Quan hệ Nhật Bản -
Việt Nam
1954 - 1975
Mối quan hệ
Nhật Bản – Việt nam được hình thành từ thế kỉ XVI – XVII, trãi qua những bước
thăng trầm ở các thế kỉ sau và đến những năm 90 của thế kỉ XX thì bước sang
một “tầm cao mới”. Trong bối cảnh chung như vậy, chúng tôi tập trung tìm
hiểu bối cảnh quốc tế cũng như điều kiện lịch sử mỗi nước, những hình thức quan
hệ giữa hai quốc gia, hai dân tộc Nhật Bản – Việt Nam từ 1954 – 1975.
1. Thất bại
trong chiến tranh thế giới thứ hai, từ thắng 8 – 1945, Nhật Bản bị quân đội
Đồng minh - Hoa Kì chiếm đóng. Do bối cảnh quốc tế và khu vực khiến mỹ
phải có những thay đổi trong chính sách đối với Nhật Bản.
Chiến tranh
Triều Tiên (1950 – 1953) ảnh hưởng lớn, mở ra cục diện mới cho sự phát triển
kinh tế Nhật Bản. Nhờ những đơn đặt hàng mua vật dụng quân sự, cơ sở phục vụ
cho chiến tranh của Mỹ với hơn 4 tỉ USD, cùng trên 2 tỉ USD viện trợ của Mỹ
trước đó giúp Nhật có điều kiện phát triển mạnh. Có thể nói, chiến tranh được
ví như “ngọn gió thần thổi vào nền kinh tế Nhật Bản”[1]. Nhằm biến Nhật Bản tại vùng đệm chiến
lược thành đồng minh trụ cột ở châu Á – Thái Bình Dương, Mỹ kí với Nhật Bản
Hiệp định Xan Phrăngxicô (9 – 1951) và sau đó là Hiệp ước an ninh Mỹ -
Nhật (5 – 1952). Việc chiếm đóng Nhật Bản chấm dứt, Nhật trở thành nước độc
lập. Năm 1954, Nhật Bản tham gia Ủy ban Viện trợ phát triển (DAC) do Mỹ cầm
đầu, để làm cho các nước phụ thuộc vào Mỹ nhiều hơn. Năm 1956, Nhật Bản là
thành viên của Liên hợp quốc. Chính sách đối ngoại của Nhật cơ bản lệ thuộc vào
Mỹ, trở thành một bộ phận trong chiến lược toàn cầu của Mỹ.
Sau chiến
tranh thế giới thứ hai, chính quyền Nhật Bản đã động viên được lòng tự trọng
dân tộc, nghị lực, ý chí và tinh thần sáng tạo của nhân dân, đưa “cả dân tộc
đônà kết một lòng để cải cách và xây dựng lại nền kinh tế”[2].
Trong thời kì
chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954 – 1975), Mỹ biến Nhật Bản thành căn cứ quân
sự và cơ sở hậu cần, phục vụ cho mục đích quân sự - chính trị của Mỹ. “Cuộc
chiến tranh Việt Nam “ được đánh giá là ngọn gió thần thứ hia thổi vào nền kinh
tế Nhật Bản vì những đơn đặt hàng của Mỹ[3].
Từ năm 1965
đến năm 1972, đơn đặt hàng quân sự của Mỹ cho Nhật Bản đạt 4,5 tỉ USD. Từ năm
1965 – 1968, theo Viện nghiên cứu Nômura Sôgô thì Nhật Bản thu lợi trong chiến
tranh Việt Nam
là 1.369 triệu USD[4].
Từ cuối thập
niên 60, đầu thập niên 70, trước những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam,
Mỹ phải tiến hành đàm phán và kí Hiệp định Pari với Chính phủ Việt Nam dân chủ
cộng hòa (1973), đồng thời tích cực hòa hoãn với Trung Quốc.
Để ngăn chặn
sự lạm phát trong “chiến tranh thương mại” với Nhật, Mỹ đã định lại giá trị
đồng yên qui đổi (từ 360 xuống 308 yên /1USD), đánh thuế hàng nhập khẩu của
Nhật vào Mỹ thêm 10%. Tiếp tục chiến dịch “ngoại giao bóng bàn”, Níchxơn bất
ngờ đến thăm Trung Quốc và ra “Thông cáo Thượng Hải” (1972) mà không báo cho
Nhật Bản biết, dù Nhật được coi là “Đồng minh số 1” của Mỹ ở châu Á. Những biện
pháp về kinh tế, chính trị mà Níchxơn thực hiện đã gây cho Nhật Bản những hậu
quả khá nặng nề, mà người Nhật thường gọi là “cú đòn Níchxơn” (Nison shock).
Tuy bị lệ
thuộc vào Mỹ, nhưng bằng tiềm lực kinh tế của Mình, Nhật Bản cố gắng tăng cường
tính chủ động trong quan hệ đối ngoại, khiến quan hệ Mỹ - Nhật bị biến
dạng về kinh tế và chính trị. Nhật Bnar đã thực hiện chính sách “Seikei Bunri”
– tách vấn đề kinh tế ra khỏi vấn đề chính trị một cách tích cực hơn.
Lợi dụng áp
lực của phong trào chống Mỹ can thiệp vào châu Á, bằng chính sách ngoại giao
khôn khéo, Nhật Bản đã đòi Mỹ trả lại quần đảo Ôkinaoa (Okinaoa gồm 160 hòn
đảo, diện tích 2.250 Km2). Nhật Bản cũng cố gắng giữa vị trí trung
gian trách không để bị lôi kéo trực tiếp tham gia vào cuộc chiến tranh Việt Nam và có quan điểm mền dẻo hơn với Việt Nam
dân chủ cộng hòa.
Từ năm 1971,
Nhật Bản đã có những cuộc gặp gỡ không chính thức với đại diện Việt Nam
dân chủ cộng hòa tại Pari. Năm 1972, Trưởng phòng Đông Nam Á của Nhật sang Việt
Nam
để đàm phán, nhằm xúc tiến lập lại quan hệ đối ngoại giữa hai nước. Sau khi
Hiệp định Pari được kí kết, thì 8 tháng sau – tháng 9 – 1973, Đại sứ lâm thời
Nhật Bản đến Hà Nội. Nhật Bản là nước thứ 59 công nhận Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Quan hệ ngoại
giao của Nhật Bản – Việt Nam được thiết lập tuy còn hạn chế về quy mô mức độ,
nhưng đã thể hiện một nền ngoại giao bình đẳng, tạo cơ hội đối thoại trực tiếp
mở ra một trang mới trong quan hệ hai nước.
Quan hệ kinh
tế chính thức giữa hai nước trong thời kì này cũng chưa được thiết lập, mới có
sự trao đổi hàng hóa thông thường. Giá trị xuất khẩu còn nhỏ bé: năm 1960 tổng
kim ngạch đạt 16,1 triệu USD, năm 1965 là 15,3 triệu USD và năm 1970 là 11,3
triệu USD[5].
Thắng lợi của
dân tộc ta trong đại thắng mùa xuân 1975 làm cho Nhật Bản càng nhận rõ vai trò
Việt Nam trong khu vực cùng tiềm năng kinh tế của một đất nước thống nhất. Cùng
với việc mở rộng quan hệ chính trị, tháng 10 – 1975, Nhật Bản đã viện trợ không
hoàn lại cho Việt Nam 8,5 tỉ Yên (thực chất là bồi thường chiến tranh lần hai)
để nhập vật tư hàng hóa, máy móc phụ vụ cho công cuộc xây dựng đất nước. Cho
đến trước khi xảy ra “vấn đề Capuchia” năm 1978, Nhật là nước tích cực viện trợ
cho Việt Nam và Việt Nam cũng là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên nhận viện trợ
từ Nhật Bản. Kim ngạch buôn bán giữa hai nước tăng nhanh chóng: năm 1975 là
27,5 tỉ Yên, năm 1976 tăng lên 64 tỉ Yên, 1977 là 65,9 tỉ Yên.
2. Nếu như
quan hệ chính phủ Nhật Bản – Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 bị mối quan hệ giữa
hai hệ thống đối lập nhau chi phối, thì mối quan hệ giữa các tổ chức phi chính
phủ, quan hệ nhân dân hai nước phát triển mạnh mẽ vì trong lịch sử đã có mối
quan hệ tốt đẹp.
Khi Nhật Bản
đầu hàng Đồng minh (15 – 08 – 1945 ), nhiều sĩ quan, binh lính quân đội Thiên
Hoàng choáng váng vì “lòng tin của họ vào số phận tổ quốc mình bị lung lay”[6]. Được chứng kiến cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, một số người cho rằng đã “tìm thấy con
đường sống lại lý tưởng của mình” và tham gia vào cuộc đấu tranh này. Có
“khoảng 400 sĩ quan và binh lính Nhật Bản đã tham gia vào Việt Minh[7]”. Họ được gọi là những “chiến sĩ Việt Nam
mới”. Nhiều người đã đóng góp xương máu và mồ hôi trong công cuộc kháng chiến
giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc từ sau 1954. Ghi nhận sự cống
hiến của các “chiến sĩ Việt Nam mới”, Đảng và chính phủ nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa đã trao tặng nhiều Huân chương Chiến thắng, Chiến sĩ, Huân chương lao
động và Bằng khen của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam[8].
Theo chủ
trương của Chính phủ hai nước, từ năm 1954 đến 1960, phần lớn các “chiến sĩ
Việt Nam” đã hồi hương về Nhật Bản. họ lại tích cực tham gia phong trào đấu
tranh ủng hộ nhân dân Việt Nam, làm nòng cốt trong tổ chức Hội hữu nghị Nhật –
Việt, như ông Takeshi Sugiharna – người đầu tiên sáng lập Hôi hữu nghị Nhật –
Việt OSAKA từ năm 1959, nay là Chủ tích Ban lãnh đạo Hội hữu nghị Nhật –Việt
Osaka.
Từ năm 1954,
các đảng phái đối lập và nhân dân tiến bộ Nhật Bản đã tích cực ủng hộ cuộc đấu
tranh vì hòa bình độc lập của nhân dân Việt Nam, kịch liệt phản đối chính phủ
Nhật đặt quan hệ ngoại giao và bồi thường riêng rẽ cho ngụy quyền miền Nam. Ủy
ban phản đối bồi thường, gồm 15 đoàn thể hợp thành cùng nhiều tổ chức, công ty
có quan hệ buôn bán với Việt Nam
dân chủ cộng hòa, đấu tranh đòi Quốc hội không được thông qua Hiệp định bồi
thường cho chính quyền Sài Gòn. Họ khẳng định đây là sự bất công, vì sự tàn phá
do chiến tranh đối với miền Nam không đáng kể (“bằng ba con gà thép” – Ni
Watorissanba) mà “nạn đói năm 1945 ở Việt Nam” và những hậu quả nặng nề mà nhân
dân miền Bắc phải gánh chịu trong thời gian 1940 – 1945 mới nặng nề to lớn. Tuy
Hiệp định được phê chuẩn, nhưng Ngoại trưởng Nhật Ôhira phải cam kết trước Quốc
hội là viện trợ của Nhật cho chính quyền Sìa Gòn “không mang tính chất quân sự”[9], chỉ là hàng hóa tiêu dùng và “công cụ sản
xuất”.
Khi đế quốc
Mỹ tăng cường can thiệp và mở rộng chiến tranh xâm lược Việt nam, phong trào
đấu tranh của nhân dân Nhật ủng hộ Việt Nam bùng lên mạnh mẽ. Nổi bật là
cuộc mít tinh ngày 9-6-1963, thu hút tới 3 triệu người trong cả nước tham gia.
Khi Mỹ tiến
hành chiến tranh bằng không quân ra miền Bắc (5-8-1964) và trực tiếp tham chiến
ở miền Nam thì phong trào
đấu tranh chống Mỹ, ủng hộ Việt Nam
nổi lên mạnh mẽ. Phong trào do Đảng Cộng sản, các lực lượng cánh tả và nhân dân
yêu chuộng hòa bình, tiến bộ ở Nhật tổ chức, diễn ra liên tục với những hình
thức và nội dung phong phú về tinh thần cũng như vật chất.
Trong thời
gian này, nhiều tổ chức quần chúng đã được thành lập để xúc tiến việc giao lưu
với Việt Nam [10].
Ngày 19 – 5 –
1965, Ủy ban Nhật Bản – Việt Nam
được thành lập. Cùng với Hội hữu nghị Nhật – Việt, Ủy ban là trung tâm
của phong trào ủng hộ Việt Nam .
Ngày 13 – 2-
1966, Ủy ban điều tra tội ác chiến tranh của Nhật Bản được thành lập và tổ chức
nhiều đợt sang Việt nam điều tra và phối hợp với các tổ chức quốc tế tố cáo tội
ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.
Các báo, như
“Akahata”, hãng truyền hình NDN của Nhật đã cử phóng viên thường trú sang Hà
Nội, đưa nhiều tin tức sốt dẻo, kịp thời về cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân
dân ta. Chỉ từ ngày 5 – 8 đến 2 – 9 – 1964, nhiều cuộc mít tinh, biểu tình được
tổ chức tại 14 tỉnh và 10 thành phố, riêng ở Tokyo có 29 cuộc. Ngày 31 – 5 –
1965, các tổ chức cách tả huy động lấy 40 triệu chữ ký, phản đối Mỹ tiến hành
chiến tranh ở Việt Nam. Từ năm 1965 đến 1968, có hơn 20 triệu lượt người tham
gia mít tinh chống Mỹ. Nhiều người như Kaneko, Oki, Matxuhara và Takahasi,
trong số nhiều năm đã luôn đeo trước người khẩu hiệu phản đối Mỹ xâm lược Việt
nam. Khi thủ tướng Sato lên đường sang thăm miền Nam Việt Nam (21 – 10 –
1967) thì “những cuộc biểu tình khổng lồ” đã xảy ra tại phi trường Haneda. Cuộc
biểu tình bị đàn áp, một số người chết, một số người bị thương[11]. Cụ Jui Chunoshin, 73 tuổi đã tự thiêu
trước dinh Thủ tướng Nhật Bản vào 17 giờ ngày 11 – 11 – 1967. Cụ đã để lại hai
bức thư phản đối gửi Thủ tướng Sato và tổng thống Mỹ Johnson. Trong bức thư gửi
L.B.Johnson, cụ viết: “Mặc dù tôi biết trước là ông chẳng bao giờ chịu lắng
nghe những tiếng nói nhỏ bé như tiếng nói của tôi, song giờ đây tôi không thể
không nhắc nhở lương tâm ông về những hành động ghê tởm, vô nhân đạo của ông ở
Việt Nam, về việc leo thang chiến tranh không chỉ ở miền Nam mà còn ở miền Bắc
Việt nam. Trước hết, tôi tuyên bố rằng tôi không phải là người cộng sản, để ông
khỏi cho rằng ý kiến của tôi là ý kiến cộng sản. Tôi nhấn mạnh điều đó, bởi vì
khuynh hướng người Mỹ gọi mọi người là “cộng sản” khi họ chống lại chính sách
của Mỹ hoặc thúc đẩy phong trào hòa bình...
Tôi cực lực
phản đối thái độ tiêu cực của Thủ tướng Nhật và đòi ông chấm dứt ngay và không
điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt Nam …
“Có thể có
người sẽ cười nhạo tôi về việc tự thiêu này, bởi vì tôi không phải là người Mỹ
cũng chẳng phải là người Việt nam mà là người của một nước thứ ba. Song tôi
chắc chắn rằng những ai mong muốn hòa bình thế giới và giải pháp nhanh chóng
cho vấn đề Việt nam, sẽ không coi cái chết của tôi là vô ích[12]…
Lịch sử đấu
tranh chống ngoại xâm, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân ta, Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh là những chủ đề nổi bật
và được các nhà trí thức tiến bộ Nhật Bản, nhất là các nhà sử học Nhật Bản đã
tập trung nghiên cứu và công bố nhiều công trình có giá trị. Công lao đó thuộc
về các nhà nghiên cứu lão thành như GS. Yamato Tatsuro, Kawamato Kunie.
Giáo sư Kunie
đã xuất bản hàng chục công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam và nhà yêu nước Phan Bội Châu.
Với tấm lòng kính mến đối với chủ tịch Hồ Chí minh, sau hai đợt sang thăm Việt Nam (1970 và
1976). Giáo sư Kunie đã viết nhiều bài giới thiệu về Người. Giáo sư Yamato
Tatsuro và Kawamato Kunie là những người đã góp phần đào tạo nhiều nhà Việt Nam
học của Nhật Bản.
Nhiều tác
phẩm viết về Chut tịch Hồ chí minh của Naxaka Xanđo (Chủ tịch Đảng cộng sản
Nhật Bản) đã được xuất bản. Các nhà khoa học đã tổ chức thành “Hội nghiên cứu
Hồ Chí Minh” và “Ban nghiên cứu Đảng lao động Việt Nam” (Thuộc Hội hữu nghị
Nhật – Việt và Đảng Cộng sản Nhật). Thế hệ Việt Nam
học thứ ba ở Nhật cũng được hình thành còn được gọi là “thế hệ chiến tranh Việt
Nam ”.
Ngày nay, nhiều đã trở thành những nhà Việt Nam học xuất sắc ở Nhật như Sakurai
Yumio, Masaya Shiraisi, Furuta Moto...Họ là giáo sư các trường đại học lớn của
Nhật Bản như Đại học Quốc gia Tookyo, Kyoto, Yakohama...
Không chỉ
dừng lại ở việc ủng hộ về chính trị, tinh thần, mà nhân dân nhật bản còn tổ
chức nhiều phong trào quyên góp ủng hộ nhân dân Việt Nam về vật chất. Nhiều đợt hoạt
động quyên góp như: “Tháng ủng hộ bà mẹ, trẻ em Việt Nam” để xây dựng bện viện
Nguyễn Văn Trỗi; phong trào quyên góp 100 triệu – 200 triệu yên ủng hộ nhân dân
Việt Nam để mua thuốc men và dụng cụ y tế...Từ năm 1966 đến 1975, nhân dân Nhật
Bản được khoảng 700 triệu yên[13] để mua hàng hóa và tổ chức 11 chuyến tàu
chở sang Việt Nam. Nhật Bản là nước có phong trào đấu tranh và ủng hộ nhân dân
Việt Nam
đấu tranh chống Mỹ (về vật chất và tinh thần) cao nhất trong các nước tư bản.
Nhìn chung,
từ năm 1954 – 1975, do bối cảnh quốc tế và điều kiện lịch sử mỗi nước mà quan
hệ Nhật Bản và Việt Nam đã diễn ra rất tế nhị, phức tạp. Do hai nước thuộc về
hai hệ thống chính trị đối lập nhau nên quan hệ Nhật – Việt trong thời kì này
“mang tính chất quan hệ hai nước bốn bên[14]”. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam ,
nhật bị lệ thuộc vào Mỹ nên đặt quan hệ và bồi thường riêng rẽ cho chính quyền
Sài Gòn. Tuy “tuân theo Mỹ”, nhưng chính quyền Nhật Bản cố gắng tránh dính líu
trực tiếp vào cuộc chiến tranh Việt Nam, và trên thực tế nhật Bản chỉ “ủng hộ
Mỹ về chính trị, chia sẻ gánh nặng về kinh tế, giúp đỡ Mỹ tích cực về hậu cần,
nhưng kiên quyết tránh dính líu với Mỹ về quân sự và chỉ lợi dụng về cuộc chiến
tranh này để kiếm lợi[15]”.
Quan hệ chính
thức hai nước tuy phát triển chậm, nhưng mối quan hệ giữa nhân dân Nhật Bản và
Việt Nam
phát triển mạnh mẽ. Phong trào nhân dân Nhật Bản ủng hộ, đoàn kết với Việt Nam
chống Mỹ đã diễn ra liên tục, kịp thời với nhiều hình thức đấu tranh phong phú
và đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Nó là nhịp cầu hữu nghị
nối tiếp quan hệ truyền thống tốt đẹp và làm cơ sở vững chắc cho quan hệ giữa
hai nước Nhât Bản – Việt Nam
ngày nay bước vào tầm cao mới.
TS.
Trịnh Tiến Thuận
Khoa
Lịch sử, Trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh
[1] Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Lịch sử Nhật Bản, Nxb Văn hóa –
Thông tin, Hà Nội, 1995, tr.236 – 242.
[2] Athur M.Vhitehill, Quản lý Nhật Bản truyền thống và quá
độ, Trung Tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Hà Nội, 1996, tr.48.
[5] Vũ Hà, Những xu hướng mới trong quan hệ Nhật Bản – Việt
nam, Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản, số 2 – 1995, tr.12.
[6] Furuta Moto, Oka Kazuaki, Từ binh lính quân đội Thiêng
Hoàng đến chiến sĩ Việt Minh – Vài nét về nhừng người Nhật Bản tham gia Việt
Minh, trong quyển “Cách mạng tháng Tám một số vấn đề lịch sử” (Văn Tạo – Chủ
biên), Nxb Khoa học Xã hội, H, 1995, tr.314 – 315.
[10] Hoàng Nhật, 30 năm Hội
hữu nghị Việt Nam – Nhật Bản, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản, số 4 – 1995, tr.12.
Võ Minh Tập
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét