Thứ Sáu, 22 tháng 6, 2012

THANH NIÊN CẢ NƯỚC TÍCH CỰC THAM GIA BẢO VỆ, XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG MỚI THÀNH LẬP


THANH NIÊN CẢ NƯỚC TÍCH CỰC THAM GIA BẢO VỆ, XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG MỚI THÀNH LẬP

Sau khi giành được độc lập, vấn đề cơ bản nhất đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta là giữ vững chính quyền trước sự tấn công điên cuồng của kẻ thù cùng những thế lực nguy hiểm, từng bước xây dựng chế độ mới, đưa cách mạng vững bước tiến lên.
Trên đất nước Việt Nam chưa bao giờ có nhiều kẻ thù như lúc này. ở miền Bắc, từ tháng 8 đến đầu tháng 9/1945 khoảng 200.000 quân Tưởng Giới Thạch với danh nghĩa Đồng minh tràn vào chiếm đóng Thủ đô Hà Nội và hầu hết các thành phố, thị xã từ biên giới Việt - Trung đến vĩ tuyến 16. Chúng tập hợp tất cả các lực lượng phản cách mạng để chống phá, lật đổ chính quyền cách mạng.
ở miền Nam, ngày 23/9, quân Pháp được quân Anh, quân Nhật yểm trợ bắt đầu nổ súng đánh chiếm Sài Gòn rồi mở rộng dần ra các tỉnh Nam Bộ, Nam Trung Bộ.
Nhà nước ta đứng trước tình thế cực kỳ khó khăn, thiếu thốn từ tài chính, lương thực đến vũ khí, thuốc men... Nạn đói khủng khiếp năm 1945 làm hơn 2 triệu người chết; 50% ruộng đất ở đồng bằng Bắc Bộ bị bỏ hoang, sản xuất công nghiệp bị đình đốn, hàng vạn công nhân không có việc làm, nền tài chính khánh kiệt, kho bạc trống rỗng.
Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Ban Thường vụ Trung ương Đảng và vạch ra những phương hướng, biện pháp đầu tiên để xây dựng chế độ mới và đối phó với các lực lượng đế quốc, phản động.
Theo phương hướng đó, ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ và nêu ra 6 việc cấp bách cần làm ngay.
Tiếp đó, trong bức thư gửi cho bà con nông dân cả nước, Hồ Chủ tịch lại nêu lên 2 nhiệm vụ cấp bách trước mắt: “Cứu đói ở Bắc và kháng chiến ở Nam... vì cứu quốc, các chiến sĩ đấu tranh ở ngoài mặt trận, vì kiến quốc, nhà nông phấn đấu ngoài đồng ruộng”.
Ngày 25/11/1945, Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị: “Kháng chiến, Kiến quốc”, đề ra nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân...
Theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng đã phát động phong trào quần chúng tăng gia sản xuất, chống đói, chống nạn mù chữ.
Hưởng ứng lời kêu gọi chống giặc đói của Hồ Chủ tịch, thanh niên cả nước tích cực tham gia các đoàn vận động lạc quyên cứu đói, hưởng ứng: Hũ gạo cứu đói, Ngày đồng tâm nhịn ăn... để giúp đồng bào bị đói.
Mở đầu phong trào tăng gia sản xuất, Hồ Chủ tịch kêu gọi:
“Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của chúng ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”.
Với khẩu hiệu “Không một tấc đất bỏ hoang”, “Tấc đất, tấc vàng”, phong trào thi đua sản xuất dấy lên ở khắp các vùng nông thôn, đồng bằng, trung du, miền núi và ở cả các thành phố, thị trấn. Hàng nghìn thanh niên tổ chức thành các đội sản xuất đi khai hoang, phục hoá ruộng đất, bảo vệ đê điều, trồng các cây lương thực ngắn ngày. Tại Hà Nội, thanh niên tận dụng những bãi đất nhỏ ven công viên, các bãi bồi ven sông Hồng đến những thửa ruộng hoang hoá ở ngoại thành để trồng lúa, trồng màu, các đội thanh niên đi về nông thôn, lên miền trung du, miền núi để tham gia sản xuất lương thực...Những hoạt động tích cực của thanh niên đã góp phần nhanh chóng khôi phục sản xuất nông nghiệp, đẩy lùi nạn đói.
Sau Cách mạng Tháng Tám, một trong những việc mà Hồ Chủ tịch quan tâm là phát động một cao trào toàn dân chống nạn mù chữ để mở mang kiến thức cho nhân dân lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ” Người giao nhiệm vụ cho thanh niên: “Công việc này, mong anh chị em thanh niên sốt sắng giúp sức”.
Thanh niên là lực lượng nòng cốt trong phong trào diệt giặc dốt. ở Hà Nội, hơn 2.000 đoàn viên, thanh niên, phần lớn là học sinh, sinh viên tình nguyện làm giáo viên các lớp bình dân học vụ. Trong một thời gian ngắn, có 74.957 lớp học được tổ chức với 95.665 thanh niên tham gia làm “Chiến sĩ diệt dốt”. Chỉ sau một năm đã có 2,5 triệu người thoát nạn mù chữ. Hệ thống giáo dục phổ thông và đại học cũng được xây dựng và từng bước phát triển. Tiếng Việt được dùng trong các văn bản chính thức của Nhà nước và trong việc học tập, giảng dạy ở các trường, lớp.
Tháng 9/1945, nhân ngày khai trường năm học đầu tiên sau cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho học sinh dặn dò các cháu cố gắng, siêng năng học tập, ngoan ngoãn nghe lời thầy cô, thi đua với bạn để sau này đem tài năng đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước.
Người viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”
Ngày 11/5/1945, Bộ Quốc gia Giáo dục ra quyết định khai giảng năm học mới của các trường đại học tại Hà Nội do đội ngũ giáo sư trẻ tuổi người Việt Nam giảng dạy để đào tạo lớp cán bộ có trình độ học vấn cao cho nước nhà.
Mặc dù bộn bề công việc sau ngày nước nhà vừa giành được độc lập, Bác vẫn giành thời gian tiếp đoàn đại biểu của Tổng hội Sinh viên Cứu quốc Hà Nội vào chiều ngày 6/9/1945.
Đối với việc học tập, rèn luyện và chăm lo đời sống của sinh viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm chăm sóc hết sức ân cần. Anh chị em sinh viên yêu nước ở Hà Nội vui mừng, sung sướng khi nghe tin Chủ tịch Hồ Chí Minh sắp về Hà Nội. Đúng vào tối ngày 22/8, sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội, những người đã là đoàn viên, đứng trong tổ chức của Tổng Hội Sinh viên hoặc đã tham gia hoạt động công khai cùng đông đảo sinh viên tập hợp đông nghịt tại tầng dưới ngôi nhà trước đây là toà soạn một tờ báo của Pháp. Chủ trì cuộc họp là anh Dương Đức Hiền, nguyên Hội trưởng Tổng Hội Sinh viên đầu những năm 40, giờ đây là cán bộ lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh. Trong buổi họp ấy, sự kiện quan trọng là lễ ra mắt công khai của Tổng Hội Sinh viên Cứu quốc thay cho Tổng Hội Sinh viên trước đây. Ban Thường vụ của Tổng Hội Sinh viên Cứu quốc gồm các đảng viên, đoàn viên và các sinh viên yêu nước được giới thiệu trong tiếng hoan hô nhiệt liệt của những người dự cuộc họp. Ban Thường vụ Tổng Hội Sinh viên Cứu quốc giới thiệu sơ lược về chương trình hoạt động của Hội, kêu gọi sinh viên đem nhiệt huyết cống hiến cho cách mạng và tích cực ủng hộ Mặt trận Việt Minh. Ban Thường vụ cũng giới thiệu tờ báo mới của sinh viên lấy tên là Gió mới thay cho báo Tự trị trước đây. Đây là tờ báo đầu tiên của sinh viên Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám. Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh vốn có chân trong ban phụ trách báo Tự trị được Thường vụ Trung ương Hội phân công làm chủ nhiệm kiêm chủ bút báo. Báo chuẩn bị ra số đầu tiên thì cũng là lúc toàn thể sinh viên được tin việc tổ chức cuộc mít tinh lớn tại Hội trường Ba Đình để nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập lịch sử”. Ban Thường vụ Trung ương Hội yêu cầu báo in gấp hàng nghìn tờ truyền đơn kêu gọi sinh viên siết chặt hàng ngũ đến dự buổi lễ trọng đại này mang theo hàng chục băng rôn lớn với khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm”, “ủng hộ Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh”, “ủng hộ Việt Minh” v.v… Sau đó, Ban Thường vụ Tổng Hội Sinh viên Cứu quốc gửi một bức thư lên Hồ Chủ tịch nhiệt liệt chào mừng Chính phủ Lâm thời và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ mấy hôm sau, Bác Hồ có thư trả lời. Người nói lên sự cảm động của mình khi nhận được thư của đoàn thể sinh viên, một đoàn thể đứng trong Mặt trận Việt Minh, Người hoan nghênh tinh thần yêu nước của anh chị em, chúc anh chị em sinh viên học giỏi, đoàn kết và hoạt động hăng hái, vững vàng đi theo sự nghiệp cách mạng của toàn dân. Đặc biệt trong thư, Bác đồng ý tiếp một đoàn đại biểu thay mặt anh chị em sinh viên đến gặp Bác. Ban Thường vụ Tổng Hội Sinh viên Cứu quốc báo cáo ngay lên Văn phòng của Bác là đoàn đại biểu đã sẵn sàng chờ Chỉ thị.
Thật hết sức bất ngờ và biết bao sung sướng, chiều ngày 6/9/1945, nghĩa là chỉ sau 4 ngày Bác đọc Tuyên ngôn độc lập lịch sử, đoàn đại biểu Tổng Hội Sinh viên Cứu quốc đã vinh dự gặp Bác tại Bắc Bộ phủ. Hồi ký của đồng chí Nguyễn Xuân Sanh, Uỷ viên Ban Thường vụ Tổng Hội, một trong những thành viên của đoàn đại biểu kể rằng: “Vào đến phòng khách lớn của Bắc Bộ phủ, chúng tôi gặp bác sĩ Tôn Thất Tùng vừa vào tiêm thuốc cho Bác đi ra, tay anh cầm chiếc áo khoác trắng. Quặt sang tay phải vào phía sau dẫn đến phòng Bác, thấy cửa kính đang khép, tôi đưa tay nhẹ nhàng gõ cửa. Người bước ra bắt tay chào chúng tôi là anh Võ Nguyên Giáp. Anh cười nói: “Tôi cũng là cựu sinh viên đây, các anh cứ vào, Cụ Chủ tịch đang đợi”. Bác hơi gầy, xanh, im lặng đi mấy bước ra gặp chúng tôi. Đôi mắt Bác sáng ngời, Bác mặc chiếc quần soóc cũ. Lòng tôi bồi hồi, trông thấy Bác như thấy người Cha đi xa lâu mới trở về. Bác dặn dò tuổi trẻ trí thức mà chúng tôi lúc ấy có hạnh phúc được làm đại diện:
- Anh chị em sinh viên có nghe thấy lời kêu gọi của đất nước không? Nó giục giã chúng mình như cơn thác lũ cuộn sông Hồng, sông Đuống mà hôm ở căn cứ địa trở về Thủ đô Bác đã trông thấy. Đất nước mình thì bao la, mà dân ta đã bị đói nghèo xơ xác không biết bao nhiêu thế kỷ rồi.
Với nét mặt trầm ngâm, Bác nói tiếp:
- Quê hương chúng ta hùng vĩ, người đông. Chúng ta cùng đứng lên với tất cả loài người, đánh đuổi thực dân, quân phiệt ngay giữa thế kỷ XX đâu phải dễ. Nhưng ta quyết tâm làm, và ta có dũng khí của cha ông thì nhất định được. Ta phải nghe tiếng gọi 4000 năm của đất nước. Giặc cam tâm làm dân ta chết đói hơn 2 triệu người. Ta phải cố gắng làm cho đồng bào ta yêu đời và không ai bị chết đói nữa”.
Bác còn ân cần nhắc nhở, với một giọng nói nhẹ nhàng và thân thiết, chúng tôi tưởng như được lắng nghe lời dạy của cha ông: “Tuổi trẻ sinh viên hẳn còn thấy trong mình nhức nhối khi nhiều bà con, nhân dân còn đói chữ, phải quờ quạng như mù. Họ không được đọc sách báo nên cái gì cũng như đêm tối âm u. Ta phải làm cho đồng bào tìm được con đường đi cùng với cách mạng”.
Cả đoàn ra về, ai nấy đều muốn được nán lại lâu bên Bác thêm những phút giây nữa. Xúc động trào dâng, nhà thơ sinh viên Nguyễn Xuân Sanh đã viết bài thơ Đất nước trong đó có đoạn:
 …Lời Bác nói giữa Thủ đô Hà Nội
 Trái tim chúng con đập với triệu triệu trái tim
 Chúng con ngồi bên Bác trong nhiều phút lặng im.

Đầu năm 1946, mặc dù tình hình chiến tranh ngày càng phức tạp nhưng để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và đập tan sự xuyên tạc của kẻ thù, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định Tổng tuyển cử trong cả nước để bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, xây dựng Hiến pháp của Nhà nước Dân chủ Cộng hoà.
Ngày 6/01/1946 cuộc Tổng tuyển cử được tổ chức trên khắp mọi miền đất nước.
Cuộc Tổng tuyển cử thật sự là cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc gay go, quyết liệt bởi thù trong, giặc ngoài đang tìm cách lật đổ chính quyền non trẻ. Nhiều cán bộ, đoàn viên, thanh niên phải hy sinh trong khi làm nhiệm vụ tuyên truyền, vận động và bảo vệ cuộc Tổng tuyển cử.
Mặc dù địch ra sức phá hoại, cuộc bầu cử đã thu được thắng lợi to lớn. Tỷ lệ người đi bầu rất cao, trung bình là 86%, nhiều nơi đạt trên 90%. Những đại biểu do Mặt trận Việt Minh giới thiệu đều trúng cử với số phiếu cao nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh ứng cử tại Thủ đô Hà Nội được cử tri tín nhiệm với 98,4% số phiếu bầu. Nhân dân cả nước đã bầu ra 333 đại biểu vào Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đại biểu Quốc hội trẻ nhất là Nguyễn Đình Thi, 21 tuổi, là nhà thơ, nhạc sĩ, một thanh niên trí thức hoạt động tích cực trong phong trào thanh niên học sinh yêu nước ở Hà Nội.
Trước tình hình thực dân Pháp nổ súng tấn công ta ở Nam Bộ, bọn Tưởng Giới Thạch muốn lợi dụng cơ hội này để thôn tính nhanh miền Bắc Việt Nam. Đầu tháng 10/1945, Hà ứng Khâm - Tổng Tham mưu trưởng quân đội Tưởng Giới Thạch đến Hà Nội để thực hiện âm mưu nói trên. Nhưng trước cuộc biểu dương lực lượng của hơn 300.000 thanh niên và nhân dân Thủ đô với đội ngũ chỉnh tề, băng cờ biểu ngữ rợp trời, hô vang khẩu hiệu: “Nước Việt Nam của người Việt Nam”, “ủng hộ Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”, “ủng hộ Việt Nam độc lập Đồng minh”, “ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”... Hà ứng Khâm phải chùn tay trong việc thực hiện ý đồ thâm độc của y.
Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn - Gia Định rồi sau đó đánh rộng ra cả Nam Bộ, Nam Trung Bộ với sự ủng hộ của quân Anh. 7 giờ sáng 23/9, Xứ uỷ và Uỷ ban Hành chính Nam Bộ (sau đổi thành Uỷ ban Kháng chiến) họp khẩn cấp tại phố Cây Mai (Chợ Lớn) có đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh tham dự. Hội nghị quyết định phát động toàn thể nhân dân tiến hành kháng chiến chống quân xâm lược. Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ được thành lập, ra lệnh Tổng bãi công, bãi thị, bất hợp tác với địch, phong toả địch...
Tuổi trẻ Nam bộ cùng nhân dân Nam Bộ không tiếc xương máu, anh dũng bước vào cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ.
Đêm 23/9/1945, một đơn vị thanh niên cảm tử đã bảo vệ các đồng chí cán bộ của Trung ương Đảng, Xứ uỷ và Uỷ ban rút ra khỏi thành phố an toàn. Các tầng lớp thanh, thiếu niên đều tham gia vào các tổ chức chiến đấu và phục vụ chiến đấu, tiến hành cuộc chiến tranh du kích ngay trong thành phố. Nhiều tỉnh Nam Bộ đưa lực lượng thanh niên về góp sức với Sài Gòn chống quân xâm lược. Nhiều trận đánh làm địch hoảng sợ như trận phục kích khu quân sự ở vùng ngoại ô Tân Định ngày 24/9/1945, diệt 200 tên; trận tấn công bất ngờ trại lính Pháp trên đường Divuê (Hùng Vương ngày nay) diệt 100 tên, trận phục kích ở Gò Vấp ngày 28/9/1945, bắn chết tên đại tá Diuy. Ngày 30/9/1945, đội TNXP Đoàn Dũng và Đoàn Tiến phục kích tại cầu chữ Y diệt 2 xe chở đầy lính Pháp; ngày 25/9/1945, một đội du kích phá Khám lớn giải phóng tù chính trị, đột nhập vào tận nhà tên Đờli Nhông diệt 3 sĩ quan địch.
Nhiều tấm gương hy sinh anh dũng tuyệt vời của tuổi trẻ Sài Gòn đã động viên tinh thần giết giặc cứu nước của nhân dân cả nước. Đó là một tổ du kích gồm 3 thanh niên đang làm nhiệm vụ trong nội thành, bất ngờ gặp địch. Anh tổ trưởng phân công đối phó ngay: “Tao tay không đi trước cho nó bu lại xét, thằng thứ hai ném lựu đạn, còn một đứa về báo cáo. Dầu có hy sinh một đứa chẳng hề gì”. Sáng hôm sau, các báo đưa tin: “Tại đầu đường Galiêni một tổ du kích đánh lựu đạn diệt 10 tên Pháp, ta có 2 chiến sĩ hy sinh”. Một thiếu niên đi rải truyền đơn trong trại lính chẳng may bị bắt. Tên sĩ quan Anh tra hỏi, em trả lời rõ ràng: “Người sung sướng là được chết cho Tổ quốc... Lúc này tôi chỉ nghĩ một điều như vậy”. Tên sĩ quan Anh ra lệnh thả em về.
ở Biên Hoà, các em thiếu niên lập Đội thiếu niên cảm tử gồm 30 em, làm nhiệm vụ trinh sát và trừ gian...
Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đồng bào cả nước theo dõi từng ngày tình hình chiến sự ở Nam Bộ và phát động phong trào ủng hộ kháng chiến của đồng bào Nam Bộ, Nam Trung Bộ, đồng thời tích cực chuẩn bị đối phó với âm mưu của Pháp mở rộng chiến tranh ra cả nước.
Ngày 18/1/1946, Chủ tịch Hồ chí Minh đã cử Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp - Đặc trách quân sự của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào mặt trận Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ để nắm tình hình chiến trường và truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Trung ương và Bác Hồ, động viên đồng bào, chiến sĩ giữ vững tinh thần kháng chiến, phát động phong trào du kích chiến tranh để kìm chân địch và hăng hái tham gia đánh giặc cứu nước.
Cả nước dấy lên phong trào Nam tiến. Sôi nổi nhất là các tầng lớp thanh niên nô nức đến các Phòng Nam Bộ ở các tỉnh thành miền Bắc, miền Trung ghi tên vào Nam chiến đấu. Những khẩu hiệu: “Nước Việt Nam là một”, “Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam...” thôi thúc nhiệt huyết yêu nước của mọi người. Tất cả các trường học đều đóng cửa...Các đoàn xe lửa ngày đêm hối hả chở quân vào Nam, khắp nơi đều rộn vang tiếng hát "Xếp bút nghiên lên đường chiến đấu...”, “Anh có nghe tiếng súng miền Nam, rền đất nước Việt Nam...”
Nhanh nhất là Hà Nội, chỉ sau 3 ngày tức là ngày 26/9/1945, đoàn tàu Nam tiến đã khởi hành từ ga Hà Nội với một chi đội (Trung đoàn) gồm các đại đội Hà Nội, Bắc Sơn, Bắc Kạn (một bộ phận của đội tuyên truyền Giải phóng quân tiến về Hà Nội trong khởi nghĩa ngày 19/8). Vào Thanh Hoá rồi Vinh (Nghệ An), mỗi nơi bổ sung thêm 1 đại đội.
Trưa ngày 29 tháng 9, đoàn tàu Nam Tiến đầu tiên dừng khá lâu ở ga Huế. Cả xứ Huế rộn lên, không chỉ để tiễn đưa 1 đại đội thuộc Chi đội Trần Cao Vân theo đoàn quân Nam tiến mà còn là cuộc đón tiếp hết sức nồng nhiệt, chứa chan tình cảm của nam, nữ học sinh, thanh niên Huế, của các bà mẹ, bà chị tiểu thương chợ Đông Ba, An Cựu, Bến Ngự, thành Nội và các thôn, phường ngoại thành Huế dành cho đoàn quân Nam tiến.
Phong trào Nam tiến lôi cuốn hàng chục vạn thanh niên lên đường vào Nam chiến đấu. Các tỉnh ở Bắc bộ, Bắc Trung bộ đều thành lập những chi đội, tiểu đoàn khẩn cấp vào Nam. Đầu tháng 11/1945, chi đội 1 quân Nam tiến Hải Phòng lên đường vào Nam đánh giặc. Thành phố Huế gửi vào Nam 3 chi đội, Quảng Nam gửi 5 chi đội, riêng Quảng Ngãi gửi khoảng 15.000 chiến sĩ, Thủ đô Hà Nội gửi 10.000 thanh niên ưu tú vào tiếp sức cho Nam Bộ đánh giặc; Nam Định gửi 2 đại đội, Ninh Bình gửi 3 đại đội, Hà Nam gửi 1 tiểu đoàn cùng 50 cán bộ chi viện cho Nam Bộ.
Phong trào xung phong vào Nam đánh giặc đi vào từng gia đình, cuốn hút tình cảm của mọi lứa tuổi. Gia đình ông Hoàng Tâm Tích ở Hải Phòng đã tình nguyện cho 3 người con trai được vào Nam chiến đấu trong đợt đầu tiên. Tấm gương em thiếu niên Hà Nội trốn trong toa than tàu hoả để theo các chiến sĩ vào Nam đánh giặc và đã hy sinh anh dũng ở mảnh đất miền Trung với chiếc bát sắt bên mình. Không biết tên em, đồng đội gọi em: “Chiến sĩ Bát Sắt”. Noi gương em, thiếu niên Hà Nội đã lập đội tình báo chiến đấu trong lòng địch với tên gọi Đội Bát Sắt.
Đoàn Nam tiến đầu tiên đã tham gia chiến đấu ở miền Đông Nam Bộ, đánh giặc ở cầu Bình Lợi, Xuân Lộc, sau ra chiến đấu ở đường 21 rồi Nha Trang. Khi mặt trận Sài Gòn - Gia Định vỡ, giặc lấn lên Tây Nguyên và các tỉnh phía Nam Trung Bộ, các chi đội Nam Tiến nhập với quân chủ lực địa phương, chiến đấu ở các mặt trận các tỉnh cực Nam Trung Bộ, Nha Trang, Buôn Ma Thuột là các chi đội thuộc các tỉnh: Hưng Yên, Nam Định, Hải Dương, Thái Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và các tỉnh, thành Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Kiến An, Đông Triều.... Hai chi đội Quảng Ngãi và Bình Định đã tác chiến ở Xuân Lộc, Sài Gòn, Nam Tây Nguyên.
Lực lượng Nam Tiến vào chiến trường Nam Bộ từ cuối tháng 9 năm 1945 đến đầu năm 1946 đã góp phần quan trọng làm tăng sức mạnh chiến đấu cho miền Nam ruột thịt.
Cùng với Nam Bộ, tiếng súng kháng chiến ở Nha Trang nổ ra đêm 22 rạng 23/10/1945. Đêm ấy, Đại đội trưởng Võ Văn Ký quê ở Ninh Hoà đã hy sinh anh dũng khi chỉ huy đơn vị tấn công nhà ga với lựu đạn và súng trường. Ngày nay, con đường trước ga Nha Trang, nơi anh ngã xuống đêm 23/10/1945 được mang tên anh - đường Võ Văn Ký.
Chỉ trong khoảng 100 ngày đêm kháng chiến, quân dân Sài Gòn đã phá huỷ 139 cơ sở phục vụ cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp, đốt phá 22 kho, 17 đầu máy xe lửa… và quân dân toàn Nam Bộ đã tiêu diệt 5.000 lính Pháp. Nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm, hy sinh oanh liệt của thanh niên như đội cảm tử gồm 5 thanh niên Cần Thơ do anh Lê Bình chỉ huy, bất ngờ tập kích vào đồn Cái Răng diệt gọn một đại đội địch. Lê Bình hy sinh. Lúc này anh mới 22 tuổi. Trả thù cho anh, đội du kích mang tên anh đã phục kích đánh địch ở ngã tư Cái Sơn làm hỏng một tàu, diệt 2 tên Pháp và một tên Việt gian… Liệt sĩ Lê Bình được Nhà nước ta truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tại mặt trận Bình Thuỷ, các anh Trần Văn Quế, Nguyễn Văn Hạnh đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Anh Võ Văn Thơm chỉ huy đội cảm tử ở Gò Công đã cùng đồng đội chiến đấu ác liệt khi giặc tràn đến. Chính quyền cách mạng lấy tên anh đặt cho ấp chợ Tân Hoà. Đó là ấp Hoà Thơm, nơi anh đã hy sinh vì đất nước.
Cuộc kháng chiến của quân dân Nam Bộ đã giam chân thực dân Pháp, tạo điều kiện để ta củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ mới, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc.
Tháng 2/1946, thay mặt Chính phủ và đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Nam Bộ danh hiệu vẻ vang “Thành đồng Tổ quốc”
*
*   *

Sau Cách mạng Tháng Tám, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, các cấp uỷ Đảng từ Xứ uỷ đến các Tỉnh, Thành uỷ đều coi trọng công tác tổ chức, vận động và giáo dục thanh niên. Trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có Bộ Thanh niên do ông Dương Đức Hiền làm Bộ trưởng. (Sau này Chính phủ Liên hiệp kháng chiến lập Nha Thanh niên do ông Dương Đức Hiền, Đào Duy Kỳ làm Giám đốc và Phó Giám đốc để phối hợp với Đoàn Thanh niên Cứu quốc trong công tác tổ chức vận động thanh niên tham gia kháng chiến và kiến quốc. Tháng 6 năm 1946, tổ chức Tổng Đoàn Thanh niên Việt Nam ra đời do ông Dương Đức Hiền làm Tổng Đoàn trưởng. Tổng Đoàn Thanh niên Việt Nam là mặt trận đoàn kết, tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên trong đó Đoàn Thanh niên Cứu quốc làm nòng cột để phục vụ công cuộc kháng chiến và kiến quốc theo Chỉ thị của Bác Hồ kính yêu).
Các cơ sở Đoàn được hình thành ở hầu khắp các nhà máy, xí nghiệp, đường phố, trường học, làng xã, từ thành phố đến nông thôn, từ đồng bằng lên miền núi. Nhiều đại hội Đoàn các cấp đã được triệu tập.
Ngày 27/9/1945, Đại hội Đoàn Thanh niên Cứu quốc thành Hoàng Diệu (Hà Nội) khai mạc tại Nhà hát Lớn thành phố. Đại hội vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời đến thăm. Cả Hội trường xúc động lắng nghe lời huấn thị của Bác Hồ. Người đánh giá cao vai trò của thanh niên Hà Nội trong cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Người nói lên niềm vinh dự tự hào của mỗi người dân, mỗi thanh niên được làm chủ đất nước và trách nhiệm của thanh niên phải cùng nhân dân bảo vệ nền độc lập vừa giành được, xây dựng chế độ mới.
Trong những ngày đầu tiên của nước Việt Nam vừa giành được độc lập, tự do, Đại hội Đoàn Thanh niên Cứu quốc thành Hoàng Diệu thành công tốt đẹp là một sự kiện lịch sử trọng đại trong đời sống chính trị của thanh niên Thủ đô và thanh niên cả nước.
Tiếp đó, Đại hội Xứ Đoàn Thanh niên Cứu quốc Bắc Bộ được tổ chức tại Nhà hát Lớn thành phố ngày 25/11/1945, dự Đại hội có 120 đại biểu thay mặt cho đoàn viên thanh niên của 21 tỉnh, thành phố, Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Phạm Văn Đồng đã đến thăm và huấn thị tại Đại hội. Đồng chí Nguyễn Lam được Đại hội bầu làm Bí thư Xứ Đoàn Thanh niên Cứu quốc Bắc Bộ.
Cuối năm 1945, đoàn đại biểu thanh niên Nam Bộ do anh Huỳnh Tấn Phát dẫn đầu đã vượt qua vòng vây của quân thù, ngày đêm lội suối băng rừng ra Hà Nội tham dự Đại hội Đoàn toàn quốc.
Đoàn đến Hà Nội vào những ngày đầu tháng 11/1945 và được làm việc với đồng chí Phạm Văn Đồng, đại diện Tổng Bộ Việt minh phụ trách công tác thanh niên. Trong cuộc họp trù bị cho Đại hội do đồng chí Phạm Văn Đồng chủ trì, đồng chí đã nêu phương hướng thành lập Liên đoàn Thanh niên Việt Nam để đoàn kết, tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên tham gia kháng chiến. (Sau này, đoàn đại biểu thanh niên Nam Bộ đã về báo cáo với Xứ uỷ về phương hướng thành lập Liên đoàn Thanh niên Việt Nam nên đầu năm 1947, Liên đoàn Thanh niên Việt Nam Nam Bộ đã sớm ra đời). Sau cuộc gặp gỡ và làm việc với bác Phạm Văn Đồng, ngày 10/11/1945, đồng chí Trần Văn Giàu đã đưa Đoàn đi gặp Bác Hồ kính yêu tại Bắc Bộ phủ. Bác ra tận cầu thang đón đoàn và ôm hôn từng người vô cùng thân thiết. Bác hỏi thăm sức khoẻ và tình hình đi đường của anh em trong đoàn. Ngồi cạnh Bác có đồng chí Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Nội vụ kiêm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và Tổng thư ký Hội đồng Chính phủ. Anh Huỳnh Tấn Phát báo cáo với Hồ Chủ tịch về cuộc kháng chiến của đồng bào Nam Bộ và phong trào thanh niên Nam Bộ trong những ngày đầu kháng chiến. Bác chú ý từng chi tiết và Bác hỏi anh Phát trả lời. Qua cuộc nói chuyện toát lên nỗi lo lắng của lãnh tụ đối với cuộc đi đầu đấu tranh đầy gian khổ của đồng bào Nam Bộ. Bác vô cùng xúc động trước những tấm gương chiến đấu, hy sinh anh dũng của thanh, thiếu nhi và đồng bào Nam Bộ. Rồi Bác yêu cầu Đoàn đến phòng làm việc của Bác trong 2 ngày liền để khi rảnh việc Chính phủ, Bác sẽ hỏi thăm tường tận và dặn dò những điều cần thiết cho cán bộ và đồng bào Nam Bộ.
Đoàn đại biểu thanh niên Trung Bộ do hai đồng chí Hồng Chương và Hồ Mỹ Xuyên cũng từ Huế ra Hà Nội báo cáo với Hồ Chủ tịch về phong trào thanh niên Trung Bộ, các đồng chí đã thay mặt thanh niên miền Trung xin hứa với Người sẽ đi đầu trong phong trào kháng chiến, kiến quốc, tích cực thực hiện nhiệm vụ chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm mà Người đã trao cho tuổi trẻ cả nước.
Tháng 11/1946, Đại hội Đoàn Thanh niên Cứu quốc các tỉnh Trung Bộ khai mạc tại thành phố Huế. Trên 150 đại biểu đại diện cho 13 vạn cán bộ, đoàn viên, thanh niên từ Thanh Hoá đến các tỉnh cực Nam Trung Bộ về dự Đại hội. Đại hội được đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Xứ uỷ Trung Kỳ đến thăm và nói chuyện. Toàn thể đại biểu dự Đại hội đã nêu cao ý chí của thanh niên Trung Bộ nguyện chiến đấu, hi sinh đến cùng chống thực dân Pháp xâm lược.
ở Nam Bộ, cuối năm 1946, Xứ uỷ chủ trương củng cố tổ chức Đoàn Thanh niên Cứu quốc và phát triển phong trào thanh niên. Các Ban vận động, Ban Chấp hành lâm thời Tỉnh Đoàn được thành lập. Các tỉnh đều tiến hành công tác củng cố và phát triển cơ sở Đoàn, Các huyện, xã ở Mỹ Tho, Bến Tre...đều thành lập được Ban Chấp hành. ở Cần Thơ, 2/3 số huyện trong tỉnh có Ban Chấp hành; ở Sóc Trăng xây dựng được 36/ 56 cơ sở Đoàn; ở Bạc Liêu, trong tháng 9,10,11/1946, hệ thống tổ chức của thanh niên Cứu quốc được hình thành từ cơ sở trở lên.
Trong điều kiện cuộc kháng chiến chống Pháp của quân dân Nam Bộ đang diễn ra quyết liệt, nhưng đến cuối năm 1946, Đoàn Thanh niên Cứu quốc Nam Bộ đã xây dựng được cơ sở ở hầu hết các tỉnh, thành, huyện, thị...Đoàn đã động viên đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia dân quân du kích, tòng quân xây dựng lực lượng vũ trang, tham gia chiến đấu, phá tề, trừ gian...
Nhằm tỏ rõ thiện chí mong muốn giải quyết vấn đề quyền độc lập của nước Việt Nam bằng con đường hoà bình, Chính phủ ta đã cử phái đoàn ngoại giao sang Pháp, đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận lời sang thăm Pháp với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp vào giữa năm 1946.
Trước khi tạm biệt đồng bào cả nước, nhất là đồng bào Thủ đô Hà Nội, chiều ngày 30/5/1946, một cuộc mít tinh lớn đã được tổ chức tại sân Việt Nam Học xá của sinh viên (Bạch Mai). Ngoài đại biểu các tầng lớp nhân dân Thủ đô, sinh viên các trường cao đẳng và đại học Hà Nội cũng vinh dự được gặp Người. Bác muốn trực tiếp thăm nơi ở và nói chuyện với một số anh chị em sinh viên. Người xuống ô tô và bước lên các bậc tam cấp dẫn đến đại sảnh của nhà A. Bác vẫy tay chào tất cả sinh viên đang đứng đợi. Dưới nắng hè chói chang, Người vui vẻ trò chuyện với các sinh viên cùng đi. Bác nhìn chung quanh và vui vẻ cười:
- Đang còn nhiều cây và nhiều tiếng chim hót.
Bác yêu cầu đưa Bác đến thăm nhà bếp liền kề với nhà ăn của sinh viên. Bác hỏi các anh chị nhà bếp:
- Nấu cơm cho sinh viên ăn có khó không?
- Thưa Cụ Chủ tịch, khó nhưng vẫn làm được ạ. Thưa Cụ Chủ tịch, các cậu sinh viên ăn khoẻ và họ hiền lắm.
Bác cười và tiến đến bắt tay từng anh chị nấu bếp. Chưa đến giờ mít tinh nên Bác tỏ ý muốn thăm nơi ở của sinh viên, anh chị em mời Bác lên cầu thang gác nhà A (nơi có vẻ khang trang nhất trong bốn khu nhà A, B, C, D). Tự vén chiếc màn ngăn nơi ở riêng của một sinh viên nội trú, Bác thấy giường đang còn đệm cỏ, các ngăn tủ đựng sách vở, có buồng còn có lọ hoa ngắt từ giậu quanh khuôn viên học xá. Bác bảo:
- Có đệm ấm mùa đông là tốt, nhưng giờ vào mùa hè rồi nên cất đi kẻo nực. Có sách vở đầy đủ, có “hoa rừng” thì nên chăm lo học tập để rồi phụng sự công việc xây dựng đất nước cho tốt.
Đúng giờ, Bác đến dự mít tinh trong tiếng hoan hô vang dậy của mấy nghìn người, trong đó có anh chị em sinh viên quần áo chỉnh tề đứng theo đội ngũ nghiêm trang. Tất cả đều im phăng phắc xúc động nhìn Bác không chớp mắt. Bác ân cần căn dặn đồng bào Thủ đô và đồng bào cả nước, trong đó có sinh viên đặt lòng tin vào sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc. Lời Bác đi sâu vào từng trái tim: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân…Bất kỳ bao giờ và bất kỳ ở đâu tôi cũng chỉ đeo đuổi một mục đích là làm sao cho ích quốc, lợi dân”. Khi Bác lên xe ra về, cả rừng người lưu luyến, tần ngần hồi lâu trên sân Việt Nam Học Xá, biết bao sinh viên mắt rớm lệ…
Sau buổi mít tinh, Hồ Chủ tịch lên đường sang Pháp, Chính phủ Pháp đã nghênh đón Chủ tịch Hồ Chí Minh với nghi lễ trọng thể nhất đối với một nguyên thủ quốc gia. Tin tức từ Paris đưa về làm cho cả nước nức lòng phấn khởi. Thanh niên, học sinh, sinh viên Việt Nam càng thêm tự hào, tự tin tràn ngập, họ nghĩ rằng hơn 30 năm trước Bác đã sang Pháp trên chiếc tàu buôn với tư cách là người làm công, nay Bác sang Pháp với tư cách là Chủ tịch của nước Việt Nam độc lập với rừng cờ đỏ sao vàng, lá cờ đã từng thấm đượm biết bao dòng máu anh hùng của các chiến sĩ cách mạng và đồng bào yêu nước đi theo con đường Bác dẫn dắt đến thắng lợi quan trọng này.
Hơn ba tháng sau, với nhiều hoạt động phong phú, rộng rãi để nêu cao chính nghĩa Việt Nam không những ở Pháp mà còn lan toả đến châu Âu, Bác trở về nước. Nhân dân và tuổi trẻ Hà Nội, Hải Phòng cùng nhiều tỉnh khác cử đại biểu xuống Hải Phòng đón Bác. Biển người lại được reo hò vang dậy: “Hồ Chủ tịch muôn năm”, “ủng hộ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”, “ủng hộ Việt Minh”… làm cho các thế lực thù địch thêm run sợ.
Tổng Hội Sinh viên cứu quốc xin phép được vào thăm Bác sau khi Bác đi xa về và báo cáo với Bác về kỳ thi tốt nghiệp đại học năm 1946. Bộ Quốc gia Giáo dục do nhà dân tộc học nổi tiếng Nguyễn Văn Huyên làm Bộ trưởng đã thực hiện có kết quả tinh thần của Bác cho kỳ thi viết và hỏi miệng bằng tiếng Việt đối với sinh viên. Đây là một thành tựu quan trọng bước đầu phá tan mọi hoài nghi của những người quen giảng dạy, học tập bằng tiếng Pháp.
Văn phòng Chủ tịch trả lời Bác đồng ý. Hôm ấy là một ngày cuối tháng 10 năm 1946, tình hình Hà Nội căng thẳng do những hoạt động quân sự của Pháp và sự phá hoại của bọn phản động gây ra. Đoàn đại biểu của Tổng Hội Sinh viên cứu quốc do anh Lê Văn Giạng (Sinh viên khoa Toán – Lý) dẫn đầu, ngoài ra còn có các anh Điền Văn Hưng, quê Nam Bộ (Sinh viên trường Nông – Lâm), anh Nguyễn Xuân Sanh chủ bút báo “Gió mới” và một số anh khác… Phòng khách của Bác có bình hoa đang nở. Bác mở cửa đón và bắt tay từng người trong đoàn. Bác mặc bộ áo quần tuýtxo trắng, trông Bác khoẻ hơn hồi mới về Thủ đô, có lẽ sóng gió đại dương vừa trải qua đã giúp ích cho sức khoẻ của Bác. Bác đề nghị anh em trong đoàn đại biểu sinh viên kể lại tình hình sinh viên và những hoạt động của Tổng Hội trong thời gian qua. Bác chăm chú nghe và thỉnh thoảng gật đầu tỏ vẻ đồng tình. Nghe xong, Bác giải thích vì sao chúng ta phải khẩn trương chuẩn bị lực lượng về mọi mặt, riêng đối với sinh viên Bác dạy phải làm cho anh chị em ngày càng đoàn kết chặt chẽ, hiểu rõ âm mưu của kẻ thù và luôn luôn nhớ đến nhiệm vụ của mình là học tập để phụng sự Tổ quốc. Bác căn dặn phải vận động anh chị em tham gia hoạt động tích cực, góp phần xây dựng đoàn thể của sinh viên và tham gia góp phần xây dựng nền đại học dân tộc. Bác dạy: “Đoàn kết là sức mạnh truyền thống của dân tộc ta”. Kết thúc buổi làm việc, Bác nói: “Dân tộc Việt nam ta đời đời phải sống và làm nên lịch sử của nước mình”
Bộ mặt xâm lược của thực dân Pháp ngày càng lộ rõ. Đảng ta khẩn trương xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang cách mạng. ở Hà Nội, cuối tháng 6/1946, lực lượng tự vệ chiến đấu và tự vệ thành đã được hợp nhất với tên gọi Thanh niên tự vệ Hà Nội. Thành Đoàn Thanh niên Cứu quốc thành Hoàng Diệu đã cử các cán bộ có năng lực vào Ban Chỉ huy của lực lượng thanh niên tự vệ. ở Hải Phòng, Đội Thanh niên xung phong được thành lập từ những ngày đầu chính quyền cách mạng, làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự trị an, trấn áp bọn phản cách mạng.
Thanh niên trong cả nước sôi nổi luyện tập quân sự và tham gia các lực lượng vũ trang. ở Thanh Hoá, mỗi làng đều có trung đội du kích và tự vệ. Đội “Thanh niên xung phong” ở thị xã được thành lập gồm 200 thanh niên. Chi đội chủ lực đầu tiên của tỉnh Thanh Hoá được thành lập với 1.500 chiến sĩ, mang tên Chi đội Đinh Công Tráng, Đội tự vệ thị xã được thành lập đầu năm 1946. ở Quảng Nam- Đà Nẵng, hàng nghìn thanh niên tham gia vệ quốc đoàn, tự vệ chiến đấu, công an xung phong... ở Đà Nẵng, Hội An, thành lập được các phân đội nữ giải phóng quân. Anh chị em tự sắm vũ khí và quyên góp được 20.000 đồng ủng hộ Chính phủ mua sắm vũ khí chuẩn bị kháng chiến.
Đến cuối năm 1946, thanh niên chiếm trên 90% trong số 8 vạn chiến sĩ trong quân đội thường trực và 1 triệu rưỡi chiến sĩ trong dân quân du kích, tự vệ chiến đấu. Tại Hà Nội, không khí chuẩn bị chiến đấu khẩn trương, sôi động. Các đội thanh niên tự vệ gấp rút chuẩn bị trận địa, hầm, hào để đánh địch. ý chí bảo vệ Hà Nội của thanh niên được viết thành khẩu hiệu dán khắp nơi: “Thanh niên thành Hoàng Diệu nguyện sống chết với Thủ đô”
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào thanh niên đã góp phần tích cực trong sự nghiệp bảo vệ, củng cố Nhà nước dân chủ nhân dân, xây dựng chế độ mới, tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ của dân tộc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét