Một ngày với
Chiến khu D huyền thoại
Ngày cập nhật: 05-11-2010
|
Nhà cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng ở.
|
Vừa qua, Hội Văn học nghệ thuật tổ chức về thăm căn
cứ Trung ương Cục miền Nam
ở Tây Ninh. Tôi may mắn cũng tham gia với đoàn. Chuyến đi đã để lại trong lòng
chúng tôi rất nhiều ý nghĩa và tràn đầy cảm xúc.
Con đường dẫn vào căn cứ được phủ một
màu xanh bạt ngàn. Càng vào gần chiến khu, cảm nhận tôi lúc bấy giờ là một cảm
xúc lâng lâng khó tả. Căn cứ được che bởi rừng cây tạp hỗn giao nhiều tầng với
mật độ dày đặc, làm chúng tôi thấm thía được câu thơ: “Rừng che bộ đội, rừng
vây quân thù...”.
Khu căn cứ Trung ương Cục tọa lạc tại
sóc Rùm Đuôn, xã Tân Lập, huyện Tân Biên, cách thị xã Tây Ninh 80km, cách biên
giới Việt Nam
- Campuchia 3km. Khu căn cứ Trung ương Cục có diện tích 70ha. Căn cứ Trung ương
Cục được công nhận Di tích lịch sử văn hóa năm 1990 và được trùng tu, tôn tạo 2
giai đoạn 1994 và 2005. Công trình do hai đồng chí Nguyễn Văn Linh và Võ Văn
Kiệt chủ trì, cho khảo sát, trùng tu theo thể nguyên trạng, gồm phục chế, tái
tạo nhà làm việc của các vị lãnh đạo qua các thời kỳ (Nguyễn Văn Linh, Võ Văn
Kiệt, Nguyễn Chí Thanh, Lê Duẩn, Phạm Thái Bường, Phan Văn Đáng, Phạm Văn Xô,
Trần Nam Trung); các hầm, hào, nhà làm việc và tránh đạn pháo...
Phía trước nhà trưng bày là xác 3
chiếc xe tăng M41 của địch bị quân và dân ta tiêu diệt trước năm 1975. Bước
tiếp vào nhà trưng bày, chúng tôi nhìn sa bàn và được nghe thuyết minh về lịch
sử của chiến khu Trung ương Cục miền Nam được thành lập năm 1951 thời chống
Pháp, sau được đồng chí Lê Duẩn đặt lại là Xứ ủy Nam bộ, đóng căn cứ từ kênh
xáng Chắc Băng, Thới Bình (Cà Mau) chuyển lên Sài Gòn, vòng qua Tây Ninh - căn
cứ Dương Minh Châu, rồi Chiến khu D. Sau năm 1954, Xứ ủy Nam bộ giải thể.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, với phong trào Đồng Khởi năm 1960 ở Bến Tre và chiến thắng Tua Hai ở
Tây Ninh đã tạo ra bước phát triển mới cho cách mạng miền Nam.
Trung ương Cục được thành lập vào
tháng 10-1961 tại Mã Đà, căn cứ đóng ở Suối Nhung (Chiến khu D) tỉnh Đồng Nai.
Đây là căn cứ nổi tiếng của bộ đội miền Đông Nam bộ qua hai cuộc kháng chiến.
Chiến khu rộng khoảng 2000km2, đây là nơi ra đời kỹ thuật đặc công và lực lượng
đặc công đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhưng do bệnh sốt
rét hoành hành, các chiến sĩ ta, đầu năm 1962, căn cứ chuyển về Chiến khu Bắc
Tây Ninh cho đến ngày 30-4-1975. Trong chống Pháp và Mỹ, đất Tây Ninh 2 lần
vinh dự là nơi đứng chân của Trung ương Cục - cơ quan đầu não của cách mạng
miền Nam .
Đặc biệt, nhà trưng bày di tích đã
sưu tập được trên 1.000 hiện vật, trong đó có nhiều tư liệu lần đầu được công
bố, như bàn làm việc của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn khi ông viết Đề cương Cách mạng
miền Nam, nhật ký chiến trường của các nhà báo và cán bộ miền Bắc đi B, bút tích
của Bác Hồ gửi Tổng Bí thư Lê Duẩn đề nghị được vào thăm “căn cứ kháng chiến
bắc Tây Ninh” (1967),...
Tiếp tục, anh Lê Thanh Chiến (nhân
viên Tổ di tích Trung ương Cục) hướng dẫn chúng tôi đi vào khu rừng, thuyết
minh nhiều chi tiết, sự kiện thật hấp dẫn.
Từ cửa khẩu Xa Mát trở vào là vườn
quốc gia Lò Gò - Xa Mát, rừng nối tiếp rừng đến căn cứ Trung ương Cục. Khu rừng
nguyên sinh đại ngàn với nhiều loại gỗ quý như: cây lộc vừng và 2-3 cây cầy cổ
thụ, còn gọi là cây kơ-nia nổi tiếng. Khu rừng 3 tầng dày đặc che kín, làm cho
ánh sáng mặt trời khó chiếu xuống mặt đất.
Chúng tôi cùng bước trên con đường
bê-tông nhỏ vòng quanh, ánh nắng chiếu rọi ấm áp trong không khí lá cây rừng
mát lạnh. Chú tôi dừng lại bên ngôi nhà gác xinh xinh. Mái nhà được lợp bằng lá
“Trung Quân”. Một loại lá khó bắt lửa, mà các chiến sĩ ta thường dùng để lợp
nhà.
Đi tiếp 20m, đoàn dừng lại bên chiếc
cầu bắc qua dòng suối nhỏ, nước trong vắt. Mọi người nghe kể như truyền thuyết:
Sau Hiệp định Paris 1973, Đoàn Văn công giải phóng về biểu diễn phục vụ các
đồng chí lãnh đạo và các cơ quan Trung ương Cục, vào một buổi trưa vắng vẻ,
bỗng có người chợt bắt gặp hình ảnh 3 cô diễn viên xuống dòng suối này tắm rửa,
đẹp như tiên nữ giáng trần thời kháng chiến và từ đó, người ta gọi là “Suối Tiên
Cô”.
Tiếp tục, đoàn men theo con đường xi
măng nằm song song với các địa đạo ngoằn nghoèo tiến đến nhà ở và nơi làm việc
của đồng chí Nguyễn Văn Linh. Căn nhà xinh xắn được lợp bằng lá “Trung Quân”.
Căn nhà còn lưu giữ các hiện vật như: hầm chữ A, di ảnh, mắt kiếng, radio, viết
máy và một chiếc tivi nhỏ. Bên cạnh ngôi nhà, là cây hoa sứ cao to của đồng chí
Nguyễn Văn Linh trồng năm 1973. Được biết, đồng chí Nguyễn Văn Linh giữ chức vụ
Bí thư Trung ương Cục (1961-1964) và Phó Bí thư - phụ trách tuyên huấn và đô
thị Sài Gòn (1964-1975).
Men theo con đường xi măng rợp bóng
cây xanh, chúng tôi đến nhà ở và nơi làm việc của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh.
Mái nhà cũng được lợp bằng lá “Trung Quân”. Căn nhà còn lưu giữ các hiện vật
như: hầm chữ A, di ảnh, mắt kiếng, radio, viết máy và một chiếc tivi nhỏ. Ông
được cử vào miền Nam
làm Bí thư Trung ương Cục kiêm Chính ủy Bộ Chỉ huy Miền từ tháng 10-1964. Còn
nhớ trận càn Gian-xơn Xi-ty của 45.000 quân Mỹ và ngụy Sài Gòn vào căn cứ Trung
ương Cục từ tháng 2-4 năm 1967 diễn ra hết sức ác liệt.
Xuyên qua con đường ngoằn nghoèo dẫn
đến là nhà đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục từ năm 1967-1975, được
nhân dân trong vùng biết và trìu mến gọi đây là “Căn cứ Phạm Hùng”. Mái nhà
cũng được lợp bằng lá “Trung Quân”. Đồng thời, vẫn còn lưu giữ các hiện vật
như: hầm chữ A, di ảnh, mắt kiếng, radio, viết máy và một chiếc tivi nhỏ. Phía
trước nhà, là cây vú sữa và cây bưởi xum xuê hoa trái do chính đồng chí Phạm
Hùng trồng trước năm 1975.
Theo chân anh hướng dẫn viên, chúng
tôi đến nhà ở và nơi làm việc của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Căn nhà của đồng
chí cũng lợp mái lá “Trung Quân”. Tuy nhiên, kiến trúc lại khác hơn kiến trúc
nhà ở của các đồng chí khác. Phía trước là một mái hiên do đồng chí thiết kế.
Theo lời anh Lê Minh Chiến: “Sau giờ làm việc, đồng chí Võ Văn Kiệt thường chăm
sóc mấy chậu hoa lan treo ở trước hiên... Năm 2000 vừa rồi, đồng chí có về thăm
lại chiến khu và nơi làm việc của mình”.
Tiếp theo, chúng tôi đến thăm các
ngôi nhà: thường trực, bảo vệ, trạm gác, hội trường lớn, bếp Hoàng Cầm, nhà ở
và làm việc của các đồng chí Phạm Thái Bường, Phan Văn Đáng, Phạm Văn Xô, Trần
Nam Trung. Chúng tôi nhận thấy, phần lớn nhà được phục chế ngay vị trí ban đầu,
lợp lá “Trung Quân”, mỗi nhà có một căn hầm chữ A thông ra hệ thống giao thông
hào, dẫn tới hội trường”.
Rải rác trong khu rừng còn dấu tích
những hố bom B52 to tướng của Mỹ rải thảm thời chiến tranh. Và vẫn còn 2 nhà
chưa phục chế là nhà đồng chí Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị, được tăng cường
về Trung ương Cục sau Mậu Thân 1968 và nhà đồng chí Võ Chí Công, Phó Bí thư
Trung ương Cục.
Bước tiếp khoảng 100m, chúng tôi có
mặt tại bếp Hoàng Cầm. Căn bếp được phục chế lại với các hiện vật: bát, đĩa,
muỗng, đũa, gia vị được trưng bày ngăn nắp trong hai chiếc tủ kính nhỏ. Bên
cạnh là một chiếc tủ cây đã phủ màu năm tháng. Và kia là kiến trúc ngôi bếp
vững chải. Anh Lê Minh Chiến cung cấp thêm cho đoàn những thông tin: “Ông người
quê Hà Nam ,
nghỉ hưu với cấp hàm đại úy, qua đời năm 1992, thọ 92 tuổi... Hồi nhỏ nghèo,
đồng chí Hoàng Cầm đốt rơm thổi lòn vào hang để bắt chuột. Khi đi kháng chiến,
ông đã nghỉ ra bếp chụm nấu không khói trong chiến khu nên gọi là bếp “Hoàng
Cầm”.
Trong khu rừng lịch sử văn hóa này,
có 24 cơ quan Trung ương Cục với 7.357 cán bộ từng sống và chiến đấu, chưa kể
lực lượng bảo vệ. Nhiều cán bộ từng sống và hoạt động ở đây như: Thiếu tướng
Nguyễn Thị Định, Trung tướng Đồng Văn Cống, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, nhà
thơ Lê Anh Xuân, nghệ sĩ nhân dân Phạm Khắc,...
Thật là xúc động biết bao khi đứng
trên “vùng đất cách mạng huyền thoại này!”. Mặc dù nhiều lần bị địch đánh phá
ác liệt, căn cứ Trung ương Cục miền Nam vẫn được bảo vệ vững chắc và trở thành
biểu tượng của tinh thần quả cảm, trí thông minh của quân và dân Việt Nam. Hôm
nay và mai sau, thế hệ trẻ chúng tôi sẽ mãi mãi trân trọng và biết ơn các chiến
sĩ, đồng chí yêu nước đã cống hiến cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ
vang của Đảng và dân tộc Việt Nam
anh hùng.
Chiến Khu Đ
Đầu tháng 11, đồng chí Nguyễn Bình được TW cử vào phụ trách công tác quân sự ở Nam Bộ. Trong khi đi nắm tình hình ở chiến trường, đồng chí về Tân Uyên khảo sát thực địa. Nhận rõ vị trí, địa thế lợi hại của vùng rừng Tân Uyên, đồng chí đã thảo luận với ban chỉ huy Vệ quốc đoàn Biên Hoà về việc chọn khu vực Lạc An lập căn cứ địa cho toàn khu.
Ngày 10 - 12 - 1945, tại Đức Hoà ( Chợ Lớn ) hội nghị quân sự toàn Nam Bộ được triệu tập. Đồng chí Hoàng Quốc Việt và nhiều cán bộ được TW cử vào và ở các địa phương đã về dự như Cao Hùng Lĩnh, Vũ Đức, Đào Văn Trường, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Tây ( Thanh Sơn ), Huỳnh Văn Tiểng, Bùi Công Trừng, Nguyễn Bình. Chấp hành lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hội nghị quyết định chia Nam bộ thành các chiến khu 7,8,9 chỉ định khu trưởng và uỷ viên chính trị khu; “đồng thời bằng biện pháp củng cố lực lượng vũ trang tỉnh, thành phố, các chi đội Vệ quốc đoàn và xây dựng các khu Lạc An, Đồng Tháp, U Minh làm căn cứ cho các chiến khu”.
Chiến khu 7 - một tổ chức hành chánh quân sự - được chính thức thành lập gồm các tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hoà, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Bà Rịa và thành phố Sài Gòn. Đồng chí Nguyễn Bình được chỉ định làm khu trưởng và đồng chí Trần Xuân Độ làm chính trị uỷ viên khu.
Chấp hành nghị quyết hội nghị Đức Hoà, ngày 17-12-1945, cơ quan Khu bộ Khu 7 về đứng chân và xây dựng hệ thống phòng thủ ở Tân Uyên. Lạc An, tên một xã trong vùng căn cứ thuộc quận Tân Uyên - nơi đứng chân của Vệ quốc đoàn Biên Hoà được chính thức xây dựng thành căn cứ địa kháng chiến của Chiến khu 7. Cơ quan khu bộ đóng ở thị trấn Tân Uyên. Ban chỉ huy Vệ quốc đoàn Biên Hoà đóng ở Tân Tịch, đồng chí Huỳnh Văn Nghệ được chỉ định làm chỉ huy trưởng. Lực lượng bảo vệ căn cứ gồm hơn 4 đại đội bố trí ở Tân Long, Tân Nhuận, Cây Đào, Tân Tịch và thị trấn.
... Ngày 20-2-1946, Khu bộ Khu 7 họp hội nghị bất thường tại Lạc An. Hội nghị tiến hành cải tổ lại cơ quan Khu bộ, bỏ các tổ chức văn phòng, võ phòng, lập bộ tham mưu, văn phòng khu bộ và phòng chính trị khu, đặt dưới sự chỉ huy của Khu bộ trưởng và chính trị bộ. Hội nghị đã quyết nghị những vấn đề quan trọng nhằm củng cố bộ đội, phát động du kích chiến tranh đặc biệt ở vùng đô thị và cao su, tăng cường cán bộ và lực lượng cho Khu 8. Ngoài ra, hội nghị còn thảo luận những biện pháp nhằm xây dựng địa bàn đứng chân, quy định các khu vực doanh trại, bố trí hệ thống phòng thủ bảo đảm chiến đấu, ngăn chặn tiêu diệt địch và bảo vệ an toàn căn cứ.
Sau hội nghị, công tác xây dựng căn cứ bắt đầu được triển khai tương đối có hệ thống có hệ thống. Các cơ quan, đơn vị, công xưởng ... phân chia đóng từng khu vực. Mỗi khu vực đều có nhiều phương án di chuyển địa điểm và mang một mật danh A,B,C, Đ ( A: Căn cứ giao thông liên lạc đóng ở Giáp Lạc; B: Căn cứ hậu cần đóng ở Thường Lang; C: Khu vực bộ đội thường trực đóng ở sở Ông Đội; ) ... Đ là mật danh chỉ Khu vực Hố Ngãi Hoang ( xã Lạc An ), nơi đặt “ Tổng hành dinh” của Bộ tư lệnh Khu 7. Từ đây, danh từ Chiến Khu Đ ra đời.
Trải suốt hai cuộc kháng chiến, diễn biến căn cứ có nhiều thay đổi, nhưng danh từ Chiến khu Đ vẫn tồn tại, đi vào lòng mỗi cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ở tại chiến khu và với những người chưa từng một lần đặt chân tới, như là một từ ngữ dân gian, một biệt ngữ không còn đơn thuần mang ý nghĩa địa danh mà biểu tượng cho cách mạng, cho kháng chiến.
( Theo : Lịch sử Chiến Khu Đ )
Đầu tháng 11, đồng chí Nguyễn Bình được TW cử vào phụ trách công tác quân sự ở Nam Bộ. Trong khi đi nắm tình hình ở chiến trường, đồng chí về Tân Uyên khảo sát thực địa. Nhận rõ vị trí, địa thế lợi hại của vùng rừng Tân Uyên, đồng chí đã thảo luận với ban chỉ huy Vệ quốc đoàn Biên Hoà về việc chọn khu vực Lạc An lập căn cứ địa cho toàn khu.
Ngày 10 - 12 - 1945, tại Đức Hoà ( Chợ Lớn ) hội nghị quân sự toàn Nam Bộ được triệu tập. Đồng chí Hoàng Quốc Việt và nhiều cán bộ được TW cử vào và ở các địa phương đã về dự như Cao Hùng Lĩnh, Vũ Đức, Đào Văn Trường, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Tây ( Thanh Sơn ), Huỳnh Văn Tiểng, Bùi Công Trừng, Nguyễn Bình. Chấp hành lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hội nghị quyết định chia Nam bộ thành các chiến khu 7,8,9 chỉ định khu trưởng và uỷ viên chính trị khu; “đồng thời bằng biện pháp củng cố lực lượng vũ trang tỉnh, thành phố, các chi đội Vệ quốc đoàn và xây dựng các khu Lạc An, Đồng Tháp, U Minh làm căn cứ cho các chiến khu”.
Chiến khu 7 - một tổ chức hành chánh quân sự - được chính thức thành lập gồm các tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hoà, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Bà Rịa và thành phố Sài Gòn. Đồng chí Nguyễn Bình được chỉ định làm khu trưởng và đồng chí Trần Xuân Độ làm chính trị uỷ viên khu.
Chấp hành nghị quyết hội nghị Đức Hoà, ngày 17-12-1945, cơ quan Khu bộ Khu 7 về đứng chân và xây dựng hệ thống phòng thủ ở Tân Uyên. Lạc An, tên một xã trong vùng căn cứ thuộc quận Tân Uyên - nơi đứng chân của Vệ quốc đoàn Biên Hoà được chính thức xây dựng thành căn cứ địa kháng chiến của Chiến khu 7. Cơ quan khu bộ đóng ở thị trấn Tân Uyên. Ban chỉ huy Vệ quốc đoàn Biên Hoà đóng ở Tân Tịch, đồng chí Huỳnh Văn Nghệ được chỉ định làm chỉ huy trưởng. Lực lượng bảo vệ căn cứ gồm hơn 4 đại đội bố trí ở Tân Long, Tân Nhuận, Cây Đào, Tân Tịch và thị trấn.
... Ngày 20-2-1946, Khu bộ Khu 7 họp hội nghị bất thường tại Lạc An. Hội nghị tiến hành cải tổ lại cơ quan Khu bộ, bỏ các tổ chức văn phòng, võ phòng, lập bộ tham mưu, văn phòng khu bộ và phòng chính trị khu, đặt dưới sự chỉ huy của Khu bộ trưởng và chính trị bộ. Hội nghị đã quyết nghị những vấn đề quan trọng nhằm củng cố bộ đội, phát động du kích chiến tranh đặc biệt ở vùng đô thị và cao su, tăng cường cán bộ và lực lượng cho Khu 8. Ngoài ra, hội nghị còn thảo luận những biện pháp nhằm xây dựng địa bàn đứng chân, quy định các khu vực doanh trại, bố trí hệ thống phòng thủ bảo đảm chiến đấu, ngăn chặn tiêu diệt địch và bảo vệ an toàn căn cứ.
Sau hội nghị, công tác xây dựng căn cứ bắt đầu được triển khai tương đối có hệ thống có hệ thống. Các cơ quan, đơn vị, công xưởng ... phân chia đóng từng khu vực. Mỗi khu vực đều có nhiều phương án di chuyển địa điểm và mang một mật danh A,B,C, Đ ( A: Căn cứ giao thông liên lạc đóng ở Giáp Lạc; B: Căn cứ hậu cần đóng ở Thường Lang; C: Khu vực bộ đội thường trực đóng ở sở Ông Đội; ) ... Đ là mật danh chỉ Khu vực Hố Ngãi Hoang ( xã Lạc An ), nơi đặt “ Tổng hành dinh” của Bộ tư lệnh Khu 7. Từ đây, danh từ Chiến Khu Đ ra đời.
Trải suốt hai cuộc kháng chiến, diễn biến căn cứ có nhiều thay đổi, nhưng danh từ Chiến khu Đ vẫn tồn tại, đi vào lòng mỗi cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ở tại chiến khu và với những người chưa từng một lần đặt chân tới, như là một từ ngữ dân gian, một biệt ngữ không còn đơn thuần mang ý nghĩa địa danh mà biểu tượng cho cách mạng, cho kháng chiến.
( Theo : Lịch sử Chiến Khu Đ )
Đăng ngày: 08:47 13-12-2009
Thư mục: TRUYỆN
NGẮN
Ngay từ khi còn đi học và cho đến sau này, tôi đã nghe nói nhiều
đến cụm từ “Chiến khu Đ”. Nghe để mà nghe, thật tình tôi chưa một chút ấn tượng
sâu sắc lắm, ngoài một cách nghĩ đơn thuần về “chiến khu Đ” là vùng đất cách
mạng, nơi dừng chân một thời của những người làm cách mạng. Dường như nơi
đó....ghê gớm lắm!
Nhưng bây giờ qua báo đài và nhất là qua các cuộc thi tìm hiểu về
Chiến khu Đ, tôi đã tìm đọc quyển “Lịch sử Chiến khu Đ”. Có thể tầm hiểu biết
của tôi hạn hẹp, chưa thấu đáo vấn đề một cách thông suốt. Nhưng phải nói rằng,
tôi thật sự ngạc nhiên và hình như cuốn hút vào vùng đất Chiến khu Đ. Trước
nhất tôi rất khâm phục những tác gia biên soạn “ Lịch sử Chiến khu Đ ”. Họ có
một trí nhớ tài tình đã cùng nhau đúc kết thành một thiên hùng ca “ Chiến khu Đ
”. Qua từng trang sách, tôi như thấy lại một vùng cao nguyên rộng bao la, vừa
hùng vĩ với núi đồi, rừng cây, vừa thơ mộng với chim ca, suối chảy. Thú vị
nhất, chính là những chú ngựa đưa các anh vượt rừng. Thảo nào, nơi vùng đất
gian lao mà anh dũng này lại nảy sinh ra con người chiến sĩ tay này cầm bút, tay
kia cầm súng như Huỳnh Văn Nghệ, Bùi Cát Vũ...
Không phải ngẫu nhiên mà Chiến khu Đ lại là một trong những căn
cứ địa cách mạng lớn của miền Đông Nam Bộ trên chiến trường miền Đông trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Trong kháng chiến chống Pháp, chiến sĩ và
nhân dân ta đã phải chịu đựng và vượt qua bao nhiêu gian lao, thử thách ác
nghiệt của thiên tai như nạn lụt năm Thìn, đói rét, bệnh tật, bom đạn... kể cả
việc chống thú dữ như cọp ba móng hoặc thiếu thốn lương thực ăn từng củ khoai,
củ chụp để sống và chiến đấu, thậm chí có nhiều người phải thay phiên nhau mặc
chung từng cái quần. Ấy vậy mà Chiến khu Đ vẫn giữ một vị trí không thể bỏ qua
hay thay thế trong công cuộc chống Mĩ ở miền Nam .
Cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà trong kháng chiến chống Mĩ, Chiến
khu Đ tồn tại như một trung tâm kháng chiến ở miền Đông Nam Bộ, nơi xây dựng
một hình mẫu xã hội mới trong tiềm thức của toàn thể nhân dân miền Đông, kể cả
những người vào khu đi kháng chiến và những người bị địch kiềm kẹp trong các
vùng tạm chiếm.
Đó chẳng qua là trong quá trình hình thành và phát triển của
chiến khu Đ... Chiến khu Đ có ưu điểm về điều kiện thiên nhiên, có vị trí quân
sự địa hình quan trọng. Nhưng ưu vịêt nhất chính là cái truyền thống yêu nước
chịu thương, chịu khó của người dân vùng Chiến khu Đ. Tuy lương thực thiếu
thốn, phải ăn rau, củ, quả rừng...thuốc men chữa bệnh cũng không, nhưng người
dân Chiến khu Đ vốn mang trong mình khí phách “bất khuất” của ông cha ta đã can
đảm sống một cuộc sống ở vùng đất hoang vắng, núi độc, rừng thiêng. Và cái “địa
ngục trần gian” cao su này đã trui luyện thành những con người kiên gan, giàu
sức chịu đựng lạ thường. Thiết tha yêu lao động, chuộng lẽ công bằng và canh
cánh một tình yêu quê hương đất nước....
Năm 2001, tôi có đến chiến khu Đ để dự kỉ niệm 55 năm ngày thành
lập chiến khu Đ và nhận giải thưởng cuộc thi “ Tìm hiểu về chiến khu Đ ”.
Chuyến xe của tỉnh Đoàn Đồng Nai đưa chúng tôi xâm nhập vào vùng đất Chiến khu
Đ. Con đường dẫn vào căn cứ đất đỏ, bụi mù mịt ngộp ngạt, làm khuất lấp cảnh vật
xung quanh. Càng vào gần chiến khu, cảm nhận tôi lúc bấy giờ là một cảm xúc
lâng lâng khó tả. Căn cứ được che bởi rừng cây tạp hỗn giao nhiều tầng với mật
độ dày đặt, cho tôi thấm thía được câu “ Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”.
Đêm ở đây thật lạnh. Vậy mà trong cái giá rét này đã bao mùa đông đi qua, nhân
dân và chiến sĩ ta vẫn kiên cường đánh giặc và thắng giặc.
Hôm nay, nhân kỉ niệm 63 năm ngày thành lập Chiến khu Đ, tôi tìm
đọc lại quyển “ Lịch sử Chiến khu Đ”. Xin được cám ơn các nhà biên soạn “ Lịch
sử Chiến khu Đ ”, đã giúp tôi hiểu thêm về đất nước và con người Chiến khu Đ,
để tôi có thêm nguồn tư liệu mà tự hào về một vùng đất miền Đông Nam Bộ. Đến
bây giờ tôi mới thấy câu “ Chiến khu Đ còn - Sài Gòn mất ” không là một lời nói
ngoa, mà là một lời đánh giá rất “biết người, biết ta” của bọn xâm lược. Và
những dòng chữ này như lời tri ân của người hậu bối đối với những người làm nên
lịch sử chiến khu Đ. Xin cùng được quý vị, thắp một nén hương lên nấm mộ những
người anh hùng liệt sĩ, đã ngã xuống để làm nên một Hào khí Chiến khu Đ.
Từ trái qua, các ông: Huỳnh Văn Nghệ, Lê
Duẩn, Nguyễn Bình
và Dương Quốc Chính ở Chiến khu Đ
Chiến khu Đ - một thời lừng lẫy
tướng quân Huỳnh Văn Nghệ
HOÀNG KIM CHUNG
(Nguyên chiến sĩ Chi
đội 10)
Tôi đặt đầu đề bài viết nhỏ này theo
cách gọi dân gian - tướng Nghệ - chớ thật ra ông chưa hề được Nhà nước ta phong
tướng. Vào đầu những năm 60 thế kỷ trước, khi chuyển ngành ra làm tổng cục phó
Tổng cục Lâm nghiệp, cấp hàm cao nhất của ông lúc ấy vẫn chỉ là thượng tá.
Bây giờ, nhắc đến ông, người đời thích gọi
ông là nhà thơ - chiến sĩ. Tôi chợt nhớ, khi tập thơ Huỳnh Văn Nghệ lần đầu
tiên được in ra trên đất Bắc, tờ báo của Hội Nhà văn Việt Nam có bài giới thiệu ông là nhà
thơ trẻ. Ông cười và bảo tôi: "Làm thơ từ những năm 30, chưa già thì chớ,
trẻ nổi gì!". Đúng là vậy! Những bài thơ như Đám ma nghèo, Bà
bán cau... được ông viết ra từ những năm 1935- 37. Còn thực sự đặt
chân vào lĩnh vực quân sự, là chỉ huy quân sự địa phương thì mãi gần cuối 1945
sau khi cuộc kháng chiến Nam Bộ nổ ra, ông mới mang danh chiến sĩ.
Khi Pháp tái chiếm Sài Gòn, trước khi về lại
Tân Uyên theo gợi ý của ông Sáu Giàu (Trần Văn Giàu)- chủ tịch lâm uỷ Nam Bộ,
ông là uỷ viên Uỷ ban Kháng chiến miền Đông. Mấy hôm trước khi quân Pháp núp
sau quân Anh - Ấn lên Biên Hoà, Huỳnh Văn Nghệ không chạy theo Lương Văn Tương-
chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến miền Đông lên Xuân Lộc rồi ra Phan Thiết, mà đi
ngược về phía quê ông, lập chiến khu ở đó.
Chiến khu Tân Uyên, đến giữa năm 1946 gọi là
chiến khu Đ, gắn liền với tên tuổi Huỳnh Văn Nghệ từ tháng 10.1945. Tháng 11
năm ấy, tướng Nguyễn Bình gặp ông, trao ông chức chỉ huy trưởng quân giải phóng
Biên Hoà. Và tháng 12, tướng Bình cũng về chiến khu này đặt Tổng hành
dinh khu 7 tại Lạc An.
Tôi giáp mặt tướng Nghệ lần đầu tiên vào
khoảng giữa tháng 11.1945. Lúc ấy, tôi vừa tốt nghiệp khoá huấn luyện cuối cùng
của Trường quân chính Tân Uyên (từ Sở Tiêu- Đất Cuốc trường đã chuyển ra Mỹ
Lộc) và được nhà trường giới thiệu đến gặp ông để được phân công công tác.
Tôi chỉ thực sự gần gũi ông từ tháng 4.1946
khi được rút về văn phòng Vệ quốc đoàn Biên Hoà, làm thư ký riêng cho ông.
Lúc này mới ngoài 30 tuổi, Tám Nghệ (sanh
năm 1914) không chỉ đảm nhiệm chức vụ chỉ huy trưởng quân sự, ông còn là phó
chủ tịch kiêm uỷ viên quân sự uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Biên Hoà. Thời
cơ ấy cũng là thuận lợi để ông tổ chức các quận quân sự, thực chất là các cụm
quân sự liên xã. Vào thời điểm ấy, sau khi thành lập các chi khu Tân Uyên, Cây
Đào... giặc Pháp bắt đầu đánh nống ra, mở rộng lấn chiếm, thực hiện bao vây và
chia cắt ta. Nhờ tổ chức quận quân sự, việc chỉ đạo xuống xã vẫn thông suốt.
Các hoạt động quân sự ở cơ sở vẫn được duy trì. Tổ chức du kích vẫn giữ vững và
lực lượng ngày càng phát triển.
Tháng 6.1946 Vệ quốc đoàn Biên Hoà
mang phiên hiệu Chi đội 10. Chỉ trong vòng nửa năm, tất cả các lực lượng vũ
trang trong tỉnh đã được quy về một mối. Huỳnh Văn Nghệ có thêm Nguyễn Văn
Lung, chi đội phó mới, từ Long Thành về. Rồi Phan Đình Công, từ Phòng chính trị
khu 7 xuống, với chức danh Chính trị viên Chi đội. Đến tháng 8.1946, các cơ
quan tham mưu - chính trị của chi đội hình thành.
Là thủ lĩnh quân sự địa phương, do "thế
thời phải thế", Huỳnh Văn Nghệ không hề được đào tạo qua một trường
quân sự nào. Ông học kinh nghiệm từ tướng Nguyễn Bình, nguyên tư lệnh Đệ tứ
chiến khu Đông Triều thời kỳ tiền khởi nghĩa. Ông tự học qua các tài liệu chẳng
hiểu ông moi từ đâu ra và đưa tôi đánh máy. Những Binh Pháp Tôn tử, Kinh ngoạn du
kích Tàu, Cách huấn luyện cán bộ quân sự. Ông học ngay từ thực tiễn chiến
trường. Khi Chi khu Cây Đào cho đóng bót Võ Sa (nay là xã Lợi Hoà huyện Vĩnh
Cửu), ông đã cử Ba Trợn, Tư Bạch (trong chống Mỹ đổi tên là Năm Hồng) và một số
chiến sĩ trá hàng, đến khi có thời cơ thì bót Võ Sa nổi dậy phản chiến,
thu hết súng ống đạn dược và kéo hết quân ra, trở về với kháng chiến. Đòn
"lấy gậy ông đập lưng ông" này làm rúng động hàng ngũ thân binh Pháp.
Giặc Pháp cũng nghi ngờ, dè dặt trong việc tuyển mộ thân binh. Ta thu hút thêm
nhiều thanh niên trở thành tân binh vệ quốc đoàn.
Tháng 5.1946, giặc Pháp mở cuộc tiến công
lớn lần thứ 2 vào Tổng hành dinh tướng Nguyễn Bình. Sau trận càn này, khu bộ
khu 7 chuyển về Giòng Dinh (Đồng Tháp Mười). Khu vực đóng Tổng hành dinh cũ của
tướng Nguyễn Bình với các mật danh khu A, B, C không còn. Từ đây, Chiến khu Đ
(mật danh khu đóng quân chi đội 10) được gọi thay cho Chiến khu Tân Uyên.
Chi đội 10 không chỉ nổi tiếng chống càn
đánh phục kích, tập kích giỏi còn lừng danh với các trận đánh giao thông đường
bộ và đường sắt khá xuất sắc. Quy mô tác chiến ngày một lớn. Binh lược phân
tán, tập trung linh hoạt. Bộ đội tập trung và du kích địa phương đều lớn mạnh.
Sau trận La Ngà nổi tiếng, Chi đội có bước trưởng thành mới- Trung đoàn 310 ra
đời.
So với các trung đoàn của miền Đông, Trung
đoàn 310 là một trung đoàn mạnh. Khu bộ trưởng khu 7 Nguyễn Bình rút Huỳnh Văn
Nghệ lên làm khu bộ phó. Và giao cho ông xuống liên khu Bình Xuyên kéo Bảy Viễn
(Lê Văn Viễn) cùng về khu nhận nhiệm vụ mới. Tám Nghệ đơn phương độc mã vào
chiến khu Rừng Sác và đã làm tròn nhiệm vụ tướng Bình giao phó.
Năm 1951, giải thể 3 khu 7, 8, 9, Tám Nghệ
và Tô Ký về làm phó cho tướng Trà- tư lệnh Phân liên khu miền Đông. Ít lâu sau,
Tám Nghệ về làm tỉnh đội trưởng Thủ Biên, Tô Ký về Gia Ninh.
Sau trận lụt 1952, ông đi dự chỉnh Đảng ở
Liên khu 5 rồi ra Bắc.
Hoà bình lập lại ở miền Bắc, ông về Bộ Tổng
tham mưu với chức vụ cục phó Cục Quân huấn - trưởng Phòng Thể dục thể thao quân
đội. Dưới thời ông, các đội bắn súng, bóng đá, bóng chuyền thể công tiếng tăm
lừng lẫy. Sự kiện thể thao lớn nhất là cuộc thi đấu bóng đá giữa 14 quân đội
các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa.
Tôi đã không còn gặp ông khi ông chuyển
ngành ra Tổng cục Lâm nghiệp. Rồi loáng thoáng nghe trước Tết Mậu Thân ông đã
đi B. Và cho tới khi ông mất (năm 1977) khi ấy tôi đang còn ở Hà Nội.
***
Cuộc đời quân ngũ gần 40 năm của tôi cho đến
lúc chuyển ngành về lại Đồng Nai, tôi đã qua nhiều đơn vị, đã là cán bộ thuộc
hạ của nhiều thủ trưởng. Các cấp trên của tôi mỗi người một vẻ, một tính cách.
Tuy nhiên, sâu đậm trong tôi vẫn là hình ảnh của ông Tám Nghệ, người thủ trưởng
quân sự đầu tiên đã ảnh hưởng rất tốt đối với tôi.
Từ ngày về lại Đồng Nai, hàng năm sau Tết -
ngày 16 tháng giêng - là ngày giỗ ông Tám, năm nào tôi cũng về Tân Tịch. Ông
mất đến nay đã gần 30 năm. Nhưng giỗ hội hàng năm, bạn bè anh em đồng chí cũ
vẫn nườm nượp kéo về. Khu mộ gia đình ông gom lại, tập trung trên một khoảnh
đất rộng. Và nhà tưởng niệm Huỳnh Văn Nghệ từ năm 2005 đã được nâng lên
thành đền thờ. Tên ông còn được đặt cho một trường tiểu học ở Tân Uyên, một
đường phố của thị xã Thủ Dầu Một.
Ông xứng đáng được tôn vinh như một danh
nhân tiêu biểu của địa phương, của tỉnh Biên Hoà cũ, trong kháng chiến chống
Pháp nhiều người gọi ông là tướng Nghệ. Và như nhân dân Tân Uyên quê ông đã làm
thơ nhớ ông:
"Anh đã mất nhưng nào đã mất
Hình bóng anh còn đọng mãi trong dân...".
Biên Hoà 2006
|
|||
|
Qua hết con
đường nhựa, xe chạy dọc con đường đất đỏ quanh co đưa chúng tôi đến với căn
cứ Khu uỷ miền Đông (là một trong những căn cứ nằm trong căn cứ địa chiến khu
Đ). Đọc cuốn tài liệu “Di tích lịch sử Căn cứ khu uỷ miền Đông Nam Bộ (chiến
khu Đ)” mà chị Lan Hương, tổ trưởng tổ thuyết minh khu di tích đưa cho và
nghe chị hướng dẫn, được xem những thước phim tư liệu của một thời hùng tráng
nơi đây, chúng tôi cùng bồi hồi trong niềm tự hào xúc động hình dung về lịch
sử cách đây 60 năm.
Từng
là căn cứ đầu tiên của tỉnh Biên Hòa được xây dựng vào tháng 2-1946, sau Hội
nghị cán bộ quân sự ở Lạc An, huyện Tân Uyên (nay là xã Lạc An, huyện Tân
Uyên, tỉnh Bình Dương) với địa thế hiểm trở của phần đất cuối cùng chuyển
tiếp của dãy Trường Sơn xuống vùng đồng bằng, chiến khu Đ chính thức trở
thành trung tâm lãnh đạo phong trào cách mạng miền Nam và được mở rộng bao
trùm toàn bộ vùng rừng ngang đường 16, trải dọc lưu vực hữu ngạn sông Đồng
Nai, đổ về thượng nguồn giáp giới Sông Bé. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp
các cơ quan, đơn vị ta tại Chiến khu Đ đã vượt qua nhiều khó khăn: nào thiên
tai (đặc biệt là cơn bão lụt khốc liệt năm Nhâm Thìn 1952), nào địch họa do
càn quét, đánh phá bằng bom đạn, phá hoại kinh tế, gài do thám chỉ điểm, biệt
kích... đã giữ vững căn cứ địa cách mạng, đóng vai trò hậu phương tại chỗ của
miền Đông, là bàn đạp để lực lượng ta tiến công vào các cơ quan đầu não, căn
cứ quân sự, kho tàng, đường giao thông chiến lược của địch, góp phần vào
thắng lợi chung của quân dân cả nước, đưa đến việc ký Hiệp định Giơnevơ năm
1954.
Bước
sang cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại, vùng chiến khu Đ tiếp tục được mở rộng
bao gồm toàn bộ cao nguyên miền Trung và biên giới Campuchia, được coi là
vùng “tam giác sắt” nối liền từ chiến khu rừng Sác, Dầu Tiếng, Xuyên Mộc,
Phước Cơ đến căn cứ Củ Tri, Bến Cát và được coi là thủ đô kháng chiến của dân
tộc với nhiệm vụ chính của mình là trung tâm tâm lãnh đạo cách mạng miền Nam,
là nơi xây dựng các binh đoàn chủ lực, đào tạo, huấn luyện cán bộ, chiến sĩ.
Trong lòng chiến khu cách mạng ngày càng mở rộng, nhiều căn cứ được hình
thành và phục vụ đắc lực cho phong trào cách mạng miền Đông Nam Bộ. Căn cứ
khu uỷ miền Đông Nam Bộ, nơi chúng tôi đang đứng chân nơi đây được xây dựng
vào năm 1962, thuộc địa phận phân trường 6, Lâm trường Hiếu Liêm, xã Trị An,
huyện Vĩnh Cửu để đảm nhận nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng trên địa bàn khu. Căn
cứ địa toạ lạc giữa đỉnh đồi đất sỏi khá bằng phẳng với diện tích hơn 28ha.
Toàn bộ khu đồi được bao phủ bởi rừng cây dày đặc trong hệ thống rừng miền
Đông với hệ thống giao thông hào, hệ thống địa đạo liên hoàn và hệ thống nơi
làm việc, trú ẩn của lãnh đạo Khu uỷ và các cơ quan trực thuộc. Tại khu căn
cứ này, Khu uỷ miền Đông đã đứng chân trong suốt thời gian dài lãnh đạo cách
mạng (1962-1967), góp phần làm nên những chiến thắng Phước Thành, Bình Giã,
Đồng Xoài, Bàu Sắn…chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân
1968.
Là
nơi đào tạo, nuôi quân, là cơ quan đầu não của cách mạng miền Nam, Chiến khu
Đ cũng chính là một trong 3 mũi giáp công, là bàn đạp tấn công vào cửa ngõ
Sài Gòn theo hướng Đông Bắc. Vì thế mà Mỹ - nguỵ đã ra sức tìm cách tàn phá
nơi đây. Song mảnh đất chiến khu Đ vẫn anh dũng vượt qua bao khắc nghiệt của
bom Napan, của chất độc hoá học, những trận càn quét khốc liệt của địch trở
thành “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”, xứng đáng là nơi hội ngộ của
những anh hùng trên khắp mọi miền đất nước, những người vì cuộc kháng chiến
của dân tộc mà đến và cũng từ đây mà ra đi, nơi tụ hội trí khí, niềm tin
thiêng liêng của cả dân tộc, làm nên đại thắng mùa xuân 1975, hoàn thành cuộc
trường chinh cứu nước vĩ đại.
*
Chiến khu Đ trong tương lai: Hành trình về nguồn
Đoạn
đường từ xã Phú Lý đến di tích Khu uỷ miền Đông - Chiến khu Đ hôm nay đã có
nhiều đổi thay. Đi trên con đường trải nhựa láng mướt, hoà mình trong
không khí mát lành giữa cây rừng xanh bạt ngàn, chúng tôi mới càng thấm thía
và cảm nhận hết được sức sống phi thường của thiên nhiên cũng như con người
nơi đây khi phải oằn mình suốt mấy mươi năm trong cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ trường kỳ, gian khổ để cất vang khúc khải hoàn chiến thắng mùa
xuân năm 1975 và để hôm nay mảnh đất, tình người chiến khu xưa lại giang rộng
vòng tay đón chào các thể hệ cháu con trong những chuyến du lịch về nguồn…
Nơi
đây có một di tích và truyền thống lịch sử hào hùng, chính vì điều đó trong
những năm qua đã có rất nhiều những cuộc du lịch tìm về nguồn giúp các thế hệ
thanh niên tìm hiểu về mảnh đất và con người nơi chiến khu Đ, tìm hiểu về
lịch sử nơi đã trở thành thành trì kiên cố bảo vệ an toàn cho cán bộ và nhân
dân các tỉnh miền Đông Nam bộ suốt 2 cuộc kháng chiến và đồng thời cũng giáng
cho quân thù những trận đòn chí tử. Trong vòng 3 năm trở lại đây đã có trên
70 ngàn lượt du khách đến thăm quan Căn cứ Khu uỷ miền Đông Nam bộ - chiến
khu Đ. Hiện nay, di tích Căn cứ Khu ủy miền Đông đã được tôn tạo, trùng tu và
được công nhận là Di tích lịch sử Quốc gia. Trong hướng quy hoạch chung, di
tích Căn cứ Khu ủy miền Đông cùng với hệ thống di tích địa đạo Suối Linh, di
tích Căn cứ Trung ương cục miền Nam, khu công viên lịch sử văn hoá miền Đông
Nam bộ trên địa bàn huyện Vĩnh Cửu sẽ trở thành một địa điểm sinh hoạt văn
hóa truyền thống lý thú, du lịch sinh thái hấp dẫn. Theo như dự án Trung tâm
sinh thái – văn hóa - lịch sử Chiến khu Đ, sẽ có đến 73% diện tích dành cho
cây xanh và mặt hồ, với 7 hạng mục công trình: tượng đài trung tâm, di tích 9
tỉnh miền Đông, bảo tàng Chiến khu Đ, sân lễ hội, khu hành chính, cây xanh và
hồ nước, bãi đậu xe. Mọi sự tôn tạo, trùng tu, xây mới sẽ được thực hiện trên
nguyên tắc bảo vệ nguyên hiện trạng lịch sử, tôn trọng yếu tố tự nhiên và bảo
vệ rừng sinh thái đầu nguồn thủy điện Trị An. Ngoài mục tiêu tôn vinh các dự
tích lịch sử và giáo dục truyền thống lịch sử, truyền thống cách mạng cho lớp
thế hệ con cháu, dự án còn nỗ lực tạo sức bật mới cho ngành du lịch Đồng Nai
trong thời kỳ mới.
Ông
Phạm Thanh Sơn – Phó Giam đốc Khu bảo tồn thiên nhiên và di tích huyện Vĩnh
Cửu cho biết thêm: Trung tâm sinh thái – văn hóa - lịch sử Chiến khu Đ sẽ có
điểm nhấn kết hợp với các quần thể di tích. Khi du khách đến tìm hiểu lịch
sử, sẽ được thăm quan nhiều nơi khác như: tìm hiểu lễ hội và sinh hoạt văn
hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Châu Ro, thăm quan Bãi đá dựng - Suối
Linh, thác Bàng, Di chỉ khảo cổ Lò gốm cổ ở trạm 3 xã Hiếu Liêm có niên đại
cách đây 2500 – 3000 năm, nhà máy thủy điện Trị An… Kết hợp với các địa điểm
này, là các dịch vụ phục vụ ăn uống, vui chơi giải trí cho du khách gắn với
văn hóa ẩm thực của chiến khu Đ: canh lá rừng, khoai mì, cá tào đồi, măng
rừng… Bên cạnh đó, khi mà khu du lịch này được đầu tư quy mô, các nghề truyền
thống của đồng bào dân tộc sẽ có điều kiện phát triển để phục vụ khách du
lịch như: mây – tre đan, gùi , dệt thổ cẩm…
Trở
lại chiến khu Đ trong những chuyến du lịch về nguồn như vậy giúp chúng ta tìm
hiểu lịch sử hào hùng và oanh liệt của vùng đất “rừng che bộ đội, rừng vây
quân thù”, từng là nỗi kinh hoàng của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Vùng đất
chiến khu Đ ngày ấy và bây giờ sẽ mãi tỏa sáng ngọn lửa truyền thống, cháy
rực “hào khí miền Đông” trên bước đường xây dựng tương lai…
|
Lịch sử chiến khu Đ trong thơ Huỳnh Văn
Nghệ
Theo www.sggp.org.vn
– 1 năm trước
Nằm án ngữ trên hành lang cửa ngõ phía Bắc Sài
Gòn, nối thông lên vùng rừng núi cao nguyên Trung bộ, Chiến khu Đ giữ một vị
trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Chiến khu Đ là căn cứ địa quan trọng của tỉnh
Biên Hoà, tỉnh Thủ Dầu Một, của Quân khu 7 và toàn Nam bộ.
Ai đã từng ở miền Đông Nam bộ thời kháng Pháp,
hẳn không thể không lưu giữ một kỷ niệm nào đó về Chiến khu Đ. Và nói đến Chiến
khu Đ, hẳn không ai có thể quên một cái tên: Huỳnh Văn Nghệ. Tên tuổi của ông
đi vào tâm thức mọi người như một cán bộ quân sự tài năng, một ngọn cờ của các
đơn vị vũ trang nhỏ lẻ thời đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, người gắn bó
ruột rà với quá trình gầy dựng và phát triển Chiến khu Đ; và cả điều này nữa,
một nhà thơ - nhà thơ chiến sĩ...
Huỳnh Văn Nghệ đánh giặc bằng cả gươm và bút.
Đó là trường hợp không nhiều ở một cán bộ quân sự, một vị Tư lệnh Quân khu. Hãy
nghe ông tuyên ngôn: ông làm thơ cốt để phục vụ cho việc đánh giặc, ngợi ca, cổ
suý những người ra trận. Nội dung các bài thơ của Huỳnh Văn Nghệ vì thế ngổn
ngang hiện thực cuộc chiến đấu sôi bỏng ở chiến khu. Một chiều tiêu thổ, một trận
công đồn, một trận bão lụt, một chiến sĩ hy sinh... tất cả ùa vào thơ ông, mang
nguyên những bụi bặm chiến trường, nhiều khi như một phóng sự, ghi chép sự
kiện.
Công tác nghiên cứu lịch sử kháng chiến ở Nam bộ lâu nay
vẫn gặp một khó khăn lớn về nguồn tư liệu thành văn. Đa số các tài liệu văn bản
gốc hoặc không có, hoặc có mà bị thất thoát vì chiến tranh bom đạn, vì sự mai
một của thời gian. Nguồn sử liệu dựa một phần chủ yếu vào trí nhớ của người
trong cuộc.
Trong khi đi sưu tầm tư liệu cho việc nghiên
cứu biên soạn cuốn “Lịch sử Chiến khu Đ”, chúng tôi gặp một điều lý thú: tất cả
những người được hỏi ý kiến đều kể về Huỳnh Văn Nghệ và thơ của ông. Nhớ về một
sự kiện lịch sử nào đó, người ta đọc thơ ông ra để minh chứng, để cam kết sự có
thực của nó. Và chúng tôi còn nhận ra một điều này nữa: thơ Huỳnh Văn Nghệ
dường như chỉ nói về Chiến khu Đ. Nếu đem sắp các bài sưu tầm được theo trật tự
biên niên, ta sẽ có gần đủ một cuốn lịch sử Chiến khu Đ bằng... thơ.
Về sự ra đời của Chiến khu Đ, nhiều ý kiến
không thống nhất nhau về mốc thời gian, chung quy có hai loại: trước hoặc sau
ngày Nam
bộ kháng chiến. Thì đây, thơ Huỳnh Văn Nghệ:
Chiến khu Đ có từ thủa ấy
Có một anh đồng chí
Sau Nam Kỳ khởi
nghĩa năm bốn mươi
Đưa chi bộ về rừng Đồng Nai
Lập chiến khu nuôi chí lớn
(Du kích Đồng Nai).
Bài thơ Huỳnh Văn Nghệ nói về sự kiện người
đảng viên Trần Văn Quì sau biến cố ngày 23-11-1940 đã chỉ huy một đơn vị vũ
trang về Tân Uyên bảo tồn lực lượng, xây dựng căn cứ, nuôi kế đánh giặc lâu
dài. Vậy là nơi đây đã là căn cứ địa cách mạng từ nhiều năm trước ngày tổng
khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Trong trí nhớ của Giáo sư sử học Trần
Văn Giàu, Huỳnh Văn Nghệ còn có một bài thơ khác (không thấy được sưu đăng
trong cuốn “Thơ văn Huỳnh Văn Nghệ”, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1998, cả cuốn “Bên
bờ sông xanh”, Nhà xuất bản Tổng hợp Sông Bé 1988), có đoạn:
Sau Nam Kỳ khởi
nghĩa
Trước cách mạng mùa
thu
Có một nhóm đồng chí
Ra thành lập chiến khu
Ngồi quanh một ấm chè
Thảo luận suốt trưa hè
Tên chiến khu bất khuất
Đồng Nai hay Đất Cuốc
Rốt cuộc Chiến khu Đ
Đã bao mùa lá vàng rơi từ
ấy
Chiến khu Đ vẫn đỏ máu quân
thù.
Đoạn thơ trên thêm một lần nữa khẳng định thời
điểm ra đời của Chiến khu Đ; đồng thời cắt nghĩa xuất xứ tên gọi “Đ” của chiến
khu, điều mà cho đến nay những người làm sử còn lúng túng trước nhiều giả
thiết: “Đ” là chữ cái đầu biểu thị tính chất của căn cứ địa (Đỏ), chỉ vùng, địa
phương (Đất Cuốc, Đồng Nai, miền Đông...); hay đánh dấu thứ tự các căn cứ tại
vùng rừng núi Bắc Biên Hoà, Thủ Dầu Một (A, B, C, Đ,...).
Như thế, trên nền móng một chiến khu được xây
dựng từ trước, phái viên quân sự Nguyễn Bình (sau đó là Tư lệnh Khu 7, Tư lệnh
Nam bộ, được phong quân hàm Trung tướng tháng 1 năm 1948) đã chọn nơi đây làm
căn cứ địa của Khu 7 và toàn Nam bộ.
Vào hạ tuần tháng 10-1945, sau một tháng gây
hấn và chờ viện binh ở Sài Gòn, thực dân Pháp bắt đầu phá vòng vây, đánh nống
ra các tỉnh miền Đông Nam bộ. Trước sức tấn công ồ ạt của địch, trong điều kiện
tương quan lực lượng quá chênh lệch, các lực lượng kháng chiến để lại một bộ
phận nhỏ hoạt động ở vùng ngoại ô, còn lại rút ra vùng ngoài củng cố xây dựng
lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Hàng ngàn công nhân, trí thức,
học sinh rời thành đi kháng chiến. Chiến khu Đ trở thành nơi tập hợp lực lượng
trong vùng.
Sự kiện lịch sử này được khẳng định trong bài
thơ “Ngày hội” của Huỳnh Văn Nghệ:
Biên Hoà đã mất
Chiến khu Đ cờ vẫn đỏ ngọn
cao
Du kích Tân Uyên ngày đào
đắp chiến hào
Đêm tập một hai vang trường
Đất Cuốc...
Anh Nguyễn Bình cũng đã về
đây
Xem địa thế sông dài rừng
thẳm
Tình quân dân đầm ấm
Anh xuống ngựa buộc
cương...
Lạc An bỗng tưng bừng ngày
hội
Kéo về đây đến bốn, năm chi
đội
Kim Trương, Tô Ký , Vũ Đức
, Tấn Chùa
Chiến khu Đ của tiểu đội
ngày xưa
Bỗng lớn lên như Phù Đổng.
Với ưu thế về binh hoả lực, thực dân Pháp liên
tiếp mở các cuộc hành quân với quy mô lớn nhằm triệt hạ bằng được căn cứ đầu
não kháng chiến. Tân Uyên và nhiều vùng lân cận rơi vào tay địch:
Rồi từ đó Tân Uyên thành
chiến địa
Máu quân thù tiếp tục chảy
không thôi
Dòng sông xanh đã nhuộm màu
máu tía
Thuyền bến xưa phiêu bạt
bốn phương trời
(bài Mất Tân Uyên).
Để bảo đảm chỉ đạo cuộc kháng chiến, Bộ Tư
lệnh Khu 7 rút về Quân khu Đông Thành. Huỳnh Văn Nghệ dẫn chứng cuộc “Tây
chinh” này bằng bài thơ “Rừng nhớ người đi” tiễn Khu bộ trưởng Nguyễn
Bình và những chiến sĩ Lạc An rời Chiến khu Đ về Đồng Tháp năm 1946:
Từ độ chàng đi vung kiếm
thép
Mịt mù khói lửa khuất binh
nhung
Rừng xanh thương nhớ như
chinh phụ
Hồi hộp nghe từng tin chiến
công...
Ngày đi có bướm chim đưa
tiễn
Cành xanh bận rộn vuốt yên
cương
Từ biệt Lạc An về Đồng
Tháp
Đâu biết rừng xanh cũng
đoạn trường.
Thơ Huỳnh Văn Nghệ nói nhiều đến tình cảm giữa
chiến khu với đồng bào nơi bị chiếm; đến các trận đánh Trảng Bom, Bưng Còng,
Bảo Chánh, La Ngà; đến tinh thần chiến đấu hy sinh của bộ đội, dân quân du
kích, của em bé liên lạc xóm Cây Dâu, đến cái chết của đại biểu Quốc hội khoá I
Nguyễn Văn Xiểng... Nhưng có lẽ các nhân chứng lịch sử nhớ nhiều nhất bài thơ
của ông nói về trận bão lụt lịch sử năm Nhâm Thìn 1952 và trận thắng lớn của
Tiểu đoàn 303 Thủ Biên ngay trong những ngày “Trút cả hũ không còn đầy nắm
muối”.
Chính Thượng tướng Trần Văn Trà, vị Tư lệnh
Quân giải phóng miền Nam đã nhớ, chép lại và cho công bố bài thơ “Chiến khu
Đ chống bão” trước cả khi Ty Văn hoá Thông tin Sông Bé ấn hành tập “Bên
dòng sông xanh” năm 1982:
Những nóc nhà trôi
Những thân cây đổ
Suối ngập thành sông, sông
tràn thành biển
Mênh mông sóng vỗ chân
trời
Thôi hết rồi hết lúa hết
khoai
Chiến khu Đồng Nai lại
đói
Con ngậm củ mài cha nhơi củ
chuối
Ướt mắt chồng nhìn vợ nuốt
vỏ khoai
Đứt ruột mẹ tiếng con thơ
đòi bú
Voi cũng trôi tận Cù Lao
Phố
Mấy con trâu vướng trụ cầu
Gành...
Cả chiến khu đêm nay không
ngủ
Tụ năm tụ ba
Bàn tán về Tiểu đoàn ba
trăm lẻ ba...
Bỗng được tin loa
Ta tiêu diệt hoàn toàn đồn
Bến Sắn.
Sau Hiệp định Genève, Huỳnh Văn Nghệ tập kết
ra Bắc. Cả khi ở Hà Nội và sau này, lúc đất nước đã hoàn toàn thống nhất, Huỳnh
Văn Nghệ ít làm thơ; và thơ ông nếu có lại chỉ quay về... Chiến khu Đ. Đó là
những vần thơ da diết nhớ một thời kháng chiến bất khuất, hoặc xót xa với cảnh
rừng bị địch tàn phá đến hoang trụi.
Đất rừng còn nhức
nhối
Hố bom khoét thân mình
Cây dầu còn rỉ máu
Vết đạn vẫn chưa lành...
Dân mình còn gian khổ
Hoà bình chưa ăn mừng
Lo thiếu gạo thiếu gỗ
Nhưng phải bảo vệ rừng
Ngày mai rừng tươi lại
Cho người đỡ nắng mưa
Thêm lúa thơm gỗ quý
Suối trong veo bốn mùa
(Cây thông già và anh thợ rừng).
Những câu trích ở trên chỉ là một phần rất nhỏ
trong nhiều bài thơ được lưu giữ trong ký ức của các nhân chứng lịch sử thời
kháng chiến ở miền Đông Nam bộ, những bài thơ mà tôi tin rằng tập “Thơ văn
Huỳnh Văn Nghệ” do Nhà xuất bản Đồng Nai ấn hành năm 1998 chưa sưu tập đầy
đủ.
Tôi không dám nói đến cái hay, cái chưa hay
của thơ ông – với tôi đó là chốn thâm nghiêm. Công việc ấy rồi đây, nhất định
phải nằm trong danh mục kế hoạch nghiên cứu của các nhà phê bình lý luận thơ
nhằm dựng định lại một vườn thơ kháng chiến ở Nam bộ mà chắc chắn thơ Huỳnh Văn
Nghệ là một đóng góp. Và trong cuốn “Lịch sử Chiến khu Đ” do tôi làm chủ biên
(được xuất bản và tái bản từ nhiều năm trước), có một nguồn sử liệu từ thơ của
ông - chiến sĩ nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét