Thứ Hai, 25 tháng 6, 2012

Phân tích và đánh giá vai trò của ngoại giao Việt Nam DCCH trong đàm phán và ký kết hiệp định Geneve năm 1954

Phân tích và đánh giá vai trò của ngoại giao Việt Nam  DCCH trong đàm phán và ký kết hiệp định Geneve năm 1954
TÓM TẮT NỘI DUNG

Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám 1945, ngoại giao của chính quyền non trẻ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã phải nỗ lực rất nhiều để thoát khỏi sự bao vây của các thế lực thù địch.
Với bước ngoạt ngoại giao năm 1950, ta khẳng định chủ trương đường lối của cách mạng nghiêng hẳn về phe xã hội chủ nghĩa, cách mạng nước, và đã giành được sự công nhận, đồng tình và ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, và các lực lượng dân chủ hoà bình thế giới.
Qua các giai đoạn, chúng ta đã chứng kiến sự trưởng thành của ngoại giao ViệtNam, và Hiệp định Giơnevơ được ký kết đã là một minh chứng rõ ràng nhất.
 Lịch sử đã cho thấy đi đến được bàn đàm phán tại Giơnevơ là một nỗ lực, một chiến thắng của ta, nó là kết quả của những thắng lợi quân sự, chính trị, và quan trọng là mặt trận ngoại giao. "Kết quả của Hội nghị Giơ-ne-vơ chưa phản ánh đúng, đầy đủ thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến, mà đã có những sự nhân nhượng. Nhưng đấu tranh ngoại giao là thế. Việt Nam từ rừng núi đi thẳng tới Giơ-ne-vơ, rất thiếu kinh nghiệm, mất quyền chủ động" (PGS Bùi Đình Thanh) chúng ta bỡ ngỡ trước những nền ngoại giao lọc lõi của các nước đế quốc, chúng ta bị lệ thuộc một phần nào, ở góc độ nào chúng ta cũng đã thừa nhận hạn chế của mình, do không đánh giá hết ý đồ của các nước lớn, nhưng không phải vì thế mà chúng ta chuếnh choáng mất tự chủ hoàn toàn, và vai trò to lớn của ngoại giao trong đàm phán và ký kết hiệp định là không thể phủ nhận.










LỜI MỞ ĐẦU
Để đi đến ký kết Hiệp định Giơnevơ mà như chúng ta đã nhìn nhận đánh giá ở trên, đó là một quá trình đấu tranh không biết mệt mỏi của cả dân tộc ta, đó không chỉ là cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao mà đó còn là cuộc đấu trí căng thẳng trên mặt trận ngoại giao - một bài học ngoại giao “giành thắng lợi từng bước” tiến lên giành thắng lợi toàn phần, đó là những nỗ lực từ những ngày đầu tiên khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà sau cách mạng tháng Tám 1945, đó là những bước tiến xây dựng thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng và bạn bè quốc tế mà trong đó đặc biệt là phải kể đến bước chuyển ngoặt ngoại giao 1950, và đó là một quá trình triển khai chính sách đường lối ngoại giao sáng suốt tài tình của Đảng ta dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở vận dụng những thắng lợi trên các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao tạo nên sức mạnh tổng hợp đem lại thế chủ động cho ta trên bàn đàm phán. Và trước khi đi đến phân tích cụ thể vai trò của chính sách đối ngoại trong ký kết Hiệp định Giơnevơ 1954 chúng tôi sẽ điểm qua những bước triển khai chính sách đối ngoại trước mà theo chúng tôi đã góp phần tạo nền tảng cho ngoại giao trong quá trình đàm phán, và cuối cùng chúng tôi xin dành một phần nhỏ để chia sẻ những ý kiến bàn luận của nhóm chúng tôi về “thắng lợi” ngoại giao trong ký kết Hiệp định Giơnevơ, những gì mà chính sách đối ngoại đã làm được và chưa làm được tại Hiệp định này? Hiệp định Giơ-ne-vơ có phản ánh đúng thắng lợi của nhân dân Việt Nam trên chiến trường và xu thế của cuộc chiến tranh hay không?
 Nhân đây, chúng tôi xin bày tỏ sự cảm ơn chân thành tới những thày cô giáo phụ trách bộ môn Chính Sách đối ngoại đã hướng dẫn và cung cấp cho chúng tôi những tài liệu bổ ích, và cảm ơn thư viện trường đã tạo điều kiện cho chúng tôi tiếp xúc được với những nguồn tài liệu cần thiết, và chúng tôi gửi lời cảm ơn tới các tác giả mà chúng tôi đã tham khảo ý kiến, đặc biệt các tác giả biên soạn trong “Tạp chí cộng sản”.Theo đó, chúng tôi sẽ trình bày phần nội dung bao gồm những phần sau:
I. Ngoại giao giai đoạn tiền Hiệp định.
1. Ngoại giao giai đoạn 1945-1950
2. Ngoại giao giai đoạn năm 1950
II. Toàn cảnh Hội nghị Giơnevơ
1. Bối cảnh dẫn đến Hiệp định
2. Các bên tham gia Hội nghị
3. Chủ trương chính sách đối ngoại của ta: 
3.1 Mục tiêu và chủ trương của ta
3.2 Triển khai chính sách đối ngoại trong đàm phán
3.3 Kết quả đạt được
III. Đánh giá 
1. Sự nhìn nhận kết quả Hội nghị
2. Những bài học ngoại giao.
PHẦN NỘI DUNG

I Ngoại giao giai đoạn tiền Hiệp định
1.1. Ngoại giao giai đoạn 1945-1950
Sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945, ngày 2/9/1945 Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độclập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, chính quyền cách mạng non trẻ chịu sự bao vây, cô lập của các nước đế quốc, tình hình đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong giặc ngoài, tình hình kinh tế xã hội cực kỳ rối ren.Trong bối cảnh đó, ngoại giao là một công tác hết sức trọng yếu, là vũ khí của cách mạng để chèo lái con thuyền Việt Nam vượt qua cơn thử thách.
Trong bối cảnh chưa được công nhận về mặt pháp lý,Việt Nam dân chủ cộng hoà đã kịp thời chuyển hướng hoạt động ngoại giao và định ra đường lối ,chính sách và hệ thống chủ trương sách lược thích hợp,linh hoạt,có nguyên tắc để từng bước phá vây quốc tế ,gắn sự nghiệp cách mạng dân tộc vào xu thế chung của thế giới. Với chính sách “thêm bè bạn bớt kẻ thù” kết hợp với các hoạt động ngoại giao đa phương ,song phương ,ngoại giao nhân dân ,ta đã tranh thủ được sự ủng hộ của bạn bè quốc tế , đắc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân.Ta đã từng bước xây dựng được cơ sở pháp lý cho chính phủ non trẻ của mình.
Tuy nhiên,vì là một nền ngoại giao non trẻ,nên ta vẫn gặp phải không ít khó khăn và có nhiều mặt hạn chế.Ta chưa có nhiều kinh nghiệm trong vận dụng tư tưởng độc lập,tự chủ trên mặt trận đối ngoại song phương và đa phương. Ngoài ra ,do sự thiếu hụt về thông tin, đội ngũ cán bộ đối ngoại còn hạn chế về nhiều mặt ,nhận thức của ta về các nước lớn chưa sâu sắc nên chúng ta vẫn còn tồn tại nhiều yếu điểm khi bước vào các cuộc đàm phán quốc tế.
Nói gì thì nói,chúng ta không thể phủ nhận những gì ngoại giao Việt Nam đã làm được trong những năm tháng đầu tiên của một quốc gia non trẻ ấy.Xét về cơ bản,chúng ta đã có những đường lối sách lược đúng đắn theo từng giai đoạn từng thời kì, đấu tranh ngoại giao kiên trì để giành thắng lợi từng bước.
Có thể nói rằng,từ bản Tuyên ngôn độc lập đến chính sách Hoa-Việt thân thiên,chính sách hoà để tiến với Pháp, mà đỉnh cao là hiệp định Sơ Bộ 6/3/1946 vẫn thường được lịch sử nhắc lại như đỉnh cao của nghệ thuật thoả hiệp, một sự thoả hiệp rất có nguyên tắc, với hiệp định ấy, ta đã “phá vòng vây” thoát hiểm, và những bước giải vây tình trạng bị cô lập,tạo một môi trường hoà bình, ngoại giao Việt Namđã thể hiện tiếng nói dân tộc mạnh mẽ của mình.Những chính sách đối ngoại ấy phù hợp trong từng giai đoạn thời kỳ nhỏ và đã phần nào thành công trong ngắn hạn.Tuy nhiên,mục tiêu chính của ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ này là tạo lập cơ sở pháp lý cho Việt Nam dânc hủ cộng hoà thì vẫn chưa đi đến thắng lợi. Đây là bước đi khởi đầu và là bài học quý giá cho nền ngoại giao Việt Nam đương đại và sau này.
1.2.Ngoại giao giai đoạn 1950
Tại đại hội Đảng lần thứ 2 diễn ra từ 11/2 đến 19/3/1951 bàn về đối ngoại Đảng ta đã chỉ ra cán cân lực lượng giữa hai phe có lợi cho phe dân chủ tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào giải phóng dân tộc được phát triển mạnh mẽ. Khi đó, phong trào hoà bình phát triển mạnh mẽ khẳng định hơn nữa nhiệm vụ của giai cấp công nhân và nhân dân thế giới là bảo vệ hoà bình. Do đó, xét thấy cách mạng Việt Nam là 1 bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, phong trào giải phóng dân tộc bảo vệ hoà bình trên thế giới. 
Trên cơ sở phân tích tình hình đó, Đại hội đã triển khai các nhiệm vụ đoàn kết chặt chẽ và giúp đỡ hai dân tộc Miên Lào kháng chiến giành độc lập, cùng Việt Nam hoàn toàn giải phóng Đông Dương;đoàn kết chặt chẽ với Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác;liên hiệp mật thiết với nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa Pháp đang góp phần vào công cuộc chống đế quốc, gìn giữ hoà bình và dân chủ thế giới.Và dùng điều chỉnh khu vực đến đóng quân đi đến hoà bình, dùng toàn quốc tổng tuyển cử để đi đến thống nhất.
Điều đó được thể hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia cùng nhau bảo vệ hoà bình; mở rộng ngoại giao nhân dân và thực hiện chính sách ngoại giao thân thiện tranh thủ đại đoàn kết dân tộc; đẩy mạnh hoạt động quốc tế phối hợp chặt chẽ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhân dân nước Pháp và nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới. 
Và chúng ta đã đạt được những kết quả ngoại giao như sau:
15.1.1950 chính phủ ta công nhận chính phủ nước CHND Trung Hoa.
18.1.1950 chính phủ nước CHND Trung Hoa công nhận chính phủ nước Việt NamDCCH là chính phủ hợp pháp và sẵn sàng xác lập ngoại giao cấp đại sứ với nước ta.
31.1.1950 chính phủ Liên Xô công nhận chính phủ ta và quyết định kiến lập quan hệ ngoại giao với nước ta.
Sau đó chính phủ ta dần được các nước dân chủ khác lần lượt công nhận.
Mặt trận liên minh Việt – Miên – Lào chính thức thành lập 3.1951.
Trong giai đoạn này, phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam phát triển mạnh mẽ và đạt được thắng lợi đáng kể.Việt Nam đã có được sự công nhận chính thức và đặt quan hệ ngoại giao chính thức của các nước XHCN, giành thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên giới , giải phóng tỉnh Hoà Bình. 2.1952 phá tan kế hoạch của quân Pháp hòng giành lại thế chủ động

II.Toàn cảnh hiệp định Giơnevơ
2.1. Bối cảnh đưa đến Hội Nghị giơ – ne – vơ.
2.1.1. Bối cảnh thế giới.
 Trên thế giới khi này đang diễn ra Chiến tranh Lạnh, sự đối đầu giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa – tư bản chủ nghĩa, đang trong giai đoạn gay gắt. Chủ nghĩa đế quốc do Đế quốc Mỹ cầm đầu đang mở rộng chiến tranh xâm lược ở nhiều nơi, chúng cố bám lấy Triều Tiên, quyết chiến ở Đài Loan và tích cực giúp đỡ Pháp tiếp tục xâm lược Đông Dương, chúng đang nhanh chóng đẩy mạnh triển khai chiến lược toàn cầu phản cách mạng, áp dụng chiến lược quân sự “trả đũa ồ ạt”, ngăn chặn sự phát triển của phong trào cộng sản. Phe xã hội chủ nghĩa với nòng cốt là liên minh Xô – Trung đang phát triển ngày càng vững mạnh. Cách mạng nhân dân TrungHoa thắng lợi, đặc biệt là sau chiến tranh Triều Tiên Trung Quốc đã trở thành một nước có sức mạnh quân sự mạnh nhất Châu Á. Chính phủ nhân dân thành lập ở Đông Đức cùng với việc Liên Xô có bom nguyên tử đã tạo ra thế cân bằng trong so sánh lực lượng của hai phe.
Năm 1953 là năm "thay đổi" chính trị ở Mát-xcơ-va cùng với sự kiện Xta-lin qua đời; là năm Tổng thống Ai-xen-hao bước vào Nhà Trắng; sự căng thẳng Đông - Tây lần đầu tiên được "hạ nhiệt". Tại Hội nghị Béc-lin được nhóm họp vào ngày 15-1-1954, có đầy đủ cả bốn nước lớn, ý tưởng chủ đạo được nêu ra là việc tổ chức một hội nghị hòa bình, tập hợp các tác nhân liên quan chính - sau này đó chính là Hội nghị Giơ-ne-vơ.  
Cũng trong thời gian này phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa đang diễn ra sôi nổi, đặc biệt là khu vực Nam Á, Trung Cận Đông, Đông Nam Á, Châu Phi.
Xu hướng trung lập tích cực, không tham gia liên minh quân sự với các nước phương Tây, phát triển trong lòng các nước mới giành được độc lập như: Ấn Độ, Miến Điện, Pakixtan, Indônêxia, Ai Cập.....
Có thể nói hai phe đang đấu tranh quyết liệt, tranh thủ tập hợp lực lượng, song do so sánh lực lượng khá cân bằng nên trong thời gian này đã có một sự hoà hoãn thấp giữa hai phe. 
Tiền lệ giải quyết vấn đề chiến tranh Triều Tiên, tại Hội nghị Bàn Môn Điếm 27/7/1954 chỉ đưa ra một giải pháp quân sự, chấp nhận đình chiến tại Triều Tiên 1953 gần như nguyên trạng của hai bên ở vĩ tuyến 38, mà không đưa ra được một giải pháp chính trị. Đó là biểu hiện của hoà dịu Đông – Tây, mở ra triển vọng giải quyết hoà bình các cuộc xung đột quân sự, đáp ứng nguyện vọng hoà bình của nhân dân các nước tham chiến và nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới.
Tình hình nước Pháp: Khi phát động cuộc chiến tranh nhằm lấy lại Đông Dương, thay vì chiến thắng như tướng De Gaulle tuyên bố, quân đội viễn chinh Pháp ngày càng thất bại hơn nữa và nước Pháp ngày càng sa lầy trong các cuộc chiến tranh và các chính phủ Paris thay nhau sụp đổ.
Đặc biệt, chính phủ Pháp vấp phải sự phản đối kịch liệt của dân chúng Pháp vì cuộc chiến hao người tốn của và cũng bởi vì dân chúng Pháp chưa bao giờ ủng hộ chính phủ Pháp trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào. Đây sẽ là một tiền đề quan trọng và tạo điều kiện tốt để nhân dân Đông Dương, nhất là nhân dân Việt Nam tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của phong trào hoà bình tiến bộ trên thế giới, tạo sức ép buộc Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán lập lại hoà bình. 
Trong quốc hội Pháp cũng có nhiều ý kiến khác nhau, nhiều nghị sỹ đòi phải đàm phán ngay với phía Việt Minh. Phe chủ chiến như thủ tướng Laniel, Bộ trưởng Quốc Phòng Pleven, Bộ trưởng ngoại giao Bidault vẫn ngoan cố vì họ hy vọng rằng Mỹ tăng cường viện trợ (điều này được Phó tổng thống Mỹ Nick – xơn tuyên bố năm 1953) có thể cứu Pháp giành chiến thắng để đàm phán với Việt Minh trên thế mạnh. 
2.1.2.Trong nước
Sau 8 năm kháng chiến lực lượng của chúng ta đã thực sự lớn mạnh, chuyển từ phòng ngự sang phản công, trong khi Pháp ngày càng sa lầy và khó có khả năng cứu vãn được đội quân viễn chinh của mình. Quân ta đã giành được thắng lợi quân sự trên khắp các chiến trường, như chiến dịch Biên Giới 1950, Chiến dịch Đông Xuân 1953 – 1954 và đặc biệt với chiến thắng vang dội Điện Biên Phủ đã khiến cho thực dân Pháp không thể chần chừ mà ngồi vào bàn đàm phán, thương lượng ký kết hiệp định Giơ - ne – vơ. 
Việt nam cũng bị cuốn vào vòng xoáy của Chiến tranh lạnh, và đồng thời sự can thiệp của Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ vào nước ta ngày càng nhiều.

2.2.Các bên tham gia
Ngày 7-5-1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi.
Ngày 8-5-1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương khai mạc.
Nếu tại Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với Pháp, ta có tính tự chủ cao, vai trò của các cá nhân lãnh đạo nổi lên rất rõ thì ở Hiệp định Giơnevơ có sự tham gia của các đoàn đàm phán của các nước lớn với tính chất chuyên nghiệp (mặc dù đối với đoàn của ta ngoại giao còn khá non trẻ); lúc này tính tự chủ của Việt Nam hầu như không có, vai trò của các cá nhân lãnh đạo cũng khá mờ nhạt. Đứng đầu các đoàn đàm phán là các bộ trưởng ngoại giao: Phái đoàn Anh, do Anthony Eden làm trưởng đoàn; Phái đoàn Mỹ, do Bedell Smith làm trưởng đoàn; Phái đoàn Liên Xô, do Viacheslav Molotov làm trưởng đoàn; Phái đoàn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, do Chu Ân Lai làm trưởng đoàn; Phái đoàn Pháp, do Georges Bidault làm trưởng đoàn; Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn; Phái đoàn Quốc gia Việt Nam, do Nguyễn Quốc Định làm trưởng đoàn sau Trần Văn Đỗ thay thế; Phái đoàn Lào, do Phumi Sananikone làm trưởng đoàn; Phái đoàn Campuchia, do Tep Than, làm trưởng đoàn.
Xét về phía đế quốc Pháp : Sau những thất bại và sự lệ thuộc vào Mỹ ngày càng lớn ở Đông Dương, Pháp rất lúng túng. Vấn đề cứu vãn quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương trở thành cấp bách đối với Pháp không những để duy trì quyền lợi của chúng ở Đông Dương mà còn đối với cả quyền lợi của Pháp ở Châu Âu và Bắc Phi. Trongthời điểm đó Pháp cũng chịu sức ép mạnh mẽ của dư luận trong nước đòi kết thúc chiến tranh Đông Dương. Trước tình hình đó chủ trương của Pháp là vừa tiến hành chiến tranh, vừa tìm kiếm thương lượng để cứu vãn quân đội viễn chinh Pháp. Pháp đồng ý tham gia Hội nghi Geneva. Tuy nhiên mặc dù phải thương lượng với ta ởGeneva nhưng chính quyền Pháp vẫn bám vào Mỹ để Mỹ can thiệp vào Đông Dương cứu vãn quân đội viễn chinh Pháp và tạo thế mạnh cho Pháp tại bàn hội nghị. Trường hợp Hội nghị Geneva thất bại, Pháp còn tiếp tục chiến tranh với sụ viện trợ của Mỹ. Vì vậy tại Hội nghị, Pháp chỉ muốn giải quyết vấn đề quân sự, ngừng bắn theo kiểu Triều Tiên, không đề cập đến quân sự.
Về phía đế quốc Mỹ: Chính sách của Mỹ lúc đầu là trực tiếp can thiệp quân sự và Đông Dương, sau đó là quốc tế hoá cuộc chiến tranh thông qua một liên minh quân sự ở Đông Nam Á, nhưng tất cả đều thất bại. Mỹ buộc phải chấp nhận một hội nghị quốc tế Geneva về Đông Dương và đến Hội nghị với thái độ chống đối việc giải quyết hoà bình vấn đề Đông Dương. Mục tiêu chính của Mỹ lúc này là vấn đề “hành động thống nhất” và vấn đề “Liên minh quân sự Đông Nam Á”. Mỹ âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh ở Đông Dương, hất cẳng Pháp và chiếm Đông Dương
 Vế phía Anh: Chống lại sự can thiệp của Mỹ vào Đông Dương và ủng hộ Pháp vì nếu Mỹ tăng cường can thiệp vào Đông Dương, bành trướng và hất cẳng Anh ra khỏi khu vực này thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của Anh. Chủ trương của Anh muốn ổn định tình hình Đông Dương trên cơ sỏ chia cắt Việt Nam. Anh làm đồng chủ tịch cùng Liên Xô có quan hệ mật thiết với Liên Xô chủ động đưa ra một số sáng kiến, thúc đẩy Hội nghị kết thúc càng sớm càng tốt.
Nhìn chung bước vào Hội nghị các nước thuộc phe đế quốc có chung mục đích là chống cộng, ngăn chặn thắng lợi của cách mạng Đông Dương nhưng vẫn chưa thống nhất được với nhau về chủ trương, biện pháp và một giải pháp cho Việt Namvà Đông Dương. Mỹ muốn phá Hội nghị, Pháp thì vừa muốn Mỹ can thiệp để cứu vãn nguy cơ đội quân viễn chinh Pháp vừa muốn Hội nghị đạt được một hiệp định đình chiến để cứu vãn quyền lực của mình. Anh thì muốn đạt được được kết quả trên cơ sở chia căt Việt Nam.
Trước tình hình và động thái của các nước đế quốc thì các nước trong Phe Xã hội Chủ Nghĩa có mục đích và ý đồ như thế nào:
Đầu tiên xét về Liên Xô, anh cả của phe chủ nghĩa xã hội: Liên Xô muốn chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương vì lo sợ sự can thiệp của Mỹ sẽ mở rộng chiến tranh Đông Dương sẽ ảnh hưởng đến Liên Xô. Liên Xô cũng muốn tạo điều kiện thuận lợi tranh thủ Pháp trong việc bác bỏ khối cộng đồng phòng thủ châu Âu. Lúc này Khơ-rut-sốp lên nắm chính quyền chủ trương chung sống hoà bình, hoà hoãn với phương Tây. Vị vậy chấm dứt chiến tranh Đông Dương là cần thiết để thực hiện đường lối đó.
Liên Xô lúc này cũng đang cần tranh thủ Pháp một phần là để đối trọng với Mỹ, một phần là tranh thủ Pháp trong việc bác bỏ thành lập khối cộng đồng phòng thủ Châu Âu CED.
Tiếp theo là Trung Quốc, nước xã hội chủ nghĩa mới nổi lên nhưng cũng có những ảnh hưởng nhất định: Đông Dương, nhất là Việt Nam là nước láng giềng có quan hệ lâu đời và liên quan trực tiếp đên nền an ninh của Trung Quốc. Sự can thiệp của Mỹ lúc này làm cho nền an ninh và vận mệnh của Trung Quốc trong tình thế nguy hiểm. Vấn đề chấm dứt chiến tranh Đông Dương trở thành nhu cầu cấp bách củaTrung Quốc nhằm thực hiện chủ trương mở rộng một khu vực đệm, một vùngtrung lập ở Nam Á và Đông Nam Á để thúc đẩy hoà hoãn quốc tế
Nhìn chung, trong phe xã hội chủ nghĩa cả Liên Xô và Trung Quốc khi này đều không muốn đối đầu trực tiếp với các nước đế quốc mà đứng đầu là Mỹ
2.3. Chính sách đối ngoại của ta
2.3.1.Mục tiêu và chủ trương chính sách đối ngoại
 Việt Nam lúc này có vai trò quan trọng trong việc đi đến quyết định mở cuộc đàm phán Giơ-ne-vơ vì ở mặt trận Đông Dương chiến thắng Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ. Vâỵ mục tiêu của Việt Nam lúc này là gì: 
Với thái độ thiện chí cho đàm phán tại Hội nghị, chúng ta chủ trương tham gia đàm phán Hội nghị Geneva để giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam và Đông Dương, ta xác định phải giải quyết triệt để được bốn vấn đề chính: 1, vấn đề đình chiến; 2, Vấn đề hoà bình, độc lập, dân chủ; 3, Vấn đề quan hệ với Pháp; 4, Vấn đề quan hệ giữa Việt – Miên – Lào. Việt Nam chủ trương giữ vững những nguyên tắc cơ bản là độc lập,chủ quyền,thống nhất,toàn vẹn lãnh thổ,hoà bình và dân chủ, phối hợp chặt chẽ với các đoàn thuộc phe XHCN là Trung Quốc và Liên Xô.
Ta chủ trương đẩy mạnh kháng chiến đi đôi với thương lượng lập lại hoà bình trên cơ sở độc lập và thống nhất, giương cao ngọn cờ hoà bình. Nhờ có đường lối chủ trương chính sách đối ngoại đúng đắn đó chúng ta đã tranh thủ được sự ủng hộ của các lực lượng dân chủ tiến bộ yêu chuộng hoà bình và dư luận thế giới. Ngày 26/11/1953, trả lời phỏng vấn của báo Thuỵ Điển “EXPRESSEN” về vấn đề chấm dứt chiến tranh Đông Dương, chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ lập trường: kiên quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng song ta cũng sẵn sàng thương lượng nhằm mục đích giải quyết hoà bình về vấn đề Việt Nam. Tuyên bố đó của Hồ Chủ Tịch là một bước đi ngoại giao rất sắc, đã được dư luận thế giới hoan nghênh.
  2.3.2.Quá trình triển khai chính sách đối ngoại. 
Trong suốt quá trình diến ra Hội nghị chúng ta vẫn liên tiếp chủ động tấn công chính trị, ngoại giao, cô lập và phân hoá địch, đề cao thiện chí của ta và đẩy mạnh khả năng giải quyết vấn đề Đông Dương và Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo nhạy bén sáng suốt của Đảng và sự chỉ đạo trực tiếp của chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở phân tích tình hình thế giới, tương quan so sánh lực lượngtrong những giai đoạn khác nhau của hội nghị, chúng ta đã kịp thời triệu tập các Hội nghị trung ương đề ra những giải pháp đường lối kịp thời nhất.
Quá trình diễn biến tại Hội nghị gồm có 3 giai đoạn:

Giai đoạn I: từ 8/5 đến 19/06/1954, với 6 phiên họp toàn thể và 17 phiên hop hẹp cấp trưởng đoàn. Nội dung chủ yếu là các đoàn nêu lập trường về kết thúc chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương. Ta đưa ra giải pháp toàn diện cả về quân sự và chính trị và giải quyết vấn đề Lào, Miên. Đồng chí Phạm Văn Đồng cũng đưa ra đề nghị 8 điểm, trước hết là vấn đề Pháp phải công nhận độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, giải pháp này của chúng ta đã được nhân dân thế giới ủng hộ.
Giai đoạn II:từ 20/6 đến 10/7/1954, là thời gian phần lớn các trưởng đoàn vắng mặt tại Geneva, diễn ra 6 phiên họp hẹp. Hội nghị làm việc ở cấp chuyên viên và đạt được kết quả kỹ thuật về vấn đề thương binh ở Điện Biên Phủ. Chu Ân Lai sau khi gặp Măng đét Phơ răng, đi Ấn Độ, Miến Điện, ký kết 5 nguyên tắc chung sống hoà bình, thúc đẩy hoà hoãn quốc tế và tạo điều kiện cho Hiệp định Giơnevơ 
Giai đoạn III:diễn ra từ ngày 11/7 đến 20/7 năm 1954, diễn ra các cuộc gặp gỡ, trao đổi ráo riết tay đôi, tay ba hoặc nhiều bên giữa các trưởng đoàn và một phiên họp hẹp cấp trưởng đoàn. Vấn đề trọng tâm của hội nghị lần này là phân vùng tập kết, phân giới tuyến quân sự tạm thời, rút quân đội nước ngoài ra khỏi Đông Dương, thời hạn tổng tuyển cử,…Các nước lớn phe đế quốc đã có sự chuyển biến, Anh, Pháp cố gằng vận động Mỹ quay lại tiếp tục Hội nghị. 
Về phía ta, tại Hội nghị Trung Ương lần thứ VI từ ngày 15 đến ngày 18/7/1954, ta đấu tranh tạo khả năng kết thúc chiến tranh bằng thương lượng hoà bình, chỉ ra kẻ thù của ta là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, là hiếu chiến Pháp và bù nhìn, chúng ta chủ trương đấu tranh phân hoá kẻ thù, hàng ngũ địch, tranh thủ thời cơ phái chủ hoà lên nắm chính quyền ở Pháp để nhanh chóng đạt đến một hiệp nghị đình chiến quyết tâm đi theo con đường hoà bình. 
2.3.3. Kết quả Hiệp định.
 Đêm 20 rạng ngày21/7/1954, hiệp định giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương được kí kết, đoàn Mỹ không tham gia kí kết nhưng đã đưa ra một bản tuyên bố riêng cam kết tôn trọng những điều khoản của Hiệp định.
 Hiệp định giơnevơ gồm các văn bản với những nội dung chủ yếu , đáng lưu ý sau đây:
• Ba Hiệp định chính đình chỉ chiến sự về Việt Nam , lào và campuchia
• Bản tuyên bố cuối cùng của hội nghị
• Bản tuyên bố riêng ngày 21/7/1954 của Mỹ tại Hội nghị Giơnevơ
• Các công hàm trao đổi giữa phó thủ tướng VIệT NAM DCCH Phạm Văn Đồng và thủ tướng Pháp Măngđet Phrăng
Các hiệp định liên quan đến Việt Nam gồm 4 nội dung chính:
a. Những điều khoản về điều chỉnh chiến sự và lập lại hoà bình: ngừng bắn, tập kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực, trao trả tù binh và thường dân bị giam giữ, đổi vùng, vấn đề mồ mả quân nhân hai bên tham chiến.
b. Những điều khoản về duy trì và củng cố hoà bình ở Việt Nam: lập lại giới tuyến quân sự tạm thới ở vĩ tuyến 17 và khu vực phi quân sự , cấm tăng viện nhân viên quân sự, bộ đội , vũ khí và dụng cụ chiến tranh khác vào Việt Nam, cấm xây dựng căn cứ quân sự mới, cấm hai miền không được gia nhập 1 liên minh quân sự nào, cấm sử dụng mỗi miền để phục vụ một chính sách quân sự nào.
c. Những điều khoản chính trị : vấn đề tổng tuyển cử để thống nhất đất nước;trong khi chờ đợi, không khủng bố, trả thù hay phân biệt đối xử với những người đã hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh
d. Những điều khoản qui định việc tổ chức thi hành hiệp định : uỷ ban kiểm sát liên hiệp, uỷ ban giám sát quốc tế trung lập.
III. Đánh giá về Hiệp định Giơnevơ
3.1.Sự nhìn nhận kết quả Hội nghị
 Đánh giá về kết quả và ký kết Hiệp định Giơ ne vơ về lập lại hoà bình ở Việt Nam đã có rất nhiều ý kiến khác nhau: câu hỏi đặt ra “Liệu có phải chúng ta đã đòi quá nontrong Hiệp định Giơnevơ hay không?”
Một ý kiến khác nhận định: Nhìn chung, Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 là một thảm họa đối với Việt Nam. Đối với nhân dân Việt Nam, Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 là một âm mưu ngoại giao nhằm chia cắt lâu dài đất nước...
Ý kiến khác cho rằng, tại Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, ta "chưa độc lập tự chủ, ta cả tin bạn".
Theo nữ luật gia Pháp L.A. Be-le-xa, "Hiệp định Giơ-ne-vơ là kết quả của sự thỏa thuận giữa các cường quốc". 
Tại Hội nghị Giơ ne vơ chúng ta có thực sự thắng lợi, hay đây chỉ là một sự dàn xếp của các nước lớn mà chúng ta phải thực hiện theo? Ai cũng thầy Việt Nam bước vào đàm phán ở Hội nghị trên thế thắng, và kết quả trong Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị không phản ánh đầy đủ lợi ích của nhân dân ta trên chiến trường?
Tất cả các vấn đề đó hiện nay vẫn đang còn rất nhiều tranh cãi nhưng có thể nói, tại Hội nghị khi đó chúng ta đã làm hết mình, làm tất cả những gì có thể, trong hoàn cảnh như thế, tình hình như thế, chúng ta chỉ có thể giành được như thế. Ngoại giao chúng ta lần đầu tiên tham dự một Hội nghị quốc tế có sự “can thiệp” của nhiều nước lớn, chúng ta còn chưa đánh giá được hết vai trò của các nước lớn, ý đồ của các nước lớn.
Tại Hội nghị có hai nước lớn “có vẻ” ủng hộ chúng ta, đó là Trung Quốc và Liên Xô ( không phải các nước đều công nhận Trung Quốc là nước lớn), nhưng họ chỉ làm vậy vì họ có những mục tiêu, toan tính của họ, và phần nào đó chính là sự phản ánh của “chủ nghĩa dân tộc”: Liên Xô năm 1950 đã thiết lập quan hệ ngoại giao với ViệtNam, Liên Xô đã đưa ra kiến nghị về giải quyết vấn đề Đông Dương một cách hòa bình, đề ngăn Mỹ mở rộng chiến tranh ở Đông Dương, và củng cố hoà hoãn ở Viễn Đông, Việt Nam bị chia cắt làm hai miền ở vĩ tuyến 17 nhưng nói chung là vẫn “hoà bình” Liên Xô cũng không muốn làm căng thẳng thêm, và nếu chúng ta xem xét lại ýđồ của Liên Xô khi đưa ra đề xuất triệu tập Hội nghị thì chúng ta sẽ thấy chúng ta đã “quá tin bạn”. 
Trung Quốc, ủng hộ ta cũng chỉ vì muốn củng cố vị thế nước lớn, duy trì đảm bảo an ninh biên giới Việt – Trung và có thể lấy Việt Nam ra đề đàm phán với Mỹ, Anh, Pháp về Đông Dương. Hơn nữa khi này Trung Quốc cũng không muốn đối đầu trực tiếp với Mỹ, đang có xu hướng hoà dịu trong quan hệ Mỹ-Trung, và nếu không có chuyện Trung Quốc cố tình giúp Pháp tại hội nghị thì sau này liệu có chuyện Pháp sẽ là nước tư bản đầu tiên công nhận nước Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa không?
Tổng thống Mỹ Nickson tăng cường viện trợ cho Pháp trong Chiến dịch Điện Biên Phủ và âm mưu nhảy vào thay chân Pháp, chúng không muốn duy trì hoà bình đặc biệt là sau khi chiến tranh lạnh lan rộng sang Châu Á, Mỹ chủ trương thi hành chính sách chống Chủ nghĩa Cộng sản trên toàn cầu,và trong Hội nghị Giơ - ne – vơ, Mỹ luôn chủ trương phá hoại Hội nghị và không chấp nhận bất cứ một giải pháp nào về giải quyết vấn đề Đông Dương.Tổng thống Mỹ Esienhower đã tuyên bố: “ Hoa Kỳ không bị các điều khoản của Hiệp định Giơ - ne – vơ ràng buộc”. 
Thái độ của các bên tham gia không mấy có lợi cho chúng ta, có lẽ chúng ta dừng lại ở đó là đúng, chúng ta không thể đòi được nhiều hơn. Do vậy, đánh giá một cách tổng thể khách quan nhất thì ngoại giao Việt Nam, chính phủ Việt Nam và nhân dân Việt Nam trong hoàn cảnh như vậy đã làm hết những gì có thể, đã tận dụng hết những gì có thể tận dụng để đạt được nhiều nhất trong những gì mà ta có thể đạt được. Cũng như PGS Bùi Đình Thanh đánh giá: "Đấu tranh ngoại giao là nghệ thuật của cái có thể và giúp ta bài học để tìm cách khắc phục"
3.2.Những bài học ngoại giao.
Đánh giá Hiệp định Giơnevơ, như chúng ta đã nói, tuy ở một khía cạnh nào đó nó vẫn chưa hoàn toàn đáp ứng được đòi hỏi cao nhất của chúng ta, đó là một hạn chế của ta, mà chính chúng ta đã thừa nhận là chúng ta đã quá mơ hồ về các nước lớn, chúng ta chưa thực sự đánh giá hết vai trò của các nước lớn. Có rất nhiều lý do khách quan và chủ quan, chúng ta không thể bỏ qua những hạn chế khách quan như phương tiện truyền thông, báo chí chưa thực sự phát triển, nguồn thông tin còn hạn chế....song vẫn đề chủ quan có lẽ vẫn là quan trọng nhất. Chúng ta còn phụ thuộc nhiều và “quá tin” vào Liên Xô và Trung Quốc và đề mặc cho các nước mặc cả trên lưng chúng ta mà không hề hay biết.
Hạn chế và tích cưc, đó có lẽ là tính chất hai mặt cố hữu của một vấn đề, chúng ta không chối bỏ những thiếu sót và càng không thể quên những gì mà ngoại giao chúng ta đã làm được và nhìn lại những thành công đó chúng ta có thể thấy rõ những nhân tố đi đến thắng lợi.
Vai trò lãnh đạo:
Nếu có nhiều nhà phân tích khi đánh giá về các nhân tố thắng lợi đã đưa yếu tố thời đại lên đầu tiên thì chúng tôi lại không ngần ngại đưa vai trò lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo trực tiếp của chủ tịch Hồ Chí Minh lên vị trí ấy. Thời đại có những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào cách mạng của chúng ta lúc đó cũng như là tạo thêm thuận lợi cho chúng ta trên bàn đàm phán: phong trào giải phóng dân tộc đang phát triển mạnh mẽ, gây thêm sức ép cho các nước đế quốc thực dân, và nhiều yếu tố bối cảnh khác như chúng ta đã trình bày, nhưng chúng ta cũng thấy thời đại không phải là không bao gồm những yếu tố gây bất lợi cho chúng ta mà đáng kể nhất phải nói đến là xu thế hoà dịu Đông – Tây bắt đầu ở mức thấp. Thời đại vẫn là yếu tố khách quan, thời đại vẫn luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng xung quanh chúng ta, nhưng thời đại sẽ không làm nên điều gì hết nếu chúng ta không biết tranh thủ và nắm bắt những thời cơ thích hợp, hạn chế tác động của những yếu tố bất lợi. Vai trò của Đảng chính là ở chỗ đó, chính nhờ sự phân tích đánh giá tình hình chính xác, kịp thời, chúng ta đã biết nắm bắt những “thời cơ cách mạng” và đưa ra những đường lối chủ trương chính sách đối ngoại đúng đắn. Chính sách đúng đắn thì ta mới có những hành động triển khai đúng đắn, và mới giành được thắng lợi. Một bước đi sai trong đường lối cũng có thể dẫn đến một hậu quả nghiêm trọng cho vận mệnh của dân tộc.
Chúng ta đã luôn luôn đề cao tinh thần độc lập tự chủ dân tộc, đó là mục tiêu cuối cùng và cũng là mục tiêu cao nhất của cuộc cách mạng dân tộc. Thể hiện ở nguyên tắc ngoại giao “dĩ bất biến ứng vạn biến” của dân tộc ta, luôn luôn linh hoạt, khéo léo, nhân nhượng những gì có thể trên cơ sở bảo đảm độc lập chủ quyền của dân tộc. Ta có nhân nhượng về vị trí địa lý của ranh giới quân sự tạm thời, nhưng không nhân nhượng về tính chất của nó. Đó không phải là đường biên giới chia Việt Namthành hai quốc gia.
Sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, chúng ta đã huy động được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh quân sự, chính trị và sức mạnh ngoại giao tạo nên sức mạnh tổng hợp và thế chủ động cho ta trên bàn đàm phán. 
Và quan trọng hơn chúng ta đã biến ngoại giao thành một mặt trận, mặt trận ngoại giao bao gồm ngoại giao Đảng, ngoại giao Nhà nước, Ngoại giao nhân dân. Chúng ta đã luôn luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh chính nghĩa và nhờ đó chúng ta đã tranh thủ được sự ủng hộ của các lực lượng hoà bình dân chủ trên thế giới. Có ý kiến đã nhận xét, chúng ta thành công là vì ngoại giao của chúng ta lúc bấy giờ đã làm được một việc mà cho tới nay ngoại giao chúng ta cũng khó mà làm được đó là vận động được nhân dân thế giới và nhân dân Pháp ủng hộ chúng ta.
Đặt cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của chúng ta là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đưa nó vào trào lưu dòng chảy cách mạng chung. Kết hợp lợi ích dân tộc phù hợp với xu thế của quan hệ quốc tế lúc đó. Chúng ta tuyên bố chúng ta ủng hộ phong trào hoà bình thế giới, luôn sát cánh cùng phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, và phong trào vô sản ở các nước đế quốc thực dân.
Bài học giành “thắng lợi từng phần” đi đến giành thắng lợi hoàn toàn, vấn đề này được thể hiện xuyên suốt trong quá trình đấu tranh của dân tộc ta từ những năm 1945 – 1954. Từ những bước đi ngoại giao đầu tiên tạo nên bước “phá vây” ngoạn mục trong những năm 1945 – 1946. Những hoạt động đối ngoại và những chủ trương đường lối đối ngoại khéo léo tranh thủ sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào hoà bình thế giới. Và thành công hơn cả là thành công ở Hiệp định Giơnevơ. Chúng ta biết nhân nhượng, nhân nhượng có nguyên tắc, thoả hiệp một cách nghệ thuật giành thắng lợi ngoại giao từng bước và dần dần củng cố thêm lực lượng cho mình, chớp thời cơ đi đến giành thắng lợi quyết định.
Yếu tố con người, chúng ta không thể không kể đến vai trò của đội ngũ cán bộ ngoại giao lúc bấy giờ, những cán bộ đã thực sự giác ngộ cao, ý thức được lợi ích và mục tiêu của dân tộc, có hiểu biết sâu sắc và trình độ học vấn uyên bác, linh hoạt, chủ động, sáng tạo, tự chủ trên bàn đàm phán, biết phân tích đánh giá tình hình chính xác.
Tóm lại ta có thể nói, vai trò ngoại giao trong đàm phán và ký kết Hiệp định Giơnevơ được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, tích cực và hạn chế song dù đó là tích cực hay hạn chế đi nữa chúng cũng là những bài học kinh nghiệm quý báu cho ngoại giao Việt Nam tại Hiệp định Paris 1973 cũng như đối với ngoại giao nước nhà hôm nay và mai sau.

KẾT LUẬN

Năm tháng đã trôi qua và Hiệp định Giơnevơ đã đi vào lịch sử, cùng với Hiệp định Sơ Bộ 6/3/1946, và Hiệp định Paris 1973 đã trở thành 3 văn kiện ngoại giao quan trọng nhất trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc ta. Ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của nó không những đã nhiều lần được khẳng định trongcác văn kiện ngoại giao của chúng ta, song điều chúng tôi muốn đề cập đến trongbài nghiên cứu này chỉ dừng lại ở khía cạnh đánh giá vai trò của chính sách đối ngoạitrong đàm phán và ký kết hiệp định Giơnevơ. Vai trò tiền đề trực tiếp của những thắng lợi quân sự, chính trị có ý nghĩa hết sức lớn lao để đi đến được bàn đàm phán, nhưng nếu không có sự kết hợp của những thành công của ngoại giao thì không thể có được một Hiệp định Giơnevơ - đưa đến một giải pháp toàn diện cả về quân sự và chính trị cho Việt Nam, tuy giải pháp ấy chưa thực sự có thể làm hài lòng tất cả mọi người. Chúng ta đã không trối cãi những hạn chế mà chúng ta chưa làm được tại bàn đàm phán, nhưng theo chúng tôi ngoại giao chúng ta đã làm hết những gì có thể làm. Lợi ích dân tộc phải phù hợp với xu thế chung của quan hệ quốc tế, chúng ta đã biết dừng lại trước khi bước vào “vạch đỏ”, đòi “già” quá thì chính chúng ta sẽ là người làm hỏng Hiệp định, và đòi “non” quá thì chúng ta sẽ là những người bị thiệt. Theo quan điểm của chúng tôi, Hiệp định này của chúng ta thực sự là một thành công. Đó là "sự lựa chọn tốt nhất”  
Hiệp định Giơnevơ đã khép lại và để lại cho chúng ta những kinh nghiệm quý báutrong quá trình đàm phán tiếp theo tại Hiệp định Paris và những bài học ngoại giao mang tính thời sự nóng hổi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt NamXHCN, thời kỳ mở cửa kinh tế, hội nhập quốc tế hiện nay.
“Vai trò của chính sách đối ngoại Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà trong đàm phán và ký kết hiệp định Giơnevơ” - chắc chắn chúng tôi không phải là những người đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này. Những vấn đề nghiên cứu mà chúng tôi đặt ra có thể chưa hẳn là những gì mới mẻ, và những kết quả nghiên cứu của chúng tôi chắc chắn cũng sẽ có những hạn chế. Chúng tôi cũng hy vọng sẽ nhận được sự góp ý của các bạn, và kính mong những thày cô phụ trách của chúng tôi sẽ đưa ra cho chúng tôi những nhận xét, đánh giá, để chúng tôi có thể tiếp tục thảo luận tốt hơn và có một bài tiểu luận hoàn chỉnh hơn về vấn đề này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét