Thứ Tư, 13 tháng 6, 2012

tư liệu về cải cách Việt Nam cuối thế kỷ XIX, phần 1



I - Tư liệu về Nguyễn Trường Tộ: 

1. VÀI SUY NGHĨ VỀ NHỮNG ĐIỀU TRẦN
CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
Nguyễn Phan Quang
Trong thế yếu tột cùng như vậy của triều Nguyễn và trong điều kiện thực dân Pháp đã nắm chắc trong tay hai hiệp ước 1862 và 1874, những xét đoán của Nguyễn Trường Tộ về vấn đề “thời cơ” của các năm 1871 -1872 đáng được trân trọng về mặt tâm huyết, nhưng nghiêm túc mà nói thì đó là những xét đoán thiếu cơ sở thực tế, nếu không muốn nói là quá ảo tưởng, thậm chí có người còn cho đó là “câu chuyện hài hước”.
Tháng 9.1871 (hai tháng trước khi qua đời), Nguyễn Trường Tộ mong triều đình nhà Nguyễn thực hiện những đề nghị canh tân mà ông đã đề xuất từ năm 1863 : “Bài Tế cấp luận của tôi nếu đem ra thực hành trăm năm cũng chưa hết thế mà bảy, tám năm nay chưa thấy thực hành tí nào, chả lẽ đợi đến trăm năm sau mới thực hành được sao? Nay có thể làm được rồi, thời đã đến, thế đã có, mở rộng giao thương để đem của cải thiên hạ đến, chấn hưng phương pháp mới để làm hưng thịnh nguồn lợi trong nước. Tiến hành cả hai thì mọi cái hỗ trợ nhau, lợi ích sẽ ùn ùn đưa đến. Tôi tính toán cái thời hạn 20 năm chỉ một ngày có thể hy vọng được”.
Theo Nguyễn Trường Tộ, các năm 1871-1872 là thời gian các nước tư bản đang cạnh tranh gay gắt với nhau đặc biệt là tình hình nước Pháp sau thất bại trước Phổ. Vì vậy “nếu để thời cơ bối rối của họ đi qua thì còn làm gì được nữa, hiện nay hết sức khẩn cấp. Hãy đứng dậy nhảy xổ ra bắt tay thực hiện ngay! Thời đã đến rồi. Thời khó mà dễ mất. Chớ nên nói hãy để sang năm” (4).
Những suy đoán của Nguyễn Trường Tộ về tình hình nước Pháp những năm 1870-1871 không phải hoàn toàn không có cơ sở. Nhưng, theo chúng tôi, điều quan trọng hơn là cần tìm hiểu hai vấn đề sau:
Một là: Về mặt chủ quan, liệu cho đến những năm 60, 70 của thế kỷ XIX, triều đình Huế có còn khả năng xoay chuyển tình thế như thời vua Gia Long còn trị vì, hay ít ra là khoảng những năm cuối đời Minh Mạng, khi nhà vua bừng tỉnh về đường lối “đóng cửa” thất sách của mình? Về vấn đề này, chúng tôi đã nói qua ở phần trên, khi nhắc lại thực trạng xã hội Việt Nam trước và trong thời gian có những đề xuất canh tân, trong đó có những điều trần của Nguyễn Trường Tộ.
Hai là: Về mặt khách quan, liệu chính phủ Pháp, và thực dân Pháp nói riêng, có vì “tình hình bối rối” của họ trong các năm 1871-1872 mà đành bó tay nhìn vua quan triều Nguyễn xông ra “chớp thời cơ” để canh tân đất nước, một khi quyết tâm xâm chiếm toàn bộ nước ta của họ đã được xác định?
Như mọi người đều biết, sau khi hiệp ước 1862 được phê chuẩn, vua Tự Đức cử một phái bộ sang Pháp, xin vua Pháp (Napoléon III) cho chuộc lại 3 tỉnh miền Đông. Tháng 11-1863, vua Pháp hứa với phái bộ sẽ cử đại diện (Aubaret) sang Huế để sửa lại hiệp ước 1862.
Sau một tháng điều đình (từ giữa tháng 6 đến giữa tháng 7.1864), Aubaret và Phan Thanh Giản ký bản điều ước gồm 21 khoản: Pháp trả lại cho Tự Đức 3 tỉnh miền Đông nhưng vẫn làm chủ Sài Gòn, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho; đồng thời triều đình Huế thừa nhận sự “bảo hộ” của Pháp trên lục tỉnh. Các điều khoản về thương mại, truyền giáo... vẫn giữ nguyên như hiệp ước 1862.
Về thực chất, “tạm ước” Aubaret - Phan Thanh Giản không có lợi hơn, thậm chí có hại hơn đốt với vận mệnh đất nước so với hiệp ước 1862. Thế nhưng ngay sau khi đề án tạm ước vừa đệ trình vua Pháp và Aubaret chưa kịp đến Huế, thực dân Pháp (ớ nước Pháp cũng như ở Nam kỳ) đứng đầu là Bộ trưởng Bộ Hải quân và Thuộc địa Chasseloup Laubat cực lực phản đối, yêu cầu vua Pháp ra lệnh đình chỉ việc triển khai đề án tạm ước Aubaret.
Sự phản đối này thể hiện rất quyết liệt qua 3 bức thư (viết khoáng cuối tháng 9 đầu tháng 10.1863) mà chúng tôi tìm thấy trong Kho lưu trữ quốc gia Pháp tại Paris. Tác giả 3 bức thư này là Rieunier - sĩ quan tham mưu ở Nam kỳ - gửi cho một nghị sĩ có thế lực ở Viện Lập pháp, đồng thời cũng là tác giá viết cuốn Vấn đề Nam kỳ xét theo quyền lợi người Pháp để kịp thời phân phát cho các chính khách thực dân Pháp, làm áp lực phản đối việc phái bộ Phan Thanh Giản xin chuộc đất.
Nội dung 3 bức thư nhấn mạnh yêu cầu chính phủ Pháp không giảm bớt hoặc triệu hồi sô quân viễn chinh ở Nam kỳ, liệt kê những thành tựu “khai hoá” của Pháp ở Nam kỳ trong 4 năm qua (1859-1863). Vấn đề cấp bách trước mắt - theo tác giả - là phải chiếm ngay toàn bộ Nam kỳ:
“Với những tài liệu gửi đến ngài trong bức thư trước, tôi hy vọng giúp ngài khẳng định tầm quan trọng và triển vọng đặc biệt của xứ Nam kỳ, một báu vật mà Thượng đế đã giao phó cho chúng ta, cũng là vùng đất mà nước Anh thực sự thèm khát nhưng không dám thú nhận. (…) Tại sao Chính phủ không nghĩ rằng cần phải có 3.000 hay 4.000 lính để thúc đẩy nhanh chóng việc chinh phục thuộc địa tuyệt vời này? Hiện ở Nam kỳ chúng ta chỉ có khoảng 1.800 - 2.000 lính. Và nếu chiến tranh lại nổ ra? Rồi người ta sẽ hối tiếc khi không còn thời cơ nữa” (Kho lưu trữ quốc gia Pháp - Fonds Berryer, 223AP-d2).
Cuối cùng, Napoléon III quyết định hủy bỏ tạm ước. Về phía triều đình Huế, vua Tự Đức cử Phan Thanh Giản làm Khâm sai đại thần ở 3 tỉnh miền Tây, tiếp tục thi hành lệnh giải giáp quân đội và nghiêm trị những người nổi loạn.
Trên thực tế, ngay trong tháng 1.1865, được lệnh không thi hành tạm ước, đô đốc De Lagrandière xúc tiến kế hoạch chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây. Tháng 10, 1866, y cử Vial ra Huế yêu cầu triều đình để cho Pháp cai trị luôn 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Tháng 2.1867, một đai diện của De Lagrandière lại ra Huế đòi chiến phí hàng năm theo điều ước 1862 và nhấn mạnh yêu cầu giao quyền cho Pháp ở 3 tỉnh miền Tây. Triều đình Huế lúng túng, cuối cùng dành toàn quyền giải quyết vấn đề cho Phan Thanh Giản.
Nắm được tâm trạng vua Tự Đức và triều đình Huế, De Lagrandière triển khai kế hoạch đã dự tính và chỉ trong vòng 7 ngày (từ 18.6 đến 24.6.1867), quân Pháp chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây không tốn một viên đạn. Bất lực trước tình thế, Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử.
Thực ra, mưu đồ chiếm trọn Nam kỳ của thực dân Pháp để từ đó nuốt gọn toàn bộ nước ta không phải chỉ mới xuất hiện sau hiệp ước Nhâm Tuất (5.1862), mà là từ trước khi thực dân Pháp bắt đầu tấn ông Đà Nẵng năm 1858. Một số chính khách có mặt lúc bấy giờ ở Trung Hoa như De Courcy đã đề xuất việc cử một đạo quân viễn chinh sang Việt Nam, hoặc như Bourboulon nêu ý kiến: “Phải dứt hoạt và phải làm đến cùng” nhằm bước đầu chiếm cho được vài vị trí nào đó ở liệt Nam.
Nổi bật hơn cả là ý kiến của Huc, nguyên là một nhà truyền giáo tại Trung Hoa. Tháng 1.1857, Huc gửi lên vua Pháp một bản ghi nhớ với những đoạn như sau:
“(…) Cuộc cách mạng Pháp đã làm cho người ta quên xứ Nam kỳ... Vùng Viễn Đông chẳng bao lâu nữa sẽ là nơi diễn ra những biến cố nghiêm trọng. Nếu Hoàng đế muốn, nước Pháp sẽ đóng một vai trò quan trọng và vinh quang ở vùng này; ngày nay hoàn cảnh hoàn toàn thuận hơn trước cho việc chiếm Nam kỳ, để từ đó chúng ta có thể chiếm lấy lãnh thổ Việt Nam.
Chiếm lấy Việt Nam là việc làm dễ dàng nhất trên thế giới này và sẽ mang lại hiệu quả vô bờ bến. Tại biển Đông hiện lay, nước Pháp có quá dư lực lượng để làm công việc này.
Đất đai Nam kỳ cực kỳ màu mỡ, ngang hàng với những vùng đất chí tuyến giàu có nhất. Những sản phẩm chính có thể trao đổi, mua bán hiện nay của Nam kỳ là đường, gạo, gỗ làm nhà, ngà voi v.v… Sau nữa là vàng và bạc với những mỏ rất giàu đã được khai thác lâu nay.
Tóm lại, trong những điều kiện hiện nay, nước Pháp rất cần có một cơ sở giàu và mạnh ở Viễn Đông. Xét về tất cả mọi phương diện, Việt Nam là vị trí phù hợp với chúng ta nhất. Chúng ta có quyền chiếm lấy Việt Nam, mà đây lại là công việc dễ dàng nhất trong mọi công việc. Nước Pháp chẳng phải mất gì hết, có chăng chỉ là đánh mất những kết quả lớn lao cả về vinh quang lẫn của cải (Dẫn theo Taboulet - La geste francaise en indochine, tập I, tr.401-403).
Mưu đồ trước mắt và lâu dài của thực dân Pháp như vận là đã rõ. 3 tỉnh miền Đông rồi 3 tỉnh miền Tây kế tiếp nhau rơi vào tay Pháp, nhưng nhân dân Nam kỳ vẫn phất cao ngọn cờ kháng chiến, mặc dầu điều kiện không còn thuận như trước.
Tháng 1.1872, lợi dụng việc triều đình Huế nhờ quân đội Pháp dẹp giặc biển ở Bắc kỳ, Dupré cử trung tá hải quân Senez đem chiến hạm Bourayne ra Huế báo tin rồi tiến thẳng ra vịnh Bắc kỳ. 10 tháng sau, cũng dựa vào lý do trên, tướng D'Arbaud (tạm thay Dupré nghỉ phép) lại đưa chiến hạm ra Bắc kỳ, tiến sâu vào nội địa, tìm đường lên Hà Nội. Tuy bị các quan địa phương phản đối, viên sĩ quan Pháp vẫn lên bộ quan sát Hà Nội và các triền sông phụ cận rồi đệ trình một kế hoạch đánh chiếm Bắc kỳ. Tháng 5.1873 Dupré báo cáo về Pháp: “Việc đánh chiếm Bắc kỳ là vấn đề sinh tử cho tương lai thống trị của chúng ta ở Viễn Đông” (J.Chesneaux dẫn trong Contribution à I’histoire de la nation vietnamienne, tr. 122).
Trong việc xâm lược Bắc kỳ, thực dân Pháp ở Sài Gòn liên kết hành động với Jean Dupuis, một lái buôn Pháp đang kinh doanh ở Trung Hoa. Từ năm 1867, Dupuis dựa vào thế lực của quan nhà Thanh ở Vân Nam cùng thực dân Pháp ở Sài Gòn bàn tính kế hoạch xâm nhập Bắc kỳ qua ngả sông Hồng.
Tháng 7.1873, Thống đốc Nam Kỳ Dupré điện về Pháp: “Bắc kỳ đã được khai phóng do thắng lợi của Dupuis, tạo hiệu quả sâu rộng trong nền thương mại... Chiếm Bắc kỳ là tuyệt đối cần thiết để bảo đảm cho nước Pháp con đường thông thương duy nhất này. Tôi không cần viện binh gì hết, tôi giải quyết bằng cách của tôi. Bảo đảm thắng lợi” (B.S.E.l. 2è sem. 1947 - J.Chesneaux dẫn, sách đã dẫn, tr. 122).
Giữa lúc đó, triều đình Huế cử một phái bộ vào Sài Gòn yêu cầu thực dân Pháp ngăn chặn những hành vi ngang ngược của Dupuis ở Bắc kỳ. Chớp cơ hội, ngày 11.10.1873, thiếu tá hải quân Francis Garnier được cử ra Hà Nội phối hợp với lực lượng của Dupuis, đột nhập thành Hà Nội, yêu cầu khai phóng sông Hồng.
Ngày 20.11.1873, thực dân Pháp tấn công thành Hà Nội; Tổng đốc Nguyễn Tri phương uất ức nhịn ăn mà chết. Quân triều đình tan vỡ. Quân Pháp thừa cơ chiếm các tỉnh thành Hưng Yên, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định chỉ trong 20 ngày.
Mấy tháng sau đó, triều đình Huế lại phải ký tiếp với thực dân Pháp hiệp ước Giáp Tuất (15.3.1874), chính thức thừa nhận Nam kỳ là thuộc địa của Pháp, người Pháp được quyền chi phối ngoại giao, nội trị trên phần đất còn lại của Việt Nam. Như vậy, việc thực dân Pháp thực sự đặt nền thống trị lên toàn cõi Việt Nam chỉ còn là vấn đề thời gian.
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam những năm 60, 70 của thế kỷ XIX, về quyết tâm chiếm đoạt Việt Nam bằng bất kỳ giá nào của thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn (cả vua lẫn quan) dù có phép thánh cũng không thể nào nghe theo lời thúc giục của Nguyễn Trường Tộ là phải chớp lấy “thời cơ” mà “nhảy xô ra” bắt tay thực hiện ngay những nội dung trong các điều trần của ông.
Trong thế yếu tột cùng như vậy của triều Nguyễn và trong điều kiện thực dân Pháp đã nắm chắc trong tay hai hiệp ước 1862 và 1874, những xét đoán của Nguyễn Trường Tộ về vấn đề “thời cơ” của các năm 1871 -1872 đáng được trân trọng về mặt tâm huyết, nhưng nghiêm túc mà nói thì đó là những xét đoán thiếu cơ sở thực tế, nếu không muốn nói là quá ảo tưởng, thậm chí có người còn cho đó là “câu chuyện hài hước”.
**
*
Hơn một thế kỷ nay, người ta đã bàn nhiều về tính “khả thi” hay “bất khả thi” của những điều trần. Một số nhà nghiên cứu cũng ghi nhận các điều trần của Nguyễn Trường Tộ phản ánh tâm huyết của một trí thức có hiểu biết sâu rộng, thiết tha tìm cách giải nguy cho Việt Nam.
Có ý kiến nhận thấy những điều trần của ông không có gì xa vời, ảo tưởng mà phần lớn nằm trong tầm tay của nước ta lúc bấy giờ. Nhưng nhiệt tình và tài năng của ông đã bị bỏ qua chỉ vì “điều không may cho Nguyễn Trường Tộ chính là đã ở vào một thời đại với một ông vua nhu nhược, với những quan lại vô trách nhiệm, và một tầng lớp sĩ phu lỗi thời, lạc hậu”. (Trương Bá Cần - Sách đã dẫn, tr.100).
Lại có ý kiến cho rằng: mãi đến năm 1871, Nguyễn Trường Tộ mới đề xuất “sự thể hiện nay chỉ có hoà”. Nhưng từ 10 năm trước (1862), vua Tự Đức đã thử nghiệm một cuộc “nghị hoà” (hiệp ước Nhâm Tuất và kết quả là mất 3 tỉnh miền Đông, khiến cho thực dân Pháp tranh thủ “xin” nốt toàn bộ Nam kỳ lục tỉnh (1867). Nếu Nguyễn Trường Tộ còn sống cho đến năm 1874 thì triều đình Huế còn một cuộc “nghị hoà” ngoạn mục hơn với hiệp ước Giáp Tuất; và nếu ông còn sống lâu thêm cho đến các năm 1883, 1884 thì các cuộc “nghị hoà” mang tên Harmand và Patenôtre còn ly kỳ hơn nhiều. Đã vậy thì đâu phải triều đình Huế ngán ngại chuyện “hoà”, chẳng qua vì càng “hoà” thì càng mất đất, mất quyền, cuối cùng là mất hết!
Ý kiến này cũng cho rằng tầm cao trí tuệ của Nguyễn Trường Tộ thể hiện rõ nhất ở một số điều tiên đoán của ông, chẳng hạn như: “Họ đã đến là không chịu đi nữa”, “con giao long khi thấy đầm vực thì nghĩ cách đầm mình chứ không thể nào chịu bỏ mà đi” hoặc: “Hiện nay quân Pháp đã chỉnh cư thành Gia Định và các phủ huyện thuộc hạt, họ đào kinh đắp lũy thủ kế lâu dài để tỏ ra không chịu đi, như hổ đã về rừng, rồng đã xuống biển..., có đánh họ cũng không đi, hoà họ cũng không đi”. Nếu như hậu thế có quy phần nào trách nhiệm cho triều Nguyễn đã để mất nước vào tay thực dân Pháp thì đó là vì nhiều lý do khác, chứ đâu phải vì không vâng lời Nguyễn Trường Tộ nên để vuột mất “thời cơ”.
Nhắc lại ý kiến trên đây, chúng tôi sực nhớ câu nói của một nhà sử học bậc thầy với các học trò của mình: Tìm hiểu con người mà bỏ qua hoặc xem nhẹ vị thế của họ trong xã hội thì chẳng khác nào vớt một con cá đang bơi tung tăng dưới sông đem đặt lên mặt bàn để phân tích về đời sống của loài cá.
Vậy thì nên chăng vấn đề Nguyễn Trường Tộ và những điều trần của ông cần được giới nghiên cứu tiếp tục tìm hiểu thêm - dù có phải tốn thêm thời gian và giấy mực - để có những nhận thức sâu sắc hơn về vị thế của chính Nguyễn Trường Tộ trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam những năm 60, 70 của thế kỷ XIX?
CHÚ THÍCH
1. Trương Bá Cần - Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo - Nxb TPHCM, 1988.
2. Nguyễn Trọng Văn - Quan điểm của Nguyễn Trường Tộ về con đường cứu nước ở Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX - Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 4 (396), 2009, tr.32-35.
3. Dẫn theo Trương Bá Cần - sđd, các tr.107-112.
4. Dẫn theo Nguyễn Trọng Văn - tạp chí đã dẫn, tr.35.


2. Triều Nguyễn sai gì trong xu hướng đổi mới cuối TK XIX?

Tư bản Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam vào lúc chế độ phong kiến Việt Nam đang lún sâu vào con đường khủng hoảng suy vong trầm trọng. Chính sách khắc nghiệt và sai lầm của triều Nguyễn về kinh tế - tài chính đã làm cho nông nghiệp trong nước ngày càng tiêu điều, xơ xác.
Nông nghiệp sa sút, kéo theo luôn sự suy thoái rõ rệt của các ngành nghề thủ công truyền thống trong nhân dân. Còn công nghiệp cũng ngày càng lụi tàn vì các quy định ngặt nghèo như các chế độ công tượng mang tính chất cưỡng bức lao động, đánh thuế sản vật rất nặng mang tính chất nô dịch…
Thương nghiệp trong nước và với nước ngoài sút kém rõ rệt, riêng thuế cửa quan trước có 60 sở thu thì đến năm 1851 chỉ còn 21 sở. Một số cửa cảng trước kia buôn bán phồn thịnh, nay trở nên vắng vẻ. Trên cơ sở một nền kinh tế sa sút về các mặt như vậy, tài chính quốc gia ngày càng thêm kiệt quệ.
Trong hoàn cảnh đó, mâu thuẫn giữa tập đoàn thống trị với nhân dân cả nước - chủ yếu là nông dân - đã trở nên vô cùng gay gắt và đã được bộc lộ rõ một cách kịch liệt bằng hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân xuyên suốt các đời vua nhà Nguyễn, kể từ đời vua đầu tiên Gia Long đến vua Tự Đức là ông vua được chứng kiến sự xâm lược của tư bản Pháp.
Để bảo vệ đặc quyền đặc lợi, phong kiến nhà Nguyễn đã dồn mọi lực lượng quân sự trong tay vào việc bóp chết các cuộc khởi nghĩa nông dân.

Chính trong quá trình tiến hành “tiễu phỉ” quyết liệt đó, mà lực lượng quân sự của triều đình suy yếu dần, đồng thời cũng hủy hoại mất khả năng kháng chiến to lớn trong nhân dân, và như vậy đã tạo điều kiện cho tư bản Pháp để thôn tính nước ta. Đó là chưa nói tới chính sách sai lầm của triều Nguyễn về đối ngoại.
Một mặt ra sức đẩy mạnh thủ đoạn xâm lược đối với các nước láng giềng đang cùng chung số phận bị chủ nghĩa tư bản Pháp uy hiếp, làm cho quân lực bị tổn thất, tài chính quốc gia và tài lực nhân dân ngày thêm khánh kiệt; mặt khác đối với tư bản phương Tây đang gõ cửa đòi vào thì một mực bế quan tỏa cảng, tưởng rằng đó là phương sách hay nhất để tự cứu. Bên ngoài kẻ thù ráo riết dòm ngó trong khi bên trong lại rối loạn và suy yếu, hoàn cảnh đó chỉ có lợi cho kẻ thù.

Nguy cơ mất nước vào tay bè lũ thực dân Pháp ngày càng rõ, tình hình đó làm cho những người yêu nước và thức thời không thể có thái độ bàng quan, lạnh nhạt.
Ngay cả một số quan lại triều đình - nhất là một số người có dịp đi ra nước ngoài công cán nên thấy rõ sức mạnh của văn minh thế giới - cũng phải lên tiếng, đề đạt với triều đình một số công việc cáp bách cần làm để nước giầu, dân mạnh thì mới có khả năng bảo vệ độc lập dân tộc.
Phạm Phú Thứ trong phái đoàn ngoại giao của triều đình sang Pháp hồi đầu năm 1863 (II) đã ghi chép những điều mắt thấy tai nghe trên đường đi và tại xứ người, khi về nước đã cho khắc in năm bộ sách giới thiệu nền văn minh của thế giới phương Tây.
Những bộ sách đó là:
• Bác vật tân biên (nói về khoa học);
• Khai môi yếu pháp (nói về khai mỏ);
• Hàng hải kim châm (nói về cách đi biển);
• Tùng chánh di qui (kinh nghiệm đi làm quan); 
• Vạn quốc công pháp (giao thiệp quốc tế)
Tháng 5 năm 1863, Biện lý bộ Hình Trần Đình Túc tâu xin mộ dân khai khẩn ruộng đất hoang ở hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị; đến tháng 3 năm sau (1864), ông lại xin cho mộ dân, lập xã, lập ấp để rồi nhận phần khai khẩn ruộng hoang tại xã Lương Điền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên. Ngành khai mỏ cũng được đặc biệt chú ý.
Tháng 3/1867, cũng Trần Đình Túc xin khai mỏ sắt ở xã Lưu Biểu, thuộc huyện Hương Trà (Thừa Thiên). Sau đó, hoạt động khai mỏ được đẩy mạnh  ở nhiều địa phương, có lúc do chính triều đình chủ động quyết định.
Như tháng 3 năm 1868, ra lệnh cho các tỉnh khai thác than đá ở hai xã Sa Lung và Phú Xuân thuộc huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên; tháng 4 năm đó, đào lấy than đá ở núi Tân Sơn, tỉnh Quảng Yên.
Tháng 6/1868, vua Tự Đức chỉ thị cho tỉnh Khánh Hoà đào lấy than đá ở núi Điện Cơ; tháng 7 năm đó khai mỏ sắt Phổ Lý ở tỉnh Thái Nguyên, mỏ than ở núi Hoàn Ngọc tỉnh Quảng Yên v.v…).
Chỉ có thế thấy được ý nghĩa quan trọng của các hoạt động dồn dập trên khi liên hệ tới tình hình bi đát của ngành khai thác mỏ lúc đó, đến đầu đời Tự Đức, nhiều mỏ đã đình lại không khai thác.
Thương nghiệp cũng có những đổi mới đáng kể... Biện lý bộ Hộ là Đặng Huy Trứ năm 1865 được phái sang Hương Cảng công tác lúc về đã xin đặt ty Bình chuẩn sứ để thu mua hàng hoá cất vào kho, chờ khi giá cả lên cao thì đưa ra bán rẻ cho dân để giữ giá cả thăng bằng, ngăn ngừa con buôn đầu cơ trục lợi (5/1866). 
Căn cứ vào lời tâu của Đặng Huy Trứ tuy vẫn cho rằng “việc buôn bán là nghề mạt, nhưng lại khẳng định là ích nước lợi dân, là việc lớn của triều đình”, cũng thấy sự thay đổi về tư duy trong hoạt động kinh tế lúc bấy giờ của vua quan triều Nguyễn. Đặc biệt là có hàng loạt đề nghị mở rộng quan hệ buôn bán với nước ngoài, một việc làm hoàn toàn đối lập với chính sách “bế quan toả cảng” truyền thống của chế độ phong kiến tập quyền.
Tháng 9/1868, Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế đi giao hiếu với nước Anh từ Hương Cảng về đã tâu xin vua Tự Đức mở cửa biển Trà Lý (Nam Định), nhấn mạnh tới yêu cầu “mở thương điểm thông thương với bên ngoài, chiêu tập nhân dân trong thiên hạ, tụ hội hàng ngoài thiên hạ để tính cách lợi ích lâu dài sau này”.
Đến tháng 1/1873, lúc này toàn Nam Kỳ đã bị tư bản Pháp nuốt gọn từ 6 năm về trước - các quan ở Nha Thương Bạc cũng xin mở 3 cửa biển để thông thương (như tụ dân ở bở biển thì tăng cường lực lượng phòng thủ đất nước; tập trung các nơi buôn bán gần biển thì liên lạc và tiếp ứng với nhau dễ, có khả năng ngăn ngừa giặc biển, đội thuỷ quân chiến thuyền của vùng biển có thể bảo vệ đội thuyền vận tải khi có giặc biển; tích tụ của cải trong dân, bố trí binh lính ngay trong những người làm nghề buôn bán để sẵn sàng đối phó khi có giặc; đẩy mạnh buôn bán với nhau sẽ làm cho tin tưởng lẫn nhau, qua đó thông hiểu được tình hình nước ngoài. 
Về khoa học giáo dục, cũng đã có những nhận thức mới. Vua Tự Đức ra lệnh chọn 8 người có sức khoẻ, thông minh, siêng năng đi học nghề chế tạo đầu máy chạy biển. 
Tháng 7/1867, nhà vua chỉ thị cho Viện Cơ Mật dịch các sách khoa học kỹ thuật phương Tây ra chữ Hán để tiện phổ biến trong nhân dân.
Tháng 5/1868, triều đình lại cử một đoàn 8 người vào Gia Định học chữ Pháp. Như vậy là tới những năm của nửa sau thế XIX, yêu cầu đổi mới về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục đã được đặt ra với Việt Nam nhằm giải quyết những khó khăn to lớn của đất nước, yêu cầu đó cấp thiết và mạnh mẽ đến nỗi ngay cả vua quan triều Nguyễn vốn bảo thủ và trì trệ cũng không thể không nhận thấy, và trong một phạm vi nhấn định đã có những việc làm nhằm giải quyết các khó khăn to lớn đó để đưa đất nước thoát cơn nghuy khốn.
Nhưng kiểm điểm lại, tất cả các việc đó còn rụt rè, có tính chất thăm dò, và thường là để đối phó với thời cuộc  nên thiếu kiên trì và thiếu triệt để, thường khi bị bỏ dở, nhất là khi các đề xuất đổi mới lại cho các giáo sĩ hay các giáo dân - những người mà triều đình dè bỉu gọi là “dĩu dân” - đưa ra thì vua Tự Đức và các quan lại trong triều ngoài địa phương thường đem lòng nghi ngờ, lo ngại vì đã nhập cục một cách sai lầm họ với bè lũ thực dân tay sai.
Vì vậy có khi do tình thế bức bách phải dùng họ thì cũng dùng nửa vời và sẵn sàng bỏ rơi họ nửa chừng. Cuối tháng 9/1866, Tự Đức phái Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Điền (cả hai người đều là giáo dân) cùng đi với giám mục Gauthier (Ngô Gia Hiệu) sang Pháp mua tầu, máy móc, sách khoa học kỹ thuật… Chuyến đi đó có mua được một số hàng hoá, nhưng căn cứ vào bức thư viết tháng 12 năm đó của
Thượng thư bộ Lễ triều đình Huế gửi vào Sài Gòn cho phó đô đốc De La Grandière, thống soái và tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp, thì thấy rõ việc mua bán rất tuỳ tiện, không có kế hoạch cụ thể, thích gì mua nấy nên lợi ích mang lại  rất hạn chế, như đã mua một số máy móc thiên  văn, máy điện thoại, các dụng cụ cho nghề in, các loại axit sun fu rich, ni tơ rích v.v… và một  số sách nói về thuật hàng hải, về điện khí, v.v…
Đó là  không nói rằng trong rất nhiều trường hợp đã tìm mọi cớ khó khăn để cự tuyệt các đề nghị  đưa lên, và phổ biến nhất là bỏ rơi trong im lặng.
Từ năm 1863 đến năm 1871, trong vòng 8 năm rưỡi, Nguyễn Trường Tộ đã kiên trì gửi lên triều đình tới 30 điều trần, đề cập một cách có hệ thống tới hàng loạt vấn đề cấp thiết nhất của Tổ quốc đứng trước nguy cơ mất còn ngày một ngày hai sẽ tới.
Thế mà trước sau tất cả các đề nghị đó - những bản đề nghị có thể nói được viết bằng máu và nước mắt, bản đề nghị cuối cùng được Nguyễn Trường Tộ viết ngay trên giường bệnh, khi tử thần đang chờ ngoài cửa - đều vấp phải sự thờ ơ, lãnh đạm từ vua Tự Đức xuống tới các quan lại trong triều ngoài nội.
Thậm chí trước thái độ kiên trì của Nguyễn Trường Tộ, vua Tự Đức có lần nổi nóng, đã có lời quở trách vừa chủ quan, vừa thiển cận: “Nguyễn Trường Tộ qua tin ở các điều y đề nghị… Tại sao lại thúc giục nhiều đến thế, khi mà các phương pháp cũ của Trẫm đã rất đủ để điều khiển quốc gia rồi”.
Đến Nguyễn Trường Tộ là một người nổi tiếng học giỏi, từng có cơ hội đi ra nước ngoài tham gia học hỏi, lại được giới chính trị và giáo hội Thiên chúa muốn dùng, thế mà còn bị Tự Đức và triều đình coi thường, xem khinh như vậy, thì việc cự tuyệt những đề nghị của một giáo dân bình thường là Đinh Văn Điền ở huyện Yên Mô (Ninh Bình) như đặt nha Dinh điền để khai khẩn ruộng hoang, khai các mỏ, đóng hỏa thuyền, đưa vào người phương Tây để lập các kho Bình chuẩn ở các nước để lưu thông hàng hóa, của cải cho nhân dân, tự do dạy và học binh thư, thưởng phạt nghiêm minh, có chính sách thích hợp với thương binh và gia đình tử sĩ v.v…cũng là điều tất nhiên mà thôi!
Lúc còn có thời gian để đổi mới mà không biết chớp lấy thời cơ cũng là thất bại, huống chi đến lúc đã quá muộn, kẻ thù đã buộc chân, trói tay rồi thì còn hy vọng gì nữa!
Cho nên đến hai bản “Thời vụ sách” của Nguyễn Lộ Trạch ra đời vào các năm 1877 và 1882 - lúc này hiệp ước Giáp Tuất (1874) đã được ký kết xác nhận quyền chiếm đóng lâu dài và vĩnh viễn của thực dân Pháp trên toàn bộ 6 tỉnh Nam kỳ - thì chỉ có ý nghĩa nói lên tấm lòng yêu nước nhiệt thành của người trí thức khao khát muốn đem những điều sở đắc của mình ra giúp nước, nhưng đã thấy trước sự thất  bại.
Chính Nguyễn Lộ Trạch đã đau đớn nhận rõ: “Đại thế ngày nay không còn là đại thế như ngày trước. Ngày trước còn có thể làm mà không làm, ngày nay muốn làm mà không còn thì giờ và làm không kịp...”.
Thế mà Tự Đức vẫn thường trách là “ngôn hà quá cao” (nói sao quá cao), rồi đình việc cử ông sang Hương Cảng học cơ sảo.  Sẽ là thiếu sót khi đề cập tới các đề nghị cải cách đổi mới dưới triều Nguyễn mà không nhắc tới Bùi Viện, một con người kết hợp khá chặt chẽ tư duy đổi mới với hành động, và đã được Tự Đức dùng vào một số công việc cụ thể như thành lập độ Tuần dương quân bảo vệ mặt bờ biển, mở cửa cảng Hải Phòng, hai lần đi sứ sang Hương Cảng và nước Mỹ vào các năm 1873 và 1875, nhưng công việc đã bị dang dở với cái chết đột ngột năm 1878.
Như vậy là đến nửa cuối thế kỷ XIX thì tất cả những đề nghị đổ mới lớn nhỏ, hoàn chỉnh hay không hoàn chỉnh ở Việt Nam đều nối tiếp nhau thất bại. Tất nhiên có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự thất bại của các đề nghị đối mới đó.
Một phần là do các đề nghị đó, kể cả các đề nghị của Nguyễn Trường Tộ - nói chung đều nặng về ảnh hưởng bên ngoài mà thiếu cơ sở vật chất để tiếp  nhận từ bên trong.
Mặt khác nội dung của các điều trần trên không hề đả động gì đến yêu cầu cơ bản của lịch sử Việt Nam hồi đó là giải quyết hai mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam: giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với tư bản Pháp xâm lược và giữa nhân dân lao động - chủ yếu  là nông dân - với giai cấp phong kiến hủ bại đang trượt dài trên con đường khuất phục đầu hàng thực dân Pháp. 
Vì vậy đã không được chính ngay nhân dân đang sục sôi bầu nhiệt huyết đánh giặc cứu nước nhiệt tình hưởng ứng và hăng hái đứng ra làm hậu thuẫn, khả dĩ tạo thành một sức ép đáng kể đối với giới cầm quyền, buộc họ phải nghiêm chỉnh thực hiện.
Nhưng nguyên nhân quan trọng quan trọng nhất - có thể nói là chủ yếu - làm cho các đề nghị đổi mới thời đó thất bại là do thái độ bảo thủ, phản động của vua quan triều đình, tuy có lúc do tình thế thúc bách nên có chủ trương một vài đổi mới về các mặt kinh tế, văn hoá, giáo dục..., nhưng về cơ bản thì trong tư tưởng, cũng như trong cơ cấu  chính trị vẫn không hề thay đổi, nên không bảo đảm cho việc đổi mới được thực hiện triệt để, trót lọt, thường là nửa chừng bị bỏ dở.
Công cuộc đổi mới nửa cuối thế kỷ XIX ở Việt Nam vì các hạn chế ngặt nghèo trên  nhất là thiếu sự tham gia của đông đảo quần chúng - nên cũng chỉ giới hạn trong một số người, một bộ phận nhỏ bên trên mà thôi, chỉ là một xu hướng mới trong phong trào yêu nước nói chung của nhân dân ta hồi đó.
Cứ tiếp nối đà phát triển đó, bước sang những năm đầu thế kỷ XX, trong những điều kiện lịch sử khác trước, yêu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam ngày càng trở nên cấp thiết hơn và được thể hiện qua hai xu hướng bạo động và cải cách song song tồn tại và phát triển.
Nhưng cũng phải đợi tới cuộc vận động duy tân tiến tới những cuộc đấu tranh chống thuế năm 1908 với sự tham gia đông đảo của quần chúng nông dân miền Trung - hay ở mức độ thấp hơn là Đông Kinh nghĩa thục ngoài Bắc - thì mới thật sự trở thành một phong trào  đổi mới có vị trí xứng đáng và ảnh hưởng to lớn trong lịch sử đấu tranh giải phóng lâu dài và anh hùng của dân tộc.
GS. NGND Đinh Xuân Lâm - Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét