống sạch, ở sạch); dựa vào cơ sở phòng bệnh để chống một cách có hiệu quả các bệnh dịch và giải quyết các bệnh nhân dân thường mắc phổ biến. Về phòng dịch, không để xảy ra các bệnh đậu mùa, thổ tả, dịch hạch; thanh toán các bệnh thương hàn, bại liệt trẻ em, sài uốn ván sơ sinh, bệnh yết hầu; tiến tới thanh toán các ổ kiết lỵ, bệnh chó dại; khống chế các bệnh sởi, ho gà, viêm não, cúm... Cần thanh toán bệnh sốt rét, mở rộng việc chữa bệnh đau mắt hột, tiến hành chữa bệnh giang mai cho sản phụ, bệnh bướu cổ, tích cực giải quyết bệnh giun sán, hết sức đề phòng và giảm các bệnh nghề nghiệp. Đối với bệnh lao và bệnh hủi, cần tiêm thuốc B.C.G cho trẻ em để đề phòng, dùng biện pháp hiệu quả và hợp với điều kiện sinh hoạt của ta để chữa lao cho người lớn, tập trung những người mắc hủi ở thể lây và chữa bệnh ở nhà cho những người mắc bệnh ở trình độ không lây.
Công tác bảo vệ các bà mẹ và trẻ em cần được hết sức coi trọng, phấn đấu hạ thấp tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh và sản phụ.
Cần phát triển thêm các bệnh viện chuyên khoa ở trung ương, nâng cao chất lượng và trình độ chuyên môn cho các bệnh viện ở tỉnh và các bệnh xá ở huyện, xây dựng các cơ sở mổ cấp cứu đến tận các huyện và tǎng cường củng cố các trạm y tế dân lập ở các xã.
Cần đẩy mạnh nghiên cứu, sản xuất và sử dụng các dược liệu trong nước, sản xuất thuốc kháng sinh; mở rộng sản xuất các dụng cụ y tế.
Việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ phải được coi là nhiệm vụ trung tâm của ngành y tế. Cần chú ý bồi dưỡng, đề bạt cán bộ tốt trong ngành và đào tạo thêm nhiều cán bộ mới; xây dựng một đội ngũ cán bộ y tế vững mạnh, có tư tưởng lập trường xã hội chủ nghĩa, có trình độ chuyên môn vững, hết lòng phục vụ nhân dân, đồng thời, cần bồi dưỡng các thầy thuốc Đông y về tư tưởng và chuyên môn, giúp đỡ họ tổ chức lại thành những cơ sở hợp tác, làm nghề dưới sự hướng dẫn của các cơ quan y tế. Cần xây dựng các bệnh viện thành những viện nghiên cứu chuyên khoa hoặc những y viện và lập một số bệnh viện Đông y có kết hợp với Tây y để vừa làm nơi chữa bệnh, vừa tổ chức công tác nghiên cứu, vừa làm nơi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và củng cố quốc phòng đòi hỏi phải phát triển rộng rãi mạnh mẽ phong trào thể dục thể thao nhằm góp phần cải thiện thể chất, tǎng cường nghị lực và sức khoẻ cho nhân dân và góp phần mở rộng, củng cố quan hệ hữu nghị với các nước. Cần tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát triển phong trào thể dục, thể thao, kết hợp với phong trào vệ sinh phòng bệnh thành một phong trào quần chúng rộng rãi có tính chất thường xuyên, liên tục trong sinh viên, học sinh, công nhân, viên chức, trong quân đội, công an vũ trang và trong dân quân. Đi đôi với việc mở rộng phong trào, cần nâng cao kỹ thuật các môn thể thao ở những nơi có điều kiện. Cần chú trọng đào tạo cán bộ thể dục, thể thao và lập các hội thể thao quần chúng; phát triển các sân vận động, bãi thể dục thể thao, hồ bơi đơn giản ở các xí nghiệp, công trường, nông trường, các thị trấn..., ở các thành phố, ở trung ương, cần xây dựng các cơ sở cần thiết đúng quy cách để phát triển lực lượng nòng cốt, thúc đẩy phong trào thể dục, thể thao ở các địa phương.
8. Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và vǎn hoá của nhân dân lao động
Đời sống nhân dân miền Bắc đã được cải thiện rõ rệt so với trước, nhưng mức sống vẫn còn thấp, sức khoẻ và nǎng lực lao động chưa được bồi dưỡng đúng mức. Cho nên cải thiện đời sống của nhân dân là một nhiệm vụ chính trị xuất phát từ lợi ích và những yêu cầu chính đáng của quần chúng, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta, đồng thời là một nhiệm vụ kinh tế nhằm bồi dưỡng và tǎng thêm nǎng lực lao động của nhân dân để đẩy mạnh phát triển sản xuất. Đời sống của nhân dân miền Bắc ngày càng nâng cao lại biểu hiện tính hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đối với chế độ của Mỹ - Diệm ở miền Nam, cổ vũ đồng bào miền Nam thêm kiên quyết phấn đấu thực hiện thống nhất nước nhà, đem lại hoà bình, tự do và no ấm cho mọi người.
Chúng ta phải quan tâm đầy đủ cải thiện đời sống trước mắt của nhân dân, đồng thời phải bảo đảm tích lũy vốn để đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện không ngừng mở rộng sản xuất, do đó mà tiếp tục nâng cao không ngừng đời sống của nhân dân. Vì thế, Nhà nước cũng như các hợp tác xã phải dựa trên cơ sở sản xuất phát triển và nǎng suất lao động nâng cao mà cải thiện đời sống cho công nhân, viên chức và cho xã viên hợp tác xã, và phải giáo dục mọi người quán triệt tinh thần cần kiệm xây dựng Tổ quốc.
Mục tiêu phấn đấu trong thời gian kế hoạch 5 nǎm về cải thiện đời sống là: tạo thêm công việc làm cho những người đến tuổi lao động và có sức lao động; tǎng thêm thu nhập thực tế, bảo đảm cho nhân dân lao động ǎn no, mặc ấm, tǎng thêm sức khoẻ, có thêm nhà ở và được học tập. Cần kết hợp giáo dục chính trị và khuyến khích về vật chất để nâng cao nhiệt tình cách mạng và nǎng lực lao động của quần chúng; thực hiện đúng đắn chế độ phân phối theo lao động, đồng thời chú trọng nâng cao phúc lợi xã hội; bảo đảm quan hệ thích hợp giữa đời sống của công nhân, nông dân, viên chức, cán bộ và quân đội.
Đối với nông dân, cần phấn đấu nâng cao thu nhập thực tế, làm cho đại bộ phận xã viên đạt và vượt mức thu nhập hiện nay của trung nông lớp trên. Đi đôi với nâng mức tiêu dùng về các sản phẩm nông nghiệp, cần chú trọng tǎng thêm mức sản xuất để bán ra, tǎng thêm thu nhập bằng tiền của nông dân, trên cơ sở đó mà mở rộng tiêu dùng các hàng công nghiệp, chủ yếu là về mặc, học, đồ dùng gia đình. Đồng thời, cần có kế hoạch hướng dẫn các hợp tác xã và nông dân xây dựng nhà ở cho hợp vệ sinh, bền vững và tiết kiệm; xây dựng và sử dụng tốt quỹ công ích của hợp tác xã, kết hợp với sự giúp đỡ của Nhà nước để đẩy mạnh các sự nghiệp phúc lợi, phát triển các nhóm giữ trẻ, mở mang trường học, nhà vǎn hoá, phòng đọc sách báo, nâng cao chất lượng các trạm y tế, sửa sang đường sá, cầu cống... xây dựng dần dần nông thôn mới.
Thông qua việc giúp đỡ nông dân phát triển sản xuất, chủ yếu là mở mang xây dựng cơ bản về nông nghiệp, tǎng thêm vốn tín dụng, thi hành đúng chính sách giá cả và thu mua nông sản, cung cấp các hàng công nghiệp bao gồm các tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, và giúp đỡ nông dân phát triển vǎn hoá, giáo dục ở nông thôn, Nhà nước cần chú trọng phát huy kết quả các mặt ấy để góp phần tích cực cải thiện đời sống của nông dân. Về bảo hiểm xã hội, cần có những quy định thích hợp, hướng dẫn các hợp tác xã thi hành.
Đối với thợ thủ công và những người buôn bán nhỏ, trên cơ sở hợp tác hoá, cần ổn định công việc làm, bảo đảm thu nhập được điều hoà và tǎng thêm một cách thích đáng.
Đối với Việt kiều về nước, cần sắp xếp vào các ngành sản xuất, giúp đỡ đồng bào sớm ổn định đời sống.
Đối với công nhân, viên chức, cán bộ và quân đội, cần tiếp tục tǎng lương và cải tiến chế độ tiền lương nhằm thống nhất chế độ trả lương theo lao động một cách hợp lý, đồng thời coi trọng phát triển các sự nghiệp phúc lợi vật chất và vǎn hoá.
Đối với cán bộ, nhân viên, trên cơ sở nâng cao ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa, kết hợp với việc kiện toàn các bộ máy làm việc, ổn định về cǎn bản các tổ chức, cần thi hành triệt để chế độ lương chức vụ, nhằm khuyến khích cán bộ, nhân viên đi sâu vào nghiệp vụ, chuyên môn, nâng cao công tác quản lý kinh tế và quản lý hành chính.
Đối với công nhân, cần thi hành tốt chế độ lương theo thời gian và chế độ tiền thưởng, kết hợp thực hiện chế độ lương trả theo sản phẩm một cách có trọng điểm ở những bộ phận cần thiết, dựa trên những định mức hợp lý về lao động và kỹ thuật. Để phát huy ảnh hưởng tốt của chế độ tiền lương đối với công nhân, bảo đảm đẩy mạnh tǎng nǎng suất, hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm, cần phải tǎng cường công tác giáo dục chính trị và tư tưởng, nâng cao ý thức làm chủ của công nhân.
Đối với thợ học nghề, cần quy định chế độ trả lương theo nguyên tắc: có phân biệt đúng mức với lương khởi điểm cùng nghề, có phân biệt giữa các ngành, nghề khác nhau, vừa bảo đảm đời sống và học tập cho thợ học nghề, vừa phù hợp với yêu cầu mở rộng việc đào tạo công nhân.
Đi đôi với việc tǎng lương cho công nhân, viên chức, quân đội, cần mở rộng phúc lợi công cộng và tǎng thêm quỹ xã hội của công nhân viên chức nhằm giải quyết thỏa đáng các chế độ lương hưu, tiền tuất, trợ cấp cho gia đình đông con... Cần ban hành luật bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức và tǎng cường việc bảo hộ lao động. Về nhà ở, cần tích cực xây dựng thêm, cố gắng giải quyết một bước tình hình thiếu nhà; ngoài ra xây dựng thêm một số nhà nghỉ, nhà dưỡng lão, nhà nuôi trẻ mồ côi...
IV. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC KẾ HOẠCH HOÁ
KINH TẾ QUỐC DÂN VÀ VIỆC CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
Thưa các đồng chí,
Bản Báo cáo Chính trị và Báo cáo sửa đổi Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương đã kết hợp một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối chính trị và đường lối tổ chức đúng đắn của Đảng ta trong giai đoạn mới. Những đường lối ấy được Đại hội thông qua là ánh sáng soi đường cho toàn bộ hoạt động cách mạng của Đảng ta và nhân dân ta nhằm đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất Tổ quốc.
Hơn 30 nǎm vận động cách mạng ở nước ta đã chỉ rõ Đảng ta là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của dân tộc. Từ nay về sau cũng vậy, Đảng ta là người duy nhất đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta không ngừng tiến lên những bước phát triển mới, giành những thắng lợi càng to lớn hơn. Sở dĩ Đảng ta có thể gánh vác trách nhiệm ấy là vì Đảng ta là một đảng mácxít lêninít có đường lối cách mạng đúng, trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản, thống nhất tư tưởng và thống nhất hành động, là vì Đảng ta không ngừng cố gắng nâng cao nǎng lực lãnh đạo và chỉ đạo của mình, đoàn kết nhân dân lao động thành một khối vững chắc. Chúng ta đã lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, đã lãnh đạo kháng chiến và cải cách ruộng đất thắng lợi, nhất định cũng sẽ lãnh đạo nhân dân cả nước hoàn thành vẻ vang những nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc hiện nay là một cuộc đấu tranh kết hợp nhiều mặt: chính trị, tư tưởng, kinh tế, vǎn hoá, kỹ thuật. Đảng ta phải lãnh đạo toàn diện cuộc đấu tranh ấy, phải sử dụng một cách sắc bén nền chuyên chính dân chủ nhân dân để tiến hành cuộc đấu tranh ấy, bảo đảm đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Sau khi có đường lối, chúng ta phải thấu suốt đường lối ấy trong mọi hoạt động, và phải hết sức chú trọng nâng cao nǎng lực chỉ đạo của các cấp, các ngành. ở đây, tôi xin nhấn mạnh mấy vấn đề vềtǎng cường công tác kế hoạch hoá kinh tế quốc dân là một yêu cầu cấp bách để tiến hành tốt việc lập kế hoạch và chỉ đạo thực hiện kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất.
Trong nǎm 1956 và nǎm 1957, chúng ta đã lập hai kế hoạch hàng nǎm; tiếp theo, chúng ta đã xây dựng kế hoạch 3 nǎm phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển vǎn hoá. Công tác kế hoạch hoá kinh tế quốc dân đối với chúng ta là một vấn đề mới. Nhờ sự giúp đỡ của các đoàn chuyên gia Liên Xô và Trung Quốc, dần dần chúng ta đã thu thập được một số kinh nghiệm và đã có những tiến bộ bước đầu về tư tưởng và về nghiệp vụ công tác thống kê, kế hoạch. Nhưng chúng ta còn nhiều nhược điểm, thiếu sót phải ra sức khắc phục.
Chúng ta đều biết rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa về bản chất là một nền kinh tế kế hoạch hoá; các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội, gồm cả quy luật phát triển có kế hoạch của nền kinh tế quốc dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, đều phát sinh từ chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Chúng ta cũng biết rằng các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội phản ánh tính hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa, nhưng tự nó không thể phát huy tác dụng được mà chúng ta phải biết vận dụng các quy luật ấy. Cho nên việc lãnh đạo phát triển kinh tế quốc dân có kế hoạch là một vấn đề cơ bản nhất trong nhiệm vụ quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa. Lập kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân tức là phản ánh một cách tự giác yêu cầu và khả nǎng phát triển khách quan của tình hình kinh tế và vǎn hoá xã hội chủ nghĩa; là thể hiện đường lối, chủ trương của Đảng thành những việc làm cụ thể, đồng thời góp ý kiến xây dựng đường lối chủ trương của Đảng, là vận dụng các quy luật phát triển khách quan của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thích hợp với điều kiện thực tế từng nơi, từng lúc, là tổ chức và động viên lực lượng to lớn về mọi mặt của quần chúng vào việc xây dựng kinh tế và vǎn hoá theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đó là một công tác sinh động vừa có nội dung cách mạng sâu sắc, vừa có cơ sở khoa học chính xác, vừa có tính chất quần chúng rộng rãi. Uỷ ban kế hoạch của chúng ta ở các cấp làm việc còn nặng tính chất quan liêu bàn giấy, việc lãnh đạo chính trị trong quá trình lập kế hoạch còn yếu, nhiều cán bộ bù đầu trong việc tính toán đơn thuần, chúng ta cần chú trọng khắc phục các thiếu sót ấy. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội càng tiến lên thì càng tạo thêm những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện kế hoạch hoá, đồng thời cũng đòi hỏi về mặt lãnh đạo, phải nâng cao công tác kế hoạch hoá. Các cấp uỷ Đảng, các cơ quan lãnh đạo chính quyền có nhiệm vụ tǎng cường chỉ đạo và trực tiếp tham gia việc lập kế hoạch; cần kiện toàn cơ quan thống kê và kế hoạch, chú trọng bồi dưỡng cán bộ thống kê và kế hoạch về đường lối, chính sách, giúp đỡ cho các cán bộ ấy đi sâu vào thực tế sản xuất, vào quần chúng, làm tốt công tác điều tra nghiên cứu, nâng cao trình độ lý luận để phục vụ đắc lực hơn nữa cho việc lãnh đạo và chỉ đạo kinh tế. Về phần Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, chúng tôi có trách nhiệm phải giúp đỡ cán bộ thống kê và kế hoạch ở các cấp, bồi dưỡng về nghiệp vụ và phải đi sát hơn nữa giúp đỡ các địa phương trong việc lập kế hoạch.
Chúng ta hết sức chống quan liêu, lãng phí trong việc quản lý kinh tế thì trước hết, phải thấu suốt tinh thần ấy trong khi lập kế hoạch, vì kế hoạch không chính xác sẽ gây ra những lãng phí rất lớn. Để nâng cao chất lượng của kế hoạch Nhà nước, cần phải chú trọng làm tốt kế hoạch ở các đơn vị cơ sở, phải phát động quần chúng công nhân, nông dân tham gia xây dựng kế hoạch từ dưới lên kết hợp với hướng dẫn từ trên xuống. Đi đường lối quần chúng trong việc lập kế hoạch, chúng ta sẽ tập trung được trí tuệ của quần chúng và biến kế hoạch Nhà nước thành cương lĩnh hành động của quần chúng. Kế hoạch lập ra được chính xác, được đông đảo nhân dân đồng tình và ra sức thực hiện thì tính chất pháp lệnh của kế hoạch càng được nâng cao.
Yêu cầu về kế hoạch hoá kinh tế quốc dân là phải bảo đảm phát huy cao độ tính hơn hẳn của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy các ngành kinh tế và vǎn hoá phát triển với nhịp độ nhanh, cân đối giữa các mặt. Muốn thế, trong việc lập kế hoạch, phải nắm vững quan điểm phát triển, giải quyết thống nhất giữa yêu cầu và khả nǎng, nhìn xa và nhìn toàn diện, phân tích sâu sắc tình hình thực tế, định rõ phương hướng tiến lên, đề ra những biện pháp thiết thực, làm cho kế hoạch đặt ra vừa tích cực, vừa vững chắc. Đảng ta chủ trương đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, đó là tư tưởng cơ bản, chỉ đạo việc kế hoạch hoá kinh tế quốc dân. Cần chú trọng đấu tranh triệt để chống tư tưởng bảo thủ, hoài nghi còn tồn tại khá phổ biến trong cán bộ, đồng thời vẫn phải khắc phục xu hướng lạc quan tếu, thiếu thực sự cầu thị. Trình độ sản xuất, trình độ kỹ thuật của ta còn lạc hậu, tình hình kinh tế của ta còn nhiều khó khǎn; mặt khác, phải thấy rằng chúng ta có nhiều nǎng lực tiềm tàng, có nhiều khả nǎng phát triển và tiến bộ. Chúng ta không chờ đợi có đủ điều kiện mới tiến nhanh, mà phải ra sức phát huy thuận lợi, khắc phục khó khǎn, tạo ra các điều kiện cần thiết để tiến nhanh. Cần phải tǎng cường công tác cân đối tổng hợp, kịp thời phát hiện những chỗ mất cân đối, giải quyết cân đối một cách tích cực để bảo đảm một tốc độ phát triển cao. Trong xây dựng và sản xuất, phải đặc biệt nắm vững việc cân đối về vật liệu và nguyên liệu; không những chỉ chú ý cân đối chung trong toàn quốc, cho cả nǎm, mà phải giải quyết cân đối cho từng vùng, trong từng thời gian ngắn; phải chiếu cố toàn diện và tập trung vào các trọng điểm. Chúng ta lại không tách rời tiến nhanh, tiến mạnh với tiến vững chắc. Tốc độ ghi trong kế hoạch phải nhằm động viên tinh thần tích cực, phấn khởi lao động của quần chúng, tránh gây ra cǎng thẳng trong khi thực hiện. Kế hoạch dài hạn cần được xây dựng theo mức tích cực, đồng thời phải rất chú trọng tính chất vững chắc; trong các kế hoạch hàng nǎm, sẽ cǎn cứ vào khả nǎng thực tế mà đặt mức phấn đấu cao hơn. Đối với một số chỉ tiêu xét cần thiết, chúng ta nên áp dụng phương pháp hai quyển sổ: quyển số thứ nhất là mức phải bảo đảm thực hiện; quyển sổ thứ hai ghi mức cao hơn, nhằm phấn đấu để hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước. Quyển sổ thứ nhất và quyển sổ thứ hai phải hợp thành một hệ thống chỉ tiêu thống nhất từ trên xuống dưới, trong đó phải phân biệt những chỉ tiêu cần khống chế và những chỉ tiêu có thể linh hoạt trong phạm vi nhất định, nhằm bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc quản lý kinh tế và bảo đảm tính cân đối của kế hoạch. Muốn làm cho kế hoạch có đầy đủ tính chất hiện thực, phải nghiên cứu sâu sắc các biện pháp về kinh tế, kỹ thuật và tổ chức. Như Hồ Chủ tịch thường nhắc nhở, đặt chỉ tiêu là một thì phải có biện pháp gấp rưỡi, và phải có quyết tâm gấp đôi để bảo đảm thực hiện vượt mức kế hoạch.
Làm kế hoạch là dự kiến, tức là phải nhìn xa, phải đi trước việc thực hiện, phải kết hợp việc trước mắt và việc lâu dài, phải chuẩn bị mọi mặt làm cho các hoạt động phát triển được liên tục. Vì thế, kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất phải chuẩn bị thiết thực cho kế hoạch 5 nǎm lần thứ hai; kế hoạch nǎm này phải tích cực chuẩn bị cho kế hoạch nǎm sau. Chúng ta lại phải tiến tới lập các quy hoạch dài hạn về phát triển nông nghiệp, về phát triển công nghiệp, về đào tạo cán bộ, v.v.; và phải cố gắng phối hợp từng phần trên kế hoạch dài hạn với các nước anh em. Về kế hoạch hàng nǎm, chúng ta phải khắc phục khó khǎn, cố gắng xây dựng kế hoạch và giao nhiệm vụ cho các ngành, các địa phương sớm hơn; chấm dứt tình trạng vì kế hoạch làm chậm, thiếu thời giờ chuẩn bị các điều kiện về vật chất và kỹ thuật, cho nên đầu nǎm thì thong thả, cuối nǎm thì quá khẩn trương, lãng phí nhiều sức người, sức của, ảnh hưởng không tốt đến nhịp độ phát triển. Trong các bộ phận của kế hoạch, chúng ta phải xây dựng sớm kế hoạch sản xuất nông nghiệp, để kịp phát động vụ Đông - Xuân; xây dựng sớm kế hoạch xây dựng cơ bản để đẩy mạnh liên tục đà xây dựng trong quý tư của nǎm trước và quý một, quý hai của nǎm sau, là những quý thời tiết thuận lợi cho việc xây dựng cơ bản. Nhất là chúng ta phải hết sức cố gắng cải tiến việc lập kế hoạch xuất nhập khẩu để có thể ký kết kịp thời với các nước anh em, bảo đảm cung cấp các thiết bị và nguyên liệu cần thiết cho các ngành xây dựng và sản xuất được đúng hạn.
Trong nǎm tới, cǎn cứ vào Nghị quyết của Đại hội và dựa vào dự án số kiểm tra, chúng ta sẽ xây dựng kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất. Cần cải tiến một bước việc xây dựng kế hoạch ở các cấp, các ngành cũng như việc xây dựng kế hoạch Nhà nước để làm tốt bản kiến nghị về kế hoạch 5 nǎm.
Từ những chủ trương và những chỉ tiêu của kế hoạch, chúng ta phải làm thế nào biến thành hành động tự giác của hàng triệu quần chúng, đem lại những kết quả tốt nhất về vật chất và tinh thần theo những mục tiêu cụ thể đã định trước, nhằm đưa xã hội tiến lên từng bước, làm cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa cao quý của chúng ta trở thành hiện thực.
Muốn thế, chúng ta phải nâng cao nǎng lực của Đảng về chỉ đạo thực hiện kế hoạch và phải tǎng cường vai trò của Nhà nước trong việc quản lý thực hiện kế hoạch, phát động một phong trào thi đua yêu nước sôi nổi, sâu rộng của đông đảo quần chúng.
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương đã đề ra yêu cầu phải tǎng cường chỉ đạo về các mặt tư tưởng, chính sách và tổ chức; đó là những vấn đề rất quan trọng mà chúng ta cần phải nghiên cứu cụ thể và kịp thời giải quyết để cải tiến công tác quản lý kinh tế của chúng ta cho phù hợp với sự phát triển của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và của sức sản xuất. Cần giáo dục cho quần chúng hiểu rõ đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, nâng cao lòng yêu nước, chí cǎm thù bọn Mỹ - Diệm và ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa của quần chúng, động viên nhiệt tình lao động và tinh thần dám nghĩ dàm làm của quần chúng. Muốn biến sức mạnh tinh thần ấy thành sức mạnh vật chất, phát huy mọi khả nǎng của quần chúng, chúng ta cần phải hết sức tǎng cường việc tổ chức thực hiện. Cần tiếp tục thực hiện việc phân cấp quản lý một cách có hệ thống; đi đôi với việc phân cấp quản lý về sản xuất, xây dựng, vận tải, đào tạo cán bộ..., cần có sự phân cấp thích đáng về quản lý tài chính, quản lý vật tư, quản lý thực hiện kế hoạch. Trên cơ sở tǎng cường sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của trung ương, cần hết sức phát huy tính tích cực và sáng tạo của các địa phương, của các xí nghiệp, nâng cao nǎng lực và trách nhiệm của cấp uỷ Đảng và Uỷ ban hành chính ở các khu tự trị, các khu công nghiệp, các thành phố, các tỉnh trong việc quản lý kinh tế. Các bộ cần phối hợp chặt chẽ với nhau và với các địa phương nhằm giải quyết hợp lý các yêu cầu về phát triển kinh tế và vǎn hoá của toàn quốc và của địa phương, bảo đảm phát triển cân đối các mặt hoạt động trong từng ngành cũng như trong từng địa phương, khắc phục tệ quan liêu, lãng phí, tham ô. Các đoàn thể quần chúng có nhiệm vụ và vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và động viên quần chúng thực hiện kế hoạch, cho nên giữa các cơ quan kinh tế và vǎn hoá của Nhà nước và Công đoàn, Đoàn Thanh niên Lao động, Hội Liên hiệp Phụ nữ phải phối hợp chặt chẽ trong mọi hoạt động có quan hệ với nhau, chấp hành tốt các chủ trương của Đảng và Nhà nước. ở các xí nghiệp, nông trường, công trường, cần phát huy những thắng lợi bước đầu trong công tác cải tiến quản lý, thi hành đúng chế độ trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị, tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng uỷ và vai trò tham gia quản lý của công đoàn và công nhân viên chức; tiếp tục sửa đổi các chế độ, thể lệ; tổ chức và động viên công nhân thi đua cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Để phục vụ tốt công tác cải tiến quản lý ở các xí nghiệp, nông trường, công trường, phát huy tính tích cực và sáng tạo của công nhân, đẩy mạnh phát triển sản xuất một cách toàn diện, các bộ cần phải nâng cao trình độ quản lý thực hiện kế hoạch, tǎng cường công tác quản lý vật tư, quản lý kỹ thuật, quản lý lao động, quản lý tài vụ, tập trung sức chỉ đạo các đơn vị trọng điểm, đi sát giải quyết kịp thời các khó khǎn và các yêu cầu của các cơ sở. Đi đôi với việc tǎng cường chỉ đạo đối với kinh tế quốc doanh, cần tǎng cường chỉ đạo đối với kinh tế hợp tác xã. Việc nghiên cứu và ban hành các chính sách cụ thể đối với các hợp tác xã nông nghiệp, thủ công nghiệp, có tác dụng rất quan trọng thúc đẩy hoàn thành tốt công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, đồng thời, hướng dẫn các hợp tác xã phát triển sản xuất theo yêu cầu của kế hoạch Nhà nước. Cần theo dõi sát những chuyển biến của phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa, giải quyết đúng đắn và kịp thời các yêu cầu phát triển của phong trào, khắc phục các khó khǎn thiếu sót, động viên tinh thần phấn khởi và nhiệt tình lao động của quần chúng xã viên. Các cấp uỷ cần nắm vững chỉ đạo điển hình một số hợp tác xã, phổ biến rộng rãi các kinh nghiệm tốt, ngǎn ngừa các lệch lạc, chú trọng giúp đỡ các hợp tác xã tǎng cường công tác quản lý sản xuất, quản lý lao động, quản lý tài vụ, sử dụng hợp lý quỹ tích luỹ, giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa hợp tác xã và xã viên, giữa hợp tác xã và Nhà nước.
Trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở miền Bắc, chúng ta chuyển trọng tâm vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội; vì thế, hơn bao giờ hết, Đảng ta phải nâng cao nǎng lực chỉ đạo kinh tế và vǎn hoá của mình theo kịp với yêu cầu của nhiệm vụ, đồng thời phải tǎng cường vai trò của Nhà nước trong việc quản lý thực hiện kế hoạch. Đó là một điều kiện cơ bản để bảo đảm thực hiện đường lối chung của miền Bắc, trước mắt là bảo đảm hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất.
Thưa các đồng chí,
Hiện nay, ở khắp nơi trên miền Bắc nước ta, phong trào thi đua yêu nước của các tầng lớp quần chúng lao động đang phát triển mạnh mẽ. Mọi người đều ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi kế hoạch nǎm 1960 và kế hoạch 3 nǎm, lấy thành tích để chào mừng ngày hội lớn của dân tộc kỷ niệm 15 nǎm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và chào mừng Đại hội Đảng. Thắng lợi của Đại hội sẽ động viên thêm mạnh mẽ tinh thần tin tưởng, phấn khởi của nhân dân, tạo đà thuận lợi cho việc bước vào kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất.
Chúng ta đều thấy rằng nhiệm vụ của kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất rất nặng nề, đồng thời đó cũng là những nhiệm vụ rất vẻ vang. Với việc hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 nǎm, nền kinh tế miền Bắc sẽ có những chuyển biến rõ rệt; như Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương đã nêu lên, "đó là một bước rất quan trọng của nhân dân ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội". Từ một nền kinh tế nông nghiệp rất lạc hậu, đại bộ phận là sản xuất cá thể phân tán, công nghiệp hầu như chưa có, trong vòng hơn 10 nǎm sau chiến tranh, chúng ta sẽ tiến lên một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có nông nghiệp phát triển và công nghiệp phát triển với tỷ trọng xấp xỉ ngang nhau. "Đó là một bước rất quan trọng..." là vì qua bước này, trong kế hoạch 5 nǎm lần thứ hai, chúng ta có thể tiến lên xây dựng miền Bắc nước ta thành một nước công, nông nghiệp xã hội chủ nghĩa, thanh toán về cǎn bản tình trạng sản xuất còn lạc hậu hiện nay.
Đến cuối nǎm 1965, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối trong nền kinh tế quốc dân; cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội sẽ được xây dựng bước đầu trong các ngành nông nghiệp, giao thông vận tải, nhất là trong công nghiệp; cán bộ xây dựng kinh tế và công nhân lành nghề đều tǎng thêm về số lượng và một phần về chất lượng; phong trào thi đua yêu nước của quần chúng sẽ ngày càng sâu rộng, sôi nổi. Chúng ta sẽ tích cực phấn đấu để tạo ra những nhân tố ấy; và dựa vào những nhân tố ấy, chúng ta sẽ tiếp tục đưa sự nghiệp kinh tế và vǎn hoá ở miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Về nông nghiệp, từ sản xuất nhỏ phân tán, các hợp tác xã sẽ tiến dần lên quy mô ngày càng lớn; dựa vào việc cải tiến nông cụ, cải tiến kỹ thuật, bước đầu thuỷ lợi hoá và bước đầu cơ giới hoá, chúng ta sẽ giải quyết vững chắc vấn đề lương thực và đẩy mạnh phát triển các ngành khác toàn diện hơn, nhất là về cây công nghiệp và chǎn nuôi, tạo cơ sở thuận lợi cho việc thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Về công nghiệp, sau kế hoạch 5 nǎm, trên miền Bắc nước ta sẽ hình thành khoảng 10 khu vực công nghiệp, trong đó có những khu vực tương đối tập trung là Hà Nội, Thái Nguyên, Việt Trì, Hải Phòng, Hòn Gai. ở miền núi, chúng ta bắt đầu xây dựng một số cơ sở công nghiệp quan trọng. Các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ chủ yếu sẽ được xây dựng thành một hệ thống ngày càng cân đối, có khả nǎng cung cấp một phần quan trọng về gang thép, phân bón..., một phần về thiết bị, và bảo đảm cung cấp hầu hết các hàng tiêu dùng thông dụng cho nhân dân lao động. Nhờ công nghiệp và nông nghiệp cùng phát triển nhanh, miền Bắc nước ta sẽ tiến một bước quan trọng trên con đường xây dựng kinh tế tự chủ, đồng thời khả nǎng hợp tác quốc tế của nước ta với các nước anh em cũng sẽ dần dần được mở rộng.
Đi đôi với việc phát triển kinh tế và dựa trên cơ sở sản xuất ngày càng tǎng, đời sống vật chất và vǎn hoá của nhân dân lao động sẽ được cải thiện thêm một bước rõ rệt. Những trẻ em đến tuổi đi học đều được học tập; những người lớn tuổi đều được bổ túc vǎn hoá; sau kế hoạch 5 nǎm, ở miền xuôi sẽ
cǎn bản thực hiện xong việc phổ cập giáo dục cấp I. Những người đến tuổi lao động đều có thể có việc làm. Mọi người có tài nǎng đều được giúp đỡ, khuyến khích, có điều kiện phát huy sức sáng tạo của mình để góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thu nhập thực tế của công nhân, nông dân sẽ được tǎng thêm một cách thích đáng; nhân dân lao động sẽ được ǎn no, mặc ấm và có thể mua sắm thêm các đồ dùng cần thiết; phúc lợi xã hội ở thành thị và nông thôn sẽ ngày càng được cải thiện.
Chúng ta đang đứng trước những triển vọng tốt đẹp. Chúng ta phải ra sức phấn đấu để biến những khả nǎng ấy thành hiện thực. Dưới ánh sáng của những Nghị quyết của Đại hội và sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, với sự giúp đỡ tận tình của các nước anh em, với truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù, nhất định nhân dân ta sẽ thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất, đưa miền Bắc tiến lên một bước vững vàng trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, củng cố miền Bắc làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất Tổ quốc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét