7. Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V Đảng
Cộng sản Việt Nam Về Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Về "Phương
hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội trong 5 năm
(1981 - 1985) và những năm 80", ngày 31 tháng 3 năm 1982
Sau khi thảo luận Báo cáo về
"Phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội
trong 5 năm (1981 - 1985) và những năm 80" của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng do đồng chí Phạm Văn Đồng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng trình bày, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt
Nam quyết nghị:
1. Tán thành và nhất trí thông qua phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội đề ra trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, coi đó là Chỉ thị của Đại hội nhằm hướng dẫn việc xây dựng kế hoạch 5 năm (1981 - 1985), và chuẩn bị cho kế hoạch sau.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V) và Hội đồng Bộ trưởng căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu trên đây để lãnh đạo và tổ chức việc xây dựng kế hoạch 5 năm (1981 - 1985), và chuẩn bị cho kế hoạch sau.
Trong khi khẩn trương xây dựng kế hoạch 5 năm (1981 - 1985), Ban Chấp hành Trung ương và Hội đồng Bộ trưởng phải quyết định kịp thời những chủ trương và biện pháp có hiệu quả thiết thực giải quyết những vấn đề cấp bách về sản xuất và đời sống của nhân dân, đổi mới công tác quản lý kinh tế, quản lý xã hội, khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong các hoạt động kinh tế và trong đời sống xã hội, tổ chức và động viên mạnh mẽ phong trào cách mạng, phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa trong cả nước, phấn đấu hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ kinh tế và xã hội trước mắt.
1. Tán thành và nhất trí thông qua phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội đề ra trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, coi đó là Chỉ thị của Đại hội nhằm hướng dẫn việc xây dựng kế hoạch 5 năm (1981 - 1985), và chuẩn bị cho kế hoạch sau.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V) và Hội đồng Bộ trưởng căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu trên đây để lãnh đạo và tổ chức việc xây dựng kế hoạch 5 năm (1981 - 1985), và chuẩn bị cho kế hoạch sau.
Trong khi khẩn trương xây dựng kế hoạch 5 năm (1981 - 1985), Ban Chấp hành Trung ương và Hội đồng Bộ trưởng phải quyết định kịp thời những chủ trương và biện pháp có hiệu quả thiết thực giải quyết những vấn đề cấp bách về sản xuất và đời sống của nhân dân, đổi mới công tác quản lý kinh tế, quản lý xã hội, khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong các hoạt động kinh tế và trong đời sống xã hội, tổ chức và động viên mạnh mẽ phong trào cách mạng, phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa trong cả nước, phấn đấu hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ kinh tế và xã hội trước mắt.
9. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng,
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V do đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng trình bày Ngày 27 tháng 3 năm 1982
Ngày 5/9/2006. Cập
nhật lúc 9h 38'
Thưa các đồng chí đại biểu thân mến,
Thưa các vị khách quý mến,
Từ Đại hội lần thứ IV đến Đại hội lần thứ V của Đảng là những năm đầu
cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, với sự ra đời của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam độc lập và thống nhất. Đó là những năm khôi phục, cải
tạo và phát triển kinh tế, cải tạo và phát triển văn hoá dưới ánh sáng của
đường lối Đại hội lần thứ IV của Đảng; là thời kỳ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và
đấu tranh chống kẻ thù mới... Đó là thời kỳ nền độc lập dân tộc và vị trí của
chủ nghĩa xã hội ở nước ta được củng cố thêm một bước vững chắc, trong sự gắn
bó chặt chẽ hơn bao giờ hết với hai nước anh em trên bán đảo Đông Dương, với
Liên Xô và cộng đồng xã hội chủ nghĩa thế giới.
Đó là những năm sôi động và phức tạp trong quá trình phát triển không
ngừng đi lên của cách mạng Việt Nam, là thời kỳ nhân dân ta giành được những
thắng lợi rất to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và những thành tựu bước đầu
trong công cuộc xây dựng lại đất nước theo Di chúc thiêng liêng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Hiện nay, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta trước lịch sử hết sức
nặng nề. Cuộc chiến đấu của chúng ta còn rất gay go, phức tạp; kẻ thù đang tăng
cường chính sách thù địch đối với nhân dân ta; tình hình kinh tế, xã hội trước
mắt có những mặt khó khăn nghiêm trọng.
Đại hội lần thứ V của Đảng tiến hành
kiểm điểm việc chấp hành đường lối của Đại hội lần thứ IV, đánh giá đúng thành
tựu, khuyết điểm và thực trạng kinh tế - xã hội hiện nay, phân tích rõ nguyên
nhân của thắng lợi và khó khăn, vạch ra những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
nước ta trong tình hình mới, quyết định những chủ trương và biện pháp nhằm phát
huy các thế mạnh của đất nước, đưa nền kinh tế vượt qua khó khăn và tiến lên,
nhằm củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.
Sau đây, xin trình bày trước Đại hội báo cáo của Ban Chấp hành Trung
ương.
Phần I
Tình hình và nhiệm vụ chung
Sau thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ mùa Xuân năm
1975, với niềm tự hào chính đáng và nguồn sinh lực mới, nhân dân cả nước ta
chung một ý chí, phấn khởi vươn lên xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thành công rực rỡ của Đảng ta và nhân dân ta là đã nhanh chóng thống
nhất nước nhà về mặt Nhà nước, thiết lập hệ thống
chuyên chính vô sản trong cả nước và thực hiện nhiều chính sách thúc đẩy quá
trình thống nhất về mọi mặt, tạo nên cuộc sống hoà hợp dân tộc, chan hoà từ Bắc
đến Nam. Lần đầu tiên Tổ quốc ta được thống nhất thật sự, trên cơ sở bền vững
của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bao nhiêu thủ đoạn tinh vi và sâu độc
của chủ nghĩa đế quốc trong hàng chục năm, hòng phá sự thống nhất của dân tộc
ta, làm biến chất con người Việt Nam ta, đã thất bại. Đế quốc Mỹ mơ tưởng sẽ có
nội loạn ở nước ta sau khi chúng rút đi. Nhưng điều đó đã không xảy ra. An ninh
chính trị được giữ vững. Quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động bước đầu
được thực hiện. Tuyệt đại đa số những người trước kia làm việc cho đối phương
đã trở thành những thành viên bình đẳng trong cộng đồng dân tộc. Nước Việt Nam
là một, dân tộc Việt Nam là một. Sức mạnh to lớn của đất nước thống nhất đang
được phát huy trong công cuộc hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục
kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội và thể hiện nổi bật qua hai cuộc chiến tranh
giữ nước.
Chúng ta đã kịp thời giải quyết những vấn đề cấp bách về
kinh tế, nhanh chóng bắt tay xây dựng lại những vùng nông thôn rộng lớn ở miền
Nam và những cơ sở kinh tế và văn hoá ở miền Bắc bị chiến tranh tàn phá. Hàng
triệu người được giúp đỡ về quê cũ đoàn tụ với gia đình và tham gia xây dựng đất
nước. Hàng chục vạn người thất nghiệp ở vùng mới giải phóng được thu xếp việc
làm. Hàng vạn nạn nhân của lối sống và văn hoá đồi trụy dưới chế độ cũ được
phục hồi nhân phẩm. Sản xuất và đời sống nhân dân dần dần trở lại bình thường.
Sau ba mươi năm chiến tranh, nhân dân ta không có nguyện vọng nào tha
thiết hơn là được sống trong hoà bình, độc lập, tự do để xây dựng lại đất nước
và cuộc sống của mình. Song, công cuộc xây dựng tiến hành chưa được bao lâu thì
dân tộc ta lại phải đương đầu với những thử thách mới cực kỳ nghiêm trọng do
chính sách thù địch của bọn phản động... gây ra.
.....
Nêu cao truyền thống bất khuất và khí phách kiên cường của dân tộc,
phát huy sức mạnh vĩ đại của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, các lực
lượng vũ trang anh hùng của chúng ta cùng đồng bào các tỉnh biên giới... được
sự chi viện hết lòng của cả nước, đã chiến đấu anh dũng, bẻ gãy các mũi tiến
quân của bọn xâm lược,...
Thắng lợi của hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là
thắng lợi có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn. Nhân dân ta đã... bảo vệ độc lập, tự do và chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, làm tròn nghĩa vụ quốc tế với nhân dân Campuchia và nhân dân
Lào anh em, tích cực bảo vệ độc lập dân tộc và hoà bình ở Đông Dương và Đông
Nam á. Bằng cuộc chiến đấu và chiến thắng của mình, nhân dân ta đã góp phần
tăng cường ba dòng thác cách mạng của thời đại, tăng cường cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế quốc và phản động quốc tế, vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội...
Cùng với thắng lợi vẻ vang trong chiến tranh giữ nước,
và gắn liền với thắng lợi đó, chúng ta đã tăng cường liên minh chiến đấu và
hình thành thế liên hoàn vững chắc chưa từng có của cách mạng ba nước Đông
Dương, tăng cường đoàn kết chiến đấu và hợp tác toàn diện với Liên Xô, gia nhập
Hội đồng tương trợ kinh tế, mở rộng hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa anh
em khác. Những thành tựu có ý nghĩa chiến lược đó là một bảo đảm cực kỳ
quan trọng cho nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trên mặt trận kinh tế, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Chúng ta đã ra sức phấn đấu khắc phục những hậu quả nặng
nề do chiến tranh xâm lược và thiên tai liên tiếp gây ra. Những cơ sở nông
nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải bị giặc đánh phá đến nay về cơ bản đã
được khôi phục; sản xuất trên một số mặt có phát triển. Lao động xã hội bước
đầu được phân bố lại. Nhờ những cố gắng liên tục trên mặt trận sản xuất lương
thực, thực phẩm, những vùng bị thiên tai nặng nề đã vượt qua được nạn đói. Mức
sống của các tầng lớp lao động tuy còn thấp, song đời sống ở nhiều vùng nông
thôn đã có những mặt được cải thiện.
Quan hệ sản xuất mới ở miền Bắc tiếp tục được củng cố một bước. ở miền
Nam, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đạt được kết quả bước đầu. Giai cấp tư
sản mại bản đã bị xoá bỏ; một bộ phận công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa đã
được cải tạo. Tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp nhỏ đang được
sắp xếp và tổ chức lại. Một bộ phận nông dân các tỉnh Nam Bộ đã được tổ chức
vào các tập đoàn sản xuất; các tỉnh Nam Trung Bộ đã cơ bản hoàn thành đưa nông
dân vào con đường làm ăn tập thể.
Năng lực sản xuất của các ngành kinh tế được tăng cường một bước. Với
việc phục hoá, khai hoang và tăng vụ, diện tích gieo trồng tăng thêm gần hai
triệu hécta. Chúng ta đã cung ứng thêm cho nông nghiệp 18 nghìn máy kéo các
loại, đưa tỷ lệ cơ giới hoá làm đất lên 25% diện tích gieo trồng. Sản xuất nông
nghiệp có phát triển rõ nhất là từ năm 1979 đến nay. Diện tích trồng rừng đạt
580 nghìn hécta.
Năng lực sản xuất trong công nghiệp được bổ sung thêm
100 nghìn kilôoát điện, 2 triệu tấn than, 500 nghìn tấn ximăng. Nhiều công
trình đang xây dựng sẽ đưa vào sản xuất trong thời kỳ 1981 - 1985, như các nhà
máy ximăng, nhà máy điện, cơ khí động lực, cơ khí đóng và sửa chữa tàu thuyền,
các nhà máy đường, nhà máy giấy, nhà máy kéo sợi, v.v.. Ngành giao thông vận
tải đã khôi phục và xây dựng mới gần 1.700 kilômét đường sắt, 3.800 kilômét
đường ôtô, 30.000 mét cầu, 4.000 mét bến cảng, bổ sung thêm nhiều phương tiện
vận tải. Tài sản cố định của Nhà nước năm 1980 tăng
10,2 tỷ đồng so với năm 1976.
Chúng ta đạt được những thành tựu về kinh tế trong hoàn
cảnh hết sức khó khăn; đồng thời trên lĩnh vực này, chúng ta cũng có nhiều
khuyết điểm, sai lầm, cho nên kết quả còn thấp so với yêu cầu và chưa tương
xứng với công của đã bỏ ra. Song, trong cục diện cách mạng của 5 năm qua, chúng
ta khẳng định ý nghĩa quan trọng của những thành tựu ấy.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương, Nghị
quyết số 26 của Bộ Chính trị và các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà
nước trên lĩnh vực kinh tế đã bước đầu tạo ra khí thế mới, tiến bộ mới trong
sản xuất. Trong cả nước, nông nghiệp đang có chiều hướng phát triển tốt. Trong
công nghiệp quốc doanh, xuất hiện một số điển hình đạt hiệu quả kinh tế cao.
Tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp phát triển khá. Công tác quản lý kinh tế bắt
đầu chuyển hướng đúng, đang tạo những nhân tố tích cực mới, mở ra triển vọng
khai thác tốt hơn các khả năng hiện có và tiềm năng để đưa nền kinh tế vượt qua
khó khăn và phát triển tiến lên trong những năm tới.
Mặt trận văn hoá đã đạt được nhiều thành tựu. Sự nghiệp giáo dục tiếp tục phát
triển. Nạn mù chữ trong vùng mới giải phóng về cơ bản đã được thanh toán. Nước ta
hiện nay có gần 16 triệu người, tức là gần một phần ba số dân, đi học. Công
cuộc xây dựng nền văn hoá mới được triển khai trong cả nước; các tỉnh miền Nam
đã làm nhiều việc để loại trừ văn hoá phản động, lạc hậu, đồi trụy do chế độ cũ
để lại. Sự nghiệp văn học, nghệ thuật đạt được một số tiến bộ. Công tác y tế,
thể dục, thể thao có nhiều cố gắng vươn lên. Các ngành khoa học, kỹ thuật đã
đáp ứng tốt một số yêu cầu của kinh tế và quốc phòng. Trong chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc cũng như trong lao động xây dựng cuộc sống mới, đã xuất hiện những tấm
gương tập thể và cá nhân tiêu biểu cho phong cách và đạo đức của con người mới
xã hội chủ nghĩa.
Toàn bộ những thành tựu cách mạng vĩ đại mà nhân dân ta đã giành được
bằng bao nhiêu xương máu và mồ hôi qua nửa thế kỷ đấu tranh dưới sự lãnh đạo
của Đảng, đã được phản ánh tập trung trong Hiến pháp mới. Đó là Hiến
pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp của thời kỳ quá độ
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp mới đã thể chế hoá đường lối cách mạng xã
hội chủ nghĩa của Đảng và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tạo ra
một chỗ dựa quan trọng, một vũ khí sắc bén để nhân dân ta tiếp tục đấu tranh
xây dựng và bảo vệ chế độ mới.
Năm năm qua được ghi vào lịch sử dân tộc như một đoạn đường thắng lợi
rất vẻ vang của cách mạng Việt Nam. Vượt khó khăn
chồng chất, nhân dân ta đã đưa cách mạng Việt Nam phát triển lên một thế chiến
lược mới vững chắc hơn so với trước đây, tạo ra khả năng to lớn hơn để bảo vệ
Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Đạt được thắng lợi đó là nhờ có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng ta, Đảng
do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, trung thành vô hạn với chủ nghĩa
Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, với vận mệnh của dân tộc và sự nghiệp
của nhân dân. Những thắng lợi đã giành được chứng tỏ đường lối do Đại hội lần
thứ IV của Đảng vạch ra và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là
đúng đắn. Trong tình thế cực kỳ nghiêm trọng của đất nước trước âm mưu và hành
động xâm lược của kẻ thù mới, Đảng đã đề ra những chủ trương chiến lược kiên
quyết và sáng suốt, những quyết định chính xác và kịp thời, đưa cách mạng
nước ta vượt qua một bước ngoặt quan trọng và tiếp tục phát triển theo hướng đi
đúng.
Thắng lợi trong đoạn đường vừa qua, một lần nữa làm ngời sáng phẩm chất
tốt đẹp của dân tộc ta và của các lực lượng vũ trang nhân dân nước ta. Hàng
nghìn năm nay, dân tộc ta không bao giờ chịu khuất phục trước bất kỳ thế lực
bạo ngược nào. Từ Cách mạng Tháng Tám, mấy thế hệ nối tiếp nhau đánh giặc cứu
nước, vừa yên ổn chưa bao lâu, nhân dân ta đã phải đối đầu với quân xâm lược
mới. Nghe theo lời kêu gọi thiêng liêng của Đảng, toàn dân ta: già trẻ, gái
trai, ngoài Bắc, trong Nam, miền xuôi, miền ngược, và toàn quân ta, lại siết
chặt hàng ngũ, không quản gian khổ hy sinh, kiên quyết chiến đấu bảo vệ bờ cõi
thiêng liêng của Tổ quốc và hết lòng giúp đỡ anh em láng giềng trong cơn nguy
biến. ý chí kiên cường của nhân dân ta: công nhân, nông dân và lao động trí óc,
của các lực lượng vũ trang nhân dân còn được tỏ rõ trong cuộc đấu tranh hằng
ngày vượt qua những gay go, thử thách sau chiến tranh và trong buổi đầu đưa đất
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vĩ đại thay nhân dân Việt Nam anh hùng!
Đại hội chúng ta nhiệt liệt biểu dương đồng bào các dân tộc trong nước,
cùng toàn thể cán bộ, chiến sĩ quân đội nhân dân, công an nhân dân, dân quân tự
vệ đã đoàn kết một lòng, chiến đấu anh dũng, lập công xuất sắc trong hai cuộc
chiến tranh giữ nước, viết thêm một chương oanh liệt trong bản anh hùng ca vì
độc lập, tự do của Tổ quốc; và đang ngày đêm bảo vệ biên cương, bảo vệ vùng
đất, vùng trời, vùng biển và các hải đảo, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội. Đại hội chúng ta hoan nghênh các tầng lớp nhân dân lao động đã
cố gắng liên tục, giành được những thành tựu trong khôi phục, cải tạo và phát
triển kinh tế, cải tạo và phát triển văn hoá, và hiện đang phấn đấu không mệt
mỏi khắc phục khó khăn, đưa đất nước tiếp tục tiến bước trên con đường chủ
nghĩa xã hội.
Thắng lợi của chúng ta trong cuộc chiến đấu tự vệ và xây dựng đất nước
hiện nay không tách rời sự hợp tác toàn diện và giúp đỡ tích cực của Liên Xô,
tình đoàn kết đặc biệt của Lào và Campuchia, sự ủng hộ hết lòng của các nước xã
hội chủ nghĩa khác, sự đồng tình và ủng hộ của các lực lượng cách mạng và hoà
bình trên thế giới.
Từ diễn đàn này, Đại hội chúng ta bày tỏ lòng biết ơn
chân thành và sâu sắc nhất của toàn Đảng, toàn dân ta đối với Đảng Cộng sản và
Nhà nước Liên Xô, đứng đầu là đồng chí L.I. Brêgiơnép kính mến, đối với nhân
dân Liên Xô vĩ đại, người đồng chí, người anh em tin cậy đã và đang dành cho
nhân dân ta sự giúp đỡ toàn diện, to lớn và có hiệu quả nhất.
Chúng ta gửi những tình cảm nồng nàn và lòng biết ơn sâu sắc đến nhân
dân hai nước Lào và Campuchia, những người anh em đã sát cánh cùng chúng ta
chiến đấu mấy chục năm nay chống kẻ thù chung và đang cùng chúng ta phất cao
ngọn cờ độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội trên bán đảo thân yêu này.
Chúng ta tỏ lòng biết ơn chân thành các nước xã hội chủ nghĩa anh em
khác đã dành cho sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta sự giúp đỡ to lớn và quý
báu.
Chúng ta nhiệt liệt cảm ơn tất cả bầu bạn trên thế giới đã đứng bên
cạnh nhân dân ta và ủng hộ chúng ta một cách khảng khái.
Thưa các đồng chí,
Năm năm qua, bên cạnh thắng lợi và thành tựu, có rất nhiều khó khăn; và
hiện nay, trên mặt trận kinh tế, đất nước ta đang đứng trước nhiều vấn đề gay
gắt. Kết quả thực hiện các kế hoạch kinh tế trong 5 năm (1976 - 1980) chưa thu
hẹp được những mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân. Sản xuất phát
triển chậm trong khi số dân tăng nhanh. Thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được
tiêu dùng xã hội, một phần tiêu dùng xã hội phải dựa vào vay và viện trợ, nền
kinh tế chưa tạo được tích luỹ. Lương thực, vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết
yếu đều thiếu. Tình hình cung ứng năng lượng, vật tư, tình hình giao thông vận
tải đang rất căng thẳng. Nhiều xí nghiệp sử dụng công suất ở mức thấp. Chênh
lệch giữa thu và chi tài chính, giữa hàng và tiền, giữa xuất khẩu và nhập khẩu
còn lớn. Thị trường và vật giá không ổn định. Số người lao động chưa được sử
dụng còn đông. Đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn, nhất là đời sống
công nhân, viên chức và nông dân những vùng bị thiên tai, địch họa. Trong đời
sống kinh tế, văn hoá, trong nếp sống và an toàn xã hội, có những biểu hiện
tiêu cực kéo dài; trên một số mặt, trận địa xã hội chủ nghĩa bị những nhân tố
tư bản chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa xâm lấn.
Nguồn gốc sâu xa của những khó khăn về kinh tế và đời
sống là: Nền kinh tế nước ta còn phổ biến là sản xuất nhỏ, lại phải gánh chịu
những hậu quả hết sức nặng nề của chiến tranh lâu dài và chủ nghĩa thực dân; 5
năm qua, chúng ta phải tiến hành chiến tranh giữ nước ngót ba năm; vết thương
cũ chưa hàn gắn xong đã tiếp thêm những tàn phá mới; thiên tai lớn lại dồn dập
xảy ra; kẻ địch thường xuyên phá hoại về nhiều mặt. Cùng một lúc, nền kinh tế
của chúng ta phải đáp ứng ba yêu cầu cơ bản rất cấp bách là bảo đảm nhu cầu bảo
vệ Tổ quốc, bảo đảm đời sống nhân dân và xây dựng từng bước cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội. Trong hoàn cảnh đó, khó khăn, mất cân đối là không
thể tránh khỏi.
Song mặt khác, khó khăn còn do khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan
Đảng và Nhà nước ta từ trung ương đến cơ sở về lãnh đạo và quản lý kinh tế,
quản lý xã hội. Trên những mặt nhất định, khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và
quản lý là nguyên nhân chủ yếu gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình hình khó
khăn về kinh tế và xã hội trong những năm qua. Nghị quyết của nhiều hội nghị
Trung ương đã vạch ra những khuyết điểm, sai lầm ấy.
Đại hội lần thứ IV của Đảng ta, xuất phát từ những đặc điểm lớn của đất
nước, đã đề ra đường lối chung và đường lối kinh tế đúng đắn, phản ánh những
quy luật của thời kỳ quá độ từ sản xuất nhỏ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Nhưng trong 5 năm 1976 - 1980, việc nắm và hiểu tình hình thực tế, việc cụ
thể hoá đường lối và chấp hành đường lối của Đảng có những khuyết điểm, sai
lầm. Đồng thời, chúng ta có khuyết điểm, sai lầm rất lớn về tổ chức và chỉ đạo
thực hiện, bao gồm cả công tác kế hoạch và điều hành quản lý.
Chúng ta thấy chưa hết những khó khăn, phức tạp của con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn phổ biến; thấy chưa hết
quy mô của những đảo lộn kinh tế và xã hội sau một cuộc chiến tranh lâu dài;
thấy chưa hết khó khăn, phức tạp trong việc khắc phục những yếu kém của chúng
ta về quản lý kinh tế và xã hội; lường chưa hết những diễn biến có mặt không
thuận lợi trong tình hình thế giới. Do đó, chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra
một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô và quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát
triển sản xuất, nhất là lúc ban đầu. Nóng vội còn một số biểu hiện khác như đưa
quy mô hợp tác xã nông nghiệp lên quá lớn ở một số địa phương, như lập kế hoạch
và triển khai xây dựng một số công trình khi còn rất thiếu tài liệu điều tra,
nghiên cứu và chuẩn bị chưa chu đáo.
Mặt khác, chúng ta lại hết sức bảo thủ, trì trệ. Nhiều
cơ quan Đảng và Nhà nước từ trung ương đến cơ sở không chấp hành nghiêm chỉnh,
đến nơi đến chốn, đường lối của Đại hội IV và nhiều nghị quyết của Trung ương
Đảng; không đánh giá đúng các thuận lợi và khả năng,
đặc biệt là các khả năng sẵn có của đất nước về lao động, đất đai, rừng, biển,
về các cơ sở vật chất - kỹ thuật và các ngành, nghề, sản xuất hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu; không quyết tâm, không chịu suy nghĩ tìm biện pháp phát huy
những thuận lợi và khả năng đó. Chúng ta đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành
chính quan liêu, bao cấp, chậm thay đổi các chính sách, chế độ kìm hãm sản
xuất. Trong hoạt động sản xuất và quản lý kinh tế, tư tưởng ỷ lại rất nặng.
Chủ quan nóng vội, bảo thủ, trì trệ đều là khuyết điểm, sai lầm về cụ
thể hoá và chấp hành đường lối của Đảng, xét cho cùng là do chưa thật sự nắm
chắc quy luật của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa được phản ánh trong đường lối của Đảng, chưa nắm đầy đủ thực tế và thiếu
kiến thức kinh tế. Khuyết điểm, sai lầm về cụ thể hoá và chấp hành đường lối
thể hiện trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý; trong
việc không thật sự xây dựng kế hoạch ở cả các cấp trung ương, địa phương, cơ sở
và không coi trọng xây dựng kế hoạch từ cơ sở, trong việc không gắn kế hoạch
với hạch toán kinh tế, với kinh doanh xã hội chủ nghĩa, không coi trọng năng
suất, chất lượng và hiệu quả. Khuyết điểm, sai lầm còn thể hiện trong việc
không chú ý phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các yếu tố trong đường lối
chung và đường lối kinh tế; nhất là chưa biết phát huy sức mạnh của chế độ làm
chủ tập thể của nhân dân lao động, của cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ,
Nhà nước quản lý, chưa kết hợp tốt ba cuộc cách mạng, chưa phát động được sâu
rộng phong trào cách mạng của quần chúng.
Về tổ chức thực hiện, khuyết điểm, sai lầm của chúng ta là quan liêu,
xa thực tế, không nhạy bén với cuộc sống; là bảo thủ, trì trệ, thiếu trách
nhiệm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Mặt trận tư tưởng, văn hoá còn bị xem nhẹ; việc giáo dục cho đảng viên
và quần chúng về đấu tranh giữa hai con đường chưa được chú ý đầy đủ. Trong đấu
tranh chống chiến tranh tâm lý, chống tư tưởng phản động, chống văn hoá đồi
trụy, công tác tư tưởng, văn hoá thiếu sắc bén, kém tính chiến đấu.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa chậm được tăng cường; pháp
luật, kỷ luật bị buông lỏng. Việc đấu tranh chống những hành vi phạm pháp và tệ
nạn xã hội thiếu kiên quyết và triệt để.
Công tác xây dựng Đảng có những mặt trì trệ kéo dài, chưa đi kịp và
chưa bám sát những nhiệm vụ mới, nhất là những nhiệm vụ về cải tạo và xây dựng
kinh tế. Đặc biệt, công tác cán bộ rất chậm trễ và bảo thủ trên tất cả các khâu
đào tạo, sắp xếp, sử dụng và đãi ngộ.
Những khuyết điểm, sai lầm trên đây chứng tỏ rằng, về một số vấn đề,
chúng ta nắm chưa thật vững chuyên chính vô sản mà nội dung toàn diện đã được
xác định trong Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng. Đó là những khuyết điểm
sai lầm rất nghiêm trọng. Ban Chấp hành Trung ương xin nghiêm khắc tự phê bình
trước Đại hội. Đề nghị sau Đại hội này sẽ tiến hành tự phê bình và phê bình sâu
sắc trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước các cấp, đề ra những biện pháp có
hiệu lực để sữa chữa những khuyết điểm, sai lầm ấy.
Thưa các đồng chí,
Năm năm qua là thời kỳ đặc biệt có ý nghĩa không chỉ xét trên tầm vóc
các sự kiện lịch sử. Giá trị đặc biệt của 5 năm qua còn ở những kinh nghiệm rất
bổ ích mà Đảng ta tích luỹ được. Toàn bộ những ưu điểm, khuyết điểm và nhược
điểm trên đây cần được toàn Đảng suy nghĩ, phân tích rút ra những bài học cần
thiết nhằm cải tiến, nâng cao hơn nữa trình độ lãnh đạo của Đảng và năng lực
quản lý của Nhà nước, bảo đảm hoàn thành những nhiệm vụ nặng nề của cách mạng
trong thời gian tới.
Qua hơn nửa thế kỷ hoạt động của mình, Đảng ta đã dành phần lớn thì giờ
và công sức vào nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc. Sáu năm qua và từ nay về
sau, sứ mệnh lịch sử của Đảng ta là lãnh đạo nhân dân cả nước xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, đưa đất nước từng bước tiến lên con đường tiến bộ, văn
minh, đồng thời luôn luôn bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập vững bền cho dân tộc
và cuộc sống ngày càng hạnh phúc cho nhân dân.
Song, sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của chúng ta diễn ra trong
bối cảnh quốc tế có nhiều biến động phức tạp. Các thế lực hiếu chiến của chủ
nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, và bọn... đang câu kết với nhau, tập hợp
lực lượng để phản kích phong trào cách mạng thế giới, chủ yếu là chống Liên Xô
và cộng đồng xã hội chủ nghĩa. ở Đông Nam châu á, bọn phản động... và các thế
lực đế quốc chĩa mũi nhọn chống Việt Nam và hai nước Lào, Campuchia.
Hiện nay, bọn phản động... được Mỹ phụ hoạ và tiếp sức, đang tiến hành
một kiểu chiến tranh phá hoại đối với Việt Nam trên các mặt trận quân sự, chính
trị, kinh tế, văn hoá bằng nhiều lực lượng khác nhau và nhiều thủ đoạn rất thâm
độc... Bằng chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp, chúng ra sức phá hoại ta
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, âm mưu chia rẽ các dân tộc, chia rẽ nhân dân
với Đảng, ngấm ngầm nhen nhóm các lực lượng phản động, tổ chức các hoạt động
chống đối hòng gây bạo loạn và lật đổ. Chúng phá hoại kinh tế, phá hoại sản
xuất, đồng lõa với đế quốc thi hành chính sách cấm vận, đồng thời gieo rắc nọc
độc văn hoá phản động, đồi trụy. Chúng tìm mọi cách bôi nhọ hình ảnh của Việt
Nam hòng cô lập nước ta trên trường quốc tế...
Như vậy, đất nước ta đang ở trong tình thế vừa có hoà bình vừa phải
đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt... đồng thời, phải sẵn
sàng đối phó với tình huống địch có thể gây chiến tranh xâm lược quy mô lớn.
Xuất phát từ tình hình nói trên, trong giai đoạn mới của cách mạng,
toàn dân, toàn quân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải đoàn kết một lòng, ra
sức phấn đấu làm hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội;
Hai là sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Hai nhiệm vụ chiến lược đó quan hệ mật thiết với nhau. Phải xây dựng
chủ nghĩa xã hội đạt những kết quả thiết thực làm cho đất nước ta mạnh lên về
mọi mặt và trong mọi hoàn cảnh thì mới có đủ sức đánh thắng mọi cuộc chiến
tranh xâm lược của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại, có tăng cường
phòng thủ đất nước, làm thất bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch và bảo
đảm cho đất nước luôn luôn được bảo vệ vững chắc thì mới có điều kiện để xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
"Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân
dân!". Đó là khẩu hiệu hành động của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta, là sứ mệnh cao cả và thiêng liêng mà các thế hệ
người Việt Nam chúng ta từ nay về sau phải gánh vác trước lịch sử dân tộc.
Trong khi thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược nói trên,
chúng ta phải luôn luôn tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác toàn
diện với Liên Xô, với Lào và Campuchia, với các nước xã hội chủ nghĩa anh em
khác, luôn luôn ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân tất cả các nước chống chủ
nghĩa đế quốc và phản động quốc tế, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội. Đây là nghĩa vụ quốc tế của nhân dân ta, đồng thời là một nhiệm
vụ có ý nghĩa chiến lược quan hệ đến lợi ích sống còn của độc lập, tự do và chủ
nghĩa xã hội ở nước ta và trên bán đảo Đông Dương, đến hoà bình và ổn định ở
Đông Nam á và hoà bình trên thế giới.
Nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi phải thường
xuyên cảnh giác đối với âm mưu và hành động chiến tranh của bọn phản động... và
các thế lực đế quốc hiếu chiến, phải động viên những cố gắng cao nhất của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta kiên quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại
nhiều mặt của địch, đồng thời bảo đảm cho đất nước luôn luôn sẵn sàng, có đủ
sức mạnh đánh thắng kẻ thù trong bất cứ tình huống nào.
Để đáp ứng yêu cầu đó, phải xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, toàn diện và hiện đại dựa trên cơ sở không ngừng củng cố và tăng
cường chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động về mọi mặt. Chăm lo đời sống
vật chất và văn hoá của nhân dân, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn
xã hội, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tăng
cường đoàn kết các dân tộc, đoàn kết quân dân. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với
quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, từng bước phát triển công nghiệp quốc phòng
đi đôi với tăng cường tiềm lực kinh tế của đất nước. Đó là những yếu tố tạo nên
sức mạnh tổng hợp của công cuộc bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân theo quan điểm chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân, có quân chủ
lực và quân địa phương, có cơ cấu cân đối và đồng bộ giữa lực lượng thường trực
và lực lượng dự bị, có số lượng cần thiết và chất lượng ngày càng cao, hết sức
coi trọng xây dựng dân quân tự vệ mạnh, nhất là ở biên giới; các thứ quân hình
thành lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ gắn bó với nhau, bảo đảm làm chủ
vững chắc, tiến công mạnh mẽ. Không ngừng hoàn chỉnh thế phòng thủ đất nước,
bảo đảm cho cả nước và từng địa phương luôn luôn được chuẩn bị sẵn sàng, có khả
năng chủ động đối phó với mọi tình huống. Cần đặc biệt tăng cường chỉ đạo, ra
sức xây dựng các tỉnh biên giới phía bắc và các tỉnh Tây Nguyên thành những
tỉnh được bố phòng tốt, có chính trị vững, có kinh tế và văn hoá phát triển, có
lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, có khả năng giải quyết tốt hậu cần tại
chỗ.
Tiếp tục làm tốt cuộc vận động xây dựng quân đội ta thành quân
đội nhân dân cách mạng có ý chí quyết thắng sắt đá, có kỷ luật chặt chẽ, có tác
phong nghiêm túc, có trình độ chính quy, hiện đại ngày càng cao, trình độ sẵn
sàng chiến đấu không ngừng hoàn thiện, luôn luôn làm tròn mọi nhiệm vụ mà Tổ
quốc giao phó. Chăm lo hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của bộ đội, củng
cố mối quan hệ ruột thịt giữa quân đội với nhân dân; phải làm tốt các chính
sách đối với gia đình liệt sĩ, thương binh và quân nhân tại ngũ. Tổ chức quân
đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế một cách thích hợp và có hiệu
quả. Giáo dục sâu rộng cho nhân dân và thanh niên hiểu rõ luật nghĩa vụ quân
sự, chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng tham gia lực lượng vũ trang, kinh qua
trường học lớn của quân đội để rèn luyện mình thành con người mới xã hội chủ
nghĩa.
Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội là
một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng để đánh thắng chiến tranh phá hoại nhiều mặt của
địch. Kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng, kịp thời đập tan những mưu mô ngóc
đầu dậy của các loại phản động, ngăn ngừa và trừng trị hoạt động phá hoại của
địch trên mọi lĩnh vực, tăng cường pháp luật và kỷ luật, bảo vệ trật tự của xã
hội và sự an toàn của nhân dân.
Để làm được nhiệm vụ đó, phải xây dựng lực lượng công an nhân dân trong
sạch, vững mạnh về mọi mặt, thật sự là công cụ sắc bén của Nhà nước chuyên
chính vô sản, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, có lực
lượng chuyên trách chính quy, hiện đại, vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ,
có trình độ khoa học kỹ thuật khá, được trang bị chuyên môn cần thiết; có lực
lượng nửa chuyên trách vững mạnh, có cơ sở quần chúng rộng khắp, bảo đảm hoàn
thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.
Phối hợp hoạt động của các ngành, các cơ quan, đoàn thể, các lực lượng,
các thứ quân dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng để chống chiến tranh phá hoại
nhiều mặt của địch; phối hợp tốt giữa các ngành công an, kiểm sát, tư pháp
trong việc tăng cường pháp chế; phối hợp tốt giữa lực lượng công an nhân dân
với quân đội nhân dân, dân quân tự vệ và lực lượng của quần chúng trong việc
giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Đặc biệt ở các vùng biên giới, vùng dân tộc, phải kiên trì phát động
quần chúng, làm cho đồng bào phân rõ địch, ta, kiên quyết và kịp thời đập tan
những âm mưu, hành động của địch hòng chia rẽ các dân tộc, kích động bạo loạn,
phá rối an ninh. Thi hành tốt chính sách đoàn kết và bình đẳng dân tộc, đẩy
mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm nâng
cao đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào các dân tộc.
Đại hội chúng ta đánh giá rất cao những cống hiến lớn lao của quân đội
nhân dân, công an nhân dân và dân quân tự vệ đã chiến đấu hơn ba mươi năm qua
dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng. Các lực lượng vũ trang nhân dân mãi mãi là công
cụ tin cậy của Nhà nước chuyên chính vô sản trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo
vệ những thành quả cách mạng.
Trong khi không một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ
Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Bởi vì, chủ nghĩa xã hội không những là mục đích của toàn bộ
sự nghiệp của chúng ta, mà còn vì chủ nghĩa xã hội, sự vững mạnh của chế độ xã
hội chủ nghĩa là bảo đảm cho độc lập và tự do của Tổ quốc.
Đại hội chúng ta khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách mạng xã
hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa do Đại hội lần
thứ IV của Đảng vạch ra.
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa là: "Nắm vững chuyên chính vô
sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời
ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ
thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là
then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của
cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá
mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột
người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên
củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành
công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội".
Đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là: "Đẩy mạnh công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông
nghiệp cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung
ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế
địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực
lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế
với quốc phòng; tăng cường quan hệ hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ
nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát
triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền
và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ
nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học kỹ thuật tiên
tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh và hạnh phúc".
Đường lối chung và đường lối kinh tế là một thể thống nhất hoàn chỉnh,
trong đó có mấy vấn đề cần đặc biệt chú ý là: nắm vững chuyên chính vô sản,
xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động và tiến hành công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa.
Toàn bộ đường lối đó là sự vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác -
Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, là sự thể hiện luận điểm của Lênin về
khả năng tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa.
Đường lối chung và đường lối kinh tế chỉ đạo mọi hoạt động của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong cả thời kỳ quá độ. Suốt quá trình cách mạng
đó, chúng ta phải hiểu đúng và cụ thể hoá đường lối chung và đường lối kinh tế,
căn cứ vào đường lối để vạch ra chiến lược kinh tế - xã hội, những kế hoạch
phát triển, những chủ trương, chính sách và biện pháp lớn cho cả nước, cũng như
cho từng ngành, từng lĩnh vực, sát với những điều kiện lịch sử cụ thể của đất
nước, với những yêu cầu và khả năng của nhân dân ta trong từng chặng đường.
Chặng đường trước mắt bao gồm thời kỳ 5 năm 1981 - 1985 và kéo dài
đến năm 1990, là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt.
Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh quốc tế đang diễn
biến phức tạp, trong tình hình đất nước đang có nhiều khó khăn nghiêm trọng, cuộc
đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đang diễn ra
gay gắt. Phải thấy rằng xây dựng chủ nghĩa xã hội về nhiều phương diện là
một công việc mới mẻ, chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Chúng ta không chút
nào coi nhẹ khuyết điểm, sai lầm của mình; song có những khuyết điểm, sai lầm
muốn khắc phục được phải có thời gian.
Mặt khác, chúng ta có những thuận lợi rất cơ bản. Năm năm qua, toàn Đảng
ta cũng như đảng bộ các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng trưởng thành
lên một bước. Đảng thấy rõ hơn ưu điểm và khuyết điểm, nhược điểm của mình, nắm
đường lối chắc hơn, nắm thực tế cụ thể hơn, có quyết tâm sửa chữa khuyết điểm,
sai lầm, nhất định sẽ dần dần tìm ra các giải pháp đúng đắn, có hiệu lực để làm
chuyển biến tình hình.
Bản chất chế độ ta ưu việt. Nhân dân ta rất anh hùng, thông minh và
sáng tạo, thấu hiểu những khó khăn của đất nước, kiên cường trong chiến đấu và
cần cù trong lao động sản xuất.
Về phòng thủ đất nước, chúng ta có lực lượng lớn mạnh, có thế bố phòng
vững chắc hơn và có nhiều kinh nghiệm hơn. Về quản lý kinh tế, đã bắt đầu có
những chuyển biến theo hướng đúng; khí thế mới và nhân tố mới đang từng bước
đẩy lùi các biểu hiện tiêu cực trong sản xuất.
Thuận lợi lớn của chúng ta là còn nhiều năng lực sản xuất chưa được sử
dụng hết như lao động, đất đai, ngành, nghề và cơ sở vật chất - kỹ thuật đã có
cùng những năng lực sản xuất mới sẽ tăng thêm; là có sự hợp tác toàn diện và giúp
đỡ của Liên Xô và các nước khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, của hai nước
Lào và Campuchia anh em.
Chặng đường trước mắt là chặng đường tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội
và cải tạo xã hội chủ nghĩa, tăng cường hơn nữa sự nhất trí về chính trị và
tinh thần của nhân dân, giảm bớt và khắc phục khó khăn, ổn định và cải thiện
đời sống nhân dân, chặn đứng và loại trừ các biểu hiện tiêu cực, đạt những tiến
bộ quan trọng trong mọi lĩnh vực, tạo ra thế cân đối mới của nền kinh tế, đồng
thời chuẩn bị cho những bước tiến vững chắc và mạnh mẽ hơn trong chặng đường
tiếp theo. Đảng ta phải lãnh đạo nhân dân cả nước khai thác cho được mọi khả
năng hiện có và tiềm tàng, kết hợp chặt chẽ các mặt hoạt động chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội của tất cả các cấp, các ngành, làm dấy lên một phong trào
cách mạng sôi nổi, lôi cuốn hàng chục triệu người, khơi dậy sức sáng tạo và
những đức tính cao quý của nhân dân lao động, phát huy sức mạnh tổng hợp của
chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa.
Về chính trị, thiết lập cho được và phát huy đầy đủ tác dụng của cơ chế
Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý trong cả nước và ở từng
ngành, từng địa phương, từng cơ sở. Thực hiện nghiêm chỉnh Hiến pháp mới, tăng
cường pháp chế, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Nêu cao
cảnh giác, ra sức đấu tranh làm thất bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt của
địch, tiếp tục củng cố quốc phòng, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Về kinh tế, kết hợp phát triển, sắp xếp lại và cải tạo kinh tế, đặc
biệt là tập trung sức phát triển nông nghiệp, đưa nông nghiệp một bước lên sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý, kết hợp
ngay từ đầu nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng. Bằng
cách đó, đáp ứng các yêu cầu trước mắt về đời sống nhân dân, về củng cố quốc
phòng và an ninh, khắc phục có hiệu quả các khó khăn và mất cân đối, tạo tích
luỹ từ nội bộ nền kinh tế, chuẩn bị tốt các điều kiện để đẩy mạnh công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa.
Về tư tưởng và văn hoá, đẩy mạnh công cuộc xây dựng nền văn hoá mới và
con người mới bám thật sát yêu cầu cách mạng và phù hợp với khả năng kinh tế,
thúc đẩy tốt hơn công cuộc xây dựng chế độ mới và nền kinh tế mới. Tăng cường
đấu tranh xoá bỏ những tệ nạn xã hội cũ, những tàn dư văn hoá thực dân mới,
chống mọi ảnh hưởng tư tưởng và văn hoá phản động.
Điều quyết định để hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ về xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là nâng cao năng lực lãnh đạo và tăng cường sức
chiến đấu của Đảng ta. Ra sức xây dựng Đảng thật sự vững mạnh, trong sạch và
ngày càng thành thục trong lãnh đạo kinh tế, văn hoá. Mỗi đảng viên cộng sản
phải xứng đáng là một chiến sĩ ưu tú của giai cấp công nhân và của dân tộc,
thật sự tiên phong, gương mẫu, được quần chúng tin yêu. Thực hiện lời dạy của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta phải luôn luôn "xứng đáng là người lãnh đạo,
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân", là người tổ chức mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Phần II
Những nhiệm vụ chủ yếu về kinh tế - xã hội trong 5
năm 1981 - 1985 và những năm 80
Thưa các đồng chí,
Kinh nghiệm của 5 năm 1976 - 1980 cho thấy sự cần thiết
phải cụ thể hoá đường lối của Đảng - đường lối chung của cách mạng xã hội chủ
nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta - vạch ra chiến
lược kinh tế - xã hội cho chặng đường đầu tiên của quá trình công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa. Để làm cơ sở cho việc nghiên cứu
chiến lược kinh tế - xã hội, trong Đại hội này chúng ta xác định mục tiêu kinh
tế và xã hội, cùng những chính sách lớn bảo đảm đạt được mục tiêu ấy.
Căn cứ vào đường lối của Đảng và xuất phát từ thực trạng của nền kinh
tế quốc dân, chúng ta xác định những mục tiêu kinh tế và xã hội tổng quát
của những năm 80 là:
1. Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định,
tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, trước
hết giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm, đáp ứng tốt hơn những
nhu cầu về mặc, về học hành, chữa bệnh, về ở, đi lại, về chăm sóc trẻ em và các
nhu cầu tiêu dùng thiết yếu khác.
2. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đồng
thời tăng thêm trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế khác, và chuẩn bị cho sự
phát triển mạnh mẽ hơn nữa của công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo.
3. Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam;
tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; củng cố quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước.
4. Đáp ứng các nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc
phòng và giữ vững an ninh, trật tự.
Việc thực hiện bốn mục tiêu tổng quát nói trên đòi hỏi
phải chuyển biến một bước cơ bản thực trạng của nền kinh tế:
Một, làm cho sản xuất thu nhập quốc dân từ
chỗ chưa đủ để trang trải tiêu dùng xã hội, tiến tới bảo đảm được nhu cầu tiêu
dùng xã hội, và có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế.
Hai, làm cho khối lượng và cơ cấu tổng sản
phẩm xã hội từ chỗ quá thấp và mất cân đối nặng so với nhu cầu của nền kinh tế
và của đất nước tiến tới đáp ứng được một phần quan trọng nhu cầu, kể cả thông
qua xuất khẩu để nhập khẩu những sản phẩm mà trong nước chưa tạo ra được hoặc
tạo ra chưa đủ.
Để chuyển biến một bước cơ bản thực trạng kinh tế, phải
tạo cho được một lực lượng sản xuất mới, một năng suất lao động xã hội cao hơn,
ngay trong khi chưa có nền đại công nghiệp tương đối phát triển. Muốn vậy, phải
xác định đúng đắn những chính sách
lớn về kinh tế, xã hội.
1. Trước hết và quyết định hơn hết là kết hợp đúng đắn công nghiệp
và nông nghiệp.
Cái vốn quý nhất của chúng ta là lao động; năng lực tiềm tàng
lớn nhất có thể phát huy trước tiên, cũng là đối tượng lao động có khả năng thu
hút lực lượng lao động đông đảo nhất, là đất đai (kể cả rừng và biển); một
năng lực rất lớn là ngành, nghề (bao gồm nghề phụ ở nông thôn,
thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp và các cơ sở về công nghiệp hàng tiêu dùng)
có điều kiện phát triển mạnh và sử dụng nhiều lao động. Động lực mạnh nhất của
chúng ta là chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Chế độ làm chủ tập
thể cho phép kết hợp lao động với đất đai, mở mang mạnh các ngành, nghề, sớm
tạo ra một lực lượng sản xuất mới.
Vì thế, điều quan trọng nhất, việc có thể và cần phải
làm trước tiên là làm chủ tập thể để sử dụng hợp lý và có hiệu quả lao động
và đất đai, mở mang mạnh ngành, nghề tại từng cơ sở, trên từng địa phương
và trong cả nước; để mọi người lao động đều có việc làm, mọi đất đai đều được
khai thác, mọi ngành, nghề đều được phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, tạo
ra năng suất lao động xã hội cao hơn, giá trị tổng sản lượng lớn hơn, cơ cấu
sản phẩm phong phú hơn. Như vậy, cần phải tập trung sức phát triển mạnh nông
nghiệp, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, trong
một cơ cấu kết hợp chặt chẽ và đúng đắn nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng
và công nghiệp nặng.
Việc đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong
những năm 80 bao gồm mấy nội dung chính sau đây:
Một là, bố trí cho nông nghiệp tiến
hành sản xuất và phân phối sản phẩm theo quy hoạch và kế hoạch của cả nước.
Theo kế hoạch của cả nước, nông nghiệp phải vươn lên làm tốt ba nhiệm vụ: bảo
đảm lương thực cho toàn xã hội, cung ứng nguyên liệu nông sản cho công nghiệp
hàng tiêu dùng, tạo ra nguồn hàng xuất khẩu quan trọng. Phải sử dụng lao động
và đất đai theo hướng thâm canh, chuyên canh và kinh doanh tổng hợp, nhằm phát
triển trồng trọt, chăn nuôi, chế biến, các ngành, nghề ở nông thôn. Bố trí hợp
lý và có căn cứ khoa học cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu ngành, nghề để đất
nông nghiệp cũng như đất lâm nghiệp đều được sử dụng hợp lý, để môi trường sống
được bảo vệ tốt, để mỗi hécta đất đem lại hiệu quả kinh tế cao, để các ngành,
nghề đều đem lại thu nhập lớn. Cần phân công lao động hợp lý trong từng cơ sở,
từng địa phương để ra sức thâm canh, tăng vụ; đồng thời, cần phân bố lại lao
động trên phạm vi cả nước để mở thêm diện tích canh tác mới, với khí thế ra
quân như đi đánh giặc, cứu nước, và có chỉ đạo chặt chẽ, có kế hoạch vững chắc,
bảo đảm hiệu quả trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm khai hoang trước đây.
Phấn đấu trong khoảng ba kế hoạch 5 năm, sử dụng cả 10 triệu hécta đất nông
nghiệp, 15 triệu hécta đất lâm nghiệp, và gieo trồng bình quân hai vụ trên đất
trồng cấy hằng năm.
Hai là, đẩy mạnh cách mạng khoa học - kỹ
thuật trong nông nghiệp, tích cực xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, hiện đại
hoá một bước nông nghiệp. Đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, chú ý cả tưới và tiêu; cải tạo
đất và xây dựng đồng ruộng; ứng dụng rộng rãi các thành tựu về sinh học trong
trồng trọt và chăn nuôi; mở rộng hoá học hoá, tận dụng các nguồn phân hữu cơ, đi đôi với tìm mọi cách tăng thêm phân hoá học; làm
tốt việc phòng trừ sâu bệnh, dịch bệnh; thực hiện cơ khí hoá từng bước thích
hợp với từng địa bàn, kết hợp tốt cơ khí với thủ công và nửa cơ khí, bảo đảm
hiệu quả kinh tế; phát triển chế biến, bảo quản tốt và vận chuyển kịp thời. Để
làm những việc trên đây, phải phát huy khả năng vật chất và trí tuệ trong nước,
nhất là phát huy năng lực của các ngành công nghiệp nặng, đồng thời thông qua
xuất khẩu để nhập những vật tư kỹ thuật mà trong nước chưa tạo ra được hoặc tạo
ra chưa đủ.
Ba là, hoàn thành cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với nông nghiệp theo hình thức và bước đi đúng đắn. Ra sức kiện toàn
các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất, nâng cao chất lượng của khu vực kinh tế
tập thể; khuyến khích kinh tế gia đình phát triển đúng hướng. Phát triển vững
chắc các cơ sở quốc doanh tại những địa bàn thích hợp, kinh doanh những cây
trồng, vật nuôi và làm một số khâu đích đáng trong nông nghiệp; coi trọng củng
cố các nông trường quốc doanh, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả làm cho
nông trường thật sự gương mẫu về sản xuất và quản lý. Thiết lập và mở rộng các
quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa trực tiếp giữa Nhà nước với hợp tác xã, với
tập đoàn sản xuất và nông dân cá thể, giữa công nghiệp và nông nghiệp, thành
thị và nông thôn, thông qua kế hoạch nhà nước và các hợp đồng kinh tế, thông
qua việc Nhà nước mua nông sản và bán công nghệ phẩm, và các hình thức liên kết
sản xuất, kinh doanh.
Bốn là, lấy huyện làm địa bàn trọng
yếu để thực hiện ba nội dung nói trên. Cơ cấu kinh tế huyện là một cơ cấu trong
đó các đơn vị cơ sở là các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, các xí
nghiệp công nghiệp nhỏ, và có thể gồm các nông trường, lâm trường của huyện và
các loại đơn vị sản xuất khác. Tích cực xây dựng các huyện theo hướng kết hợp
nông - công nghiệp (hoặc là lâm - nông - công nghiệp, hoặc là ngư - nông - công
nghiệp tuỳ theo tình hình cụ thể của các loại huyện khác nhau) nghĩa là: lấy
huyện làm địa bàn phân công lao động, tổ chức lại sản xuất, sử dụng tốt lao
động và đất đai, rừng, biển, thực hiện thâm canh, chuyên canh, phát triển trồng
trọt, chăn nuôi, mở mang ngành, nghề; tổ chức liên kết các hợp tác xã nông
nghiệp, các cơ sở thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp và các đơn vị sản xuất khác
do các hợp tác xã nông nghiệp liên doanh xây dựng nên, với một số cơ sở sản
xuất, trạm, trại kỹ thuật, cửa hàng cung ứng vật tư, thu mua nông sản, bán hàng
tiêu dùng, do Nhà nước lập ra trên địa bàn huyện. Cơ cấu kinh tế huyện hình
thành từ điều kiện kinh tế trong huyện, từ phương hướng sản xuất chuyên môn hoá
và kinh doanh tổng hợp của mỗi huyện, từ yêu cầu và khả năng của các hợp tác xã
và tập đoàn sản xuất nông nghiệp, đồng thời phải gắn với quy hoạch phát triển
kinh tế của tỉnh và của cả nước. Vì vậy, xây dựng huyện không thể tách rời xây
dựng và củng cố hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp; xây dựng huyện
phải nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong huyện, mở mang xuất khẩu và đóng
góp vào sự nghiệp xây dựng nước nhà. Đi đôi với xây dựng kinh tế, phải phát
triển giáo dục, văn hoá, y tế, thể dục, thể thao… tổ chức tốt đời sống vật chất
và văn hoá, xây dựng nông thôn mới. Kết hợp kinh tế và quốc phòng, xây dựng
huyện thành pháo đài bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng huyện theo những nội dung nói
trên là công việc của Nhà nước, của các cơ sở kinh tế, văn hoá và của toàn thể
nhân dân trong huyện. Trên mọi lĩnh vực, phải triệt để thực hiện chủ trương
"Nhà nước và nhân dân cùng làm". Sự đóng góp tích cực của nhân dân về
lao động, về trí tuệ và tài năng, về vật tư và tiền vốn đóng một vai trò cực kỳ
quan trọng. Phải tổng kết một bước công tác xây dựng huyện và kiện toàn cấp
huyện, rút kinh nghiệm để triển khai xây dựng tất cả các huyện, đồng thời phải
tập trung lực lượng của Nhà nước trước hết vào những huyện ở các vùng trọng
điểm lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp quan trọng và những huyện có tỷ
suất hàng hoá cao, nhất là hàng xuất khẩu. Rất coi trọng đào tạo và bổ sung cán
bộ cho huyện.
Đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa hoàn toàn không phải
là phát triển nông nghiệp một cách đơn độc, mà chính là trong một cơ cấu kết
hợp chặt chẽ và đúng đắn nông nghiệp với công nghiệp. Phát triển nông nghiệp
phải kết hợp với phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng, cả chiều rộng
lẫn chiều sâu từ công nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ đến các ngành, nghề
tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp ở thành thị và nông thôn. Đẩy mạnh sản xuất
hàng tiêu dùng là một hướng cực kỳ quan trọng để đáp ứng nhu cầu vật chất và
văn hoá của xã hội, mở rộng thị trường trong nước, tạo nguồn hàng xuất khẩu
quan trọng, mở rộng thị trường ra ngoài nước. Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng
là nâng cao giá trị nông sản, làm cho Nhà nước có hàng để trao đổi với nông
dân, kích thích sản xuất nông nghiệp; là mở rộng phân công lao động, tạo thêm
việc làm, phát triển kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tăng sản phẩm xã
hội và thu nhập quốc dân trong chặng đường hiện nay. Kiểm kê, phân loại tất cả
các ngành, nghề, thực hiện một sự phân công và hiệp tác hợp lý trong cả nước,
phát huy khả năng của công nghiệp trung ương,
công nghiệp địa phương, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, và sử dụng từng
người thợ thủ công cá thể, để phát triển sản xuất ở các thành phố lớn, các thị
xã và ở nông thôn. Tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp ở nước ta có tiềm
năng to lớn, là một bộ phận quan trọng của công nghiệp hàng tiêu dùng, đã và
đang được cải tạo và tổ chức lại thành một bộ phận kinh tế xã hội chủ nghĩa, có
vị trí trọng yếu lâu dài trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt trong chặng đường
đầu tiên này. Trước mắt, coi trọng giải quyết tốt việc tăng cường trang bị kỹ
thuật và cải tiến kỹ thuật, sản xuất và cung ứng nguyên liệu, sử dụng các đòn
bẩy kinh tế, khuyến khích thích đáng tập thể và cá nhân người lao động, để phát
triển mạnh mẽ tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, từ những ngành, nghề
cổ truyền đến những ngành, nghề mới xuất hiện.
Phát triển nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng là tạo cơ sở cho
sự phát triển của các ngành công nghiệp nặng. Mặt khác, để phát triển
nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng thì phải sử dụng và phát huy tốt các
năng lực công nghiệp nặng sẵn có, xây dựng một cách hợp lý những ngành công
nghiệp nặng cần thiết để cung ứng điện, than, xăng dầu, phân bón, thuốc trừ
sâu, hoá chất cơ bản, công cụ thường, công cụ nửa cơ giới và cơ giới, vật liệu
xây dựng…; đồng thời rất tích cực khai thác một số sản phẩm công nghiệp nặng để
tăng thêm nguồn vật tư và nguồn hàng xuất khẩu để trang bị kỹ thuật thêm cho
các ngành kinh tế khác và cho bản thân công nghiệp nặng. Những nhu cầu của nông
nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng mà sản phẩm của công nghiệp nặng trong nước
chưa đáp ứng được hoặc đáp ứng chưa đủ, thì bản thân nông nghiệp, công nghiệp
hàng tiêu dùng và cả công nghiệp nặng phải tạo ra hàng xuất để nhập.
Trong khi hướng công nghiệp nặng chủ yếu và trước hết
nhằm thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng phát triển, chúng ta
cần ráo riết tiến hành mọi công tác chuẩn bị cần thiết, trong đó hết sức coi
trọng tăng cường điều tra địa chất, để khi có điều kiện thì bắt tay xây dựng
một số công trình công nghiệp nặng mấu chốt, đặc biệt là cơ khí và gang thép.
Bởi vì chúng ta không bao giờ quên rằng cơ sở vật chất - kỹ thuật duy nhất của
chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí hoá, có khả năng cải tạo cả nông
nghiệp và trang bị kỹ thuật mới cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Để phục vụ việc phát triển nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và
công nghiệp nặng, để đáp ứng nhu cầu của sản xuất, xây dựng, quốc phòng, an
ninh và đời sống nhân dân, giao thông vận tải phải được chấn chỉnh và
tăng cường về mọi mặt: tổ chức, quản lý, chỉ đạo, cơ sở vật chất, trang bị kỹ
thuật, phương tiện bốc dỡ và vận chuyển; hệ thống thông tin, bưu điện cần
được củng cố, phát triển và nâng cao.
Như vậy, trong 5 năm 1981 - 1985 và những năm 80, cần tập trung sức
phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông
nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất
hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng;
kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một
cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý. Đó là những nội dung chính của công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường trước mắt.
Đó cũng chính là thực hiện "ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ", tạo ra lực lượng sản xuất mới trong chặng đường đầu tiên này, đồng
thời chuẩn bị tiền đề và lực lượng cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa trong những năm tiếp sau, mà nội dung chính sẽ là xây dựng cơ cấu công -
nông nghiệp hiện đại, lấy hệ thống công nghiệp nặng tương đối phát triển làm
nòng cốt.
2. Kết hợp đúng đắn xây dựng kinh tế trung ương với phát triển mạnh
kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Để làm tốt
việc này, cần xây dựng sơ đồ tổng thể phát triển và phân bố lực lượng sản xuất.
Vấn đề cần nhấn mạnh hiện nay là phải khắc phục sớm những vướng mắc, xác định cơ cấu hợp lý của kinh tế địa phương,
phối hợp ăn khớp giữa kinh tế trung ương và kinh tế địa phương, thực hiện đúng
đắn nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng
lãnh thổ, phân cấp mạnh mẽ cho địa phương, mở rộng quyền chủ động và nâng cao
trách nhiệm của địa phương trên các mặt kế hoạch, ngân sách, vật tư, lao động,
cán bộ, tổ chức… Quan hệ giữa trung ương và địa phương phải thể hiện đúng đắn
nguyên tắc tập trung dân chủ, trên dưới gắn bó thống nhất với nhau. Khắc phục
bệnh tập trung quan liêu, đồng thời uốn nắn những biểu hiện phân tán, vô tổ chức.
Những việc trên đây đều nhằm tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế địa
phương và không ngừng tăng cường các ngành kinh tế - kỹ thuật.
Cần đẩy mạnh cải tạo và xây dựng Thủ đô Hà Nội, trung tâm chính
trị của cả nước và thành phố Hồ Chí Minh, thành những trung tâm lớn về
kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật và giao dịch quốc tế. Việc xây dựng hai
trung tâm này phải dựa vào sức vươn lên của bản thân hai thành phố, đồng thời
phải được đặt thành một nhiệm vụ quan trọng trong kế hoạch nhà nước, trong chương
trình hoạt động của Hội đồng Bộ trưởng. Đặc biệt việc xây dựng Thủ đô là trách
nhiệm chung của cả nước. Phải động viên tất
cả các ngành, các địa phương, các lực lượng vào việc xây dựng Thủ đô. Phải dựa
vào thế mạnh của hai thành phố về đội ngũ lao động có tay nghề và có văn hoá,
về cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có, về tiềm lực khoa học, kỹ thuật,… mà ra
sức phát triển công nghiệp, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, sản xuất nhiều
hàng tiêu dùng và những mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật tương đối cao, nhằm đáp ứng
nhu cầu của cả nước, và mở rộng xuất khẩu.
Ra sức xây dựng các tỉnh, huyện miền núi phía bắc, Tây Nguyên và
các huyện miền núi của các tỉnh duyên hải miền Trung. Tận dụng lao động tại chỗ
kết hợp với phân bố lao động từ các nơi khác đến để phát huy khả năng của miền
núi, làm cho các tỉnh, huyện miền núi đạt được một bước phát triển đáng kể về
các mặt. Kết hợp phát triển nông nghiệp với phát triển nghề rừng và từng bước
xây dựng công nghiệp, đặc biệt coi trọng mở mang giao thông vận tải, phát triển
giáo dục, y tế, văn hoá nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào
các dân tộc, kết hợp xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng và giữ vững an
ninh. Muốn vậy, phải thực hiện đến nơi đến chốn việc giao rừng và đất rừng cho
huyện quản lý và hợp tác xã kinh doanh theo quy hoạch, kế hoạch và pháp luật
của Nhà nước. Các tỉnh, huyện miền núi phải khai thác tốt những thế mạnh của
mình, từ nông nghiệp, lâm nghiệp mà đi lên, nhất thiết phải sử dụng đất đai
theo hướng nông lâm kết hợp, tổ chức đúng đắn việc sản xuất chuyên môn hoá đi đôi với kinh doanh tổng hợp, phá thế
tự cấp tự túc, mở rộng quan hệ kinh tế giữa miền núi với miền xuôi và đẩy mạnh
xuất - nhập khẩu, qua đó mà giải quyết tốt vấn đề ăn, mặc và các nhu cầu đời
sống của nhân dân địa phương, và góp phần ngày càng tăng cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước. Làm theo phương hướng phát triển trên đây sẽ hạn chế, tiến
tới khắc phục nạn phá rừng và tạo điều kiện để thực hiện thật sự việc định cư,
định canh. Trong chính sách đầu tư, Nhà nước phải chú ý đích đáng đến các tỉnh,
huyện miền núi, đồng thời cần ban hành và thực hiện những chính sách thích hợp
khác để giải quyết những vấn đề riêng đối với miền núi như: bảo vệ môi trường,
sử dụng lao động, khai thác đặc sản, phát triển giao thông, mở mang văn hoá,
đào tạo cán bộ, bố trí và đãi ngộ cán bộ, v.v..
3. Bảo đảm sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
luôn luôn kết hợp chặt chẽ cải tạo quan hệ sản xuất với tổ chức lại và phát
triển sản xuất.
Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác hoá nông nghiệp ở các tỉnh Nam Bộ, từng
bước phát huy tác dụng của hợp tác hoá đối với việc đưa nông nghiệp lên sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa và xây dựng nông thôn mới. Khắc phục xu hướng chần
chừ, do dự, thiếu tích cực trong việc chỉ đạo phong trào hợp tác hoá, đồng thời
tránh nóng vội, giản đơn, làm ồ ạt và nặng về hình thức. Tiếp tục điều chỉnh
ruộng đất để bảo đảm cho mọi người nông dân lao động đều có ruộng cày; ở những
nơi chưa cải tạo, phải thực hiện ngay việc điều chỉnh ruộng đất, tạo tiền đề
cho hợp tác hoá. Cùng với việc phát triển tập đoàn sản xuất và hợp tác xã nông
nghiệp, cần phát triển các hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng.
Trong việc xây dựng, củng cố hợp tác xã và tập đoàn sản xuất, phải tổng
kết và phổ biến kịp thời những kinh nghiệm của các đơn vị tiên tiến về củng cố
chế độ sở hữu, cải tiến chế độ quản lý và chế độ phân phối.
Quản lý tốt ruộng đất, ổn định quy mô hợp tác xã và tập
đoàn sản xuất, tổ chức tốt việc điều chỉnh quy mô trong những trường hợp thật
cần thiết, áp dụng rộng rãi và hoàn thiện hình thức khoán sản phẩm cuối cùng
đến nhóm lao động và người lao động. Củng cố và giúp đỡ các đơn vị trung bình
và yếu, kém, làm cho các đơn vị ấy theo kịp các đơn vị tiên tiến.
Tổ chức lại sản xuất, củng cố hợp tác xã nghề cá ở miền Bắc và xây dựng
các tập đoàn sản xuất và hợp tác xã nghề cá ở miền Nam.
Đối với công nghiệp tư bản tư doanh, phải có chính sách và tổ chức tốt,
vừa sử dụng vừa cải tạo dưới hình thức công tư hợp doanh hoặc các hình thức khác. Triệt để xoá bỏ thành
phần tư bản trong thương nghiệp. Đối với tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp và
các ngành dịch vụ, tuỳ theo đặc điểm của từng ngành, nghề mà tổ chức các hình
thức làm ăn tập thể hay để kinh doanh cá thể. Chuyển dần những người buôn bán
nhỏ không cần thiết trong lưu thông sang sản xuất và các hoạt động dịch vụ
khác. Như vậy, trong một thời gian nhất định, ở miền Bắc có ba thành phần kinh
tế (quốc doanh, tập thể và cá thể), ở miền Nam còn năm thành phần kinh tế (quốc
doanh, tập thể, công tư hợp doanh, cá thể, và tư bản tư nhân).
Nhà nước phải không ngừng củng cố và tăng cường kinh tế quốc doanh, hết
sức nâng đỡ, khuyến khích và tăng cường kinh tế tập thể. Bằng những chính sách
và các hình thức tổ chức sản xuất thích hợp, Nhà nước tăng cường mối liên hệ
chặt chẽ với các tổ chức kinh tế tập thể và cá thể, chú ý liên kết các thành
phần kinh tế dưới sự lãnh đạo của kinh tế quốc doanh, để phục vụ lợi ích của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa theo hướng của
kế hoạch nhà nước.
Trong quá trình cải tạo và xây dựng kinh tế, phải giải
quyết đúng đắn quan hệ giữa quy mô lớn, vừa và nhỏ; giữa kỹ thuật cơ giới, nửa
cơ giới và thủ công, khéo kết hợp cho sát với từng ngành, nghề và từng địa
phương, bảo đảm quy mô hợp lý và kỹ thuật thích hợp cho từng cơ sở; phải coi
trọng hơn nữa quy mô vừa và nhỏ, kỹ thuật nửa cơ giới và thủ công.
4. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế theo
một phương hướng cơ bản, lâu dài, đồng thời có dự kiến trước để kịp điều chỉnh
cho phù hợp khi xảy ra biến động bảo đảm đánh thắng quân thù. Phải lập kế hoạch
động viên nền kinh tế quốc dân sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược.
Công tác quy hoạch phân vùng kinh tế, phân bố lại lao động, phân bố lực
lượng sản xuất, xây dựng các ngành kinh tế - kỹ thuật, phát triển kinh tế địa
phương phải nhằm tạo ra một thế bố trí chiến lược thống nhất để làm chủ cả về
kinh tế và quốc phòng trong cả nước và trong từng địa phương. Kinh tế trung
ương và kinh tế địa phương đều phải chú ý giải quyết tốt hậu cần tại chỗ cho
công cuộc phòng thủ đất nước.
Tăng cường công nghiệp quốc phòng một cách thích hợp; đồng thời khai
thác khả năng của nó góp phần phát triển kinh tế.
Trong khi không ngừng nâng cao sức chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến
đấu, quân đội phải tổ chức cho các đơn vị có điều kiện tiến hành sản xuất để tự
cung ứng một phần nhu cầu, đồng thời huy động năng lực công nghiệp quốc phòng
tham gia những hoạt động kinh tế thích hợp và sử dụng một bộ phận lực lượng đảm
nhận xây dựng một số công trình. Khi tham gia xây dựng kinh tế, quân đội phải
học tập kỹ thuật, học tập quản lý để làm có năng suất, có hiệu quả.
5. Kết hợp phát triển kinh tế trong nước với mở rộng quan hệ kinh tế
với nước ngoài. Do tầm quan trọng đặc biệt của nó, công tác kinh tế đối
ngoại phải được tăng cường. Nắm vững nguyên tắc chiến lược và phương hướng chủ
yếu của công tác kinh tế đối ngoại là: mở rộng và tăng cường hợp tác toàn diện
với Liên Xô và phát triển hợp tác với các nước khác trong Hội đồng tương trợ
kinh tế, theo hướng liên kết kinh tế xã hội chủ nghĩa, tích cực tham gia vào
quá trình phân công lao động quốc tế, chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất trên
những lĩnh vực thích hợp; mở rộng hợp tác toàn diện và giúp đỡ lẫn nhau với Lào
và Campuchia để phát huy tiềm năng kinh tế của mỗi nước; đồng thời mở rộng
thích đáng quan hệ kinh tế với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa. Hết
sức xem trọng hiệu quả kinh tế, sử dụng tốt vốn vay và viện trợ; ra sức phát
huy tác dụng cực kỳ to lớn của sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước anh em khác;
phấn đấu thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, xây dựng sự tín nhiệm quốc tế rộng
rãi; kiên quyết khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại sự viện trợ của bên ngoài.
Trong toàn bộ hoạt động kinh tế, một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược của
toàn Đảng, toàn dân ta là ra sức tăng xuất khẩu để nhập khẩu. Phải qua
xuất để nhập kỹ thuật, thiết bị, máy móc, phụ tùng vật tư nhằm tiến hành cách
mạng khoa học - kỹ thuật, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà.
Xuất khẩu phải góp phần đắc lực tạo ra thế cân đối mới của nền kinh tế, tạo ra
cơ cấu kinh tế mới, trước mắt là từng bước đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và đời sống. Phấn đấu tăng nhanh kim ngạch xuất
khẩu, thu hẹp dần sự chênh lệch giữa xuất và nhập, tiến tới cân bằng
xuất, nhập. Phải tìm mọi cách sử dụng sức lao động dồi dào của ta khai thác mọi
khả năng về đất đai, rừng, biển, ngành, nghề, cơ sở vật chất - kỹ thuật nhằm
tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu. Phải đặc biệt chú ý các mặt hàng nông sản
nhiệt đới, lâm sản, hải sản, sản phẩm chăn nuôi, một số hàng tiêu dùng, một số
sản phẩm công nghiệp nặng và một số khoáng sản. Ngoài ra, cố gắng mở rộng du
lịch và các loại dịch vụ khác để thu ngoại tệ. Phải có chính sách tiết kiệm
tiêu dùng trong nước để tăng xuất những mặt hàng có thể xuất được. Đi đôi với
phát triển toàn diện các mặt hàng xuất khẩu, phải phấn đấu tạo ra các mặt hàng
xuất chủ lực, có giá trị cao, có khối lượng lớn và ổn định, có thị trường vững
chắc.
Chính sách của ta là Nhà nước độc quyền ngoại thương và trung ương
thống nhất quản lý công tác ngoại thương. Phù hợp với nguyên tắc đó, mỗi ngành,
mỗi địa phương, mỗi cơ sở có trách nhiệm và nghĩa vụ xuất khẩu, phấn đấu để tự
cân đối được nhu cầu nhập khẩu của mình và tích cực đóng góp ngoại tệ cho trung
ương. Các ngành, các địa phương, các tổ chức kinh tế lớn (như các công ty và
các liên hiệp xí nghiệp) được quyền giao dịch xuất - nhập khẩu theo đúng các nguyên tắc, chính sách và chế độ thống nhất quản
lý của Nhà nước. Theo tinh thần ấy, Nhà nước cần có những chính sách và quy chế
thích hợp để khuyến khích mở rộng và để quản lý tốt các hoạt động xuất - nhập
khẩu. Một phương hướng quan trọng của Nhà nước ta là tổ chức sự hợp tác có hiệu
quả với nước ngoài để tăng nhanh năng lực xuất khẩu của ta.
6. Mở rộng phân công lao động, phân bố lại và sử dụng tốt lao động
trong cả nước để tăng năng suất lao động. Đây là một yêu cầu đồng thời là
một nội dung chủ yếu của kế hoạch kinh tế, xã hội. Mở rộng phân công lao động
tại chỗ đi đôi với phân bố lại lao động trong phạm vi cả nước, kết hợp lao động
với đất đai, với các nguồn tài nguyên và tư liệu sản xuất khác sẵn có, mở mang
mạnh ngành, nghề, để mọi người lao động đều có việc làm và nhanh chóng tạo ra
một khối lượng sản phẩm lớn hơn. Có biện pháp khuyến khích mỗi người lao động
trong từng cơ sở nêu cao nhiệt tình cách mạng và ý thức làm chủ tập thể, rèn
luyện tay nghề, phát huy sáng kiến, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến kỹ thuật,
phấn đấu làm ra sản phẩm nhiều hơn và tốt hơn, với phương tiện vật chất bằng
hoặc ít hơn trước. Dựa vào sức mạnh của chế độ làm chủ tập thể, vào việc kế
hoạch hoá đúng đắn và tận dụng các chính sách khuyến khích thích đáng, các biện
pháp tổ chức và động viên có hiệu lực, đặc biệt là đẩy mạnh phong trào thi
đua xã hội chủ nghĩa, để tạo cho được một sự chuyển biến mạnh về năng suất
lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội.
Trong những năm 1981 - 1985, phải mở rộng phân công lao động, bố trí,
sử dụng tốt lực lượng lao động tại chỗ trên địa bàn huyện, đồng thời chuyển một
lực lượng lớn lao động của các vùng đông dân, các thành phố, đi đến những huyện
ít dân cùng đồng bào địa phương phát triển sản xuất, đi xây dựng các vùng kinh
tế mới về nông nghiệp và lâm nghiệp, đi xây dựng các công trình thuỷ lợi, giao
thông và công nghiệp quan trọng. Cố gắng đạt được một mức tăng đáng kể về năng
suất lao động trong từng cơ sở kinh tế, nhất là trong công nghiệp và nông
nghiệp. Kiên quyết tinh giản biên chế trong cơ quan nhà nước, đưa một bộ phận
quan trọng cán bộ, nhân viên từ các cấp trên về tăng cường cho cơ sở và chuyển
sang sản xuất.
Lực lượng lao động kỹ thuật hiện có phải được quản lý và sử dụng
tốt hơn, đồng thời tiếp tục làm tốt hơn công tác xây dựng đội ngũ cán bộ và
công nhân kỹ thuật, có chất lượng ngày càng cao, có cơ cấu ngày càng đồng bộ và
hợp lý.
Phải quyết định và thi hành chính sách dân số đúng đắn, trong đó
một công việc cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược về kinh tế và xã hội, mà
tất cả các tổ chức đảng và chính quyền các cấp phải hết sức quan tâm và trực
tiếp chăm lo, là tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch.
Sửa lại một số chính sách, chế độ cụ thể không còn thích hợp, bổ sung và ban
hành những chính sách có liên quan, và có sự chỉ đạo thực hiện chặt chẽ, kiên
quyết, nhằm hạ tỷ lệ phát triển số dân đến mức hợp lý.
7. Đẩy mạnh công tác khoa học, kỹ thuật. Đó là một nội dung rất
quan trọng của cách mạng khoa học - kỹ thuật, cuộc cách mạng giữ vị trí then
chốt trong ba cuộc cách mạng. Ngày nay, trình độ cao về khoa học và kỹ thuật,
đặc biệt là việc ứng dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học, tạo ra những kỹ
thuật cao trong sản xuất là một trong những nhân tố quyết định sức mạnh kinh tế
của một nước. Đối với nước ta, những yêu cầu về năng suất, chất lượng và hiệu
quả trong xây dựng và quản lý kinh tế, những yêu cầu về phát triển chiều sâu,
về tiết kiệm, về chế tạo sản phẩm mới cũng như sản phẩm thay thế, đặc biệt là
trong sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, sản phẩm cơ khí, luyện kim, hoá
chất, vật liệu xây dựng... đang đề ra những đòi hỏi rất lớn ở khoa học (khoa
học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội) và kỹ thuật. Để đáp ứng những
đòi hỏi ấy, phải làm chủ những vấn đề khoa học và kỹ thuật cần thiết đối với
đất nước, với tinh thần: cái gì đất nước cần thì ta phải vươn lên làm chủ cho
kỳ được.
Gắn các hoạt động khoa học, kỹ thuật với sản xuất, đời sống, quốc
phòng. Làm tốt công tác nghiên cứu khoa học. Phát huy đích đáng vai trò của
từng bộ môn khoa học; đồng thời kết hợp chặt chẽ khoa học xã hội, khoa học tự
nhiên và khoa học kỹ thuật; rất coi trọng tổ chức sự cộng tác và phối hợp giữa
các bộ môn khoa học bằng những hình thức hoạt động liên ngành, để cùng nhau nghiên
cứu, giải quyết các vấn đề khoa học, kỹ thuật quan trọng. Đặc biệt phải làm tốt
công tác ứng dụng rộng rãi, nhanh chóng các thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất, vào quản lý, vào các mặt khác của đời sống kinh tế, xã hội.
Kết hợp việc nghiên cứu của các cơ quan khoa học và kỹ thuật với kinh
nghiệm của đông đảo cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ quản lý và những người
lao động hoạt động trên đồng ruộng, trong nhà máy..., nhằm thực hiện những
chương trình đồng bộ theo mục tiêu của Nhà nước, đặc biệt là các chương trình
phục vụ cho nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Tiến bộ khoa học
và kỹ thuật phải trở thành một nội dung chủ yếu của kế hoạch kinh tế - xã hội ở
tất cả các ngành, các cấp. Cơ chế quản lý kinh tế và kế hoạch hoá cần được đổi
mới theo hướng đòi hỏi và khuyến khích áp dụng thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ
thuật. Sắp xếp, chấn chỉnh và kiện toàn các viện nghiên cứu khoa học; nâng cao
hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động khoa học. Sử dụng tốt sự giúp đỡ và hợp
tác về khoa học, kỹ thuật của Liên Xô và các nước anh em khác, đồng thời tranh
thủ đặt quan hệ về khoa học, kỹ thuật với các nước ngoài cộng đồng xã hội chủ
nghĩa.
Phát động cho được phong trào quần chúng sôi nổi tiến quân vào khoa
học, kỹ thuật, áp dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật,
tuân thủ các quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn, định mức, phát huy sáng kiến, cải
tiến kỹ thuật, nâng cao kiến thức và sự thành thạo về nghề nghiệp. Làm tốt công
tác quản lý khoa học và quản lý kỹ thuật; thường xuyên chăm lo sử dụng tốt,
phát huy năng lực và tiếp tục bồi dưỡng về chính trị, tư tưởng và chuyên môn
cho đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và hàng triệu người lao động thạo nghề.
Theo tinh thần trên đây, việc phổ cập giáo dục phổ thông cho toàn dân không chỉ
là vấn đề nâng cao đời sống văn hoá mà còn trở thành yêu cầu ngày càng bức
thiết của bản thân nền kinh tế.
8. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tích luỹ và
tiêu dùng, vừa bảo đảm đời sống và nhu cầu quốc phòng và an ninh hiện nay,
vừa xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội để cải thiện đời
sống, bảo đảm nhu cầu quốc phòng và an ninh ở mức cao hơn trong tương lai. Để
giải quyết thoả đáng cả hai yêu cầu hiện nay đều cấp bách về tiêu dùng và về
tích luỹ, con đường cơ bản là đẩy mạnh sản xuất,
không ngừng tăng năng suất lao động, đồng thời ra sức tiết kiệm.
Tiết kiệm là quốc sách lớn, lâu dài và
phải được quy định thành chính sách, chế độ, chỉ tiêu, biện pháp cụ thể. Tiết
kiệm trên mọi lĩnh vực: xây dựng cơ bản, sản xuất, đời sống, chi tiêu về quốc
phòng, an ninh và chi tiêu hành chính. Tiết kiệm về mọi mặt: tiền vốn, vật tư,
năng lượng, nguyên liệu, thiết bị, máy móc, hàng tiêu dùng, thời gian và lực
lượng lao động. Tiết kiệm trong tiêu dùng của xã hội và tiêu dùng cá nhân,
trong chi phí của Nhà nước, của tập thể và của nhân dân. Tuy hiện nay, mức sống
của nhân dân lao động nước ta còn thấp, song phải thấy rõ rằng chúng ta đang
tiêu dùng quá mức làm ra được. Đó là điều không thể chấp nhận. Chúng ta phải
sống phù hợp với kết quả lao động của mình, không tiêu dùng quá giới hạn mà mức
sản xuất cho phép. Phải bảo đảm nhu cầu đời sống, nhưng phải biết chịu đựng
khó khăn để bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc và dành tỷ lệ tích luỹ thích đáng
để thực hiện tái sản xuất mở rộng, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội.
Mỗi cơ sở, mỗi địa phương, mỗi ngành đều phấn đấu để có tích luỹ. Huy
động và sử dụng tốt mọi nguồn vốn, mọi khả năng tích luỹ của trung ương, địa
phương và cơ sở, của Nhà nước và nhân dân, tập trung vốn cho những ngành, những
địa bàn, những công trình trọng điểm được xác định trong chiến lược kinh tế -
xã hội và kế hoạch nhà nước.
9. Thiết lập trật tự mới, xã hội chủ nghĩa, trên mặt trận phân phối,
lưu thông, để góp phần ổn định đời sống, đẩy mạnh sản xuất, chuyển tốt tình
hình kinh tế và xã hội. Phát huy tác dụng đòn xeo và cầu nối của phân phối, lưu
thông đối với nông nghiệp và công nghiệp, thành thị và nông thôn, quốc doanh và
tập thể, cá thể, trung ương, địa phương và cơ sở. Nêu cao vai trò chủ động của
phân phối, lưu thông thúc đẩy sản xuất và phục vụ tiêu dùng. Phân phối, lưu
thông phải tham gia đắc lực vào cuộc đấu tranh giữa hai con đường, mở rộng trận
địa của chủ nghĩa xã hội, đẩy lùi trận địa tự phát tư bản chủ nghĩa, điều tiết
bằng được thu nhập của các tầng lớp dân cư cho công bằng, hợp lý. Phải kết hợp
chặt chẽ cả ba loại biện pháp: kinh tế, hành chính và giáo dục, trong đó biện
pháp kinh tế là gốc.
Vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là tăng quỹ hàng hoá, tập
trung cho được hàng vào tay Nhà nước, trước hết là các mặt hàng quan trọng.
Để làm việc đó, Nhà nước phải không ngừng tăng cường kinh tế quốc doanh, và các
cơ sở quốc doanh phải phát triển mạnh sản xuất, đồng thời giữ nghiêm kỷ luật
giao nộp sản phẩm cho Nhà nước; Nhà nước phải có chính sách thúc đẩy sản xuất
và nắm nguồn hàng của khu vực kinh tế tập thể và cá thể bằng thu thuế hiện vật,
thu mua theo nghĩa vụ và qua hợp đồng hai chiều; các ngành, các cấp, phải ra
sức đấu tranh chống ăn cắp, lãng phí hàng hoá, vật tư của Nhà nước.
Sớm thực hiện một chính sách tài chính, tiền tệ tích cực phù hợp
với chặng đường hiện nay. Nhà nước phải sử dụng tài chính và tiền tệ như những
công cụ có hiệu lực để cải tạo và phát triển kinh tế, phát huy vai trò của tài
chính và ngân hàng trong việc kiểm tra và giám đốc các hoạt động kinh tế, không
ngừng nâng cao hiệu quả đồng vốn. Nhà nước phải mở rộng và động viên các nguồn
thu, từ kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và các thành phần kinh tế khác,
quản lý nghiêm ngặt thu chi tài chính. Nhà nước phải nắm tiền, làm tốt việc lưu
thông tiền tệ. Cải tiến công tác tín dụng và thanh toán qua ngân hàng, thực
hiện cân đối ngân sách và từng bước thu hẹp, tiến tới chấm dứt bội chi tiền
mặt.
Tiếp tục thực hiện điều chỉnh hệ thống giá một cách kịp thời và
vững chắc nhằm phát huy tác dụng của giá cả đối với việc thúc đẩy sản xuất, sắp
xếp lại kinh tế và ổn định đời sống nhân dân. Thông qua các bước điều chỉnh kế
tiếp nhau một cách hợp lý và theo những phương án được nghiên cứu kỹ lưỡng, và
thực hiện đồng bộ các chính sách, biện pháp liên quan, từng bước tạo ra hệ
thống giá mới, thực hiện cải cách giá, phù hợp với tình hình trong nước và quốc
tế hiện nay và trong thời gian tới. Trong khi cung và cầu còn mất cân đối, phải
áp dụng cơ chế giá ổn định và giá linh hoạt. Tiến hành phân công, phân cấp quản
lý hệ thống giá trong cả nước, hết sức đề cao kỷ luật giá.
Tiếp tục cải tiến tiền lương. Khẩn trương nghiên cứu phương án
và tích cực tạo điều kiện để cải cách chế độ tiền lương, gắn liền một cách đồng
bộ với cải cách giá và cải tiến các khâu khác của mặt trận phân phối lưu thông,
dựa trên cơ sở sản xuất có bước phát triển tốt. Trước mắt, ra sức phấn đấu bảo
đảm tiền lương thực tế, áp dụng nguyên tắc phân phối theo lao động, gắn
chặt tiền lương với năng suất lao động, mở rộng đúng đắn lương khoán, lương sản
phẩm và tiền thưởng, đi đôi với cung ứng theo định lượng những mặt hàng thiết
yếu mà Nhà nước quy định.
Cải tiến mạnh mẽ hệ thống thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã
mua bán, tiến lên làm chủ vững chắc thị trường, nắm đại bộ phận bán buôn, chi
phối bán lẻ, phát triển kinh doanh ăn uống, dịch vụ. Cải tiến cung ứng vật
tư, bảo đảm cung ứng đồng bộ, kịp thời cho sản xuất, ưu tiên cho những
nhiệm vụ quan trọng, và bảo đảm cho vật tư được sử dụng tiết kiệm, với hiệu quả
cao. Tăng cường cải tạo và quản lý thị trường, ngăn chặn và trừng trị các hoạt
động đầu cơ, nâng giá, buôn lậu, trốn thuế và mọi hoạt động gây rối thị trường.
10. Xác lập chế độ quản lý và kế hoạch hoá đúng đắn, đổi mới chế
độ quản lý và kế hoạch hoá hiện hành. Xoá bỏ cơ chế quản lý hành chính quan
liêu, bao cấp, khắc phục bằng được tình trạng trì trệ, bảo thủ, vô trách nhiệm,
vô kỷ luật, phát huy động lực làm chủ tập thể, nâng cao tính năng động sáng
tạo, tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật.
Trong toàn bộ quá trình xây dựng và quản lý kinh tế, mở rộng cơ sở vật
chất - kỹ thuật, phát triển sản xuất, phải luôn luôn chú ý phát triển chiều
sâu, tìm cách khai thác tốt những năng lực sản xuất và cơ sở vật chất hiện
có bằng mọi biện pháp thích hợp: đồng bộ hoá, cải tạo, mở rộng và nâng cao. Mỗi
ngành, mỗi địa phương, mỗi cơ sở và trong mọi trường hợp, trong mọi chủ trương,
kế hoạch, chính sách, biện pháp, đều phải coi trọng năng suất, chất lượng và
hiệu quả.
Từ sản xuất nhỏ tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải bảo đảm cho
các cấp quản lý trung ương, địa phương, cơ sở đều thực sự làm chủ kế hoạch,
nghĩa là thực sự xây dựng, cân đối, bảo vệ và thực hiện kế hoạch của mình, nhất
thiết phải xây dựng kế hoạch từ cơ sở; kế hoạch phải thấu suốt nguyên tắc hạch
toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Làm như thế là phù hợp với chế
độ làm chủ tập thể, thể hiện một nội dung quan trọng của làm chủ tập thể là kết
hợp việc phát huy sức mạnh của cộng đồng làm chủ với việc phát huy sức mạnh của
cá nhân làm chủ trong khuôn khổ và phù hợp với sự làm chủ của cộng đồng, là
thực hiện đúng đắn sự thống nhất giữa ba lợi ích, bảo đảm lợi ích toàn xã hội,
bảo đảm lợi ích của tập thể, chú ý đúng mức đến lợi ích cá nhân người lao động.
Làm như thế là vừa nắm vững giá trị sử dụng, vừa rất coi trọng giá trị và quy
luật giá trị.
ở trung ương, kế hoạch nhà nước phải hướng toàn bộ nền kinh tế quốc dân
phát triển theo đúng đường lối và chiến lược kinh tế - xã hội của Đảng, đồng
thời vạch ra nhiệm vụ phát triển tổng quát của các ngành và các địa phương.
Trên cơ sở tổng hợp nội dung chính của kế hoạch các ngành và kế hoạch các địa
phương, kế hoạch nhà nước phải bảo đảm cho trung ương nắm chắc các lĩnh vực
kinh tế chiến lược, các quan hệ cân đối lớn, các chỉ tiêu chủ yếu, các công
trình và các sản phẩm quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phải xây dựng kế
hoạch ngành. Kế hoạch ngành phải thể hiện chiến lược đúng đắn phát triển
ngành mình trong phạm vi cả nước, phù hợp với chiến lược kinh tế - xã hội
chung, không ngừng nâng cao trình độ khoa học, kỹ thuật của ngành, bằng cách
làm tốt hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa mà thực hiện tái sản
xuất mở rộng, đóng góp vào việc phát triển nền kinh tế quốc dân và bảo đảm các
nhu cầu của toàn xã hội. Căn cứ vào quy hoạch chung của cả nước và phương hướng
nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước, kế hoạch địa phương (gồm kế hoạch tỉnh
và kế hoạch huyện) phải nhằm khai thác khả năng và thế mạnh của địa phương
mình, mở rộng quan hệ trao đổi với các ngành, với các địa phương khác và thông
qua xuất - nhập khẩu để tự cân đối nhu cầu sản xuất và đời sống, đóng góp ngày
càng nhiều cho sự nghiệp cách mạng của cả nước. Kế hoạch cơ sở (trong
công nghiệp có kế hoạch xí nghiệp hoặc xí nghiệp liên hợp, trong nông nghiệp có
kế hoạch của hợp tác xã và kế hoạch của nông trường…) phải thể hiện sự sáng tạo
và tính chủ động trong sản xuất, kinh doanh trên nguyên tắc tự chủ về tài
chính; phải bù đắp được chi phí sản xuất và có lãi để đóng góp ngày càng nhiều
cho cả nước, và để tái sản xuất mở rộng, tăng cường phúc lợi tập thể và khuyến
khích vật chất cho cá nhân người lao động trong đơn vị mình. Mỗi cấp làm kế
hoạch phải phát huy tinh thần chủ động, linh hoạt, nhạy bén, tinh thần biết
buôn bán như Lênin nói; khắc phục tình trạng ỷ lại, trông chờ thụ động; thoát
khỏi cách làm ăn tự cấp tự túc trong phạm vi nhỏ hẹp. Phải mở rộng thị trường
trong nước, mở rộng thị trường với nước ngoài, qua đó mà khai thác khả năng và
phát huy thế mạnh của mỗi cấp, quay vòng nhanh đồng vốn, mở rộng phân công lao
động, chuyên môn hoá và hiệp tác, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Phải làm cho việc vạch kế hoạch ngày càng có căn cứ khoa học.
Coi trọng đầy đủ các công tác điều tra cơ bản, dự đoán kinh tế và xã hội, dự
đoán khoa học - kỹ thuật, lập quy hoạch dài hạn, phân vùng kinh tế, lập sơ đồ
tổng thể phát triển và phân bố lực lượng sản xuất; xây dựng hệ thống định mức
kinh tế - kỹ thuật tiến bộ, lập và lựa chọn các phương án kinh tế - kỹ thuật
tốt, xây dựng các bảng cân đối liên ngành, gắn kế hoạch kinh tế - tài chính với
kế hoạch tiến bộ khoa học - kỹ thuật. Phải trên cơ sở xây dựng kế hoạch có căn
cứ khoa học, cân đối hiện thực, mà tăng cường tính pháp lệnh của kế hoạch.
Nghiên cứu khẩn trương, ban hành kịp thời và thực hiện nghiêm chỉnh các
chính sách đòn bẩy kinh tế nhằm thúc đẩy mạnh và kiểm tra chặt chẽ hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Phải nâng cao vai trò của các hợp đồng kinh tế trong
việc xây dựng và thực hiện kế hoạch, đề cao trách nhiệm hoàn thành các hợp
đồng.
Vận dụng tốt quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan hệ thị trường, trong đó
sử dụng thị trường có tổ chức là chính, đồng thời quản lý thật tốt thị trường
tự do.
Tiếp tục tổ chức lại nền sản xuất xã hội. Xây dựng, củng cố và tăng cường các đơn
vị cơ sở về mọi mặt, đưa việc quản lý sản xuất, kinh doanh đi vào nền nếp.
Phải sớm xác định hình thức tổ chức thích hợp cho từng loại đơn vị cơ sở trong
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, giao thông, thương nghiệp,
vật tư, v.v.. Các cấp trên có trách nhiệm giúp đỡ cho cơ sở và từng cơ sở phải
phấn đấu bảo đảm việc cung ứng vật tư, phụ tùng và phương tiện cần thiết để cho
quá trình sản xuất được ổn định và liên tục. Phải sớm xây dựng những mối liên
hệ kinh tế hợp lý và linh hoạt về cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm cho cơ
sở. Trong từng cơ sở, phải chăm lo bồi dưỡng sức khoẻ, rèn luyện, nâng cao tay
nghề và tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động yên tâm, phấn khởi sản xuất.
Đồng thời với việc củng cố và tăng cường cơ sở, phải tích cực xây dựng các ngành
kinh tế - kỹ thuật. Chuẩn bị chu đáo và tổ chức một cách hợp lý, vững chắc
các công ty và tổng công ty chuyên doanh (cả nước hoặc khu vực) và các hình
thức liên hiệp khác trong các lĩnh vực sản xuất, xây dựng, vận tải, lưu thông.
Xây dựng ngành kinh tế - kỹ thuật phải kết hợp với việc đẩy mạnh phát triển
kinh tế địa phương.
Chấn chỉnh tổ chức bộ máy phù hợp với yêu
cầu của cơ chế quản lý mới, làm cho bộ máy khỏi cồng kềnh, nặng nề, chồng chéo,
khẩn trương giải quyết tốt việc phân cấp giữa trung ương và địa phương. Nêu cao
chức năng của Hội đồng Bộ trưởng quản lý thống nhất nền kinh tế quốc dân, phát
huy vai trò quan trọng của các bộ tổng hợp cũng như các bộ quản lý ngành. Ra
sức kiện toàn cấp huyện, tăng cường đích đáng cấp tỉnh và thành phố, chú ý xác
định rõ vị trí của quận và phường. Coi trọng nâng cao năng lực và hiệu quả công
tác điều hành của các cấp quản lý, bảo đảm phối hợp tốt các lực lượng, tập
trung cho các nhiệm vụ chính, kiểm tra sát sao, thưởng phạt nghiêm minh, kịp
thời tổng kết và phổ biến kinh nghiệm. Điều quyết định thành công của việc đổi
mới chế độ quản lý kinh tế là phải có một chuyển biến thật mạnh về công tác cán
bộ. Đặc biệt phải bố trí đúng cán bộ chủ chốt ở các cơ sở sản xuất, kinh doanh
lớn, ở các địa phương, nhất là những địa phương thuộc địa bàn trọng điểm, ở các
ngành, nhất là các ngành tổng hợp và những ngành kinh tế - kỹ thuật then chốt
hiện đang còn yếu.
Thực hiện đồng bộ các chính sách lớn trên đây là tạo ra sức mạnh
tổng hợp để chuyển biến một bước cơ bản thực trạng của nền kinh tế quốc
dân. Song sức mạnh tổng hợp không chỉ là kết quả của việc thực hiện những chính
sách và biện pháp ấy, mà còn là kết quả của việc thực hiện toàn bộ đường lối
chung và đường lối kinh tế của Đảng. Chế độ làm chủ tập thể, nền văn hoá mới và
con người mới là mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, đồng thời là động lực
mạnh mẽ của công cuộc xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. ý thức và
năng lực làm chủ tập thể, trình độ văn hoá và kiến thức, những tư tưởng và tình
cảm yêu nước, yêu lao động của nhân dân phải trở thành lực lượng vật chất thúc
đẩy sản xuất phát triển. Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước
quản lý phải được thể hiện cụ thể ở tất cả các ngành, các cấp bằng các mối
quan hệ đúng đắn và phương pháp hoạt động thích hợp, nhằm động viên cho được
phong trào cách mạng sôi nổi của đông đảo quần chúng, thực hiện thắng lợi những
mục tiêu kinh tế và xã hội của những năm 80.
Trong 5 năm 1981-1985, chúng ta cần tập
trung lực lượng phấn đấu thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
1- Giải quyết những vấn đề cấp bách nhất để ổn định và cải thiện một
bước đời sống của nhân dân. Bảo đảm lương thực để giải quyết vấn đề ăn cho
xã hội. Cung ứng cho công nhân, viên chức, bộ đội đủ lương thực, thực phẩm theo
định lượng. Giải quyết vải mặc cho toàn dân ở mức cần thiết tối thiểu. Bảo đảm
giấy viết, giấy in sách giáo khoa, giấy in báo. Bảo đảm những loại thuốc chữa
bệnh thiết yếu. Cung ứng khá hơn các đồ dùng gia đình và đồ dùng cá nhân thông
thường. Tăng thêm phương tiện đi lại. Giải quyết một bước khó khăn về thiếu nhà
ở và cải thiện một bước điều kiện ở của cư dân thành phố, nhất là tăng thêm
nước sinh hoạt, cung ứng điện hợp lý và bảo đảm vệ sinh. Tổ chức tốt hơn đời
sống văn hoá và tinh thần của nhân dân.
2- Phát triển và sắp xếp lại sản xuất. Ra sức khai thác mọi khả
năng sẵn có và tiềm tàng, nhằm tạo ra thế cân đối mới cho nền kinh tế. Tập
trung sức cao độ cho mặt trận nông nghiệp; đẩy mạnh phát triển lâm nghiệp và
ngư nghiệp; ra sức phát triển sản xuất hàng tiêu dùng, đưa công nghiệp thực
phẩm và công nghiệp nhẹ tiến lên một bước. Cung ứng khá hơn điện, than, sản
phẩm cơ khí, kim loại, hoá chất, nguyên liệu cho các cơ sở kinh tế; phân phối
một cách tập trung, đồng bộ và theo thứ tự ưu tiên hợp lý trên cơ sở tính toán
kỹ hiệu quả kinh tế chung. Đẩy mạnh thăm dò và khai thác dầu khí. Phát triển
kinh tế địa phương, tích cực xây dựng huyện. Sắp xếp lại lực lượng lao động phù
hợp với sắp xếp lại sản xuất và xây dựng cơ bản. Củng cố, sớm phát huy hiệu quả
các vùng kinh tế mới đã xây dựng. Tiếp tục thực hiện việc phân công và phân bố
lại lao động xã hội.
Cải tiến quản lý và tăng cường cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật và
phương tiện để nâng cao năng lực giao thông vận tải. Bảo đảm tiếp nhận hàng
nhập khẩu, vận chuyển hàng xuất, vận chuyển Bắc - Nam, vận chuyển cho các vùng
trọng yếu về kinh tế và quốc phòng, cho các công trình xây dựng trọng điểm, cho
hai nước Lào và Campuchia anh em.
3- Bố trí lại xây dựng cơ bản cho phù hợp với khả
năng và theo hướng tạo thêm điều kiện để phát huy các cơ sở vật chất - kỹ thuật
hiện có, nhằm vào các mục tiêu cấp bách nhất về kinh tế và xã hội. Đồng bộ hoá,
cải tạo, mở rộng và nâng cao các cơ sở sẵn có; kiên quyết đình, hoãn những công
trình chưa có điều kiện xây dựng hoặc chưa thật cấp
bách; tiếp tục xây dựng những công trình dở dang có điều kiện và có nhu cầu cấp
bách; xây dựng mới có trọng điểm và theo khả năng một số công trình bức thiết
nhằm đáp ứng nhu cầu của kế hoạch 5 năm 1981-1985 và những năm sau. Nâng cao
hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
4- Cải tiến công tác phân phối, lưu thông, thiết lập một bước
trật tự mới trên mặt trận này. Điều chỉnh từng bước vững chắc hệ thống giá,
kiên quyết phấn đấu kiểm soát cho được tiến tới ổn định giá cả. Bảo đảm tiền
lương thực tế của công nhân, cán bộ, viên chức, tiếp tục cải tiến tiền lương,
tạo điều kiện để cải cách chế độ tiền lương; chăm lo phúc lợi tập thể. Bảo đảm
thu nhập thoả đáng để khuyến khích nông dân hăng hái sản xuất. Cải tiến và tăng
cường thương nghiệp quốc doanh và tập thể, quản lý chặt chẽ thị trường trong cả
nước, kiên quyết loại trừ đầu cơ, buôn lậu. Bảo đảm cho Nhà nước nắm tuyệt đại
bộ phận lương thực hàng hoá, toàn bộ sản phẩm của kinh tế quốc doanh và phần
lớn hàng hoá khác trong xã hội, để phân phối theo kế hoạch là chính. Phấn đấu
thăng bằng ngân sách, cải thiện một bước quan trọng tình hình lưu thông tiền
tệ.
5- Quyết tâm đẩy
mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, hoàn thành về cơ bản việc hợp tác hoá nông
nghiệp ở các tỉnh Nam Bộ với hình thức phổ biến là tập đoàn sản xuất, phấn đấu
hoàn thành về cơ bản cải tạo thương nghiệp, vận tải, công nghiệp, tiểu công
nghiệp và thủ công nghiệp ở miền Nam bằng cách làm và hình thức thích hợp. Củng
cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước về các mặt chế độ sở hữu,
chế độ quản lý, chế độ phân phối.
6- Làm tốt hợp tác kinh tế với Liên Xô, với Lào
và Campuchia, với các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế. Ra sức phấn đấu
tạo cho được một chuyển biến lớn về xuất khẩu, giảm một bước quan trọng chênh
lệch giữa xuất và nhập.
7- Thực hành tiết kiệm nghiêm ngặt, đặc biệt coi trọng tiết kiệm
trong xây dựng cơ bản và sản xuất. Phải tiết kiệm từng giờ lao động, từng gam
nguyên liệu, nhiên liệu, sử dụng hợp lý thiết bị, máy móc, trên cơ sở định mức
kinh tế - kỹ thuật tiến bộ. Sử dụng hợp lý và hết sức tiết kiệm đất đai. Phấn
đấu tiết kiệm hằng năm từ 5 đến 10% năng lượng, vật tư, lương thực. Tận dụng
phế liệu, phế phẩm và phát động rộng rãi phong trào thu nhặt để sử dụng lại các
đồ phế thải. Nâng cao trách nhiệm giữ gìn hàng hoá, tránh rơi vãi, hao hụt,
tránh giảm phẩm chất. Nghiêm cấm các cơ quan, đơn vị chi tiêu ngoài chế độ.
Tích cực vận động tiêu dùng tiết kiệm trong nhân dân. Kiên quyết đấu tranh
chống lãng phí, mất mát; nghiêm khắc trừng trị các hành động ăn cắp hàng hoá,
vật tư nhà nước.
8- Làm tốt việc ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi
thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống. Triển khai
có hiệu quả các chương trình khoa học và kỹ thuật trọng điểm, tích cực hoàn
chỉnh các phương án kinh tế - kỹ thuật chủ yếu, góp phần xây dựng kế hoạch 5
năm 1981-1985. Tăng cường quản lý kỹ thuật trong sản
xuất, kinh doanh, đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật,
hợp lý hoá sản xuất của nhân dân lao động. Phối hợp hoạt động của các ngành
khoa học xã hội và các ngành khoa học kỹ thuật nhằm góp phần có hiệu quả vào
việc đổi mới hệ thống quản lý và kế hoạch hoá.
9- Đổi mới một bước hệ thống quản lý kinh tế. Tạo cho được một
sự chuyển biến về kế hoạch hoá, theo hướng các cấp quản lý: trung ương, địa
phương và cơ sở đều làm kế hoạch, xây dựng kế hoạch từ cơ sở, gắn kế hoạch với
hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Rất coi trọng cải tiến và
tăng cường việc điều hành thực hiện kế hoạch, kiên quyết tập trung lực lượng và
phương tiện một cách đồng bộ cho những nhiệm vụ và những khâu then chốt. Kết
hợp chặt chẽ ba loại biện pháp: kinh tế, hành chính và giáo dục, coi trọng biện
pháp kinh tế. Tiếp tục ban hành kịp thời một số chính sách đòn bẩy cấp bách
nhằm khuyến khích sản xuất, tăng năng suất bảo đảm thống nhất ba lợi ích. Chấn
chỉnh bộ máy tổ chức quản lý, cải tiến chế độ làm việc, tăng cường công tác
thông tin kinh tế. Đẩy mạnh phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa sôi nổi và bền
bỉ.
10- Đẩy mạnh các hoạt động văn hoá, y tế phù hợp với yêu cầu và
khả năng kinh tế. Thực hiện cải cách giáo dục một cách tích cực và vững chắc;
hết sức coi trọng nâng cao chất lượng giáo dục. Xác định quy mô hợp lý và tiếp
tục đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề. Ra
sức phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, thông tin, thể
dục, thể thao. Tăng cường bảo vệ sức khoẻ nhân dân, làm tốt công tác vệ sinh,
phòng bệnh, chữa bệnh và vệ sinh môi trường. Đấu tranh kiên quyết để loại trừ
mọi ảnh hưởng văn hoá phản động, lạc hậu, đồi truỵ. Bài trừ hủ tục, mê tín dị
đoan.
11- Tăng cường quản lý xã hội, kiên quyết đấu tranh chống các
hành vi phạm pháp, tệ nạn xã hội và các biểu hiện tiêu cực khác, đề cao kỷ
cương trong quản lý nhà nước, quản lý kinh tế; giữ vững trật tự và an toàn xã
hội. Kiên quyết ngăn chặn và trừng trị những hoạt động phá hoại kinh tế, đấu
tranh có hiệu quả chống chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp của địch. Xây
dựng nếp sống văn hoá xã hội chủ nghĩa, lành mạnh, tươi vui.
12- Bảo đảm các nhu cầu về kinh tế của công cuộc củng cố
quốc phòng và an ninh, bảo vệ đất nước, đồng thời huy động năng lực công nghiệp
quốc phòng và sử dụng hợp lý lực lượng quân đội vào những hoạt động kinh tế
thích hợp.
Như vậy, thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội của chặng đường trước
mắt, những năm 1981 - 1985 là những năm phát triển thêm một bước, sắp xếp lại
cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân. Ba mặt đó kết
hợp chặt chẽ với nhau, nhằm cơ bản ổn định được tình hình kinh tế và xã hội,
đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất của đời sống nhân dân, giảm
nhẹ những chỗ mất cân đối nghiêm trọng nhất của nền kinh tế, khắc phục một bước
quan trọng tình trạng không bình thường về phân phối, lưu thông, tăng thêm tiền
đề và điều kiện để tiến lên mạnh mẽ và vững chắc hơn trong những năm sau.
Phần III
Những nhiệm vụ văn hoá, xã hội
Thưa các đồng chí,
Những năm qua, cùng với sự hình thành dần dần chế độ mới
và nền kinh tế mới, việc xây dựng nền văn hoá mới và con người mới đã thu được
những thành tích nhất định. Với chế độ mới, nhân dân ta đã vứt bỏ được những
xiềng xích nghìn năm trói buộc con người; người lao động từ địa vị làm thuê đã
bước lên vị trí người chủ chân chính của đất nước và xã hội, giành lại những
phẩm giá dân tộc và phẩm giá làm người.
Đó là thành quả cách mạng vĩ đại nhất. Nhưng vì xã hội ta mới bước vào
thời kỳ quá độ, cho nên bên cạnh những con người mới xã hội chủ nghĩa đang hình
thành, những nét mới, tiến bộ trong con người đang nảy nở, còn không ít những
biểu hiện tiêu cực, không lành mạnh. Cuộc đấu tranh giữa hai con đường: giữa
cái mới với cái cũ, tiên tiến với lạc hậu, tiến bộ với phản động trên lĩnh vực
văn hoá, tư tưởng, lối sống, đang diễn ra hằng ngày, rất phức tạp, mà chúng ta
không thể nào xem nhẹ.
Trước mắt, chúng ta phải đấu tranh kiên quyết và có hiệu quả chống các
hiện tượng tiêu cực trong đời sống văn hoá và xã hội. Phải có những biện pháp
đồng bộ, về nhiều mặt: kinh tế, hành chính, tổ chức, tư tưởng, văn hoá. Đồng
thời phải thấy rằng cuộc đấu tranh nhằm xây dựng con người mới và nền văn hoá
mới là một cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp và đầy khó khăn. Nó không thể tách
rời cuộc đấu tranh kiên quyết, liên tục và
sâu sắc nhằm quét sạch những tàn dư tư tưởng và văn hoá lạc hậu, phản động, sản
phẩm của xã hội cũ - xã hội phong kiến đã từng tồn tại hàng nghìn năm, đặc biệt
là chế độ thực dân cũ và mới ở miền Nam mấy chục năm gần đây; không thể tách
rời cuộc đấu tranh mạnh mẽ, bền bỉ và triệt để chống chiến tranh tâm lý, tẩy
trừ và thường xuyên ngăn ngừa mọi ảnh hưởng của các loại văn hoá phản động, đồi
truỵ do bọn đế quốc... và bè lũ tay sai lén lút đưa từ ngoài vào. Mấy năm qua,
chúng ta nhận thức chưa đầy đủ và có phần buông lỏng các mặt đấu tranh đó.
Trách nhiệm nặng nề của cách mạng tư tưởng và văn hoá là tiếp tục cải tạo và
xây dựng con người, đề cao người tốt, việc tốt, phê phán cái xấu và không lành
mạnh, tạo điều kiện thúc đẩy toàn bộ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta nhận thức rằng chế độ mới và nền kinh tế mới có
ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành nền văn hoá mới, con người mới. Ngược
lại, những thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới, con người mới là
một động lực to lớn thúc đẩy tiến trình xây dựng chế độ mới và nền kinh tế mới.
Xây dựng nền văn hoá mới và con người mới là điều cần và có thể thực
hiện từng bước, từng phần ngay từ hôm nay. Trong chặng đường trước mắt này, có
những điều kiện khách quan và chủ quan cho phép chúng ta bước đầu tạo ra một xã
hội đẹp về lối sống, về quan hệ giữa người và người, một xã hội trong đó
nhân dân lao động cảm thấy sống hạnh phúc, tuy mức sống vật chất còn chưa cao.
Bởi vì, như Đại hội lần thứ IV của Đảng đã chỉ ra rất đúng, không phải trình độ
văn hoá của xã hội phụ thuộc máy móc vào trình độ phát triển kinh tế.
Làm chủ tập thể là hạnh phúc lớn nhất, đồng thời là cái đẹp cao nhất
của con người. Hạnh phúc là từng bước thực hiện làm chủ xã hội, làm chủ thiên
nhiên, làm chủ bản thân, mọi người cùng nhau lao động và chiến đấu cho sự phát
triển của cộng đồng xã hội để có đủ cơm no, áo ấm, đồng thời có cuộc sống vui
tươi, lành mạnh, bình đẳng và hoà hợp, trong lao động tự do, tình thương và lẽ
phải; mỗi người được phát triển đầy đủ nhân cách, tài năng và năng khiếu của
mình, trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân, gia đình và xã hội, thực hiện đạo
lý cao cả "mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người".
Đại hội lần thứ IV của Đảng đã chỉ rõ nền văn hoá mới là nền văn hoá có
nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân
sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Nền văn hoá
mới vừa kết tinh và nâng lên một tầm cao mới những gì đẹp nhất trong truyền thống bốn nghìn năm của tâm hồn
Việt Nam, của văn hoá Việt Nam, vừa hấp thụ có chọn lọc những thành quả
của văn minh loài người, những thành tựu văn hoá, khoa học hiện đại. Nền văn
hoá mới kết hợp hài hoà những tinh hoa văn hoá có phong cách riêng của các dân
tộc anh em trong gia đình dân tộc Việt Nam.
Người Việt Nam vốn có lòng yêu nước thiết tha, có tinh thần dân chủ,
bình đẳng trong quan hệ giữa người với người. "Thương nước - thương nhà,
thương người - thương mình" là truyền thống đậm đà của nhân dân ta. Nhờ có
tinh thần yêu nước và dân chủ ấy mà trong suốt quá trình lịch sử bốn nghìn năm,
dân tộc ta đã làm nên những chiến công oanh liệt. Từ ngày có Đảng, dưới ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, truyền thống yêu nước và dân chủ của nhân
dân ta được nâng lên một trình độ mới và phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Hiện
nay, nước ta xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao
động, đó vừa là thực hiện tính quy luật của thời đại, vừa là kế thừa và nâng
cao truyền thống văn hoá yêu nước và dân chủ hàng nghìn năm của dân tộc Việt
Nam.
Xây dựng nền văn hoá mới, con người mới là sự nghiệp
mang nội dung toàn diện. Trong đó, hệ thống giáo dục bao gồm giáo dục
mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, giáo
dục đại học và trên đại học có tầm quan trọng hàng đầu.
Trong những năm qua, với sự cố gắng to lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân, của các cô giáo, thầy giáo, công
tác giáo dục tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Sự nghiệp giáo dục đang bắt đầu
chuyển biến theo phương hướng cải cách giáo dục do Đại hội lần thứ IV của Đảng
đề ra. Các ngành học đều nỗ lực khắc phục nhiều khó khăn về cơ sở vật chất,
vượt qua những trở ngại do đời sống kinh tế còn thiếu thốn gây ra, cố gắng duy
trì đều đặn việc dạy và học. Ngày nay, số trẻ em được gửi ở nhà trẻ và đến lớp
mẫu giáo lên tới 2,7 triệu, số học sinh phổ thông lên tới 12,5 triệu, số học
sinh đại học 150 nghìn. ở miền Nam, đã nhanh chóng cải tạo nền giáo dục Mỹ -
nguỵ, xoá bỏ trường tư, xoá bỏ đặc quyền của các giai cấp bóc lột trong trường
học. Đã xây dựng cơ sở của nền giáo dục cách mạng, thống nhất chương trình
giảng dạy, mở rộng trường cho con em nhân dân lao động và các dân tộc, phát
triển giáo dục mầm non, phổ thông và đại học, đẩy mạnh bổ túc văn hoá.
Những thành tựu về giáo dục vẫn là một niềm tự hào của chế độ ta. Tuy
nhiên, công tác giáo dục chưa đáp ứng những yêu cầu của cách mạng hiện nay. Nói
chung, toàn bộ hệ thống giáo dục chưa chuẩn bị tốt về phẩm chất và năng lực cho
thế hệ trẻ đi vào lao động sản xuất, đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội, và làm
nghĩa vụ bảo vệ đất nước với tư cách người làm chủ, có kỹ năng thực hành và
trình độ nghề nghiệp cần thiết, phục vụ sự nghiệp phát triển và cải tạo kinh
tế, văn hoá, củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội. Quy hoạch và kế hoạch phát triển giáo dục, nhất là của ngành đại học,
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, thiếu cân đối và ăn khớp với kế hoạch phát
triển kinh tế quốc dân. Việc phân phối và sử dụng học sinh ra trường làm chưa
tốt.
Vấn đề lớn nhất hiện nay là chất lượng giáo dục giảm sút nghiêm
trọng. Không những chúng ta để giảm sút chất lượng văn hoá, khoa học - kỹ
thuật, mà còn buông lỏng việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng và đạo đức xã hội
chủ nghĩa cho thế hệ trẻ. Việc tổ chức và chỉ đạo quá trình đào tạo thiếu chặt chẽ
và nghiêm túc. Trường sở và những dụng cụ, thiết bị phục vụ dạy và học quá
thiếu thốn, lại không được sử dụng, bảo quản tốt.
Toàn bộ cố gắng của sự nghiệp giáo dục phải thấu suốt mục tiêu đào tạo
nên những con người mới, những người lao động làm chủ tập thể, thiết tha yêu
nước và có tinh thần quốc tế vô sản trong sáng. Phải bảo đảm cho thế hệ trẻ dần
dần làm chủ được kho tàng văn hoá, kiến thức của loài người, biến được kiến
thức thành niềm tin, thành thế giới quan và phương pháp tư duy khoa học, từ đó trang
bị cho con người khả năng suy nghĩ sáng tạo và hành động đúng đắn phù hợp với
lý tưởng cao cả của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, và luôn luôn đứng vững
trên lập trường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ trong những năm tới là triển khai cải cách giáo dục và phát
triển sự nghiệp giáo dục một cách tích cực và vững chắc theo bước đi phù hợp
với yêu cầu và khả năng của nền kinh tế quốc dân và phải ra sức phấn đấu nâng
cao chất lượng giáo dục, coi trọng giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ
thông. ở miền Nam và miền núi, đi đôi với mặt chất lượng phải rất chú trọng
phát triển về số lượng trường lớp, nhất là ở bậc phổ thông, đồng thời không xem
nhẹ công tác bổ túc văn hoá và xoá nạn mù chữ.
Củng cố và phát triển giáo dục mầm non; hoàn thành cơ bản phổ cập cấp
I, phát triển tích cực, vững chắc và từng bước tiến tới phổ cập cấp II phổ
thông cơ sở. Mở rộng loại trường phổ thông trung học vừa học vừa làm. Chấn
chỉnh mạng lưới các trường dạy nghề, mở rộng nhiều hình thức đào tạo và bồi
dưỡng đội ngũ công nhân và lao động kỹ thuật cho các ngành công nghiệp cũng như
cho các ngành nông nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp. Sắp xếp hợp lý
mạng lưới các trường trung học chuyên nghiệp; các trường đại học, đặc biệt quan
tâm củng cố và nâng cao chất lượng các trường sư phạm. Có quy hoạch, kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng tốt đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ
quản lý kinh tế (kể cả số có trình độ trên đại học) cân đối và đồng bộ, phù hợp
với yêu cầu phát triển kinh tế trong cả nước và ở từng vùng. Tăng cường giáo
dục chính trị, tư tưởng, đạo đức trong nhà trường. Nâng cao vị trí, chất lượng
và hiệu quả bộ môn giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin trong các trường đại học. Mỗi
trường phải là một trận địa vững chắc của chủ nghĩa xã hội.
Việc thực hiện mục tiêu giáo dục đòi hỏi cố gắng và công sức của toàn
xã hội. Dưới sự lãnh đạo của toàn Đảng, tổ chức tốt sự phối hợp giữa các ngành
của chính quyền và các đoàn thể, đặc biệt là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, kết hợp chặt chẽ giữa Nhà nước với nhân dân, giữa nhà trường, gia đình và
xã hội, đó là điều kiện cơ bản để thực hiện thắng lợi sự nghiệp giáo dục.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đánh giá cao vai trò của thầy giáo trong
việc đào tạo các thế hệ tương lai. Mỗi cô giáo, thầy giáo, mỗi cán bộ quản lý
giáo dục cần nhận rõ nhiệm vụ vẻ vang của mình, càng yêu người thì càng yêu
nghề, nắm vững mục tiêu giáo dục, thật sự nêu gương về đạo đức, phẩm chất, ra
sức cải tiến và nâng cao chất lượng mọi mặt công tác, hết lòng cống hiến những
hiểu biết, lòng tin và tâm trí, năng lực sư phạm của mình vào sự nghiệp đào tạo
những con người có ích nhất cho đất nước. Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải
thường xuyên quan tâm xây dựng đội ngũ thầy giáo, có biện pháp từng bước nâng
cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học và nghiệp vụ, cố gắng cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của thầy giáo.
Trong công cuộc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, vai trò cực kỳ
quan trọng thuộc về lĩnh vực hoạt động văn hoá nghệ thuật: văn học, sân
khấu, điện ảnh, nhiếp ảnh, âm nhạc, mỹ thuật, kiến trúc, bảo tồn bảo tàng,
v.v..
Việc thực hiện những nghị quyết của Đại hội lần thứ IV
của Đảng về mặt này thu được một số kết quả khá tốt. "Văn hoá" thực
dân mới ở miền Nam bị xoá bỏ về cơ bản, văn hoá cách mạng trong kháng chiến
càng phát triển mạnh mẽ sau ngày giải phóng. Phong trào văn hoá, văn nghệ quần
chúng, những hoạt động triển lãm, thư viện, câu lạc bộ, nhà văn hoá, v.v. tiếp
tục được mở rộng. Một nét mới ở nông thôn là sự hình thành từng bước mạng lưới
văn hoá ở một số huyện song song với việc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất - kỹ
thuật của văn hoá. Trong sáng tác văn hoá, nghệ thuật mấy năm qua, đã xuất hiện
một số tác phẩm có giá trị, phát huy tác dụng rõ rệt về mặt xây dựng tư tưởng,
tình cảm mới. Một số tác phẩm và nghệ sĩ giành được giải thưởng cao trong các
cuộc thi quốc tế. Rõ ràng, sự nghiệp xây dựng và cải tạo nền văn hoá theo
phương hướng xã hội chủ nghĩa đã tiến một bước.
Nhưng xã hội đang có những nhu cầu to lớn và ngày càng tăng về
văn hoá. Công tác văn hoá, văn nghệ chưa vươn tới đáp ứng được những nhu cầu
mới của xã hội. Những chỉ tiêu về xem chiếu bóng và thưởng thức nghệ thuật tính
theo đầu người tăng lên, song, do khó khăn về kinh tế, những chỉ tiêu về sách,
báo và văn hoá phẩm lại giảm. Bên cạnh những sản phẩm văn hoá tốt, nói chung
chất lượng của nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ chưa cao, nội dung xã hội chủ
nghĩa chưa sâu sắc, chưa có sức hấp dẫn mạnh, chưa gây được những ấn tượng sâu
sắc, hướng con người vào những suy nghĩ và hành động đúng đắn. Trong hoạt động
văn hoá, văn nghệ, bên cạnh những cố gắng tìm tòi và sáng tạo cái mới, cái tiến
bộ cần được hết sức trân trọng và khuyến khích, đáng tiếc có những hiện tượng
lệch lạc, những khuynh hướng không lành mạnh nảy sinh. Trong khi đó, cuộc đấu
tranh trên mặt trận văn hoá có nơi bị buông lỏng, khiến cho những tàn dư văn
hoá thực dân mới, những hủ tục, mê tín dị đoan có chiều hướng trỗi dậy ở nhiều
nơi và ảnh hưởng cả đến một số không ít thanh niên nam, nữ. Các cấp uỷ đảng và
chính quyền, các cơ quan làm công tác tư tưởng và văn hoá phải thấy hết trách
nhiệm của mình và tăng cường quản lý đời sống văn hoá.
Ra sức phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, văn
nghệ thích hợp cho mọi người và những hoạt động phù hợp với từng lứa tuổi, từng
địa phương, từng dân tộc, nhằm thoả mãn nhu cầu văn hoá to lớn và ngày càng
tăng của nhân dân. Mở rộng hơn nữa phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng,
thật sự gắn với phong trào sản xuất và chiến đấu, tạo ra cơ sở và nguồn nuôi
dưỡng không bao giờ cạn cho nền văn hoá mới của chúng ta. Thắt chặt quan hệ
giữa văn hoá, văn nghệ quần chúng với các hoạt động văn hoá, văn nghệ chuyên
nghiệp, nâng cao không ngừng trình độ sáng tạo và thưởng thức của quần chúng.
Kiên trì xây dựng nếp sống mới lành mạnh, khoa học, tiết kiệm và giản dị; bảo
vệ và phát triển các giá trị tinh thần. Kiên quyết bài trừ hủ tục, mê tín dị
đoan; tiếp tục đấu tranh quét sạch văn hoá thực dân mới và ảnh hưởng của loại
văn hoá phản động, đồi truỵ khác. Tất cả những việc đó nhằm làm cho tư tưởng,
tình cảm, lối sống mới thật sự chiếm ưu thế trong đời sống nhân dân, nhằm làm
cho cả nước có chung một ý chí: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hoá là đưa văn hoá
thâm nhập vào cuộc sống hằng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, bảo đảm mỗi nhà
máy, công trường, nông trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công
an nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã,
phường ấp, đều có đời sống văn hoá. Tổ chức tốt hơn nữa đời sống văn hoá ở
thành phố, thị xã, làm cho thành thị xứng đáng giữ vai trò tiêu biểu cho nền
văn hoá mới. Hết sức chăm lo xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn, chú ý đến
vùng căn cứ cũ, vùng có đồng bào các dân tộc. Xây dựng một số công trình như
nhà văn hoá, rạp chiếu bóng, thư viện, sân vận động, v.v. ở huyện lỵ và các xã
trong huyện, tạo thành một mạng lưới có chức năng xây dựng, phát triển và
truyền bá nền văn hoá mới ở nông thôn. Để xây dựng những công trình kể trên và
để phát triển đời sống văn hoá, phải thực hiện chủ trương Nhà nước và nhân dân
cùng làm.
Văn nghệ là một lĩnh vực rất quan trọng và rất phức tạp của văn hoá và
của đời sống xã hội. Đảng phải tăng cường sự lãnh đạo đối với lĩnh vực này,
đồng thời cải tiến sự lãnh đạo cho phù hợp với tính đặc thù của nó. Đảng tin
tưởng và đánh giá cao sự cống hiến của anh chị em văn nghệ sĩ, luôn luôn mong
mỏi trên đất nước ta xuất hiện nhiều tài năng sáng tạo, nhiều sản phẩm văn nghệ
có giá trị cao về tính tư tưởng và trình độ nghệ thuật, xứng đáng với đất nước
nghìn năm văn hiến và dân tộc anh hùng. Đảng khuyến khích mọi tìm tòi, sáng
tạo, khuyến khích sự phát triển của phong cách và tài năng nghệ thuật. Đồng
thời Đảng yêu cầu văn nghệ sĩ nắm vững phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa,
nêu cao tính đảng và trách nhiệm của người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, tư
tưởng trong giai đoạn mới của cách mạng, phục vụ đắc lực hơn nữa lợi ích của
nhân dân, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc.
Báo chí, xuất bản, phát thanh, thông tin, cổ động, vô tuyến truyền
hình, v.v., tóm lại, toàn bộ lĩnh vực thông tin đại chúng, là những bộ
phận rất quan trọng của mặt trận văn hoá, tư tưởng. Mấy năm qua, các ngành này
có những cố gắng lớn trong việc phổ biến những quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng, những tư tưởng tiến bộ, những kiến thức khoa học và kỹ thuật, những
thành tựu văn hoá và nghệ thuật của dân tộc và của loài người. Song, quần chúng
và sự nghiệp cách mạng đang đòi hỏi toàn bộ lĩnh vực thông tin đại chúng phải
nâng cao hơn nữa về tính tư tưởng, về chất lượng và hiệu quả. Hiện nay, báo chí
còn nghèo nàn về nội dung, lượng thông tin ít, hình thức kém hấp dẫn, sức
thuyết phục và tác dụng giáo dục chưa cao. Các buổi phát thanh không phải bao
giờ cũng có sức lôi cuốn người nghe. Vô tuyến truyền hình còn phải phấn đấu
nhiều để nâng cao chất lượng và làm phong phú nội dung chương trình. Các sách,
báo chính trị, lý luận xuất bản được còn quá ít. Quần chúng đang đòi hỏi những
công trình nghiên cứu có chất lượng khoa học, các loại sách trình bày những
kiến thức chính trị và lý luận Mác - Lênin một cách phong phú, sinh động, hấp
dẫn và phù hợp với mỗi loại đối tượng: công nhân, nông dân, trí thức, thanh
niên, v.v.. Toàn bộ các hoạt động tuyên truyền đại chúng phải được nâng cao về
tính thực tiễn, tính chân thực, tính chiến đấu, trình độ kỹ thuật và nghệ thuật
biểu hiện, diễn đạt. Trên mặt trận thông tin, tuyên truyền, ta phải luôn luôn
làm chủ tình hình ở mọi nơi, mọi lúc, kiên quyết tiến công địch, giành thắng
lợi từng ngày, từng giờ, kịp thời đập tan những luận điệu và thủ đoạn chiến
tranh tâm lý của địch. Hiện nay, ở nhiều vùng nông thôn, ở các vùng núi, nhất là
ở các vùng cao, vùng biên giới, rất thiếu báo, thiếu máy thu thanh, thiếu những
phương tiện thông tin, tuyên truyền rất cần thiết; tình trạng đó cần phải được
các ngành có liên quan tìm cách giải quyết với sự cố gắng cao nhất.
Thể dục thể thao là một bộ phận quan
trọng, không thể thiếu được trong công cuộc xây dựng nền văn hoá mới, con người
mới. Đảng và Nhà nước phải chăm lo hơn nữa phát triển thể dục thể thao nhằm góp
phần tăng cường sức khoẻ của nhân dân, xây dựng những phẩm chất tốt đẹp của con
người mới xã hội chủ nghĩa như lòng dũng cảm, nghị lực, sự khéo léo, trí thông
minh và óc thẩm mỹ, tinh thần tập thể và lòng trung thực, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong những năm qua, phong trào thể dục thể thao quần chúng ở cơ sở đã
có những tiến bộ đáng kể và bắt đầu mở rộng thêm trên địa bàn một số huyện, một
số ngành. Đội ngũ vận động viên các môn thể thao được phát triển một bước. Tuy
nhiên, phong trào phát triển chưa rộng và thiếu thường xuyên; thành tích và kỷ
lục các môn thể thao còn thấp.
Để bảo đảm cho sự nghiệp thể dục thể thao của nước ta phát triển vững
chắc, đem lại những hiệu quả thiết thực, từng bước xây dựng nền thể dục thể
thao xã hội chủ nghĩa phát triển cân đối, có tính chất dân tộc, khoa học và
nhân dân, trong những năm tới cần mở rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động
thể dục, thể thao quần chúng, trước hết là trong học sinh, thanh niên, và các
lực lượng vũ trang. Đồng thời tích cực xây dựng đội ngũ vận động viên ngày càng
đông đảo, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt và đạt thành tích, kỷ lục cao.
Muốn vậy, cần tăng cường hệ thống tổ chức quản lý công tác thể dục thể thao ở
các cấp, các ngành, các đoàn thể; nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ; đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học, kỹ thuật và từng bước
tăng thêm cơ sở vật chất - kỹ thuật của thể dục, thể thao.
Trong mấy năm qua, chúng ta đứng trước những nhu cầu ngày càng lớn và
toàn diện về bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Thực hiện Nghị quyết do Đại hội
lần thứ IV của Đảng đề ra, chúng ta đã kiên trì phương hướng y học dự phòng, có
tiến bộ trong việc kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc. Chúng ta
đã mau chóng thống nhất được tổ chức y tế, tạo được phong trào quần chúng thực
hiện vệ sinh phòng bệnh, tăng cường một bước cán bộ và trang bị, nhất là ở cơ
sở và trên địa bàn từng huyện. Nhờ vậy, về cơ bản đã ngăn ngừa, khống chế kịp
thời các bệnh dịch, bảo đảm tốt mọi yêu cầu cấp cứu chiến thương, làm giảm rõ
rệt tỷ lệ mắc một số bệnh xã hội, tăng được khả năng khám bệnh, chữa bệnh và tự
lực về thuốc. Chúng ta đã bước đầu thực hiện được công tác quản lý sức khoẻ đối
với một số bệnh và một số đối tượng. Riêng ở miền Nam, đã giải quyết có hiệu
quả một số bệnh và tệ nạn xã hội, sản phẩm của chế độ Mỹ - nguỵ, đem lại cuộc
sống mới cho hàng chục vạn người.
Tuy vậy, vẫn còn rất nhiều việc phải làm trên lĩnh vực bảo vệ sức khoẻ
nhân dân. Tình hình vệ sinh môi trường hiện nay, nhất là ở các khu vực công
cộng tại các thành phố, thị xã, khu công nghiệp tập trung, đang có nhiều vấn đề
phải giải quyết. Tình hình thiếu thuốc, thiếu các phương tiện chuyên môn đang
gây trở ngại cho việc chữa bệnh. Trên cơ sở phát huy lực lượng to lớn của nhân
dân, khả năng của các địa phương và các ngành có liên quan, chúng ta cần đầu tư
thích đáng để bảo vệ và từng bước làm sạch môi trường, nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác phòng và chống dịch, phòng và chống các bệnh xã hội; tổ chức
tốt hơn việc khám và chữa bệnh. Tiếp tục phát huy và phát triển y học cổ truyền
dân tộc, kết hợp có hiệu quả hơn nữa y học cổ truyền dân tộc với y học hiện
đại. Củng cố và phát triển mạng lưới y tế nhất là tuyến cơ sở và tuyến huyện,
quận. Một nhiệm vụ cấp bách là khai thác mọi khả năng sẵn có trong nước nhằm
tạo cho được các nguồn dược liệu; tích cực xây dựng công nghiệp dược phẩm và
sản xuất thiết bị y tế, tạo mọi điều kiện để sớm khắc phục tình trạng thiếu
thuốc, kể cả bằng con đường xuất để nhập.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta quý trọng sự cống hiến lớn lao của cán bộ
y tế từ trung ương đến cơ sở, những chiến sĩ mà chức năng cao quý là chăm lo sự
sống của con người. Bảo vệ sức khoẻ của nhân dân là một nhiệm vụ cách mạng cao
cả. Mỗi cán bộ y tế, thầy thuốc cũng như người bào chế thuốc, từ giáo sư, bác
sĩ, đến y tá và nhân viên phục vụ, cần nhận rõ nhiệm vụ vẻ vang của mình, nêu
cao đạo đức của người cán bộ y tế xã hội chủ nghĩa "thầy thuốc như mẹ
hiền", hết lòng cống hiến trí tuệ, lương tâm để phục vụ người bệnh, và
chăm lo sức khỏe của nhân dân. Các cấp uỷ đảng và chính quyền cần quan tâm tạo
điều kiện thuận lợi để cán bộ y tế nâng cao trình độ nghề nghiệp, trau dồi phẩm
chất chính trị, đồng thời cố gắng tìm cách cải thiện đời sống của anh chị em,
nhất là cán bộ y tế ở cơ sở.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đời đời ghi nhớ công lao các liệt sĩ,
thương binh. Mặc dù hoàn cảnh kinh tế đang có khó khăn, chúng ta đã có
những cố gắng to lớn để sắp xếp việc làm thích hợp cho anh chị em thương binh,
nuôi dưỡng những người bị thương tật nặng, tổ chức quần chúng chăm sóc thương
binh, giúp đỡ gia đình các liệt sĩ. Thể hiện truyền thống đền ơn đáp nghĩa đối
với những người có công với nước, các tầng lớp nhân dân ta, đặc biệt là chị em
phụ nữ và các cháu thiếu niên, nhi đồng, đã góp phần rất tích cực vào công tác
thương binh liệt sĩ bằng muôn ngàn việc làm thiết thực và cảm động. Trong thời
gian tới, các cấp uỷ đảng, chính quyền và các đoàn thể phải có sự quan tâm
thường xuyên và chấp hành đầy đủ chính sách đối với thương binh và gia đình
liệt sĩ.
Theo tinh thần nhân đạo của chế độ ta, Nhà nước và nhân dân ta đã làm
nhiều việc để chăm sóc, giúp đỡ, nuôi dưỡng những người già cả, cô đơn, trẻ mồ
côi, người tàn tật. Các công việc này đã được đẩy mạnh trong Năm quốc tế những
người tàn tật. Từ nay về sau, chúng ta cần tiếp tục phấn đấu theo phương hướng
ấy. Các cấp chính quyền cần phối hợp với các đoàn thể quan tâm hơn nữa đến các
trẻ em nghèo thất học.
Đối với những người về hưu, mà số lượng mỗi năm một tăng thêm,
Đảng và Nhà nước ta cần bổ sung các chính sách, chế độ cần thiết, quan tâm đúng
mức đời sống tinh thần và vật chất, nhất là cố gắng chăm sóc với tấm lòng biết
ơn và trân trọng những cán bộ đã hoạt động lâu năm cho cách mạng, chăm lo sức
khoẻ những đồng chí già yếu. Chúng ta hoan nghênh nhiệt tình đóng góp của những
người về hưu vào những công tác xã hội thích hợp.
Đặc biệt chăm lo làm tốt hơn nữa công tác bảo vệ bà mẹ và trẻ em.
Đây là một vấn đề to lớn trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hoá trong
việc xây dựng con người mới, xã hội mới, có quan hệ trực tiếp đến cuộc sống
hạnh phúc của từng gia đình. Đây không những là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng
của Đảng và Nhà nước ta, mà còn là sự nghiệp chung cần được toàn xã hội quan
tâm và góp sức.
Chế độ mới phải tạo ra những điều kiện ngày càng đầy đủ
để mỗi gia đình được sống hạnh phúc, để chị em phụ nữ làm tròn chức trách làm
mẹ cao quý. Làm tốt hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch. Mở rộng dần việc
xã hội đảm nhận chăm sóc, nuôi dạy trẻ em. Song, điều đó không giảm nhẹ chút
nào vai trò nuôi con khoẻ, dạy con ngoan của người mẹ. Hạnh phúc cao nhất của đứa con ở tuổi ấu thơ là được nuôi dưỡng
và lớn lên trong tình thương của mẹ.
Trong tình hình kinh tế của đất nước còn nhiều khó khăn, xã hội ta vẫn
ưu tiên đáp ứng những nhu cầu của trẻ em về ăn, mặc, thuốc men, học hành, đi
lại, giải trí và cố gắng dành cho các cháu những thứ cần thiết và tốt nhất mà
ta có. Nhà nước vừa ban hành những pháp lệnh và nghị định mới về chính sách bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Tất cả các cấp, các ngành, các đoàn thể, các
tổ chức kinh tế, xã hội, giáo dục, y tế, văn hoá đều phải theo chức năng của
mình, thực hiện nghiêm chỉnh và đầy đủ những chính sách đó. Chủ nghĩa xã hội,
và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại hạnh phúc cho con người; điều này trước
hết thể hiện ở sự chăm lo mọi mặt cho đời sống trẻ em.
Phần IV
Tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát động
phong trào cách mạng của quần chúng
Thưa các đồng chí,
Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động theo
cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý là vấn đề có ý nghĩa
quyết định để hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ cách mạng quan trọng và cấp
bách trong thời gian tới. Cơ chế ấy đã được thể chế hoá trong Hiến pháp nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, song chưa được thể hiện rõ nét trong cơ cấu
tổ chức nhà nước, trong phương thức quản lý xã hội, quản lý kinh tế, trong các quy
tắc, nền nếp hoạt động hằng ngày của các cấp uỷ đảng, các cơ quan nhà nước và
các đoàn thể từ trung ương đến cơ sở. Hiệu lực của bộ máy nhà nước ở các cấp
chưa mạnh. Hoạt động của các đoàn thể chưa thường xuyên tạo được phong trào
quần chúng sôi nổi và đều khắp. Phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
và các đoàn thể nhân dân chậm được cải tiến. Đó chính là chỗ yếu trong công tác
lãnh đạo và quản lý của chúng ta trong thời gian qua.
Nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình chủ yếu bằng
Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước ấy là Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Nhà nước chuyên chính vô sản. Vì vậy tăng cường Nhà nước
là vấn đề cấp bách hiện nay. Phải tăng cường Nhà nước để phát huy quyền làm chủ
tập thể của nhân dân lao động và thể hiện đầy đủ sự lãnh đạo của Đảng trong
việc tiến hành ba cuộc cách mạng, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn
hoá mới, con người mới, trong việc giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an
toàn xã hội, bảo vệ những thành quả của cách mạng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, xây dựng và bảo vệ hạnh phúc của nhân dân.
Làm chủ bằng Nhà nước, nhân dân ta trước tiên thực hiện quyền làm chủ
của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Song, cho đến
nay, các đại biểu cơ quan dân cử ít được bồi dưỡng về nhiệm vụ, quyền hạn và
phương pháp hoạt động của mình; một số cơ quan dân cử còn hoạt động một cách
hình thức, chưa làm đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn như Hiến pháp quy
định. Đó là một chỗ yếu trong sự hoạt động của bộ máy nhà nước, cũng là một
khuyết điểm trong công tác lãnh đạo của Đảng.
Vì vậy, phải phấn đấu làm cho Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất, thực sự phát huy vai trò của mình trong việc xây dựng pháp luật, quyết
định những vấn đề lớn của Nhà nước và giám sát hoạt động của các cơ quan chính
quyền cấp trung ương; làm cho Hội đồng nhân
dân các cấp hoạt động đúng với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, quyết định những vấn đề quan trọng trong việc xây dựng địa phương. Các
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cần phát huy đầy đủ trách nhiệm
và quyền hạn đã được quy định, cần giữ mối liên hệ chặt chẽ và đều đặn với cử
tri, phản ánh kịp thời những ý kiến và nguyện vọng của nhân dân cho các cơ quan
nhà nước, làm cho những ý kiến xác đáng của nhân dân nhanh chóng được
tiếp thu và thực hiện.
Làm chủ bằng Nhà nước, nhân dân ta thực hiện quyền làm chủ của mình
thông qua Hội đồng Bộ trưởng và Uỷ ban nhân dân các cấp, là hệ thống các
cơ quan quản lý các mặt hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc
phòng, an ninh, v.v.. Hoạt động kinh tế là hoạt động có tính chất nền tảng, vì
vậy, vấn đề mấu chốt hiện nay là chấn chỉnh tổ chức và cải tiến sự hoạt động
của các cơ quan nhà nước quản lý kinh tế gắn liền với xây dựng cơ cấu kinh tế mới
và hệ thống quản lý mới.
Phù hợp với cơ cấu kinh tế mới, xuất phát từ yêu cầu của sản xuất, kinh
doanh và bảo đảm thật sự gắn với cơ sở, phải sắp xếp và kiện toàn các cơ quan
nhà nước quản lý kinh tế ở từng ngành, từng cấp. Kiên quyết chấn chỉnh tổ chức,
khắc phục tình trạng bộ máy nặng nề, nhiều tầng, nấc trung gian, đông người mà
kém hiệu lực.
Kiện toàn Hội đồng Bộ trưởng, nâng cao hiệu lực của Hội đồng Bộ trưởng
trong việc quản lý tập trung thống nhất một cách đích đáng nền kinh tế quốc
dân. Đặc biệt coi trọng kiện toàn Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và các cơ quan quản
lý tổng hợp khác, phát huy vai trò của các cơ quan này trong việc phục vụ và
kiểm tra hoạt động kinh tế của các ngành, các địa phương và cơ sở. Củng cố và
tăng cường các bộ, tổng cục quản lý ngành, bảo đảm làm tốt nhiệm vụ lập quy
hoạch, kế hoạch, đề ra chính sách, định phương hướng và biện pháp phát triển
khoa học, kỹ thuật, xây dựng đội ngũ cán bộ và công nhân cho toàn ngành trong
cả nước; chuyển những phần việc về điều hành cụ thể hoạt động sản xuất kinh
doanh cho các công ty, xí nghiệp.
Tổ chức lại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, xây dựng vững chắc các cơ
cấu kinh tế địa phương, đặc biệt là xây dựng huyện, hình thành và phát triển
một cách hợp lý các ngành kinh tế - kỹ thuật trong các lĩnh vực sản xuất, xây
dựng, vận tải, lưu thông, bằng các hình thức công ty hoặc liên hiệp xí nghiệp,
hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Thường xuyên củng cố và kiện toàn các cấp chính quyền địa phương, quan
tâm đúng mức việc xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền cấp xã, phường; đào
tạo, bồi dưỡng một cách có hệ thống các cán bộ lãnh đạo chủ chốt của xã,
phường; bổ sung, sửa đổi những chính sách, chế độ đối với cán bộ chính quyền và
đoàn thể ở cơ sở.
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu cấp thiết để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo
đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Để tăng cường quản lý xã hội
theo pháp luật, Nhà nước ta phải khẩn trương cụ thể hoá Hiến pháp mới bằng hệ
thống pháp luật; chú trọng từng bước xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế và các
luật về an ninh xã hội. Tăng cường các cơ quan làm công tác pháp luật, gấp rút
tăng cường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ hành chính nhà nước các cấp và cán bộ
pháp lý.
Nhà nước ta phải sử dụng đầy đủ cả quyền lực chính trị và quyền lực
kinh tế để giữ vững kỷ cương xã hội, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi
phạm pháp và các tệ nạn xã hội, khắc phục cho được tình hình không bình thường
là nhiều luật và pháp lệnh đã ban hành không được thi hành nghiêm chỉnh, thậm
chí không được thi hành. Các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương cần có
thái độ kiên quyết và biện pháp cứng rắn ngăn ngừa và loại trừ các hành động vi
phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân, thẳng tay trấn áp bọn phản cách mạng;
trừng trị bọn bóc lột không chịu cải tạo, bọn lưu manh, côn đồ, bọn đầu cơ,
buôn lậu, tham ô; xử lý nghiêm minh những cán bộ, nhân viên lợi dụng chức quyền
để làm trái pháp luật.
Các cấp uỷ đảng, các cơ quan nhà nước và các đoàn thể phải thường xuyên
phổ biến, giải thích pháp luật trong các tầng lớp nhân dân, đưa việc giáo dục
về pháp luật vào các trường học, các cấp học, xây dựng ý thức sống có pháp luật
và tôn trọng pháp luật. Tăng cường công tác kiểm sát, thanh tra; tổ chức và mở
rộng thanh tra nhân dân; chấn chỉnh việc xét và giải quyết các đơn từ khiếu tố
của nhân dân, khắc phục tình trạng ứ đọng, tình trạng không có cơ quan nào, tổ
chức nào chịu trách nhiệm giải quyết đến nơi đến chốn những việc oan ức, những
trường hợp quyền lợi công dân bị xâm phạm mà nhân dân yêu cầu thẩm tra, xem
xét.
Các cơ quan quản lý của Nhà nước phải cải tiến phương pháp hoạt
động, đổi mới phong cách làm việc, làm cho hoạt động quản lý có tính chiến
đấu, sắc bén, dứt khoát và thiết thực; phải chỉ đạo từng công việc một cách chặt
chẽ, đến nơi, đến chốn, chống bệnh giấy tờ,
hội họp quá nhiều. Mỗi bộ phận, mỗi người ở từng cơ quan, từng đơn vị phải làm
việc đúng nguyên tắc, đúng quy chế, giữ kỷ luật rất nghiêm khi thi hành nhiệm
vụ. Trong các cơ quan quản lý nhà nước phải thực hiện đúng chế độ thủ trưởng,
chấm dứt tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, một nguyên nhân quan trọng của sự trì
trệ về quản lý. Ban hành và thực hiện nghiêm chỉnh chế độ chức trách của từng
chức danh trong các cơ quan quản lý nhà nước.
Cần cải tiến quy trình nghiên cứu, thảo luận, xét duyệt để
quyết định các vấn đề quản lý kinh tế, quản lý xã hội được đúng đắn và kịp
thời. Sử dụng các cơ quan nghiên cứu, các tổ chức kinh tế, khoa học, kỹ thuật,
các đoàn thể quần chúng, thu thập ý kiến của nhân dân, của cán bộ để chuẩn bị
tốt các chính sách kinh tế và xã hội. Trong các quyết định cần tính đến những
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể khác nhau giữa các miền, các vùng trong nước. Khi
đã có nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước, cần ban hành kịp thời và đồng
bộ các chính sách và thể lệ cụ thể cần thiết để thi hành. Phải xoá bỏ và không
được đặt ra những thủ tục rắc rối, không sát thực tế, hoặc chồng chéo, mâu
thuẫn nhau, gây khó khăn, phiền hà cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Nghiêm
cấm thái độ hách dịch, cửa quyền đối với nhân dân. Theo dõi chặt chẽ việc thi
hành các chính sách; giải quyết rõ ràng, dứt khoát những điều cấp dưới và quần
chúng yêu cầu; phát hiện sớm những quy định không đúng hoặc đã lỗi thời, kịp
thời ra những quyết định mới để bổ sung hoặc thay thế.
Để xoá bỏ sự trì trệ, tạo không khí làm việc khẩn trương, phát huy tính
chủ động, sáng tạo, đồng thời bảo đảm sự tập trung thống nhất, phải áp dụng
đồng bộ và có hiệu quả ba loại biện pháp kinh tế, hành chính, giáo dục. Xác
định các chủ trương, biện pháp kinh tế bảo đảm quan hệ đúng đắn giữa ba lợi
ích; tiến hành sâu rộng và sinh động công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể quần chúng; thi hành
chặt chẽ các quy chế để giữ nghiêm kỷ luật và pháp luật; kết hợp tốt ba mặt
công tác đó để kích thích, động viên và bắt buộc mỗi tập thể và cá nhân làm
việc hăng hái, có chất lượng, có hiệu quả. Ai làm tốt, làm giỏi được khen, được thưởng; ai làm kém, làm hỏng
việc phải chịu phạt, chịu kỷ luật một cách đích đáng. Những tiến bộ nổi bật về
sản xuất, kinh doanh của nhiều cơ sở nông nghiệp và công nghiệp trong thời gian
qua chứng minh rằng: bảo đảm sự thống nhất giữa ba lợi ích, quan tâm đúng mức
đến lợi ích cá nhân của người lao động; khơi dậy mạnh mẽ và nuôi dưỡng thường xuyên
nhiệt tình cách mạng của quần chúng; đề cao chế độ trách nhiệm rành mạch và kỷ
luật nghiêm minh; tất cả những điều đó tạo ra động lực thúc đẩy mọi người làm
việc tốt, kích thích tính năng động và sự sáng tạo.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, cải tiến phương pháp lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với
chính quyền là điều kiện quyết định để phát huy vai trò và hiệu lực của Nhà
nước.
Hiện nay, vẫn còn những cấp uỷ đảng, những cán bộ lãnh đạo chưa nhận
thức sâu sắc rằng củng cố và tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một nhiệm
vụ hàng đầu của Đảng, vẫn có một số tổ chức đảng bao biện công việc của cơ quan
nhà nước. Cần nhanh chóng khắc phục tình trạng đó. Các cấp uỷ đảng, các cán bộ,
đảng viên phải gương mẫu thi hành Hiến pháp và pháp luật, đi đầu trong cuộc đấu
tranh tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nghiêm cấm các tổ chức đảng tuỳ
tiện đề ra những quy định trái với pháp luật.
Các cấp uỷ đảng phải đi sâu vào từng lĩnh vực hoạt động cụ thể, nhất là
trên mặt trận kinh tế để phát huy những nhân tố tích cực, uốn nắn những việc
làm sai trái, phát hiện những vấn đề thuộc về chính sách, chủ trương, biện
pháp, từ đó mà xây dựng và hoàn thiện phương pháp lãnh đạo phù hợp với tính
chất và đặc điểm của từng ngành. Căn cứ vào yêu cầu, nội dung lãnh đạo cụ thể ở
từng ngành, từng cấp mà xây dựng tổ chức đảng và bố trí cán bộ cho sát hợp. Cán
bộ, đảng viên hoạt động trong cơ quan chính quyền phải nắm vững pháp luật, hiểu
rõ cơ cấu tổ chức nhà nước, cơ chế quản lý, phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước.
Thưa các đồng chí,
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Vì vậy ở thời kỳ nào công tác
vận động và tổ chức quần chúng làm cách mạng cũng có ý nghĩa chiến lược.
Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, và hiện nay khi cách mạng nước ta
làm hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng chẳng những không
giảm bớt mà còn tăng thêm. Bởi vì một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của cách mạng
là phát huy quyền làm chủ tập thể, xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân
lao động; đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, được
thực hiện chủ yếu bằng Nhà nước, đồng thời được thực hiện bằng hoạt động của
các đoàn thể quần chúng, được biểu hiện bằng phong trào cách mạng của quần
chúng.
Hơn 5 năm qua, trên từng mặt hoạt động và trong từng thời gian, chúng
ta đã phát động được những phong trào quần chúng mạnh mẽ khắc phục hậu quả chiến
tranh, chống thiên tai, thi đua lao động sản xuất, tham gia đánh giặc cứu nước,
giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội... Trình độ chính trị và
văn hoá, ý thức và năng lực làm chủ của nhân dân lao động nước ta qua đó đã có
những tiến bộ đáng kể.
Giai cấp công nhân nước ta đã lớn mạnh
hơn nhiều. Đội ngũ công nhân tăng thêm 24%; công nhân kỹ thuật đã đạt tới 1,7
triệu người. Trình độ chính trị, văn hoá và nghề nghiệp của công nhân được nâng
cao một bước. Trước khó khăn lớn về sản xuất và đời sống, giai cấp công nhân ta
vẫn tỏ rõ bản chất cách mạng, giữ vững và phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Một triệu sáu trăm nghìn người lao động tiểu công
nghiệp, thủ công nghiệp là một lực lượng sản xuất to lớn, đã góp phần quan
trọng khôi phục và phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ
đời sống và xuất khẩu.
Nông dân lao động nước ta đã có những
tiến bộ mới; ý thức làm chủ, trình độ chính trị, văn hoá, kỹ thuật được nâng
lên rõ rệt. Nông dân ở miền Bắc phát huy nhiều sáng kiến thâm canh tăng năng
suất và củng cố quan hệ sản xuất mới, tích cực làm nghĩa vụ với Nhà nước. Nông
dân ở miền Nam hăng hái phục hồi và phát triển nông nghiệp, đi vào con đường
làm ăn tập thể, tỏ rõ sự gắn bó với chế độ mới.
Đội ngũ trí thức nước ta đã phát
triển khá nhanh; trong 5 năm, số lượng tăng thêm 78%; cả nước hiện có trên 260
nghìn cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học. Anh chị em trí thức
đã tích cực phấn đấu, cống hiến nghị lực và tài năng cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Một số công trình nghiên cứu và tác phẩm nghệ thuật của ta đã
đạt trình độ cao.
Thanh niên nước ta đã trưởng thành
nhanh chóng, và có những cống hiến xứng đáng với truyền thống vẻ vang của thế
hệ trẻ và của dân tộc. Phong trào "Ba xung kích làm chủ tập thể" đã
động viên thanh niên đi đầu trên nhiều lĩnh vực hoạt động, trong lao động sản
xuất và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn
xã hội, đồng thời bồi dưỡng cho thanh niên chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lòng
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và tinh thần lao động sáng tạo.
Phụ nữ nước ta rất xứng đáng là đội
ngũ quần chúng cách mạng hùng hậu, là lực lượng lao động xã hội to lớn, là
những người giữ trọng trách trong việc sinh thành và nuôi dạy thế hệ tương lai.
Phong trào "Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" đã giáo dục,
động viên phụ nữ cả nước làm tốt nghĩa vụ công dân và trách nhiệm làm mẹ, đồng
thời bồi dưỡng cho chị em ý thức phấn đấu thực hiện nam nữ bình đẳng, đưa sự
nghiệp giải phóng phụ nữ tiến lên một bước quan trọng.
Đồng bào các dân tộc nước ta, miền ngược
miền xuôi, vùng cao vùng thấp, đã phát huy chí quật cường và truyền thống đoàn
kết chiến đấu, góp phần to lớn đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược và làm
thất bại các thủ đoạn chia rẽ của địch. Trải qua chiến đấu và xây dựng, các dân
tộc anh em được tôi luyện, càng nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.
Đồng bào các tôn giáo, luôn luôn gắn bó với
dân tộc, đã đoàn kết cùng đồng bào không đạo, hăng hái làm tốt nghĩa vụ của
mình đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đồng bào Việt Nam sống ở nước ngoài, luôn luôn hướng về quê hương, đã có những hoạt động phong phú góp phần
tích cực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng lại nước nhà.
Trải qua bao khó khăn và thử thách, khối đại đoàn kết của toàn dân ta
được củng cố và phát triển lên một bước mới; mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lao
động đều có cống hiến và trưởng thành. Sức mạnh chiến đấu, năng lực sáng tạo và
tiềm năng cách mạng của nhân dân ta thật là to lớn. Đó là nguồn sức mạnh vô tận
bảo đảm hoàn thành những nhiệm vụ lịch sử trong giai đoạn mới.
Tuy nhiên, trong những năm qua, phong trào quần chúng chưa
đều và trong nhiều trường hợp hiệu quả còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa
được giáo dục tốt về vai trò của giai cấp tiên phong, về trách nhiệm làm chủ
tập thể xã hội chủ nghĩa, còn chịu ảnh hưởng tâm lý và tác phong của người sản
xuất nhỏ, thiếu tự giác chấp hành kỷ luật lao động và pháp luật nhà nước. Một
bộ phận thanh niên chưa xác định được lý tưởng cách mạng, thiếu ý thức về nghĩa
vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một số thanh niên, thiếu niên ở thành phố, thị
xã bị ảnh hưởng bởi lối sống tư sản, bởi những tàn dư văn hoá đồi trụy và bị
tác động bởi chiến tranh tâm lý của địch, đã có những tư tưởng và hành động
trái với đạo đức và nếp sống xã hội chủ nghĩa.
Nguyên nhân của những khuyết điểm trên đây là ở chỗ toàn bộ sức mạnh
của hệ thống chuyên chính vô sản chưa được vận dụng vào việc giáo dục và động
viên quần chúng, nội dung cũng như hình thức và phương pháp vận động quần chúng
chưa được cải tiến và nâng cao phù hợp với những yêu cầu mới.
Nhiều tổ chức đảng và cấp uỷ đảng chưa quan tâm nghiên cứu tình hình
đời sống và tư tưởng của các tầng lớp nhân dân, chưa coi trọng việc xây dựng và
phát huy vai trò, chức năng của các đoàn thể quần chúng, chưa lãnh đạo chặt chẽ phong trào cách mạng của quần chúng. Không ít cơ
quan nhà nước mắc bệnh quan liêu, làm việc một cách mệnh lệnh, cửa quyền, vi
phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Hoạt động của các đoàn thể cũng hành
chính quan liêu hoá, chậm được cải tiến, không đáp ứng kịp những yêu cầu mới
của quần chúng. Một số cán bộ, đảng viên thoái hoá về đạo đức, tư cách, lợi
dụng chức quyền ức hiếp quần chúng, vi phạm pháp luật, làm tổn thương uy tín
của Đảng và Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến nhiệt tình cách mạng của quần
chúng.
Phong trào thi đua sôi nổi, đều khắp và có hiệu quả trong các hợp tác
xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp, do áp dụng đúng đắn hình thức khoán sản
phẩm cho người lao động, là một bài học có giá trị và bổ ích. Nắm đúng yêu cầu,
nguyện vọng của quần chúng, có chính sách phù hợp với lợi ích thiết thân của
người lao động; tìm ra được những hình thức và biện pháp cụ thể kết hợp hài hoà
ba lợi ích; gắn chặt chủ trương kinh tế sát đúng với công tác tổ chức tốt và công
tác tuyên truyền, giáo dục sâu sát; tất cả
những điều đó bảo đảm cho nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình,
do vậy, đã tạo ra được một phong trào quần chúng mạnh mẽ. Và chính qua phong
trào quần chúng như thế, quyền làm chủ của nhân dân lao động mới thực sự được
thể hiện. Rõ ràng là nhân dân lao động có thực sự làm chủ tập thể thì mới có
phong trào cách mạng, và ngược lại, có phong trào cách mạng thì mới
có sự làm chủ tập thể thực sự của nhân dân lao động.
Đảng ta phải lãnh đạo sửa chữa những khuyết điểm trong công tác vận
động quần chúng, đấu tranh khắc phục bệnh quan liêu trong các tổ chức đảng, các
cơ quan nhà nước và các đoàn thể nhân dân, phát động bằng được một phong
trào quần chúng thật sâu rộng và mạnh mẽ.
Các cấp uỷ đảng, các đoàn thể, các cơ quan nhà nước phải phối hợp với
nhau sử dụng đồng bộ các biện pháp kinh tế, hành chính, giáo dục, tạo nên những
phong trào cách mạng sôi nổi và bền vững của quần chúng ở từng địa phương, nhất
là ở cơ sở, trong từng giới, từng ngành, từng lĩnh vực của đời sống, hướng vào
mục tiêu chung: Vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân. Mỗi
phong trào cần có nội dung thiết thực và mục tiêu cụ thể, gắn chặt với việc
thực hiện thắng lợi các kế hoạch kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo đảm quốc phòng,
an ninh, và phải đạt hiệu quả về cả ba mặt kinh tế, xã hội và tư tưởng.
Chi bộ đảng phải phân công đảng
viên làm công tác quần chúng và kiểm tra hoạt động của đảng viên trong các đoàn
thể. Mỗi đảng viên phải tham gia đều đặn sinh hoạt đoàn thể mà mình là đoàn
viên, hội viên, dùng hành động gương mẫu và sự hiểu biết của mình để thuyết
phục và động viên quần chúng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Các tổ chức đảng phải tạo điều kiện thuận lợi để quần chúng góp ý
kiến phê bình sự lãnh đạo của Đảng và mối quan hệ giữa cán bộ, đảng viên với
quần chúng; phải tìm hiểu nguyện vọng và khả năng của quần chúng, tiếp thu sáng
kiến, kinh nghiệm của quần chúng và giải đáp những vấn đề do quần chúng nêu
lên.
Các cơ quan nhà nước, đặc biệt là những cơ
quan có quan hệ trực tiếp hằng ngày với nhân dân, như cơ quan chính quyền ở xã,
phường, huyện, quận, cơ quan công an, thuế vụ, toà án, viện kiểm sát, cán bộ,
nhân viên các xí nghiệp, cửa hàng, trường học, bệnh viện, v.v. có trách nhiệm
tuyên truyền vận động quần chúng, giữ gìn mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân
với Đảng và Nhà nước, giải quyết nhanh và chu đáo các yêu cầu chính đáng của
quần chúng, làm tròn nhiệm vụ phục vụ nhân dân, kiên quyết bài trừ thói hách
dịch, cửa quyền, vô trách nhiệm. Các cơ quan nhà nước phải phối hợp chặt chẽ
với các đoàn thể, vận động quần chúng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng,
kế hoạch và pháp luật của Nhà nước.
Vai trò và sức mạnh của các đoàn thể chính là ở khả năng tập hợp
quần chúng, hiểu rõ tâm tư và nguyện vọng của quần chúng, nâng cao giác ngộ xã
hội chủ nghĩa cho quần chúng, khơi động tinh thần tự giác, tích cực, chủ động,
sáng tạo của quần chúng. Muốn vậy, các đoàn thể phải đổi mới hình thức tổ chức
và phương thức hoạt động cho phù hợp với những điều kiện mới. Hoạt động của các
đoàn thể phải năng động, nhạy bén với những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc
sống, khắc phục bệnh quan liêu, giản đơn và khô cứng trong tổ chức và trong
sinh hoạt. Mở rộng các hình thức tổ chức theo nghề nghiệp, theo nhu cầu đời
sống và sinh hoạt văn hoá để thu hút đông đảo quần chúng vào các hoạt động xã
hội. Đội ngũ cán bộ đoàn thể ở các cấp cần được đổi mới. Bên cạnh đội ngũ cán
bộ chuyên trách thông thạo nghiệp vụ, có nhiệt tình hoạt động và được giới hạn
ở mức cần thiết, phải sử dụng rộng rãi lực lượng cán bộ không chuyên trách,
giúp cho đoàn thể sát cơ sở, gần gũi quần chúng nhiều hơn.
Các đoàn thể có nhiệm vụ giáo dục đoàn viên, hội viên của mình về chủ
nghĩa xã hội, về pháp chế xã hội chủ nghĩa, về trách nhiệm và quyền hạn làm chủ
tập thể, bồi dưỡng, nâng cao ý thức và năng lực của người làm chủ, tuyên
truyền, thuyết phục quần chúng tự giác thi hành chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước; đồng thời thu thập, phản ánh ý kiến của nhân dân, đề xuất
với cấp uỷ đảng và cơ quan nhà nước những chủ trương, biện pháp giải quyết các
vấn đề có quan hệ đến lợi ích của nhân dân và góp sức xây dựng bộ máy chính
quyền ở các cấp.
Công đoàn phải cải tiến tổ chức và hoạt
động của mình để thực hiện đầy đủ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Công đoàn
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa đã ghi trong Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của
Đảng và trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trước mắt,
công tác vận động công nhân của Đảng và hoạt động của Công đoàn phải hướng vào
nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh, giáo dục, nâng cao ý
thức giai cấp, xây dựng người công nhân mới xã hội chủ nghĩa. Công đoàn phải
tập trung sự hoạt động của mình vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, khoa
học, kỹ thuật, tổ chức và đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, thực
hành tiết kiệm của công nhân, viên chức, nâng cao trình độ chính trị, văn hoá,
khoa học, kỹ thuật cho công nhân, góp phần tích cực vào việc đào tạo đội ngũ
công nhân lành nghề, đào tạo những cán bộ quản lý giỏi.
Công đoàn, cần tham gia đắc lực vào công việc nhà nước, góp phần có
hiệu quả cải tiến quản lý kinh tế, nhất là cải tiến quản lý xí nghiệp, hợp tác
chặt chẽ với các cơ quan nhà nước giải quyết các vấn đề cụ thể về điều kiện sản
xuất, về bảo hộ lao động và bồi dưỡng sức lao động, về ổn định và bảo đảm đời
sống của công nhân, viên chức. Công đoàn phải đóng vai trò nòng cốt trong phong
trào thi đua xã hội chủ nghĩa, nêu cao những tấm gương sáng về thái độ lao động
mới, về tính kỷ luật, về tinh thần chủ động, sáng tạo, về ý thức tiết kiệm và
bảo vệ của công; đồng thời phê phán, khắc phục những biểu hiện không lành mạnh
trong lao động và sinh hoạt của một số công nhân, viên chức. Các cấp uỷ đảng và
chính quyền phải tạo mọi điều kiện để công nhân, viên chức trực tiếp tham gia
việc quản lý sản xuất và phân phối, để Công đoàn kiểm tra, giám sát được công
việc của cơ quan nhà nước. Công đoàn có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi chính đáng
của công nhân trong xí nghiệp công tư hợp doanh và xí nghiệp tư bản tư doanh ở
miền Nam. Căn cứ vào Hiến pháp mới, Nhà nước cần nghiên cứu bổ sung Luật Công
đoàn.
Liên hiệp hợp tác xã, đại diện cho những người lao động tiểu công
nghiệp, thủ công nghiệp phải tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao
ý thức làm chủ cho xã viên và thợ thủ công, tiếp tục thực hiện cải tạo và tổ
chức lại các ngành, nghề tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, không ngừng củng cố
và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; chăm lo, tổ chức đời sống, đào tạo cán bộ
và đội ngũ thợ, đề xuất với Đảng và Nhà nước những chủ trương chính sách, chế
độ nhằm thúc đẩy khu vực sản xuất này phát triển phù hợp với con đường xã hội
chủ nghĩa.
Công tác vận động nông dân nhằm đoàn kết
và giáo dục nông dân thực hiện công - nông liên minh, đẩy mạnh ba cuộc cách
mạng, phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, đưa nông nghiệp một bước lên
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa, góp
phần quan trọng vào sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Các cấp uỷ đảng và các cơ quan nhà nước, nhất là ở huyện và xã, phải ra
sức xây dựng, củng cố các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Hợp tác
xã và tập đoàn sản xuất vừa thực hiện đầy đủ chức năng tổ chức sản xuất, kinh
doanh, làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước, chăm lo đời sống của xã viên, vừa làm
tốt nhiệm vụ đoàn kết, giáo dục, bồi dưỡng nông dân về ý thức và năng lực làm
chủ tập thể. Phát huy tác dụng của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể và của Nông
hội. Cần có những hình thức thích hợp với từng địa phương để các hợp tác xã và
tập đoàn sản xuất cùng nhau trao đổi kinh nghiệm tổ chức sản xuất và xây dựng
nông thôn mới.
Đảng phải tăng cường hơn nữa công tác vận động trí thức, ra sức
phát huy tiềm năng to lớn của đội ngũ trí thức nước ta nhằm phục vụ ngày càng
tốt hơn cho đất nước, cho chủ nghĩa xã hội. Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã
ra nghị quyết về chính sách khoa học và kỹ thuật. Các cấp uỷ đảng, các cơ quan
nhà nước và các đoàn thể cần thực hiện nghị quyết ấy một cách nghiêm túc, xây
dựng và thực hiện tốt các chính sách và kế hoạch phát triển văn hoá, giáo dục,
khoa học, kỹ thuật; khắc phục những thiếu sót trong việc đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng cán bộ khoa học, kỹ thuật; giúp đỡ cho anh chị em nâng cao trình độ chính
trị và chuyên môn tạo điều kiện vật chất và tinh thần thuận lợi cho anh chị em
làm việc có hiệu quả cao.
Đảng ta luôn luôn nhận định rằng công tác vận động thanh niên có
tầm quan trọng đặc biệt. Đây là một vấn đề chiến lược của cách mạng, là trách
nhiệm của toàn bộ hệ thống chuyên chính vô sản. Nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu
dài của công tác vận động thanh niên là giáo dục cho thế hệ trẻ nêu cao ý thức
làm chủ, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc, nhanh chóng khắc phục những biểu hiện không lành mạnh trong
một bộ phận thanh niên, thiếu niên; ra sức đào tạo, rèn luyện thanh niên thành
những con người mới phát triển toàn diện, kế tục trung thành và xuất sắc sự
nghiệp của Đảng và của dân tộc.
Các cấp bộ đảng phải lãnh đạo chặt chẽ công tác thanh niên, chăm lo xây
dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí
Minh, làm đúng lời dặn của Hồ Chủ tịch trong Di chúc của Người "...
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần
thiết". Tất cả các ngành, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể và toàn xã
hội đều có trách nhiệm vận động thanh niên, thiếu niên và phải có sự phân công,
phối hợp chặt chẽ để làm tốt công tác này. Phải thực sự đổi mới các hình thức,
phương pháp tổ chức và tuyên truyền, giáo dục thanh niên, thiếu niên cho phù hợp
với tình hình và nhiệm vụ mới, với những đặc điểm về lứa tuổi, và những nhu cầu
mới của thanh niên; kịp thời đập tan những âm mưu và hành động phá hoại của kẻ
thù đối với tuổi trẻ; gắn công tác giáo dục chính trị với việc chăm lo giải
quyết những vấn đề cụ thể về quyền lợi, về đời sống vật chất và văn hoá của
thanh niên. Trong thời gian tới, cần mở những hội nghị chuyên đề nghiên cứu và
giải quyết những vấn đề mới về tư tưởng và lối sống của tuổi trẻ nước ta; tiến
tới có những nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về công tác vận động và
giáo dục thanh niên trong giai đoạn mới. Nhà nước cần nghiên cứu ban hành Luật
Thanh niên.
Đảng ta luôn luôn đánh giá đúng bản chất tốt đẹp, khả
năng cách mạng của thanh niên và vai trò chính trị của Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh. Đoàn phải làm tốt hơn nữa nhiệm vụ tổ chức và giáo dục đoàn
viên, thanh niên về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Bồi dưỡng cho thanh
niên ý thức làm chủ tập thể, làm cho thanh niên hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi
của mình, sống theo lý tưởng cộng sản
cao cả, sống văn minh, lành mạnh, sáng tạo trong lao động và học tập, đấu tranh
không khoan nhượng chống những biểu hiện tiêu cực. Hết sức coi trọng giáo dục
truyền thống dân tộc và truyền thống cách mạng, chủ nghĩa yêu nước chân chính
và chủ nghĩa quốc tế vô sản cho thanh niên. Động viên thanh niên đi đầu trong
phong trào thi đua lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm, phát triển văn
hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật, xây dựng lực lượng vũ trang, chiến đấu và
sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, giữ
gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã
hội.
Đoàn phải làm tốt hơn nữa nhiệm vụ giáo dục thiếu niên, nhi đồng, dìu
dắt Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và Đội Nhi đồng Hồ Chí Minh.
Là cánh tay và đội hậu bị của Đảng, Đoàn phải tích cực vận động và
hướng dẫn đoàn viên tham gia xây dựng Đảng. Các cấp uỷ đảng cần cử những cán bộ
có phẩm chất chính trị, có kiến thức và năng lực trực tiếp phụ trách công tác
thanh niên; chú trọng bồi dưỡng, đào tạo những cán bộ ưu tú của Đoàn thành cán
bộ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước sau này ở các cấp.
Để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện
nam nữ bình đẳng, để phát huy hơn nữa vai trò và khả năng của phụ nữ trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, các cấp uỷ đảng cần làm cho
quan điểm và chính sách vận động phụ nữ của Đảng được thấu suốt trong tất cả
các tổ chức thuộc hệ thống chuyên chính vô sản. Phải đấu tranh xoá bỏ những
quan điểm phong kiến và tư sản trong việc đánh giá lực lượng và khả năng của
phụ nữ, trong việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng lao động nữ, cán bộ nữ, trong
việc giải quyết những vấn đề cụ thể về đời sống của phụ nữ và trẻ em.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phải ra sức giáo dục, động viên phụ nữ phát huy quyền làm chủ tập thể,
cống hiến nhiều hơn nữa cho Tổ quốc, cho chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đấu tranh
cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ, và xây dựng người phụ nữ mới xã hội chủ nghĩa.
Hội cần chăm lo những vấn đề phúc lợi, về đời sống của phụ nữ, tạo điều kiện
cho chị em làm tốt nhiệm vụ sản xuất, hoạt động xã hội và nuôi dạy con cái. Hội
cần phối hợp với các cơ quan nhà nước, với Công đoàn và Đoàn Thanh niên để điều
tra, nghiên cứu về đời sống, điều kiện lao động, yêu cầu và nguyện vọng của phụ
nữ, địa vị của phụ nữ trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; đề
xuất với Đảng và Nhà nước ban hành các chính sách, các luật pháp, bảo đảm quyền
lợi của phụ nữ, và góp phần kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách,
luật pháp ấy.
Nêu cao truyền thống đoàn kết của nhân dân ta, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cần tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân, các
tôn giáo, các dân tộc, các nhân sĩ hăng hái tham gia các phong trào cách mạng,
xây dựng và củng cố chính quyền, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng
cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần của xã hội ta, phát huy quyền làm
chủ tập thể của nhân dân lao động trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc.
Đảng phải lãnh đạo thực hiện tốt Nghị quyết của Đại hội
IV về chính sách dân tộc đồng thời tiếp tục nghiên cứu để giải quyết kịp thời những vấn đề
mới về công tác dân tộc của Đảng. Phải tăng cường hơn nữa khối đoàn kết các dân
tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ và cùng làm chủ tập thể; đẩy
mạnh tuyên truyền giáo dục, làm cho đồng bào các dân tộc, cũng như đồng bào cả
nước, hiểu sâu tình hình nhiệm
vụ mới và chính sách dân tộc của Đảng, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan mọi
thủ đoạn chia rẽ, phá hoại... của bọn đế quốc và phản động khác, xoá bỏ những
thành kiến dân tộc còn sót lại, cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhà nước phải tăng đầu tư cho các vùng dân tộc và các cấp đảng bộ,
chính quyền, đoàn thể phải ra sức phấn đấu phát triển kinh tế, văn hoá, đáp ứng
kịp thời các yêu cầu cấp bách về sản xuất và đời sống của đồng bào các dân tộc,
nhất là ở vùng cao, vùng biên giới, nhằm khắc phục một bước sự chênh lệch về
trình độ phát triển kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc do lịch sử để lại.
Mỗi cấp, mỗi ngành phải thực hiện chính sách dân tộc của Đảng trong phạm vi
trách nhiệm và khả năng của mình, chú trọng làm tốt việc đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật người dân tộc, trước hết
cho cấp huyện và cơ sở.
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta là: tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của nhân dân; đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết
đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo nào để cùng nhau xây
dựng và bảo vệ đất nước; nghiêm trị những hoạt động lợi dụng tôn giáo làm hại
đến lợi ích của Tổ quốc, của chủ nghĩa xã hội. Các cấp bộ đảng, các cấp chính quyền
và đoàn thể phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục chính sách của Đảng và Nhà
nước đối với các tôn giáo, động viên đồng bào có đạo tăng cường đoàn kết với
các tầng lớp nhân dân, chấp hành nghiêm chỉnh mọi chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, hăng hái thi đua sản xuất, học tập, làm tốt nghĩa vụ công
dân, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng cuộc sống mới.
Nhân dân ta tin tưởng rằng đồng bào Việt Nam sống ở nước ngoài tiếp
tục phát huy truyền thống đoàn kết và yêu nước, góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phần V
Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng
và Nhà nước ta
Thưa các đồng chí,
Những năm 70, đặc biệt là sau thất bại của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, cách
mạng thế giới bước vào một thời kỳ phát triển mới. Ba dòng thác cách mạng của
thời đại lớn mạnh vượt bậc, kết thành một sức mạnh tổng hợp hết sức to lớn, đã
giành được những thắng lợi rực rỡ trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã nhanh chóng tăng cường sức
mạnh về mọi mặt, thể hiện rõ tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, một chế độ
trong đó nhân dân lao động là người chủ chân chính và mục đích cao nhất là hạnh
phúc của con người. Liên Xô đang tiến mạnh vào giai đoạn xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa cộng sản; nhiều nước đang đẩy nhanh quá trình
hoàn thành xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển; một số nước đang xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Các nước xã hội chủ nghĩa trong
Hội đồng tương trợ kinh tế vẫn giữ được nhịp độ phát triển kinh tế cao. Riêng
Liên Xô đã tăng tài sản cố định lên hơn hai lần so với mười năm trước, và lực
lượng sản xuất đã đạt tới một trình độ mới về chất lượng. Các nước trong cộng
đồng xã hội chủ nghĩa đã xây dựng được nền quốc phòng vững mạnh, phát triển
cách mạng khoa học - kỹ thuật cả chiều rộng lẫn chiều sâu, và giành được những
thành tựu nổi bật về văn hoá, xã hội, tạo nên một lối sống tốt đẹp, bảo đảm
những quyền chân chính của con người. Sự liên kết kinh tế ngày càng mở rộng, việc
đẩy mạnh hợp tác về các mặt sản xuất và khoa học, kỹ thuật cũng như sự phối hợp
chặt chẽ trên các mặt chính trị và ngoại giao đã mở ra triển vọng tốt đẹp cho
sự phát triển của cộng đồng xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù còn gặp những khó khăn nhất định trong quá trình tiến lên,... hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tạo ra sức
mạnh tổng hợp vượt hơn các thế lực đế quốc và phản động. Với Liên Xô là trụ
cột, hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày càng phát huy mạnh mẽ tác dụng là nhân tố
quyết định chiều hướng phát triển của xã hội loài người, là thành trì vững chắc
của hoà bình, là chỗ dựa tin cậy cho cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân thế
giới.
Phong trào giải phóng dân tộc và độc lập dân tộc đang quét nốt những vị
trí cuối cùng của chủ nghĩa thực dân cũ và giáng những đòn nặng nề vào chủ
nghĩa thực dân mới. Trong năm, sáu năm qua, đã có thêm hơn 20 nước giành được
độc lập và trở thành những thành viên bình đẳng trong cộng đồng quốc tế. Các nước độc lập dân tộc ở á, Phi,
Mỹ Latinh tiếp tục đấu tranh mạnh mẽ giành chủ quyền hoàn toàn về những tài
nguyên thiên nhiên bị đế quốc khống chế, đòi thiết lập trật tự kinh tế thế giới
mới. Nhiều quốc gia như Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Yêmen, ápganixtan, Ănggôla,
Môdămbích, Êtiôpia, Libi, Cônggô, Bênanh, Angiêri, Mađagátxca, Nicaragoa, Grênađa...
đã đoàn kết chặt chẽ với các nước xã hội chủ nghĩa, và các nước kiên định trong
từng khu vực, giương cao ngọn cờ chống đế quốc và phản động quốc tế, thiết
lập chính quyền dân chủ và nhân dân, tiến hành nhiều cải cách kinh tế, văn hoá
xã hội vì lợi ích của đông đảo quần chúng lao
động, chọn con đường đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự gắn bó ngày
càng chặt chẽ của phong trào độc lập dân tộc với hệ thống xã hội chủ nghĩa tạo
nên thế mạnh mới cho các lực lượng cách mạng. Dựa vào thế mạnh đó, phong trào
Không liên kết đã có những cống hiến to lớn vào sự nghiệp củng cố độc lập dân
tộc và giữ gìn hoà bình thế giới.
ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra
rất gay gắt. Phong trào của giai cấp công nhân và nhân dân lao động có bước
phát triển mới, quy mô rộng lớn, khí thế sôi nổi, hình thức rất phong phú.
Những đợt đấu tranh quyết liệt chống chính quyền tư sản trút gánh nặng khủng
hoảng kinh tế, lạm phát và suy thoái lên đầu người lao động, chống thất nghiệp,
chống bóc lột, chống tệ nạn xã hội, gắn liền với đấu tranh chống bóp nghẹt dân
chủ, đòi thực hiện các quyền chính trị của nhân dân lao động, chống chạy đua vũ
trang, đòi thi hành chính sách đối ngoại hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa các
nước. Những làn sóng đấu tranh đó đã làm cho nền độc tài phát xít ở một số nước
sụp đổ và chính quyền tư bản lũng đoạn bị khủng hoảng triền miên. ở một số
nước, các Đảng Cộng sản và Công nhân đóng một vai trò quan trọng đối với đời
sống chính trị của đất nước và là lực lượng chính giương cao ngọn cờ dân chủ và
tiến bộ xã hội chống chính quyền tư bản lũng đoạn.
Trong thời gian qua, chủ nghĩa đế quốc bị thất bại liên tiếp; thế giới
tư bản chủ nghĩa lâm vào một cuộc tổng khủng hoảng trầm trọng chưa từng có.
Nhiều nhân tố từng đưa lại bước phát triển mạnh về lực lượng sản xuất của thế
giới tư bản cho đến đầu những năm 70, đã và đang mất dần tác dụng. Đi đôi với
sự bế tắc về kinh tế, xã hội, là sự sụp đổ của các học thuyết mị dân và những
luận điệu tô vẽ cho xã hội tư bản. Trong thế suy yếu chung của chủ nghĩa đế
quốc, tên đầu sỏ là Mỹ bị thất bại lớn nhất, khủng hoảng sâu sắc nhất và bị các
cường quốc tư bản khác cạnh tranh, lấn bước. Cuộc khủng hoảng kinh tế, khủng
hoảng năng lượng và nguyên liệu trên thế giới càng làm tăng thêm mâu thuẫn giữa
các đế quốc với nhau.
Hòng tìm lối thoát cho khủng hoảng kinh tế và đối phó với phong trào
cách mạng thế giới, đế quốc Mỹ tập hợp lại lực lượng, cố duy trì sự khống chế
của Mỹ trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa, điều chỉnh lại chiến lược toàn cầu
phản cách mạng của chúng, chĩa mũi nhọn chủ yếu chống Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa...
Đế quốc Mỹ mưu toan tiến hành một cuộc phản công có tính chất toàn cầu,
hòng thực hiện tham vọng giành ưu thế quân sự trên thế giới, giành lại vị trí
đã mất, ngăn chặn sự phát triển của ba dòng thác cách mạng. Chúng đẩy mạnh chạy
đua vũ trang với quy mô chưa từng có, ra sức phát triển các loại vũ khí giết
người hàng loạt, kể cả bom nơtơrông, đưa tên lửa hạt nhân tầm trung bình vào
châu Âu, tuyên truyền trắng trợn cho chiến tranh hạt nhân, gây lại không khí
"chiến tranh lạnh" phá hoại hoà dịu và an ninh quốc tế.
Mỹ công khai dựa vào chính sách vũ lực để tiến công phong trào giải
phóng dân tộc mà chúng vu cáo là "chủ nghĩa khủng bố". Mỹ mở rộng và
tăng cường hệ thống căn cứ quân sự của chúng trên thế giới; ráo riết vũ trang
cho các chế độ độc tài phản động ở Trung Mỹ, Trung Đông, Nam á, nam phần châu
Phi, v.v. nhằm thổi to ngọn lửa xung đột vũ trang và gây ra những lò căng thẳng
mới ở các khu vực... Mỹ và bọn phản động can thiệp vào công việc nội bộ của Ba
Lan, hòng lật đổ chủ nghĩa xã hội ở nước này, phá hoại sức mạnh thống nhất của
cộng đồng xã hội chủ nghĩa.
Chính sách phiêu lưu đó đang gây mối hiểm hoạ cực kỳ nghiêm trọng đối
với hoà bình thế giới. Cuộc đấu tranh cho những mục tiêu của thời đại chúng ta
đang trải qua một thời kỳ đầy sóng gió, gay go và quyết liệt hơn trước.
Song, bọn đế quốc và phản động quốc tế đang vấp phải sự lớn mạnh và thế
tiến công của ba dòng thác cách mạng, nguyện vọng và ý chí hoà bình của các dân
tộc, được đường lối đối ngoại hoà bình lêninnít của Liên Xô và các nước trong
cộng đồng xã hội chủ nghĩa cổ vũ.
Hiện nay, không một dân tộc nào trên thế giới muốn chiến tranh làm huỷ
hoại sinh mệnh của hàng triệu con người, phung phí của cải và tài nguyên quốc
gia, tàn phá nền văn minh nhân loại. Hoà bình, thành quả chung của cuộc đấu
tranh của nhân dân các nước, phải được bảo vệ. Sự thống nhất mọi cố gắng của
các nước xã hội chủ nghĩa, của các nước Không liên kết, của các lực lượng dân
chủ và hoà bình, của tất cả các dân tộc, có khả năng to lớn đẩy lùi nguy cơ một
cuộc chiến tranh hạt nhân, ngăn chặn chính sách hiếu chiến và xâm lược của bọn
đế quốc và phản động quốc tế.
Đế quốc Mỹ hoặc kẻ nào muốn đóng vai trò sen đầm quốc tế đều nhất định
sẽ bị trừng phạt đích đáng bất cứ ở đâu mà chúng thò bàn tay can thiệp và xâm
lược vào. Loài người đang ở trong thời đại mà nhân dân tất cả các nước đều đã
thức tỉnh về vai trò làm chủ của mình và một hòn đảo nhỏ cũng đứng lên giành
được độc lập. Bất kỳ một cuộc chiến tranh nào do bọn xâm lược phát động nhằm đè
bẹp phong trào giải phóng dân tộc hoặc đánh vào các nước độc lập dân tộc nhất
định sẽ đem lại tai hoạ cho chính kẻ gây ra nó.
Tại Đại hội lần thứ XXVI Đảng Cộng sản Liên Xô, đồng chí L.I. Brêgiơnép
đã đưa ra một cương lĩnh hoà bình quan trọng bao gồm nhiều biện pháp mới về hạn
chế vũ khí hạt nhân và giải trừ quân bị, về ngăn chặn sự xuất hiện và xoá bỏ
nhanh chóng các lò xung đột vũ trang và căng thẳng, về thiết lập các khu vực
hoà bình ở các vùng xung yếu trên thế giới, từ Trung Âu đến Viễn Đông, từ Trung
Cận Đông, Địa Trung Hải đến ấn Độ Dương, v.v..
Cương lĩnh hoà bình này là tiếng nói đanh thép của một
dân tộc, một đất nước đã chịu đựng những hy sinh nặng nề nhất trong Chiến tranh
thế giới thứ hai và đã có những cống hiến lớn lao nhất vào cuộc sống hoà bình
của nhân dân các nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
nhân dân Việt Nam biểu thị một lần nữa sự ủng hộ hoàn toàn đối với cương lĩnh
hoà bình và lập trường trước sau như một của
Liên Xô, nhiệt liệt hoan nghênh những đề nghị thiện chí và xây dựng của Liên Xô
trong quan hệ với phương Tây, đặc biệt là những đề nghị mới đây trong các tuyên
bố quan trọng của đồng chí L.I. Brêgiơnép liên quan đến tình hình châu Âu, châu
á nhằm ngăn chặn chạy đua vũ trang, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt
nhân, củng cố hoà bình, an ninh và hợp tác quốc tế.
Thưa các đồng chí,
Nhìn lại hơn nửa thế kỷ hoạt động của Đảng Cộng sản Việt
Nam, chúng ta vui mừng nhận thấy rằng từ khi thành lập đến nay, đi đôi với
chính sách đối nội đúng đắn, Đảng ta luôn luôn có chính sách đối ngoại đúng
đắn. Chính sách đối ngoại lêninnít do đồng chí Hồ Chí Minh đề xướng và kiên trì
là một bộ phận hợp thành chiến lược và sách lược của Đảng trong tất cả các thời
kỳ phát triển của cách mạng Việt Nam. Dựa trên sự nhận định sáng suốt những
biến chuyển lớn của tình hình thế giới sau Cách mạng Tháng Mười và sau Chiến
tranh thế giới thứ hai, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với
chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, Đảng ta đã đưa cách mạng Việt Nam luôn
luôn đi đúng phương hướng phát triển của thời đại. Đó là một nguyên nhân quan
trọng đưa đến thắng lợi của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng
thời bảo đảm cho nhân dân ta góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của
nhân dân thế giới.
Năm năm qua, thực hiện chính sách đối ngoại có nguyên tắc của Đảng,
chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, tăng cường thế và lực vững chắc
của nhân dân ta trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tạo thêm những điều
kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Bất chấp
mọi âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù nhằm bao vây và cô lập nước ta, vai trò và vị
trí của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng được nâng cao trên
trường quốc tế.
Trong thời gian tới, công tác đối ngoại phải ra sức tranh thủ những
điều kiện quốc tế thuận lợi, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và nhiều mặt
cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, góp phần bảo đảm thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ lịch sử do Đại hội lần này đề ra. Đặc biệt công tác đối ngoại phải
trở thành một mặt trận chủ động, tích cực trong cuộc đấu tranh nhằm làm thất
bại chính sách của ... câu kết với thế lực hiếu chiến Mỹ, mưu toan làm suy yếu
và thôn tính nước ta; trước mắt, nhằm đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại
nhiều mặt do chúng gây ra, ngăn chặn âm mưu của chúng gây lại chiến tranh xâm
lược, củng cố hoà bình ở Đông Dương và Đông Nam á.
Trung thành với nghĩa vụ quốc tế của mình, nhân dân ta luôn luôn đoàn
kết với các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, ủng hộ mạnh mẽ cuộc
đấu tranh kiên quyết của nhân dân các nước chống chính sách hiếu chiến và xâm
lược của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Thưa các đồng chí,
Thắt chặt tình hữu nghị và mở rộng quan hệ hợp tác với
các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa
quốc tế xã hội chủ nghĩa là vấn đề hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Đảng
và Nhà nước ta.
Nhân dân ta hết sức vui mừng về bước phát triển rực rỡ của tình đoàn
kết chiến đấu và quan hệ hợp tác giữa nước ta với Liên Xô kể từ khi hai nước ký
kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác năm 1978.
Là bạn đồng minh hùng mạnh và vững chắc nhất của Việt Nam, Liên Xô đã
kiên quyết đứng bên cạnh nhân dân ta, đáp ứng kịp thời và khảng khái những nhu
cầu của chúng ta trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Liên Xô đã
cung ứng cho nền kinh tế nước ta những vật tư kỹ thuật và hàng hoá thiết yếu
nhất đối với sản xuất và đời sống của nhân dân ta, đã viện trợ cho chúng ta
hàng loạt công trình lớn tạo nên cơ sở vật chất - kỹ thuật quan trọng đầu tiên
của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Việc Liên Xô hợp tác và giúp đỡ ta trên các lĩnh vực văn
hoá, khoa học, kỹ thuật, đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề ngày càng được
mở rộng và tăng cường. Việc trao đổi hàng hoá hằng năm qua con đường mậu dịch
giữa hai nước đang phát triển thuận lợi.
Đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là
hòn đá tảng của chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Vì lợi ích của nhân dân hai nước, từ
nay về sau, chúng ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa tình đoàn kết chiến
đấu và sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Liên Xô. Chúng ta coi đó là một bảo đảm
cho thắng lợi của công cuộc bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội của
nhân dân ta, cũng như cho việc củng cố độc lập dân tộc và vị trí của chủ nghĩa
xã hội trên bán đảo Đông Dương; đồng thời đó là một đóng góp tích cực vào việc
củng cố và tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa, tăng cường cuộc đấu tranh vì hoà
bình và chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
Gắn bó chặt chẽ và hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là
chiến lược, đồng thời là tình cảm cách mạng. Đảng ta có nhiệm vụ giáo dục các
thế hệ người Việt Nam nắm vững nguyên tắc này, thấu suốt chiến lược này, biến
thành một động lực mạnh mẽ đưa sự nghiệp cách mạng của chúng ta đến toàn thắng.
Năm nay, Nhà nước Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết kỷ niệm
lần thứ 60 ngày thành lập. Nhân dân ta chân thành chúc nhân dân Liên Xô anh em,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô vĩ đại, giành được những thành tích
xuất sắc mới trong việc thực hiện những nghị quyết lịch sử của Đại hội lần thứ
XXVI để tiến tới ngày lễ quang vinh của mình.
Trong thời gian qua, tình đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào -
Campuchia bước sang giai đoạn phát triển mới, đã đem lại những đổi thay
chưa từng có cho cục diện cách mạng của ba nước Đông Dương.
Chúng ta chào mừng nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, người đồng chí
kiên cường, người bạn chiến đấu chung thuỷ đã giành được những thành tựu xuất
sắc trong công cuộc khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế theo chủ nghĩa xã
hội và trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Chúng ta chào mừng nước Cộng hoà Nhân dân Campuchia, người đại diện chân chính, hợp pháp duy nhất
của nhân dân Campuchia anh dũng, đã giành được những thắng lợi to lớn trong
công cuộc hồi sinh dân tộc và đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia.
Giữa nước ta với hai nước anh em, quan hệ hữu nghị về mặt Nhà nước và
nhân dân, sự hợp tác về chính trị, kinh tế, văn hoá phát triển tốt đẹp, việc
trao đổi hàng hoá ngày càng tăng. Thực hiện Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa
nước ta với Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, giữa nước ta với Cộng hoà Nhân dân
Campuchia, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đem hết sức mình ủng hộ và giúp đỡ
hai nước anh em một cách tận tình trên tinh thần quốc tế vô sản. Và mỗi chiến
công bảo vệ Tổ quốc, mỗi thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta
đều gắn liền với sự giúp đỡ quý báu của nhân dân hai nước anh em. Sự gắn bó
trong tình thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, vinh quang có nhau, hoạn nạn có nhau
ngày càng thể hiện trong cuộc sống và đi sâu vào tình cảm của nhân dân mỗi nước
chúng ta.
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia là một quy luật phát triển
của cách mạng ba nước, là điều có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân
tộc. Từ thế hệ này đến thế hệ khác, nhân
dân ta phải giữ gìn tình hữu nghị trong sáng và truyền thống đoàn kết giữa ba
dân tộc, không ngừng củng cố và tăng cường quan hệ đặc biệt và liên minh chiến
đấu giữa ba nước, quyết làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại, chia rẽ,
xâm lược của kẻ thù chung là ... đế quốc Mỹ và các thế lực phản động khác.
Chúng ta coi đó là một bảo đảm vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ độc lập, tự do và
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước trên bán đảo Đông Dương, đồng
thời là nhân tố cực kỳ quan trọng đối với hoà bình và ổn định ở Đông Nam á.
Trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, bình đẳng và tin cậy lẫn nhau,
chúng ta luôn luôn hết lòng, hết sức làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với hai nước
anh em, đồng thời cùng hai nước hợp tác chặt chẽ và giúp đỡ nhau về mọi mặt để
phục vụ ngày càng có hiệu quả công cuộc củng cố quốc phòng, an ninh và xây dựng
kinh tế, văn hoá của mỗi nước.
Tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác anh em giữa nước ta với các nước
khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa đã có bước phát triển mới về chất từ khi nước ta trở thành một thành
viên chính thức của Hội đồng tương trợ kinh tế. Chúng ta đã nhận được từ các
nước anh em sự ủng hộ mạnh mẽ và sự giúp đỡ nhiều mặt. Theo những hiệp ước hữu
nghị, hợp tác và các hiệp định đã ký giữa nước ta với các nước anh em, việc hợp
tác trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật đã được
triển khai thực hiện và đạt những bước tiến và kết quả đáng phấn khởi.
Trong thời gian tới, chúng ta sẽ làm hết sức mình cùng các nước anh em
thực hiện tốt quan hệ hợp tác trong khuôn khổ những hiệp ước và hiệp định tay
đôi và thúc đẩy các quan hệ hợp tác ngày càng phát triển trong quá trình phối
hợp kế hoạch và chính sách giữa các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế.
Chúng ta nhiệt liệt ủng hộ những biện pháp đúng đắn, kiên quyết của Hội
đồng Quân sự cứu nước Ba Lan, đánh bại âm mưu cướp quyền của bọn phản động, lập
lại trật tự và an ninh để giải quyết các khó khăn về kinh tế và xã hội của Ba
Lan. Chúng ta kịch liệt phản đối những hành động của các thế lực đế quốc can
thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ của Ba Lan hòng cản trở quá trình hồi
phục của nước Ba Lan xã hội chủ nghĩa. Chúng
ta khẳng định tình đoàn kết không lay chuyển đối với Đảng Công nhân thống nhất
Ba Lan, đối với những người cộng sản và nhân dân Ba Lan anh em. Chúng ta tin
chắc rằng những người anh em Ba Lan nhất định sẽ hoàn toàn đập tan mọi thế lực
phản động, vượt qua mọi khó khăn, giữ vững và phát triển những thành quả cách
mạng của mình. Nước Cộng hoà Nhân dân Ba Lan mãi mãi là mắt xích vững chắc
trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới!
Nhân dân ta kiên quyết đứng bên cạnh nhân dân Cuba anh em, ủng hộ mạnh
mẽ nước Cộng hoà Cuba, một nước độc lập, có chủ quyền, thành viên của cộng đồng
xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch phong trào các nước Không liên kết, đang đấu tranh
chống âm mưu xâm lược và sự đe doạ tiến công của đế quốc Mỹ. Nhân dân Cuba vùng
lên từ cuộc sống nô lệ, đang phất cao ngọn cờ tự do và chủ nghĩa xã hội, vì độc
lập của Tổ quốc và hạnh phúc của chính mình. Đó là một dân tộc anh hùng, bất
khuất, không kẻ xâm lược nào chiến thắng nổi. Không được đụng đến Cuba!
Nhân dân ta trước sau như một, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của
nhân dân Triều Tiên nhằm hoà bình thống nhất đất nước, không có sự can thiệp từ
bên ngoài.
Chúng ta tích cực góp phần tăng cường sự đoàn kết trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế
vô sản. Bằng thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và có tính chất thời đại của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bằng thắng lợi vẻ vang của hai cuộc chiến tranh
giữ nước vừa qua và cuộc đấu tranh kiên cường hiện nay ... Đảng ta đã và đang
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh ... bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác
- Lênin.
Là một dân tộc đã từng bị chủ nghĩa đế quốc áp bức và đã chiến đấu lâu
dài chống các thế lực xâm lược, nhân dân ta hoàn toàn ủng hộ cuộc đấu tranh
của các nước á, Phi, Mỹ Latinh, nhằm loại trừ khỏi đời sống thế giới mọi
hình thức của chủ nghĩa thực dân, giành và bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng một
trật tự kinh tế thế giới mới.
Nhân dân Việt Nam thực hành triệt để đường lối phát triển sự hợp tác giữa
Việt Nam với các nước thành viên khác trong phong trào các nước Không liên
kết, góp phần phát huy vai trò tích cực của phong trào này trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân, bảo vệ hoà bình thế giới
và độc lập, chủ quyền của các dân tộc. Nhân dân ta ủng hộ những cố gắng tích
cực của các nước Không liên kết nhằm biến ấn Độ Dương thành khu vực hoà bình.
Chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh sáng kiến của nước Cộng hoà Nhân dân
Mông Cổ về việc ký kết công ước không tiến công lẫn nhau và không sử dụng vũ
lực trong quan hệ giữa các nước châu á và Thái Bình Dương.
Nhân dân ta đánh giá cao vai trò to lớn và uy tín ngày càng tăng của ấn
Độ trong phong trào Không liên kết cũng như những đóng góp của ấn Độ vào việc
giữ gìn hoà bình và ổn định ở châu á và trên thế giới. Chúng ta rất vui mừng về
bước phát triển tốt đẹp hiện nay của quan hệ Việt Nam - ấn Độ, và tin tưởng
rằng tình hữu nghị, sự hợp tác về nhiều mặt giữa hai nước ngày càng củng cố và
tăng cường.
Chúng ta kiên quyết ủng hộ Chính phủ Cộng hoà Dân chủ ápganixtan và
nhân dân ápganixtan anh em được sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa khác, đang chiến đấu chống cuộc chiến tranh không tuyên bố của bọn đế
quốc và phản động quốc tế, bảo vệ những thành quả của Cách mạng tháng Tư.
Nhân dân ta kiên quyết đứng bên cạnh nhân dân các nước
Nicaragoa, Grênađa đang đấu tranh chống sự đe doạ xâm lược của đế quốc Mỹ.
Chúng ta ủng hộ hoàn toàn cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân En Xanvađo chống
chế độ độc tài phát xít và bọn can thiệp Mỹ. Chúng ta ủng hộ mạnh mẽ nhân dân
Chilê, Goatêmala đấu tranh chống bọn thống trị phát xít và sự can thiệp của đế
quốc Mỹ; ủng hộ nhân dân Panama đấu tranh thực hiện chủ quyền về kênh đào
Panama.
Chúng ta lên án đế quốc Mỹ dùng Ixraen làm tên lính xung kích chống lại
nhân dân các nước Arập, khuyến khích Ixraen mở những cuộc tiến công dã man vào
Libăng và Irắc, xâm chiếm Giêruxalem, thôn tính vùng Gôlan của Xyri, gây nên
tình hình cực kỳ nguy hiểm ở Trung Đông. Chúng ta ủng hộ mọi cố gắng nhằm thực
hiện một nền hoà bình công bằng và bền vững tại vùng này, trên cơ sở Ixraen
phải chấm dứt việc chiếm đóng tất cả đất đai Arập bị họ chiếm, phải tôn trọng
những quyền dân tộc cơ bản không thể tước đoạt của nhân dân Arập, Palextin, mà
Tổ chức giải phóng Palextin PLO là người đại diện chân chính duy nhất, kể cả
quyền được thiết lập quốc gia riêng của mình.
Chúng ta ủng hộ kiên quyết nhân dân và Chính phủ Libi
trong cuộc đấu tranh ngoan cường chống chính sách thù địch của đế quốc Mỹ, giữ
vững chủ quyền và bảo vệ độc lập dân tộc.
Nhân dân ta bày tỏ sự đồng tình sâu sắc và ủng hộ nhiệt liệt đối với
nhân dân Namibia và các dân tộc khác ở miền Nam châu Phi đang chiến đấu chống
ách thống trị của bọn phân biệt chủng tộc Nam Phi vì độc lập, tự do và bình
đẳng dân tộc. Chúng ta kịch liệt lên án những cuộc tiến công ăn cướp của Nam
Phi ở ănggôla, và hoàn toàn ủng hộ mọi biện pháp của ănggôla nhằm giáng trả
đích đáng bọn xâm lược.
Với mối cảm tình sâu sắc, nhân dân ta chăm chú theo dõi phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong các nước tư bản chủ
nghĩa phát triển. Hơn một năm nay, ở hầu hết khắp các nước Tây âu, Bắc Âu, và
Bắc Mỹ, dâng lên một phong trào quần chúng sâu rộng và mạnh mẽ chưa từng có từ
sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chống chính sách hiếu chiến và can thiệp của chính quyền Rigân đang làm cho bầu
không khí quốc tế căng thẳng và tình hình châu Âu trở nên cực kỳ nguy hiểm.
Những diễn biến gần đây của tình hình một vài nước châu Âu như Pháp, Hylạp,
chứng tỏ rằng ngọn cờ hoà bình, dân chủ, tiến bộ xã hội có sức tập hợp đông đảo
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đấu tranh đánh lùi từng bước chủ nghĩa
tư bản lũng đoạn nhà nước, giành thắng lợi từng phần, tạo ra những điều kiện
thuận lợi để đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân tiếp tục tiến lên. Nhân dân
ta hy vọng rằng trong thời gian tới, phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển sẽ giành
được thắng lợi to lớn hơn trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội.
Nhân dân Việt Nam chủ trương thiết lập những quan hệ láng giềng tốt với
các nước ASEAN, luôn luôn sẵn sàng cùng các nước này phối hợp cố gắng để xây
dựng Đông Nam á thành một khu vực hoà bình và ổn định... Chúng ta mong rằng vì
lợi ích cơ bản của mình, vì hoà bình và an ninh ở khu vực này và trên thế giới,
các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương tiến hành đối thoại và thương lượng
để giải quyết những vấn đề trong quan hệ giữa hai nhóm nước, tiến tới thực hiện
một Đông Nam á hoà bình và ổn định, hữu nghị và hợp tác.
... Kiên trì chính sách hữu nghị và láng giềng tốt với nhân dân Trung
Quốc, chúng ta chủ trương khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước trên cơ
sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của nhau và giải quyết những vấn đề tranh chấp bằng con đường
thương lượng...
Chúng ta chủ trương thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt Nhà
nước, về kinh tế, văn hoá và khoa học, kỹ thuật với tất cả các nước không phân
biệt chế độ chính trị, xã hội trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình
đẳng và cùng có lợi. Những quan hệ như thế đã được thiết lập giữa nước ta với
nhiều nước ở Tây Âu, Bắc Âu, Nam Mỹ, và các khu vực khác; riêng với Mỹ, quan hệ
chưa cải thiện được là do chính sách thù địch của Oasinhtơn. Là thành viên của
Liên hiệp quốc, chúng ta có quan hệ với nhiều tổ chức quốc tế do Liên hiệp quốc
bảo trợ.
Nhân dân ta mãi mãi trân trọng sự ủng hộ quý báu và tình cảm nồng hậu
mà nhân dân và chính phủ các nước bầu bạn cũng như nhiều tổ chức quốc tế đã
dành cho chúng ta. Chúng ta tin tưởng, trong tương lai, những quan hệ giữa nước
ta với các nước và tổ chức nói trên sẽ được duy trì và phát triển hơn nữa vì
hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc.
Phần VI
Nâng cao sức chiến đấu của Đảng
Thưa các đồng chí,
Đảng ta là một đảng cách mạng kiên cường. Trong cuộc chiến đấu mới đầy
khó khăn và phức tạp để cải tạo xã hội cũ, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc, Đảng ta tiếp tục phát huy bản chất cách mạng và khoa học của mình.
Đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa mà Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng vạch ra đã được
cuộc sống kiểm nghiệm là đúng đắn. Sự đoàn kết, thống nhất của Đảng vì sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc... ngày càng được củng cố. Qua chấp hành Nghị quyết của Đại hội toàn quốc
lần thứ IV của Đảng, các tổ chức đảng, các cơ quan quản lý nhà nước đã có thêm
những kinh nghiệm và năng lực mới trên các lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã
hội. Đông đảo cán bộ, đảng viên bước vào một cuộc chiến đấu mới, vẫn giữ vững
phẩm chất cách mạng tốt đẹp và được nâng cao một bước về trình độ chính trị,
kiến thức văn hoá, khoa học và kỹ thuật, năng lực lãnh đạo và quản lý.
Tuy nhiên, thực tế mấy năm qua cũng cho thấy rõ những nhược điểm,
khuyết điểm của Đảng trong lãnh đạo kinh tế và xã hội, thể hiện ở những thiếu sót về việc thực hiện và cụ thể hoá đường lối
của Đảng, ở năng lực tổ chức thực tiễn, ở phong cách lãnh đạo có nhiều điều
chưa phù hợp với những yêu cầu của giai đoạn mới. Những ưu điểm và khuyết điểm
trong sự lãnh đạo chính trị của Đảng gắn liền với những ưu điểm và khuyết điểm
trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức.
Chúng ta đã có những cố gắng để không ngừng nâng cao tính giai cấp công
nhân, tính tiên phong, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, từng bước
kiện toàn hệ thống tổ chức đảng từ trung ương đến cơ sở, nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, đảng viên kết hợp với việc tăng cường bộ máy nhà nước, xây dựng
và phát huy vai trò của các đoàn thể quần chúng. Song những khuyết điểm trong
lãnh đạo và quản lý kinh tế - xã hội chậm được sửa chữa, cùng với nhiều khuyết
điểm kéo dài trong công tác tư tưởng và công tác tổ chức của Đảng, nhất là
những biểu hiện sa sút về phẩm chất cách mạng, ý chí chiến đấu, tinh thần trách
nhiệm của một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ phụ trách ở các
cấp, các ngành đã làm giảm hiệu quả lãnh đạo của các tổ chức đảng, gây trở ngại
lớn cho việc chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật Nhà nước,
đồng thời ảnh hưởng không tốt đến uy tín của Đảng trong quần chúng.
Hiện nay, nhiệm vụ lịch sử mà Đảng phải gánh vác rất nặng nề. Cuộc đấu
tranh để xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đang diễn
ra gay gắt và phức tạp. Các loại kẻ thù của nhân dân ta trong và ngoài nước
đang chĩa mũi nhọn vào Đảng ta, tìm mọi cách phá hoại Đảng ta về tư tưởng và tổ
chức. Tình hình của Đảng, nhiệm vụ lịch sử mà Đảng phải gánh vác, hoàn cảnh đấu
tranh mới, càng làm nổi lên vị trí đặc biệt quan trọng của công tác xây dựng
Đảng: phải tạo bằng được một sự chuyển biến thật mạnh mẽ về chất lượng lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng. Nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng hiện
nay là tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng,
xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm bảo đảm thực
hiện thắng lợi đường lối của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, làm cho Đảng ta luôn
luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, một đảng thật trong sạch, có sức
chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với quần chúng. Muốn làm được như vậy, nhất
thiết phải đổi mới công tác xây dựng Đảng.
Nội dung nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng hiện nay là:
các cơ quan có trách nhiệm của Đảng và Nhà nước phải thấu suốt đường lối của
Đảng, kịp thời cụ thể hoá đường lối, các nghị quyết của Đại hội Đảng lần này,
căn cứ vào đường lối và nghị quyết của Đảng mà vạch ra các kế hoạch, chính
sách, biện pháp đúng đắn về xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như về bảo vệ Tổ
quốc; nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn, sửa đổi những hình thức tổ chức và
phương pháp công tác không thích hợp, xây dựng ở các ngành và các cấp cơ chế
Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý; lựa chọn và bố trí cán bộ,
trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý chủ chốt ở các ngành, các cấp, các
cơ sở quan trọng, có phẩm chất và năng lực ngang tầm với nhiệm vụ của giai đoạn
mới; tổ chức và động viên quần chúng tạo nên phong trào cách mạng sôi nổi. Việc
nâng cao năng lực lãnh đạo trên đây phải là kết quả tổng hợp của việc thấu suốt
đường lối của Đảng, đặc biệt là nắm vững và vận dụng các quy luật của quá trình
tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta được phản ánh trong đường lối, rút những
bài học đúng đắn từ những kinh nghiệm trong nước và ngoài nước, có sự hiểu biết
cần thiết về quản lý và khoa học, kỹ thuật, có phương pháp tư duy khoa học,
luôn luôn nhạy cảm với cái mới, có cách tổ chức tốt để đi sâu vào thực tiễn,
nắm được kịp thời yêu cầu và nguyện vọng của quần chúng, phát hiện và nâng cao
những kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng.
Sự lãnh đạo của Đảng phải được tăng cường một cách toàn diện, nhưng cần
đặc biệt coi trọng lãnh đạo kinh tế: toàn Đảng đi sâu vào mặt trận kinh tế, cải
tiến phong cách lãnh đạo kinh tế, nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo kinh
tế.
Để nâng cao chất lượng lãnh đạo kinh
tế, cụ thể hoá đường lối của Đảng phải tiếp tục tổng kết công tác kinh tế trong
thời gian qua, tổng kết những điển hình tiên tiến về nông nghiệp, công nghiệp,
xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, phân phối, lưu thông. Từ những bài học và
kinh nghiệm thực tế đó mà đề ra những chủ trương, chính sách sát đúng, những
hình thức cụ thể thích hợp, từ hình thức tổ chức và phân công lao động, bộ máy
quản lý kinh tế, quản lý sản xuất, đến tổ chức và phương thức kinh doanh, phân
phối, v.v.. Không tiến hành công tác nghiên cứu và tổ chức tỉ mỉ để làm cho
được những việc cụ thể ấy thì không thể biến đường lối kinh tế của Đảng thành
hiện thực.
Trong lãnh đạo kinh tế, một mặt chúng ta cần biểu dương những địa
phương, những cơ sở đã nêu cao tinh thần chủ động, sáng tạo trong việc chấp
hành đường lối của Đảng, thi hành các chính sách của Trung ương phù hợp với
hoàn cảnh của địa phương, đề ra được những chủ trương và biện pháp đúng đắn để
nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế, phát triển sản xuất, cải thiện
đời sống nhân dân. Cần động viên khuyến khích những cán bộ nhạy cảm với cái mới
biết đứng trên quan điểm mới để xem xét các vấn đề, sớm phát hiện những cái lỗi
thời trong các chủ trương, chính sách, hình thức tổ chức và quản lý cũ, đồng
thời biết vun trồng những mầm non mới nảy sinh trong cuộc sống. Nhưng mặt khác
chúng ta cần khắc phục và ngăn ngừa những khuynh hướng lệch lạc như: tự do chủ
nghĩa, địa phương chủ nghĩa, cục bộ và bản vị, vi phạm nguyên tắc tập trung dân
chủ, buông lỏng cuộc đấu tranh giữa hai con đường, làm sai đường lối xây dựng
chủ nghĩa xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa của Đảng.
Trong khi đi sâu vào các nhiệm vụ xây dựng, cải tạo và phát triển kinh
tế, văn hoá là những nhiệm vụ còn rất mới mẻ, Đảng ta không một phút nào lơi
lỏng sự nghiệp củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an
toàn xã hội, một nhiệm vụ đang đòi hỏi Đảng phải tiếp tục nâng cao hơn nữa năng
lực, trình độ lãnh đạo của mình.
Đảng phải tăng cường và nâng cao chất lượng lãnh đạo tư tưởng.
Nhiệm vụ cơ bản của công tác tư tưởng là vũ trang cho toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội khoa học, xây dựng ý
chí kiên cường, quyết tâm sắt đá và trình độ hiểu biết cần thiết để làm tròn cả
hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác tư tưởng phải làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, trước
hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ngành, các địa phương, các cơ sở hiểu
sâu sắc đường lối chung về cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, và phấn đấu thực hiện đường lối
ấy một cách tự giác với nhiệt tình cách mạng cao nhất của người làm chủ tập
thể. Chỗ yếu của công tác tư tưởng trong thời gian vừa qua là chưa trang bị
cho cán bộ, đảng viên những hiểu biết cần thiết, chưa làm cho cán bộ, đảng viên
thấu suốt đường lối, chính sách của Đảng, và phổ biến rộng rãi đường lối, chính
sách đó trong nhân dân; tạo ra sự nhất trí cao, có căn cứ lý luận và thực tiễn
đầy đủ; chưa phê phán mạnh mẽ những quan điểm sai trái với đường lối của Đảng;
chưa trả lời kịp thời những vấn đề thực tế và cụ thể được đặt ra trong quá
trình thực hiện đường lối đó.
Việc giải thích đường lối không dừng lại ở những quan điểm chung. Phải
chứng minh bằng những luận cứ khoa học và bằng thực tế sinh động, giúp cho mọi
người hiểu rõ, hiểu sâu đường lối của Đảng; gắn chặt việc làm thấu suốt đường
lối của Đảng với việc giải thích các chính sách cụ thể của Đảng và Nhà nước;
giải thích cục diện cách mạng hiện nay của nước ta, khẳng định những thắng lợi
to lớn trên mặt trận bảo vệ Tổ quốc và những thành tựu trên mặt trận xây dựng
kinh tế, phát triển văn hoá, làm cho mọi người phấn khởi tự hào về những thắng
lợi mà nhân dân ta đã giành được; đồng thời nói rõ những khó khăn, phân tích rõ
nguyên nhân của những khó khăn trong sản xuất và đời sống; nghiêm khắc phê phán
những khuyết điểm trong công tác lãnh đạo và quản lý, chỉ rõ phương hướng và
biện pháp khắc phục khó khăn. Phải nói rõ cuộc đấu tranh để xây dựng chủ nghĩa
xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa là một cuộc đấu tranh giai cấp giữa hai con
đường diễn ra rất gay go, phức tạp, lâu dài và làm cho mọi người giữ vững lập
trường xã hội chủ nghĩa kiên định trong cuộc đấu tranh ấy.
Công tác tư tưởng phải làm cho mọi người thấy rõ, không chút mơ hồ,
kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của dân tộc..., hiểu rõ những âm mưu và hành
động của chúng nhằm xâm lược và phá hoại nước ta, nâng cao cảnh giác thấu suốt
đường lối của Đảng, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu quên mình bảo vệ
Tổ quốc. Phải tổ chức thật chặt chẽ việc tuyên truyền, phổ biến quan điểm của
Đảng...
Công tác tư tưởng phải hướng mạnh vào việc giáo dục,
bồi dưỡng phẩm chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên, chống chủ nghĩa cá
nhân, chống chủ nghĩa cơ hội dưới mọi hình thức, kiên quyết khắc phục những biểu hiện sa sút về phẩm chất
chính trị, vô kỷ luật về mặt tổ chức, thoái hoá về lối sống, quan liêu hoá về
tác phong, bảo thủ trong cách nhìn nhận sự vật của một bộ phận cán bộ, đảng
viên. Trong vấn đề này, phải kết hợp chặt chẽ các hình thức giáo dục tư tưởng,
tự phê bình và phê bình với các biện pháp tổ chức tăng cường kiểm tra thi hành
kỷ luật của Đảng một cách nghiêm minh; kết hợp công tác giáo dục tư tưởng trong
Đảng với cuộc đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong các cơ quan nhà
nước, trong xã hội.
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng, sẽ tiến hành một đợt giáo
dục chính trị sâu sắc trong toàn Đảng, lấy việc nghiên cứu các văn kiện của
Đại hội làm nội dung giáo dục cán bộ, đảng viên về đường lối, chính sách của
Đảng, tiến hành tự phê bình và phê bình nghiêm túc, phê phán những tư tưởng sai
lầm, nâng cao ý chí cách mạng và tinh thần trách nhiệm của người đảng viên cộng
sản trước tình hình và nhiệm vụ mới.
Tổ chức tốt việc bồi dưỡng những kiến thức khoa học, kỹ thuật, nhất
là kiến thức kinh tế, cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Bồi dưỡng cho cán
bộ, đảng viên phong cách lãnh đạo kinh tế, có tinh thần cách mạng sôi nổi, khẩn
trương, lại có đầu óc thực tế, biết kinh doanh, tính toán hiệu quả, biết phát
hiện và khai thác những tiềm năng của đất nước.
Trong công tác tư tưởng, phải nâng cao tính chiến đấu, phân
tích, phê phán sâu sắc những biểu hiện tư tưởng tiểu tư sản, kiên quyết chống
tư tưởng tư sản, chống những tàn dư văn hoá thực dân mới và tàn dư tư tưởng
phong kiến. Cuộc đấu tranh chống các loại tư tưởng phi vô sản ấy phải được
tiến hành một cách có tổ chức, bằng nhiều biện pháp có sự chỉ đạo cụ thể và
luôn luôn gắn chặt với việc thực hiện những nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội
và cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Sức sống, hiệu quả của công tác tư tưởng là ở tinh thần
cách mạng và khoa học của nó. Công tác tuyên truyền phải chân thật; cần nói rõ
cho nhân dân hiểu sự thật, những việc làm được và những việc chưa làm được,
thuận lợi và khó khăn, thành tích và khuyết điểm. Chỉ có tiến hành công tác tư
tưởng trên cơ sở khoa học, không chủ quan, một chiều, khắc phục bệnh hời hợt,
sơ lược, mới đấu tranh sắc bén và có hiệu quả chống mọi tư tưởng sai lầm, thù địch.
Những phương tiện thông tin đại chúng phải được sử dụng tốt và hoạt
động có hiệu quả cao hơn. Đồng thời, tăng cường và cải tiến công tác chính trị
và tư tưởng thường xuyên của chi bộ đảng. Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ đều có
trách nhiệm tuyên truyền, giải thích đường lối, chính sách của Đảng, giải đáp
những vấn đề vướng mắc của quần chúng, kịp thời vạch trần những luận điệu xuyên
tạc thù địch, bảo vệ đường lối của Đảng, xây dựng và giữ vững lòng tin của quần
chúng đối với sự nghiệp cách mạng của nước nhà.
Cần mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm
từng bước đem lại cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta thế giới quan khoa học
và nhân sinh quan cách mạng, hiểu biết có hệ thống về những thành tựu mới trong
công tác lý luận của Đảng ta và các đảng anh em, để tham gia một cách chủ động,
tích cực vào việc xây dựng và vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng. Cần cải
cách toàn diện công tác giáo dục lý luận và chính trị trong các trường của
Đảng, của Nhà nước và của các đoàn thể về nội dung và phương pháp giảng dạy, về
đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên.
Tăng cường công tác lý luận, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học xã
hội, làm cho công tác lý luận, công tác
khoa học xã hội gắn chặt với việc nghiên cứu xác định và phổ biến đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước; phát huy vai trò và tiềm lực khoa học xã hội
trong việc giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho nhân dân lao động, trong việc
nghiên cứu cải tiến quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Trong thời gian tới, cần
nghiên cứu sâu về các quy luật của thời kỳ quá độ từ sản xuất nhỏ tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội, về chiến lược kinh tế của Đảng trong những năm 80, về chế
độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, về cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ,
Nhà nước quản lý, về xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, về một số
vấn đề quốc tế như: bước phát triển mới của ba dòng thác cách mạng, chiến lược
toàn cầu hiện nay của đế quốc Mỹ, phê phán... các hệ thống tư tưởng tư sản
chống cộng khác...
Tích cực đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lý luận, kiện toàn Viện Mác -
Lênin, Trường Đảng cao cấp Nguyễn ái Quốc và các cơ quan lý luận đã có; xây
dựng một số viện nghiên cứu mới, phối hợp chặt chẽ các cơ quan nghiên cứu khoa
học của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện các chương trình nghiên cứu lý
luận.
Đảng phải đặc biệt tăng cường lãnh đạo tổ chức, một khâu quyết định đối với việc thực hiện thắng lợi
đường lối, chính sách của Đảng. Trước hết cần lãnh đạo thật tốt việc xây dựng và củng cố Nhà nước xã hội chủ nghĩa, bởi vì ngày nay, Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
chủ yếu thông qua Nhà nước. Trong cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà
nước quản lý, năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng thể hiện ở chỗ không lơi lỏng
sự lãnh đạo đối với những vấn đề quan trọng về đường lối, chính sách, chủ trương,
nhưng không sa vào những việc quản lý và điều hành cụ thể, không lấn át quyền
hạn trách nhiệm của cơ quan nhà nước. Tổ chức đảng ở một địa phương, một cơ sở
phải biết lựa chọn cho đúng những việc thuộc phạm vi lãnh đạo của Đảng. Cải
tiến các phương pháp, hình thức lãnh đạo của tổ chức đảng đối với cơ quan nhà
nước ở các ngành, các cấp.
Đảng phải dành nhiều công sức xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng và
Nhà nước, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý. Chất lượng cán bộ
là điều kiện quyết định thắng lợi của công tác lãnh đạo. Đội ngũ cán bộ lãnh
đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước phải có phẩm chất chính trị, trình độ hiểu
biết và năng lực công tác tương ứng với yêu cầu của nhiệm vụ mới. Trên mặt trận
kinh tế, đội ngũ cán bộ phải đủ sức thực hiện đường lối kinh tế của Đảng, thực
hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế và xã hội do Đại hội lần thứ V của Đảng
đề ra.
Trong công tác cán bộ, phải có chính sách lựa chọn đúng, bố trí tốt cán
bộ cốt cán của các cấp, các ngành. Không để cán bộ kiêm nhiệm nhiều việc; kết
hợp đúng đắn những cán bộ có phẩm chất và năng lực ở những lứa tuổi khác nhau.
Tích cực đưa những cán bộ trẻ, cán bộ nữ và cán bộ dân tộc có phẩm chất và năng
lực trưởng thành trong phong trào cách mạng của quần chúng vào các cơ quan lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước. Trong việc đánh giá cán bộ, cần khắc phục khuynh
hướng chỉ thiên về quá trình công tác, về thành phần xuất thân, hoặc chỉ thiên
về bằng cấp, học vị.
Cất nhắc, sử dụng cán bộ phải đi đôi với đào tạo và bồi dưỡng cán bộ
một cách có kế hoạch. Thời gian qua, chúng ta có nhiều thiếu sót trong việc đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo của Đảng ở các cấp; chưa định được những tiêu
chuẩn cụ thể của cán bộ lãnh đạo ở từng cấp; chậm cải tiến và nâng cao chất
lượng chương trình đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo. Nhiều cán bộ lãnh đạo
chưa được đào tạo, bồi dưỡng một cách kịp thời, có hệ thống và có chất lượng.
Đối với người cán bộ lãnh đạo của Đảng, nhất là các đồng chí lãnh đạo chủ chốt
của cấp uỷ, sự hiểu biết về lý luận chính trị, trình độ kiến thức nói chung
phải biến thành phương pháp tư duy khoa học, nhãn quan chính trị sâu rộng, khả
năng phân tích nhạy bén, chính xác các sự kiện diễn ra trong đời sống, năng lực
tổ chức điều hành bộ máy, năng lực thuyết phục và động viên quần chúng.
Cần phải gấp rút củng cố đội ngũ cán bộ hiện có, tăng cường đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo và quản lý; đổi mới nội dung phương pháp giảng dạy và
học tập ở các trường Đảng và trường quản lý của Nhà nước; nâng cao trình độ
khoa học trong việc nghiên cứu chính sách cán bộ và xây dựng nhanh quy hoạch
đào tạo cán bộ lãnh đạo ở các cấp, các ngành, các huyện và các cơ sở kinh tế
quan trọng.
Đảng phải tổ chức tốt công tác kiểm tra, một trong những chức
năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng. Thời gian qua công tác kiểm tra chưa được coi
trọng, chưa tổ chức tốt và chưa thành chế độ, nền nếp chặt chẽ. Có những cấp uỷ
đảng đề ra chủ trương rồi dừng lại ở những chủ trương ấy mà không tổ chức và
kiểm tra việc thực hiện. Vì vậy, nhiều công việc tiến hành chậm trễ, nhiều chủ
trương đúng không được thực hiện đầy đủ, nhiều lệch lạc chậm được sửa chữa.
Hiện nay, hơn lúc nào hết, phải tăng cường kiểm tra, nâng cao hiệu quả của công
tác kiểm tra. Kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng ở các cấp,
các ngành; kiểm tra việc giữ gìn phẩm chất cách mạng và sự hoạt động của cán
bộ, đảng viên, nhân viên trong bộ máy nhà nước; bảo vệ những cán bộ có phẩm
chất tốt, có năng lực, có triển vọng; phát hiện nhanh những nhân tố mới; sửa
chữa kịp thời những thiếu sót, khiến cho sự lãnh đạo luôn luôn cụ thể sắc bén.
Làm theo phương châm xây dựng Đảng mà Đại hội lần thứ IV
đề ra, chúng ta đã đạt được những kết quả quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên, tăng cường các tổ chức cơ sở, kiện toàn bộ máy lãnh
đạo các cấp của Đảng.
Hiện nay, Đảng ta có 1.727.784 đảng viên1 hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở.
Trong bước phát triển mới của cách mạng, đại đa số đảng viên đã tỏ rõ phẩm chất
cách mạng và năng lực sáng tạo của người cộng sản. Trên trận tuyến chiến đấu
bảo vệ đất nước, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, trên mặt
trận xây dựng, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học, cũng
như trên mặt trận đối ngoại, hàng vạn đảng
viên của Đảng đã nêu những tấm gương hy sinh, tận tụy vì Tổ quốc và nhân dân,
hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Trình độ chính trị và văn hoá của đảng
viên đã được nâng lên. Trên một triệu đảng viên đã được học tập, bồi dưỡng về
chính trị, lý luận theo những chương trình khác nhau. Hiện nay, Đảng ta đã có
gần 50 vạn đảng viên có trình độ học vấn cấp III và trên 20 vạn đảng viên có
trình độ đại học và trung học chuyên nghiệp.
Song, trong lúc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân phấn đấu kiên cường vì
sự nghiệp cao cả của Tổ quốc, của chủ nghĩa xã hội, một bộ phận đảng viên đã
không giữ vững phẩm chất cách mạng, mất ý chí chiến đấu, bỏ nhiệm vụ, vi phạm
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Những người ấy thực tế đã xa rời
Đảng, xa rời cách mạng, làm tổn hại đến uy tín của Đảng. Trong 5 năm qua, Đảng
ta đã đưa ra khỏi Đảng những đảng viên hư hỏng, thoái hoá. Việc đưa những người
không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng như vậy là đúng. Nhưng ở nhiều nơi đã
phát thẻ Đảng, vẫn còn một số không ít đảng viên chưa được nhận thẻ. Có những
người rõ ràng không xứng đáng là đảng viên, nhưng các đảng bộ chưa kiên quyết
đưa ra khỏi Đảng.
Để giữ cho đội ngũ của Đảng trong sạch, sau Đại hội này, phải kiên
quyết đưa ra càng sớm càng tốt khỏi hàng ngũ của Đảng tất cả những kẻ cơ
hội, những người tê liệt ý chí cách mạng, những kẻ bóc lột, buôn lậu, đầu cơ,
tham ô, hối lộ, ức hiếp quần chúng. Đối với những đảng viên trình độ giác
ngộ quá thấp, qua giáo dục của tổ chức đảng vẫn không tiến bộ, thì cũng đưa ra
khỏi Đảng. Việc này phải làm rất kiên quyết và khẩn trương, nhưng có sự chỉ đạo
chặt chẽ của Ban Bí thư và các cấp uỷ đảng, đề phòng những lệch lạc.
Các cấp uỷ đảng phải căn cứ vào những yêu cầu về phẩm chất và năng lực
đảng viên trong thời kỳ mới mà ra sức nâng cao chất lượng đảng viên. Mỗi
đảng viên, dù hằng ngày làm việc gì, là công nhân, viên chức nhà nước, xã viên
hợp tác xã hoặc chiến sĩ quân đội, công an... đều phải có phẩm chất và năng lực
của người chiến sĩ cộng sản.
Phẩm chất và năng lực của người đảng viên lúc này thể hiện trước hết ở
tinh thần cách mạng tiến công, tin tưởng vững chắc ở thắng lợi của cách mạng xã
hội chủ nghĩa và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, trước khó khăn không dao động, hằng
ngày hằng giờ phấn đấu làm được những việc thiết thực để góp phần vào việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển sản xuất, ổn định
và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân. Trên mặt trận bảo vệ Tổ quốc,
người đảng viên không những phải nêu cao tinh thần chiến đấu, dũng cảm ở tiền
tuyến, mà còn phải có tinh thần cảnh giác cao chống lại những hành động phá
hoại về chính trị, kinh tế và tư tưởng... Không được bàng quan, lẩn tránh hoặc
chỉ kể lể, kêu ca về những biểu hiện tiêu cực; trái lại phải tích cực tham gia
vào cuộc đấu tranh giữa hai con đường, chống những biểu hiện tiêu cực, những
khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa để bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân,
củng cố và tăng cường trận địa của chủ nghĩa xã hội, bảo vệ sự trong sạch của
Đảng. Mỗi đảng viên, bất kỳ ở cương vị công tác nào đều phải xem xét tác phong
công tác của mình, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, đi sâu vào phong trào quần
chúng, lắng nghe ý kiến và tiếp thu những kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng,
luôn luôn giữ vững ý thức tổ chức và kỷ luật, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất
trong Đảng, chống lại những quan điểm, tư tưởng sai lầm, bảo vệ chân lý, bảo vệ
Đảng; giữ vững được cuộc sống lành mạnh, lương thiện, không bị lối sống xa hoa,
đồi trụy cám dỗ.
Phẩm chất của người đảng viên hiện nay còn thể hiện ở tinh thần say sưa
học tập, khao khát trí thức, ra sức nâng cao trình độ hiểu biết về chủ nghĩa xã
hội, về đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nâng cao sự
thành thạo trong công việc đang làm. Tự mãn, không chịu học tập, bỏ phí thời
gian, không chịu thường xuyên nâng cao trình độ về mọi mặt, cũng là một biểu
hiện thoái hoá nghiêm trọng về phẩm chất đảng viên.
Công tác giáo dục, rèn luyện, kiểm tra đảng viên phải gắn với phong
trào cách mạng của quần chúng, với nhiệm vụ, quyền hạn được giao, với việc chấp
hành đường lối, chính sách của Đảng và tuân thủ pháp luật của Nhà nước, với
việc cải tiến tổ chức và quản lý của xí nghiệp, hợp tác xã, cơ quan đơn vị.
Việc tổ chức cho quần chúng giới thiệu người vào Đảng, góp ý kiến vào việc đưa
những người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi Đảng, phê bình đảng viên, kiểm tra hoạt
động của đảng viên, là bài học rất quý trong công tác xây dựng Đảng, cần được
tổng kết chu đáo áp dụng rộng rãi và có nền nếp trong tất cả các tổ chức đảng.
Việc nâng cao tính tích cực, tác dụng lãnh đạo của chi bộ, của đảng viên không
thể tách rời việc sửa đổi những chính sách, chế độ không hợp lý, những cách tổ
chức quản lý không phù hợp. Mặt khác, phải nâng cao chất lượng giáo dục chính
trị cho đảng viên, đổi mới cách thức sinh hoạt của chi bộ đảng, thực hiện
nghiêm túc tự phê bình và phê bình.
Trong 5 năm, Đảng đã có thêm trên 37
vạn đảng viên mới, 85,9% đảng viên mới là đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh. Đó là những nam nữ thanh niên ưu tú, được quần chúng góp ý kiến xây
dựng, nhận xét, kiểm tra và giới thiệu để Đảng kết nạp. Lớp đảng viên mới này
đã nhanh chóng phát huy tác dụng đem lại cho Đảng sức sống mới.
Nguồn dự trữ của Đảng ta rất dồi dào, phong phú. Hàng vạn, hàng chục
vạn thanh niên công nhân, nông dân tập thể, trí thức xã hội chủ nghĩa ưu tú
không ngừng xuất hiện trong phong trào cách mạng của quần chúng. Cần tiếp tục
mở rộng hàng ngũ của Đảng, kết nạp thêm nhiều đảng viên mới có chất lượng. Chú
ý những nơi lực lượng đảng viên còn quá ít, như các tỉnh thuộc Nam Bộ. Coi
trọng hơn nữa việc kết nạp đảng viên thuộc thành phần công nhân. Không nên vì
ngại khó mà hẹp hòi, đóng cửa. Nếu làm tốt công tác phát triển đảng, thu hút
vào Đảng những người ưu tú, giác ngộ lý tưởng của Đảng, đã được bồi dưỡng thử
thách, lại có kiến thức chính trị, văn hoá, khoa học và kỹ thuật, thì chất
lượng của tổ chức đảng được nâng cao. Không được giảm nhẹ yêu cầu về chất lượng
đảng viên. Hết sức ngăn ngừa những phần tử cơ hội chui vào Đảng.
Mấy năm qua, các cấp uỷ tỉnh, thành, huyện, quận đã chú trọng củng cố tổ chức cơ sở đảng, đi sát cơ sở, tăng
cường nhiều cán bộ cho cơ sở. Nhờ vậy, số cơ sở mạnh ngày càng tăng lên, số cơ
sở yếu kém giảm dần. Điều đáng mừng là xuất hiện ngày càng nhiều đảng bộ cơ sở
ở nông thôn, xí nghiệp lãnh đạo sản xuất chiến đấu và tổ chức đời sống nhân dân
rất tốt, tạo ra được những điển hình xuất sắc có tác dụng thúc đẩy phong trào
chung trong cả nước. Tuy vậy, vẫn còn không ít đảng bộ cơ sở không biết cải tiến
công tác lãnh đạo, không tạo ra được phong trào cách mạng của quần chúng, tiến
hành công việc một cách chậm chạp, thụ động. Có những cấp uỷ tỉnh, thành,
huyện, quận còn chỉ đạo cơ sở một cách gò ép, cứng nhắc, không coi trọng phát
huy vai trò làm chủ và tinh thần chủ động, sáng tạo của đảng bộ cơ sở. Ngược
lại, cũng có những tỉnh uỷ, huyện uỷ không thường xuyên kiểm tra chặt chẽ hoạt
động của cơ sở. Để nâng cao hiệu quả lãnh đạo của đảng bộ cơ sở, cần xác định
phương thức hoạt động của từng loại đảng bộ cơ sở; kiện toàn hệ thống chỉ đạo
tổ chức cơ sở đảng cho phù hợp với tình hình mới, tích cực bồi dưỡng, huấn
luyện các bí thư đảng uỷ cơ sở và bí thư chi bộ về phương pháp lãnh đạo.
Cần đặc biệt coi trọng củng cố chi bộ đảng. Chi
bộ phải làm tốt việc phân công, kiểm tra, rèn luyện từng đảng viên, tuyên
truyền, giáo dục từng người ngoài Đảng. Sửa đổi nội dung sinh hoạt chi bộ cho
đúng với vị trí và trách nhiệm lãnh đạo chính trị của Đảng, không được hạ thấp
sinh hoạt chi bộ đảng như sinh hoạt của tổ chức quần chúng, tổ chức sản xuất.
Từng chi bộ phải có biện pháp cụ thể giáo dục, rèn luyện về phẩm chất cho từng
đảng viên, bảo đảm không để cho một đảng viên nào có hành động tham ô, ức hiếp
quần chúng, làm trái đường lối, chính sách của Đảng, vi phạm pháp luật Nhà
nước.
Tăng cường các cấp uỷ đảng, hạt nhân lãnh
đạo của đảng bộ các cấp, là một nhiệm vụ rất quan trọng của công tác xây dựng
Đảng. Cấp uỷ đảng phải đề ra được các chủ trương đúng đắn, sắc bén, giải đáp
đúng các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Muốn vậy, cấp uỷ phải phấn đấu nâng cao
trình độ về mọi mặt, nhất là đi sâu vào các vấn đề kinh tế, văn hoá, tổ chức
đời sống nhân dân. Cấp uỷ đảng lại phải tổ chức thực hiện một cách thắng lợi
các chủ trương đã đề ra. Điều đó đòi hỏi cấp uỷ nâng cao năng lực tổ chức, biết
xây dựng và điều hành bộ máy, phát huy hiệu lực quản lý của cơ quan nhà nước,
làm tốt công tác vận động quần chúng. Cải tiến các hình thức và phương pháp
công tác cho phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của công tác lãnh đạo, khắc phục
cho được nếp suy nghĩ và tác phong thủ công nghiệp của người sản xuất nhỏ.
Cấp uỷ đảng phải có số lượng và thành
phần hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện trên mọi lĩnh vực hoạt động. Thành
phần cấp uỷ cần kết hợp những cán bộ già dặn về chính trị với những cán bộ
thông thạo về kinh tế, khoa học, kỹ thuật, có năng lực tổ chức và quản lý. Song
các cấp uỷ viên phải có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực lãnh đạo, phải
là những cán bộ tuyệt đối trung thành với cách mạng, với đường lối của Đảng, có
khả năng thật sự cùng tập thể cấp uỷ bàn bạc và quyết định các chủ trương và tổ
chức thực hiện tốt. Không được biến cấp uỷ thành một tổ chức có tính chất liên
hiệp. Một số đồng chí chủ chốt của cấp uỷ phải tập trung làm công tác đảng, bảo
đảm sự lãnh đạo và kiểm tra của Đảng, không làm công việc chính quyền.
Cấp uỷ đảng phải chăm lo xây dựng và ngày càng hoàn thiện bộ máy của
Đảng; lựa chọn và bố trí những cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực để tăng
cường các ban của cấp uỷ, sử dụng tốt và phát huy năng lực, sức mạnh của bộ
máy. Đổi mới phương pháp và chế độ làm việc, trước hết là cải tiến và
nâng cao chất lượng công tác thông tin của Đảng để các cơ quan lãnh đạo của
Đảng luôn luôn nắm được tình hình thực tế một cách kịp thời và chính xác, đổi
mới phương pháp chuẩn bị quyết định và ra quyết định, chấp hành nghiêm ngặt các
quy tắc, chế độ về tổ chức thực hiện quyết định. Các cấp uỷ đảng phải bồi
dưỡng, rèn luyện cho đội ngũ cán bộ nếp làm việc có kế hoạch, có phương pháp,
theo đúng chức trách, chế độ, luôn luôn tính toán hiệu quả.
Từ Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đến nay, trước những thử thách
mới của cuộc đấu tranh cách mạng, trước những âm mưu, thủ đoạn phá hoại, chia
rẽ..., toàn Đảng ta, từ Ban Chấp hành Trung ương đến các chi bộ đảng, các cán
bộ, đảng viên đã siết chặt đội ngũ, tăng cường đoàn kết, giữ vững sự thống
nhất về ý chí và hành động. Sự đoàn kết, thống nhất của Đảng đã thể hiện rõ
trong sự hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Những nghị quyết và chủ
trương đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương và của Bộ Chính trị chính là sản
phẩm của trí tuệ tập thể, của sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng.
Sự đoàn kết, thống nhất của Đảng ta dựa trên cơ sở vững chắc là chủ
nghĩa Mác - Lênin, là đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, và nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng. Vì vậy, để giữ vững và tăng
cường sự đoàn kết, thống nhất của Đảng, ở tất cả các cấp, các ngành, phải luôn
luôn thấu suốt sâu sắc đường lối, chính sách của Đảng, đánh giá tình hình thực
tế một cách đầy đủ và chính xác, phân tích rõ các ưu điểm và khuyết điểm trong
công tác lãnh đạo của Đảng, phát huy dân chủ và đề cao kỷ luật, thực hành tự
phê bình và phê bình nghiêm túc trong các cấp uỷ và chi bộ đảng, đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân, chống thái độ bàng quan, vô trách nhiệm.
Toàn Đảng ta, mỗi đảng bộ, mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta
quyết làm hết sức mình để giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất
của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện đúng lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân
dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ phải giữ gìn sự đoàn kết nhất
trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Chúng ta quyết nâng cao
hơn nữa tinh thần cảnh giác, đập tan mọi âm mưu và thủ đoạn phá hoại của kẻ
thù, tạo ra sự nhất trí ngày càng cao trong Đảng, động viên sức mạnh của toàn
Đảng và toàn dân ta trong cuộc chiến đấu mới để hoàn thành thắng lợi những
nhiệm vụ lịch sử mà Đại hội này đề ra.
*
* *
* *
Thưa các đồng chí đại biểu thân mến,
Đại hội lần thứ V là cột mốc mới trên con đường đấu tranh lâu dài, gian
khổ, đầy chiến công của Đảng ta vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ mới đặt ra trước Đảng ta và nhân dân ta những nhiệm vụ hết sức
to lớn, phức tạp và nặng nề. Chúng ta có đầy đủ niềm tin và sức mạnh để thực
hiện thắng lợi những nhiệm vụ đó.
Chúng ta đã vượt qua sự ngỡ ngàng khó tránh khỏi khi chuyển vào giai
đoạn mới. Chúng ta đã cụ thể hoá và làm phong phú đường lối cách mạng do Đại
hội lần thứ IV của Đảng đề ra. Chúng ta đã hiểu sâu hơn đất nước ta và nhân dân
ta. Chúng ta đã nhận biết kẻ thù và thấy rõ các trở lực trên con đường đi tới.
Chúng ta đánh giá chính xác hơn, cụ thể hơn những khả năng và thế mạnh cũng như
những khó khăn và chỗ yếu của mình. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trong 5 năm qua, đối với chúng
ta rất bổ ích. Tất cả những điều đó, mà 5 năm trước đây chưa thể có, là trang
bị cách mạng vô cùng quý báu của chúng ta khi bước vào chặng đường đấu tranh mới.
Hiện nay, lực lượng vật chất và tinh thần của nhân dân
ta không ngừng được tăng thêm; triển vọng cách mạng sáng sủa và tốt đẹp. Nhưng
khó khăn còn nhiều. Những yêu cầu về đời sống nhân dân, về bảo vệ đất nước, về
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật để tiến lên, đều đặc biệt cấp bách và to
lớn.
Song, Đảng ta đã dày dạn trong chiến đấu khắc phục khó khăn và chưa bao
giờ lùi bước trước khó khăn. Đảng ta có tất cả sức mạnh cần thiết để chiến
thắng mọi khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.
Đó là sức mạnh của khối đoàn kết, nhất trí có truyền thống trong toàn
Đảng, là sức mạnh của khối thống nhất không gì lay chuyển nổi giữa Đảng với
nhân dân. Những nghị quyết của Đại hội này nhất định sẽ củng cố thêm một bước
sự đoàn kết của Đảng, tăng cường hơn nữa sự gắn bó máu thịt giữa nhân dân với
Đảng.
Đó là sức mạnh của tình đoàn kết quốc tế trước sau như một gắn bó Đảng
ta và nhân dân ta với Đảng Cộng sản Liên Xô và nhân dân Liên Xô anh em, đội
tiên phong cách mạng của thời đại; với Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và nhân dân
Lào anh em; với Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia và nhân dân Campuchia anh em;
với các Đảng Cộng sản và Công nhân cùng nhân dân các nước anh em khác trong
cộng đồng xã hội chủ nghĩa; với hết thảy các Đảng Cộng sản và Công nhân; với cả
ba dòng thác cách mạng trên thế giới.
Có một đảng như thế, một nhân dân như thế, một quan hệ quốc tế như thế
thì nhiệm vụ nào chúng ta cũng hoàn thành, khó khăn nào chúng ta cũng vượt qua,
kẻ thù nào chúng ta cũng đánh thắng.
Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong một nước mà sản xuất nhỏ còn
là phổ biến, làm thất bại mọi âm mưu và hành động... của bọn phản động... câu
kết với đế quốc Mỹ, bảo vệ độc lập dân tộc và hoà bình ở Đông Dương và Đông Nam
á, là sứ mệnh rất nặng nề, nhưng rất vẻ vang mà lịch sử giao phó cho nhân dân
ta và Đảng ta. Chúng ta quyết đạp bằng mọi khó khăn, phấn khởi và tự hào vươn
lên, làm tròn nghĩa vụ đối với dân tộc ta và đối với sự nghiệp cách mạng của
nhân dân thế giới.
- Dưới lá cờ bách chiến, bách thắng của Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân hăng hái tiến lên!
- Nhân dân Việt Nam anh hùng muôn năm!
- Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!
- Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!
- Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân!
- Sự nghiệp cao cả của chúng ta nhất định thắng lợi!
10. Diễn văn bế mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của
Đảng do đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương trình bày, ngày
31 tháng 3 năm 1982
Ngày 5/9/2006. Cập nhật lúc
14h 10'
Thưa Đoàn Chủ tịch,
Thưa các đồng chí đại biểu thân mến,
Thưa các vị khách quý,
Đại hội lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam là đỉnh cao của một quá trình làm việc nghiêm túc, diễn ra suốt thời gian chuẩn bị hơn một năm, tập hợp trí tuệ tập thể của toàn Đảng, nhằm vạch ra phương hướng giải quyết những vấn đề to lớn và cấp bách đang đặt ra trên bước đường phát triển đi lên của cách mạng nước ta.
Đến giờ phút này, chúng ta vui mừng báo cáo với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trọng đại của mình.
Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua các báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương, đề ra những nhiệm vụ có tính chất chiến lược trong cuộc đấu tranh để xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, vạch ra phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội trong 5 năm 1981-1985 và những năm 80, quyết định phương hướng xây dựng Đảng và các vấn đề bổ sung Điều lệ Đảng.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới để bảo đảm cho toàn Đảng chấp hành thắng lợi những nhiệm vụ trọng đại mà Đại hội đã quyết định.
Công việc của Đại hội là biểu hiện sinh động của sự đoàn kết, nhất trí của toàn Đảng ta. Và trong những ngày này, sinh hoạt của mọi miền đất nước phản ánh sự gắn bó máu thịt giữa nhân dân ta với Đảng lãnh đạo của mình. Cả nước ta sống cùng một nhịp với Đại hội Đảng. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hướng về Thủ đô Hà Nội, theo dõi công việc của Đại hội với tất cả niềm hy vọng và tin tưởng.
Từ Đại hội này, tiếng nói đầy tình cảm thắm thiết của anh em và bầu bạn quốc tế đã vang dội sâu xa trên khắp đất nước ta, mang đến cho những người cộng sản và nhân dân Việt Nam ta tình hữu nghị son sắt, tình đoàn kết chiến đấu và sự ủng hộ chân thành của Liên Xô vĩ đại, của hai nước láng giềng anh em Lào, Campuchia, của các nước anh em khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của nhân dân cách mạng toàn thế giới. Và cũng từ Đại hội này, các vị khách quý của chúng ta có dịp nhận thấy những biểu hiện của lòng biết ơn sâu sắc của Đảng và nhân dân ta đối với các Đảng và các nước anh em, đối với những người bạn chiến đấu ở khắp năm châu.
Chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh sự đóng góp to lớn của đồng bào và chiến sĩ cả nước vào công việc chuẩn bị Đại hội. Chúng ta cảm ơn các đoàn thể, các tổ chức tôn giáo, các nhân sĩ đã gửi thư chúc mừng. Chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh những thành tích mới của các cơ sở, các đơn vị, các ngành và các địa phương trong đợt thi đua chào mừng Đại hội.
Chúng ta chân thành cảm ơn các đại biểu quốc tế đã đến với chúng ta và góp phần vào thành công của Đại hội. Chúng ta chân thành cảm ơn các Đảng anh em, các tổ chức cách mạng ở nhiều nước đã gửi đến Đại hội những bức điện, bức thư chào mừng chứa chan tình cảm quốc tế vô sản.
Chúng ta cảm ơn tất cả các đồng chí cán bộ, chiến sĩ, nhân viên công tác của tất cả các ngành đã tham gia chuẩn bị cho Đại hội từ nhiều tháng nay và tận tuỵ phục vụ Đại hội trong những ngày vừa qua.
Thay mặt những đồng chí vừa được bầu vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng, tôi xin hứa cống hiến hết sức mình để làm tròn trọng trách do Đại hội uỷ thác.
"Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân"!
Khẩu hiệu hành động của giai đoạn cách mạng mới nhất định sẽ đoàn kết, động viên toàn thể đồng bào và chiến sĩ cả nước dấy lên phong trào thi đua sôi nổi, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi những nghị quyết quan trọng của Đại hội.
Trước mắt chúng ta là một chặng đường phấn đấu gay go, phức tạp. Song toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang được tiếp thêm sức sống mới do những nghị quyết lịch sử của Đại hội đem lại.
Chúng ta nhất định thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Không trở lực nào ngăn nổi bước tiến của chúng ta.
Với niềm tin sắt đá đó, tôi xin tuyên bố bế mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng.
Thưa các đồng chí đại biểu thân mến,
Thưa các vị khách quý,
Đại hội lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam là đỉnh cao của một quá trình làm việc nghiêm túc, diễn ra suốt thời gian chuẩn bị hơn một năm, tập hợp trí tuệ tập thể của toàn Đảng, nhằm vạch ra phương hướng giải quyết những vấn đề to lớn và cấp bách đang đặt ra trên bước đường phát triển đi lên của cách mạng nước ta.
Đến giờ phút này, chúng ta vui mừng báo cáo với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trọng đại của mình.
Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua các báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương, đề ra những nhiệm vụ có tính chất chiến lược trong cuộc đấu tranh để xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, vạch ra phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội trong 5 năm 1981-1985 và những năm 80, quyết định phương hướng xây dựng Đảng và các vấn đề bổ sung Điều lệ Đảng.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới để bảo đảm cho toàn Đảng chấp hành thắng lợi những nhiệm vụ trọng đại mà Đại hội đã quyết định.
Công việc của Đại hội là biểu hiện sinh động của sự đoàn kết, nhất trí của toàn Đảng ta. Và trong những ngày này, sinh hoạt của mọi miền đất nước phản ánh sự gắn bó máu thịt giữa nhân dân ta với Đảng lãnh đạo của mình. Cả nước ta sống cùng một nhịp với Đại hội Đảng. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hướng về Thủ đô Hà Nội, theo dõi công việc của Đại hội với tất cả niềm hy vọng và tin tưởng.
Từ Đại hội này, tiếng nói đầy tình cảm thắm thiết của anh em và bầu bạn quốc tế đã vang dội sâu xa trên khắp đất nước ta, mang đến cho những người cộng sản và nhân dân Việt Nam ta tình hữu nghị son sắt, tình đoàn kết chiến đấu và sự ủng hộ chân thành của Liên Xô vĩ đại, của hai nước láng giềng anh em Lào, Campuchia, của các nước anh em khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của nhân dân cách mạng toàn thế giới. Và cũng từ Đại hội này, các vị khách quý của chúng ta có dịp nhận thấy những biểu hiện của lòng biết ơn sâu sắc của Đảng và nhân dân ta đối với các Đảng và các nước anh em, đối với những người bạn chiến đấu ở khắp năm châu.
Chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh sự đóng góp to lớn của đồng bào và chiến sĩ cả nước vào công việc chuẩn bị Đại hội. Chúng ta cảm ơn các đoàn thể, các tổ chức tôn giáo, các nhân sĩ đã gửi thư chúc mừng. Chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh những thành tích mới của các cơ sở, các đơn vị, các ngành và các địa phương trong đợt thi đua chào mừng Đại hội.
Chúng ta chân thành cảm ơn các đại biểu quốc tế đã đến với chúng ta và góp phần vào thành công của Đại hội. Chúng ta chân thành cảm ơn các Đảng anh em, các tổ chức cách mạng ở nhiều nước đã gửi đến Đại hội những bức điện, bức thư chào mừng chứa chan tình cảm quốc tế vô sản.
Chúng ta cảm ơn tất cả các đồng chí cán bộ, chiến sĩ, nhân viên công tác của tất cả các ngành đã tham gia chuẩn bị cho Đại hội từ nhiều tháng nay và tận tuỵ phục vụ Đại hội trong những ngày vừa qua.
Thay mặt những đồng chí vừa được bầu vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng, tôi xin hứa cống hiến hết sức mình để làm tròn trọng trách do Đại hội uỷ thác.
"Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân"!
Khẩu hiệu hành động của giai đoạn cách mạng mới nhất định sẽ đoàn kết, động viên toàn thể đồng bào và chiến sĩ cả nước dấy lên phong trào thi đua sôi nổi, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi những nghị quyết quan trọng của Đại hội.
Trước mắt chúng ta là một chặng đường phấn đấu gay go, phức tạp. Song toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang được tiếp thêm sức sống mới do những nghị quyết lịch sử của Đại hội đem lại.
Chúng ta nhất định thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Không trở lực nào ngăn nổi bước tiến của chúng ta.
Với niềm tin sắt đá đó, tôi xin tuyên bố bế mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét