Tân văn - Tân thư và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng yêu nước ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
Khoa Giáo dục Chính trị, Đại học Sư phạm Hà Nội
Tân thư góp phần giúp cho trí thức Việt Nam tiêu biểu thời đó học được phương pháp mà sau này người ta thường gọi là: “Tự thức tỉnh, tự phê phán" để nhìn nhận rõ các ưu khuyết, nhất là các nhược điểm trầm trọng của chính tầng lớp mình, của nhân dân mình, dân tộc mình đặng sửa chữa, khắc phục. |
PGS, TS Lê Thanh Bình
Tạp chí Báo chí & Tuyên truyền
Người ta thường nói rằng: Trường tương tác và giao lưu của văn hóa nghệ thuật nói chung là phạm vi diễn ra các tác động qua lại trong một tổng thể phức hợp nhiều thành tố như: chủ thể sáng tạo văn hóa nghệ thuật, tác phẩm, công trình, thiết chế, người tuyển chọn, phân phối, phương tiện quảng bá, nhà nghiên cứu, phê bình, công chúng thưởng thức, tiêu thụ. Nói riêng về các thành tố văn hóa thì sách báo vừa là sản phẩm của đời sống tinh thần, có giá trị tư tưởng- văn hóa to lớn lại vừa là một trong các phương tiện truyền thông đại chúng quan trọng có thể tuyên truyền quảng bá, cổ động các tư tưởng mới và tổ chức thành phong trào sâu rộng. Về không gian, phạm vi địa lý, trong các trường văn hóa khu vực Châu Á, có lẽ Trung Quốc được coi là một trung tâm có ảnh hưởng to lớn đối với trường văn hóa láng giềng - các nước lân bang trong nhiều thời gian, trong đó có cả giai đoạn đầu thế kỷ XX. Các thành tố nói trên, chúng ta chỉ phân tích sách báo "tân thư", gọi thế để phân biệt là sách báo viết bằng chữ Hán chủ yếu do các nhà tư tưởng, trí thức cách mạng của Trung Quốc viết ở Trung Quốc hay ở Nhật Bản được chuyển về Việt Nam.
Tân Thư trình bày, phản ánh hiện trạng của Trung Quốc và thế giới, đề xuất những phương sách giải quyết những vấn nạn của Trung Quốc dưới chế độ mục nát của Thanh triều. Đó là những nguồn tư liệu chủ yếu về các trào lưu tiến bộ, duy tân trên thế giới để phần lớn tầng lớp sĩ phu Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX hấp thụ, tham chiếu, học hỏi, giác ngộ, mà xây dựng nên các phong trào dân tộc, dân chủ mới mẻ ở nước ta thời kỳ đó.
1. Ảnh hưởng của Tân Thư đối với sĩ phu Việt
Nếu nói rộng thì cả tầng lớp tri thức nho sĩ, hẹp hơn thì các nhà tư tưởng, các nhà sáng tác văn học, nghệ thuật chủ yếu là vì bản thân để lập danh. Các tư tưởng như lập thân, lập công, lập ngôn... "Không công danh thời thối nát với cỏ cây”(như nhà Nho Việt Nam Nguyễn Công Trứ đã nói
Chính vì thế, trong cuốn Phan Tây Hồ tiên sinh lịch sử, chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng đã hồ hởi viết: "Sách mới, báo mới xuất hiện đã tràn qua nước ta, mà ảnh hưởng nhất là sách của Khang Hữu Vi, cùng Lương Khải Siêu, vì sách ấy nói tới dân quyền tự do, phát minh được cái đặc sắc - chân tướng của văn minh Âu Châu rất nhiều, tiên sinh Phan Châu Trinh thường qua lại với ông Thân Trọng Huề, Đào Nguyên Phổ mượn những sách nói trên trong lòng ham thích quên ngủ, quên ăn, từ đó trong tư tưởng đổi hẳn ra một cách mới mẻ" (Minh viên Huỳnh Thúc Kháng: Phan Tây Hồ tiên sinh lịch sử, Nxb Anh Minh, Huế, 1959).
Chí sĩ Phan Bội Châu sau khi thấy phong trào Cần Vương thất bại trong khi tư tưởng bế tắc, nhờ tiếp xúc với Tân Thư đã mở rộng tầm mắt, dần hình thành cho mình chủ trương mới để cứu nước, canh tân Chính cụ viết trong "Phan Bội Châu niên biểu rằng: Tôi vì xem các bộ sách Tân Thư (Trung Đông chiến kỷ, Phổ Pháp chiến kỷ của Lương Khải Siêu, Doanh hoàn chiến lược của Từ Kế Dư mới hiểu qua được tình trạng cạnh úđlul ở trong hoàn hải, thảm trạng quốc vong chủng diệt càng kích thích trong đầu óc sâu lắm.
Nhờ Tân Thư, qua Tân Thư những người có đầu óc cầu thị, thậm chí cả những trí thức biết Nho học, hiểu tiếng Pháp, theo Công giáo như Nguyễn Trường Tộ đã thu lượm được kiến thức, có được tầm nhìn hơn hẳn những trí thức không có cơ hội tiếp xúc với Tân Thư.
Nhiều sĩ phu có óc tiến thủ, cùng thế hệ hai cụ Phan thậm chí mấy thập kỷ tiếp
Các trí thức đó đã say sưa, phấn khích bàn về lịch sử Duy tân nước Nhật, lịch sử thống nhất nước Đức, lịch sử cách mạng Pháp, lịch sử tư tưởng Tây Âu, các sự kiện thế kỷ ánh sáng ở Châu Âu, triết học thế kỷ XVIIcủa Pháp, lịch sử Italia, những thách thức của Trung Quốc thời nhà Thanh trước sự văn minh vượt trội, hùng mạnh của phương Tây... được các tác phẩm Tân Thư lần đầu tiên quảng bá sang Việt Nam.
Các tác phẩm nổi tiếng của Montesquieu (được dịch ra chữ Hán như "Vạn phép tinh lý"), trước tác của Rousseau, Voltairre... sách của hai nhà cách mạng Trung Hoa Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, các nhân sĩ lớp mới như Nghiêm Phục, Lâm Lạc Tri, Từ Kế Dư, Dương Hồ Mạnh, học giả Nhật Bản Takayama Rinjiro đã giúp các nhà nho, mở đường cho họ nhìn nhận lại đạo lý Khổng Mạnh, thấy được phần lạc hậu, trì trệ của các học thuyết cũ kỹ, hư học, lôi cuốn họ say sưa nhìn lại thế giới, xem lại mình với cái nhìn rộng hơn, khách quan hơn, có nhiều đối sánh để phân tích rút ra các bài học kinh nghiệm và được thực tiễn kiểm chứng.
Các chí sĩ ưu tú hàng đầu của Việt
2. Nguồn gốc, xuất xứ, nội dung một số Tân Thư chính và những tư tưởng, đường lối mới thể hiện trong các tác phẩm của chí sĩ Việt Nam tiêu biểu
Đầu thế kỷ XX, sau khi phong trào Cần Vương thất bại, những người yêu nước Việt Nam, trước hết là các sĩ phu đều cảm thấy bế tắc, họ tự biết các hình thức đấu tranh cũ đều không phù hợp trong tình hình ách thống trị của thực dân Pháp đã được thiết lập cứng rắn.
Tình hình Việt Nam lúc đó, sách báo mới chưa nhiều, sách chủ yếu là chữ Hán viết về Nho, Y, Lý, Số với những quan niệm, tư tưởng phong kiến cũ kỹ, còn báo thì mới có một số tờ như Gia Đinh báo (ra đời 1865), Nông Cổ mím đàm (ra đời năm 1901), Nam Kỳ địa phận (ra đời năm 1908 ), Đăng cổ tùng báo (chuyển từ tờ Đại Nam đồng văn nhật báo năm 1907 )... Các tờ báo Việt
Trước năm 1880, Việt Nam coi Trung Quốc là tôn chủ nên theo lệ vẫn thông hiếu, đi sứ với nhiều lễ vật, các sứ thần Việt Nam có dịp được sĩ phu Trung Hoa tặng sách báo, thư tịch: Từ sau 1880, Trung Quốc từ bỏ quyền tôn chủ nên khi Tân Thư xuất hiện, nhất là vào thời Quang Tự và sau đó nhiều tư tưởng ưu thời mẫn thế, muốn chấn hưng quốc gia được bày tỏ trong các Tân thư thì con đường truyền bá của Tân thư đã theo cách khác: chủ yếu thông qua Hoa kiều và thương nhân Hoa Nam mang đến Việt Nam. Sau khi Tân thư chuyển đến việt Nam, có những gia đình trí thức quan lại đầu óc tiến bộ ở kinh đô như Thân Trọng Huề,Nguyễn Lộ Trạch và các gia đình nho sĩ, trí thức ở các thành phố là Trung tâm văn hóa lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, Sài Gòn... đã thu thập lưu trữ và quảng bá (Trường hợp chí sĩ Phan Châu Trinh cũng đọc Tân thư từ kho sách nhà Thân Trọng Huề, Đào Nguyên Phổ ở Huế khoảng năm 1903).
Những sách
“Đông Trung chiến kỷ” (xuất bản năm 1896) do Young Allen, người Mỹ, chủ bút tờ “Vạn quốc công báo" viết. Cuốn sách này ghi chép chi tiết diễn biến cuộc chiến giữa Nhật Bản -
"Doanh hoàn chí lược” là cuốn sách địa lý thế giới do Từ Kế Dư soạn trong những năm 40 thế kỷ XIX Cuốn sách đã mở tầm mắt tới những vùng đất phát triển, đặc biệt là Tây Âu, giúp người đọc Trung Hoa và Việt Nam hiểu biết, quan tâm nhiều hơn tới bên ngoài đất nước mình.
“
Các tác phẩm có ảnh hưởng mạnh mẽ là sách báo trong thời kỳ Biến pháp của
“Trung Quốc hồn" xuất bản năm 1903 là cuốn sách tập hợp các bài luận thuyết của Lương Khải Siêu như "Bàn về nguồn gốc sự yếu kém của Trung Quốc", "Bàn về xu thế cạnh tranh của các dân tộc thời cận đại và tiền đồ của Trung Quốc", "Bàn về thời đại quá độ", ”Bàn về chỗ khác nhau và giống nhau về quốc thể giữa Trung Quốc và Châu Âu”.
Lương Khải Siêu sau khi xuất bản Tạp chí Thanh Nghị báo còn sáng lập tờ Tân dân tùng báo (1902) cũng ở
“Cuốn Nhật Bản duy tân tam thập niên sử” của Takayama Rinjiro và các học giả Nhật Bản viết năm 1897 được La Hiếu Cao dịch, Thượng Hải Quảng trí thư cục xuất bản ấn hành năm 1902. Cuốn sách phân tích những thành tựu của Nhật Bản trong 30 năm sau khi Minh Trị Duy tân công bố bắt đầu cải cách (1868).
Tác phẩm gồm 12 phần về lịch sử tư tưởng học thuật chính trị, quân sự, ngoại gian, tư pháp, thi chính, văn học, giáo dục, tôn giáo, công nghiệp, giao thông hạ tầng kỹ thuật, văn hóa phong tục và phần phụ lục các bảng biểu thể hiện thành tựu, tiến bộ của Nhật về các mặt.
Ngoài các Tân Thư nói trên của các tác giả Trung Quốc, Nhật, phải kể đến một tác giả Việt Nam cũng được coi là viết Tân Thư, đó là Nguyễn Lộ Trạch, năm 1877 và 1882 đã viết các bản điều trần bằng chữ Hán gửi triều Nguyễn với nhan đề “Thời vụ sách". Năm 1882 theo lệnh Tự Đức, ông đi thị sát Hương Cảng. Sau đó ông cho ra đời cuốn sách hiến kế cải cách, đã bày tỏ tâm trạng khủng hoảng nảy sinh trong bối cảnh Pháp xâm lược nước ta và kiến nghị triều đình cải cách để chấn hưng đất nước, đi ra khỏi bế tắc khủng hoảng. Muộn hơn, còn viết “Thiên hạ đại thế luận", tiếp tục bày tỏ với triều đình những đề xuất về cải cách.
Trong tác phẩm “Lưu cầu huyết lộ tân thư” (viết khoảng 1903 -1904) sau khi tổng hợp, phân tích các cuốn Tân Thư Trưng Hoa, so sánh những tương đồng cửa hoàn cảnh Trung Quốc với Việt Nam, tham chiếu các kế sách của học giả Trung Hoa, hiểu biết thêm về thế giới, cụ Phan Bội Châu đã phân tích rõ tình cảnh Việt Nam bị sỉ nhục dưới ách thực dân Pháp, dự cảm kết cục bi đát, khủng hoảng của dân tộc, triều đình bù nhìn, nêu rõ cần áp dụng gấp đường lối sau:
a) Khai dân trí (mở mang trí khôn cho dân, nâng cao dân trí).
b) Chấn dân khí (bồi dưỡng khí thế vươn lên cho dân).
c) Thực nhân tài (vun trồng nhân tài).
Trong 3 điểm đó
Rất bức xúc, cụ Phan lên án về môi trường xã hội đầy nạn quan liêu, hống hách, cửa quyền, tự
Trong một tác phẩm quan trọng khác - cuốn "Việt Nam quốc sử khảo", viết năm 1908, cụ Phan đã mạnh dạn, xót xa, tâm huyết nói rõ những điểm cần khắc phục của người dân Việt Nam như sau: "Giờ đây tời xin kể những điều tai nghe mắt thấy để quốc dân cũng biết: Hay nghi kị lẫn nhau, không làm nên việc gì cả, đó là điều ngu muội thứ nhất (Ngu muội ở đây hiểu là khờ khạo, tầm nhìn ngắn). Tôn sùng những điều xa hoa vô ích, bỏ bễ những sự nghiệp đáng làm, đó là điều rất ngu muội thứ hai. Chỉ biết lợi mình mà không biết đến hợp quần (Đoàn kết vì lợi ích cả cộng đồng), đó là điều ngu muội thứ ba. Thương tiếc của riêng, không tưởng đến việc ích
Về chính sách “Bồi dưỡng nhân tài", cụ Phan trình bày trong "Khuyến quốc dân tư trợ du học văn” (Viết năm 1905), cụ cho rằng nên học tập Nhật Bản cử người ra nước ngoài học tập nhằm mở mang dân trí, khuyến nhân tài... Nguyên nhân xuất hiện của những ý kiến có tầm tư tưởng đó chính là nhờ ảnh hưởng
3. Kết luận
Ảnh hưởng của
Do Việt Nam là một nước ít có những cuộc cách mạng về tư tưởng, lại chịu ảnh hưởng lâu đời từ trường văn hóa Trung Hoa nên việc xuất hiện hiện các tư tưởng mới của Trung Hoa qua Tân thư dễ được tầng lớp có học Việt Nam chấp nhận. Về mặt nào đó, trường văn hóa Việt
Qua Tân Thư, trí thức biết Hán học của Việt Nam hiểu được các trào lưu tư tưởng mới trong giới chính trị và tư tưởng Trung Hoa là muốn cải cách thể chế nhà nước Trung Hoa, đặng chấn hưng đất nước, chống lại phương Tây và Việt Nam cũng cần phải cải cách. Chính cụ Phan Bội Châu trong tác phẩm "Lưu Cẩu huyết lệ tân thu cũng đưa từ Tân Thư vào tên sách chắc để cổ vũ vai trò khai sáng, đi trước của Tân Thư Trung Quốc, nghĩa là tham khảo các biến đổi từ nước láng giềng Trung Hoa. Sau này, trong tổng kết lý luận,
Tân Thư cũng rút kinh kinh nghiệm từ sự thất bại của chính Trung Quốc trước Nhật Bản một nước Châu Á nhỏ bé, nhờ phát động cách mạng Minh Trị nên cường thịnh, đè bẹp cả triều đình nhà Thanh hủ bại của Trung Quốc. Cho nên không phải ngâu nhiên cụ Phan và các chí sĩ khác nhắc đến tên đảo "Lưu Cầu’ của Nhật và nhiều thông tin về Nhật, mở đường cho những ý tưởng trông đợi vào Nhật, noi theo con đường đi của cường quốc duy nhất thành công sớm về cả công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở châu á để cứu mình.
Điểm nữa là cụ Phan và chí sĩ khác tiếp nhận được các gợi mở của Tân Thư về sự lớn mạnh của cường quốc phương Tây nên họ nhận thức được là để cứu Việt Nam cần học theo con đường mà phương Tây đã trôi qua, dù là học theo từng phần, từng đoạn của cả lộ trình. Các cụ đã bắt đầu đề cập đến các thành tựu phương Tây về khoa học, công nghiệp, hiện đại hóa, quyền tự do dân chủ, thể chế chính trị, lao động tiền lương...
Tuy cụ Phan và các nhà tư tưởng, các nhà cách mạng cùng thời bị thất bại trong đấu tranh giành chính quyền nhưng các tư tưởng về chấn hưng giáo dục, nhận rõ sự yếu kém của người Việt để sửa đổi, vươn lên, học cách bồi dưỡng sử dụng nhân tài chấn hưng đất nước, mở cửa đất nước với tầm nhìn gắn với Châu Á, Thái Bình Dương, tăng cường hội nhập, hợp tác, cạnh tranh, tìm được chỗ đứng vững chắc cho quốc gia, dân tộc... vẫn mãi còn nguyên giá trị như những tư tưởng chiến lược.
Tân thư góp phần giúp cho trí thức Việt Nam tiêu biểu thời đó học được phương pháp mà sau này người ta thường gọi là: “Tự thức tỉnh, tự phê phán" để nhìn nhận rõ các ưu khuyết, nhất là các nhược điểm trầm trọng của chính tầng lớp mình, của nhân dân mình, dân tộc mình đặng sửa chữa, khắc phục.
Do Tân thư lúc đó chủ yếu do một số nhà canh tân của Trung Hoa viết, bản thân họ tiếp thu từ sách báo tiếng Anh, tiếng Pháp của phương Tây cũng mới mẻ, số người thạo ngoại ngữ ít ỏi, các kiến thức quốc tế chưa nhuyễn, chưa đầy đủ nên khi truyền vào Việt Nam khó mà toàn vẹn và hệ thống hóa.
Theo: Tạp chí Báo chí & Tuyên truyền |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét