. Tóm tắt lịch sử ngành Ngoại giao Việt Nam
1. Khái quát lịch sử ngoại giao Việt Nam
Việt Nam có hàng nghìn năm lịch sử với một nền ngoại
giao tinh tế và hiển hách, trừ một nghìn năm Bắc thuộc, trải qua các triều đại
khác nhau từ Vua Hùng, An Dương Vương, Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn
và thời đại Hồ Chí Minh. Nền ngoại giao mới Việt Nam
ra đời cùng với việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2/9/1945, do
Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, nay là nước CHXHCN Việt Nam . Lịch sử
ngoại giao Việt Nam
trong thời đại Hồ Chí Minh có thể chia làm 5 giai đoạn chính.
- Giai đoạn
1945-1946: Đây là thời kỳ cực kỳ khó khăn của của đất nước nói chung và ngoại
giao Việt Nam
nói riêng. Nhà nước độc lập non trẻ đứng trước vô vàn thử thách (chính quyền
vừa ra đời, kinh tế đình đốn, ngân sách trống rỗng, chưa được nước nào công
nhận, thiên tai liên miên, đặc biệt là 30 vạn thù trong, ngoài ra còn có giặc
ngoài). Có thể nói nước ta trong hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ
Chí Minh, ngoại giao Việt Nam đã thực hiện những sách lược hết sức đúng đắn,
khôn khéo vừa kiên quyết vừa linh hoạt: lúc hoà với Tưởng, tập trung sức chống
Pháp xâm lược ở miền Nam, rồi hoà với Pháp với việc ký kết Hiệp định sơ bộ ngày
6 tháng Ba 1946 để đuổi Tưởng về nước, góp phần giữ vững Nhà nước độc lập non
trẻ.
- Giai đoạn 1946-1954: Ngoại giao phục vụ
cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Ngoại giao đã phối hợp
với chiến trường, đấu tranh chính trị chủ động triển khai hoạt động quốc tế,
tranh thủ đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới, đặc biệt là hình thành liên
minh chiến đấu với Lào, Campuchia chống kẻ thù chung; xây dựng quan hệ với Thái
Lan, Miến Điện, Indonesia, Ấn Độ…Tranh thủ thuận lợi do thắng lợi của chiến
dịch biên giới đưa lại, ngoại giao đã thành công thúc đẩy thế giới công nhận và
thiết lập quan hệ ngoại với Việt nam. Đầu năm 1950, lần đầu tiên chúng ta đã
thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Trung Quốc, Liên Xô, các nước dân
chủ nhân dân ở châu Á, Đông Âu. Các nước xã hội chủ nghĩa đã trở thành chỗ dựa
quan trọng cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Phối hợp với mặt trận quân
sự, Việt nam đã tham gia Hội nghị Genève 1954 về Đông Dương, buộc các nước lớn
công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, nhân dân Đông Dương,
giải phóng được miền Bắc, đưa cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới.- Giai đoạn 1954-1975: Ngoại giao phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược: Kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Ngoại giao đã trở thành mặt trận, đánh vào hậu phương quốc tế của Mỹ, mở rộng hậu phương quốc tế của Việt Nam, hình thành Mặt trận nhân dân thế giới rộng lớn, mà nòng cốt là Liên Xô, Trung Quốc, các nước Xã hội chủ nghĩa, các nước Đông dương ủng hộ Việt Nam chống Mỹ cứu nước. Đồng thời, ngoại giao đã phối hợp với chiến trường, đấu tranh chính trị, tiến hành đàm phán và ký kết Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình ở Việt Nam (27/1/1973). Hiệp định Paris là thắng lợi to lớn của ngoại giao Việt Nam, đã buộc Mỹ và các nước liên quan rủt quân khỏi Việt Nam, chấm dứt hoạt động chiến tranh, tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam. Đó là điều kiện vô cùng thuận lợi dẫn đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền
- Giai đoạn
1975-1986: Đây là thời kỳ ngoại giao phục vụ khôi phục và phát triển kinh tế
sau chiến tranh và bảo vệ Tổ quốc. Những năm đầu sau chiến tranh, Việt Nam đã
thiết lập quan hệ ngoại giao với hàng chục nước, nhất là các nước tư bản chủ
nghĩa, tranh thủ được sự giúp đỡ về vật chất của nhiều quốc gia, các tổ chức
quốc tế nhằm khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Việt Nam gia nhập
Liên Hợp Quốc (9/1977), tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế (6/1978), ký Hiệp
ước hữu nghị và Hợp tác với Liên Xô (11/1978). Tuy nhiên, thời kỳ hoà bình xây
dựng đất nước không dài, Việt Nam đã buộc phải đưa quân vào Campuchia, giúp
nhân dân Campuchia đập tan chế độ diệt chủng và bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc
gia. Khôi phục lại tình đoàn kết chiến đấu giữa ba nước Đông Dương. Đó là
nguyên nhân trực tiếp (cái cớ) dẫn đến chiến tranh biên giới với Trung Quốc
(2/1979) và việc Trung Quốc, các nước phương Tây, ASEAN bao vây, cô lập, cấm
vận Việt Nam.
Giai đoạn 1986 đến
nay: Với Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI (12/1986), Việt Nam đã khởi
đầu công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có đường lối, chính sách đối
ngoại và hoạt động ngoại giao. Lợi ích cao nhất của dân tộc Việt Nam trong
giai đoạn này là "giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh
tế-xã hội". Đó cũng là mục tiêu bao trùm của chính sách đối ngoại Việt Nam .
Nghị quyết 13 của Bộ chính trị (5/19988) đã tạo ra bước ngoặt trong đường lối
chính sách đố ngoại Việt Nam .
Các Đại hội tiếp theo từ Đại hội VII(1991), Đại hội VIII (1996), Đại hội IX
(2001) đến Đại hội X (2006) đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới đã
từng bước đước bổ sung, hoàn chỉnh. Đó là đưòng lối đối ngoại "độc lập tự
chủ, hoà bình , hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương
hoá và đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là
bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực
vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực" ( Văn kiện Đại hội X). Việc
thực hiện đường lối chính sách đối ngoại trên đã và đang gặt hái được những
thành công quan trọng có ý nghĩa lịch sử. Với việc rút hoàn toàn quân đội khỏi
Cămpuchia, vấn đề Campuchía được giải quyết, Việt Nam đã phá được bao vây, cấm
vận và không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa dạng hoá và đa phương
hoá; bình thường hoá và từng bước xác lập khuôn khổ quan hệ ổn định lâu dài với
tất cả các nước lớn, các nước công nghiệp phát triển (cho đến nay Việt Nam có
quan hệ ngoại giao với 172 nước, trong đó có tất cả các nước lớn, có quan hệ
kinh tế với hơn 220 thị trường nước ngoài và là thành viên của nhiều tổ chúc và
diến đàn quốc tế như Liên hợp quốc (1977), Phong trào Không liên kết (1976), Tổ
chức Pháp ngữ (1986), ASEAN (1995). Diễn đàn hợp tác Á-Âu ASEM (1996), Diền đàn
hợp tác kinh tế khu vực châu Á- Thái Bình Dương APEC ,1998...); giải quyết ổn
thoả nhiều tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, giữ vững môi trường hoà
bình; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tranh thủ nhiều ODA, FDI,
mở rộng thị trường ngoài nước; tăng cường ngoại giao đa phương. Các sự kiện lớn
của ngoại giao Việt Nam trong những năm gần đây là : Việt Nam đã tổ chức thành
công Hội nghị cấp cao VII tổ chức Pháp ngữ 1997), Hội nghị cấp cao ASEAN VII
(1998), Hội nghị cấp cao Diễn đàn Hợp tác Á-ÂU V ( 2004), Hội nghị thượng đỉnh
APEC 14 (2006) … Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thưong Thế
giới WTO (11/2006) , Hoa Kỳ dành cho Việt Nam quy chế thương mại bình thường
vĩnh viễn (11/2006).
Nguyên nhân cơ bản của những thành tựu đối ngoại là Việt Nam có đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. ViệtNam
là bạn và đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích
cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
Sự nghiệp đổi mới đang tiếp diễn. Mục tiêu của Việt Nam đến năm 2020 là cơ bản trở thành nước công nghiệp, hiện đại, là dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nguyên nhân cơ bản của những thành tựu đối ngoại là Việt Nam có đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Việt
Sự nghiệp đổi mới đang tiếp diễn. Mục tiêu của Việt Nam đến năm 2020 là cơ bản trở thành nước công nghiệp, hiện đại, là dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Đặc điểm nổi bật của chính sách đối ngoại, ngoại
giao Việt Nam
Chính sách đối
ngoại và ngoại giao Việt Nam
trong thời đại Hồ Chí Minh có những đặc điểm chính sau đây:
- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cách mạng Việt
Tư tưởng độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội chỉ đạo nhận thức và hành động trong triển khai đường lối, chính sách đối ngoại, ngoại giao của Việt
- Độc lập tự chủ, tự lực tự cường; đồng thời tăng cường đoàn kết quốc tế và mở rộng hợp tác quốc tế.
Độc lập tự chủ thể hiện trong nhận thức, trong quyết sách và thực hiện đường lối, chính sách. Độc lập tự chủ, đảm bảo lợi ích chính đáng của dân tộc là nguyên tắc và nhiện vụ hàng đầu của ngoại giao Việt
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường, không có nghĩa là biệt lập với bên ngoài; ngược lại trên cơ sở độc lập tự chủ, cần phải mở rộng đoàn kết, hợp tác quốc tế, xử lý đúng đắn các vấn đề liên quan giữa dân tộc và thời đại, giữa Việt Nam và thế giới. Trong hoạt động đối ngoại chú ý vấn đề tập hợp lực lượng quốc tế, tạo thêm thế và lực. Mặt khác thành tựu đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Việt
- Kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại.
Cách mạng tháng Mười Nga mở thời ra đại mới- thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh là người Việt
- Xây dựng, phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu dài với các nước láng giềng; quan tâm xử lý đúng đắn quan hệ với các nước lớn.
Việt
Các nước lớn có vai trò, vị trí quan trọng trong quan hệ quốc tế. Cho nên quan hệ với nước lớn cũng là ưu đối ngoại của Việt
- Coi trọng phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hoá ở các cấp, ở trung ương và địa phương.
Có kết hợp mới tạo sức mạnh tổng hợp. Đó là quy luật của đấu tranh dựng nước và giữ nước của Việt
- Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, kim chỉ nam cho hoạt động đối ngoại của Việt
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao là hệ thống những nguyên lý, quan điểm, quan niệm về các vấn đề thế giới, thời đại, về đường lối quốc tế, chiến lược, sách lược, chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ hiện đại. Tư tưởng này còn thể hiện trong hoạt động đối ngoại thực tiễn của Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước Việt
Nội dung cơ bản tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh: các quyền dân tộc cơ bản; độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; độc lập tự chủ, tự lực tự cường gắn liền với đoàn kết quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại; hòa bình, chống chiến tranh; hữu nghị, hợp tác với láng giềng; coi trong quan hệ với các nước lớn; ngoại giao là một mặt trận. Ngoài tư tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn để lại phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao. Đó là phương pháp: dự báo và nắm bắt thời cơ; ngoại giao tâm công; dĩ bất biến, ứng vạn biến. Phong cách ngoại giao: tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo; phong cách ứng xử linh hoạt; phong cách nói giản dị, dễ cảm hoá và thuyết phục; phong cách viết ngắn gọn, hàm súc, dễ hiểu. Nghệ thuật: vận dụng nhuần nhuyễn năm cái biết ( Biết mình; biết người; biết thời, biết thế; biết dừng và biết biến); nhân nhượng có nguyên tắc; lợi dụng mâu thuẫn đối phương.
3. Vài nét lịch sử Bộ Ngoại giao
Giai đoạn
1945-1946: Bộ Ngoại giao thành lập ngày 28/8/1945 (Ngày công bố danh sách Chúnh
phủ lâm thời). Do tầm quan trọng của công tác ngoại giao, nên Chủ tịch Hồ Chí
Minh kiêm luôn Bộ trưởng Ngoại giao. Ngày 02/3/1946 khi thành lập Chính phủ
Liên hiệp kháng chiến, Bộ Ngoại giao do Nguyễn Tường Tam, người của Việt cách
nắm giữ. Nguyễn Tường Tam được cử làm Trưởng Đoàn, song ngày 30/5/1946, một
ngày trước khi đoàn Đàm phàn lên đường sang Paris dự Hội nghị Phôngtenơblô, ông
ta đã bỏ trốn sang Trung Quốc theo quân Tưởng. Ngày 03/11/1946 Quốc Hội phê
chuẩn lại Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại một lần nữa
kiêm chức Bộ trưỏng Ngoại giao cho đến tháng 3/1947. Từ tháng 3/1946 đến tháng
8/1954, Bộ trưởng Ngoại giao là ông Hoàng Minh Giám.
Ngày 7/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 47 về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Bộ Ngoại giao. Theo sắc lệnh này , Bộ ngoại giao chia làm Nội bộ và Ngoại bộ. Ngoại bộ gồm Sứ bộ và Lãnh sự bộ. Nôi bộ gồm Văn phòng, vói ba phòng: Bí thư-Cơ mật; Thông tin và Phát ngôn; Đổng lý sự vụ (Công văn, nhân viên vật liệu và kế toán, Nghi lễ, khánh tiết, Tuyên truyền, Báo chí, Thông dịch, luật pháp, hành chính và kiều dân, Chính trị và Kinh tế).
Khi Chủ Tich Hồ Chí Minh kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, bộ máy gọn nhẹ đặt ngay trong Phủ Chủ tịch sau đó Trụ sở Bộ chuyển đến 43 Lý Thái Tổ, rồi năm 1946 chuyển đến 23 phố Hàng Tre ( Nguyên là Trụ sở Tổng thanh tra Công chính Pháp). Biên chế lúc đầu khoảng 20 cán bộ, phần lớn là trí thức cách mạng, biết ngoại ngữ như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc , tiếng Nhật. Do bộ máy nhỏ nên trong giai đoạn này các hoạt động ngoại giao có sự tham gia của hầu hết nhân vật cao cấp biết ngoại ngữ của cơ quan Đảng và Chính phủ hay các nhân sĩ tiêu biểu lúc bấy giờ.
Tổng thư ký Bộ ngoại giao (tương đương thứ trưởng) điều hành hoạt động của Văn phòng Bộ, kiêm công tác tuyên truyền báo chí.
Ban Tham nghị hay Ban tham biện là Bộ phận giúp việc quan trọng nhất phụ trách quan hệ với các đối tượng chủ yếu (Mỹ, Pháp, Tưởng và Nhật).
Sau Hội nghị Phôngtennơblô tháng 9/1946, Chính phủ lập Cơ quan đại diện không chính thức tạiParis
gồm 3 người do ông Hoàng Minh Giám đứng đầu. Cuối 1947 thì rút. Tháng 8/1946
Chính phủ cử ông Nguyễn Đức Quỳ đến BăngKok lập cơ quan đại diện, được hưởng
quy chế ngoại giao và tháng 6/1951 Chính phủ Thái Lan công nhận chính phủ Bảo
Đại, ta rút cơ quan .
Giai đoạn 1947-1954: Sau ngày Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Bộ Ngoại giao chuyển lên an toàn khu (ATK) ỏ Việt Bắc. Lục đầu đóng tại nhà dân xã Kim Quan Thượng, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, sau đó chuyển về xã Minh Khai (nay là xã Minh Thanh), huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Lúc này Bộ có 7 cán bộ. Trong chiến dịch thu đông 1950-1951, do địch đánh phá mạnh ATK nên Bộ chuyển về xã Đông Lý, huyện Yên Bình, Yên Bái, sau lại chuyển về xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hoá, Tuyên Quang. Từ đầu năm 1951 chuyển về Đồng Chùa, xóm Dõn, xã Minh Khai, Sơn Dương. Bộ đóng tại khu nhà riêng. Nơi đây đã đươc xây dưng lại thành Khu di tích Bộ Ngoại giao, khánh thành ngày 25/8/2000. Từ tháng 7/1954, Bộ chuyến về huyện Đại Từ (Thái Nguyên) và tháng 10/1954, chuyển về Hà Nội. Bộ đã tổ chưc cuộc găp của Bộ trưởng Hoàng Minh Giám với lãnh sự Anh ở cầu Đuồng (5/1947), cuộc gặp của Bác Hồ với Paul Mus, đại diện cao Uỷ Pháp ở Thái Nguyên (12/5//1947).
Sau chiến dịch biên giới, mở thông đường sang Trung Quốc, Liên Xô, công tác ngoại giao phảt triển. Lúc này, biên chế của Bộ khoảng 50 người. Và có thêm nhiều hoạt động thu thập tin tức phụ vụ đối ngoại hướng dẫn tuyên truyền đối ngoại cho cơ quan ở nuóc ngoài, dự thảo công hàm trao đổi, biên soạn tài liệu giới thiệu các nước có quan hệ ngoại giao cho các địa phương, cử đoàn ra nước ngoài dự hội nghị. Bộ đã tổ chức vài lớp bồi dưỡng chính trị, ngoại ngữ và đầu 1950 lần đầu tiên Bộ cử cán bộ đi đào tạo ở Trung Quốc.
Về tổ chức Đảng, trước 1950 sinh hoạt đảng chung với Văn phòng Chủ tịch nước. Chi bộ đầu tiên thành lập năm 1950 có 20 đảng viên.
Năm 1950 lập Đoàn đại biểu VNDCCH ở Trung Quôc, sau đổi thành Đại sứ quán. Năm 1952 lập Đại sứ quán ở Liên Xô. Cuối năm 1953 đầu năm 1954 lập Biện sự sứ Côn Minh, Nam Ninh và Quảng Châu Trung Quốc.
Giai đoạn 1954-1964: sau hoà bình lập lại, Bộ Ngoại giao mới thực sự tiến hành công tác tổ chức, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Nhiệm vụ của Bộ mở rộng, nhằm tranh thủ điều kiện quốc tế thận lợi cho việc khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà, góp phần năng cao vị thế của Việt nam. Từ năm 1954 đến 1964, chúng ta thiết lập quan hệ với 12 nước ở châu Á, châu Phi và lập thêm 12 đại sứ quán, 5 Tổng lãnh sự quán, 2 cơ quan đại diện chính phủ. Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam ViệtNam mở Văn phòng thông tin-liên lạc
ở nhiều nước. Chức năng, nhiệm vụ cơ cấu tổ chức được chính quy hoá bằng Nghị
định 157/CP ngày 9/10/1961. Nghị định khảng định Bộ Ngoại giao phụ trách công
tác ngoại giao của nhà nước, quản lý thống nhất công tác đói ngoại, nghiên cứ
trình chính phủ chủ trương chính sách đối ngoại, quản lý cơ quan đại diện ở
nước ngoài, bảo vệ quyền lợi Việt kiều, quản lý phóng viên báo chí nước
ngoài..Biên chế từ 100 người; năm 1954 lên 603 người; năm 1957 hình thành các
đơn vị mới: Vụ Tổng hợp, các vụ khu vực (Liên Xô-Đông Âu,Tây Âu, Châu Mỹ, Tây
Á-Phi châu, Châu Á I, châu Á II, Vụ Miền Nam. Các vụ nghiệp vụ như Lễ tân. Lãnh
sự , các vụ quản lý nội bộ. Từ tháng 9/1954 đến tháng 4/1961, Phó Thủ tướng,
rồi Thủ tướng Phạm Văn Đồng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao. Từ tháng 4/1961 đến tháng
7/1963 Bộ trưởng Ngoại giao là ông Ung Văn Khiêm và từ tháng 7/1963 đến tháng
5/1965 Bộ trưởng Ngoại giao là ông Xuân Thuỷ.
Giai đoạn 1965-1973: Ngoại giao thực sự đã trở thành một mặt trận có ý nghĩa chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhiệm vụ trọng tâm của ngoại giao trong thời gian này là tạo chuyển biến mạnh mẽ về mọi mặt, trước hết phải tăng cường hai khâu quan trọng là nâng cao hơn nữa lập trường chính trị tư tưởng và tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước một cách chủ động và sáng tạo.
Ngày 7/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 47 về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Bộ Ngoại giao. Theo sắc lệnh này , Bộ ngoại giao chia làm Nội bộ và Ngoại bộ. Ngoại bộ gồm Sứ bộ và Lãnh sự bộ. Nôi bộ gồm Văn phòng, vói ba phòng: Bí thư-Cơ mật; Thông tin và Phát ngôn; Đổng lý sự vụ (Công văn, nhân viên vật liệu và kế toán, Nghi lễ, khánh tiết, Tuyên truyền, Báo chí, Thông dịch, luật pháp, hành chính và kiều dân, Chính trị và Kinh tế).
Khi Chủ Tich Hồ Chí Minh kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, bộ máy gọn nhẹ đặt ngay trong Phủ Chủ tịch sau đó Trụ sở Bộ chuyển đến 43 Lý Thái Tổ, rồi năm 1946 chuyển đến 23 phố Hàng Tre ( Nguyên là Trụ sở Tổng thanh tra Công chính Pháp). Biên chế lúc đầu khoảng 20 cán bộ, phần lớn là trí thức cách mạng, biết ngoại ngữ như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc , tiếng Nhật. Do bộ máy nhỏ nên trong giai đoạn này các hoạt động ngoại giao có sự tham gia của hầu hết nhân vật cao cấp biết ngoại ngữ của cơ quan Đảng và Chính phủ hay các nhân sĩ tiêu biểu lúc bấy giờ.
Tổng thư ký Bộ ngoại giao (tương đương thứ trưởng) điều hành hoạt động của Văn phòng Bộ, kiêm công tác tuyên truyền báo chí.
Ban Tham nghị hay Ban tham biện là Bộ phận giúp việc quan trọng nhất phụ trách quan hệ với các đối tượng chủ yếu (Mỹ, Pháp, Tưởng và Nhật).
Sau Hội nghị Phôngtennơblô tháng 9/1946, Chính phủ lập Cơ quan đại diện không chính thức tại
Giai đoạn 1947-1954: Sau ngày Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Bộ Ngoại giao chuyển lên an toàn khu (ATK) ỏ Việt Bắc. Lục đầu đóng tại nhà dân xã Kim Quan Thượng, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, sau đó chuyển về xã Minh Khai (nay là xã Minh Thanh), huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Lúc này Bộ có 7 cán bộ. Trong chiến dịch thu đông 1950-1951, do địch đánh phá mạnh ATK nên Bộ chuyển về xã Đông Lý, huyện Yên Bình, Yên Bái, sau lại chuyển về xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hoá, Tuyên Quang. Từ đầu năm 1951 chuyển về Đồng Chùa, xóm Dõn, xã Minh Khai, Sơn Dương. Bộ đóng tại khu nhà riêng. Nơi đây đã đươc xây dưng lại thành Khu di tích Bộ Ngoại giao, khánh thành ngày 25/8/2000. Từ tháng 7/1954, Bộ chuyến về huyện Đại Từ (Thái Nguyên) và tháng 10/1954, chuyển về Hà Nội. Bộ đã tổ chưc cuộc găp của Bộ trưởng Hoàng Minh Giám với lãnh sự Anh ở cầu Đuồng (5/1947), cuộc gặp của Bác Hồ với Paul Mus, đại diện cao Uỷ Pháp ở Thái Nguyên (12/5//1947).
Sau chiến dịch biên giới, mở thông đường sang Trung Quốc, Liên Xô, công tác ngoại giao phảt triển. Lúc này, biên chế của Bộ khoảng 50 người. Và có thêm nhiều hoạt động thu thập tin tức phụ vụ đối ngoại hướng dẫn tuyên truyền đối ngoại cho cơ quan ở nuóc ngoài, dự thảo công hàm trao đổi, biên soạn tài liệu giới thiệu các nước có quan hệ ngoại giao cho các địa phương, cử đoàn ra nước ngoài dự hội nghị. Bộ đã tổ chức vài lớp bồi dưỡng chính trị, ngoại ngữ và đầu 1950 lần đầu tiên Bộ cử cán bộ đi đào tạo ở Trung Quốc.
Về tổ chức Đảng, trước 1950 sinh hoạt đảng chung với Văn phòng Chủ tịch nước. Chi bộ đầu tiên thành lập năm 1950 có 20 đảng viên.
Năm 1950 lập Đoàn đại biểu VNDCCH ở Trung Quôc, sau đổi thành Đại sứ quán. Năm 1952 lập Đại sứ quán ở Liên Xô. Cuối năm 1953 đầu năm 1954 lập Biện sự sứ Côn Minh, Nam Ninh và Quảng Châu Trung Quốc.
Giai đoạn 1954-1964: sau hoà bình lập lại, Bộ Ngoại giao mới thực sự tiến hành công tác tổ chức, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Nhiệm vụ của Bộ mở rộng, nhằm tranh thủ điều kiện quốc tế thận lợi cho việc khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà, góp phần năng cao vị thế của Việt nam. Từ năm 1954 đến 1964, chúng ta thiết lập quan hệ với 12 nước ở châu Á, châu Phi và lập thêm 12 đại sứ quán, 5 Tổng lãnh sự quán, 2 cơ quan đại diện chính phủ. Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt
Giai đoạn 1965-1973: Ngoại giao thực sự đã trở thành một mặt trận có ý nghĩa chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhiệm vụ trọng tâm của ngoại giao trong thời gian này là tạo chuyển biến mạnh mẽ về mọi mặt, trước hết phải tăng cường hai khâu quan trọng là nâng cao hơn nữa lập trường chính trị tư tưởng và tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước một cách chủ động và sáng tạo.
Về tổ chức, Bộ đã
lập một số cơ cấu mới, như Tiểu ban Việt Nam, Vụ Nghiên cứu và Tư liệu, Vụ Bắc
Mỹ; lập mới và nâng cấp một số cơ quan đại diện ở Cộng hoà Ả Rập Thống nhất, ở
Công gô (B), ở Tanzania, Ghana và bổ sung một số cán bộ mới do trường Ngoại
giao đào tạo.
Từ tháng 5/1965
đến tháng 1/1980, Bộ trưởng Ngoại giao là ông Nguyễn Duy Trinh. Từ tháng
6/1969, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam
Việt Nam
là bà Nguyễn Thị Bình.
Công tác đào tạo cán
bộ ngoại giao giai đoạn này rất được Lãnh đạo Bộ quan tâm. Từ năm 1965 đến
1975, Trường Đại học ngoại giao đã đào tạo được 3 khoá dài hạn hệ 5 năm, có 153
người tốt nghiệp và 2 khoá đào tạo ngắn hạn hệ 3 năm, có 83 người tốt nghiệp.
Bộ còn chú trọng mở các lớp bồi dưỡng tại chức, bổ túc, nâng cao trình độ cho
cán bộ đương chức... để phục vụ nhu cầu công tác ngày càng cao và phức tạp hơn
của Bộ. Đặc biệt trong giai đoạn này, Bộ đã cử thêm nhiều cán bộ ra nước ngoài
học tập, nghiên cứu, nâng cao trình độ chuyên môn.
Tính đến tháng
6/1970, bộ máy Bộ Ngoại giao đã phát triển tương đối hoàn chỉnh, đảm bảo hoàn
thành những nhiệm vụ chính. Khoảng thời gian này, Bộ Ngoại giao VNDCCH đã có 20
đơn vị trong nước, bao gồm đủ các vụ khu vực và nghiệp vụ chuyên môn cần thiết
và 30 đơn vị ngoài nước gồm các cơ quan đại diện, như Đại sứ quán, Tổng lãnh sự
quán và các cơ quan đại diện khác. Tổng số cán bộ, nhân viên trong ngành khoảng
1200 người, trong đó cán bộ sơ cấp (cán sự 3 – 5) chiếm 53% có trình độ tốt
nghiệp đại học.
Bộ Ngoại giao
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam có 12 đơn vị trong
nước, trong đó có 6 vụ làm công tác đối ngoại và 32 đơn vị ở ngoài nước gồm 25
Đại sứ quán, 5 Phòng thông tin, 1 Đoàn đại diện ở Paris và 1 đoàn B với tổng số
cán bộ, nhân viên tính đến đầu năm 1973 là 519 người.
Giai đoạn 1973-
1975: Sau ngày Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt
Nam được ký kết, công tác xây dựng ngành Ngoại giao đã chuyển dần từ thời chiến
sang thời bình. Bộ máy hai Bộ Ngoại giao hai miền chuẩn bị cho quá trình hợp
nhất dưới sự chỉ đạo chung của Bộ Chính trị.
Trong giai đoạn
này, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và kiện toàn tổ chức bộ máy được triển
khai theo hướng tinh gọn, hợp lý và có hiệu quả. Bộ đã xây dựng được một số
tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ công tác trong ngành Ngoại giao; đề ra những
nội dung đổi mới trong chức năng, nhiệm vụ của người đứng đầu cơ quan đại diện
ta ở nước ngoài.
Về tổ chức và bộ
máy trong nước, đến tháng 6/1975, Bộ Ngoại giao VNDCCH có 1731 cán bộ, nhân
viên, 28 đơn vị trong nước và 30 đơn vị ngoài nước. Bộ Ngoại giao CHMNVN có 632
cán bộ, nhân viên với 12 đơn vị trong nước và 28 cơ quan đại diện ngoại giao ở
nước ngoài.
Từ năm 1954 đến
năm 1975, ngành đã tiến hành 11 Hội nghị ngoại giao. Đây là những hoạt động
định kỳ hết sức quan trọng trong công tác xây dựng ngành về mặt tổ chức bộ máy
cũng như công tác nghiệp vụ chuyên môn, đóng góp một phần rất quan trọng vào
thành tích chung của Bộ Ngoại giao.
Giai đoạn 1976 –
1986: Ngày 25/6/1976, Quốc hội tuyên bố Việt Nam
thống nhất về mặt Nhà nước, lấy tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam . Đó là cơ
sở pháp lý cho việc hợp nhất 2 Bộ Ngoại giao hai miền thành Bộ Ngoại giao nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam .
Từ năm 1986 đến
năm 1980, nước ta đã mở thêm một số cơ quan đại diện, quan trọng nhất là cơ
quan đại diện tại Liên hợp quốc, Nhật Bản, Cộng hoà liên bang Đức, Canađa, Thái
Lan, Malaixia, Philippin... và rút bớt một số cơ quan đại diện ở châu Phi. Tính
đến năm 1986, nước ta có 51 cơ quan đại diện ở nước ngoài.
Ở trong nước, Bộ
Ngoại giao được thành lập một số đơn vị mới: Vụ Bắc Mỹ, Vụ Châu Á4, Trung tâm
báo chí. Cơ quan Ngoại vụ ở thành phố Hồ Chí Minh và một số nơi khác cũng được
củng cố và tăng cường.
Đầu năm 1976, ta
tổ chức Hội nghị ngoại giao lần thứ XII và tháng Năm năm sau, tổ chức Hội nghị
ngoại giao lần thứ XIII. Đây là những Hội nghị ngoại giao đặc biệt quan trọng
đối với công tác xây dựng ngành, nhất là Hội nghị XIII đã nêu rõ về quy hoạch
và tiêu chuẩn cán bộ, đề ra chủ trương và biện pháp sắp xếp lực lượng và bố trí
cán bộ, cải tiến tổ chức, xây dựng các chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
theo những nội dung mới mang tính lý luận và thực tiễn cao. Sau Hội nghị này,
để tham mưu cho Lãnh đạo Bộ trong công tác xây dựng ngành, Bộ thành lập Vụ Tổng
hợp nội bộ.
Xác định bồi dưỡng cán bộ cấp vụ, đào tạo lớp cán bộ kế thừa là công tác cấp bách nhất, giữa năm 1978, Lãnh đạo Bộ mở lớp tập sự cấp vụ đầu tiên. Sau một thời gian nghiên cứu, Bộ ban hành Quy chế tập sự cấp Vụ và mở các lớp tiếp theo.
Xác định bồi dưỡng cán bộ cấp vụ, đào tạo lớp cán bộ kế thừa là công tác cấp bách nhất, giữa năm 1978, Lãnh đạo Bộ mở lớp tập sự cấp vụ đầu tiên. Sau một thời gian nghiên cứu, Bộ ban hành Quy chế tập sự cấp Vụ và mở các lớp tiếp theo.
Rút kinh nghiệm
việc tập sự cấp Vụ, năm 1983, Bộ ban hành Quy chế tập sự cấp Bộ và đầu năm
1984, lớp tập sự cấp Bộ đầu tiên gồm 6 Vụ trưởng được chọn thực tập làm nhiệm
vụ Thứ trưởng với chức danh Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, nằm trong thành
phần Lãnh đạo Bộ.
Song song với
những việc trên, các lớp bồi dưỡng tại chức về các lĩnh vực lý luận Mác-Lênin,
kinh tế, luật pháp quốc tế, quan hệ quốc tế, ngoại ngữ... cũng được mở. Bên
cạnh đó, từ năm 1978, Bộ triển khai kế hoạch xây dựng đơn vị cơ sở trong nước,
gồm 30 đơn vị, là các vụ khu vực, các vụ nghiệp vụ chuyên môn, các đơn vị hậu
cần. Đơn vị cơ sở ngoài nước cũng được chú trọng xây dựng với những yêu cầu phù
hợp với hoàn cảnh hoạt động có tính độc lập tương đối cao, nhân sự từ nhiều
nguồn về và thường xuyên thay đổi.
Từ tháng 1/1980
đến năm 1991, Bộ trưởng Ngoại giao là ông Nguyễn Cơ Thạch. Lãnh đạo Bộ rất coi
trọng công tác cải tiến phương pháp làm việc, ưu tiên nghiên cứu, đánh giá tình
hình, xem xét các vấn đề chiến lược, bố trí thời gian nghiên cứu, tổng kết,
biên soạn tài liệu, chỉ đạo trực tiếp công tác xây dựng ngành.
Đến năm 1986, công
tác xây dựng ngành đã đạt được những thành tựu có bản: Bộ máy trong và ngoài
nước được sắp xếp lại tương đối hợp lý và ổn định. Trước năm 1986, cán bộ, nhân
viên của Bộ khoảng 3000 người, đến năm 1986, rút xuống còn dưới 2000 người. Năm
1987, Bộ Ngoại giao tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện công tác xây dựng
ngành, khẳng định cuộc vận động xây dựng ngành 10 năm qua đã tạo được những
chuyển biến cơ bản và đưa lại những kết quả lớn, thúc đẩy mạnh mẽ những hoạt
động của ngành.
Giai đoạn 1986 đến
nay: Từ Đại hội lần thứ VI của Đảng tháng 12/1986, Ngoại giao Việt Nam cùng với
cả nước bước vào thời kỳ đổi mới, bắt đầu giai đoạn chuyển hướng mạnh mẽ hoạt
động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Công tác xây dựng ngành, vì vậy cũng
phải có những bước tiến mới để đáp ứng những yêu cầu nhiệm vụ mới, phục vụ tốt
sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước trong tình hình hợp tác và cạnh tranh quốc
tế ngày càng mở rộng.
Theo định hướng đó, công tác đào tạo, tính đến cuối năm 2000, trong Bộ đã có 32 tiến sĩ, 156 thạc sĩ và 56 người có trình độ sau đại học, 100 cán bộ được học các lớp bồi dưỡng về lý luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và 262 cán bộ đươc học các lớp lý luận về quản lý Nhà nước của Học viện quản lý hành chính quốc gia. Từ năm 1991 đến 1996, Bộ đã gửi 50 người đi học kinh tế ở nước ngoài, 177 người về quan hệ quốc tế, 49 người về luật pháp quốc tế, 89 người về diễn đàn đa phương, 107 người về ngoại ngữ và từ 1996 đến 1999 đã cử thêm 339 cán bộ đi học tập, đào tạo theo nhiều nội dung khác nhau ở nhiều nước trên thế giới và tuyển thêm 41 cán bộ thành thạo các tiếng nước ngoài các tiếng phổ thông, như Tiệp, Bungari, Hunggari, Nga....
Theo định hướng đó, công tác đào tạo, tính đến cuối năm 2000, trong Bộ đã có 32 tiến sĩ, 156 thạc sĩ và 56 người có trình độ sau đại học, 100 cán bộ được học các lớp bồi dưỡng về lý luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và 262 cán bộ đươc học các lớp lý luận về quản lý Nhà nước của Học viện quản lý hành chính quốc gia. Từ năm 1991 đến 1996, Bộ đã gửi 50 người đi học kinh tế ở nước ngoài, 177 người về quan hệ quốc tế, 49 người về luật pháp quốc tế, 89 người về diễn đàn đa phương, 107 người về ngoại ngữ và từ 1996 đến 1999 đã cử thêm 339 cán bộ đi học tập, đào tạo theo nhiều nội dung khác nhau ở nhiều nước trên thế giới và tuyển thêm 41 cán bộ thành thạo các tiếng nước ngoài các tiếng phổ thông, như Tiệp, Bungari, Hunggari, Nga....
Bộ máy tổ chức
trong và ngoài nước được kiện toàn theo hướng tinh giản biên chế, chính quy
hiện đại, gọn nhẹ, hiệu quả. Theo phương châm đó, những đơn vị có lĩnh vực hoạt
động gần giống nhau được sáp nhập làm một, như Vụ Các tổ chức quốc tế và Vụ Các
vấn đề chung hợp nhất thành Vụ Các tổ chức quốc tế; Vụ Bắc Mỹ hợp nhất với Vụ
Cuba - Mỹ Latinh thành Vụ Châu Mỹ; Vụ Tổng hợp xây dựng ngành hợp nhất với Vụ
Cán bộ thành Vụ Tổ chức – Cán bộ. Bộ giải thể Vụ Đánh giá thưởng phạt và chuyển
nhiệm vụ này cho Văn phòng Bộ đảm nhiệm. Đặc biệt tháng 8/1992, Viện Quan hệ
quốc tế được nâng cấp thành Học viện Quan hệ quốc tế, nằm trong hệ thống các
học viện quốc gia, trực thuộc Bộ Ngoại giao với nhiệm vụ chủ yếu là nghiên cứu
khoa học về quan hệ quốc tế và đào tạo cán bộ ngoại giao có trình độ đại học,
sau đại học và trên đại học. Đến năm 1992, Học viện được giao thêm nhiệm vụ
quản lý công tác nghiên cứu khoa học của Bộ.
Một mốc quan trọng
đánh dấu công tác xây dựng ngành trong thời gian này là ngày 10/11/1993, Chính
phủ ban hành Nghị định 82-CP về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Bộ Ngoại
giao, thay thế Nghị định 157-CP, ban hành ngày 9/10/1961 không còn phù hợp nữa.
Theo quy định của Nghị định này, Bộ máy của Bộ Ngoại giao ở trong nước gồm có
35 đơn vị. Ở ngoài nước Bộ đã rút một số cơ quan đại diện và lập một số cơ quan
mới, nâng tổng số cơ quan ở ngoài nước lên 64 đơn vị vào năm 2000. Tiếp đó ngày
10/3/2003, Chính phủ đã ra Nghị định 21 thay thế cho Nghị định 82, bổ sung về
nhiệm vụ , quyền hạn của Bộ Ngoại giao. Theo nghị định mới Bộ ngoại giao có 28
đợn vị ở trong nước.
Để góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và từng bước tiến lên chính quy hoá, hiện đại
hoá và tiêu chuẩn hoá cán bộ ngành ngoại giao, đồng thời phù hợp với tập quán
quốc tế, ngày 12/6/1995, Chủ tịch nước ký Lệnh ban hành Pháp lệnh về hàm cấp ngoại
giao. Triển khai thực hiện Pháp lệnh này, đợt đầu tiên, 388 công chức ngoại
giao đã được phong hàm từ Tuỳ viên đến Công sứ. Ngày 25/8/2000, 10 cán bộ ngoại
giao cao cấp được Nhà nước phong hàm Đại sứ CHXHCN Việt Nam .
Từ tháng 8 năm
1991 đến tháng 2 năm 2000, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao là ông Nguyễn Mạnh Cầm. Từ
tháng 3 năm 2000 đến tháng 6 năm 2006, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao là ông Nguyễn Dy
Niên. Từ 28/6/2006 đến nay, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao là ông Phạm Gia Khiêm.
Công tác thi đua
khen thưởng cũng là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng ngành. Từ
ngày thành lập đến năm 2000, bốn người được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí
Minh, 68 người được thưởng Huân chương Độc lập, 6 người được thưởng Huân chương
Lao động, 1554 người được thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và
415 người được thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. 71 người được
công nhận danh hiệu Lão thành cách mạng và 105 người được công nhận là cán bộ
Tiền khởi nghĩa. 2350 người được tặng Huy chương Vì sự nghiệp Ngoại giao của Bộ
Ngoại giao.
Về đơn vị, năm
1995, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập ngành, Bộ Ngoại giao đã được Nhà
nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng; Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài
được thưởng Huân chương Độc Lập hạng Nhất; Học viện Quan hệ quốc tế được thưởng
Huân chương Độc lập hạng Ba và Huân chương Lao Động hạng Nhất; Sở Ngoại vụ
thành phố Hồ Chí Minh, uỷ ban Quốc gia UNESCO, Phòng cơ yếu được thưởng Huân
chương Lao Động hạng Nhất; Vụ Châu Âu 2, Vụ Luật pháp và Điều ước quốc tế được
tặng thưởng Huân chương Lao Động hạng Ba.
Nhằm hỗ trợ đắc
lực và hiệu quả cho công tác xây dựng ngành, công tác Đảng và đoàn thể cũng
được chú trọng đúng mức. Tính đến năm 2000, Đảng bộ Bộ Ngoại giao có 5 Đảng bộ
bộ phận và 32 Chi bộ trực thuộc. Ngày 14/11/1992, Ban Cán sự Đảng Bộ Ngoại giao
được thành lập. Ban Cán sự Đảng đã cùng với Lãnh đạo Bộ và Đảng uỷ Bộ thường
xuyên quan tâm đến nhiệm vụ giáo dục chính trị, tư tưởng, tăng cường xây dựng
Đảng bộ về tổ chức, nâng cao chất lượng đảng viên, chất lượng sinh hoạt Chi bộ
và không ngừng đẩy mạnh công tác phát triển Đảng.
Dưới sự lãnh đạo
trực tiếp của Đảng uỷ và Lãnh đạo Bộ, các tổ chức đoàn thể như Công đoàn, Đoàn
thanh nỉên, Phụ nữ... cùng lớn mạnh, phát huy được vai trò và có những đóng góp
vào việc thực hiện những nhiệm vụ chung của Ngành.
Lịch sử hơn 60 năm
xây dựng ngành Ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh đã cho thấy rõ những
bước phát triển và trưởng thành vượt bậc về tổ chức xây dựng bộ máy, đào tạo
đội ngũ cán bộ về mọi mặt nhằm đảm bảo thực hiện thắng lợi chức năng, nhiệm vụ
của ngành ngoại giao qua các giai đoạn cách mạng, góp phần rất quan trọng cùng
với các ngành khác và quân dân cả nước lập nên những chiến công hiển hách
"chấn động địa cầu” ./.
Theo Bộ
Ngoại giao Việt Nam
2. Các tổ chức quốc tế
Trong điều kiện
quốc tế ngày nay khi quá trình hội nhập ngày càng được xúc tiến nhanh, ngoại
giao đa phương ngày càng giữ một vị trí quan trọng, góp phần nâng cao vị thế
quốc tế của đất nước trên thế giới.
Cho đến nay,
Việt Nam là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức
phi chính phủ trên thế giới. Việt Nam đã hoạt động tích cực với vai trò ngày
càng tăng tại Liên hợp quốc (ủy viên ECOSOC, ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP,
UNFPA và UPU...), phát huy vai trò thành viên tích cực của phong trào Không
liên kết, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp, ASEAN ... Có thể nói
ngoại giao đa phương là một điểm sáng trong hoạt động ngoại giao thời đổi mới.
Những kết quả đạt được trong mối quan hệ đan xen này đã củng cố và nâng cao vị
thế quốc tế của đất nước, tạo ra thế cơ động linh hoạt trong quan hệ quốc tế,
có lợi cho việc bảo vệ độc lập tự chủ và an ninh cũng như công cuộc xây dựng
đất nước.
Tại thư mục này,
bạn có thể tìm hiểu thông tin về các tổ chức quốc tế và quan hệ giữa
Việt Nam
với một số tổ chức này./.
3. MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG
VÀ TÍCH CỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính
sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế
trên các lĩnh vực khác. Việt Nam
là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực
vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
Nhiệm vụ của công
tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận
lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích
cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đưa các quan hệ
quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Phát triển quan hệ
với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế
theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ
lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; tôn
trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Củng cố và tăng
cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào
độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tiếp tục mở rộng quan hệ
với các đảng cầm quyền.
Phát triển công
tác đối ngoại nhân dân theo phương châm "chủ động, linh hoạt, sáng tạo và
hiệu quả". Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế
giới. Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức
phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội.
Chủ động tham gia
cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối thoại với các nước, các
tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm
thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề "dân
chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo"
hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam.
Đẩy mạnh hoạt động
kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn
cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao
nhất.
Chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển
đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Chuẩn bị tốt các điều
kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Thúc
đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu
Á - Thái Bình Dương... Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin
cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa
những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO).
Tiếp tục đổi mới
thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh
hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn định và minh bạch. Cải
thiện môi trường đầu tư; thu hút các nguồn vốn FDI, ODA, đầu tư gián tiếp, tín
dụng thương mại và các nguồn vốn khác. Xác định đúng mục tiêu sử dụng và đẩy
nhanh việc giải ngân nguồn vốn ODA, cải tiến phương thức quản lý, nâng cao hiệu
quả sử dụng và có kế hoạch trả nợ đúng hạn; duy trì tỉ lệ vay nợ nước ngoài hợp
lý, an toàn.
Phát huy vai trò
chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong
hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, phát triển thị
trường mới, sản phẩm mới và thương hiệu mới. Khuyến khích các doanh nghiệp Việt
Nam
hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước
ngoài.
Đẩy mạnh công tác
văn hoá - thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị
giữa nhân dân ta với nhân dân các nước.
Chăm lo đào tạo,
bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vững vàng về chính
trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất
tốt.
Tăng cường công
tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại với sự tham gia và phát huy trí
tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học.
Bảo đảm sự lãnh
đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt
động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà
nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại; đối
ngoại, quốc phòng và an ninh; thông tin đối ngoại và thông tin trong nước.
4. ASEAN 40 năm trưởng thành, phát triển
và triển vọng hợp tác
Ngày 8-8-2007, ASEAN tròn 40 tuổi. Bốn thập kỷ qua là chặng
đường đầy tự hào của ASEAN với nhiều thành tựu to lớn, mà trước hết là bảo đảm
môi trường hòa bình, an ninh thuận lợi cho phát triển.
Kết quả quan trọng
nhất là việc mở rộng ASEAN từ năm thành viên ban đầu đến nay bao gồm mười quốc
gia ở khu vực Ðông-Nam Á hợp tác với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
tiến bộ xã hội, phát triển văn hóa và tăng cường hòa bình, ổn định ở khu vực.
Thời gian qua, các
lĩnh vực hợp tác ASEAN đều khởi sắc. Trong lĩnh vực hợp tác chính trị - an
ninh, Kế hoạch thực hiện Cộng đồng an ninh ASEAN (ASC) nêu 75 chương trình và
biện pháp hợp tác thông qua tăng cường đối thoại, tạo dựng lòng tin và thúc đẩy
quan hệ hữu nghị thân thiện và hợp tác nhằm giảm thiểu căng thẳng cũng như khả
năng xảy ra xung đột vũ trang giữa các quốc gia thành viên. ASEAN cam kết giải
quyết hòa bình xung đột nội bộ khu vực, thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác gồm: Hợp
tác chính trị; xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử; ngăn ngừa xung đột;
giải quyết xung đột; kiến tạo hòa bình sau xung đột; khuôn khổ thể chế thực
hiện.
Tuyên bố Bali II
và Kế hoạch Hành động thực hiện ASC nêu những nguyên tắc và phương châm chỉ đạo
quá trình xây dựng ASC là thúc đẩy hợp tác chính trị và an ninh của ASEAN lên
tầm mức cao hơn, phù hợp Tầm nhìn ASEAN 2020. Hiến chương ASEAN đang được soạn
thảo sẽ khẳng định những mục tiêu, nguyên tắc nhằm tăng cường tổ chức và hiệu
quả hợp tác nội khối, tạo thể chế và địa vị pháp lý cho quan hệ hợp tác của
ASEAN với bên ngoài.
Tuy luôn phải đối
mặt những khó khăn và thách thức trong khu vực, nhưng đoàn kết và thống nhất
trong ASEAN vẫn được củng cố và ngày càng phát triển sâu rộng. ASEAN giữ được
vai trò chủ đạo đối với các vấn đề về hòa bình, an ninh và phát triển ở khu
vực; tích cực thúc đẩy các bên đối tác tham gia các khuôn khổ hợp tác bảo đảm
an ninh và ổn định ở khu vực như Hiệp ước Thân Thiện và Hợp tác ở Ðông-Nam Á
(TAC), tuyên bố của các bên liên quan về cách ứng xử ở Biển Ðông (DOC), Nghị
định thư Hiệp ước Khu vực Ðông-Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ); đã và
đang tích cực hợp tác trong lĩnh vực phòng, chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc
gia, các vấn đề an ninh phi truyền thống...
Hội nghị Bộ trưởng
Quốc phòng ASEAN lần đầu được tổ chức tháng 5-2006 mở ra bước phát triển quan
trọng trong hợp tác an ninh - quốc phòng ASEAN hướng tới Cộng đồng an ninh
ASEAN. Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) được ASEAN thành lập tháng 7-1994, đến nay
có 27 thành viên gồm mười nước ASEAN, mười nước đối thoại của ASEAN và bảy nước
khác ở khu vực là diễn đàn để đối thoại và hợp tác giữa các thành viên về các
vấn đề chính trị - an ninh khu vực đang chuyển giai đoạn từ xây dựng lòng tin
sang ngoại giao phòng ngừa với lĩnh vực và nội dung hoạt động ngày càng đa
dạng.
Về hợp tác kinh
tế, trên cơ sở kết quả đạt được về tự do hóa thương mại của Khu vực Mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA) khởi động năm 1992, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ tám tại
Phnom Penh (Campuchia) tháng 11-2002, lãnh đạo ASEAN đã thảo luận đề nghị lập
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015 (sớm hơn dự kiến là năm 2020) và đã
soạn thảo Kế hoạch tổng thể AEC cùng lịch trình và các biện pháp cụ thể để thực
hiện nhằm tạo dựng ASEAN là thị trường chung và cơ sở sản xuất gắn kết của khu
vực; khu vực kinh tế có tính cạnh tranh cao, phát triển đồng đều, hỗ trợ thu
hẹp khoảng cách phát triển, hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Ðồng thời với tăng
cường liên kết, hội nhập kinh tế nội khối, từ năm 2002, ASEAN đã triển khai đàm
phán và ký các thỏa thuận thương mại tự do (FTA) với Trung Quốc và Hàn Quốc;
đang đàm phán khuôn khổ Ðối tác kinh tế toàn diện (CEF) với Nhật Bản, FTAs với
Ấn Ðộ, Australia và New Zealand; mở đàm phán FTA với EU; thúc đẩy đàm phán với
Mỹ...
Về hợp tác chuyên
ngành, ASEAN ra Kế hoạch Hành động hướng tới Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN
(ASCC); nêu hợp tác ASCC nhằm tạo dựng cộng đồng các quốc gia Ðông-Nam Á gắn
bó, các xã hội quan tâm và tương trợ lẫn nhau dựa trên những bản sắc chung của
khu vực. Bốn lĩnh vực được cụ thể hóa qua hoạt động hợp tác là tạo dựng Cộng
đồng các xã hội đùm bọc giải quyết tác động xã hội của hội nhập kinh tế, thúc
đẩy môi trường bền vững, thúc đẩy bản sắc ASEAN trên cơ sở phát triển nhận thức
và bản sắc khu vực ASEAN; bảo tồn và thúc đẩy di sản văn hóa ASEAN; thúc đẩy
đối thoại nhằm nâng cao hiểu biết về văn minh, văn hóa và tôn giáo ASEAN; mở
rộng vị thế của ASEAN trên trường quốc tế.
ASEAN thực hiện
chính sách đối ngoại mở, hướng ra cộng đồng quốc tế. Quan hệ với các bên Ðối
thoại đã đạt những kết quả và được phát triển lên tầm mức cao hơn. Ðến nay,
ASEAN đã cơ bản hoàn tất các khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược hoặc toàn
diện, cũng như đề ra các kế hoạch hành động với hầu hết các đối tác Australia,
Canada, Trung Quốc, EU, Ấn Ðộ, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand, Nga, Hoa Kỳ,
LHQ và Chương trình phát triển LHQ (UNDP).
ASEAN tiếp tục giữ
vai trò chủ đạo tại các diễn đàn khu vực do Hiệp hội khởi xướng như ASEAN + 3
(Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) và Hội nghị cấp cao Ðông Á (EAS); đang tích
cực thúc đẩy họp cấp cao với các đối tác Mỹ, Canada, Liên hiệp châu Âu (EU),
Nga; tăng cường hoạt động của khuôn khổ đối thoại các cấp hiện có; tăng cường
hợp tác đối thoại theo lĩnh vực với Pakistan và Bangladesh; mở rộng hợp tác với
các tổ chức khu vực như Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC), Hội nghị Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Ðông Á - Mỹ la-tinh (EALAF), Tổ chức
Hợp tác kinh tế (ECO), Hội đồng hợp tác vùng Vịnh (GCC), Nhóm Rio, Hiệp hội hợp
tác khu vực Nam Á (SAARC), diễn đàn Nam Thái Bình Dương (SPF). Tuy gặp khó khăn
thách thức, nhưng các đối tác đều coi trọng và mong muốn phát triển hợp tác với
ASEAN; cam kết tiếp tục ủng hộ, hỗ trợ ASEAN hội nhập khu vực và xây dựng cộng
đồng, tài trợ các kế hoạch dự án hợp tác ủng hộ vai trò chủ đạo của ASEAN ở khu
vực.
Việt Nam tham gia
ASEAN ngày 28-7-1995, từ đó luôn chủ động, tích cực thực hiện các hoạt động, kế
hoạch, chương trình, dự án hợp tác của ASEAN, góp phần quan trọng cho sự phát
triển và thành công của Hiệp hội, củng cố xu thế hòa bình, ổn định và hợp tác ở
khu vực, nâng cao vị thế quốc tế của Hiệp hội.
Một trong những
đóng góp cụ thể nổi bật nhất là nước ta đã thúc đẩy hình thành một ASEAN gồm cả
mười quốc gia trong khu vực Ðông-Nam Á, đoàn kết và hợp tác, mở ra thời kỳ phát
triển mới về chất của quan hệ giữa các quốc gia. Nước ta đã tổ chức thành công
Hội nghị cấp cao ASEAN VI tại Hà Nội tháng 12-1998, đảm nhiệm vai trò Chủ tịch
ASEAN nhiệm kỳ 2000 - 2001, tổ chức thành công AMM, nhiều Hội nghị Bộ trưởng
chuyên ngành của ASEAN.
Việt Nam đã đóng góp
tích cực vào việc tăng cường đoàn kết và hợp tác ASEAN, kiên trì bảo vệ các
nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội như "đồng thuận" và "không can
thiệp", góp phần quan trọng phát huy tác dụng Hiệp ước TAC và SEANWFZ, duy
trì môi trường hòa bình, an ninh và ổn định khu vực; duy trì vai trò chủ đạo
của ASEAN trong việc xử lý các vấn đề khu vực cũng như tại các diễn đàn do
ASEAN khởi xướng; nỗ lực đưa ra sáng kiến xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển
Ðông (COC) dẫn đến việc ký Tuyên bố của các bên liên quan về cách ứng xử ở Biển
Ðông (DOC)...
Về hợp tác kinh
tế, Việt Nam đã cơ bản hoàn thành cắt giảm thuế quan theo Hiệp định CEPT/AFTA;
đạt mục tiêu AFTA đã định sau mười năm (sớm hơn dự kiến 5 năm), góp phần tăng
cường liên kết kinh tế nội khối, đưa ASEAN trở thành một cơ sở sản xuất khu vực
có khả năng cạnh tranh và hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư khu vực và quốc
tế, mở rộng hợp tác ASEAN trên nhiều lĩnh vực.
Ðối với thực hiện
Sáng kiến ASEAN về thu hẹp khoảng cách phát triển (IAI), tại AMM - 34 tổ chức ở
Hà Nội năm 2001, Việt Nam đã cùng ASEAN đưa ra Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp
khoảng cách phát triển; trong thời gian làm Chủ tịch Nhóm đặc trách IAI, Chương
trình thực hiện IAI đã thu nhiều kết quả (hiện IAI có 134 dự án và hơn 90% số
dự án đó đã có nguồn tài trợ với tổng số cam kết đạt được là 48 triệu USD tại
các lĩnh vực như phát triển cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, công nghệ thông tin,
du lịch, xóa giảm đói nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống...).
Tháng 6-2007, Việt
Nam
đăng cai tổ chức Diễn đàn Sáng kiến IAI lần thứ hai nhằm đề ra chiến lược hợp
tác thực hiện Sáng kiến IAI giai đoạn 2008 - 2015. Việt Nam đã đưa ra sáng kiến quan trọng
về phát triển kinh tế - xã hội qua Chương trình hợp tác phát triển Tiểu vùng Mê
Công, các vùng nghèo dọc Hành lang Ðông-Tây (WEC)...
Việt Nam
cũng đã tham gia tích cực các hoạt động hợp tác chuyên ngành rất đa dạng và
phong phú bao gồm nhiều lĩnh vực, qua đó thu những kết quả thiết thực hỗ trợ
việc thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia. Việt Nam đóng góp tích cực thúc đẩy hợp
tác giữa ASEAN với các đối tác, nâng cao vai trò và vị thế của ASEAN ở khu vực
và quốc tế. Việc nước ta tham gia hợp tác ASEAN phù hợp lợi ích cơ bản của đất
nước, đã tạo thêm điều kiện thuận lợi để nước ta tăng cường quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các quốc gia thành viên, góp phần thúc đẩy xu thế hòa bình, ổn định
và hợp tác ở khu vực, duy trì môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, hỗ trợ quá trình cải cách và công cuộc đổi mới, nâng
cao vai trò và vị thế quốc tế của nước ta.
Năm 1997 tròn 30
tuổi, ASEAN thông qua Tầm nhìn 2020. Năm 2003 Hội nghị cấp cao ASEAN IX tại
Bali, quyết định lập Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột về kinh tế, chính trị - an
ninh và văn hóa - xã hội.
Khi tròn 40 tuổi,
tại Hội nghị cấp cao ASEAN XII ở Cebu, Philippines tháng 1-2007, ASEAN quyết
định đẩy nhanh thời hạn hình thành Cộng đồng ASEAN sớm lên 5 năm.
Hiến chương ASEAN
đang được hoàn tất tạo cơ sở pháp lý và khuôn khổ thể chế cho tiến trình xây
dựng Cộng đồng ASEAN và đề cập các vấn đề lớn về định hướng tương lai phát
triển của Hiệp hội kể cả cho thời kỳ sau 2020 nhằm xây dựng ASEAN thành tổ chức
liên Chính phủ hợp tác chặt chẽ, ràng buộc hơn và mở rộng hợp tác với bên
ngoài, qua đó ASEAN tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với hòa bình, an ninh
và phát triển ở khu vực; là thực thể tổ chức hợp tác khu vực được các nước trên
thế giới coi trọng. Việt Nam
đang nỗ lực hợp tác chặt chẽ cùng các quốc gia thành viên ASEAN xây dựng thành công khu vực Ðông-Nam Á ổn định và phồn
vinh.
Hà Thị Ngọc
Hà- Phó Vụ trưởng Vụ ASEAN -Bộ Ngoại giao. Bài viết đăng báo Nhân dân ngày
7/8/07
5. Việt Nam đóng góp tích cực vào sự phát triển của ASEAN
Thứ trưởng Thường
trực Bộ Ngoại giao Lê Công Phụng khẳng định với thế và lực ngày càng gia tăng
do thành tựu của 20 năm đổi mới cũng như kinh nghiệm tham gia ASEAN trong 12
năm qua, Việt Nam
ngày càng có những đóng góp quan trọng và tích cực hơn cho đoàn kết và hợp tác
ASEAN.
Trả lời
phỏng vấn TTXVN về kết quả và những đóng góp của Việt Nam cho sự thành công của
AMM-40, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN với các nước Đối thoại (PMCs), Hội
nghị Bộ trưởng Diễn đàn khu vực ASEAN lần thứ 14 (ARF 14), diễn ra tại
Philíppin từ ngày 30/7 đến 2/8, Thứ trưởng Lê Công Phụng nói rằng tính đến Hội nghị AMM-40, PMC, ARF 14, Việt Nam đã tham
gia ASEAN tròn 12 năm. Phát huy vai trò và vị thế đã được khẳng định trong 12
năm qua, Đoàn Việt Nam đã chủ động tham gia tích cực và có những đóng góp thực
chất vào các vấn đề lớn của Hội nghị, có ý nghĩa quan trọng đối với tương lai
phát triển của ASEAN.
Thứ trưởng
Lê Công Phụng cho biết đoàn Việt Nam đã kiên trì thúc đẩy việc triển khai thực
hiện các chương trình và kế hoạch hành động chính của ASEAN nhằm hình thành
Cộng đồng ASEAN, thu hẹp khoảng cách phát triển và xóa đói giảm nghèo, cũng như
duy trì vai trò chủ đạo của ASEAN trong các tiến trình khu vực do ASEAN khởi
xướng.
Ngoài những
đóng góp tích cực trong quá trình xây dựng những điều khoản cụ thể của Hiến
chương ASEAN, đoàn Việt Nam cũng chủ động thúc đẩy những vấn đề Việt Nam quan
tâm như thực hiện Sáng kiến Liên kết ASEAN (IAI) về thu hẹp khoảng cách phát
triển trong ASEAN, thúc đẩy thực hiện Tuyên bố của các bên liên quan ở Biển
Đông (DOC).
Trong hợp tác giữa
ASEAN và các bên Đối thoại, Việt Nam cùng với các nước ASEAN thúc đẩy nhiều biện
pháp nhằm mở rộng và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối ngoại của ASEAN thông qua
các cơ chế và diễn đàn như ASEAN+1, ASEAN+3, Cấp cao Đông Á, Diễn đàn Khu vực
ASEAN.
Thứ trưởng
Lê Công Phụng cho biết tại các Hội nghị lần này, các nước ASEAN đã chúc mừng Việt
Nam vừa trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới và khẳng định công
nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường. Các nước ASEAN và nhiều nước
đối thoại cũng bày tỏ ủng hộ Việt Nam ứng cử làm thành viên không
thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009.
Về kết quả kết quả chính của Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN
lần thứ 40 và các Hội nghị liên quan (AMM-40/PMC/ARF-14), Thứ trưởng Lê Công
Phụng cho biết Hội nghị AMM-40, PMCs và ARF 14 năm nay là hoạt động quan
trọng nhất hàng năm của Ngoại trưởng các nước ASEAN và các nước đối thoại,
nhưng có ý nghĩa đặc biệt vì diễn ra đúng vào dịp các nước ASEAN đang tiến hành
nhiều hoạt động kỷ niệm tròn 40 năm ngày thành lập Hiệp hội
(8/8/1967-8/8/2007). Hội nghị đã đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần tăng
cường đoàn kết và hợp tác ASEAN cũng như đẩy mạnh hợp tác giữa ASEAN với các
đối tác bên ngoài, thúc đẩy tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN.
Trên cơ sở những thành tựu to lớn của 40 năm qua, các
nước ASEAN đang nỗ lực tạo nên một sự bứt phá mới, phấn đấu đưa Hiệp hội trở
thành một Cộng đồng vững mạnh về chính trị - an ninh, liên kết chặt chẽ về kinh
tế, quan tâm và chia sẻ lẫn nhau. Trên tinh thần đó, tại Hội nghị AMM-40 này
với chủ đề “Một Cộng đồng đùm bọc và chia sẻ lẫn nhau”, các nước thành viên đã
nhất trí cần đẩy mạnh hơn nữa hợp tác và liên kết khu vực nhằm hoàn thành mục
tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào 2015 như các nhà Lãnh đạo đã đề ra, đồng thời
tiếp tục tăng cường quan hệ với các đối tác bên ngoài và phát huy vai trò của
ASEAN như một động lực chính cho hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực.
Các Ngoại trưởng ASEAN đã trao đổi và cho ý kiến chỉ đạo
để Nhóm đặc trách cao cấp (HLTF) tiếp tục hoàn thiện bản dự thảo Hiến chương
ASEAN, một văn kiện quan trọng nhằm tạo khuôn khổ pháp lý và khung thể chế cho
việc thực hiện mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN. Theo kế hoạch, dự thảo Hiến
chương sẽ được trình lên Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 13 tại Xinhgapo vào
cuối năm nay.
Các Ngoại trưởng đã đạt thỏa thuận nhằm đưa hợp tác
ASEAN hướng tới và phục vụ thiết thực hơn lợi ích của người dân, theo đó đã
nhất trí lập Ủy ban triển khai Tuyên bố ASEAN về Thúc đẩy và Bảo vệ quyền của
Người lao động nhập cư và Quy trình hỗ trợ công dân ASEAN ở nước thứ ba trong
các trường hợp khẩn cấp.
Nhân dịp này, các Ngoại trưởng đã ký kết và thông qua
nhiều văn kiện quan trọng, như Tuyên bố chung ASEAN-Ôxtrâylia về Đối tác toàn
diện, và nhất trí cần sớm hoàn tất Kế hoạch hành động để thực hiện Tuyên bố, Kế
hoạch hợp tác chung ASEAN-Canađa giai đoạn 2007-2010, Kế hoạch hành động nhằm
triển khai Tuyên bố Nuremberg về Đối tác tăng cường ASEAN-EU… Các Ngoại trưởng
cũng bàn một số biện pháp nhằm kỷ niệm 30 năm quan hệ đối thoại giữa ASEAN với
một số đối tác quan trọng như Mỹ, EU, Canađa, kể cả tổ chức Cấp cao kỷ niệm với
Canađa và Mỹ.
Về tiến trình ASEAN+3 và Cấp cao Đông Á (EAS), các
Ngoại trưởng khẳng định lại ASEAN+3 là công cụ chính tiến tới mục tiêu lâu dài
là xây dựng cộng đồng Đông Á và EAS là khuôn khổ hỗ trợ cho mục tiêu xây dựng
cộng đồng ở khu vực Đông Á.
Về tiến trình ARF, các Ngoại trưởng nhấn mạnh cần tiếp
tục tiến hành các biện pháp xây dựng lòng tin để tạo cơ sở vững chắc cho thực
hiện ngoại giao phòng ngừa; đã nhất trí thông qua các hoạt động trong năm tới.
Xri Lan-ca lần đầu tiên tham dự ARF và trở thành bên tham gia thứ 27 của diễn
đàn quan trọng này.
Tại các phiên họp, các Ngoại trưởng cũng đã trao đổi ý
kiến sâu rộng về tình hình quốc tế và khu vực, trong đó có bán đảo Triều Tiên,
Biển Đông, Trung Đông, Irắc và hướng hợp tác xử lý những vấn đề xuyên quốc gia
như khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, thiên tai, bệnh dịch./.
(Theo TTXVN)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét