THÁNH ÐÔ MỸ SƠN: TRUNG TÂM NGHỆ THUẬT
CỦA VƯƠNG QUỐC CỔ CHAMPA
Trần Kỳ Phương
Thánh địa Mỹ Sơn
Ðền - tháp ở Mỹ Sơn được xây dựng và tu bổ liên tục từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 13, nghệ thuật kiến trúc ở đây biểu hiện rất rõ đặc điểm của những phong cách quan trọng trong quá trình chuyển hóa của nghệ thuật Champa. Các vương triều Champa sau khi lên ngôi thường xây dựng thêm hoặc tu bổ lại các đền thờ của các triều vua trước để tỏ lòng kính ngưỡng tiền nhân và chư thần hộtrì vương quốc. Thông thường đền-tháp chỉ được trùng tu phía tường bên ngòai, còn trong lòng tháp lại được giữ nguyên.
Amaravati, tên gọi xưa của một vùng đất Quảng Nam, được văn bia Chàm nhắc đến như là trái tim của vương quốc Champà trong nhiều thế kỷ. Tiểu vương quốc này được thành lập bởi Ðại vương/Maharaja Phạm Hồ Ðạt/Bhadravaman/Fan Hu-Ta, trị vì vào khoảng cuối thế kỷ thứ 4 (380-413) sau Công nguyên (Ðào Duy Anh 1957: 122-28; Higham 1989: 300-06). Phương danh của nhà vua còn được tìm thấy trong văn bia tại khu đền Vat Phu, là nơi có ngọn núi thiêng Lingaparvata, ngày nay thuộc Chămpasac ở miền Hạ Lào; và cũng được khắc ở sườn núi đá phía đông chân Tháp Nhạn tại Tuy Hòa, nơi cũng có ngọn núi thiêng Lingaparvata/Lăng-già-bát-bạt-đa tại miền Nam vương quốc (Wolters 1967: 173), tức là núi Ðá Bia ở Ðèo Cả, thuộc tỉnh Phú Yên ngày nay (1); cho thấy, uy lực của Ðại vương Bhadravarman bao trùm cả một vùng rộng lớn bao gồm cả đồng bằng ven biển và miền núi (Coedès 1968: 66; Majumdar 1985: 27-8). (2) Dựa vào ngọn núi thiêng Mahaparvata nghĩa là Ðại Sơn Thần, nay gọi là núi Hòn Ðền Mỹ Sơn, Ðại vương Bhadravarman/Phạm Hồ Ðạt đã chọn thung lũng Mỹ Sơn làm đất thánh để thờ phượng đấng thần-vua/devaraja Bhadresïvara-đấng bảo hộ vương quyền và xứ sở.
Tác phẩm điêu khắc trên gạch
Danh hiệu của đấng thần-vua được kết hợp bằng danh xưng của nhà vua với Ðấng Sáng Tạo Toàn Năng là Thần Isvara/Siva: Bhadravarman + Isvara/Siva= Bhadresvara. Theo truyền thuyết, vương quốc Champa được trị bởi hai dòng tộc là Cau (Kramuk Vansh), tiếng Chăm gọi là Pi-nang; và Dừa (Narikel Vansh), tiếng Chăm gọi là Li-u. Dòng Cau/Trống trị vì miền Bắc vương quốc gồm: Indrapura (?) (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế/vùng đất giữa đèo Ngang và đèo Hải Vân); Amaravati (Quảng Nam, Ðà Nẵng, Quảng Ngãi/giữa đèo Hải Vân và đèo Bình Ðê?); Vijaya (Bình Ðịnh, Phú Yên/giữa đèo Bình Ðê và đèo Cả?); Và, dòng Dừa/Mái trị vì miền Nam vương quốc gồm: Kauthara (Khánh Hòa/giữa đèo Cả và núi Ðồng Bò?); Panduranga (Ninh Thuận, Bình Thuận/từ núi Ðồng Bò đến lưu vực sông Ðồng Nai?).
Tòan cảnh thánh địa Mỹ Sơn
Cũng như các tín ngưỡng cổ ở Ðông Nam Á, tín ngưỡng của người Champa xưa theo thuyết vũ trụ lưỡng nghi (dualisme cosmostique): mái-trống/mẹ-cha/biển-núi/dừa-cau..., và đã dung hợp với những tôn giáo du nhập từ Ấn Ðộ như Ấn Ðộ giáo/Bà-la-môn giáo và Phật giáo để trở thành tín ngướng chính của những vương triều Champa (Trần Kỳ Phương 1994: 13-5). Theo đó, Mỹ Sơn, là thánh đô của miền Bắc, thờ đấng thần-vua Bhadresvara/Cha/Núi/Cau, đấng bảo hộ vương quyền; và, Pô Nagar Nha Trang, là thánh đô của miền Nam, thờ nữ thần Bhavagati/Yang Inư Pô Nagar/Thiên Y A Na/Mẹ/Biển/Dừa (3), đấng hộ trì vương quốc. Vì thế, Mỹ Sơn được chọn nằm sâu trong thung lũng có núi cao bao bọc; ngược lại, Pô Nagar Nha Trang nằm trên một ngọn đồi ven sông sát cửa biển.
Tượng thần Shiva và Linga
Ngôi đền đầu tiên của Ðại vương Bhadravarman/Phạm Hồ Ðạt xây dựng tại Mỹ Sơn bằng gỗ để thờ linga của thần-vua Bhadresvara. Ngồi đền này đã bị cháy khoảng hai thế kỷ sau đó. Có lẽ, những triều vua kế tiếp cho dựng thêm những kiến trúc khác nhưng cũng bằng gỗ; mãi đến thế kỷ thứ 7- thứ 8 thì mới chuyển chất liệu sang gạch và đá, là thứ chất liệu quý để cúng dâng thần linh do ảnh hưởng những đền thờ ở miền Nam Ấn Ðộ.
Ðền-tháp ở Mỹ Sơn dựng theo một tổng thể sau :
Một Kalan, đền thờ chính, ở giữa, thờ linga hoặc linh tượng của thần Siva; đối diện là một tháp- cổng/gopura ; rồi đến một tiền đình/mandapa, là nơi chuẩn bị lễ vật hoặc múa hát cúng dâng thần linh; và một kiến trúc có một hoặc hai phòng luôn luôn xoay về hướng bắc, là hướng của thần Tài Lộc Kuvera, gọi là kosagrha, để chứa đồ tế nhuyễn hoặc nấu thức ăn cúng cho chư thần (người Chăm hiện nay tại Ninh Thuận gọi tháp này là Tháp Lửa); phía trước Kalan thường có một ngôi tháp nhỏ có bốn cửa để dựng bi ký.
Do địa thế của một thung lũng hẹp, tượng trưng cho một tiểu mandala/đàn tràng mạn-đà-la, nên những Kalan ở Mỹ Sơn vừa xoay về hướng đông, vừa xoay về hướng tây; ngoại trừ, một ngôi đền duy nhất có hai cửa chính xoay về cả hai hướng đông - tây, là Mỹ Sơn A1. Kalan Mỹ Sơn A1 thờ một bộ linga-yoni, được bao quanh bởi sáu ngôi đền nhỏ nằm đối xứng nhau từ A2 đến A7, thờ các vị Hộ Thần Bát Phương Thiên/Dikpalakas như:
1. Phương đông, thần Sấm Sét Indra
2. Phương đông-nam, thần Lửa Agni
3. Phương nam, Diêm Vương Yama
4. Phương tây, thần Nước Varuna
5. Phương tây-nam, thần La-sát Nairrta
6. Phương tây-bắc, thần Gió Vayu
7. Phương bắc, thần Tài Lộc Kuvera
8. Phương đông-bắc, đấng Tự Tại Is’ana (Boisselier 1963:155-9).
Kalan Mỹ Sơn B1, đối diện với Kalan A1, là trung tâm của thánh đô Mỹ Sơn, thờ linga của thần-vua Bhadresvara. Bao quanh B1 là những đền-tháp khác như B5: tháp lễ vật/tháp lửa; B6: tháp chứa nước thánh tẩy; B3 và B4: đền thờ thần Chiến Tranh Skanda và thần Hạnh phúc Ganesa, hai vị con trai của thần Siva và nữ thần Parvati. Trên hai cửa sổ của tháp B5 có trang trí hai cặp voi tượng trưng cho nữ thần Gajalaksmi/nữ thần Sắc Ðẹp và Thịnh Vượng; còn trên mái tháp B6 có hình thần Visnu ngồi dưới rắn Naga nhiều đầu. Như vậy, chúng ta biết rằng, nhóm B được thờ kết hợp giữa tín ngưỡng Sivaite và Visnuite; đó cũng là tín ngưỡng phổ biến tại vương quốc Champa trong nhiều thế kỷ.
Ngoài ra, nhóm B còn có bảy ngôi đền nhỏ từ B7-B13, thờ bảy vị thần Tinh tú Grahas như:
1. Thần Mặt Trời/Surya, với con ngựa
2. Thần Mặt Trăng/Candra, với toà lâu đài
3. Thần Hỏa Tinh/Mangala, với con tê ngưu
4. Thần Thủy Tinh/Budha, với con thiên nga
5. Thần Mộc Tinh/Brhaspati, với con voi
6. Thần Kim Tinh/Sukra, với con bò đực
7. Thần Thổ Tinh/Sahni, với con trâu.
Bên cạnh nhóm B, về hướng bắc, là nhóm C với ngôi đền chính Kalan C1.
Trong kalan C1 thờ linh tượng của thần Siva trong tư thế đứng (hiện trưng bày tại Bảo tàng Ðiêu Khắc Champa-Ðà Nẵng, Ga-lê-ry Mỹ Sơn). Kết hợp với Kalan B1, Kalan C1 phản ánh một tục thờ đặc biệt của thánh đô Mỹ Sơn là: thờ một cặp gồm linh tượng của đấng thần-vua trong hình tượng của thần Siva; và, một bộ Linga của thần.
Tại Mỹ Sơn, Kalan B1 và C1; cùng với E1 và E4; A’1 và A’4 là ba nhóm tháp quan trọng nhất, phản ánh tục thờ tự như trên; một xoay về hướng đông và hai xoay về hướng tây. Cách bài trí bàn thờ ở Mỹ Sơn biểu hiện tín ngưỡng và vũ trụ quan độc đáo của người Chàm nên đã khiến cho Mỹ Sơn trở thành di tích duy nhất trong hệ thống đền thờ Champa thể hiện tục thờ tự này.
Ðền-tháp ở Mỹ Sơn được xem như tiêu biểu cho kiến trúc tôn giáo Champa. Ngôi đền chính hay Kalan là kiến trúc quan trọng nhất trong quần thể đền-tháp. Kalan tượng trưng cho một tiểu vũ trụ.
Theo quan niệm của Ấn Ðộ giáo, Kalan có 3 phần:
Ðế tháp gọi là Bhurloka tượng trưng cho thế giới trần tục. Thân tháp gọi là Bhuwarloka tượng trưng cho thế giới tâm linh, nơi con người tự thanh tịnh chính mình để có thể tiếp xúc với tổ tiên đã hòa nhập với thần linh; Mái tháp gọi là Swarloka tượng trưng cho thế giới thần linh, nơi chư thần tụ tập.
Ðế tháp: thường được trạm trổ hoa lá hoặc động vật như voi, sư tử, hoặc người cầu đảo đứng trong những vòm cuốn nhỏ trang trí hình tượng Kala-Makara, hay những hoạt cảnh vũ nữ, nhạc công v.v..
Thân tháp: trang trí những hàng trụ-áp-tường (pillastre), và giữa-tru-ûáp-tường (inter-pillastre). Thường thường có năm trụ-áp-tường, cái chính giữa bị che khuất bởi một cái cửa- giả-lớn (false door) ở mỗi mặt tháp. Của-giả-lớn của Kalan là một công trình rất công phu với hệ thống vòm cuốn (torana) độc đáo, nghệ thuật chạm trổ đạt đến độ tinh xảo làm tôn thêm giá trị thẩm mỹ củađền-tháp Champa; trong của-giả-lớn bao giờ cũng có hình tượng chư thiên đứng hộ trì cho ngôi đền, hai tay chắp trước ngực cầm một đóa hoa sen. Chân tháp tiếp giáp với đế tháp, mỗi trụ-áp- tường ở phầìn chân tháp đều có vật-trang-trí-chân-tháp thường có hình ách-bích (xì-bích) nhiều lớp; hoặc trang trí vòm cuốn nhỏ trạm trổ hoa lá. Cóc-ních (cornice) tiếp giáp với mái tháp được cấu tạo thành nhữnh đường gờ, chạm trổ công phu bằng những đường diềm trang trí hoa lá; mỗi góc cóc-ních đều có vật-trang-trí-góc thể hiện hình tượng thiên nữ Apsara, thuỷ quái Makara, hoặc hình ngọn lửa thiêng được cách điệu thành nhiều kiểu thức khác nhau qua từng phong cách nghệ thuật; ở bốn góc cóc-ních trên mái tháp có bốn tháp-góc thể hiện một điện thờ thu nhỏ lại trang trí rất tinh xảo.
Mái tháp: có ba tầng và một đỉnh tháp, càng lên cao càng thu hẹp lại. Mỗi tầng mang hình dáng của một đền thờ với đầy đủ những yếu tố chính như trụ-áp-tường, cửa-giả-nhỏ, chân tháp, cóc- ních.... Trên các tầng tháp trang trí ngẫu tượng và vật cưỡi của ba mươi ba vị thần trong Ấn Ðộ giáo như ngỗng thần Hamsa, chim thần Garuda, bò thần Nandin, voi, sư tử.... Trên tầng thứ nhất và thứ hai, ở mỗi góc phía trên cóc-ních đều có bốn tháp-góc nhỏ; tầng thứ ba không có tháp-góc. Từ chóp tháp có một phiến đá lớn hình bát giác, tứ giác hay hình tròn, trên đó chạm mặt nạ Kala, rắn thần Naga hoặc bò thần Nandin..., gọi là Aìmalaka. Ðỉnh tháp là khối đá nhọn có bốn cạnh, phần dưới trang trí những cánh sen, tượng trưng cho ngọn núi thiêng Kailasa, nơi cư ngụ của thần Siva; tại Mỹ Sơn, những đỉnh tháp thường được bọc bằng vàng hay bạc làm tăng thêm vẻ đẹp rực rỡ cho đền-tháp Champa.
Vẻ đẹp của Mỹ Sơn được bộc lộ qua những kiểu thức kiến trúc đa dạng, những kiểu cách hoa văn trang trí độc đáo, kỹ thuật xây dựng được cải tiến liên tục qua nhiều thế kỷ đã đi đến chổ hoàn thiện. Về kỹ thuật xây dựng đền-tháp, xưa kia, người Champa đã dùng một loại nhựa cây, mà cư dân địa phương ngày nay gọi là dầu Rái, tên khoa học là Dipterocarpus Alatus Roxb., để kết dính những viên gạch lại với nhau trong kết cấu tường tháp. Cây dầu Rái được trồng thành rừng tại miền Trung, thân cây tròn và thẳng; loại nhựa cây này có thể khai thác hàng năm với dung lượng lớn; có độ kết dính rất chặt và bền; hoàn toàn không thấm nước. Nhựa cây này rất dễ xử dụng, đem trộn dầu Rái với đất sét khô hay bột gạch, chúng sẽ tạo thành một loại vữa dễ khô cứng dưới nắng. Tường tháp rất dày, khỏang từ 1 mét đến 1,5 mét; trong ruột tường thường xây độn bằng gạch vụn được kết chặt lại bằng dầu Rái, chỉ hai lớp vỏ ngoài của tường là được xây bằng gạch vuông vắn và được mài láng sau khi xây; sau khi tường tháp được xây xong, những nhà điêu khắc mới khởi công chạm trổ trực tiếp những kiểu thức hoa văn lên trên tường gạch (5); sau hết, người Chàm quét phủ lên một lớp dầu Rái để bảo vệ mặt ngoài của tường tháp chống lại sự tác hại của mưa nắng (Trần Kỳ Phương 1993a:14). Ngày nay, dầu Rái vẫn được xử dụng rất phổ biến bởi cư dân miền Trung, đặc biệt trong kỹ thuật đóng ghe thuyền, họ thường dùng dầu Rái trộn với vôi nung từ vỏ nghêu sò trét lên vỏ ghe thuyền để chống thấm nước.
Ở Mỹ Sơn, những kiến trúc thuộc thế kỷ thứ 10 và thứ 11 chiếm đa số, chúng cũng là những kiệt tác kiến trúc như các tháp A1, B3, B5, C1, D1.... Vẻ đẹp những đền-tháp này được biểu hiện trên những cặp trụ-áp-tường thon thả, chạm trổ những chuỗi lá nho/rincau xinh xắn trong bố cục hình chữ S lượn sóng nối đều nhau. Những hình tượng chư thiên hộ trì đền tháp đứng giữa những vòm cuốn được cách điệu thành hình ngọn lửa với khuôn mặt thành kính, thanh tịnh.... Những đường gờ những trên mái tháp cách điệu thành những tòa sen. Kiểu thức hoa văn này xuất hiện rất phổbiến trong giai đoạn nghệ thuật thế kỷ thứ 10-11, đã tạo cho đền- tháp Champa một tiết điệu kiến trúc đặc sắc, mang lại vẻ đẹp nên thơ, giàu nhạc tính.... Hai bên cưả chính của tháp trang trí những trụ cửa bằng sa thạch chạm trổ hình cánh sen cách điệu thành những kiểu thức đa dạng, hình dáng của những trụ cửa này là một cống hiến độc đáo của nền kiến trúc Champa vào nghệ thuật Ðông Nam Á đương thời.
Tuy chỉ xây dựng những công trình có kích thước vừa phải, nhưng những kiến trúc ở Mỹ Sơn đãchắt lọc được mỹ cảm tinh tế và tài hoa của nghệ sĩ Champa qua nhiều thế hệ. Kết hợp với một kỹ thuật xây dựng hoàn hảo và nghệ thuật trang trí điêu luyện, người Champa xưa đã khéo tạo cho đềìn-tháp ở Mỹ Sơn một vẻ đẹp tráng lệ, trang nghiêm.... Thời hưng thịnh của tiểu quốc Amaravati kéo dài từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 10 được biểu hiện qua những kiến trúc tồn tại ở Mỹ Sơn và những di tích khác ở Quảng Nam như thánh đô Phật giáo Ðồng Dương, kinh thành Trà Kiệu, các nhóm tháp Khương Mỹ, Chiên Ðàn, Bằng An v.v.. (Parmentier 1909: 337-438; Trần Kỳ Phương 1993:19-45; Trần Kỳ Phương, Shigeeda 1997:70-112).
Vào cuối thế kỷ thứ 10, một biến cố quan trọng đã xảy ra đã làm ảnh hưởng đến vận mệnh của vương quốc Champa. Ðó là cuộc chinh phạt của Ðại Hành Hoàng Ðế Lê Hoàn vào vùng maravati (năm 982). Ðặc biệt, tiếp sau đó là cuộc phản loạn của Lưu Kỳ Tông, một viên tướng của Lê Hoàn. Viên tướng này đã trái lệnh của Lê Hoàn, tự xưng vương ở Amaravati. Từ năm 985 đến 988, Lưu Kỳ Tông đã cai trị vùng Amaravati bằng một chính sách cực kỳ hà khắc nên một bộ phận người Champa ở đây đã bỏ sang lưu trú tại đảo Hải Nam (Maspéro 1988:122-6). Thời gian cai trị của Lưu Kỳ Tông tuy ngắn nhưng với những hành động cố tình hủy diệt văn hóa bản địa nên phần lớn đền đài ở Mỹ Sơn đã bị đập phá; hầu hết bi ký thuộc thế kỷ thứ 8-10 bị đục xóa một cách đầy thâm ý đã gây rất nhiều khó khăn cho việc nghiên cứu lịch sử Mỹ Sơn vào thời kỳ này (Trần Kỳ Phương 1993b).
Biến cố trên đã làm suy yếu hẳn tiểu quốc Amaravati nên vào khoảng năm 1000 vua Yang Pu Sri Vijaya đã dời trung tâm của vương quốc vào vùng Vijaya thuộc tỉnh Bình Ðịnh ngày nay. Cho đến giữa thế kỷ thứ 11 (1074), một vị vua anh dũng của người Chàm là Harivarman lên ngôi, đã kiến tạo lại vùng Amaravati sau những năm tháng chiến tranh. Vị vua này đã cho trùng tu tất cả đền đài ở Mỹ Sơn, xây dựng lại những đô thị, làng mạc... đã bị tàn phá. Công đức của ông được ca ngợi và còn lưu lại trong văn bia dựng tại Mỹ Sơn (Bia Mỹ Sơn XXIV-V). Những ngôi đền quan trọng như B1 và E4 đều được trùng tu và xây dựng dưới triều đại của vua Harivarman. Ðến thời vua Jaya Harivarman, trị vì khoảng năm 1157, một vị vua lập được nhiều chiến tích trong những cuộc chiến tranh với đế quốc Khmer, ông đã cho dựng ở Mỹ Sơn một quần thể kiến trúc quan trọng, để thờ thần Harivarman và cha mẹ ông, trên một ngọn đồi nhỏ mà văn bia gọi là núi Vugvan (nghĩa là Hoàn Vũ) tức nhóm tháp G ngày nay. Bi ký của vua Paramesvaravarman, khoảng năm 1234, phát hiện gần Kalan B1, cho biết ông là vị vua cuối cùng tu sửa và dâng cúng lễ vật vào ngôi đền này, sau ông không còn tìm thấy văn bia nào khác ở đây.
Như vậy, có thể vào khoảng cuối thế kỷ thứ 13, Mỹ Sơn đã bị bỏ phế vì khi ấy những vương triều ở miền Amaravati đã quá suy yếu; và lúc bấy giờ, tiểu quốc Vijaya ở vùng Bình Ðịnh, giữ vai trò trung tâm của vương quốc cho nên những đền-tháp quy mô đều được tập trung xây dựng ở đó. Cho đến biến cố năm 1471, khi Lê Thánh Tôn tấn công vào thành Chà Bàn thì miền Bắc vương quốc Champa coi như bị suy yếu hẳn ( Maspéro 1988: 237-41; Trần Kỳ Phương 1988: 50-3; Trần Kỳ Phương, Shigeeda 1997: 70-89).
Mãi đến thế kỷ 17, Mỹ Sơn còn được nhắc đến trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Ðồ Thư của sách Hồng Ðức Bản Ðồ với một ghi chú ngắn ngủi: "Thử sơn Hồng Ðức lập bi. Chiêm Thành chủ tổ mộ" (Hồng Ðức Bản Ðồ 1962: 148-9). Mỹ Sơn nằm trong một thung lũng hẹp có đường kính khỏang 2 km, dưới chân rặng núi Răng Mèo, nay thuộc làng Mỹ Sơn, xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, ở tọa độ 17(513 vĩ tuyến và 117(537 kinh tuyến, cách thành phố Ðà Nẵng khoảng 70 km về hướng tây-tây-nam.
Phế tích này được tái phát hiện năm 1885 bởi một toán lính Pháp trong thời Pháp thuộc. Mười năm sau, 1895, Camille Paris đã cho phát quang và dọn dẹp khu di tích này. Vào những năm 1898-99, Louis Finot và Lunet de Lajonquière đã đến Mỹ Sơn để nghiên cứu văn bia. Năm 1901- 02, Henri Parmentier nghiên cứu về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của Mỹ Sơn; năm 1903-04, ông cùng với Charles Carpeaux tổ chức khai quật khảo cổ học tại đây. Ðến năm 1904, những tài liệu cơ bản nhất để tìm hiểu về văn bia và nghệ thuật của Mỹ Sơn đã được L. Finot và H. Parmentier công bố trên Ðặc san Nghiên cứu của Trường Viễn Ðông Bác Cổ Pháp/Bulletin de l’Eïcole Francaise d’Extrême-Orient, số 4, 1904 (BEFEO 1904, IV: 805-977). Finot đã công bố bản dịch ra tiếng Pháp 25 văn bia tìm thấy tại Mỹ Sơn có niên đại từ cuối thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 13, không kể hàng trăm mảnh vỡ của những bi ký bị đập phá; Parmentier kiểm kê. được khoảng 68 vết tích và công trình kiến trúc, ông chia thành từng nhóm từ A, A’, B....đến M, N. Một số tác phẩm quan trọng được đưa về trưng bày tại Bảo tàng Ðiêu Khắc Champa-Ðà Nẵng, số khác được bảo quản tại chỗ; phần lớn bi ký đều được trưng bày tại chỗ.
Từ năm 1937, Viện Viễn Ðông Bác Cổ Pháp/Ecole Francaise d’Extrême-Orient bắt đầu công việc trùng tu tại Mỹ Sơn. Vào những năm 1937-1938, ngôi đền A1, kiệt tác của kiến trúc Champa và sáu ngôi tháp nhỏ, từ A2 đến A7, được đưa vào trùng tu trước. Trong những năm 1938, 39, 42, 43, 44 các tháp B3, B5, B6; C1, C2, C3, D1, D4 được trùng tu hoặc gia cố. Năm 1939, các nhà trùng tu khởi công xây dựng một con đập để chuyển dòng con suối lớn đã phá sập tháp A9; cái đập được hoàn tất năm 1941, để hướng dòng chảy vòng qua phía tây nhóm tháp B, nhưng tiếc thay, nó đã bị phá hủy trong một cơn lũ vào năm 1946. Công việc trùng tu Mỹ Sơn của Viện Viễn Ðông Bác Cổ Pháp được phụ trách bởi Louis Bezacier và Nguyễn Xuân Ðồng. Từ năm 1954 -1964 là thời kỳ bình yên của Mỹ Sơn . Sau đó, từ năm 1965 trở đi, chiến tranh đã bắt đầu lan tràn từ những vùng quê, dần dần Mỹ Sơn bị bỏ phế trong hoang tàn rồi trở thành căn cứ hoạt động của quân du kích. Khoảng năm 1966-68 , Mỹ Sơn nằm trong vùng kiểm soát của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và trở thành khu oanh kích tự do của chính quyền miền Nam Việt Nam.
Từ đó, Mỹ Sơn đã thực sự trở thành chiến trường của hai phía, mìn được gài dày đặc trên những ngọn đồi và trên sườn núi, đặc biệt tại sườn núi phía bắc nơi có con đường dẫn vào làng; cho đến ngày nay, vẫn còn mìn rải rác ở một vài nơi trên núi đồi bao quanh di tích. Tai họa lớn nhất đã xảy đến cho Mỹ Sơn là vào tháng 8 năm 1969, khi máy bay B52 của Mỹ đánh bom xuống khu di tích này. Trận đánh bom này đã làm cho Mỹ Sơn hoàn toàn biến dạng. Hầu hết đền-tháp quan trọng đều bị sụp đổ, những hố bom lớn hiện còn thấy rải rác ở các nhóm B, E, F; hai ngôi đền lớn củaMỹ Sơn là A1 (thế kỷ 10) và E4 (thế kỷ 11) hoàn toàn bị đánh sập; những ngôi đền khác đều bị hư hại nặng nề; riêng ngôi đền A1 là một kiệt tác của nghệ thuật Champa, cao 28m, vừa bị đánh bom vừa bị phá hủy bằng chất nổ.
Ngay sau khi Mỹ Sơn vừa bị đánh bom, Nguyễn Xuân Ðồng (1906-1989), đương thời là quản thủ Bảo Tàng Ðiêu Khắc Champa-Ðà Nẵng, liền viết thư báo tin cho Philippe Stern, một học giả lỗi lạc về nghệ thuật Ðông Dương, quản thủ Bảo tàng Guimet tại Paris; Stern đã tố cáo việc Mỹ Sơn bị đánh bom lên Nhà Trắng của Mỹ tại Hoa Thịnh Ðốn. Lời tố cáo này đã buộc Tổng Thống Nixon phải gởi một công điện đến các bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam như sau:
"The White House desires that to the extent possible measures be taken to insure damage to monuments is not caused by military operation". Bức công điện được gởi đi vào tháng giêng năm 1970 (Heffley 1972: 17; Trần Kỳ Phương 1994: 13-5). Sau chiến tranh, vào năm 1978, để phục vụ cho việc điều tra khoa học, toàn bộ khu di tích Mỹ Sơn được khai quang và tháo gở mìn. Công việc nặng nề và nguy hiểm này đã khiến sáu người chết và mười một người khác bị thương. Bấy giờ, chúng tôi đã tận mắt chứng kiến những hố bom, những qủa bom chưa nổ, và mảnh bom vung vải khắp nơi; nhiều tường tháp bị rocket và đạn pháo phá sập; nhiều bi ký, tác phẩm điêu khắc bị đạn bắn vỡ; núi đồi xơ xác vì chất độc hóa học...Toàn bộ khu di tích đã biến thành một đống gạch vụn.
Ðến năm 1980, trong chương trình hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Ba Lan, một đoàn chuyên gia của Ba Lan đã phối hợp với Trung Tâm Phục Hồi Di Tích thuộc Bộ Văn Hóa và Thông Tin Việt Nam (nay là Trung Tâm Thiết Kế và Tu Bổ Di Tích) tiến hành khảo sát các di tích Champa tại miền Trung Việt Nam . Tiểu ban Phục Hồi Di Tích Champa được thành lập, do cố kiến trúc sư Ba Lan Kazimier Kwiatkowski (1944- 1997) phụ trách. Kinh phí trùng tu do chính phủ Việt Nam đài thọ. Từ năm 1981-85, các tháp thuộc nhóm B, C, D được chụp ảnh đạc họa/photogramettry, dọn dẹp, gia cố hoặc trùng tu; từ 1986-90, các tháp thuộc nhóm A được dọn dẹp và gia cố. Hàng trăm mét khối gạch đã được di chuyển hoặc sắp xếp lại, tạo nên bộ mặt mới cho Mỹ Sơn sau chiến tranh (Recherches sur les monuments du Champa 1985, I; 1990, II; Nguyễn Hồng Kiên 1999: 84-94; Hòang Ðạo Kính 1999: 95-111).
Ðể trùng tu Mỹ Sơn, các chuyên gia đã áp dụng phương pháp trùng tu khảo cổ học/ anastylosys nhằm giữ lại tối đa phần nguyên gốc của di tích. Nhưng trong quá trình áp dụng, vẫn để lại rất nhiều ý kiến cần được phân tích và tham khảo. Khi tái trùng tu Mỹ Sơn các chuyên gia Ba Lan đã sử dụng lại các viên gạch bị rơi ra từ những ngôi tháp cũ và dùng rất nhiều ximăng gắn chúng lại với nhau để tạo nên những tường tháp mới hoặc khôi phục lại những phần tháp bị hư hỏng. Chính vì sử dụng kỹ thuật này nên phương pháp trùng tu ở Mỹ Sơn là vấn đề đã gây ra nhiều tranh luận và ý kiến bất đồng (Nguyễn Ðắc Xuân: 1994).
Do bị tàn phá nặng nềï bởi thời gian và chiến tranh, những kiến trúc của Mỹ Sơn chẳng còn cái nào nguyên vẹn. Tuy không nguyên vẹn nhưng chúng vẫn biểu hiện đầy đủ đây là di tích duy nhất thể hiện vũ trụ quan và tín ngưỡng của người Champa cổ. Bên cạnh những kiến trúc độc đáo, Mỹ Sơn còn cung cấp một số lượng lớn những tác phẩm điêu khắc bằng sa thạch rất đa dạng, bao gồm nhiều phong cách, trải qua nhiều thế kỷ. Ngòai ra, Mỹ Sơn còn cung cấp một hệ thống văn bia cốt yếu để dựng nên bộ khung chính của các vương triều Champa trong lịch sử.
Tượng vũ nữ Trà Kiệu
Vẻ đẹp, giá trị văn hóa và tín ngưỡng độc đáo của Mỹ Sơn có thể so sánh với những di tích quan trọng khác ở Ðông Nam Aï như Borobudur, thế kỷ thứ 8-9, của Inđônêxia; Angkor, thế kỷ 11-13 của Campuchia; Vat Phu, thế kỷ thứ 9-13, của Lào; Pagan, thế kỷ 11-13, của Miến Ðiện. Với vẻ đẹp độc đáo, cảnh quan nguyên vẹn và lịch sử phát triển lâu dài, nên vào đầu tháng 12 năm 1999, Mỹ Sơn đã được UNESCO chính thức công nhận là Di Sản Văn Hóa Thế Giới.
Thịnh suy là lẽ thường. Mười thế kỷ nghệ thuật của Mỹ Sơn chính là cánh cửa hé mở cho chúng ta thấy được cái quá khứ rực rỡ của nền văn minh Champa từng một thời vang bóng trong lịch sử Ðông Nam Á. Ngày nay, Mỹ Sơn đã được nhìn dưới một góc độ mới, tuy nhiên, những kiến thức của chúng ta tích lũy được từ nó vẫn còn quá hạn chế; mọi nỗ lực để tiếp cận với bề dày lịch sửcủa Mỹ Sơn cũng như gìn giữ nó, đòi hỏi ở chúng ta một tinh thần và phương pháp khoa học cũng như thái độ nghiêm cẩn trước một di sản lớn của tiền nhân.
Chéo gốm Gò Sành (gốm Chăm Pa)
Tượng Phật tọa thiền trên mình rắn Naga, bên dưới cùng là bệ Yoni. Một sự kết hợp độc đáo giữa hình tượng Phật giáo và tín ngưỡng phồn thực bản địa trong điêu khắc tôn giáo Campuchia cổ xưa.
Chú thích:
(1) Trong một cuộc trao đổi giữa nhà khảo cổ học người Ý, bà Patrizia Zolese, với giáo sư Ian Glover thuộc Viện Khảo Cổ Học, Ðại Học London, và chúng tôi tại Hội An ngày 27-2- 01; bà Zolese cho biết rằng bà đã từng khảo sát và phát hiện trên đỉnh núi Vat Phu một bộ linga- yoni bằng sa thạch; điều này cho phép suy đóan rằng trên đỉnh núi Ðá Bia/Ðèo Cả cũng có khả năng sẽ đạt được một phát hiện tương tự nếu có một cuộc khảo sát chu đáo trong tương lai.
(2) Lãnh thổ của vương quốc Champa trải dài từ phía nam Ðèo Ngang, thuộc tỉnh Quảng Bình cho đến lưu vực sông Ðồng Nai thuộc tỉnh Ðồng Nai ngày nay, khỏang tư ì vĩ tuyến 11(đến 18 (, bao gồm đồng bằng ven biển, cao nguyên và miền núi. Do ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Ðộ rất sớm bằng con đường hải thương, nên vương quốc Champa đã áp dụng một thể chế hành chính tương tự miền Nam Ấn Ðộ, nghĩa là một vương quốc bao gồm nhiều tiểu quốc gọi là mandala (Hermann Kulke 1995: 1-47; Claude Jacques 1986: 327-34; Higham 1989: 239-320). Cứ theo những yếu tố môi sinh và địa lý cảnh quan tại miền Trung Việt Nam, cho phép chúng tôi đi đến giả định rằng, mỗi tiểu quốc trong vương quốc Champa có thể được hình thành dựa vào năm yếu tố phong thủy như : 1) Núi thiêng, tượng trưng thần Siva; 2) Sông thiêng, tượng trưng nữ thần Ganga vợ thần Siva; 3) Cửa biển thiêng; nơi giao dịch buôn bán, trung tâm hải thương; 4) Thành phố thiêng, nơi cư ngụ của vua và hòang tộc, trung tâm vương quyền; 5) Ðất thiêng, nơi thờ tự thần linh và tổ tiên, trung tâm thần quyền. Theo đó, tiểu quốc Amaravati ở vùng Quảng Nam được hình thành dựa trên những yếu tố sau: Núi thiêng là Mahaparvata hay núi Mỹ Sơn/Răng Mèo; Sông thiêng là sông Thu Bồn; Cửa biển thiêng là Cửa Ðại Chiêm/Hội An; Thành phố thiêng là Simhapura/Thành Sư Tử tại Trà Kiệu; Ðất thiêng là Khu đền thờ Srisanabhadresvara tại Mỹ Sơn. Ranh giới của mỗi mandala có lẽ được ấn định bởi những ngọn đèo, nhưng đây chỉ là ranh giới có tính chất tượng trưng vì đất đai được cai quản bởi thần linh (Trần Kỳ Phương, Vu Huu Minh 1991: 77-81; Trần Quốc Vượng 1999: 26-34). Mỗi tiểu vương quốc có kinh đô riêng với các tổ chức kinh tế, quân sự độc lập, được cại trị bởi các tiểu vương. Mỗi tiểu vương quốc lại bao gồm nhiều tiểu quốc nhỏ hơn nữa được cai trị bởi những thủ lĩnh hoặc lãnh chúa. Những tiểu vương quốc nhỏ yếu phải thần phục tiểu vương quốc lớn mạnh. Vị vua hùng mạnh nhất vương quốc được tôn xưng là rajadhiraja, nghĩa là vua của vua, thường được nhắc đến trong văn bia Chàm. Tuy nhiên, những ý kiến nêu trên mới chỉ là những giả thuyết cần được kiểm chứng thêm bởi những tư liệu thu thập từ thực địa tại miền Trung Việt Nam trong tương lai và cần được đối sánh cùng với những thành tựu của những nghiên cứu khác về cấu trúc của các vương quốc cổ ở Ðông Nam Á ( Bronson 1977: 39-52; Hall 1985: 1-25).
(3) Dựa theo nguyên lý vũ trụ lưỡng nghi, chúng ta biết rằng qủa cau thuộc về dương tính vì nó đặc ruột; còn qủa dừa thuộc về âm tính vì nó rỗng ruột. Do đó, dòng tộc Cau thuộc về nam/trống, nghĩa là thờ vua-núi; và dòng tộc Dừa thuộc về nữ/mái, nghĩa là thờ mẹ -biển. Ý kiến trên của chúng tôi ngược lại với những ý kiến trước đây của vài học gỉa người Pháp đưa ra vào đầu thế kỷ 20. Theo họ, dòng tộc Cau cai trị ở miền Nam vương quốc, còn dòng tộc Dừa cai trị ở miền Bắc vương quốc (Maspéro 1988 : 18). Một trong những chứng cứ được Maspéro đưa ra để làm chỗ dựa, là, trong văn bia ca ngợi vua Harivarman hay Sri Harivarmadeva/Hòang tử Thãn (1081) tìm thấy tại Mỹ Sơn cho biết rằng ông tự hào vì mẹ ông thuộc dòng tộc Cau, là dòng tộc lỗi lạc của vương quốc Champà (Majumdar 1985, III: 165). Thực ra, chi tiết này phản ảnh chế độ mẫu hệ của những vương triều Champà, ngôi vua được truyền theo dòng mẹ, do đó, nó lại là chứng cứ cho thấy Mỹ Sơn hay miền Bắc vương quốc thuộc về dòng tộc Cau, vì, Harivarman xưng vương ở vùng Amaravati.
(4) Boisselier cho rằng bảy pho tượng nhỏ tìm thấy tại nhóm B cũng là những tượng Dikpalakas (Boisselier 1963:155-9). Nhưng, dựa theo vị trí của bảy ngôi đền nhỏ từ B7- B13 không nằm chính xác theo trục phương hướng như những ngôi đền nhỏ của nhóm A2-A7, nên chúng tôi nghĩ rằng bảy ngôi đền nhỏ của nhóm B thờ thần tinh tú Grahas chứ không phải thờ Dikpalakas. Tục thờ các vị thần tinh tú Grahas cũng đã được tìm thấy tại Mỹ Sơn dưới hình tượng một nhóm bảy Linga, hiện trưng bày tại Bảo Tàng Ðiêu Khắc Champa Ðà nẵng, ký hiệu 2.4; và, một bức phù điêu khác, phát hiện tại Trà Kiệu (?) thể hiện chín vị thần ngồi trên những con vật đặc trưng, hiện trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh (Boisselier 1963: 189-91, 414-15); cho thấy, đương thời, tín ngưỡng này đã phổ biến tại vương quốc Champa. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì hình tượng Navagrahas trong truyền thống nghệ thuật Khmer và Champà là một hỗn hợp giữa bốn hình tượng Grahas là: Sùrya, Candra, Ràhu, Ketu; và năm hình tượng Dikpàlakas là: Kubera, Brahmà, Indra, Vàyu và Agni dựa trên con vật biểu trưng của các ngài (Boisselier 1963: 190-191; Malleret 1960: 205-230; Bhattacharya 1956: 183-194). Tuy nhiên, đã có ý kiến ngược lại, khi cho rằng cách thể hiện con vật biểu trưng tuy có khác nhau nhưng hình tượng của các vị Grahas thì không thay đổi nhất là khi được thể hiện thành một nhóm 5, 7, 8 hay 9 vị, vì thế, không có sự hỗn hợp giữa Grahas và Dikpàlakas (Mitra 1965:13-37) .
(5) Hiện còn lưu lại nhiều đọan tường có hoa văn dang dở do chưa kịp hoàn tất trước khi tháp được chọn ngày tốt để an vị, hiện tượng này rất phổ biến trên đền-tháp Champa.
Tham Khảo:
BEFEO. 1904. Bulletin de l’Ecole francaise d’Extrême - Orient 4: 805-977.
Boisselier, Jean. 1963. La statuaire du Champa: recherches sur les cultes et l’iconographie. Paris:EFEO. [Publications de l’Eïcole Francaise d’Extrême- Orient 54]
Bronson, B. 1977. ‘Exchange at the Upstream and Downstream Ends: Notes toward a Functional
Model of the Coastal State in Southeast Asia’, Economic Exchange and Social Interaction in Southeast Asia: Perspectives from Prehistory, History and Ethnography, edited by Karl L. Hutterer. Ann Arbor: University of Michigan.
Coedès, G. 1968. The Indianized States in Southeast Asia. Honolulu:East-West Center. [ Translated from the French]
Ðào Duy Anh. 1957. ‘Sự thành lập của nước Lâm Ấp’, Lịch Sử Việt Nam, từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, Quyển Thượng. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Văn Hoá, Cục Xuất Bản-Bộ Văn Hoá.
Higham, Charles.1989. The Archaeology of Mainland Southeast Asia. Cambrigde: Cambrigde University Press.
Majumdar, R.C. 1985. Champà: history and culture of an Indian colonial kingdom in the Far East, 2th -16th centuries AD. Dehli: Gian Publ. House. [reprint]
Trần Kỳ Phương. 1988. Mỹ Sơn trong lịch sử nghệ thuật Chăm. Ðà Nẵng: Nhà xuất bản Ðà Nẵng.
1993.a. Cham Ruins, journey in search of an ancient civilization. Hanoi:The Gioi Publishers. 1993.b. ‘Ghi chú về những bi ký bị đập phá ở Mỹ Sơn’, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1993. Hà Nội: Viện Khảo Cổ Học.
1994. ‘Hãy cứu lấy Mỹ Sơn, một di sản văn hóa của nhân lọai’, Xưa Nay, số 1(02), IV,1994. Hà Nội:Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam.
Trần Kỳ Phương; Vu Huu Minh. 1991. ‘Cua Dai Chiem (Port of Great Champa) in the 4th - 15th centuries’, Ancient town of Hoi An, pp.77-81. Hanoi: Foreign Languages Publishing House.
Trần Kỳ Phương; Shigeeda Yutaka. 1997. Champa Iseki. Tokyo: Rengoo Shutsupan.
Maspéro, Goerges. 1989. Royaume de Champà. Paris: Eïcole Francaise d’Extrême-Orient. [Réïimpression de l’École Francaise d’Extrême -Orient (EFEO)]
Recherches sur les monuments du Champa.
Warszawa:Wydawnictwa.PKZ.
1990. Rapport de la mission Polono- Vietnamienne 1983-1986: vol.II. Varsovie: PKZ.
Heffley, Carl. 1972. The arts of Champa. Saigon:The US Information Service, Cultural Affairs.
Parmentier, Henri. 1909. Inventaire descriptif des monuments Cams de l’Annam: vol.I. Description des monuments. Paris: Leroux. [ Publications de l’Ecole Francaise d’Extrême- Orient
11]
Malleret, Louis. 1960. ‘Contribution a l’etude du theme des nuef divinites dans la sculpture du
Cambodge et du Champa’, Arts Asiatiques , VII, 3, p. 205-230. Paris: Presses Universitares de
France.
Bhattacharya, Kamaleswar. 1956. ‘Notes d’Iconographie khmère’, Arts Asiatiques, III, 3, p.183-
194. Paris: Annales du musée Guimet et du musée Cernuschi.
Mitra, Debala. 1963. ‘ A study of some Graha- images of India and their possible bearing on the Nava-Devas of Cambodia’, Journal of the Asiatic Society, Calcuta, vol.VII, nos. 1-2: 13-37.
Shigeeda, Yutaka and Al.
1994. Artifacts and culture of the Champa Kingdom: catalogue. Tokyo: The Toyota Foundation. 1999. Champa Rekishi, Matsuson, Kenchiku. Tokyo:Hatsukoo Mekong.
Shigeeda, Yutaka. 2000. ‘Betonamu no Kenchiku’, New History Of World Art, Toonan Asia:100-
7. Tokyo:Shogakukan.
Kulke, Hermann. 1994. ‘Introduction: The Study of the State in Pre-modern India’, The State in India 1000-1700, edited by Hermann Kulke. Delhi: Oxford University Press.
Sở Văn Hóa Thông Tin tỉnh Quảng Nam (eds.). 1999. Di Tích Mỹ Sơn. Quảng Nam: Sở Văn Hóa Thông Tin tỉnh Quảng Nam.
Trần Quốc Vượng. 1999. Từ một cái nhìn Thánh địa Mỹ Sơn..., Di Tích Mỹ Sơn: 26-34. Quảng Nam: Sở Văn Hóa Thông Tin tỉnh Quảng Nam.
Nguyễn Hồng Kiên. 1999. Thu nhận từ công cuộc tu bổ phục hồi khu di tích Mỹ Sơn’, Di Tích Mỹ Sơn: 84-94. Quảng Nam: Sở Văn Hóa Thông Tin tỉnh Quảng Nam.Hoàng Ðạo Kính. 1999. ‘Những định hướng và giải pháp cơ bản trong trùng tu các di tích ở Mỹ Sơn’, Di Tích Mỹ Sơn: 95-111. Quảng Nam: Sở Văn Hóa Thông Tin tỉnh Quảng Nam.
Jacques, Claude. 1985. ‘Sources on Economic Activities in Khmer and Cham Lands’, Southeast Asia in the 9th to 14th Centuries, ed. by David G. Marr and A.C. Milner: 227-34. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies Singapore & The Research School of Pacific Studies Australian National University.
Wolters, O. W. 1967. ‘Early Indonesian Commerce, A study of the origins of Srivijaya’. Ithaca: Cornell University Press.
Nguyễn Ðắc Xuân. 1994. ‘Ðối với di tích văn hóa lịch sử nên ưu tiên cho việc bảo vệ hay trùng tu?’. Hà Nội: Báo Lao Ðộng 123/94, Thứ Năm 13-10-1994.
Hồng Ðức Bản Ðồ. 1962. ‘Tủ Sách Viện Khảo Cổ, số III’. Saigon: Bộ Quốc Gia Giáo Dục.
Hall, K. R. 1985. ‘Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asian’. Honolulu: University of Hawaii Press.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét