Thứ Hai, 25 tháng 6, 2012

Phân tích mâu thuẫn Xô - Trung trong kháng chiến chống Mỹ và cách giải quyết của Việt Nam

Phân tích mâu thuẫn Xô - Trung trong kháng chiến chống Mỹ và cách giải quyết của Việt Nam


NỘI DUNG CHÍNH
I. BỐI CẢNH VÀ MÂU THUẪN
1. Bối cảnh quốc tế
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, chiến tranh lạnh nổ ra giữa hai khối Đông và Tây, đứng đầu là Mỹ và Liên Xô. Đây là cuộc chiến tranh mang tính toàn cầu vì nó lôi kéo mọi đối tượng tham gia như Mỹ, Liên Xô, các nước đồng minh của hai siêu cường và thế giới thứ ba. Chiến tranh Lạnh làm cho quan hệ quốc tế trong thời gian này trở nên căng thẳng. Do chịu sự chi phối của ý thức hệ nên cả hai cường quốc đều muốn ra sức mở rộng phạm vi ảnh hưởng ở những khu vực mà có thể xây dựng và duy trì chế độ giống mình.
Tháng 10 năm 1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời khi chiến tranh Lạnh giữa Mỹ và Liên Xô đã triển khai trên tất cả mọi phương diện. Lãnh đạo Trung Quốc xuất phát từ mục tiêu căn bản - lợi ích quốc gia để hoạch định và thực hiện chiến lược đối ngoại với Mỹ và Liên Xô, đặc biệt là Liên Xô - đồng minh của Trung Quốc sau này.
2. Mâu thuẫn Xô-Trung
Ngay từ khi mới ra đời, liên minh Xô - Trung đã có những chia rẽ, tác động đến hệ tư tưởng, chính sách và chiến lược của cả hai nước trong chiến tranh lạnh. Lợi ích và an ninh quốc gia bị định hình bởi quan niệm của lãnh đạo hai nước về cách thức tồn tại của quốc gia mình trong hoàn cảnh ấy. Sự chia rẽ bắt đầu vào cuối thập niên 50 thế kỷ 20, lên đến đỉnh điểm vào năm 1969 và diễn tiến theo nhiều hướng khác nhau cho đến cuối những năm 80.
Trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, cả Liên Xô và Trung Quốc đều giúp đỡ chúng ta chống lại kẻ thù chung là Mỹ nhưng lại có mâu thuẫn sâu sắc với nhau. Thông qua cuộc chiến tranh ở Việt Nam, cả Liên Xô và Trung Quốc đều muốn tranh thủ Việt Nam nhằm khẳng định đường lối và vị trí của mình. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn này. 
Một trong những lí do chính để Trung Quốc và Liên Xô giúp đỡ Việt Nam là muốn chứng tỏ mình là nước Xã hội chủ nghĩa (XHCN) đích thực, mong muốn chứng tỏ vị trí tiên phong và lãnh đạo của mình trong phong trào giải phóng dân tộc của các nước thế giới thứ ba, lôi kéo Việt Nam về phe mình. 
Mặc dù nhận thức được mâu thuẫn này từ rất sớm nhưng vì muốn tranh thủ được sự ủng hộ của cả Liên Xô và Trung Quốc nên chúng ta đã tránh không công khai đề cập đến vấn đề này. Đến năm 1963, mâu thuẫn này tác động sâu sắc đến khối đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, ảnh hưởng đến nội bộ của các Đảng anh em nên ngày 10/12/1963 Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam mới có tuyên bố chính thức đề nghị các Đảng anh em chấm dứt công kích nhau và triệu tập hội nghị các Đảng cộng sản để bàn về vấn đề này.
Trong tình hình mâu thuẫn Xô-Trung trở nên sâu sắc, Đảng Lao động Việt Nam đã cố gắng nghiên cứu tìm ra những điểm đồng, điểm khác biệt trong quan hệ giữa mỗi nước với Việt Nam, xác định lợi ích và chính sách của mỗi nước trong vấn đề chiến tranh Việt Nam, tìm ra mẫu số chung là ủng hộ, giúp đỡ nhân dân Việt Nam chống Mỹ, làm nghĩa vụ quốc tế đối với một nước XHCN, đảm bảo hòa bình trên thế giới.
Tuy nhiên trong quan hệ của Đảng ta với Trung Quốc và Liên Xô còn tồn tại một số những bất đồng. Đối với Liên Xô là sự bất đồng trong việc đánh giá Mỹ, Liên Xô muốn Việt Nam tiến hành đàm phán chấm dứt chiến tranh vì thực sự Liên Xô không muốn trực tiếp đối đầu với Mỹ thông qua sự giúp đỡ Việt Nam. Còn Trung Quốc tuy ủng hộ Việt Nam nhưng luôn gắn sự ủng hộ đó với việc lên án Liên Xô, lo sợ Việt Nam bị ảnh hưởng bởi Liên Xô. Trong bối cảnh đó, chủ trương của ta là không tham gia trực tiếp vào mâu thuẫn hai nước. Cách xử lý này gặp rất nhiều khó khăn thậm chí chỉ trích từ cả hai phía.
Giai đoạn này đã đặt ra cho ngoại giao Việt Nam nhiệm vụ hết sức nặng nề và phức tạp là vừa đấu tranh chống lại thủ đoạn và chính sách ngoại giao thâm độc của Mỹ, vừa đảm bảo duy trì sự viện trợ, sự ủng hộ và đoàn kết của cả Liên Xô và Trung Quốc bằng việc sử dụng chính sách cân bằng.
II. CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM
1. Lựa chọn chính sách cân bằng, Việt Nam muốn gì?
Trước hết, chúng ta cần phải hiểu chính sách cân bằng là gì. Chính sách cân bằng là chính sách đối ngoại được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ nhằm mục đích đạt được và duy trì thế cân bằng khi đứng giữa Liên Xô và Trung Quốc. Tên gọi của chính sách về sau xuất phát từ chính mục đích “cân bằng” này. Việt Nam muốn tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ từ cả hai nước nhưng đồng thời phải tránh được sự ảnh hưởng bởi những biến đổi trong quan hệ giữa hai nước lớn nhất trong phe XHCN lúc bấy giờ.
Câu hỏi đặt ra là tại sao Việt Nam lại chọn chính sách cân bằng? Phải khẳng định rằng “Chính sách của một quốc gia liên quan đến quyết định lựa chọn những hướng hành động và phương cách hành động để giải quyết một vấn đề cụ thể sinh ra bởi hoàn cảnh và điều kiện cụ thể”1. Vấn đề cụ thể dẫn đến việc lựa chọn chính sách cân bằng là vấn đề nội lực và ngoại lực. Nguyên tắc chính trong các quyết định của Việt Nam là nguyên tắc tự lực cánh sinh. Nhưng nếu chỉ dựa vào nội lực thôi thì chưa đủ để Việt Nam khắc phục được những bất lợi trên cán cân so sánh lực lượng với Mỹ - kẻ thù chính của ta trong giai đoạn này. Do đó, ngoại lực không chỉ là yếu tố phải luôn đi kèm với nội lực mà nó đã trở thành yếu tố được nhấn mạnh hơn cả. Trong hoàn cảnh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó, ngoại lực có thể tìm kiếm từ phía các nước nội khối XHCN, từ phía các quốc gia và vùng lãnh thổ có thiện chí ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và từ phía nhân dân tiến bộ trên thế giới. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung vào nghiên cứu sự tác động của ngoại lực đến từ phía các nước nội khối mà cụ thể là hai nước lớn Liên Xô và Trung Quốc. 
Sự ủng hộ của cả Liên Xô và Trung Quốc đều rất có lợi cho Việt Nam, nhưng kèm theo đó cũng là những hạn chế không nhỏ. Xét về thực lực thì Liên Xô là một quốc gia có sức mạnh về kinh tế, quân sự hàng đầu trong khối XHCN và là một đối cực của Mỹ. Liên Xô đã giúp đỡ nhiều nước và đồng thời cũng là anh cả trong khối các nước XHCN, có ảnh hưởng tới các quốc gia khác trong khối, vì vậy nếu Liên Xô đứng ra ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam thì việc tìm kiếm sự ủng hộ từ các nước đó cũng trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên, cũng chính vì Liên Xô đóng vai trò lớn như thế nên Việt Nam sẽ chịu áp lực không nhỏ nếu nhận được sự giúp đỡ từ phía Liên Xô. Ngoài ra, tiến trình hòa hoãn Xô – Mỹ cũng khiến Liên Xô trở nên dè dặt hơn trong vấn đề Việt Nam; nhưng với vai trò là đầu tàu của phe XHCN Liên Xô cũng không thể hoàn toàn bỏ mặc Việt Nam mà chỉ là giúp đỡ như thế nào và giúp đỡ tới đâu. Hơn nữa mâu thuẫn giữa hai cường quốc Xô – Mỹ dẫn tới một hệ lụy là ở đâu có mặt Liên Xô thì ở đó Mỹ sẽ không bỏ qua nên chiến tranh Việt Nam có nguy cơ sẽ càng trở nên gay gắt hơn nữa. Trong khi đó, nếu quan hệ với Trung Quốc, vấn đề an ninh biên giới phía Bắc của Việt Nam được đảm bảo – đó là một lợi thế. Trung Quốc lại là nước đã và đang giành nhiều ủng hộ lớn cho Việt Nam trong thời điểm đó. Ngoài ra, Trung Quốc cũng là một thành viên của phong trào Không liên kết, Việt Nam có thể thông qua đó mà tìm kiếm sự ủng hộ của các nước khác cũng tham gia phong trào này. Thế nhưng cũng chính vì có chung đường biên giới phía Bắc với Trung Quốc mà áp lực lên Việt Nam cũng rất đáng kể. Thêm vào đó, bắt đầu từ những năm 1958, ở Trung Quốc bắt đầu tiến hành “Đại nhảy vọt” và “Đại cách mạng văn hóa” khiến nền kinh tế Trung Quốc rơi vào tình trạng thảm họa kinh tế và gây ra bóng đen kinh hoàng bao trùm khắp trời Bắc Kinh nên vấn đề viện trợ cho Việt Nam lúc này không còn được chú trọng như trước. 
Nếu chỉ đơn thuần so sánh giữa những khía cạnh có lợi và bất lợi trong mối quan hệ Việt – Xô và Việt – Trung như trên thì Việt Nam vẫn chưa thể đưa ra lựa chọn đứng về phía nào là hợp lý. Song nếu xem xét và phân tích cụ thể tình hình, chúng ta có thể thấy giai đoạn 1955 – 1964, so với Trung Quốc, Liên Xô thực sự dành ít sự quan tâm cho Việt Nam hơn, trong khi lượng viện trợ mà Việt Nam nhận được chủ yếu là của Trung Quốc. Hơn nữa, mâu thuẫn Xô–Trung không ngừng gia tăng và có thể dẫn đến xung đột, nếu trường hợp đó xảy ra Việt Nam hoàn toàn không thể tiếp tục duy trì vị trí trung gian mà buộc phải quyết định lựa chọn đứng hẳn về một bên có lợi hơn cho mình. Thực tiễn đã chứng minh đến tháng 3/1969 các căng thẳng dọc theo biên giới hai nước đã leo thang dẫn đến các cuộc đụng độ quân sự nổ ra dọc sông Ussuri trên đảo Damansky (theo cách gọi của Liên Xô) hay còn gọi là đảo Trân Bảo (theo cách gọi của Trung Quốc), theo sau đó còn có thêm nhiều cuộc đụng độ khác xảy ra trong tháng 8 cùng năm. Giữa một bên là mối quan hệ Việt – Xô không mấy khăng khít cùng với sự giúp đỡ có chừng mực từ phía Liên Xô và bên kia là mối quan hệ Việt – Trung gần gũi với những khoản viện trợ thiết thực, cộng thêm nguy cơ đối mặt với những căng thẳng Xô – Trung như kể trên nếu Việt Nam có xu hướng nghiêng về Trung Quốc cũng là một khả năng chấp nhận được. Vậy tại sao Việt Nam vẫn không lựa chọn như thế? 
Việt Nam rất cần trợ lực từ bên ngoài nên chủ trương chính trong quan hệ với nước ngoài là nhận được nhiều nhất từ tất cả mọi lực lượng, nếu có thể. Đứng trước việc phải chọn và muốn tất cả, Việt Nam phải xác định rõ lại vai trò và vị trí của mình trong mối quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc đứng từ phía bên kia, tức là Việt Nam xem xét những lợi ích (nếu có) mà Liên Xô và Trung Quốc nhận thấy có thể có được khi giữ mối quan hệ với nước ta.
Liên Xô từ năm 1964 bắt đầu tăng cường ảnh hưởng đối với Việt Nam chủ yếu thông qua việc cung cấp viện trợ quân sự. Liên Xô chịu sự ràng buộc bởi tinh thần vô sản quốc tế, nên phải không để cho Việt Nam thất bại bởi vì Liên Xô – nước lớn mạnh ảnh hưởng nhất trong khối XHCN – để cho một nước đồng minh về ý thức hệ sụp đổ sẽ gây nên sự mất lòng tin cũng như uy thế của nước này đối với cả các nước nội khối và các nước thuộc thế giới thứ ba; ngoài ra, nó còn gián tiếp dẫn đến tình thế mà Liên Xô không mong muốn: sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc lên các nước đó. Một điểm quan trọng mà thông qua giúp đỡ Việt Nam Liên Xô có thể có được là đảm bảo nước ta không tuyệt đối ủng hộ Trung Quốc. Về phía Trung Quốc, nước này có hai lợi ích chiến lược tại Việt Nam. Thứ nhất, lập trường của Trung Quốc đối đầu gay gắt với Mỹ - nước ủng hộ mạnh mẽ cho Đài Loan; vấn đề nội khối luôn được ưu tiên hơn. Thứ hai, mục tiêu của nước này là gia tăng ảnh hưởng đối với Việt Nam và đối với các nước khác, gồm nội khối và các nước thế giới thứ ba - thông qua Việt Nam và cuộc chiến chống Mỹ của nước ta – để chống lại Liên Xô. Ngoài ra, cả hai nước này có được lợi ích chung về uy thế và uy tín đối với thế giới qua việc tham gia, một phần gián tiếp, vào cuộc chiến liên quan với Mỹ - cường quốc số một thế giới, và vì đây là “cuộc đụng đầu lịch sử” tại Việt Nam.
Như vậy chúng ta có thể thấy rõ cả hai nước Liên Xô và Trung Quốc đều có một phần lợi ích chiến lược gắn chặt với Việt Nam. Khi một nước mà các nước khác thấy được từ nó một lợi ích quan trọng thì việc giữ mối quan hệ với nước đó là điều cần thiết.
Tóm lại, thông quan việc đưa ra nhiều nhất những tình huống có thể dựa trên tình hình thực tế lúc đó, ta có thể thấy được việc chọn chính sách cân bằng Xô – Trung của Việt Nam là một chính sách đúng đắn và phù hợp với thực tiễn. Và lịch sử đã chứng tỏ rằng, Việt Nam đã thành công trong việc tranh thủ được sự ủng hộ từ cả hai nước để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn năm 1975.
2. Việt Nam có duy trì được sự cân bằng này liên tục qua các thời kỳ không?
Có thể khẳng định rằng trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam đã duy trì được thế cân bằng giữa Liên Xô và Trung Quốc, song một câu hỏi khác là sự cân bằng ấy có liên tục không? Có phải trong giai đoạn nào Việt Nam cũng giữ được thế cân bằng và không bị nghiêng về một bên không? Có thể nói, trong cả quá trình chống Mỹ, thế cân bằng nhìn chung là giữ được nhưng trong từng giai đoạn sự cân bằng ấy không phải lúc nào cũng có. Có những lúc Việt Nam dường như hơi nghiêng về Trung Quốc và lại có những lúc ngả về Liên Xô. 
 Những năm 1954 – 1959, Trung Quốc giúp đỡ Việt Nam rất nhiều trong khi Liên Xô dường như đứng ngoài cuộc. Mâu thuẫn hai nước lúc này chưa gay gắt, mới chỉ có những dấu hiệu rạn nứt. Việt Nam đã rất khôn khéo trong việc không đứng về bên này chỉ trích bên kia, không công khai bày tỏ quan điểm hay bàn luận đến những vấn đề nhạy cảm này nên không gây bất hoà với nước nào. 
 Những năm 1960 – 1964, ta nghiêng về Trung Quốc
Đầu giai đoạn 1960-1964, Việt Nam đề ra nhiệm vụ bảo vệ sự đoàn kết nhất trí của phe XHCN, trước hết là giữa Liên Xô và Trung Quốc, tranh thủ sự giúp đỡ về mặt vật chất cũng như tinh thần của hai nước này.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã thực hiện nhiều biện pháp để giữ vững khối đại đoàn kết XHCN, làm giảm mối bất hoà giữa Liên Xô và Trung Quốc. Tại hội nghị Bucaret (6/1960), đồng chí Lê Duẩn đã kêu gọi Khrushchev và Đặng Tiểu Bình giữ vững mối đoàn kết vì lợi ích chung của cách mạng thế giới, đặc biệt vì lợi ích cuả cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.2 Tại Hội nghị lần thứ 81 Đảng Cộng sản Công nhân quốc tế (11/1960) tại Moscow, chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương giải quyết mâu thuẫn bằng việc đi đến kí kết tuyên bố chung. Do điều kiện lịch sử hạn chế, Việt Nam chưa tìm ra chính xác các quy luật của CNXH, về cơ bản cũng không góp phần dàn xếp mâu thuẫn Xô - Trung được3. Tháng 2/1963 Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam ra tuyên bố đề nghị các Đảng anh em ngừng công kích lẫn nhau trên đài phát thanh và báo chí và đề nghị hợp tác giữa các Đảng cộng sản để giải quyết bất hoà trong phong trào cộng sản và công nhân thế giới.4
Cuối giai đoạn: Có thể thấy rằng trong thời gian này, mối quan tâm thực sự của Liên Xô đối với cuộc chiến tranh miền Nam là sự có mặt của Mỹ và Trung Quốc. Trong khi đó, tính đến năm 1963, tổng lượng vũ khí mà Bắc Kinh chuyển vào Việt Nam đã lên tới 320 triệu nhân dân tệ. Hè năm 1962, Trung Quốc gửi cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa súng đạn đủ để trang bị cho hơn 200 tiểu đoàn. Miền Bắc Việt Nam cũng đã được phía Trung Quốc giúp sức trên con đường xây dựng XHCN và từng bước hoàn thành kế hoạch năm năm lần thứ nhất 1960 – 19655. Như vậy, Trung Quốc đã chủ động can thiệp hỗ trợ cho cuộc chiến Việt Nam, tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng việc Trung Quốc hợp tác quân sự với Việt Nam chỉ nhằm tạo cơ hội để Trung Quốc đưa Việt Nam vào quỹ đạo của mình. Việc này được đánh dấu bằng sự kiện Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc thăm Hà Nội và ký Hiệp ước Hợp tác Quân sự vào tháng 12/1964.
Trong giai đoạn này, Đảng ta có trách nhiệm lớn lao trong sự nghiệp giữ gìn sự đoàn kết trong khối XHCN nhưng do chưa đủ thông tin về các vấn đề quốc tế, chưa hiểu được bản chất mâu thuẫn trong phe XHCN và mâu thuẫn Xô - Trung, lại chịu tác động của những luận điểm cực tả của Đảng Trung Quốc nên phê phán có chỗ chủ quan. Do vậy, quan hệ Việt Nam - Liên Xô xấu đi một thời gian, tạo nên thế mất cân bằng trong quan hệ giữa ta với hai nước XHCN lớn. 
 Những năm 1965 – 1968: Duy trì thế cân bằng Xô – Trung -_một bước chuyển quan trọng trong chính sách đối ngoại Việt Nam:
• Nhận thức, mục tiêu, nguyên tắc, biện pháp:
Trong giai đoạn này, Việt Nam đang ở trong hoàn cảnh phức tạp, bị kẹp giữa hai nước XHCN lớn nhất thế giới trong khi hai bên đang có mâu thuẫn sâu sắc và đều có tinh toán riêng của mình. Tuy nhiên các nhà lãnh đạo Việt Nam đã có hướng đi đúng đắn trong việc thực hiện chính sách đối ngoại nhằm cân bằng quan hệ của Việt Nam với cả hai nước trong khi vẫn tranh thủ được sự ủng hộ về vật chất và tinh thần. Việt Nam nhận thức được rằng các điều kiện khách quan đầu năm 1965 tạo cơ hội tốt để duy trì mối quan hệ hữu nghị với cả Liên Xô và Trung Quốc, từ đó nhận được tất cả sự ủng hộ có thể từ cả hai nước này. 
• Các hoạt động đối ngoại cụ thể với Trung Quốc:
Bằng các hoạt động đối ngoại cụ thể với Trung Quốc, ta đã duy trì được sự giúp đỡ của nước này về cả vật chất lẫn tinh thần. Các cuộc nói chuyện của nhà lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam trong hai năm 1964, 1965 (giữa Mao Trạch Đông và Lê Duẩn 8/1964 và giữa Mao Trạch Đông với Phạm Văn Đồng 10/1964) cho thấy mối quan hệ Việt – Trung thật sự tốt đẹp. Ngày 6/5/1965, ta kí một thoả thuận bí mật, theo đó Trung Quốc sẽ gửi quân đến chiến đấu ở Việt Nam. Ngày 17/11/1968, thủ tướng Phạm Văn Đồng và đồng chí Nguyễn Văn Linh nhấn mạnh lòng biết ơn của Việt Nam đối với sự giúp đỡ to lớn của Trung Quốc.
Đầu năm 1965, Liên Xô cải thiện quan hệ và bắt đầu viện trợ cho Việt Nam. Đây cũng chính là một lí do khiến quan hệ Việt – Trung có lúc trở nên căng thẳng. Trong cuộc gặp gỡ các nhà lãnh đạo Việt Nam, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nhiều lần tỏ ý phản đối việc Việt Nam nhận viện trợ của Liên Xô. Chu Ân Lai trong một cuộc nói chuyện với Phạm Văn Đồng đã nói rằng Việt Nam không nên nhận viện trợ của Liên Xô và cho rằng Liên Xô viện trợ Việt Nam để mặc cả với Mỹ. Đặng Tiểu Bình thậm chí còn nói với lãnh đạo Việt Nam rằng: “Từ giờ về sau, các anh không nên nhắc tới việc đồng thời nhận viện trợ của cả Trung Quốc và Liên Xô”6. Khi một nhà lãnh đạo Trung Quốc sang Việt Nam gặp chủ tịch Hồ Chí Minh và đề nghị Việt Nam đứng hẳn về phía Trung Quốc, Trung Quốc sẽ viện trợ không hoàn lại đầy đủ cho Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo từ chối: “Viện trợ của đồng chí nào cũng phải trả thôi. Việt Nam đang còn nghèo, ai giúp cũng đều hoan nghênh”.
Đánh giá về ý nghĩa quan trọng của sự ủng hộ, giúp đỡ từ bên ngoài đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "10 năm trước đây, chúng ta hầu như cô đơn, chỉ nhờ sức mạnh đoàn kết mà cách mạng thắng lợi. Ngày nay, nhân dân ta lại có đại gia đình gồm 900 triệu anh em từ Á sang Âu và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới ủng hộ. Cho nên cuộc đấu tranh chính trị để thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước tuy nhiều khó khăn, nhưng chúng ta nhất định sẽ thắng lợi"7. Tuy nhiên, Người cũng đồng thời nêu rõ: "Phương châm của ta hiện nay là: “tự lực cánh sinh là chính, việc các nước bạn giúp ta là phụ. Các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta. Ta khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta. Song nhân dân và cán bộ ta tuyệt đối chớ vì bạn ta giúp nhiều mà đâm ra ỷ lại"8.
Tiếp xúc giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn được duy trì ở một mức độ nhất định kể cả khi Liên Xô bắt đầu viện trợ và ủng hộ cuộc kháng chiến của Việt Nam. Thời kỳ này mâu thuẫn Xô - Trung có phần lắng dịu và lợi ích quốc gia bắt đầu được đề cao. Trước tình hình đó, cuối năm 1967, Bộ Chính trị xác định một đường lối ngoại giao mà không cần phải quan tâm quá nhiều đến những mâu thuẫn của họ. Sau năm 1966 Đảng luôn nhắc nhở cán bộ và Đảng viên của mình rằng Việt Nam dân chủ Cộng hoà có một chính sách tự chủ thích hợp với sự phát triển đặc biệt của Việt Nam.
• Các hoạt động cụ thể với Liên Xô:
Trong những năm 1965 – 1968 Liên Xô không ngừng ủng hộ Việt Nam trên mặt trận chính trị và ngoại giao. Đại hội lần thứ 23 Đảng cộng sản Liên Xô (từ 26/3 đến 16/4/1966) đã dành một phần quan trọng trong chương trình nghị sự cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Đảng cộng sản Liên Xô hoàn toàn ủng hộ và sẽ tiếp tục ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam anh hùng, đã và sẽ tiếp tục viện trợ vật chất và tinh thần cho nhân dân Việt Nam. Năm 1969, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập và ngay lập tức Liên Xô công nhận và thiết lập qua hệ cấp đại sứ. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được nâng cao tầm uy tín trên trường quốc tế. Liên Xô liên tục viện trợ lớn cho việc xây dựng XHCN ở miền Bắc. Đến năm 1968, viện trợ quân sự của Liên Xô đạt mức cao nhất chiếm khoảng 50% viện trợ của các nước XHCN9. Về mặt quân sự, viện trợ của Liên Xô có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đưa những vũ khí hiện đại tới chiến trường Việt Nam, góp phần đưa đến thắng lợi nhanh chóng và hiệu quả. Đảng và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa luôn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc trước sự giúp đỡ và ủng hộ từ nhân dân và chính phủ Liên Xô. Trong bài diễn văn vào tháng 4/1965, Đồng chí Phạm Văn Đồng khẳng định: Việt Nam “càng được phe XHCN ủng hộ và giúp đỡ trên tất cả lĩnh vực, thì càng có khả năng giành thắng lợi mạnh mẽ và quyết định, càng có khả năng đánh thắng kẻ thù “. 
Đầu năm 1965, tân thủ tướng Liên Xô, Kosygin, thăm Bắc Kinh, Hà Nội, Bình Nhưỡng như một cách đánh dấu sự khôi phục chính sách châu Á của Liên Xô. Hoạt động ngoại giao con thoi này nhằm hai mục đích: hàn gắn quan hệ Xô – Trung và ngăn chặn hoạt động quân sự của Mỹ ở Việt Nam. Trong chuyến thăm Hà Nội, tháp tùng Kosygin có các chuyên viên tên lửa. Ngày 10/2/1965, Liên Xô và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký hiệp ước hỗ trợ kinh tế và quân sự. Điều này đáng chú ý là vì chỉ mới vào tháng 12-1964, Bắc Việt đã tuyên bố sẽ không hoan nghênh các chuyên viên dân sự và quân sự Liên Xô. Lúc này, Hà Nội đang được cả hai thế lực cộng sản lôi kéo. Sự hố̃ trợ quân sự to lớn của Liên Xô từ sau 1965 cũng có mục đích chung là giảm bớt mối liên hệ của Trung Quốc tại Việt Nam, nhưng điều này không có nghĩa là ta giờ đây đứng về phía Liên Xô trong cuộc tranh chấp Xô – Trung. Thực tế, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lựa chọn chính sách cân bằng để có thể tranh thủ nhiều nhất sự giúp đỡ của hai “anh lớn” trong hệ thống XHCN. Khôn khéo “lợi dụng” cả Trung Quốc và Liên Xô, Việt Nam đã giữ được vị trí độc lập trong các mục tiêu chính trị, giữ thế chủ động, không để phụ thuộc về viện trợ dẫn tới phụ thuộc về chính trị.
• Kết quả

Như vậy, giai đoạn 1965-1968 đã thể hiện một cách rõ nét nhất sự thành công của ngoại giao Việt Nam trong việc cân bằng mối quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc. Ta đã xây dựng và triển khai một chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ dựa trên những nhận thức đúng đắn và sâu sắc về bản chất và mục đích của hai cường quốc XHCN này. Nhờ đó, ta đã duy trì và củng cố mối quan hệ, tranh thủ sự ủng hộ về tinh thần và chi viện về vật chất to lớn của cả hai nước. Đồng thời, Việt Nam cũng đã hạn chế đến mức thấp nhất tác động tiêu cực của mâu thuẫn Xô - Trung và sự lợi dụng mâu thuẫn này của đế quốc Mỹ vào cuộc kháng chiến của ta. Đường lối sáng suốt của Việt Nam với sự chỉ đạo tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được một học giả nước ngoài nhận xét: “ Hồ Chí Minh đã khéo léo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi giữa hai ngọn sóng Xô - Trung trong thập kỷ 60 ” 10
 Những năm 1969 – 1972 và 1973 – 1975:
Trong các giai đoạn này tuy không công khai nhưng Việt Nam có phần nghiêng về phía Liên Xô. Một phần nguyên nhân là do Trung Quốc lúc này đang diễn ra cuộc Cách mạng văn hoá làm cho xã hội có nhiều biến động. Hơn nữa thời kì này Trung Quốc có một số bất đồng về chính sách với ta: cuối năm 1968 khi Việt Nam sắp thoả thuận với Mỹ chuyển đàm phán sang giai đoạn mới, Trung Quốc phản đối quyết liệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh phải cử đoàn cán bộ cấp cao miền Nam sang Trung Quốc thể hiện quyết tâm chống Mỹ. Từ giữa năm 1971, tình hình thuận lợi hơn nhưng Việt Nam vẫn thận trọng. Tháng 10-1972, khi Việt Nam trao cho Mỹ đề nghị hoà bình có tính chất quyết định, thì chúng ta cũng đồng thời trao văn bản đó cho lãnh đạo Liên Xô, Trung Quốc và đều nhận được sự ủng hộ cao. Đây là một thắng lợi lớn của chủ trương độc lập, tự chủ, chân thành, đoàn kết của Việt Nam. Mười năm chống chọi với đế quốc Mỹ cũng là mười năm giữ đoàn kết Xô-Trung, giữ cân bằng quan hệ với hai nước. Báo chí quốc tế thường ví von Hà Nội đã "làm xiếc thăng bằng" trong quan hệ với hai nước lớn. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử, chúng ta cũng không tránh khỏi sai sót trong vấn đề này. Đầu năm 1972, Liên Xô, Trung Quốc đi vào hoà hoãn với Mỹ. Thiếu sót của ta là chậm phát hiện và đánh giá chính xác khả năng và giới hạn của quá trình hoà hoãn cũng như chưa xác định được các khả năng Việt Nam có thể khai thác trong cuộc chơi quốc tế lớn này nhằm phục vụ cho cuộc đấu tranh chống Mỹ. Quan hệ hòa thuận với các nước lớn, giữ vững độc lập, tự chủ luôn là mối quan tâm hàng đầu của ngoại giao Việt Nam trong bất cứ hoàn cảnh nào.
III. ĐÁNH GIÁ VÀ PHẢN BIỆN
1. Đánh giá hiệu quả của chính sách cân bằng
Đánh giá đầu tiên mà chúng tôi đưa ra về việc thực hiện chính sách cân bằng này là sự không liên tục qua các giai đoạn. Mặc dù mục tiêu xuyên suốt của chính sách đối ngoại của Việt Nam trước mâu thuẫn Xô-Trung là sự cân bằng. Nhưng trong quá trình thực hiện có nhiều giai đoạn chúng ta không giữ được sự cân bằng. Giai đoạn trước 1965, ta có xu hướng nghiêng về phía Trung Quốc là một tất yếu khách quan không phụ thuộc vào sự lựa chọn của ta. Nguyên nhân là do sự nghi kị của phía Liên Xô đối với ta, dẫn đến sự thiếu quan tâm, không giúp đỡ của Liên Xô đối với ta. Giai đoạn 1965-1968 đánh dấu sự thành công của ngoại giao trong việc thực hiện thành công việc thiết lập thế cân bằng trước mâu thuẫn Xô-Trung. Giai đoạn từ cuối 1968 đến 1975, chúng ta lại hơi nghiêng về Liên Xô. Thế cân bằng khó có thể giữ được khi Trung Quốc, với những vấn đề nội tại của mình đã tác động xấu đến nước ta. Hơn nữa, Trung Quốc tỏ ra thiếu thiện chí, muốn can thiệp sâu vào quyền dân tộc tự quyết của chúng ta, phản đối việc chúng ta đàm phán với Mỹ để sớm kết thúc chiến tranh. Việc chúng ta nghiêng về phía Liên Xô là một sự lựa chọn dễ hiểu xuất phát từ mục tiêu “lợi ích quốc gia là trên hết”. 
 Cuối cùng, chúng tôi cho rằng việc Việt Nam lựa chọn chính sách cân bằng, có thay đổi linh hoạt là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với hoàn cảnh của nước ta cũng như bối cảnh lịch sử và mâu thuẫn Xô-Trung.Nhờ chính sách đối ngoại đúng đắn, sáng tạo, nhờ kinh nghiệm trong các hoạt động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ta đã phát huy được các nhân tố thuận lợi, hạn chế khó khăn. Vừa tránh được những hệ quả xấu của mâu thuẫn Xô-Trung, vừa tranh thủ được sự ủng hộ của cả hai nước này nhanh chóng kết thúc chiến tranh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Việt Nam nhận được sự ủng hộ của Liên Xô với cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, nhờ đó tranh thủ được sự ủng hộ của các nước thuộc khối XHCN mà Liên Xô là anh cả. Liên Xô đã luôn ủng hộ Việt Nam trên mặt trận chính trị và ngoại giao, giúp Việt Nam nâng cao uy tín của mình trên trường quốc tế. Hỗ trợ về mặt quân sự của Liên Xô cũng đã góp phần không nhỏ vào chiến thắng cuối cùng của Việt Nam trước đế quốc Mỹ.
Mối quan hệ thân thiết giữa Việt Nam và Trung Quốc đã đảm bảo cho vấn đề an ninh biên giới phía Bắc, giảm đi một mối lo lớn để tập trung toàn lực vào cuộc kháng chiến chống Mỹ. Không những thế, chúng ta còn nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ của Trung Quốc về nhiều mặt như quân sự, kinh tế góp phần vào thành công của đại thắng mùa xuân 1975.
Việt Nam đứng giữa, sử dụng Trung Quốc và Liên Xô để kìm chế và đối trọng nhau, vừa hạn chế việc các nước này ép buộc, gia tăng ảnh hưởng với Việt Nam, vừa khiến hai nước này phải tôn trọng sự độc lập tự chủ và quyền dân tộc tự quyết của Việt Nam trong việc hoạch định đường lối kháng chiến và chính sách đối ngoại.
Như vậy, với sách lược đối ngoại khôn ngoan, trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ khó khăn, mâu thuẫn giữa hai nước anh em Liên Xô – Trung Quốc ngày càng gay gắt, Việt Nam vẫn có được sự ủng hộ của cả hai anh lớn, và quan trọng hơn là vẫn có một tư thế độc lập, tự chủ trong chính trị và ngoại giao. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, vẫn có những nghi ngờ rằng liệu Việt Nam có thể làm tốt hơn không? Chúng tôi sẽ giải quyết vấn đề này sau đây.
2. Việt Nam có lựa chọn nào khác không?
Nhiều ý kiến cho rằng trong giai đoạn này Việt Nam tỏ ra “ba phải”, “hai mặt” trong quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, rằng nếu Việt Nam “ngả hẳn về một bên” thì sự giúp đỡ của đồng minh sẽ nhiệt tình hơn chứ không ở mức độ cầm chừng như Liên Xô và Trung Quốc đã thể hiện. Ngay trong nội bộ Đảng ta thời bấy giờ cũng xuất hiện mâu thuẫn gay gắt giữa hai phe “thân Xô” và “thân Trung”. Một câu hỏi nữa đặt ra là liệu Việt Nam có thể lựa chọn vị trí nào khác ngoài vị trí đứng giữa đối với mâu thuẫn Xô – Trung không? Chúng tôi sẽ giải quyết câu hỏi này với ba giả định:
i. Việt Nam có thể đứng ngoài mâu thuẫn Xô – Trung?
 Như đã phân tích ở trên, nguyên tắc chủ yếu chi phối các chính sách của Việt Nam trong gíai đoạn này là nguyên tắc “tự lực cánh sinh”. Nhưng trong hoàn cảnh lúc đó, chúng ta đang đối đầu với một kẻ thù mạnh nhất trong phe đế quốc và cũng là đối thủ mạnh nhất từ trước đến nay mà chúng ta từng gặp phải. So sánh tương quan lực lượng thì nội lực của chúng ta không đủ để chiến thắng đế quốc Mỹ. Vì thế, một trong những nhiệm vụ chính của công tác đối ngoại thời kì này là: kêu gọi, tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của nhân dân thế giới. Chính phủ ta còn non trẻ, nền hoà bình mà chúng ta mới tạo lập còn đang chịu nhiều đe doạ, bất cứ sự giúp đỡ nào cả về tinh thần và vật chất đều hết sức đáng quý. Cả Liên Xô và Trung Quốc đều nhiệt tình ủng hộ chúng ta, Việt Nam không thể làm ngơ trước mâu thuẫn của họ vì nó ảnh hưởng đến sự giúp đỡ mà chúng ta đang rất cần.
 Một lí do nữa là tinh thần Quốc tế vô sản khiến chúng ta không thể đứng ngoài. Liên Xô và Trung Quốc đã công nhận nền độc lập của Việt Nam, công nhận vị trí của Việt Nam trong khối XHCN. Mặc dù trong quan hệ với ta, những toan tính của hai “anh lớn” này đôi khi vi phạm nghiêm trọng tinh thần Quốc tế vô sản nhưng chúng ta vẫn không thể thờ ơ trước mâu thuẫn giữa hai cường quốc hàng đầu của phong trào Vô sản và Công nhân thế giới này. 
Xô và Trung đang tranh nhau vị trí lãnh đạo khối XHCN và Việt Nam là một đồng minh quan trọng cần lôi kéo. Cả hai nước đều ra sức áp đặt ảnh hưởng của mình lên Việt Nam. Mặt khác, mâu thuẫn Xô-Trung thể hiện rất rõ trên chiến trường Việt Nam, trong quan điểm của hai nước về chiến tranh Việt Nam. Vì thế, Việt Nam không thể đứng ngoài khi mâu thuẫn Xô-Trung tác động đến lợi ích quốc gia của Việt Nam một cách trực tiếp. Về cả khách quan và chủ quan, Việt Nam không thể không đứng giữa mâu thuẫn Xô-Trung.
ii. Việt Nam có thể đứng về phía “anh cả” Liên Xô?
Trong quá trình thảo luận, thầy giáo Nguyễn Hoàng Như Thanh đã đưa ra và phân tích cho chúng tôi một câu hỏi rất thú vị rằng: Việt Nam hoàn toàn có thể đứng về phía Liên Xô vì Liên Xô đủ mạnh để giúp đỡ chúng ta chống Mỹ thành công, viện trợ của Liên Xô cho chúng ta vừa rất nhiều vừa hết sức thiết thực chứ không như Trung Quốc, viện trợ “nhỏ giọt” vũ khí hạng nhẹ, mong bắt chúng ta theo đuổi một cuộc chiến tranh nhân dân lâu dài. Uy tín của Liên Xô rất lớn, Liên Xô lại có thiện chí muốn giúp Việt Nam tiến hành đàm phán với Mỹ từ rất sớm. Nếu ta hoàn toàn nghiêng về phía Liên Xô Hiệp định Paris về Việt Nam sẽ được ký kết sớm hơn năm 1973 và chúng ta sẽ sớm kết thúc được chiến tranh bằng con đường hoà bình, thương lượng.
Câu trả lời của chúng tôi vẫn là KHÔNG vì:
Liên Xô là nước đứng đầu phe XHCN, là một đối cực gay gắt của Mỹ trong chiến tranh lạnh. Nếu Việt Nam lựa chọn Liên Xô, nguy cơ Mỹ “tăng lửa” chiến tranh ở Việt Nam hoàn toàn có thể xảy ra.
 Moscow hiểu rất rõ về nguy cơ từ Bắc Kinh. Người Nga toan tính dùng Việt Nam để chống lại Trung Quốc. Nếu Việt Nam nghiêng về phía Liên Xô, nền chính trị của chúng ta sẽ bị chi phối, chúng ta rất có thể không giữ được sự độc lập, tự chủ cả trong đường lối kháng chiến chống Mỹ và trong chính sách đối ngoại với Trung Quốc.
  Hơn nữa, trong suốt mười năm từ 1954 tới 1964, Liên Xô không hề tỏ ý ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Liên Xô tỏ ra nghi kị về sự kiên định con đường xây dựng CNXH ở Việt Nam, về tư cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ cho rằng Hồ Chí Minh thực tế là một người dân tộc chủ nghĩa chứ không phải một người Cộng sản đích thực. Việt Nam không thể ngay lập tức ngả về phía Liên Xô khi đã nhận sự giúp đỡ và chịu khá nhiều ảnh hưởng của láng giềng Trung Quốc. Về phía mình, Việt Nam cũng không hoà toàn tin tưởng vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Liên Xô cũng có những khó khăn trong nước do những nhận định sai lầm, chính sách hà khắc của Stalin và sự phát triển của Chủ nghĩa xét lại. Nhận được nguồn viện trợ “khổng lồ” của Liên Xô, Việt Nam cũng không thể ngả về phía Liên Xô khi trước đó đã nhận sự giúp đỡ và chịu khá nhiều ảnh hưởng của láng giềng Trung Quốc. Đứng về phía Liên Xô sẽ làm sứt mẻ mối quan hệ láng giềng hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc, nguy cơ an ninh biên giới phía Bắc bị đe doạ là hoà toàn có khả năng. Lúc đó, cường quốc Liên Xô cũng “nước xa không cứu được lửa gần”.
Cuối cùng, sự giúp đỡ của Liên Xô không hoàn toàn là tận tâm, hết mình như Liên Xô hứa hẹn vì Liên Xô luôn tránh đối đầu trực tiếp với Mỹ ở mọi chiến trường, không hề muốn một cuộc chiến tranh khủng khiếp giữa hai đối cực của thế giới. Còn về khả năng Liên Xô đứng ra tổ chức đàm phán giữa Mỹ với Việt Nam là rất khó thành công. Khả năng của Liên Xô chưa bao giờ áp chế được sức mạnh của Mỹ, làm sao Liên Xô có thể đảm bảo khả năng giành toàn vẹn lãnh thổ, độc lập tự do cho Việt Nam? Để Liên Xô tổ chức đàm phán, liệu chúng ta có được gì hơn vĩ tuyến 17? Đó cũng là lý do chúng ta đàm phán, và ký kết Hiệp định Paris song phương, không qua trung gian với Mỹ. Mục tiêu độc lập. toàn vẹn lãnh thổ của chúng ta phải do chúng ta giành lấy. Với một kẻ thù ngoan cố, xảo quyệt như Mỹ, việc ký kết, nhượng bộ trên bàn đàm phán phải xuất phát từ sự kết hợp chiến thắng của cả ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao và việc thực thi Hiệp định Paris cũng là một quá trình đấu tranh gian khổ của ta.

iii. Việt Nam có thể đứng bên láng giềng Trung Quốc?
Phương Bắc luôn là một mối đe doạ đối với Việt Nam. Lịch sử cho thấy rằng triều đại nào láng giềng cũng âm mưu thôn tính nước ta. Để bù đắp những hỗ trợ, viện trợ trong kháng chiến chống Mỹ, người hàng xóm tốt bụng này đã trông nom Hoàng Sa giúp chúng ta và cho tới ngày nay vẫn không hề có ý định trả lại. Rõ ràng, người Tàu không thể trở thành một đồng minh mà chúng ta có thể đặt trọn niềm tin.
 Cũng chung toan tính như Liên Xô, Trung Quốc muốn gia tăng ảnh hưởng đối với Việt Nam, để khống chế các nước Đông Nam Á khác theo thuyết “Đai Trung Hoa” của Mao Trạch Đông để khẳng định vị thế cường quốc của mình trước Liên Xô và Mỹ. Để giữ sự độc lập của mình. Để giữ vững chủ quyền của mình Việt Nam không thể dựa dẫm hoàn toàn vào Trung Quốc.
Vả lại, láng giềng của chúng ta không đủ mạnh để có thể giúp đỡ chúng ta hết mình. Trung Quốc cũng có những vấn đề, những khủng hoảng trong nội bộ của mình do hậu quả của cuộc cách mạng ruộng đất, đại cách mạng văn hoá để lại.
Tóm lại, xuất phát từ tinh thần độc lập tự chủ, từ những đánh giá đúng đắn của Đảng ta về tình hình thế giới và mâu thuẫn Xô-Trung, Việt Nam đã lựa chọn cho mình một vị thế hết sức phù hợp vừa đảm bảo được sự độc lập của mình vừa tranh thủ được sự giúp đỡ của cả hai nước Xô, Trung. Hơn hết, hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ đã đặt Việt Nam vào vị trí đó. Bất kì một sự lựa chọn nào khác cũng dẫn đến sự sai lầm trong chính sách, dẫn đến thất bại tất yếu.


KẾT LUẬN  
Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc - Liên Xô trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là một ví dụ điển hình cho tình hình quốc tế thời kỳ chiến tranh Lạnh. Ở đó các nước đều có những toan tính riêng cũng như những biện pháp để hiện thực hóa những toan tính đó. Hai cường quốc Liên Xô và Trung Quốc đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đồng thời cũng đạt được những mục tiêu của mình. Việt Nam là một nước XHCN nhỏ đứng giữa hai anh lớn cũng đã có những chính sách riêng , mà chính sách cân bằng trong quan hệ với Xô – Trung là một ví dụ tiêu biểu, nhằm tranh thủ sự giúp đỡ về vật chất lẫn tinh thần của hai anh lớn, đồng thời hạn chế đến mức tối thiểu những ảnh hưởng tiêu cực có thể có từ mâu thuẫn giữa Liên Xô – Trung Quốc. Xuất phát từ tinh thần độc lập tự chủ, quyết định thi hành chính sách cân bằng, không nghiêng về bên nào của Việt Nam đã được thực tế chứng minh là một chính sách hoàn toàn đúng đắn, bởi nó không chỉ giúp hoàn thành mục tiêu của Việt Nam là giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; bảo vệ mối quan hệ hữu hảo giữa Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc mà còn góp phần vào sự nghiệp đoàn kết giai cấp vô sản trong khối XHCN nói riêng và trên toàn thế giới nói chung. 
Thắng lợi cuối cùng của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước một lần nữa khẳng định tính đúng đắn trong đường lối kháng chiến, chính sách đối ngoại mà Đảng ta đã xây dựng và kiên trì theo đuổi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét