Thứ Hai, 18 tháng 6, 2012

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ năm (1982), phần 1


1. Diễn văn khai mạc đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng do đồng chí Trường Chinh, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước trình bày Ngày 27 tháng 3 năm 1982


Thưa Đoàn Chủ tịch,

Thưa các đồng chí đại biểu thân mến,


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh chúng ta tiến hành trong không khí phấn khởi và đoàn kết của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang anh dũng tiến bước trên con đường đấu tranh cách mạng rất vẻ vang nhưng cũng đầy khó khăn, gian khổ, vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong giờ phút trang nghiêm này, với niềm tiếc thương vô hạn, Đại hội chúng ta tưởng nhớ tới Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đại hội tưởng nhớ tới các đồng chí Tôn Đức Thắng, Nguyễn Lương Bằng và các đồng chí Uỷ viên Trung ương khác đã qua đời trong thời gian từ Đại hội lần thứ IV của Đảng đến nay; tưởng nhớ tới những đảng viên của Đảng, những đồng bào và chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng đã dũng cảm hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.

Tôi đề nghị các đồng chí đứng lặng một phút để tưởng niệm các liệt sĩ.

Thưa các đồng chí đại biểu thân mến,

Sứ mệnh của Đảng ta là lãnh đạo nhân dân cả nước xây dựng thành công một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho nước nhà mãi mãi độc lập, tự do. Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân, đó là mục đích đấu tranh cách mạng và khẩu hiệu hành động hằng ngày của toàn Đảng.

Trong khoảng thời gian từ sau Đại hội lần thứ IV của Đảng đến nay, ở nước ta đã diễn ra nhiều sự kiện rất quan trọng. Nhân dân ta đã phấn đấu vượt qua những khó khăn chồng chất, đã thu được những thắng lợi to lớn và đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực, đưa cách mạng Việt Nam phát triển lên một thế chiến lược mới, tạo ra khả năng to lớn hơn để xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng bên cạnh thắng lợi và thành tựu, chúng ta đã và đang gặp rất nhiều khó khăn của một nước bị tàn phá trong những cuộc chiến tranh ác liệt và lâu dài do đế quốc gây ra và ngày nay đang đứng trước những âm mưu và hành động phá hoại và xâm lược của kẻ thù mới... Công tác lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội của Đảng và Nhà nước ta, một mặt có những ưu điểm và tiến bộ, mặt khác cũng có nhiều nhược điểm và khuyết điểm.

Tình hình trước mắt đang đặt ra trước Đảng và nhân dân ta những nhiệm vụ nặng nề.

Đại hội lần thứ V này của Đảng ta sẽ kiểm điểm việc chấp hành đường lối mà Đại hội lần thứ IV đã vạch ra, đánh giá đúng những thành tựu và khuyết điểm, thấy rõ thực trạng kinh tế - xã hội hiện nay, phân tích nguyên nhân của những thắng lợi và khó khăn, vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội của thời gian 1981-1985 và những năm 80, những chủ trương và biện pháp lớn nhằm phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, giải quyết đúng đắn những vấn đề quan trọng và cấp bách về xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, những vấn đề nóng hổi về sản xuất và đời sống của nhân dân, về tăng cường công tác xây dựng Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta tiếp tục tiến lên một cách vững chắc, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới. Đại hội sẽ quyết định một số điểm sửa đổi và bổ sung Điều lệ Đảng và bầu Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng.

Với những quyết định có ý nghĩa trọng đại đối với việc thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng và những nhiệm vụ cách mạng to lớn và phức tạp trong tình hình hiện nay của đất nước và trong bối cảnh quốc tế, Đại hội toàn quốc lần thứ V sẽ đánh dấu một chuyển biến mạnh mẽ của Đảng ta về năng lực lãnh đạo và tổ chức thực hiện, về chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, về mối liên hệ chặt chẽ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân ta.

Chính vì vậy mà đồng bào ta trong cả nước và kiều bào ở nước ngoài, với lòng yêu mến và tin tưởng sâu sắc vào Đảng lãnh đạo của mình, chăm chú theo dõi công việc của Đại hội Đảng, và từ nhiều tháng nay, ở khắp các miền của đất nước và trong mọi ngành hoạt động đã dấy lên một phong trào thi đua sôi nổi lập thành tích chào mừng Đại hội lần thứ V của Đảng.

Đại hội chúng ta nhiệt liệt biểu dương toàn thể đồng bào, các lực lượng vũ trang nhân dân và các cán bộ, đảng viên của Đảng đang nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phấn đấu không mệt mỏi vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc thân yêu, đang đạt được những kết quả đáng phấn khởi trong phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa.

Thay mặt Đoàn Chủ tịch của Đại hội, tôi nhiệt liệt chào mừng 1.033 đồng chí đại biểu về dự Đại hội, những đại biểu ưu tú của hơn một triệu bảy mươi vạn đảng viên của Đảng. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng, với tinh thần cách mạng và ý thức trách nhiệm đầy đủ trước Đảng và trước nhân dân, các đồng chí đại biểu sẽ làm việc hết sức mình, đem trí tuệ của toàn Đảng đóng góp một cách tích cực và có hiệu quả vào thành công tốt đẹp của Đại hội, đáp ứng lòng mong mỏi của toàn Đảng, toàn dân.

Các Đảng anh em trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cũng như bầu bạn của ta trên thế giới, luôn luôn hết lòng ủng hộ, giúp đỡ và tỏ cảm tình nhiệt liệt đối với cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, đối với sự lãnh đạo của Đảng ta trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược của nước ngoài trước đây, cũng như hiện nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tôi trân trọng đề nghị Đại hội nhiệt liệt chào mừng các đồng chí đại biểu các Đảng Cộng sản và Công nhân anh em, các tổ chức và phong trào cách mạng từ nhiều nước trên thế giới, đến dự Đại hội lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam, mang đến cho Đảng và nhân dân Việt Nam tình đoàn kết chiến đấu và sự cổ vũ quý báu.

Đại hội chúng ta:

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô do đồng chí M.X.Gorơbatrốp, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Nhân dân cách mạng Lào do đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia do đồng chí Hêng Xomrin, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Pháp do đồng chí Pôn Lôrăng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan do đồng chí Mirôxláp Milépxki, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Bungari do đồng chí Minkô Balép, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Cuba do đồng chí Hêxút Môntanê Orôpêxa, Uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức do đồng chí Cônrát Nauman, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư thứ nhất Thành uỷ Béclin dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Hunggari do đồng chí Marôti Laxlô, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư thứ nhất Thành uỷ Buđapét dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Nhân dân cách mạng Mông Cổ do đồng chí Thumêbaiarin Ráctra, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà nhân dân Mông Cổ dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Rumami do đồng chí Iôn Côman, Uỷ viên thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Tiệp Khắc do đồng chí Milôxơ Yakétxơ, Uỷ viên Đoàn Chủ tịch, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Lao động Triều Tiên do đồng chí Kim In Te, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Lao động Anbani do đồng chí Gaphua Chuchi, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Dân chủ nhân dân ápganixtan do đồng chí Môhamát Axlam Oatangia, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Uỷ viên Hội đồng cách mạng, Bộ trưởng Bộ Thông tin liên lạc dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Mặt trận dân tộc giải phóng Angiêri do đồng chí Đơdênlun Bắcti Nêmisơ, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Cựu chiến binh dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Lao động MPLA Ănggôla do đồng chí Ambơrôxiô Lukôki, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản ấn Độ do đồng chí Pơrem Xaga Gúpta, Uỷ viên Hội đồng toàn quốc của Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản ấn Độ mácxít do đồng chí Háckisan Sinh Sơgít, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Bănglađét do đồng chí Môhamát Phahát, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Chilê do đồng chí Hoochê Inxunxa, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Lao động Cônggô do đồng chí Pie Nơde, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đức do đồng chí Các Hanh Sơruêdơ, Uỷ viên Đoàn Chủ tịch, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Uỷ ban Tổ chức Đảng Nhân dân lao động Êtiôpia do đồng chí Caxayê Aragô, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đại diện Uỷ ban Tổ chức Đảng Nhân dân lao động Êtiôpia vùng Gôgia dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Phong trào cố gắng chung vì phúc lợi giáo dục và giải phóng mới Gơrênađa do đồng chí étuốt Layne, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Xã hội phục hưng Arập Irắc do đồng chí ápdula Phađin ápbát, Uỷ viên Hội đồng chỉ huy cách mạng, Uỷ viên Ban lãnh đạo Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Irắc do đồng chí Rahim M.Agina, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Italia do đồng chí Luxianô Barơca, Uỷ viên Ban lãnh đạo Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng tiên phong cách mạng Mađagátxca do đồng chí Rađaođi Rakôtôngđơravao Lôrăng, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Đại hội độc lập Mađagátxca do đồng chí Rakôtômalala Manang Inhaxơ, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Mặt trận giải phóng Môdămbích (FRELIMO) do đồng chí Marianô Mátxinhê, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Mỹ do đồng chí Giêm Oétxtơ, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Nam Phi do đồng chí Moixơ Mabida, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Đại hội dân tộc Phi (ANC) Nam Phi do đồng chí Xtanlây Mabidêla, Uỷ viên Hội đồng Cách mạng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Mặt trận Giải phóng dân tộc Xanđinô Nicaragoa do đồng chí Haxintô Xoa, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Mặt trận dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Xã hội chủ nghĩa Ôxtrâylia do đồng chí Alơn Milơ, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Ôxtrâylia do đồng chí Bơni Táp, đồng Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Tổ chức giải phóng Palextin (PLO) do đồng chí Xami Abu Côuếch, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương phong trào giải phóng Phata dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Phần Lan do đồng chí Arơvô Aantô, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Mặt trận giải phóng dân tộc Pharabunđô Mácti En Xanvađo do đồng chí Xanvađo Cadêtanô Cácpiô, tức Tư lệnh Mácxian, Uỷ viên Bộ Tổng chỉ huy Mặt trận giải phóng dân tộc Pharabunđô Mácti, người phụ trách thứ nhất lực lượng nhân dân giải phóng Pharabunđô Mácti En Xanvađo dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Xã hội phục hưng Arập Xyri do đồng chí Môhamét Duhêrơ Masácca, Phó tổng Bí thư Ban lãnh đạo Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Xyri do đồng chí Đanien Naamê, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Xri Lanca do đồng chí Sinva, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản cánh tả Thuỵ Điển do đồng chí Kennét Cơvixtơ, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản công nhân Thuỵ Điển do đồng chí Giôn Tácman, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Đảng Xã hội chủ nghĩa Yêmen do đồng chí Ali Sayê Hađi, Uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kiểm tra Trung ương dẫn đầu.

Nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu Tạp chí "Những vấn đề hoà bình và chủ nghĩa xã hội" do đồng chí Lípkôvích Carôly, Uỷ viên Ban biên tập dẫn đầu.

Thưa các đồng chí thân mến,

Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng cách mạng kiên cường, trung thành vô hạn với chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, với vận mệnh của dân tộc và lợi ích của nhân dân. Với sức mạnh của truyền thống đoàn kết, nhất trí trong toàn Đảng, sự dày dạn trong đấu tranh cách mạng, sự gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, sức mạnh của tình đoàn kết quốc tế giữa nhân dân ta và nhân dân thế giới, nhất định Đảng ta sẽ làm tròn nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang của mình, luôn luôn "xứng đáng là người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân", là người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Với niềm phấn khởi và tin tưởng sâu sắc vào thành công rực rỡ của Đại hội, thay mặt Đoàn Chủ tịch, tôi xin tuyên bố khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh. 

2. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V do đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng trình bày Ngày 27 tháng 3 năm 1982
Thưa các đồng chí đại biểu thân mến,
Thưa các vị khách quý mến,
Từ Đại hội lần thứ IV đến Đại hội lần thứ V của Đảng là những năm đầu cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, với sự ra đời của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam độc lập và thống nhất. Đó là những năm khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, cải tạo và phát triển văn hoá dưới ánh sáng của đường lối Đại hội lần thứ IV của Đảng; là thời kỳ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và đấu tranh chống kẻ thù mới... Đó là thời kỳ nền độc lập dân tộc và vị trí của chủ nghĩa xã hội ở nước ta được củng cố thêm một bước vững chắc, trong sự gắn bó chặt chẽ hơn bao giờ hết với hai nước anh em trên bán đảo Đông Dương, với Liên Xô và cộng đồng xã hội chủ nghĩa thế giới.
Đó là những năm sôi động và phức tạp trong quá trình phát triển không ngừng đi lên của cách mạng Việt Nam, là thời kỳ nhân dân ta giành được những thắng lợi rất to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và những thành tựu bước đầu trong công cuộc xây dựng lại đất nước theo Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Hiện nay, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta trước lịch sử hết sức nặng nề. Cuộc chiến đấu của chúng ta còn rất gay go, phức tạp; kẻ thù đang tăng cường chính sách thù địch đối với nhân dân ta; tình hình kinh tế, xã hội trước mắt có những mặt khó khăn nghiêm trọng.
Đại hội lần thứ V của Đảng tiến hành kiểm điểm việc chấp hành đường lối của Đại hội lần thứ IV, đánh giá đúng thành tựu, khuyết điểm và thực trạng kinh tế - xã hội hiện nay, phân tích rõ nguyên nhân của thắng lợi và khó khăn, vạch ra những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong tình hình mới, quyết định những chủ trương và biện pháp nhằm phát huy các thế mạnh của đất nước, đưa nền kinh tế vượt qua khó khăn và tiến lên, nhằm củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Sau đây, xin trình bày trước Đại hội báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương.
Phần I
Tình hình và nhiệm vụ chung
Sau thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ mùa Xuân năm 1975, với niềm tự hào chính đáng và nguồn sinh lực mới, nhân dân cả nước ta chung một ý chí, phấn khởi vươn lên xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thành công rực rỡ của Đảng ta và nhân dân ta là đã nhanh chóng thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, thiết lập hệ thống chuyên chính vô sản trong cả nước và thực hiện nhiều chính sách thúc đẩy quá trình thống nhất về mọi mặt, tạo nên cuộc sống hoà hợp dân tộc, chan hoà từ Bắc đến Nam. Lần đầu tiên Tổ quốc ta được thống nhất thật sự, trên cơ sở bền vững của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bao nhiêu thủ đoạn tinh vi và sâu độc của chủ nghĩa đế quốc trong hàng chục năm, hòng phá sự thống nhất của dân tộc ta, làm biến chất con người Việt Nam ta, đã thất bại. Đế quốc Mỹ mơ tưởng sẽ có nội loạn ở nước ta sau khi chúng rút đi. Nhưng điều đó đã không xảy ra. An ninh chính trị được giữ vững. Quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động bước đầu được thực hiện. Tuyệt đại đa số những người trước kia làm việc cho đối phương đã trở thành những thành viên bình đẳng trong cộng đồng dân tộc. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sức mạnh to lớn của đất nước thống nhất đang được phát huy trong công cuộc hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội và thể hiện nổi bật qua hai cuộc chiến tranh giữ nước.
Chúng ta đã kịp thời giải quyết những vấn đề cấp bách về kinh tế, nhanh chóng bắt tay xây dựng lại những vùng nông thôn rộng lớn ở miền Nam và những cơ sở kinh tế và văn hoá ở miền Bắc bị chiến tranh tàn phá. Hàng triệu người được giúp đỡ về quê cũ đoàn tụ với gia đình và tham gia xây dựng đất nước. Hàng chục vạn người thất nghiệp ở vùng mới giải phóng được thu xếp việc làm. Hàng vạn nạn nhân của lối sống và văn hoá đồi trụy dưới chế độ cũ được phục hồi nhân phẩm. Sản xuất và đời sống nhân dân dần dần trở lại bình thường.
Sau ba mươi năm chiến tranh, nhân dân ta không có nguyện vọng nào tha thiết hơn là được sống trong hoà bình, độc lập, tự do để xây dựng lại đất nước và cuộc sống của mình. Song, công cuộc xây dựng tiến hành chưa được bao lâu thì dân tộc ta lại phải đương đầu với những thử thách mới cực kỳ nghiêm trọng do chính sách thù địch của bọn phản động... gây ra.
.....
Nêu cao truyền thống bất khuất và khí phách kiên cường của dân tộc, phát huy sức mạnh vĩ đại của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, các lực lượng vũ trang anh hùng của chúng ta cùng đồng bào các tỉnh biên giới... được sự chi viện hết lòng của cả nước, đã chiến đấu anh dũng, bẻ gãy các mũi tiến quân của bọn xâm lược,...
Thắng lợi của hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn. Nhân dân ta đã... bảo vệ độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm tròn nghĩa vụ quốc tế với nhân dân Campuchia và nhân dân Lào anh em, tích cực bảo vệ độc lập dân tộc và hoà bình ở Đông Dương và Đông Nam á. Bằng cuộc chiến đấu và chiến thắng của mình, nhân dân ta đã góp phần tăng cường ba dòng thác cách mạng của thời đại, tăng cường cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế quốc và phản động quốc tế, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội...
Cùng với thắng lợi vẻ vang trong chiến tranh giữ nước, và gắn liền với thắng lợi đó, chúng ta đã tăng cường liên minh chiến đấu và hình thành thế liên hoàn vững chắc chưa từng có của cách mạng ba nước Đông Dương, tăng cường đoàn kết chiến đấu và hợp tác toàn diện với Liên Xô, gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế, mở rộng hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác. Những thành tựu có ý nghĩa chiến lược đó là một bảo đảm cực kỳ quan trọng cho nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trên mặt trận kinh tế, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Chúng ta đã ra sức phấn đấu khắc phục những hậu quả nặng nề do chiến tranh xâm lược và thiên tai liên tiếp gây ra. Những cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải bị giặc đánh phá đến nay về cơ bản đã được khôi phục; sản xuất trên một số mặt có phát triển. Lao động xã hội bước đầu được phân bố lại. Nhờ những cố gắng liên tục trên mặt trận sản xuất lương thực, thực phẩm, những vùng bị thiên tai nặng nề đã vượt qua được nạn đói. Mức sống của các tầng lớp lao động tuy còn thấp, song đời sống ở nhiều vùng nông thôn đã có những mặt được cải thiện.
Quan hệ sản xuất mới ở miền Bắc tiếp tục được củng cố một bước. ở miền Nam, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đạt được kết quả bước đầu. Giai cấp tư sản mại bản đã bị xoá bỏ; một bộ phận công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa đã được cải tạo. Tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp nhỏ đang được sắp xếp và tổ chức lại. Một bộ phận nông dân các tỉnh Nam Bộ đã được tổ chức vào các tập đoàn sản xuất; các tỉnh Nam Trung Bộ đã cơ bản hoàn thành đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể.
Năng lực sản xuất của các ngành kinh tế được tăng cường một bước. Với việc phục hoá, khai hoang và tăng vụ, diện tích gieo trồng tăng thêm gần hai triệu hécta. Chúng ta đã cung ứng thêm cho nông nghiệp 18 nghìn máy kéo các loại, đưa tỷ lệ cơ giới hoá làm đất lên 25% diện tích gieo trồng. Sản xuất nông nghiệp có phát triển rõ nhất là từ năm 1979 đến nay. Diện tích trồng rừng đạt 580 nghìn hécta.
Năng lực sản xuất trong công nghiệp được bổ sung thêm 100 nghìn kilôoát điện, 2 triệu tấn than, 500 nghìn tấn ximăng. Nhiều công trình đang xây dựng sẽ đưa vào sản xuất trong thời kỳ 1981 - 1985, như các nhà máy ximăng, nhà máy điện, cơ khí động lực, cơ khí đóng và sửa chữa tàu thuyền, các nhà máy đường, nhà máy giấy, nhà máy kéo sợi, v.v.. Ngành giao thông vận tải đã khôi phục và xây dựng mới gần 1.700 kilômét đường sắt, 3.800 kilômét đường ôtô, 30.000 mét cầu, 4.000 mét bến cảng, bổ sung thêm nhiều phương tiện vận tải. Tài sản cố định của Nhà nước năm 1980 tăng 10,2 tỷ đồng so với năm 1976.
Chúng ta đạt được những thành tựu về kinh tế trong hoàn cảnh hết sức khó khăn; đồng thời trên lĩnh vực này, chúng ta cũng có nhiều khuyết điểm, sai lầm, cho nên kết quả còn thấp so với yêu cầu và chưa tương xứng với công của đã bỏ ra. Song, trong cục diện cách mạng của 5 năm qua, chúng ta khẳng định ý nghĩa quan trọng của những thành tựu ấy.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 26 của Bộ Chính trị và các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế đã bước đầu tạo ra khí thế mới, tiến bộ mới trong sản xuất. Trong cả nước, nông nghiệp đang có chiều hướng phát triển tốt. Trong công nghiệp quốc doanh, xuất hiện một số điển hình đạt hiệu quả kinh tế cao. Tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp phát triển khá. Công tác quản lý kinh tế bắt đầu chuyển hướng đúng, đang tạo những nhân tố tích cực mới, mở ra triển vọng khai thác tốt hơn các khả năng hiện có và tiềm năng để đưa nền kinh tế vượt qua khó khăn và phát triển tiến lên trong những năm tới.
Mặt trận văn hoá đã đạt được nhiều thành tựu. Sự nghiệp giáo dục tiếp tục phát triển. Nạn mù chữ trong vùng mới giải phóng về cơ bản đã được thanh toán. Nước ta hiện nay có gần 16 triệu người, tức là gần một phần ba số dân, đi học. Công cuộc xây dựng nền văn hoá mới được triển khai trong cả nước; các tỉnh miền Nam đã làm nhiều việc để loại trừ văn hoá phản động, lạc hậu, đồi trụy do chế độ cũ để lại. Sự nghiệp văn học, nghệ thuật đạt được một số tiến bộ. Công tác y tế, thể dục, thể thao có nhiều cố gắng vươn lên. Các ngành khoa học, kỹ thuật đã đáp ứng tốt một số yêu cầu của kinh tế và quốc phòng. Trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc cũng như trong lao động xây dựng cuộc sống mới, đã xuất hiện những tấm gương tập thể và cá nhân tiêu biểu cho phong cách và đạo đức của con người mới xã hội chủ nghĩa.
Toàn bộ những thành tựu cách mạng vĩ đại mà nhân dân ta đã giành được bằng bao nhiêu xương máu và mồ hôi qua nửa thế kỷ đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã được phản ánh tập trung trong Hiến pháp mới. Đó là Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp mới đã thể chế hoá đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tạo ra một chỗ dựa quan trọng, một vũ khí sắc bén để nhân dân ta tiếp tục đấu tranh xây dựng và bảo vệ chế độ mới.
Năm năm qua được ghi vào lịch sử dân tộc như một đoạn đường thắng lợi rất vẻ vang của cách mạng Việt Nam. Vượt khó khăn chồng chất, nhân dân ta đã đưa cách mạng Việt Nam phát triển lên một thế chiến lược mới vững chắc hơn so với trước đây, tạo ra khả năng to lớn hơn để bảo vệ Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Đạt được thắng lợi đó là nhờ có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng ta, Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, trung thành vô hạn với chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, với vận mệnh của dân tộc và sự nghiệp của nhân dân. Những thắng lợi đã giành được chứng tỏ đường lối do Đại hội lần thứ IV của Đảng vạch ra và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là đúng đắn. Trong tình thế cực kỳ nghiêm trọng của đất nước trước âm mưu và hành động xâm lược của kẻ thù mới, Đảng đã đề ra những chủ trương chiến lược kiên quyết và sáng suốt, những quyết định chính xác và kịp thời, đưa cách mạng nước ta vượt qua một bước ngoặt quan trọng và tiếp tục phát triển theo hướng đi đúng.
Thắng lợi trong đoạn đường vừa qua, một lần nữa làm ngời sáng phẩm chất tốt đẹp của dân tộc ta và của các lực lượng vũ trang nhân dân nước ta. Hàng nghìn năm nay, dân tộc ta không bao giờ chịu khuất phục trước bất kỳ thế lực bạo ngược nào. Từ Cách mạng Tháng Tám, mấy thế hệ nối tiếp nhau đánh giặc cứu nước, vừa yên ổn chưa bao lâu, nhân dân ta đã phải đối đầu với quân xâm lược mới. Nghe theo lời kêu gọi thiêng liêng của Đảng, toàn dân ta: già trẻ, gái trai, ngoài Bắc, trong Nam, miền xuôi, miền ngược, và toàn quân ta, lại siết chặt hàng ngũ, không quản gian khổ hy sinh, kiên quyết chiến đấu bảo vệ bờ cõi thiêng liêng của Tổ quốc và hết lòng giúp đỡ anh em láng giềng trong cơn nguy biến. ý chí kiên cường của nhân dân ta: công nhân, nông dân và lao động trí óc, của các lực lượng vũ trang nhân dân còn được tỏ rõ trong cuộc đấu tranh hằng ngày vượt qua những gay go, thử thách sau chiến tranh và trong buổi đầu đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vĩ đại thay nhân dân Việt Nam anh hùng!
Đại hội chúng ta nhiệt liệt biểu dương đồng bào các dân tộc trong nước, cùng toàn thể cán bộ, chiến sĩ quân đội nhân dân, công an nhân dân, dân quân tự vệ đã đoàn kết một lòng, chiến đấu anh dũng, lập công xuất sắc trong hai cuộc chiến tranh giữ nước, viết thêm một chương oanh liệt trong bản anh hùng ca vì độc lập, tự do của Tổ quốc; và đang ngày đêm bảo vệ biên cương, bảo vệ vùng đất, vùng trời, vùng biển và các hải đảo, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Đại hội chúng ta hoan nghênh các tầng lớp nhân dân lao động đã cố gắng liên tục, giành được những thành tựu trong khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, cải tạo và phát triển văn hoá, và hiện đang phấn đấu không mệt mỏi khắc phục khó khăn, đưa đất nước tiếp tục tiến bước trên con đường chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của chúng ta trong cuộc chiến đấu tự vệ và xây dựng đất nước hiện nay không tách rời sự hợp tác toàn diện và giúp đỡ tích cực của Liên Xô, tình đoàn kết đặc biệt của Lào và Campuchia, sự ủng hộ hết lòng của các nước xã hội chủ nghĩa khác, sự đồng tình và ủng hộ của các lực lượng cách mạng và hoà bình trên thế giới.
Từ diễn đàn này, Đại hội chúng ta bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất của toàn Đảng, toàn dân ta đối với Đảng Cộng sản và Nhà nước Liên Xô, đứng đầu là đồng chí L.I. Brêgiơnép kính mến, đối với nhân dân Liên Xô vĩ đại, người đồng chí, người anh em tin cậy đã và đang dành cho nhân dân ta sự giúp đỡ toàn diện, to lớn và có hiệu quả nhất.
Chúng ta gửi những tình cảm nồng nàn và lòng biết ơn sâu sắc đến nhân dân hai nước Lào và Campuchia, những người anh em đã sát cánh cùng chúng ta chiến đấu mấy chục năm nay chống kẻ thù chung và đang cùng chúng ta phất cao ngọn cờ độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội trên bán đảo thân yêu này.
Chúng ta tỏ lòng biết ơn chân thành các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác đã dành cho sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta sự giúp đỡ to lớn và quý báu.
Chúng ta nhiệt liệt cảm ơn tất cả bầu bạn trên thế giới đã đứng bên cạnh nhân dân ta và ủng hộ chúng ta một cách khảng khái.
Thưa các đồng chí,
Năm năm qua, bên cạnh thắng lợi và thành tựu, có rất nhiều khó khăn; và hiện nay, trên mặt trận kinh tế, đất nước ta đang đứng trước nhiều vấn đề gay gắt. Kết quả thực hiện các kế hoạch kinh tế trong 5 năm (1976 - 1980) chưa thu hẹp được những mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân. Sản xuất phát triển chậm trong khi số dân tăng nhanh. Thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng xã hội, một phần tiêu dùng xã hội phải dựa vào vay và viện trợ, nền kinh tế chưa tạo được tích luỹ. Lương thực, vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu. Tình hình cung ứng năng lượng, vật tư, tình hình giao thông vận tải đang rất căng thẳng. Nhiều xí nghiệp sử dụng công suất ở mức thấp. Chênh lệch giữa thu và chi tài chính, giữa hàng và tiền, giữa xuất khẩu và nhập khẩu còn lớn. Thị trường và vật giá không ổn định. Số người lao động chưa được sử dụng còn đông. Đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn, nhất là đời sống công nhân, viên chức và nông dân những vùng bị thiên tai, địch họa. Trong đời sống kinh tế, văn hoá, trong nếp sống và an toàn xã hội, có những biểu hiện tiêu cực kéo dài; trên một số mặt, trận địa xã hội chủ nghĩa bị những nhân tố tư bản chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa xâm lấn.
Nguồn gốc sâu xa của những khó khăn về kinh tế và đời sống là: Nền kinh tế nước ta còn phổ biến là sản xuất nhỏ, lại phải gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề của chiến tranh lâu dài và chủ nghĩa thực dân; 5 năm qua, chúng ta phải tiến hành chiến tranh giữ nước ngót ba năm; vết thương cũ chưa hàn gắn xong đã tiếp thêm những tàn phá mới; thiên tai lớn lại dồn dập xảy ra; kẻ địch thường xuyên phá hoại về nhiều mặt. Cùng một lúc, nền kinh tế của chúng ta phải đáp ứng ba yêu cầu cơ bản rất cấp bách là bảo đảm nhu cầu bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm đời sống nhân dân và xây dựng từng bước cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Trong hoàn cảnh đó, khó khăn, mất cân đối là không thể tránh khỏi.
Song mặt khác, khó khăn còn do khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ trung ương đến cơ sở về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Trên những mặt nhất định, khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý là nguyên nhân chủ yếu gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về kinh tế và xã hội trong những năm qua. Nghị quyết của nhiều hội nghị Trung ương đã vạch ra những khuyết điểm, sai lầm ấy.
Đại hội lần thứ IV của Đảng ta, xuất phát từ những đặc điểm lớn của đất nước, đã đề ra đường lối chung và đường lối kinh tế đúng đắn, phản ánh những quy luật của thời kỳ quá độ từ sản xuất nhỏ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhưng trong 5 năm 1976 - 1980, việc nắm và hiểu tình hình thực tế, việc cụ thể hoá đường lối và chấp hành đường lối của Đảng có những khuyết điểm, sai lầm. Đồng thời, chúng ta có khuyết điểm, sai lầm rất lớn về tổ chức và chỉ đạo thực hiện, bao gồm cả công tác kế hoạch và điều hành quản lý.
Chúng ta thấy chưa hết những khó khăn, phức tạp của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn phổ biến; thấy chưa hết quy mô của những đảo lộn kinh tế và xã hội sau một cuộc chiến tranh lâu dài; thấy chưa hết khó khăn, phức tạp trong việc khắc phục những yếu kém của chúng ta về quản lý kinh tế và xã hội; lường chưa hết những diễn biến có mặt không thuận lợi trong tình hình thế giới. Do đó, chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô và quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, nhất là lúc ban đầu. Nóng vội còn một số biểu hiện khác như đưa quy mô hợp tác xã nông nghiệp lên quá lớn ở một số địa phương, như lập kế hoạch và triển khai xây dựng một số công trình khi còn rất thiếu tài liệu điều tra, nghiên cứu và chuẩn bị chưa chu đáo.
Mặt khác, chúng ta lại hết sức bảo thủ, trì trệ. Nhiều cơ quan Đảng và Nhà nước từ trung ương đến cơ sở không chấp hành nghiêm chỉnh, đến nơi đến chốn, đường lối của Đại hội IV và nhiều nghị quyết của Trung ương Đảng; không đánh giá đúng các thuận lợi và khả năng, đặc biệt là các khả năng sẵn có của đất nước về lao động, đất đai, rừng, biển, về các cơ sở vật chất - kỹ thuật và các ngành, nghề, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; không quyết tâm, không chịu suy nghĩ tìm biện pháp phát huy những thuận lợi và khả năng đó. Chúng ta đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao cấp, chậm thay đổi các chính sách, chế độ kìm hãm sản xuất. Trong hoạt động sản xuất và quản lý kinh tế, tư tưởng ỷ lại rất nặng.
Chủ quan nóng vội, bảo thủ, trì trệ đều là khuyết điểm, sai lầm về cụ thể hoá và chấp hành đường lối của Đảng, xét cho cùng là do chưa thật sự nắm chắc quy luật của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa được phản ánh trong đường lối của Đảng, chưa nắm đầy đủ thực tế và thiếu kiến thức kinh tế. Khuyết điểm, sai lầm về cụ thể hoá và chấp hành đường lối thể hiện trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý; trong việc không thật sự xây dựng kế hoạch ở cả các cấp trung ương, địa phương, cơ sở và không coi trọng xây dựng kế hoạch từ cơ sở, trong việc không gắn kế hoạch với hạch toán kinh tế, với kinh doanh xã hội chủ nghĩa, không coi trọng năng suất, chất lượng và hiệu quả. Khuyết điểm, sai lầm còn thể hiện trong việc không chú ý phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các yếu tố trong đường lối chung và đường lối kinh tế; nhất là chưa biết phát huy sức mạnh của chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động, của cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, chưa kết hợp tốt ba cuộc cách mạng, chưa phát động được sâu rộng phong trào cách mạng của quần chúng.
Về tổ chức thực hiện, khuyết điểm, sai lầm của chúng ta là quan liêu, xa thực tế, không nhạy bén với cuộc sống; là bảo thủ, trì trệ, thiếu trách nhiệm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Mặt trận tư tưởng, văn hoá còn bị xem nhẹ; việc giáo dục cho đảng viên và quần chúng về đấu tranh giữa hai con đường chưa được chú ý đầy đủ. Trong đấu tranh chống chiến tranh tâm lý, chống tư tưởng phản động, chống văn hoá đồi trụy, công tác tư tưởng, văn hoá thiếu sắc bén, kém tính chiến đấu.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa chậm được tăng cường; pháp luật, kỷ luật bị buông lỏng. Việc đấu tranh chống những hành vi phạm pháp và tệ nạn xã hội thiếu kiên quyết và triệt để.
Công tác xây dựng Đảng có những mặt trì trệ kéo dài, chưa đi kịp và chưa bám sát những nhiệm vụ mới, nhất là những nhiệm vụ về cải tạo và xây dựng kinh tế. Đặc biệt, công tác cán bộ rất chậm trễ và bảo thủ trên tất cả các khâu đào tạo, sắp xếp, sử dụng và đãi ngộ.
Những khuyết điểm, sai lầm trên đây chứng tỏ rằng, về một số vấn đề, chúng ta nắm chưa thật vững chuyên chính vô sản mà nội dung toàn diện đã được xác định trong Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng. Đó là những khuyết điểm sai lầm rất nghiêm trọng. Ban Chấp hành Trung ương xin nghiêm khắc tự phê bình trước Đại hội. Đề nghị sau Đại hội này sẽ tiến hành tự phê bình và phê bình sâu sắc trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước các cấp, đề ra những biện pháp có hiệu lực để sữa chữa những khuyết điểm, sai lầm ấy.
Thưa các đồng chí,
Năm năm qua là thời kỳ đặc biệt có ý nghĩa không chỉ xét trên tầm vóc các sự kiện lịch sử. Giá trị đặc biệt của 5 năm qua còn ở những kinh nghiệm rất bổ ích mà Đảng ta tích luỹ được. Toàn bộ những ưu điểm, khuyết điểm và nhược điểm trên đây cần được toàn Đảng suy nghĩ, phân tích rút ra những bài học cần thiết nhằm cải tiến, nâng cao hơn nữa trình độ lãnh đạo của Đảng và năng lực quản lý của Nhà nước, bảo đảm hoàn thành những nhiệm vụ nặng nề của cách mạng trong thời gian tới.
Qua hơn nửa thế kỷ hoạt động của mình, Đảng ta đã dành phần lớn thì giờ và công sức vào nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc. Sáu năm qua và từ nay về sau, sứ mệnh lịch sử của Đảng ta là lãnh đạo nhân dân cả nước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa đất nước từng bước tiến lên con đường tiến bộ, văn minh, đồng thời luôn luôn bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập vững bền cho dân tộc và cuộc sống ngày càng hạnh phúc cho nhân dân.
Song, sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của chúng ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động phức tạp. Các thế lực hiếu chiến của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, và bọn... đang câu kết với nhau, tập hợp lực lượng để phản kích phong trào cách mạng thế giới, chủ yếu là chống Liên Xô và cộng đồng xã hội chủ nghĩa. ở Đông Nam châu á, bọn phản động... và các thế lực đế quốc chĩa mũi nhọn chống Việt Nam và hai nước Lào, Campuchia.
Hiện nay, bọn phản động... được Mỹ phụ hoạ và tiếp sức, đang tiến hành một kiểu chiến tranh phá hoại đối với Việt Nam trên các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá bằng nhiều lực lượng khác nhau và nhiều thủ đoạn rất thâm độc... Bằng chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp, chúng ra sức phá hoại ta về chính trị, tư tưởng và tổ chức, âm mưu chia rẽ các dân tộc, chia rẽ nhân dân với Đảng, ngấm ngầm nhen nhóm các lực lượng phản động, tổ chức các hoạt động chống đối hòng gây bạo loạn và lật đổ. Chúng phá hoại kinh tế, phá hoại sản xuất, đồng lõa với đế quốc thi hành chính sách cấm vận, đồng thời gieo rắc nọc độc văn hoá phản động, đồi trụy. Chúng tìm mọi cách bôi nhọ hình ảnh của Việt Nam hòng cô lập nước ta trên trường quốc tế...
Như vậy, đất nước ta đang ở trong tình thế vừa có hoà bình vừa phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt... đồng thời, phải sẵn sàng đối phó với tình huống địch có thể gây chiến tranh xâm lược quy mô lớn.
Xuất phát từ tình hình nói trên, trong giai đoạn mới của cách mạng, toàn dân, toàn quân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải đoàn kết một lòng, ra sức phấn đấu làm hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội;
Hai là sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai nhiệm vụ chiến lược đó quan hệ mật thiết với nhau. Phải xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt những kết quả thiết thực làm cho đất nước ta mạnh lên về mọi mặt và trong mọi hoàn cảnh thì mới có đủ sức đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại, có tăng cường phòng thủ đất nước, làm thất bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch và bảo đảm cho đất nước luôn luôn được bảo vệ vững chắc thì mới có điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
"Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân!". Đó là khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, là sứ mệnh cao cả và thiêng liêng mà các thế hệ người Việt Nam chúng ta từ nay về sau phải gánh vác trước lịch sử dân tộc.
Trong khi thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược nói trên, chúng ta phải luôn luôn tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác toàn diện với Liên Xô, với Lào và Campuchia, với các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, luôn luôn ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân tất cả các nước chống chủ nghĩa đế quốc và phản động quốc tế, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đây là nghĩa vụ quốc tế của nhân dân ta, đồng thời là một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược quan hệ đến lợi ích sống còn của độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội ở nước ta và trên bán đảo Đông Dương, đến hoà bình và ổn định ở Đông Nam á và hoà bình trên thế giới.
Nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi phải thường xuyên cảnh giác đối với âm mưu và hành động chiến tranh của bọn phản động... và các thế lực đế quốc hiếu chiến, phải động viên những cố gắng cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kiên quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, đồng thời bảo đảm cho đất nước luôn luôn sẵn sàng, có đủ sức mạnh đánh thắng kẻ thù trong bất cứ tình huống nào.
Để đáp ứng yêu cầu đó, phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại dựa trên cơ sở không ngừng củng cố và tăng cường chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động về mọi mặt. Chăm lo đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tăng cường đoàn kết các dân tộc, đoàn kết quân dân. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, từng bước phát triển công nghiệp quốc phòng đi đôi với tăng cường tiềm lực kinh tế của đất nước. Đó là những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp của công cuộc bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân theo quan điểm chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân, có quân chủ lực và quân địa phương, có cơ cấu cân đối và đồng bộ giữa lực lượng thường trực và lực lượng dự bị, có số lượng cần thiết và chất lượng ngày càng cao, hết sức coi trọng xây dựng dân quân tự vệ mạnh, nhất là ở biên giới; các thứ quân hình thành lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ gắn bó với nhau, bảo đảm làm chủ vững chắc, tiến công mạnh mẽ. Không ngừng hoàn chỉnh thế phòng thủ đất nước, bảo đảm cho cả nước và từng địa phương luôn luôn được chuẩn bị sẵn sàng, có khả năng chủ động đối phó với mọi tình huống. Cần đặc biệt tăng cường chỉ đạo, ra sức xây dựng các tỉnh biên giới phía bắc và các tỉnh Tây Nguyên thành những tỉnh được bố phòng tốt, có chính trị vững, có kinh tế và văn hoá phát triển, có lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, có khả năng giải quyết tốt hậu cần tại chỗ.
Tiếp tục làm tốt cuộc vận động xây dựng quân đội ta thành quân đội nhân dân cách mạng có ý chí quyết thắng sắt đá, có kỷ luật chặt chẽ, có tác phong nghiêm túc, có trình độ chính quy, hiện đại ngày càng cao, trình độ sẵn sàng chiến đấu không ngừng hoàn thiện, luôn luôn làm tròn mọi nhiệm vụ mà Tổ quốc giao phó. Chăm lo hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của bộ đội, củng cố mối quan hệ ruột thịt giữa quân đội với nhân dân; phải làm tốt các chính sách đối với gia đình liệt sĩ, thương binh và quân nhân tại ngũ. Tổ chức quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế một cách thích hợp và có hiệu quả. Giáo dục sâu rộng cho nhân dân và thanh niên hiểu rõ luật nghĩa vụ quân sự, chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng tham gia lực lượng vũ trang, kinh qua trường học lớn của quân đội để rèn luyện mình thành con người mới xã hội chủ nghĩa.
 Bảo đảm an ninh chính trị trật tự, an toàn xã hội là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng để đánh thắng chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch. Kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng, kịp thời đập tan những mưu mô ngóc đầu dậy của các loại phản động, ngăn ngừa và trừng trị hoạt động phá hoại của địch trên mọi lĩnh vực, tăng cường pháp luật và kỷ luật, bảo vệ trật tự của xã hội và sự an toàn của nhân dân.
Để làm được nhiệm vụ đó, phải xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững mạnh về mọi mặt, thật sự là công cụ sắc bén của Nhà nước chuyên chính vô sản, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, có lực lượng chuyên trách chính quy, hiện đại, vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, có trình độ khoa học kỹ thuật khá, được trang bị chuyên môn cần thiết; có lực lượng nửa chuyên trách vững mạnh, có cơ sở quần chúng rộng khắp, bảo đảm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.
Phối hợp hoạt động của các ngành, các cơ quan, đoàn thể, các lực lượng, các thứ quân dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng để chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch; phối hợp tốt giữa các ngành công an, kiểm sát, tư pháp trong việc tăng cường pháp chế; phối hợp tốt giữa lực lượng công an nhân dân với quân đội nhân dân, dân quân tự vệ và lực lượng của quần chúng trong việc giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Đặc biệt ở các vùng biên giới, vùng dân tộc, phải kiên trì phát động quần chúng, làm cho đồng bào phân rõ địch, ta, kiên quyết và kịp thời đập tan những âm mưu, hành động của địch hòng chia rẽ các dân tộc, kích động bạo loạn, phá rối an ninh. Thi hành tốt chính sách đoàn kết và bình đẳng dân tộc, đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào các dân tộc.
Đại hội chúng ta đánh giá rất cao những cống hiến lớn lao của quân đội nhân dân, công an nhân dân và dân quân tự vệ đã chiến đấu hơn ba mươi năm qua dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng. Các lực lượng vũ trang nhân dân mãi mãi là công cụ tin cậy của Nhà nước chuyên chính vô sản trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ những thành quả cách mạng.
Trong khi không một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, chủ nghĩa xã hội không những là mục đích của toàn bộ sự nghiệp của chúng ta, mà còn vì chủ nghĩa xã hội, sự vững mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa là bảo đảm cho độc lập và tự do của Tổ quốc.
Đại hội chúng ta khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa do Đại hội lần thứ IV của Đảng vạch ra.
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa là: "Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội".
Đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh và hạnh phúc".
Đường lối chung và đường lối kinh tế là một thể thống nhất hoàn chỉnh, trong đó có mấy vấn đề cần đặc biệt chú ý là: nắm vững chuyên chính vô sản, xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động và tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Toàn bộ đường lối đó là sự vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, là sự thể hiện luận điểm của Lênin về khả năng tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Đường lối chung và đường lối kinh tế chỉ đạo mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong cả thời kỳ quá độ. Suốt quá trình cách mạng đó, chúng ta phải hiểu đúng và cụ thể hoá đường lối chung và đường lối kinh tế, căn cứ vào đường lối để vạch ra chiến lược kinh tế - xã hội, những kế hoạch phát triển, những chủ trương, chính sách và biện pháp lớn cho cả nước, cũng như cho từng ngành, từng lĩnh vực, sát với những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, với những yêu cầu và khả năng của nhân dân ta trong từng chặng đường.
Chặng đường trước mắt bao gồm thời kỳ 5 năm 1981 - 1985 và kéo dài đến năm 1990, là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt.
Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh quốc tế đang diễn biến phức tạp, trong tình hình đất nước đang có nhiều khó khăn nghiêm trọng, cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đang diễn ra gay gắt. Phải thấy rằng xây dựng chủ nghĩa xã hội về nhiều phương diện là một công việc mới mẻ, chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Chúng ta không chút nào coi nhẹ khuyết điểm, sai lầm của mình; song có những khuyết điểm, sai lầm muốn khắc phục được phải có thời gian.
Mặt khác, chúng ta có những thuận lợi rất cơ bản. Năm năm qua, toàn Đảng ta cũng như đảng bộ các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng trưởng thành lên một bước. Đảng thấy rõ hơn ưu điểm và khuyết điểm, nhược điểm của mình, nắm đường lối chắc hơn, nắm thực tế cụ thể hơn, có quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, sai lầm, nhất định sẽ dần dần tìm ra các giải pháp đúng đắn, có hiệu lực để làm chuyển biến tình hình.
Bản chất chế độ ta ưu việt. Nhân dân ta rất anh hùng, thông minh và sáng tạo, thấu hiểu những khó khăn của đất nước, kiên cường trong chiến đấu và cần cù trong lao động sản xuất.
Về phòng thủ đất nước, chúng ta có lực lượng lớn mạnh, có thế bố phòng vững chắc hơn và có nhiều kinh nghiệm hơn. Về quản lý kinh tế, đã bắt đầu có những chuyển biến theo hướng đúng; khí thế mới và nhân tố mới đang từng bước đẩy lùi các biểu hiện tiêu cực trong sản xuất.
Thuận lợi lớn của chúng ta là còn nhiều năng lực sản xuất chưa được sử dụng hết như lao động, đất đai, ngành, nghề và cơ sở vật chất - kỹ thuật đã có cùng những năng lực sản xuất mới sẽ tăng thêm; là có sự hợp tác toàn diện và giúp đỡ của Liên Xô và các nước khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, của hai nước Lào và Campuchia anh em.
Chặng đường trước mắt là chặng đường tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa, tăng cường hơn nữa sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân, giảm bớt và khắc phục khó khăn, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, chặn đứng và loại trừ các biểu hiện tiêu cực, đạt những tiến bộ quan trọng trong mọi lĩnh vực, tạo ra thế cân đối mới của nền kinh tế, đồng thời chuẩn bị cho những bước tiến vững chắc và mạnh mẽ hơn trong chặng đường tiếp theo. Đảng ta phải lãnh đạo nhân dân cả nước khai thác cho được mọi khả năng hiện có và tiềm tàng, kết hợp chặt chẽ các mặt hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của tất cả các cấp, các ngành, làm dấy lên một phong trào cách mạng sôi nổi, lôi cuốn hàng chục triệu người, khơi dậy sức sáng tạo và những đức tính cao quý của nhân dân lao động, phát huy sức mạnh tổng hợp của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa.
Về chính trị, thiết lập cho được và phát huy đầy đủ tác dụng của cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý trong cả nước và ở từng ngành, từng địa phương, từng cơ sở. Thực hiện nghiêm chỉnh Hiến pháp mới, tăng cường pháp chế, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Nêu cao cảnh giác, ra sức đấu tranh làm thất bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, tiếp tục củng cố quốc phòng, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Về kinh tế, kết hợp phát triển, sắp xếp lại và cải tạo kinh tế, đặc biệt là tập trung sức phát triển nông nghiệp, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý, kết hợp ngay từ đầu nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng. Bằng cách đó, đáp ứng các yêu cầu trước mắt về đời sống nhân dân, về củng cố quốc phòng và an ninh, khắc phục có hiệu quả các khó khăn và mất cân đối, tạo tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, chuẩn bị tốt các điều kiện để đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Về tư tưởng và văn hoá, đẩy mạnh công cuộc xây dựng nền văn hoá mới và con người mới bám thật sát yêu cầu cách mạng và phù hợp với khả năng kinh tế, thúc đẩy tốt hơn công cuộc xây dựng chế độ mới và nền kinh tế mới. Tăng cường đấu tranh xoá bỏ những tệ nạn xã hội cũ, những tàn dư văn hoá thực dân mới, chống mọi ảnh hưởng tư tưởng và văn hoá phản động.
Điều quyết định để hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ về xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là nâng cao năng lực lãnh đạo và tăng cường sức chiến đấu của Đảng ta. Ra sức xây dựng Đảng thật sự vững mạnh, trong sạch và ngày càng thành thục trong lãnh đạo kinh tế, văn hoá. Mỗi đảng viên cộng sản phải xứng đáng là một chiến sĩ ưu tú của giai cấp công nhân và của dân tộc, thật sự tiên phong, gương mẫu, được quần chúng tin yêu. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta phải luôn luôn "xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân", là người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Phần II
Những nhiệm vụ chủ yếu về kinh tế - xã hội trong 5 năm 1981 - 1985 và những năm 80
Thưa các đồng chí,
Kinh nghiệm của 5 năm 1976 - 1980 cho thấy sự cần thiết phải cụ thể hoá đường lối của Đảng - đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta - vạch ra chiến lược kinh tế - xã hội cho chặng đường đầu tiên của quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Để làm cơ sở cho việc nghiên cứu chiến lược kinh tế - xã hội, trong Đại hội này chúng ta xác định mục tiêu kinh tế và xã hội, cùng những chính sách lớn bảo đảm đạt được mục tiêu ấy.
Căn cứ vào đường lối của Đảng và xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế quốc dân, chúng ta xác định những mục tiêu kinh tế và xã hội tổng quát của những năm 80 là:
1. Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định, tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, trước hết giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm, đáp ứng tốt hơn những nhu cầu về mặc, về học hành, chữa bệnh, về ở, đi lại, về chăm sóc trẻ em và các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu khác.
2. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời tăng thêm trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế khác, và chuẩn bị cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo.
3. Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam; tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước.
4. Đáp ứng các nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh, trật tự.
Việc thực hiện bốn mục tiêu tổng quát nói trên đòi hỏi phải chuyển biến một bước cơ bản thực trạng của nền kinh tế:
Một, làm cho sản xuất thu nhập quốc dân từ chỗ chưa đủ để trang trải tiêu dùng xã hội, tiến tới bảo đảm được nhu cầu tiêu dùng xã hội, và có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế.
Hai, làm cho khối lượng và cơ cấu tổng sản phẩm xã hội từ chỗ quá thấp và mất cân đối nặng so với nhu cầu của nền kinh tế và của đất nước tiến tới đáp ứng được một phần quan trọng nhu cầu, kể cả thông qua xuất khẩu để nhập khẩu những sản phẩm mà trong nước chưa tạo ra được hoặc tạo ra chưa đủ.
Để chuyển biến một bước cơ bản thực trạng kinh tế, phải tạo cho được một lực lượng sản xuất mới, một năng suất lao động xã hội cao hơn, ngay trong khi chưa có nền đại công nghiệp tương đối phát triển. Muốn vậy, phải xác định đúng đắn những chính sách lớn về kinh tế, xã hội.
1. Trước hết và quyết định hơn hết là kết hợp đúng đắn công nghiệp và nông nghiệp.
Cái vốn quý nhất của chúng ta là lao động; năng lực tiềm tàng lớn nhất có thể phát huy trước tiên, cũng là đối tượng lao động có khả năng thu hút lực lượng lao động đông đảo nhất, là đất đai (kể cả rừng và biển); một năng lực rất lớn là ngành, nghề (bao gồm nghề phụ ở nông thôn, thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp và các cơ sở về công nghiệp hàng tiêu dùng) có điều kiện phát triển mạnh và sử dụng nhiều lao động. Động lực mạnh nhất của chúng ta là chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Chế độ làm chủ tập thể cho phép kết hợp lao động với đất đai, mở mang mạnh các ngành, nghề, sớm tạo ra một lực lượng sản xuất mới.
Vì thế, điều quan trọng nhất, việc có thể và cần phải làm trước tiên là làm chủ tập thể để sử dụng hợp lý và có hiệu quả lao động và đất đai, mở mang mạnh ngành, nghề tại từng cơ sở, trên từng địa phương và trong cả nước; để mọi người lao động đều có việc làm, mọi đất đai đều được khai thác, mọi ngành, nghề đều được phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, tạo ra năng suất lao động xã hội cao hơn, giá trị tổng sản lượng lớn hơn, cơ cấu sản phẩm phong phú hơn. Như vậy, cần phải tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, trong một cơ cấu kết hợp chặt chẽ và đúng đắn nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng.
Việc đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong những năm 80 bao gồm mấy nội dung chính sau đây:
Một là, bố trí cho nông nghiệp tiến hành sản xuất và phân phối sản phẩm theo quy hoạch và kế hoạch của cả nước. Theo kế hoạch của cả nước, nông nghiệp phải vươn lên làm tốt ba nhiệm vụ: bảo đảm lương thực cho toàn xã hội, cung ứng nguyên liệu nông sản cho công nghiệp hàng tiêu dùng, tạo ra nguồn hàng xuất khẩu quan trọng. Phải sử dụng lao động và đất đai theo hướng thâm canh, chuyên canh và kinh doanh tổng hợp, nhằm phát triển trồng trọt, chăn nuôi, chế biến, các ngành, nghề ở nông thôn. Bố trí hợp lý và có căn cứ khoa học cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu ngành, nghề để đất nông nghiệp cũng như đất lâm nghiệp đều được sử dụng hợp lý, để môi trường sống được bảo vệ tốt, để mỗi hécta đất đem lại hiệu quả kinh tế cao, để các ngành, nghề đều đem lại thu nhập lớn. Cần phân công lao động hợp lý trong từng cơ sở, từng địa phương để ra sức thâm canh, tăng vụ; đồng thời, cần phân bố lại lao động trên phạm vi cả nước để mở thêm diện tích canh tác mới, với khí thế ra quân như đi đánh giặc, cứu nước, và có chỉ đạo chặt chẽ, có kế hoạch vững chắc, bảo đảm hiệu quả trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm khai hoang trước đây. Phấn đấu trong khoảng ba kế hoạch 5 năm, sử dụng cả 10 triệu hécta đất nông nghiệp, 15 triệu hécta đất lâm nghiệp, và gieo trồng bình quân hai vụ trên đất trồng cấy hằng năm.
Hai là, đẩy mạnh cách mạng khoa học - kỹ thuật trong nông nghiệp, tích cực xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, hiện đại hoá một bước nông nghiệp. Đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, chú ý cả tưới và tiêu; cải tạo đất và xây dựng đồng ruộng; ứng dụng rộng rãi các thành tựu về sinh học trong trồng trọt và chăn nuôi; mở rộng hoá học hoá, tận dụng các nguồn phân hữu cơ, đi đôi với tìm mọi cách tăng thêm phân hoá học; làm tốt việc phòng trừ sâu bệnh, dịch bệnh; thực hiện cơ khí hoá từng bước thích hợp với từng địa bàn, kết hợp tốt cơ khí với thủ công và nửa cơ khí, bảo đảm hiệu quả kinh tế; phát triển chế biến, bảo quản tốt và vận chuyển kịp thời. Để làm những việc trên đây, phải phát huy khả năng vật chất và trí tuệ trong nước, nhất là phát huy năng lực của các ngành công nghiệp nặng, đồng thời thông qua xuất khẩu để nhập những vật tư kỹ thuật mà trong nước chưa tạo ra được hoặc tạo ra chưa đủ.
Ba là, hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp theo hình thức và bước đi đúng đắn. Ra sức kiện toàn các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất, nâng cao chất lượng của khu vực kinh tế tập thể; khuyến khích kinh tế gia đình phát triển đúng hướng. Phát triển vững chắc các cơ sở quốc doanh tại những địa bàn thích hợp, kinh doanh những cây trồng, vật nuôi và làm một số khâu đích đáng trong nông nghiệp; coi trọng củng cố các nông trường quốc doanh, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả làm cho nông trường thật sự gương mẫu về sản xuất và quản lý. Thiết lập và mở rộng các quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa trực tiếp giữa Nhà nước với hợp tác xã, với tập đoàn sản xuất và nông dân cá thể, giữa công nghiệp và nông nghiệp, thành thị và nông thôn, thông qua kế hoạch nhà nước và các hợp đồng kinh tế, thông qua việc Nhà nước mua nông sản và bán công nghệ phẩm, và các hình thức liên kết sản xuất, kinh doanh.
Bốn là, lấy huyện làm địa bàn trọng yếu để thực hiện ba nội dung nói trên. Cơ cấu kinh tế huyện là một cơ cấu trong đó các đơn vị cơ sở là các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, các xí nghiệp công nghiệp nhỏ, và có thể gồm các nông trường, lâm trường của huyện và các loại đơn vị sản xuất khác. Tích cực xây dựng các huyện theo hướng kết hợp nông - công nghiệp (hoặc là lâm - nông - công nghiệp, hoặc là ngư - nông - công nghiệp tuỳ theo tình hình cụ thể của các loại huyện khác nhau) nghĩa là: lấy huyện làm địa bàn phân công lao động, tổ chức lại sản xuất, sử dụng tốt lao động và đất đai, rừng, biển, thực hiện thâm canh, chuyên canh, phát triển trồng trọt, chăn nuôi, mở mang ngành, nghề; tổ chức liên kết các hợp tác xã nông nghiệp, các cơ sở thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp và các đơn vị sản xuất khác do các hợp tác xã nông nghiệp liên doanh xây dựng nên, với một số cơ sở sản xuất, trạm, trại kỹ thuật, cửa hàng cung ứng vật tư, thu mua nông sản, bán hàng tiêu dùng, do Nhà nước lập ra trên địa bàn huyện. Cơ cấu kinh tế huyện hình thành từ điều kiện kinh tế trong huyện, từ phương hướng sản xuất chuyên môn hoá và kinh doanh tổng hợp của mỗi huyện, từ yêu cầu và khả năng của các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp, đồng thời phải gắn với quy hoạch phát triển kinh tế của tỉnh và của cả nước. Vì vậy, xây dựng huyện không thể tách rời xây dựng và củng cố hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp; xây dựng huyện phải nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong huyện, mở mang xuất khẩu và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng nước nhà. Đi đôi với xây dựng kinh tế, phải phát triển giáo dục, văn hoá, y tế, thể dục, thể thao… tổ chức tốt đời sống vật chất và văn hoá, xây dựng nông thôn mới. Kết hợp kinh tế và quốc phòng, xây dựng huyện thành pháo đài bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng huyện theo những nội dung nói trên là công việc của Nhà nước, của các cơ sở kinh tế, văn hoá và của toàn thể nhân dân trong huyện. Trên mọi lĩnh vực, phải triệt để thực hiện chủ trương "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Sự đóng góp tích cực của nhân dân về lao động, về trí tuệ và tài năng, về vật tư và tiền vốn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Phải tổng kết một bước công tác xây dựng huyện và kiện toàn cấp huyện, rút kinh nghiệm để triển khai xây dựng tất cả các huyện, đồng thời phải tập trung lực lượng của Nhà nước trước hết vào những huyện ở các vùng trọng điểm lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp quan trọng và những huyện có tỷ suất hàng hoá cao, nhất là hàng xuất khẩu. Rất coi trọng đào tạo và bổ sung cán bộ cho huyện.
Đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa hoàn toàn không phải là phát triển nông nghiệp một cách đơn độc, mà chính là trong một cơ cấu kết hợp chặt chẽ và đúng đắn nông nghiệp với công nghiệp. Phát triển nông nghiệp phải kết hợp với phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng, cả chiều rộng lẫn chiều sâu từ công nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ đến các ngành, nghề tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp ở thành thị và nông thôn. Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng là một hướng cực kỳ quan trọng để đáp ứng nhu cầu vật chất và văn hoá của xã hội, mở rộng thị trường trong nước, tạo nguồn hàng xuất khẩu quan trọng, mở rộng thị trường ra ngoài nước. Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng là nâng cao giá trị nông sản, làm cho Nhà nước có hàng để trao đổi với nông dân, kích thích sản xuất nông nghiệp; là mở rộng phân công lao động, tạo thêm việc làm, phát triển kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tăng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong chặng đường hiện nay. Kiểm kê, phân loại tất cả các ngành, nghề, thực hiện một sự phân công và hiệp tác hợp lý trong cả nước, phát huy khả năng của công nghiệp trung ương, công nghiệp địa phương, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, và sử dụng từng người thợ thủ công cá thể, để phát triển sản xuất ở các thành phố lớn, các thị xã và ở nông thôn. Tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp ở nước ta có tiềm năng to lớn, là một bộ phận quan trọng của công nghiệp hàng tiêu dùng, đã và đang được cải tạo và tổ chức lại thành một bộ phận kinh tế xã hội chủ nghĩa, có vị trí trọng yếu lâu dài trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt trong chặng đường đầu tiên này. Trước mắt, coi trọng giải quyết tốt việc tăng cường trang bị kỹ thuật và cải tiến kỹ thuật, sản xuất và cung ứng nguyên liệu, sử dụng các đòn bẩy kinh tế, khuyến khích thích đáng tập thể và cá nhân người lao động, để phát triển mạnh mẽ tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, từ những ngành, nghề cổ truyền đến những ngành, nghề mới xuất hiện.
Phát triển nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng là tạo cơ sở cho sự phát triển của các ngành công nghiệp nặng. Mặt khác, để phát triển nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng thì phải sử dụng và phát huy tốt các năng lực công nghiệp nặng sẵn có, xây dựng một cách hợp lý những ngành công nghiệp nặng cần thiết để cung ứng điện, than, xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu, hoá chất cơ bản, công cụ thường, công cụ nửa cơ giới và cơ giới, vật liệu xây dựng…; đồng thời rất tích cực khai thác một số sản phẩm công nghiệp nặng để tăng thêm nguồn vật tư và nguồn hàng xuất khẩu để trang bị kỹ thuật thêm cho các ngành kinh tế khác và cho bản thân công nghiệp nặng. Những nhu cầu của nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng mà sản phẩm của công nghiệp nặng trong nước chưa đáp ứng được hoặc đáp ứng chưa đủ, thì bản thân nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và cả công nghiệp nặng phải tạo ra hàng xuất để nhập.
Trong khi hướng công nghiệp nặng chủ yếu và trước hết nhằm thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng phát triển, chúng ta cần ráo riết tiến hành mọi công tác chuẩn bị cần thiết, trong đó hết sức coi trọng tăng cường điều tra địa chất, để khi có điều kiện thì bắt tay xây dựng một số công trình công nghiệp nặng mấu chốt, đặc biệt là cơ khí và gang thép. Bởi vì chúng ta không bao giờ quên rằng cơ sở vật chất - kỹ thuật duy nhất của chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí hoá, có khả năng cải tạo cả nông nghiệp và trang bị kỹ thuật mới cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Để phục vụ việc phát triển nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng, để đáp ứng nhu cầu của sản xuất, xây dựng, quốc phòng, an ninh và đời sống nhân dân, giao thông vận tải phải được chấn chỉnh và tăng cường về mọi mặt: tổ chức, quản lý, chỉ đạo, cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật, phương tiện bốc dỡ và vận chuyển; hệ thống thông tin, bưu điện cần được củng cố, phát triển và nâng cao.
Như vậy, trong 5 năm 1981 - 1985 và những năm 80, cần tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý. Đó là những nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường trước mắt.
 Đó cũng chính là thực hiện "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ", tạo ra lực lượng sản xuất mới trong chặng đường đầu tiên này, đồng thời chuẩn bị tiền đề và lực lượng cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong những năm tiếp sau, mà nội dung chính sẽ là xây dựng cơ cấu công - nông nghiệp hiện đại, lấy hệ thống công nghiệp nặng tương đối phát triển làm nòng cốt.
2. Kết hợp đúng đắn xây dựng kinh tế trung ương với phát triển mạnh kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Để làm tốt việc này, cần xây dựng sơ đồ tổng thể phát triển và phân bố lực lượng sản xuất. Vấn đề cần nhấn mạnh hiện nay là phải khắc phục sớm những vướng mắc, xác định cơ cấu hợp lý của kinh tế địa phương, phối hợp ăn khớp giữa kinh tế trung ương và kinh tế địa phương, thực hiện đúng đắn nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ, phân cấp mạnh mẽ cho địa phương, mở rộng quyền chủ động và nâng cao trách nhiệm của địa phương trên các mặt kế hoạch, ngân sách, vật tư, lao động, cán bộ, tổ chức… Quan hệ giữa trung ương và địa phương phải thể hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ, trên dưới gắn bó thống nhất với nhau. Khắc phục bệnh tập trung quan liêu, đồng thời uốn nắn những biểu hiện phân tán, vô tổ chức. Những việc trên đây đều nhằm tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế địa phương và không ngừng tăng cường các ngành kinh tế - kỹ thuật.
Cần đẩy mạnh cải tạo và xây dựng Thủ đô Hà Nội, trung tâm chính trị của cả nước và thành phố Hồ Chí Minh, thành những trung tâm lớn về kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật và giao dịch quốc tế. Việc xây dựng hai trung tâm này phải dựa vào sức vươn lên của bản thân hai thành phố, đồng thời phải được đặt thành một nhiệm vụ quan trọng trong kế hoạch nhà nước, trong chương trình hoạt động của Hội đồng Bộ trưởng. Đặc biệt việc xây dựng Thủ đô là trách nhiệm chung của cả nước. Phải động viên tất cả các ngành, các địa phương, các lực lượng vào việc xây dựng Thủ đô. Phải dựa vào thế mạnh của hai thành phố về đội ngũ lao động có tay nghề và có văn hoá, về cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có, về tiềm lực khoa học, kỹ thuật,… mà ra sức phát triển công nghiệp, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, sản xuất nhiều hàng tiêu dùng và những mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật tương đối cao, nhằm đáp ứng nhu cầu của cả nước, và mở rộng xuất khẩu.
Ra sức xây dựng các tỉnh, huyện miền núi phía bắc, Tây Nguyên và các huyện miền núi của các tỉnh duyên hải miền Trung. Tận dụng lao động tại chỗ kết hợp với phân bố lao động từ các nơi khác đến để phát huy khả năng của miền núi, làm cho các tỉnh, huyện miền núi đạt được một bước phát triển đáng kể về các mặt. Kết hợp phát triển nông nghiệp với phát triển nghề rừng và từng bước xây dựng công nghiệp, đặc biệt coi trọng mở mang giao thông vận tải, phát triển giáo dục, y tế, văn hoá nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào các dân tộc, kết hợp xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh. Muốn vậy, phải thực hiện đến nơi đến chốn việc giao rừng và đất rừng cho huyện quản lý và hợp tác xã kinh doanh theo quy hoạch, kế hoạch và pháp luật của Nhà nước. Các tỉnh, huyện miền núi phải khai thác tốt những thế mạnh của mình, từ nông nghiệp, lâm nghiệp mà đi lên, nhất thiết phải sử dụng đất đai theo hướng nông lâm kết hợp, tổ chức đúng đắn việc sản xuất chuyên môn hoá đi đôi với kinh doanh tổng hợp, phá thế tự cấp tự túc, mở rộng quan hệ kinh tế giữa miền núi với miền xuôi và đẩy mạnh xuất - nhập khẩu, qua đó mà giải quyết tốt vấn đề ăn, mặc và các nhu cầu đời sống của nhân dân địa phương, và góp phần ngày càng tăng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Làm theo phương hướng phát triển trên đây sẽ hạn chế, tiến tới khắc phục nạn phá rừng và tạo điều kiện để thực hiện thật sự việc định cư, định canh. Trong chính sách đầu tư, Nhà nước phải chú ý đích đáng đến các tỉnh, huyện miền núi, đồng thời cần ban hành và thực hiện những chính sách thích hợp khác để giải quyết những vấn đề riêng đối với miền núi như: bảo vệ môi trường, sử dụng lao động, khai thác đặc sản, phát triển giao thông, mở mang văn hoá, đào tạo cán bộ, bố trí và đãi ngộ cán bộ, v.v..
3. Bảo đảm sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, luôn luôn kết hợp chặt chẽ cải tạo quan hệ sản xuất với tổ chức lại và phát triển sản xuất.
 Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác hoá nông nghiệp ở các tỉnh Nam Bộ, từng bước phát huy tác dụng của hợp tác hoá đối với việc đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và xây dựng nông thôn mới. Khắc phục xu hướng chần chừ, do dự, thiếu tích cực trong việc chỉ đạo phong trào hợp tác hoá, đồng thời tránh nóng vội, giản đơn, làm ồ ạt và nặng về hình thức. Tiếp tục điều chỉnh ruộng đất để bảo đảm cho mọi người nông dân lao động đều có ruộng cày; ở những nơi chưa cải tạo, phải thực hiện ngay việc điều chỉnh ruộng đất, tạo tiền đề cho hợp tác hoá. Cùng với việc phát triển tập đoàn sản xuất và hợp tác xã nông nghiệp, cần phát triển các hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng.
Trong việc xây dựng, củng cố hợp tác xã và tập đoàn sản xuất, phải tổng kết và phổ biến kịp thời những kinh nghiệm của các đơn vị tiên tiến về củng cố chế độ sở hữu, cải tiến chế độ quản lý và chế độ phân phối.
Quản lý tốt ruộng đất, ổn định quy mô hợp tác xã và tập đoàn sản xuất, tổ chức tốt việc điều chỉnh quy mô trong những trường hợp thật cần thiết, áp dụng rộng rãi và hoàn thiện hình thức khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và người lao động. Củng cố và giúp đỡ các đơn vị trung bình và yếu, kém, làm cho các đơn vị ấy theo kịp các đơn vị tiên tiến.
Tổ chức lại sản xuất, củng cố hợp tác xã nghề cá ở miền Bắc và xây dựng các tập đoàn sản xuất và hợp tác xã nghề cá ở miền Nam.
Đối với công nghiệp tư bản tư doanh, phải có chính sách và tổ chức tốt, vừa sử dụng vừa cải tạo dưới hình thức công tư hợp doanh hoặc các hình thức khác. Triệt để xoá bỏ thành phần tư bản trong thương nghiệp. Đối với tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp và các ngành dịch vụ, tuỳ theo đặc điểm của từng ngành, nghề mà tổ chức các hình thức làm ăn tập thể hay để kinh doanh cá thể. Chuyển dần những người buôn bán nhỏ không cần thiết trong lưu thông sang sản xuất và các hoạt động dịch vụ khác. Như vậy, trong một thời gian nhất định, ở miền Bắc có ba thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể và cá thể), ở miền Nam còn năm thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, cá thể, và tư bản tư nhân).
Nhà nước phải không ngừng củng cố và tăng cường kinh tế quốc doanh, hết sức nâng đỡ, khuyến khích và tăng cường kinh tế tập thể. Bằng những chính sách và các hình thức tổ chức sản xuất thích hợp, Nhà nước tăng cường mối liên hệ chặt chẽ với các tổ chức kinh tế tập thể và cá thể, chú ý liên kết các thành phần kinh tế dưới sự lãnh đạo của kinh tế quốc doanh, để phục vụ lợi ích của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa theo hướng của kế hoạch nhà nước.
Trong quá trình cải tạo và xây dựng kinh tế, phải giải quyết đúng đắn quan hệ giữa quy mô lớn, vừa và nhỏ; giữa kỹ thuật cơ giới, nửa cơ giới và thủ công, khéo kết hợp cho sát với từng ngành, nghề và từng địa phương, bảo đảm quy mô hợp lý và kỹ thuật thích hợp cho từng cơ sở; phải coi trọng hơn nữa quy mô vừa và nhỏ, kỹ thuật nửa cơ giới và thủ công.
4. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế theo một phương hướng cơ bản, lâu dài, đồng thời có dự kiến trước để kịp điều chỉnh cho phù hợp khi xảy ra biến động bảo đảm đánh thắng quân thù. Phải lập kế hoạch động viên nền kinh tế quốc dân sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược.
Công tác quy hoạch phân vùng kinh tế, phân bố lại lao động, phân bố lực lượng sản xuất, xây dựng các ngành kinh tế - kỹ thuật, phát triển kinh tế địa phương phải nhằm tạo ra một thế bố trí chiến lược thống nhất để làm chủ cả về kinh tế và quốc phòng trong cả nước và trong từng địa phương. Kinh tế trung ương và kinh tế địa phương đều phải chú ý giải quyết tốt hậu cần tại chỗ cho công cuộc phòng thủ đất nước.
Tăng cường công nghiệp quốc phòng một cách thích hợp; đồng thời khai thác khả năng của nó góp phần phát triển kinh tế.
Trong khi không ngừng nâng cao sức chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu, quân đội phải tổ chức cho các đơn vị có điều kiện tiến hành sản xuất để tự cung ứng một phần nhu cầu, đồng thời huy động năng lực công nghiệp quốc phòng tham gia những hoạt động kinh tế thích hợp và sử dụng một bộ phận lực lượng đảm nhận xây dựng một số công trình. Khi tham gia xây dựng kinh tế, quân đội phải học tập kỹ thuật, học tập quản lý để làm có năng suất, có hiệu quả.
5. Kết hợp phát triển kinh tế trong nước với mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Do tầm quan trọng đặc biệt của nó, công tác kinh tế đối ngoại phải được tăng cường. Nắm vững nguyên tắc chiến lược và phương hướng chủ yếu của công tác kinh tế đối ngoại là: mở rộng và tăng cường hợp tác toàn diện với Liên Xô và phát triển hợp tác với các nước khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, theo hướng liên kết kinh tế xã hội chủ nghĩa, tích cực tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất trên những lĩnh vực thích hợp; mở rộng hợp tác toàn diện và giúp đỡ lẫn nhau với Lào và Campuchia để phát huy tiềm năng kinh tế của mỗi nước; đồng thời mở rộng thích đáng quan hệ kinh tế với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa. Hết sức xem trọng hiệu quả kinh tế, sử dụng tốt vốn vay và viện trợ; ra sức phát huy tác dụng cực kỳ to lớn của sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước anh em khác; phấn đấu thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, xây dựng sự tín nhiệm quốc tế rộng rãi; kiên quyết khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại sự viện trợ của bên ngoài.
Trong toàn bộ hoạt động kinh tế, một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược của toàn Đảng, toàn dân ta là ra sức tăng xuất khẩu để nhập khẩu. Phải qua xuất để nhập kỹ thuật, thiết bị, máy móc, phụ tùng vật tư nhằm tiến hành cách mạng khoa học - kỹ thuật, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà. Xuất khẩu phải góp phần đắc lực tạo ra thế cân đối mới của nền kinh tế, tạo ra cơ cấu kinh tế mới, trước mắt là từng bước đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và đời sống. Phấn đấu tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, thu hẹp dần sự chênh lệch giữa xuất và nhập, tiến tới cân bằng xuất, nhập. Phải tìm mọi cách sử dụng sức lao động dồi dào của ta khai thác mọi khả năng về đất đai, rừng, biển, ngành, nghề, cơ sở vật chất - kỹ thuật nhằm tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu. Phải đặc biệt chú ý các mặt hàng nông sản nhiệt đới, lâm sản, hải sản, sản phẩm chăn nuôi, một số hàng tiêu dùng, một số sản phẩm công nghiệp nặng và một số khoáng sản. Ngoài ra, cố gắng mở rộng du lịch và các loại dịch vụ khác để thu ngoại tệ. Phải có chính sách tiết kiệm tiêu dùng trong nước để tăng xuất những mặt hàng có thể xuất được. Đi đôi với phát triển toàn diện các mặt hàng xuất khẩu, phải phấn đấu tạo ra các mặt hàng xuất chủ lực, có giá trị cao, có khối lượng lớn và ổn định, có thị trường vững chắc.
Chính sách của ta là Nhà nước độc quyền ngoại thương và trung ương thống nhất quản lý công tác ngoại thương. Phù hợp với nguyên tắc đó, mỗi ngành, mỗi địa phương, mỗi cơ sở có trách nhiệm và nghĩa vụ xuất khẩu, phấn đấu để tự cân đối được nhu cầu nhập khẩu của mình và tích cực đóng góp ngoại tệ cho trung ương. Các ngành, các địa phương, các tổ chức kinh tế lớn (như các công ty và các liên hiệp xí nghiệp) được quyền giao dịch xuất - nhập khẩu theo đúng các nguyên tắc, chính sách và chế độ thống nhất quản lý của Nhà nước. Theo tinh thần ấy, Nhà nước cần có những chính sách và quy chế thích hợp để khuyến khích mở rộng và để quản lý tốt các hoạt động xuất - nhập khẩu. Một phương hướng quan trọng của Nhà nước ta là tổ chức sự hợp tác có hiệu quả với nước ngoài để tăng nhanh năng lực xuất khẩu của ta.
6. Mở rộng phân công lao động, phân bố lại và sử dụng tốt lao động trong cả nước để tăng năng suất lao động. Đây là một yêu cầu đồng thời là một nội dung chủ yếu của kế hoạch kinh tế, xã hội. Mở rộng phân công lao động tại chỗ đi đôi với phân bố lại lao động trong phạm vi cả nước, kết hợp lao động với đất đai, với các nguồn tài nguyên và tư liệu sản xuất khác sẵn có, mở mang mạnh ngành, nghề, để mọi người lao động đều có việc làm và nhanh chóng tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn hơn. Có biện pháp khuyến khích mỗi người lao động trong từng cơ sở nêu cao nhiệt tình cách mạng và ý thức làm chủ tập thể, rèn luyện tay nghề, phát huy sáng kiến, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến kỹ thuật, phấn đấu làm ra sản phẩm nhiều hơn và tốt hơn, với phương tiện vật chất bằng hoặc ít hơn trước. Dựa vào sức mạnh của chế độ làm chủ tập thể, vào việc kế hoạch hoá đúng đắn và tận dụng các chính sách khuyến khích thích đáng, các biện pháp tổ chức và động viên có hiệu lực, đặc biệt là đẩy mạnh phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa, để tạo cho được một sự chuyển biến mạnh về năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội.
Trong những năm 1981 - 1985, phải mở rộng phân công lao động, bố trí, sử dụng tốt lực lượng lao động tại chỗ trên địa bàn huyện, đồng thời chuyển một lực lượng lớn lao động của các vùng đông dân, các thành phố, đi đến những huyện ít dân cùng đồng bào địa phương phát triển sản xuất, đi xây dựng các vùng kinh tế mới về nông nghiệp và lâm nghiệp, đi xây dựng các công trình thuỷ lợi, giao thông và công nghiệp quan trọng. Cố gắng đạt được một mức tăng đáng kể về năng suất lao động trong từng cơ sở kinh tế, nhất là trong công nghiệp và nông nghiệp. Kiên quyết tinh giản biên chế trong cơ quan nhà nước, đưa một bộ phận quan trọng cán bộ, nhân viên từ các cấp trên về tăng cường cho cơ sở và chuyển sang sản xuất.
Lực lượng lao động kỹ thuật hiện có phải được quản lý và sử dụng tốt hơn, đồng thời tiếp tục làm tốt hơn công tác xây dựng đội ngũ cán bộ và công nhân kỹ thuật, có chất lượng ngày càng cao, có cơ cấu ngày càng đồng bộ và hợp lý.
Phải quyết định và thi hành chính sách dân số đúng đắn, trong đó một công việc cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược về kinh tế và xã hội, mà tất cả các tổ chức đảng và chính quyền các cấp phải hết sức quan tâm và trực tiếp chăm lo, là tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch. Sửa lại một số chính sách, chế độ cụ thể không còn thích hợp, bổ sung và ban hành những chính sách có liên quan, và có sự chỉ đạo thực hiện chặt chẽ, kiên quyết, nhằm hạ tỷ lệ phát triển số dân đến mức hợp lý.
7. Đẩy mạnh công tác khoa học, kỹ thuật. Đó là một nội dung rất quan trọng của cách mạng khoa học - kỹ thuật, cuộc cách mạng giữ vị trí then chốt trong ba cuộc cách mạng. Ngày nay, trình độ cao về khoa học và kỹ thuật, đặc biệt là việc ứng dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học, tạo ra những kỹ thuật cao trong sản xuất là một trong những nhân tố quyết định sức mạnh kinh tế của một nước. Đối với nước ta, những yêu cầu về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong xây dựng và quản lý kinh tế, những yêu cầu về phát triển chiều sâu, về tiết kiệm, về chế tạo sản phẩm mới cũng như sản phẩm thay thế, đặc biệt là trong sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, sản phẩm cơ khí, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng... đang đề ra những đòi hỏi rất lớn ở khoa học (khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội) và kỹ thuật. Để đáp ứng những đòi hỏi ấy, phải làm chủ những vấn đề khoa học và kỹ thuật cần thiết đối với đất nước, với tinh thần: cái gì đất nước cần thì ta phải vươn lên làm chủ cho kỳ được.
Gắn các hoạt động khoa học, kỹ thuật với sản xuất, đời sống, quốc phòng. Làm tốt công tác nghiên cứu khoa học. Phát huy đích đáng vai trò của từng bộ môn khoa học; đồng thời kết hợp chặt chẽ khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật; rất coi trọng tổ chức sự cộng tác và phối hợp giữa các bộ môn khoa học bằng những hình thức hoạt động liên ngành, để cùng nhau nghiên cứu, giải quyết các vấn đề khoa học, kỹ thuật quan trọng. Đặc biệt phải làm tốt công tác ứng dụng rộng rãi, nhanh chóng các thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, vào quản lý, vào các mặt khác của đời sống kinh tế, xã hội.
Kết hợp việc nghiên cứu của các cơ quan khoa học và kỹ thuật với kinh nghiệm của đông đảo cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ quản lý và những người lao động hoạt động trên đồng ruộng, trong nhà máy..., nhằm thực hiện những chương trình đồng bộ theo mục tiêu của Nhà nước, đặc biệt là các chương trình phục vụ cho nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Tiến bộ khoa học và kỹ thuật phải trở thành một nội dung chủ yếu của kế hoạch kinh tế - xã hội ở tất cả các ngành, các cấp. Cơ chế quản lý kinh tế và kế hoạch hoá cần được đổi mới theo hướng đòi hỏi và khuyến khích áp dụng thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật. Sắp xếp, chấn chỉnh và kiện toàn các viện nghiên cứu khoa học; nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động khoa học. Sử dụng tốt sự giúp đỡ và hợp tác về khoa học, kỹ thuật của Liên Xô và các nước anh em khác, đồng thời tranh thủ đặt quan hệ về khoa học, kỹ thuật với các nước ngoài cộng đồng xã hội chủ nghĩa.
Phát động cho được phong trào quần chúng sôi nổi tiến quân vào khoa học, kỹ thuật, áp dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật, tuân thủ các quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn, định mức, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao kiến thức và sự thành thạo về nghề nghiệp. Làm tốt công tác quản lý khoa học và quản lý kỹ thuật; thường xuyên chăm lo sử dụng tốt, phát huy năng lực và tiếp tục bồi dưỡng về chính trị, tư tưởng và chuyên môn cho đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và hàng triệu người lao động thạo nghề. Theo tinh thần trên đây, việc phổ cập giáo dục phổ thông cho toàn dân không chỉ là vấn đề nâng cao đời sống văn hoá mà còn trở thành yêu cầu ngày càng bức thiết của bản thân nền kinh tế.
8. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, vừa bảo đảm đời sống và nhu cầu quốc phòng và an ninh hiện nay, vừa xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội để cải thiện đời sống, bảo đảm nhu cầu quốc phòng và an ninh ở mức cao hơn trong tương lai. Để giải quyết thoả đáng cả hai yêu cầu hiện nay đều cấp bách về tiêu dùng và về tích luỹ, con đường cơ bản là đẩy mạnh sản xuất, không ngừng tăng năng suất lao động, đồng thời ra sức tiết kiệm.
Tiết kiệm là quốc sách lớn, lâu dài và phải được quy định thành chính sách, chế độ, chỉ tiêu, biện pháp cụ thể. Tiết kiệm trên mọi lĩnh vực: xây dựng cơ bản, sản xuất, đời sống, chi tiêu về quốc phòng, an ninh và chi tiêu hành chính. Tiết kiệm về mọi mặt: tiền vốn, vật tư, năng lượng, nguyên liệu, thiết bị, máy móc, hàng tiêu dùng, thời gian và lực lượng lao động. Tiết kiệm trong tiêu dùng của xã hội và tiêu dùng cá nhân, trong chi phí của Nhà nước, của tập thể và của nhân dân. Tuy hiện nay, mức sống của nhân dân lao động nước ta còn thấp, song phải thấy rõ rằng chúng ta đang tiêu dùng quá mức làm ra được. Đó là điều không thể chấp nhận. Chúng ta phải sống phù hợp với kết quả lao động của mình, không tiêu dùng quá giới hạn mà mức sản xuất cho phép. Phải bảo đảm nhu cầu đời sống, nhưng phải biết chịu đựng khó khăn để bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc và dành tỷ lệ tích luỹ thích đáng để thực hiện tái sản xuất mở rộng, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Mỗi cơ sở, mỗi địa phương, mỗi ngành đều phấn đấu để có tích luỹ. Huy động và sử dụng tốt mọi nguồn vốn, mọi khả năng tích luỹ của trung ương, địa phương và cơ sở, của Nhà nước và nhân dân, tập trung vốn cho những ngành, những địa bàn, những công trình trọng điểm được xác định trong chiến lược kinh tế - xã hội và kế hoạch nhà nước.
9. Thiết lập trật tự mới, xã hội chủ nghĩa, trên mặt trận phân phối, lưu thông, để góp phần ổn định đời sống, đẩy mạnh sản xuất, chuyển tốt tình hình kinh tế và xã hội. Phát huy tác dụng đòn xeo và cầu nối của phân phối, lưu thông đối với nông nghiệp và công nghiệp, thành thị và nông thôn, quốc doanh và tập thể, cá thể, trung ương, địa phương và cơ sở. Nêu cao vai trò chủ động của phân phối, lưu thông thúc đẩy sản xuất và phục vụ tiêu dùng. Phân phối, lưu thông phải tham gia đắc lực vào cuộc đấu tranh giữa hai con đường, mở rộng trận địa của chủ nghĩa xã hội, đẩy lùi trận địa tự phát tư bản chủ nghĩa, điều tiết bằng được thu nhập của các tầng lớp dân cư cho công bằng, hợp lý. Phải kết hợp chặt chẽ cả ba loại biện pháp: kinh tế, hành chính và giáo dục, trong đó biện pháp kinh tế là gốc.
Vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là tăng quỹ hàng hoá, tập trung cho được hàng vào tay Nhà nước, trước hết là các mặt hàng quan trọng. Để làm việc đó, Nhà nước phải không ngừng tăng cường kinh tế quốc doanh, và các cơ sở quốc doanh phải phát triển mạnh sản xuất, đồng thời giữ nghiêm kỷ luật giao nộp sản phẩm cho Nhà nước; Nhà nước phải có chính sách thúc đẩy sản xuất và nắm nguồn hàng của khu vực kinh tế tập thể và cá thể bằng thu thuế hiện vật, thu mua theo nghĩa vụ và qua hợp đồng hai chiều; các ngành, các cấp, phải ra sức đấu tranh chống ăn cắp, lãng phí hàng hoá, vật tư của Nhà nước.
Sớm thực hiện một chính sách tài chính, tiền tệ tích cực phù hợp với chặng đường hiện nay. Nhà nước phải sử dụng tài chính và tiền tệ như những công cụ có hiệu lực để cải tạo và phát triển kinh tế, phát huy vai trò của tài chính và ngân hàng trong việc kiểm tra và giám đốc các hoạt động kinh tế, không ngừng nâng cao hiệu quả đồng vốn. Nhà nước phải mở rộng và động viên các nguồn thu, từ kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và các thành phần kinh tế khác, quản lý nghiêm ngặt thu chi tài chính. Nhà nước phải nắm tiền, làm tốt việc lưu thông tiền tệ. Cải tiến công tác tín dụng và thanh toán qua ngân hàng, thực hiện cân đối ngân sách và từng bước thu hẹp, tiến tới chấm dứt bội chi tiền mặt.
Tiếp tục thực hiện điều chỉnh hệ thống giá một cách kịp thời và vững chắc nhằm phát huy tác dụng của giá cả đối với việc thúc đẩy sản xuất, sắp xếp lại kinh tế và ổn định đời sống nhân dân. Thông qua các bước điều chỉnh kế tiếp nhau một cách hợp lý và theo những phương án được nghiên cứu kỹ lưỡng, và thực hiện đồng bộ các chính sách, biện pháp liên quan, từng bước tạo ra hệ thống giá mới, thực hiện cải cách giá, phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế hiện nay và trong thời gian tới. Trong khi cung và cầu còn mất cân đối, phải áp dụng cơ chế giá ổn định và giá linh hoạt. Tiến hành phân công, phân cấp quản lý hệ thống giá trong cả nước, hết sức đề cao kỷ luật giá.
Tiếp tục cải tiến tiền lương. Khẩn trương nghiên cứu phương án và tích cực tạo điều kiện để cải cách chế độ tiền lương, gắn liền một cách đồng bộ với cải cách giá và cải tiến các khâu khác của mặt trận phân phối lưu thông, dựa trên cơ sở sản xuất có bước phát triển tốt. Trước mắt, ra sức phấn đấu bảo đảm tiền lương thực tế, áp dụng nguyên tắc phân phối theo lao động, gắn chặt tiền lương với năng suất lao động, mở rộng đúng đắn lương khoán, lương sản phẩm và tiền thưởng, đi đôi với cung ứng theo định lượng những mặt hàng thiết yếu mà Nhà nước quy định.
Cải tiến mạnh mẽ hệ thống thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán, tiến lên làm chủ vững chắc thị trường, nắm đại bộ phận bán buôn, chi phối bán lẻ, phát triển kinh doanh ăn uống, dịch vụ. Cải tiến cung ứng vật tư, bảo đảm cung ứng đồng bộ, kịp thời cho sản xuất, ưu tiên cho những nhiệm vụ quan trọng, và bảo đảm cho vật tư được sử dụng tiết kiệm, với hiệu quả cao. Tăng cường cải tạo và quản lý thị trường, ngăn chặn và trừng trị các hoạt động đầu cơ, nâng giá, buôn lậu, trốn thuế và mọi hoạt động gây rối thị trường.
10. Xác lập chế độ quản lý và kế hoạch hoá đúng đắn, đổi mới chế độ quản lý và kế hoạch hoá hiện hành. Xoá bỏ cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao cấp, khắc phục bằng được tình trạng trì trệ, bảo thủ, vô trách nhiệm, vô kỷ luật, phát huy động lực làm chủ tập thể, nâng cao tính năng động sáng tạo, tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật.
Trong toàn bộ quá trình xây dựng và quản lý kinh tế, mở rộng cơ sở vật chất - kỹ thuật, phát triển sản xuất, phải luôn luôn chú ý phát triển chiều sâu, tìm cách khai thác tốt những năng lực sản xuất và cơ sở vật chất hiện có bằng mọi biện pháp thích hợp: đồng bộ hoá, cải tạo, mở rộng và nâng cao. Mỗi ngành, mỗi địa phương, mỗi cơ sở và trong mọi trường hợp, trong mọi chủ trương, kế hoạch, chính sách, biện pháp, đều phải coi trọng năng suất, chất lượng và hiệu quả.
Từ sản xuất nhỏ tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải bảo đảm cho các cấp quản lý trung ương, địa phương, cơ sở đều thực sự làm chủ kế hoạch, nghĩa là thực sự xây dựng, cân đối, bảo vệ và thực hiện kế hoạch của mình, nhất thiết phải xây dựng kế hoạch từ cơ sở; kế hoạch phải thấu suốt nguyên tắc hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Làm như thế là phù hợp với chế độ làm chủ tập thể, thể hiện một nội dung quan trọng của làm chủ tập thể là kết hợp việc phát huy sức mạnh của cộng đồng làm chủ với việc phát huy sức mạnh của cá nhân làm chủ trong khuôn khổ và phù hợp với sự làm chủ của cộng đồng, là thực hiện đúng đắn sự thống nhất giữa ba lợi ích, bảo đảm lợi ích toàn xã hội, bảo đảm lợi ích của tập thể, chú ý đúng mức đến lợi ích cá nhân người lao động. Làm như thế là vừa nắm vững giá trị sử dụng, vừa rất coi trọng giá trị và quy luật giá trị.
ở trung ương, kế hoạch nhà nước phải hướng toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển theo đúng đường lối và chiến lược kinh tế - xã hội của Đảng, đồng thời vạch ra nhiệm vụ phát triển tổng quát của các ngành và các địa phương. Trên cơ sở tổng hợp nội dung chính của kế hoạch các ngành và kế hoạch các địa phương, kế hoạch nhà nước phải bảo đảm cho trung ương nắm chắc các lĩnh vực kinh tế chiến lược, các quan hệ cân đối lớn, các chỉ tiêu chủ yếu, các công trình và các sản phẩm quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phải xây dựng kế hoạch ngành. Kế hoạch ngành phải thể hiện chiến lược đúng đắn phát triển ngành mình trong phạm vi cả nước, phù hợp với chiến lược kinh tế - xã hội chung, không ngừng nâng cao trình độ khoa học, kỹ thuật của ngành, bằng cách làm tốt hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa mà thực hiện tái sản xuất mở rộng, đóng góp vào việc phát triển nền kinh tế quốc dân và bảo đảm các nhu cầu của toàn xã hội. Căn cứ vào quy hoạch chung của cả nước và phương hướng nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước, kế hoạch địa phương (gồm kế hoạch tỉnh và kế hoạch huyện) phải nhằm khai thác khả năng và thế mạnh của địa phương mình, mở rộng quan hệ trao đổi với các ngành, với các địa phương khác và thông qua xuất - nhập khẩu để tự cân đối nhu cầu sản xuất và đời sống, đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiệp cách mạng của cả nước. Kế hoạch cơ sở (trong công nghiệp có kế hoạch xí nghiệp hoặc xí nghiệp liên hợp, trong nông nghiệp có kế hoạch của hợp tác xã và kế hoạch của nông trường…) phải thể hiện sự sáng tạo và tính chủ động trong sản xuất, kinh doanh trên nguyên tắc tự chủ về tài chính; phải bù đắp được chi phí sản xuất và có lãi để đóng góp ngày càng nhiều cho cả nước, và để tái sản xuất mở rộng, tăng cường phúc lợi tập thể và khuyến khích vật chất cho cá nhân người lao động trong đơn vị mình. Mỗi cấp làm kế hoạch phải phát huy tinh thần chủ động, linh hoạt, nhạy bén, tinh thần biết buôn bán như Lênin nói; khắc phục tình trạng ỷ lại, trông chờ thụ động; thoát khỏi cách làm ăn tự cấp tự túc trong phạm vi nhỏ hẹp. Phải mở rộng thị trường trong nước, mở rộng thị trường với nước ngoài, qua đó mà khai thác khả năng và phát huy thế mạnh của mỗi cấp, quay vòng nhanh đồng vốn, mở rộng phân công lao động, chuyên môn hoá và hiệp tác, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Phải làm cho việc vạch kế hoạch ngày càng có căn cứ khoa học. Coi trọng đầy đủ các công tác điều tra cơ bản, dự đoán kinh tế và xã hội, dự đoán khoa học - kỹ thuật, lập quy hoạch dài hạn, phân vùng kinh tế, lập sơ đồ tổng thể phát triển và phân bố lực lượng sản xuất; xây dựng hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật tiến bộ, lập và lựa chọn các phương án kinh tế - kỹ thuật tốt, xây dựng các bảng cân đối liên ngành, gắn kế hoạch kinh tế - tài chính với kế hoạch tiến bộ khoa học - kỹ thuật. Phải trên cơ sở xây dựng kế hoạch có căn cứ khoa học, cân đối hiện thực, mà tăng cường tính pháp lệnh của kế hoạch.
Nghiên cứu khẩn trương, ban hành kịp thời và thực hiện nghiêm chỉnh các chính sách đòn bẩy kinh tế nhằm thúc đẩy mạnh và kiểm tra chặt chẽ hoạt động sản xuất, kinh doanh. Phải nâng cao vai trò của các hợp đồng kinh tế trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch, đề cao trách nhiệm hoàn thành các hợp đồng.
Vận dụng tốt quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan hệ thị trường, trong đó sử dụng thị trường có tổ chức là chính, đồng thời quản lý thật tốt thị trường tự do.
Tiếp tục tổ chức lại nền sản xuất xã hội. Xây dựng, củng cố và tăng cường các đơn vị cơ sở về mọi mặt, đưa việc quản lý sản xuất, kinh doanh đi vào nền nếp. Phải sớm xác định hình thức tổ chức thích hợp cho từng loại đơn vị cơ sở trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, giao thông, thương nghiệp, vật tư, v.v.. Các cấp trên có trách nhiệm giúp đỡ cho cơ sở và từng cơ sở phải phấn đấu bảo đảm việc cung ứng vật tư, phụ tùng và phương tiện cần thiết để cho quá trình sản xuất được ổn định và liên tục. Phải sớm xây dựng những mối liên hệ kinh tế hợp lý và linh hoạt về cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm cho cơ sở. Trong từng cơ sở, phải chăm lo bồi dưỡng sức khoẻ, rèn luyện, nâng cao tay nghề và tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động yên tâm, phấn khởi sản xuất. Đồng thời với việc củng cố và tăng cường cơ sở, phải tích cực xây dựng các ngành kinh tế - kỹ thuật. Chuẩn bị chu đáo và tổ chức một cách hợp lý, vững chắc các công ty và tổng công ty chuyên doanh (cả nước hoặc khu vực) và các hình thức liên hiệp khác trong các lĩnh vực sản xuất, xây dựng, vận tải, lưu thông. Xây dựng ngành kinh tế - kỹ thuật phải kết hợp với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế địa phương.
Chấn chỉnh tổ chức bộ máy phù hợp với yêu cầu của cơ chế quản lý mới, làm cho bộ máy khỏi cồng kềnh, nặng nề, chồng chéo, khẩn trương giải quyết tốt việc phân cấp giữa trung ương và địa phương. Nêu cao chức năng của Hội đồng Bộ trưởng quản lý thống nhất nền kinh tế quốc dân, phát huy vai trò quan trọng của các bộ tổng hợp cũng như các bộ quản lý ngành. Ra sức kiện toàn cấp huyện, tăng cường đích đáng cấp tỉnh và thành phố, chú ý xác định rõ vị trí của quận và phường. Coi trọng nâng cao năng lực và hiệu quả công tác điều hành của các cấp quản lý, bảo đảm phối hợp tốt các lực lượng, tập trung cho các nhiệm vụ chính, kiểm tra sát sao, thưởng phạt nghiêm minh, kịp thời tổng kết và phổ biến kinh nghiệm. Điều quyết định thành công của việc đổi mới chế độ quản lý kinh tế là phải có một chuyển biến thật mạnh về công tác cán bộ. Đặc biệt phải bố trí đúng cán bộ chủ chốt ở các cơ sở sản xuất, kinh doanh lớn, ở các địa phương, nhất là những địa phương thuộc địa bàn trọng điểm, ở các ngành, nhất là các ngành tổng hợp và những ngành kinh tế - kỹ thuật then chốt hiện đang còn yếu.
Thực hiện đồng bộ các chính sách lớn trên đây là tạo ra sức mạnh tổng hợp để chuyển biến một bước cơ bản thực trạng của nền kinh tế quốc dân. Song sức mạnh tổng hợp không chỉ là kết quả của việc thực hiện những chính sách và biện pháp ấy, mà còn là kết quả của việc thực hiện toàn bộ đường lối chung và đường lối kinh tế của Đảng. Chế độ làm chủ tập thể, nền văn hoá mới và con người mới là mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, đồng thời là động lực mạnh mẽ của công cuộc xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. ý thức và năng lực làm chủ tập thể, trình độ văn hoá và kiến thức, những tư tưởng và tình cảm yêu nước, yêu lao động của nhân dân phải trở thành lực lượng vật chất thúc đẩy sản xuất phát triển. Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý phải được thể hiện cụ thể ở tất cả các ngành, các cấp bằng các mối quan hệ đúng đắn và phương pháp hoạt động thích hợp, nhằm động viên cho được phong trào cách mạng sôi nổi của đông đảo quần chúng, thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế và xã hội của những năm 80.
Trong 5 năm 1981-1985, chúng ta cần tập trung lực lượng phấn đấu thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
1- Giải quyết những vấn đề cấp bách nhất để ổn định và cải thiện một bước đời sống của nhân dân. Bảo đảm lương thực để giải quyết vấn đề ăn cho xã hội. Cung ứng cho công nhân, viên chức, bộ đội đủ lương thực, thực phẩm theo định lượng. Giải quyết vải mặc cho toàn dân ở mức cần thiết tối thiểu. Bảo đảm giấy viết, giấy in sách giáo khoa, giấy in báo. Bảo đảm những loại thuốc chữa bệnh thiết yếu. Cung ứng khá hơn các đồ dùng gia đình và đồ dùng cá nhân thông thường. Tăng thêm phương tiện đi lại. Giải quyết một bước khó khăn về thiếu nhà ở và cải thiện một bước điều kiện ở của cư dân thành phố, nhất là tăng thêm nước sinh hoạt, cung ứng điện hợp lý và bảo đảm vệ sinh. Tổ chức tốt hơn đời sống văn hoá và tinh thần của nhân dân.
2- Phát triển và sắp xếp lại sản xuất. Ra sức khai thác mọi khả năng sẵn có và tiềm tàng, nhằm tạo ra thế cân đối mới cho nền kinh tế. Tập trung sức cao độ cho mặt trận nông nghiệp; đẩy mạnh phát triển lâm nghiệp và ngư nghiệp; ra sức phát triển sản xuất hàng tiêu dùng, đưa công nghiệp thực phẩm và công nghiệp nhẹ tiến lên một bước. Cung ứng khá hơn điện, than, sản phẩm cơ khí, kim loại, hoá chất, nguyên liệu cho các cơ sở kinh tế; phân phối một cách tập trung, đồng bộ và theo thứ tự ưu tiên hợp lý trên cơ sở tính toán kỹ hiệu quả kinh tế chung. Đẩy mạnh thăm dò và khai thác dầu khí. Phát triển kinh tế địa phương, tích cực xây dựng huyện. Sắp xếp lại lực lượng lao động phù hợp với sắp xếp lại sản xuất và xây dựng cơ bản. Củng cố, sớm phát huy hiệu quả các vùng kinh tế mới đã xây dựng. Tiếp tục thực hiện việc phân công và phân bố lại lao động xã hội.
Cải tiến quản lý và tăng cường cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật và phương tiện để nâng cao năng lực giao thông vận tải. Bảo đảm tiếp nhận hàng nhập khẩu, vận chuyển hàng xuất, vận chuyển Bắc - Nam, vận chuyển cho các vùng trọng yếu về kinh tế và quốc phòng, cho các công trình xây dựng trọng điểm, cho hai nước Lào và Campuchia anh em.
3- Bố trí lại xây dựng cơ bản cho phù hợp với khả năng và theo hướng tạo thêm điều kiện để phát huy các cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có, nhằm vào các mục tiêu cấp bách nhất về kinh tế và xã hội. Đồng bộ hoá, cải tạo, mở rộng và nâng cao các cơ sở sẵn có; kiên quyết đình, hoãn những công trình chưa có điều kiện xây dựng hoặc chưa thật cấp bách; tiếp tục xây dựng những công trình dở dang có điều kiện và có nhu cầu cấp bách; xây dựng mới có trọng điểm và theo khả năng một số công trình bức thiết nhằm đáp ứng nhu cầu của kế hoạch 5 năm 1981-1985 và những năm sau. Nâng cao hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
4- Cải tiến công tác phân phối, lưu thông, thiết lập một bước trật tự mới trên mặt trận này. Điều chỉnh từng bước vững chắc hệ thống giá, kiên quyết phấn đấu kiểm soát cho được tiến tới ổn định giá cả. Bảo đảm tiền lương thực tế của công nhân, cán bộ, viên chức, tiếp tục cải tiến tiền lương, tạo điều kiện để cải cách chế độ tiền lương; chăm lo phúc lợi tập thể. Bảo đảm thu nhập thoả đáng để khuyến khích nông dân hăng hái sản xuất. Cải tiến và tăng cường thương nghiệp quốc doanh và tập thể, quản lý chặt chẽ thị trường trong cả nước, kiên quyết loại trừ đầu cơ, buôn lậu. Bảo đảm cho Nhà nước nắm tuyệt đại bộ phận lương thực hàng hoá, toàn bộ sản phẩm của kinh tế quốc doanh và phần lớn hàng hoá khác trong xã hội, để phân phối theo kế hoạch là chính. Phấn đấu thăng bằng ngân sách, cải thiện một bước quan trọng tình hình lưu thông tiền tệ.
5-         Quyết tâm đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, hoàn thành về cơ bản việc hợp tác hoá nông nghiệp ở các tỉnh Nam Bộ với hình thức phổ biến là tập đoàn sản xuất, phấn đấu hoàn thành về cơ bản cải tạo thương nghiệp, vận tải, công nghiệp, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp ở miền Nam bằng cách làm và hình thức thích hợp. Củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước về các mặt chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối.
6- Làm tốt hợp tác kinh tế với Liên Xô, với Lào và Campuchia, với các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế. Ra sức phấn đấu tạo cho được một chuyển biến lớn về xuất khẩu, giảm một bước quan trọng chênh lệch giữa xuất và nhập.
7- Thực hành tiết kiệm nghiêm ngặt, đặc biệt coi trọng tiết kiệm trong xây dựng cơ bản và sản xuất. Phải tiết kiệm từng giờ lao động, từng gam nguyên liệu, nhiên liệu, sử dụng hợp lý thiết bị, máy móc, trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật tiến bộ. Sử dụng hợp lý và hết sức tiết kiệm đất đai. Phấn đấu tiết kiệm hằng năm từ 5 đến 10% năng lượng, vật tư, lương thực. Tận dụng phế liệu, phế phẩm và phát động rộng rãi phong trào thu nhặt để sử dụng lại các đồ phế thải. Nâng cao trách nhiệm giữ gìn hàng hoá, tránh rơi vãi, hao hụt, tránh giảm phẩm chất. Nghiêm cấm các cơ quan, đơn vị chi tiêu ngoài chế độ. Tích cực vận động tiêu dùng tiết kiệm trong nhân dân. Kiên quyết đấu tranh chống lãng phí, mất mát; nghiêm khắc trừng trị các hành động ăn cắp hàng hoá, vật tư nhà nước.
8- Làm tốt việc ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống. Triển khai có hiệu quả các chương trình khoa học và kỹ thuật trọng điểm, tích cực hoàn chỉnh các phương án kinh tế - kỹ thuật chủ yếu, góp phần xây dựng kế hoạch 5 năm 1981-1985. Tăng cường quản lý kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất của nhân dân lao động. Phối hợp hoạt động của các ngành khoa học xã hội và các ngành khoa học kỹ thuật nhằm góp phần có hiệu quả vào việc đổi mới hệ thống quản lý và kế hoạch hoá.
9- Đổi mới một bước hệ thống quản lý kinh tế. Tạo cho được một sự chuyển biến về kế hoạch hoá, theo hướng các cấp quản lý: trung ương, địa phương và cơ sở đều làm kế hoạch, xây dựng kế hoạch từ cơ sở, gắn kế hoạch với hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Rất coi trọng cải tiến và tăng cường việc điều hành thực hiện kế hoạch, kiên quyết tập trung lực lượng và phương tiện một cách đồng bộ cho những nhiệm vụ và những khâu then chốt. Kết hợp chặt chẽ ba loại biện pháp: kinh tế, hành chính và giáo dục, coi trọng biện pháp kinh tế. Tiếp tục ban hành kịp thời một số chính sách đòn bẩy cấp bách nhằm khuyến khích sản xuất, tăng năng suất bảo đảm thống nhất ba lợi ích. Chấn chỉnh bộ máy tổ chức quản lý, cải tiến chế độ làm việc, tăng cường công tác thông tin kinh tế. Đẩy mạnh phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa sôi nổi và bền bỉ.
10- Đẩy mạnh các hoạt động văn hoá, y tế phù hợp với yêu cầu và khả năng kinh tế. Thực hiện cải cách giáo dục một cách tích cực và vững chắc; hết sức coi trọng nâng cao chất lượng giáo dục. Xác định quy mô hợp lý và tiếp tục đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề. Ra sức phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao. Tăng cường bảo vệ sức khoẻ nhân dân, làm tốt công tác vệ sinh, phòng bệnh, chữa bệnh và vệ sinh môi trường. Đấu tranh kiên quyết để loại trừ mọi ảnh hưởng văn hoá phản động, lạc hậu, đồi truỵ. Bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan.
11- Tăng cường quản lý xã hội, kiên quyết đấu tranh chống các hành vi phạm pháp, tệ nạn xã hội và các biểu hiện tiêu cực khác, đề cao kỷ cương trong quản lý nhà nước, quản lý kinh tế; giữ vững trật tự và an toàn xã hội. Kiên quyết ngăn chặn và trừng trị những hoạt động phá hoại kinh tế, đấu tranh có hiệu quả chống chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp của địch. Xây dựng nếp sống văn hoá xã hội chủ nghĩa, lành mạnh, tươi vui.
12- Bảo đảm các nhu cầu về kinh tế của công cuộc củng cố quốc phòng và an ninh, bảo vệ đất nước, đồng thời huy động năng lực công nghiệp quốc phòng và sử dụng hợp lý lực lượng quân đội vào những hoạt động kinh tế thích hợp.
Như vậy, thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội của chặng đường trước mắt, những năm 1981 - 1985 là những năm phát triển thêm một bước, sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân. Ba mặt đó kết hợp chặt chẽ với nhau, nhằm cơ bản ổn định được tình hình kinh tế và xã hội, đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất của đời sống nhân dân, giảm nhẹ những chỗ mất cân đối nghiêm trọng nhất của nền kinh tế, khắc phục một bước quan trọng tình trạng không bình thường về phân phối, lưu thông, tăng thêm tiền đề và điều kiện để tiến lên mạnh mẽ và vững chắc hơn trong những năm sau.
Phần III
Những nhiệm vụ văn hoá, xã hội
Thưa các đồng chí,
Những năm qua, cùng với sự hình thành dần dần chế độ mới và nền kinh tế mới, việc xây dựng nền văn hoá mới và con người mới đã thu được những thành tích nhất định. Với chế độ mới, nhân dân ta đã vứt bỏ được những xiềng xích nghìn năm trói buộc con người; người lao động từ địa vị làm thuê đã bước lên vị trí người chủ chân chính của đất nước và xã hội, giành lại những phẩm giá dân tộc và phẩm giá làm người.
Đó là thành quả cách mạng vĩ đại nhất. Nhưng vì xã hội ta mới bước vào thời kỳ quá độ, cho nên bên cạnh những con người mới xã hội chủ nghĩa đang hình thành, những nét mới, tiến bộ trong con người đang nảy nở, còn không ít những biểu hiện tiêu cực, không lành mạnh. Cuộc đấu tranh giữa hai con đường: giữa cái mới với cái cũ, tiên tiến với lạc hậu, tiến bộ với phản động trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng, lối sống, đang diễn ra hằng ngày, rất phức tạp, mà chúng ta không thể nào xem nhẹ.
Trước mắt, chúng ta phải đấu tranh kiên quyết và có hiệu quả chống các hiện tượng tiêu cực trong đời sống văn hoá và xã hội. Phải có những biện pháp đồng bộ, về nhiều mặt: kinh tế, hành chính, tổ chức, tư tưởng, văn hoá. Đồng thời phải thấy rằng cuộc đấu tranh nhằm xây dựng con người mới và nền văn hoá mới là một cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp và đầy khó khăn. Nó không thể tách rời cuộc đấu tranh kiên quyết, liên tục và sâu sắc nhằm quét sạch những tàn dư tư tưởng và văn hoá lạc hậu, phản động, sản phẩm của xã hội cũ - xã hội phong kiến đã từng tồn tại hàng nghìn năm, đặc biệt là chế độ thực dân cũ và mới ở miền Nam mấy chục năm gần đây; không thể tách rời cuộc đấu tranh mạnh mẽ, bền bỉ và triệt để chống chiến tranh tâm lý, tẩy trừ và thường xuyên ngăn ngừa mọi ảnh hưởng của các loại văn hoá phản động, đồi truỵ do bọn đế quốc... và bè lũ tay sai lén lút đưa từ ngoài vào. Mấy năm qua, chúng ta nhận thức chưa đầy đủ và có phần buông lỏng các mặt đấu tranh đó. Trách nhiệm nặng nề của cách mạng tư tưởng và văn hoá là tiếp tục cải tạo và xây dựng con người, đề cao người tốt, việc tốt, phê phán cái xấu và không lành mạnh, tạo điều kiện thúc đẩy toàn bộ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta nhận thức rằng chế độ mới và nền kinh tế mới có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành nền văn hoá mới, con người mới. Ngược lại, những thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới, con người mới là một động lực to lớn thúc đẩy tiến trình xây dựng chế độ mới và nền kinh tế mới.
Xây dựng nền văn hoá mới và con người mới là điều cần và có thể thực hiện từng bước, từng phần ngay từ hôm nay. Trong chặng đường trước mắt này, có những điều kiện khách quan và chủ quan cho phép chúng ta bước đầu tạo ra một xã hội đẹp về lối sống, về quan hệ giữa người và người, một xã hội trong đó nhân dân lao động cảm thấy sống hạnh phúc, tuy mức sống vật chất còn chưa cao. Bởi vì, như Đại hội lần thứ IV của Đảng đã chỉ ra rất đúng, không phải trình độ văn hoá của xã hội phụ thuộc máy móc vào trình độ phát triển kinh tế.
Làm chủ tập thể là hạnh phúc lớn nhất, đồng thời là cái đẹp cao nhất của con người. Hạnh phúc là từng bước thực hiện làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân, mọi người cùng nhau lao động và chiến đấu cho sự phát triển của cộng đồng xã hội để có đủ cơm no, áo ấm, đồng thời có cuộc sống vui tươi, lành mạnh, bình đẳng và hoà hợp, trong lao động tự do, tình thương và lẽ phải; mỗi người được phát triển đầy đủ nhân cách, tài năng và năng khiếu của mình, trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân, gia đình và xã hội, thực hiện đạo lý cao cả "mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người".
Đại hội lần thứ IV của Đảng đã chỉ rõ nền văn hoá mới là nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Nền văn hoá mới vừa kết tinh và nâng lên một tầm cao mới những gì đẹp nhất trong truyền thống bốn nghìn năm của tâm hồn Việt Nam, của văn hoá Việt Nam, vừa hấp thụ có chọn lọc những thành quả của văn minh loài người, những thành tựu văn hoá, khoa học hiện đại. Nền văn hoá mới kết hợp hài hoà những tinh hoa văn hoá có phong cách riêng của các dân tộc anh em trong gia đình dân tộc Việt Nam.
Người Việt Nam vốn có lòng yêu nước thiết tha, có tinh thần dân chủ, bình đẳng trong quan hệ giữa người với người. "Thương nước - thương nhà, thương người - thương mình" là truyền thống đậm đà của nhân dân ta. Nhờ có tinh thần yêu nước và dân chủ ấy mà trong suốt quá trình lịch sử bốn nghìn năm, dân tộc ta đã làm nên những chiến công oanh liệt. Từ ngày có Đảng, dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, truyền thống yêu nước và dân chủ của nhân dân ta được nâng lên một trình độ mới và phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Hiện nay, nước ta xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động, đó vừa là thực hiện tính quy luật của thời đại, vừa là kế thừa và nâng cao truyền thống văn hoá yêu nước và dân chủ hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam.
Xây dựng nền văn hoá mới, con người mới là sự nghiệp mang nội dung toàn diện. Trong đó, hệ thống giáo dục bao gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, giáo dục đại học và trên đại học có tầm quan trọng hàng đầu.
Trong những năm qua, với sự cố gắng to lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân, của các cô giáo, thầy giáo, công tác giáo dục tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Sự nghiệp giáo dục đang bắt đầu chuyển biến theo phương hướng cải cách giáo dục do Đại hội lần thứ IV của Đảng đề ra. Các ngành học đều nỗ lực khắc phục nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, vượt qua những trở ngại do đời sống kinh tế còn thiếu thốn gây ra, cố gắng duy trì đều đặn việc dạy và học. Ngày nay, số trẻ em được gửi ở nhà trẻ và đến lớp mẫu giáo lên tới 2,7 triệu, số học sinh phổ thông lên tới 12,5 triệu, số học sinh đại học 150 nghìn. ở miền Nam, đã nhanh chóng cải tạo nền giáo dục Mỹ - nguỵ, xoá bỏ trường tư, xoá bỏ đặc quyền của các giai cấp bóc lột trong trường học. Đã xây dựng cơ sở của nền giáo dục cách mạng, thống nhất chương trình giảng dạy, mở rộng trường cho con em nhân dân lao động và các dân tộc, phát triển giáo dục mầm non, phổ thông và đại học, đẩy mạnh bổ túc văn hoá.
Những thành tựu về giáo dục vẫn là một niềm tự hào của chế độ ta. Tuy nhiên, công tác giáo dục chưa đáp ứng những yêu cầu của cách mạng hiện nay. Nói chung, toàn bộ hệ thống giáo dục chưa chuẩn bị tốt về phẩm chất và năng lực cho thế hệ trẻ đi vào lao động sản xuất, đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội, và làm nghĩa vụ bảo vệ đất nước với tư cách người làm chủ, có kỹ năng thực hành và trình độ nghề nghiệp cần thiết, phục vụ sự nghiệp phát triển và cải tạo kinh tế, văn hoá, củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Quy hoạch và kế hoạch phát triển giáo dục, nhất là của ngành đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, thiếu cân đối và ăn khớp với kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân. Việc phân phối và sử dụng học sinh ra trường làm chưa tốt.
Vấn đề lớn nhất hiện nay là chất lượng giáo dục giảm sút nghiêm trọng. Không những chúng ta để giảm sút chất lượng văn hoá, khoa học - kỹ thuật, mà còn buông lỏng việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng và đạo đức xã hội chủ nghĩa cho thế hệ trẻ. Việc tổ chức và chỉ đạo quá trình đào tạo thiếu chặt chẽ và nghiêm túc. Trường sở và những dụng cụ, thiết bị phục vụ dạy và học quá thiếu thốn, lại không được sử dụng, bảo quản tốt.
Toàn bộ cố gắng của sự nghiệp giáo dục phải thấu suốt mục tiêu đào tạo nên những con người mới, những người lao động làm chủ tập thể, thiết tha yêu nước và có tinh thần quốc tế vô sản trong sáng. Phải bảo đảm cho thế hệ trẻ dần dần làm chủ được kho tàng văn hoá, kiến thức của loài người, biến được kiến thức thành niềm tin, thành thế giới quan và phương pháp tư duy khoa học, từ đó trang bị cho con người khả năng suy nghĩ sáng tạo và hành động đúng đắn phù hợp với lý tưởng cao cả của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, và luôn luôn đứng vững trên lập trường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ trong những năm tới là triển khai cải cách giáo dục và phát triển sự nghiệp giáo dục một cách tích cực và vững chắc theo bước đi phù hợp với yêu cầu và khả năng của nền kinh tế quốc dân và phải ra sức phấn đấu nâng cao chất lượng giáo dục, coi trọng giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông. ở miền Nam và miền núi, đi đôi với mặt chất lượng phải rất chú trọng phát triển về số lượng trường lớp, nhất là ở bậc phổ thông, đồng thời không xem nhẹ công tác bổ túc văn hoá và xoá nạn mù chữ.
Củng cố và phát triển giáo dục mầm non; hoàn thành cơ bản phổ cập cấp I, phát triển tích cực, vững chắc và từng bước tiến tới phổ cập cấp II phổ thông cơ sở. Mở rộng loại trường phổ thông trung học vừa học vừa làm. Chấn chỉnh mạng lưới các trường dạy nghề, mở rộng nhiều hình thức đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ công nhân và lao động kỹ thuật cho các ngành công nghiệp cũng như cho các ngành nông nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp. Sắp xếp hợp lý mạng lưới các trường trung học chuyên nghiệp; các trường đại học, đặc biệt quan tâm củng cố và nâng cao chất lượng các trường sư phạm. Có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng tốt đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế (kể cả số có trình độ trên đại học) cân đối và đồng bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong cả nước và ở từng vùng. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức trong nhà trường. Nâng cao vị trí, chất lượng và hiệu quả bộ môn giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin trong các trường đại học. Mỗi trường phải là một trận địa vững chắc của chủ nghĩa xã hội.
Việc thực hiện mục tiêu giáo dục đòi hỏi cố gắng và công sức của toàn xã hội. Dưới sự lãnh đạo của toàn Đảng, tổ chức tốt sự phối hợp giữa các ngành của chính quyền và các đoàn thể, đặc biệt là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ giữa Nhà nước với nhân dân, giữa nhà trường, gia đình và xã hội, đó là điều kiện cơ bản để thực hiện thắng lợi sự nghiệp giáo dục.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đánh giá cao vai trò của thầy giáo trong việc đào tạo các thế hệ tương lai. Mỗi cô giáo, thầy giáo, mỗi cán bộ quản lý giáo dục cần nhận rõ nhiệm vụ vẻ vang của mình, càng yêu người thì càng yêu nghề, nắm vững mục tiêu giáo dục, thật sự nêu gương về đạo đức, phẩm chất, ra sức cải tiến và nâng cao chất lượng mọi mặt công tác, hết lòng cống hiến những hiểu biết, lòng tin và tâm trí, năng lực sư phạm của mình vào sự nghiệp đào tạo những con người có ích nhất cho đất nước. Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải thường xuyên quan tâm xây dựng đội ngũ thầy giáo, có biện pháp từng bước nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học và nghiệp vụ, cố gắng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của thầy giáo.
Trong công cuộc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, vai trò cực kỳ quan trọng thuộc về lĩnh vực hoạt động văn hoá nghệ thuật: văn học, sân khấu, điện ảnh, nhiếp ảnh, âm nhạc, mỹ thuật, kiến trúc, bảo tồn bảo tàng, v.v..
Việc thực hiện những nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng về mặt này thu được một số kết quả khá tốt. "Văn hoá" thực dân mới ở miền Nam bị xoá bỏ về cơ bản, văn hoá cách mạng trong kháng chiến càng phát triển mạnh mẽ sau ngày giải phóng. Phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng, những hoạt động triển lãm, thư viện, câu lạc bộ, nhà văn hoá, v.v. tiếp tục được mở rộng. Một nét mới ở nông thôn là sự hình thành từng bước mạng lưới văn hoá ở một số huyện song song với việc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất - kỹ thuật của văn hoá. Trong sáng tác văn hoá, nghệ thuật mấy năm qua, đã xuất hiện một số tác phẩm có giá trị, phát huy tác dụng rõ rệt về mặt xây dựng tư tưởng, tình cảm mới. Một số tác phẩm và nghệ sĩ giành được giải thưởng cao trong các cuộc thi quốc tế. Rõ ràng, sự nghiệp xây dựng và cải tạo nền văn hoá theo phương hướng xã hội chủ nghĩa đã tiến một bước.
 Nhưng xã hội đang có những nhu cầu to lớn và ngày càng tăng về văn hoá. Công tác văn hoá, văn nghệ chưa vươn tới đáp ứng được những nhu cầu mới của xã hội. Những chỉ tiêu về xem chiếu bóng và thưởng thức nghệ thuật tính theo đầu người tăng lên, song, do khó khăn về kinh tế, những chỉ tiêu về sách, báo và văn hoá phẩm lại giảm. Bên cạnh những sản phẩm văn hoá tốt, nói chung chất lượng của nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ chưa cao, nội dung xã hội chủ nghĩa chưa sâu sắc, chưa có sức hấp dẫn mạnh, chưa gây được những ấn tượng sâu sắc, hướng con người vào những suy nghĩ và hành động đúng đắn. Trong hoạt động văn hoá, văn nghệ, bên cạnh những cố gắng tìm tòi và sáng tạo cái mới, cái tiến bộ cần được hết sức trân trọng và khuyến khích, đáng tiếc có những hiện tượng lệch lạc, những khuynh hướng không lành mạnh nảy sinh. Trong khi đó, cuộc đấu tranh trên mặt trận văn hoá có nơi bị buông lỏng, khiến cho những tàn dư văn hoá thực dân mới, những hủ tục, mê tín dị đoan có chiều hướng trỗi dậy ở nhiều nơi và ảnh hưởng cả đến một số không ít thanh niên nam, nữ. Các cấp uỷ đảng và chính quyền, các cơ quan làm công tác tư tưởng và văn hoá phải thấy hết trách nhiệm của mình và tăng cường quản lý đời sống văn hoá.
Ra sức phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, văn nghệ thích hợp cho mọi người và những hoạt động phù hợp với từng lứa tuổi, từng địa phương, từng dân tộc, nhằm thoả mãn nhu cầu văn hoá to lớn và ngày càng tăng của nhân dân. Mở rộng hơn nữa phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng, thật sự gắn với phong trào sản xuất và chiến đấu, tạo ra cơ sở và nguồn nuôi dưỡng không bao giờ cạn cho nền văn hoá mới của chúng ta. Thắt chặt quan hệ giữa văn hoá, văn nghệ quần chúng với các hoạt động văn hoá, văn nghệ chuyên nghiệp, nâng cao không ngừng trình độ sáng tạo và thưởng thức của quần chúng. Kiên trì xây dựng nếp sống mới lành mạnh, khoa học, tiết kiệm và giản dị; bảo vệ và phát triển các giá trị tinh thần. Kiên quyết bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan; tiếp tục đấu tranh quét sạch văn hoá thực dân mới và ảnh hưởng của loại văn hoá phản động, đồi truỵ khác. Tất cả những việc đó nhằm làm cho tư tưởng, tình cảm, lối sống mới thật sự chiếm ưu thế trong đời sống nhân dân, nhằm làm cho cả nước có chung một ý chí: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
 Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hoá là đưa văn hoá thâm nhập vào cuộc sống hằng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, bảo đảm mỗi nhà máy, công trường, nông trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã, phường ấp, đều có đời sống văn hoá. Tổ chức tốt hơn nữa đời sống văn hoá ở thành phố, thị xã, làm cho thành thị xứng đáng giữ vai trò tiêu biểu cho nền văn hoá mới. Hết sức chăm lo xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn, chú ý đến vùng căn cứ cũ, vùng có đồng bào các dân tộc. Xây dựng một số công trình như nhà văn hoá, rạp chiếu bóng, thư viện, sân vận động, v.v. ở huyện lỵ và các xã trong huyện, tạo thành một mạng lưới có chức năng xây dựng, phát triển và truyền bá nền văn hoá mới ở nông thôn. Để xây dựng những công trình kể trên và để phát triển đời sống văn hoá, phải thực hiện chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Văn nghệ là một lĩnh vực rất quan trọng và rất phức tạp của văn hoá và của đời sống xã hội. Đảng phải tăng cường sự lãnh đạo đối với lĩnh vực này, đồng thời cải tiến sự lãnh đạo cho phù hợp với tính đặc thù của nó. Đảng tin tưởng và đánh giá cao sự cống hiến của anh chị em văn nghệ sĩ, luôn luôn mong mỏi trên đất nước ta xuất hiện nhiều tài năng sáng tạo, nhiều sản phẩm văn nghệ có giá trị cao về tính tư tưởng và trình độ nghệ thuật, xứng đáng với đất nước nghìn năm văn hiến và dân tộc anh hùng. Đảng khuyến khích mọi tìm tòi, sáng tạo, khuyến khích sự phát triển của phong cách và tài năng nghệ thuật. Đồng thời Đảng yêu cầu văn nghệ sĩ nắm vững phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, nêu cao tính đảng và trách nhiệm của người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, tư tưởng trong giai đoạn mới của cách mạng, phục vụ đắc lực hơn nữa lợi ích của nhân dân, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Báo chí, xuất bản, phát thanh, thông tin, cổ động, vô tuyến truyền hình, v.v., tóm lại, toàn bộ lĩnh vực thông tin đại chúng, là những bộ phận rất quan trọng của mặt trận văn hoá, tư tưởng. Mấy năm qua, các ngành này có những cố gắng lớn trong việc phổ biến những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, những tư tưởng tiến bộ, những kiến thức khoa học và kỹ thuật, những thành tựu văn hoá và nghệ thuật của dân tộc và của loài người. Song, quần chúng và sự nghiệp cách mạng đang đòi hỏi toàn bộ lĩnh vực thông tin đại chúng phải nâng cao hơn nữa về tính tư tưởng, về chất lượng và hiệu quả. Hiện nay, báo chí còn nghèo nàn về nội dung, lượng thông tin ít, hình thức kém hấp dẫn, sức thuyết phục và tác dụng giáo dục chưa cao. Các buổi phát thanh không phải bao giờ cũng có sức lôi cuốn người nghe. Vô tuyến truyền hình còn phải phấn đấu nhiều để nâng cao chất lượng và làm phong phú nội dung chương trình. Các sách, báo chính trị, lý luận xuất bản được còn quá ít. Quần chúng đang đòi hỏi những công trình nghiên cứu có chất lượng khoa học, các loại sách trình bày những kiến thức chính trị và lý luận Mác - Lênin một cách phong phú, sinh động, hấp dẫn và phù hợp với mỗi loại đối tượng: công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, v.v.. Toàn bộ các hoạt động tuyên truyền đại chúng phải được nâng cao về tính thực tiễn, tính chân thực, tính chiến đấu, trình độ kỹ thuật và nghệ thuật biểu hiện, diễn đạt. Trên mặt trận thông tin, tuyên truyền, ta phải luôn luôn làm chủ tình hình ở mọi nơi, mọi lúc, kiên quyết tiến công địch, giành thắng lợi từng ngày, từng giờ, kịp thời đập tan những luận điệu và thủ đoạn chiến tranh tâm lý của địch. Hiện nay, ở nhiều vùng nông thôn, ở các vùng núi, nhất là ở các vùng cao, vùng biên giới, rất thiếu báo, thiếu máy thu thanh, thiếu những phương tiện thông tin, tuyên truyền rất cần thiết; tình trạng đó cần phải được các ngành có liên quan tìm cách giải quyết với sự cố gắng cao nhất.
Thể dục thể thao là một bộ phận quan trọng, không thể thiếu được trong công cuộc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới. Đảng và Nhà nước phải chăm lo hơn nữa phát triển thể dục thể thao nhằm góp phần tăng cường sức khoẻ của nhân dân, xây dựng những phẩm chất tốt đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa như lòng dũng cảm, nghị lực, sự khéo léo, trí thông minh và óc thẩm mỹ, tinh thần tập thể và lòng trung thực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong những năm qua, phong trào thể dục thể thao quần chúng ở cơ sở đã có những tiến bộ đáng kể và bắt đầu mở rộng thêm trên địa bàn một số huyện, một số ngành. Đội ngũ vận động viên các môn thể thao được phát triển một bước. Tuy nhiên, phong trào phát triển chưa rộng và thiếu thường xuyên; thành tích và kỷ lục các môn thể thao còn thấp.
Để bảo đảm cho sự nghiệp thể dục thể thao của nước ta phát triển vững chắc, đem lại những hiệu quả thiết thực, từng bước xây dựng nền thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa phát triển cân đối, có tính chất dân tộc, khoa học và nhân dân, trong những năm tới cần mở rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động thể dục, thể thao quần chúng, trước hết là trong học sinh, thanh niên, và các lực lượng vũ trang. Đồng thời tích cực xây dựng đội ngũ vận động viên ngày càng đông đảo, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt và đạt thành tích, kỷ lục cao. Muốn vậy, cần tăng cường hệ thống tổ chức quản lý công tác thể dục thể thao ở các cấp, các ngành, các đoàn thể; nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học, kỹ thuật và từng bước tăng thêm cơ sở vật chất - kỹ thuật của thể dục, thể thao.
Trong mấy năm qua, chúng ta đứng trước những nhu cầu ngày càng lớn và toàn diện về bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Thực hiện Nghị quyết do Đại hội lần thứ IV của Đảng đề ra, chúng ta đã kiên trì phương hướng y học dự phòng, có tiến bộ trong việc kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc. Chúng ta đã mau chóng thống nhất được tổ chức y tế, tạo được phong trào quần chúng thực hiện vệ sinh phòng bệnh, tăng cường một bước cán bộ và trang bị, nhất là ở cơ sở và trên địa bàn từng huyện. Nhờ vậy, về cơ bản đã ngăn ngừa, khống chế kịp thời các bệnh dịch, bảo đảm tốt mọi yêu cầu cấp cứu chiến thương, làm giảm rõ rệt tỷ lệ mắc một số bệnh xã hội, tăng được khả năng khám bệnh, chữa bệnh và tự lực về thuốc. Chúng ta đã bước đầu thực hiện được công tác quản lý sức khoẻ đối với một số bệnh và một số đối tượng. Riêng ở miền Nam, đã giải quyết có hiệu quả một số bệnh và tệ nạn xã hội, sản phẩm của chế độ Mỹ - nguỵ, đem lại cuộc sống mới cho hàng chục vạn người.
Tuy vậy, vẫn còn rất nhiều việc phải làm trên lĩnh vực bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Tình hình vệ sinh môi trường hiện nay, nhất là ở các khu vực công cộng tại các thành phố, thị xã, khu công nghiệp tập trung, đang có nhiều vấn đề phải giải quyết. Tình hình thiếu thuốc, thiếu các phương tiện chuyên môn đang gây trở ngại cho việc chữa bệnh. Trên cơ sở phát huy lực lượng to lớn của nhân dân, khả năng của các địa phương và các ngành có liên quan, chúng ta cần đầu tư thích đáng để bảo vệ và từng bước làm sạch môi trường, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác phòng và chống dịch, phòng và chống các bệnh xã hội; tổ chức tốt hơn việc khám và chữa bệnh. Tiếp tục phát huy và phát triển y học cổ truyền dân tộc, kết hợp có hiệu quả hơn nữa y học cổ truyền dân tộc với y học hiện đại. Củng cố và phát triển mạng lưới y tế nhất là tuyến cơ sở và tuyến huyện, quận. Một nhiệm vụ cấp bách là khai thác mọi khả năng sẵn có trong nước nhằm tạo cho được các nguồn dược liệu; tích cực xây dựng công nghiệp dược phẩm và sản xuất thiết bị y tế, tạo mọi điều kiện để sớm khắc phục tình trạng thiếu thuốc, kể cả bằng con đường xuất để nhập.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta quý trọng sự cống hiến lớn lao của cán bộ y tế từ trung ương đến cơ sở, những chiến sĩ mà chức năng cao quý là chăm lo sự sống của con người. Bảo vệ sức khoẻ của nhân dân là một nhiệm vụ cách mạng cao cả. Mỗi cán bộ y tế, thầy thuốc cũng như người bào chế thuốc, từ giáo sư, bác sĩ, đến y tá và nhân viên phục vụ, cần nhận rõ nhiệm vụ vẻ vang của mình, nêu cao đạo đức của người cán bộ y tế xã hội chủ nghĩa "thầy thuốc như mẹ hiền", hết lòng cống hiến trí tuệ, lương tâm để phục vụ người bệnh, và chăm lo sức khỏe của nhân dân. Các cấp uỷ đảng và chính quyền cần quan tâm tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ y tế nâng cao trình độ nghề nghiệp, trau dồi phẩm chất chính trị, đồng thời cố gắng tìm cách cải thiện đời sống của anh chị em, nhất là cán bộ y tế ở cơ sở.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đời đời ghi nhớ công lao các liệt sĩ, thương binh. Mặc dù hoàn cảnh kinh tế đang có khó khăn, chúng ta đã có những cố gắng to lớn để sắp xếp việc làm thích hợp cho anh chị em thương binh, nuôi dưỡng những người bị thương tật nặng, tổ chức quần chúng chăm sóc thương binh, giúp đỡ gia đình các liệt sĩ. Thể hiện truyền thống đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công với nước, các tầng lớp nhân dân ta, đặc biệt là chị em phụ nữ và các cháu thiếu niên, nhi đồng, đã góp phần rất tích cực vào công tác thương binh liệt sĩ bằng muôn ngàn việc làm thiết thực và cảm động. Trong thời gian tới, các cấp uỷ đảng, chính quyền và các đoàn thể phải có sự quan tâm thường xuyên và chấp hành đầy đủ chính sách đối với thương binh và gia đình liệt sĩ.
Theo tinh thần nhân đạo của chế độ ta, Nhà nước và nhân dân ta đã làm nhiều việc để chăm sóc, giúp đỡ, nuôi dưỡng những người già cả, cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật. Các công việc này đã được đẩy mạnh trong Năm quốc tế những người tàn tật. Từ nay về sau, chúng ta cần tiếp tục phấn đấu theo phương hướng ấy. Các cấp chính quyền cần phối hợp với các đoàn thể quan tâm hơn nữa đến các trẻ em nghèo thất học.
Đối với những người về hưu, mà số lượng mỗi năm một tăng thêm, Đảng và Nhà nước ta cần bổ sung các chính sách, chế độ cần thiết, quan tâm đúng mức đời sống tinh thần và vật chất, nhất là cố gắng chăm sóc với tấm lòng biết ơn và trân trọng những cán bộ đã hoạt động lâu năm cho cách mạng, chăm lo sức khoẻ những đồng chí già yếu. Chúng ta hoan nghênh nhiệt tình đóng góp của những người về hưu vào những công tác xã hội thích hợp.
Đặc biệt chăm lo làm tốt hơn nữa công tác bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Đây là một vấn đề to lớn trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hoá trong việc xây dựng con người mới, xã hội mới, có quan hệ trực tiếp đến cuộc sống hạnh phúc của từng gia đình. Đây không những là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, mà còn là sự nghiệp chung cần được toàn xã hội quan tâm và góp sức.
Chế độ mới phải tạo ra những điều kiện ngày càng đầy đủ để mỗi gia đình được sống hạnh phúc, để chị em phụ nữ làm tròn chức trách làm mẹ cao quý. Làm tốt hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch. Mở rộng dần việc xã hội đảm nhận chăm sóc, nuôi dạy trẻ em. Song, điều đó không giảm nhẹ chút nào vai trò nuôi con khoẻ, dạy con ngoan của người mẹ. Hạnh phúc cao nhất của đứa con ở tuổi ấu thơ là được nuôi dưỡng và lớn lên trong tình thương của mẹ.
Trong tình hình kinh tế của đất nước còn nhiều khó khăn, xã hội ta vẫn ưu tiên đáp ứng những nhu cầu của trẻ em về ăn, mặc, thuốc men, học hành, đi lại, giải trí và cố gắng dành cho các cháu những thứ cần thiết và tốt nhất mà ta có. Nhà nước vừa ban hành những pháp lệnh và nghị định mới về chính sách bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Tất cả các cấp, các ngành, các đoàn thể, các tổ chức kinh tế, xã hội, giáo dục, y tế, văn hoá đều phải theo chức năng của mình, thực hiện nghiêm chỉnh và đầy đủ những chính sách đó. Chủ nghĩa xã hội, và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại hạnh phúc cho con người; điều này trước hết thể hiện ở sự chăm lo mọi mặt cho đời sống trẻ em.
Phần IV
Tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát động phong trào cách mạng của quần chúng
Thưa các đồng chí,
Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý là vấn đề có ý nghĩa quyết định để hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ cách mạng quan trọng và cấp bách trong thời gian tới. Cơ chế ấy đã được thể chế hoá trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, song chưa được thể hiện rõ nét trong cơ cấu tổ chức nhà nước, trong phương thức quản lý xã hội, quản lý kinh tế, trong các quy tắc, nền nếp hoạt động hằng ngày của các cấp uỷ đảng, các cơ quan nhà nước và các đoàn thể từ trung ương đến cơ sở. Hiệu lực của bộ máy nhà nước ở các cấp chưa mạnh. Hoạt động của các đoàn thể chưa thường xuyên tạo được phong trào quần chúng sôi nổi và đều khắp. Phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các đoàn thể nhân dân chậm được cải tiến. Đó chính là chỗ yếu trong công tác lãnh đạo và quản lý của chúng ta trong thời gian qua.
Nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình chủ yếu bằng Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước ấy là Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước chuyên chính vô sản. Vì vậy tăng cường Nhà nước là vấn đề cấp bách hiện nay. Phải tăng cường Nhà nước để phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động và thể hiện đầy đủ sự lãnh đạo của Đảng trong việc tiến hành ba cuộc cách mạng, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới, con người mới, trong việc giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ những thành quả của cách mạng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ hạnh phúc của nhân dân.
Làm chủ bằng Nhà nước, nhân dân ta trước tiên thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Song, cho đến nay, các đại biểu cơ quan dân cử ít được bồi dưỡng về nhiệm vụ, quyền hạn và phương pháp hoạt động của mình; một số cơ quan dân cử còn hoạt động một cách hình thức, chưa làm đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn như Hiến pháp quy định. Đó là một chỗ yếu trong sự hoạt động của bộ máy nhà nước, cũng là một khuyết điểm trong công tác lãnh đạo của Đảng.
Vì vậy, phải phấn đấu làm cho Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực sự phát huy vai trò của mình trong việc xây dựng pháp luật, quyết định những vấn đề lớn của Nhà nước và giám sát hoạt động của các cơ quan chính quyền cấp trung ương; làm cho Hội đồng nhân dân các cấp hoạt động đúng với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, quyết định những vấn đề quan trọng trong việc xây dựng địa phương. Các đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cần phát huy đầy đủ trách nhiệm và quyền hạn đã được quy định, cần giữ mối liên hệ chặt chẽ và đều đặn với cử tri, phản ánh kịp thời những ý kiến và nguyện vọng của nhân dân cho các cơ quan nhà nước, làm cho những ý kiến xác đáng của nhân dân nhanh chóng được tiếp thu và thực hiện.
Làm chủ bằng Nhà nước, nhân dân ta thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Hội đồng Bộ trưởng và Uỷ ban nhân dân các cấp, là hệ thống các cơ quan quản lý các mặt hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, v.v.. Hoạt động kinh tế là hoạt động có tính chất nền tảng, vì vậy, vấn đề mấu chốt hiện nay là chấn chỉnh tổ chức và cải tiến sự hoạt động của các cơ quan nhà nước quản lý kinh tế gắn liền với xây dựng cơ cấu kinh tế mới và hệ thống quản lý mới.
Phù hợp với cơ cấu kinh tế mới, xuất phát từ yêu cầu của sản xuất, kinh doanh và bảo đảm thật sự gắn với cơ sở, phải sắp xếp và kiện toàn các cơ quan nhà nước quản lý kinh tế ở từng ngành, từng cấp. Kiên quyết chấn chỉnh tổ chức, khắc phục tình trạng bộ máy nặng nề, nhiều tầng, nấc trung gian, đông người mà kém hiệu lực.
Kiện toàn Hội đồng Bộ trưởng, nâng cao hiệu lực của Hội đồng Bộ trưởng trong việc quản lý tập trung thống nhất một cách đích đáng nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt coi trọng kiện toàn Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và các cơ quan quản lý tổng hợp khác, phát huy vai trò của các cơ quan này trong việc phục vụ và kiểm tra hoạt động kinh tế của các ngành, các địa phương và cơ sở. Củng cố và tăng cường các bộ, tổng cục quản lý ngành, bảo đảm làm tốt nhiệm vụ lập quy hoạch, kế hoạch, đề ra chính sách, định phương hướng và biện pháp phát triển khoa học, kỹ thuật, xây dựng đội ngũ cán bộ và công nhân cho toàn ngành trong cả nước; chuyển những phần việc về điều hành cụ thể hoạt động sản xuất kinh doanh cho các công ty, xí nghiệp.
Tổ chức lại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, xây dựng vững chắc các cơ cấu kinh tế địa phương, đặc biệt là xây dựng huyện, hình thành và phát triển một cách hợp lý các ngành kinh tế - kỹ thuật trong các lĩnh vực sản xuất, xây dựng, vận tải, lưu thông, bằng các hình thức công ty hoặc liên hiệp xí nghiệp, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Thường xuyên củng cố và kiện toàn các cấp chính quyền địa phương, quan tâm đúng mức việc xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền cấp xã, phường; đào tạo, bồi dưỡng một cách có hệ thống các cán bộ lãnh đạo chủ chốt của xã, phường; bổ sung, sửa đổi những chính sách, chế độ đối với cán bộ chính quyền và đoàn thể ở cơ sở.
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu cấp thiết để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Để tăng cường quản lý xã hội theo pháp luật, Nhà nước ta phải khẩn trương cụ thể hoá Hiến pháp mới bằng hệ thống pháp luật; chú trọng từng bước xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế và các luật về an ninh xã hội. Tăng cường các cơ quan làm công tác pháp luật, gấp rút tăng cường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ hành chính nhà nước các cấp và cán bộ pháp lý.
Nhà nước ta phải sử dụng đầy đủ cả quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế để giữ vững kỷ cương xã hội, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi phạm pháp và các tệ nạn xã hội, khắc phục cho được tình hình không bình thường là nhiều luật và pháp lệnh đã ban hành không được thi hành nghiêm chỉnh, thậm chí không được thi hành. Các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương cần có thái độ kiên quyết và biện pháp cứng rắn ngăn ngừa và loại trừ các hành động vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân, thẳng tay trấn áp bọn phản cách mạng; trừng trị bọn bóc lột không chịu cải tạo, bọn lưu manh, côn đồ, bọn đầu cơ, buôn lậu, tham ô; xử lý nghiêm minh những cán bộ, nhân viên lợi dụng chức quyền để làm trái pháp luật.
Các cấp uỷ đảng, các cơ quan nhà nước và các đoàn thể phải thường xuyên phổ biến, giải thích pháp luật trong các tầng lớp nhân dân, đưa việc giáo dục về pháp luật vào các trường học, các cấp học, xây dựng ý thức sống có pháp luật và tôn trọng pháp luật. Tăng cường công tác kiểm sát, thanh tra; tổ chức và mở rộng thanh tra nhân dân; chấn chỉnh việc xét và giải quyết các đơn từ khiếu tố của nhân dân, khắc phục tình trạng ứ đọng, tình trạng không có cơ quan nào, tổ chức nào chịu trách nhiệm giải quyết đến nơi đến chốn những việc oan ức, những trường hợp quyền lợi công dân bị xâm phạm mà nhân dân yêu cầu thẩm tra, xem xét.
Các cơ quan quản lý của Nhà nước phải cải tiến phương pháp hoạt động, đổi mới phong cách làm việc, làm cho hoạt động quản lý có tính chiến đấu, sắc bén, dứt khoát và thiết thực; phải chỉ đạo từng công việc một cách chặt chẽ, đến nơi, đến chốn, chống bệnh giấy tờ, hội họp quá nhiều. Mỗi bộ phận, mỗi người ở từng cơ quan, từng đơn vị phải làm việc đúng nguyên tắc, đúng quy chế, giữ kỷ luật rất nghiêm khi thi hành nhiệm vụ. Trong các cơ quan quản lý nhà nước phải thực hiện đúng chế độ thủ trưởng, chấm dứt tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, một nguyên nhân quan trọng của sự trì trệ về quản lý. Ban hành và thực hiện nghiêm chỉnh chế độ chức trách của từng chức danh trong các cơ quan quản lý nhà nước.
Cần cải tiến quy trình nghiên cứu, thảo luận, xét duyệt để quyết định các vấn đề quản lý kinh tế, quản lý xã hội được đúng đắn và kịp thời. Sử dụng các cơ quan nghiên cứu, các tổ chức kinh tế, khoa học, kỹ thuật, các đoàn thể quần chúng, thu thập ý kiến của nhân dân, của cán bộ để chuẩn bị tốt các chính sách kinh tế và xã hội. Trong các quyết định cần tính đến những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể khác nhau giữa các miền, các vùng trong nước. Khi đã có nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước, cần ban hành kịp thời và đồng bộ các chính sách và thể lệ cụ thể cần thiết để thi hành. Phải xoá bỏ và không được đặt ra những thủ tục rắc rối, không sát thực tế, hoặc chồng chéo, mâu thuẫn nhau, gây khó khăn, phiền hà cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Nghiêm cấm thái độ hách dịch, cửa quyền đối với nhân dân. Theo dõi chặt chẽ việc thi hành các chính sách; giải quyết rõ ràng, dứt khoát những điều cấp dưới và quần chúng yêu cầu; phát hiện sớm những quy định không đúng hoặc đã lỗi thời, kịp thời ra những quyết định mới để bổ sung hoặc thay thế.
Để xoá bỏ sự trì trệ, tạo không khí làm việc khẩn trương, phát huy tính chủ động, sáng tạo, đồng thời bảo đảm sự tập trung thống nhất, phải áp dụng đồng bộ và có hiệu quả ba loại biện pháp kinh tế, hành chính, giáo dục. Xác định các chủ trương, biện pháp kinh tế bảo đảm quan hệ đúng đắn giữa ba lợi ích; tiến hành sâu rộng và sinh động công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể quần chúng; thi hành chặt chẽ các quy chế để giữ nghiêm kỷ luật và pháp luật; kết hợp tốt ba mặt công tác đó để kích thích, động viên và bắt buộc mỗi tập thể và cá nhân làm việc hăng hái, có chất lượng, có hiệu quả. Ai làm tốt, làm giỏi được khen, được thưởng; ai làm kém, làm hỏng việc phải chịu phạt, chịu kỷ luật một cách đích đáng. Những tiến bộ nổi bật về sản xuất, kinh doanh của nhiều cơ sở nông nghiệp và công nghiệp trong thời gian qua chứng minh rằng: bảo đảm sự thống nhất giữa ba lợi ích, quan tâm đúng mức đến lợi ích cá nhân của người lao động; khơi dậy mạnh mẽ và nuôi dưỡng thường xuyên nhiệt tình cách mạng của quần chúng; đề cao chế độ trách nhiệm rành mạch và kỷ luật nghiêm minh; tất cả những điều đó tạo ra động lực thúc đẩy mọi người làm việc tốt, kích thích tính năng động và sự sáng tạo.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, cải tiến phương pháp lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với chính quyền là điều kiện quyết định để phát huy vai trò và hiệu lực của Nhà nước.
Hiện nay, vẫn còn những cấp uỷ đảng, những cán bộ lãnh đạo chưa nhận thức sâu sắc rằng củng cố và tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, vẫn có một số tổ chức đảng bao biện công việc của cơ quan nhà nước. Cần nhanh chóng khắc phục tình trạng đó. Các cấp uỷ đảng, các cán bộ, đảng viên phải gương mẫu thi hành Hiến pháp và pháp luật, đi đầu trong cuộc đấu tranh tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nghiêm cấm các tổ chức đảng tuỳ tiện đề ra những quy định trái với pháp luật.
Các cấp uỷ đảng phải đi sâu vào từng lĩnh vực hoạt động cụ thể, nhất là trên mặt trận kinh tế để phát huy những nhân tố tích cực, uốn nắn những việc làm sai trái, phát hiện những vấn đề thuộc về chính sách, chủ trương, biện pháp, từ đó mà xây dựng và hoàn thiện phương pháp lãnh đạo phù hợp với tính chất và đặc điểm của từng ngành. Căn cứ vào yêu cầu, nội dung lãnh đạo cụ thể ở từng ngành, từng cấp mà xây dựng tổ chức đảng và bố trí cán bộ cho sát hợp. Cán bộ, đảng viên hoạt động trong cơ quan chính quyền phải nắm vững pháp luật, hiểu rõ cơ cấu tổ chức nhà nước, cơ chế quản lý, phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Thưa các đồng chí,
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Vì vậy ở thời kỳ nào công tác vận động và tổ chức quần chúng làm cách mạng cũng có ý nghĩa chiến lược. Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, và hiện nay khi cách mạng nước ta làm hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng chẳng những không giảm bớt mà còn tăng thêm. Bởi vì một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của cách mạng là phát huy quyền làm chủ tập thể, xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động; đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, được thực hiện chủ yếu bằng Nhà nước, đồng thời được thực hiện bằng hoạt động của các đoàn thể quần chúng, được biểu hiện bằng phong trào cách mạng của quần chúng.
Hơn 5 năm qua, trên từng mặt hoạt động và trong từng thời gian, chúng ta đã phát động được những phong trào quần chúng mạnh mẽ khắc phục hậu quả chiến tranh, chống thiên tai, thi đua lao động sản xuất, tham gia đánh giặc cứu nước, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội... Trình độ chính trị và văn hoá, ý thức và năng lực làm chủ của nhân dân lao động nước ta qua đó đã có những tiến bộ đáng kể.
Giai cấp công nhân nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều. Đội ngũ công nhân tăng thêm 24%; công nhân kỹ thuật đã đạt tới 1,7 triệu người. Trình độ chính trị, văn hoá và nghề nghiệp của công nhân được nâng cao một bước. Trước khó khăn lớn về sản xuất và đời sống, giai cấp công nhân ta vẫn tỏ rõ bản chất cách mạng, giữ vững và phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Một triệu sáu trăm nghìn người lao động tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp là một lực lượng sản xuất to lớn, đã góp phần quan trọng khôi phục và phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ đời sống và xuất khẩu.
Nông dân lao động nước ta đã có những tiến bộ mới; ý thức làm chủ, trình độ chính trị, văn hoá, kỹ thuật được nâng lên rõ rệt. Nông dân ở miền Bắc phát huy nhiều sáng kiến thâm canh tăng năng suất và củng cố quan hệ sản xuất mới, tích cực làm nghĩa vụ với Nhà nước. Nông dân ở miền Nam hăng hái phục hồi và phát triển nông nghiệp, đi vào con đường làm ăn tập thể, tỏ rõ sự gắn bó với chế độ mới.
Đội ngũ trí thức nước ta đã phát triển khá nhanh; trong 5 năm, số lượng tăng thêm 78%; cả nước hiện có trên 260 nghìn cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học. Anh chị em trí thức đã tích cực phấn đấu, cống hiến nghị lực và tài năng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một số công trình nghiên cứu và tác phẩm nghệ thuật của ta đã đạt trình độ cao.
Thanh niên nước ta đã trưởng thành nhanh chóng, và có những cống hiến xứng đáng với truyền thống vẻ vang của thế hệ trẻ và của dân tộc. Phong trào "Ba xung kích làm chủ tập thể" đã động viên thanh niên đi đầu trên nhiều lĩnh vực hoạt động, trong lao động sản xuất và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, đồng thời bồi dưỡng cho thanh niên chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và tinh thần lao động sáng tạo.
Phụ nữ nước ta rất xứng đáng là đội ngũ quần chúng cách mạng hùng hậu, là lực lượng lao động xã hội to lớn, là những người giữ trọng trách trong việc sinh thành và nuôi dạy thế hệ tương lai. Phong trào "Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" đã giáo dục, động viên phụ nữ cả nước làm tốt nghĩa vụ công dân và trách nhiệm làm mẹ, đồng thời bồi dưỡng cho chị em ý thức phấn đấu thực hiện nam nữ bình đẳng, đưa sự nghiệp giải phóng phụ nữ tiến lên một bước quan trọng.
Đồng bào các dân tộc nước ta, miền ngược miền xuôi, vùng cao vùng thấp, đã phát huy chí quật cường và truyền thống đoàn kết chiến đấu, góp phần to lớn đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược và làm thất bại các thủ đoạn chia rẽ của địch. Trải qua chiến đấu và xây dựng, các dân tộc anh em được tôi luyện, càng nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.
Đồng bào các tôn giáo, luôn luôn gắn bó với dân tộc, đã đoàn kết cùng đồng bào không đạo, hăng hái làm tốt nghĩa vụ của mình đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đồng bào Việt Nam sống ở nước ngoài, luôn luôn hướng về quê hương, đã có những hoạt động phong phú góp phần tích cực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng lại nước nhà.
Trải qua bao khó khăn và thử thách, khối đại đoàn kết của toàn dân ta được củng cố và phát triển lên một bước mới; mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lao động đều có cống hiến và trưởng thành. Sức mạnh chiến đấu, năng lực sáng tạo và tiềm năng cách mạng của nhân dân ta thật là to lớn. Đó là nguồn sức mạnh vô tận bảo đảm hoàn thành những nhiệm vụ lịch sử trong giai đoạn mới.
Tuy nhiên, trong những năm qua, phong trào quần chúng chưa đều và trong nhiều trường hợp hiệu quả còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa được giáo dục tốt về vai trò của giai cấp tiên phong, về trách nhiệm làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, còn chịu ảnh hưởng tâm lý và tác phong của người sản xuất nhỏ, thiếu tự giác chấp hành kỷ luật lao động và pháp luật nhà nước. Một bộ phận thanh niên chưa xác định được lý tưởng cách mạng, thiếu ý thức về nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một số thanh niên, thiếu niên ở thành phố, thị xã bị ảnh hưởng bởi lối sống tư sản, bởi những tàn dư văn hoá đồi trụy và bị tác động bởi chiến tranh tâm lý của địch, đã có những tư tưởng và hành động trái với đạo đức và nếp sống xã hội chủ nghĩa.
Nguyên nhân của những khuyết điểm trên đây là ở chỗ toàn bộ sức mạnh của hệ thống chuyên chính vô sản chưa được vận dụng vào việc giáo dục và động viên quần chúng, nội dung cũng như hình thức và phương pháp vận động quần chúng chưa được cải tiến và nâng cao phù hợp với những yêu cầu mới.
Nhiều tổ chức đảng và cấp uỷ đảng chưa quan tâm nghiên cứu tình hình đời sống và tư tưởng của các tầng lớp nhân dân, chưa coi trọng việc xây dựng và phát huy vai trò, chức năng của các đoàn thể quần chúng, chưa lãnh đạo chặt chẽ phong trào cách mạng của quần chúng. Không ít cơ quan nhà nước mắc bệnh quan liêu, làm việc một cách mệnh lệnh, cửa quyền, vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Hoạt động của các đoàn thể cũng hành chính quan liêu hoá, chậm được cải tiến, không đáp ứng kịp những yêu cầu mới của quần chúng. Một số cán bộ, đảng viên thoái hoá về đạo đức, tư cách, lợi dụng chức quyền ức hiếp quần chúng, vi phạm pháp luật, làm tổn thương uy tín của Đảng và Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến nhiệt tình cách mạng của quần chúng.
Phong trào thi đua sôi nổi, đều khắp và có hiệu quả trong các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp, do áp dụng đúng đắn hình thức khoán sản phẩm cho người lao động, là một bài học có giá trị và bổ ích. Nắm đúng yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng, có chính sách phù hợp với lợi ích thiết thân của người lao động; tìm ra được những hình thức và biện pháp cụ thể kết hợp hài hoà ba lợi ích; gắn chặt chủ trương kinh tế sát đúng với công tác tổ chức tốt và công tác tuyên truyền, giáo dục sâu sát; tất cả những điều đó bảo đảm cho nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình, do vậy, đã tạo ra được một phong trào quần chúng mạnh mẽ. Và chính qua phong trào quần chúng như thế, quyền làm chủ của nhân dân lao động mới thực sự được thể hiện. Rõ ràng là nhân dân lao động có thực sự làm chủ tập thể thì mới có phong trào cách mạng, và ngược lại, có phong trào cách mạng thì mới có sự làm chủ tập thể thực sự của nhân dân lao động.
Đảng ta phải lãnh đạo sửa chữa những khuyết điểm trong công tác vận động quần chúng, đấu tranh khắc phục bệnh quan liêu trong các tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước và các đoàn thể nhân dân, phát động bằng được một phong trào quần chúng thật sâu rộng và mạnh mẽ.
Các cấp uỷ đảng, các đoàn thể, các cơ quan nhà nước phải phối hợp với nhau sử dụng đồng bộ các biện pháp kinh tế, hành chính, giáo dục, tạo nên những phong trào cách mạng sôi nổi và bền vững của quần chúng ở từng địa phương, nhất là ở cơ sở, trong từng giới, từng ngành, từng lĩnh vực của đời sống, hướng vào mục tiêu chung: Vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân. Mỗi phong trào cần có nội dung thiết thực và mục tiêu cụ thể, gắn chặt với việc thực hiện thắng lợi các kế hoạch kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, và phải đạt hiệu quả về cả ba mặt kinh tế, xã hội và tư tưởng.
Chi bộ đảng phải phân công đảng viên làm công tác quần chúng và kiểm tra hoạt động của đảng viên trong các đoàn thể. Mỗi đảng viên phải tham gia đều đặn sinh hoạt đoàn thể mà mình là đoàn viên, hội viên, dùng hành động gương mẫu và sự hiểu biết của mình để thuyết phục và động viên quần chúng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Các tổ chức đảng phải tạo điều kiện thuận lợi để quần chúng góp ý kiến phê bình sự lãnh đạo của Đảng và mối quan hệ giữa cán bộ, đảng viên với quần chúng; phải tìm hiểu nguyện vọng và khả năng của quần chúng, tiếp thu sáng kiến, kinh nghiệm của quần chúng và giải đáp những vấn đề do quần chúng nêu lên.
Các cơ quan nhà nước, đặc biệt là những cơ quan có quan hệ trực tiếp hằng ngày với nhân dân, như cơ quan chính quyền ở xã, phường, huyện, quận, cơ quan công an, thuế vụ, toà án, viện kiểm sát, cán bộ, nhân viên các xí nghiệp, cửa hàng, trường học, bệnh viện, v.v. có trách nhiệm tuyên truyền vận động quần chúng, giữ gìn mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, giải quyết nhanh và chu đáo các yêu cầu chính đáng của quần chúng, làm tròn nhiệm vụ phục vụ nhân dân, kiên quyết bài trừ thói hách dịch, cửa quyền, vô trách nhiệm. Các cơ quan nhà nước phải phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể, vận động quần chúng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, kế hoạch và pháp luật của Nhà nước.
Vai trò và sức mạnh của các đoàn thể chính là ở khả năng tập hợp quần chúng, hiểu rõ tâm tư và nguyện vọng của quần chúng, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho quần chúng, khơi động tinh thần tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của quần chúng. Muốn vậy, các đoàn thể phải đổi mới hình thức tổ chức và phương thức hoạt động cho phù hợp với những điều kiện mới. Hoạt động của các đoàn thể phải năng động, nhạy bén với những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống, khắc phục bệnh quan liêu, giản đơn và khô cứng trong tổ chức và trong sinh hoạt. Mở rộng các hình thức tổ chức theo nghề nghiệp, theo nhu cầu đời sống và sinh hoạt văn hoá để thu hút đông đảo quần chúng vào các hoạt động xã hội. Đội ngũ cán bộ đoàn thể ở các cấp cần được đổi mới. Bên cạnh đội ngũ cán bộ chuyên trách thông thạo nghiệp vụ, có nhiệt tình hoạt động và được giới hạn ở mức cần thiết, phải sử dụng rộng rãi lực lượng cán bộ không chuyên trách, giúp cho đoàn thể sát cơ sở, gần gũi quần chúng nhiều hơn.
Các đoàn thể có nhiệm vụ giáo dục đoàn viên, hội viên của mình về chủ nghĩa xã hội, về pháp chế xã hội chủ nghĩa, về trách nhiệm và quyền hạn làm chủ tập thể, bồi dưỡng, nâng cao ý thức và năng lực của người làm chủ, tuyên truyền, thuyết phục quần chúng tự giác thi hành chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đồng thời thu thập, phản ánh ý kiến của nhân dân, đề xuất với cấp uỷ đảng và cơ quan nhà nước những chủ trương, biện pháp giải quyết các vấn đề có quan hệ đến lợi ích của nhân dân và góp sức xây dựng bộ máy chính quyền ở các cấp.
Công đoàn phải cải tiến tổ chức và hoạt động của mình để thực hiện đầy đủ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Công đoàn trong cách mạng xã hội chủ nghĩa đã ghi trong Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng và trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trước mắt, công tác vận động công nhân của Đảng và hoạt động của Công đoàn phải hướng vào nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh, giáo dục, nâng cao ý thức giai cấp, xây dựng người công nhân mới xã hội chủ nghĩa. Công đoàn phải tập trung sự hoạt động của mình vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, khoa học, kỹ thuật, tổ chức và đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm của công nhân, viên chức, nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật cho công nhân, góp phần tích cực vào việc đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, đào tạo những cán bộ quản lý giỏi.
Công đoàn, cần tham gia đắc lực vào công việc nhà nước, góp phần có hiệu quả cải tiến quản lý kinh tế, nhất là cải tiến quản lý xí nghiệp, hợp tác chặt chẽ với các cơ quan nhà nước giải quyết các vấn đề cụ thể về điều kiện sản xuất, về bảo hộ lao động và bồi dưỡng sức lao động, về ổn định và bảo đảm đời sống của công nhân, viên chức. Công đoàn phải đóng vai trò nòng cốt trong phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa, nêu cao những tấm gương sáng về thái độ lao động mới, về tính kỷ luật, về tinh thần chủ động, sáng tạo, về ý thức tiết kiệm và bảo vệ của công; đồng thời phê phán, khắc phục những biểu hiện không lành mạnh trong lao động và sinh hoạt của một số công nhân, viên chức. Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải tạo mọi điều kiện để công nhân, viên chức trực tiếp tham gia việc quản lý sản xuất và phân phối, để Công đoàn kiểm tra, giám sát được công việc của cơ quan nhà nước. Công đoàn có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi chính đáng của công nhân trong xí nghiệp công tư hợp doanh và xí nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam. Căn cứ vào Hiến pháp mới, Nhà nước cần nghiên cứu bổ sung Luật Công đoàn.
Liên hiệp hợp tác xã, đại diện cho những người lao động tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp phải tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao ý thức làm chủ cho xã viên và thợ thủ công, tiếp tục thực hiện cải tạo và tổ chức lại các ngành, nghề tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, không ngừng củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; chăm lo, tổ chức đời sống, đào tạo cán bộ và đội ngũ thợ, đề xuất với Đảng và Nhà nước những chủ trương chính sách, chế độ nhằm thúc đẩy khu vực sản xuất này phát triển phù hợp với con đường xã hội chủ nghĩa.
Công tác vận động nông dân nhằm đoàn kết và giáo dục nông dân thực hiện công - nông liên minh, đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng vào sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các cấp uỷ đảng và các cơ quan nhà nước, nhất là ở huyện và xã, phải ra sức xây dựng, củng cố các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Hợp tác xã và tập đoàn sản xuất vừa thực hiện đầy đủ chức năng tổ chức sản xuất, kinh doanh, làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước, chăm lo đời sống của xã viên, vừa làm tốt nhiệm vụ đoàn kết, giáo dục, bồi dưỡng nông dân về ý thức và năng lực làm chủ tập thể. Phát huy tác dụng của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể và của Nông hội. Cần có những hình thức thích hợp với từng địa phương để các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất cùng nhau trao đổi kinh nghiệm tổ chức sản xuất và xây dựng nông thôn mới.
Đảng phải tăng cường hơn nữa công tác vận động trí thức, ra sức phát huy tiềm năng to lớn của đội ngũ trí thức nước ta nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn cho đất nước, cho chủ nghĩa xã hội. Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã ra nghị quyết về chính sách khoa học và kỹ thuật. Các cấp uỷ đảng, các cơ quan nhà nước và các đoàn thể cần thực hiện nghị quyết ấy một cách nghiêm túc, xây dựng và thực hiện tốt các chính sách và kế hoạch phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật; khắc phục những thiếu sót trong việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ khoa học, kỹ thuật; giúp đỡ cho anh chị em nâng cao trình độ chính trị và chuyên môn tạo điều kiện vật chất và tinh thần thuận lợi cho anh chị em làm việc có hiệu quả cao.
Đảng ta luôn luôn nhận định rằng công tác vận động thanh niên có tầm quan trọng đặc biệt. Đây là một vấn đề chiến lược của cách mạng, là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chuyên chính vô sản. Nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của công tác vận động thanh niên là giáo dục cho thế hệ trẻ nêu cao ý thức làm chủ, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, nhanh chóng khắc phục những biểu hiện không lành mạnh trong một bộ phận thanh niên, thiếu niên; ra sức đào tạo, rèn luyện thanh niên thành những con người mới phát triển toàn diện, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp của Đảng và của dân tộc.
Các cấp bộ đảng phải lãnh đạo chặt chẽ công tác thanh niên, chăm lo xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, làm đúng lời dặn của Hồ Chủ tịch trong Di chúc của Người "... Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết". Tất cả các ngành, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể và toàn xã hội đều có trách nhiệm vận động thanh niên, thiếu niên và phải có sự phân công, phối hợp chặt chẽ để làm tốt công tác này. Phải thực sự đổi mới các hình thức, phương pháp tổ chức và tuyên truyền, giáo dục thanh niên, thiếu niên cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới, với những đặc điểm về lứa tuổi, và những nhu cầu mới của thanh niên; kịp thời đập tan những âm mưu và hành động phá hoại của kẻ thù đối với tuổi trẻ; gắn công tác giáo dục chính trị với việc chăm lo giải quyết những vấn đề cụ thể về quyền lợi, về đời sống vật chất và văn hoá của thanh niên. Trong thời gian tới, cần mở những hội nghị chuyên đề nghiên cứu và giải quyết những vấn đề mới về tư tưởng và lối sống của tuổi trẻ nước ta; tiến tới có những nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về công tác vận động và giáo dục thanh niên trong giai đoạn mới. Nhà nước cần nghiên cứu ban hành Luật Thanh niên.
Đảng ta luôn luôn đánh giá đúng bản chất tốt đẹp, khả năng cách mạng của thanh niên và vai trò chính trị của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Đoàn phải làm tốt hơn nữa nhiệm vụ tổ chức và giáo dục đoàn viên, thanh niên về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Bồi dưỡng cho thanh niên ý thức làm chủ tập thể, làm cho thanh niên hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của mình, sống theo lý tưởng cộng sản cao cả, sống văn minh, lành mạnh, sáng tạo trong lao động và học tập, đấu tranh không khoan nhượng chống những biểu hiện tiêu cực. Hết sức coi trọng giáo dục truyền thống dân tộc và truyền thống cách mạng, chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản cho thanh niên. Động viên thanh niên đi đầu trong phong trào thi đua lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm, phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật, xây dựng lực lượng vũ trang, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Đoàn phải làm tốt hơn nữa nhiệm vụ giáo dục thiếu niên, nhi đồng, dìu dắt Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và Đội Nhi đồng Hồ Chí Minh.
Là cánh tay và đội hậu bị của Đảng, Đoàn phải tích cực vận động và hướng dẫn đoàn viên tham gia xây dựng Đảng. Các cấp uỷ đảng cần cử những cán bộ có phẩm chất chính trị, có kiến thức và năng lực trực tiếp phụ trách công tác thanh niên; chú trọng bồi dưỡng, đào tạo những cán bộ ưu tú của Đoàn thành cán bộ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước sau này ở các cấp.
Để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình đẳng, để phát huy hơn nữa vai trò và khả năng của phụ nữ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, các cấp uỷ đảng cần làm cho quan điểm và chính sách vận động phụ nữ của Đảng được thấu suốt trong tất cả các tổ chức thuộc hệ thống chuyên chính vô sản. Phải đấu tranh xoá bỏ những quan điểm phong kiến và tư sản trong việc đánh giá lực lượng và khả năng của phụ nữ, trong việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng lao động nữ, cán bộ nữ, trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể về đời sống của phụ nữ và trẻ em.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phải ra sức giáo dục, động viên phụ nữ phát huy quyền làm chủ tập thể, cống hiến nhiều hơn nữa cho Tổ quốc, cho chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ, và xây dựng người phụ nữ mới xã hội chủ nghĩa. Hội cần chăm lo những vấn đề phúc lợi, về đời sống của phụ nữ, tạo điều kiện cho chị em làm tốt nhiệm vụ sản xuất, hoạt động xã hội và nuôi dạy con cái. Hội cần phối hợp với các cơ quan nhà nước, với Công đoàn và Đoàn Thanh niên để điều tra, nghiên cứu về đời sống, điều kiện lao động, yêu cầu và nguyện vọng của phụ nữ, địa vị của phụ nữ trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; đề xuất với Đảng và Nhà nước ban hành các chính sách, các luật pháp, bảo đảm quyền lợi của phụ nữ, và góp phần kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách, luật pháp ấy.
Nêu cao truyền thống đoàn kết của nhân dân ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân, các tôn giáo, các dân tộc, các nhân sĩ hăng hái tham gia các phong trào cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần của xã hội ta, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Đảng phải lãnh đạo thực hiện tốt Nghị quyết của Đại hội IV về chính sách dân tộc đồng thời tiếp tục nghiên cứu để giải quyết kịp thời những vấn đề mới về công tác dân tộc của Đảng. Phải tăng cường hơn nữa khối đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ và cùng làm chủ tập thể; đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục, làm cho đồng bào các dân tộc, cũng như đồng bào cả nước, hiểu sâu tình hình nhiệm vụ mới và chính sách dân tộc của Đảng, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan mọi thủ đoạn chia rẽ, phá hoại... của bọn đế quốc và phản động khác, xoá bỏ những thành kiến dân tộc còn sót lại, cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhà nước phải tăng đầu tư cho các vùng dân tộc và các cấp đảng bộ, chính quyền, đoàn thể phải ra sức phấn đấu phát triển kinh tế, văn hoá, đáp ứng kịp thời các yêu cầu cấp bách về sản xuất và đời sống của đồng bào các dân tộc, nhất là ở vùng cao, vùng biên giới, nhằm khắc phục một bước sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc do lịch sử để lại. Mỗi cấp, mỗi ngành phải thực hiện chính sách dân tộc của Đảng trong phạm vi trách nhiệm và khả năng của mình, chú trọng làm tốt việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật người dân tộc, trước hết cho cấp huyện và cơ sở.
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta là: tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của nhân dân; đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo nào để cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước; nghiêm trị những hoạt động lợi dụng tôn giáo làm hại đến lợi ích của Tổ quốc, của chủ nghĩa xã hội. Các cấp bộ đảng, các cấp chính quyền và đoàn thể phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các tôn giáo, động viên đồng bào có đạo tăng cường đoàn kết với các tầng lớp nhân dân, chấp hành nghiêm chỉnh mọi chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, hăng hái thi đua sản xuất, học tập, làm tốt nghĩa vụ công dân, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng cuộc sống mới.
Nhân dân ta tin tưởng rằng đồng bào Việt Nam sống ở nước ngoài tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và yêu nước, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phần V
Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta
Thưa các đồng chí,
Những năm 70, đặc biệt là sau thất bại của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, cách mạng thế giới bước vào một thời kỳ phát triển mới. Ba dòng thác cách mạng của thời đại lớn mạnh vượt bậc, kết thành một sức mạnh tổng hợp hết sức to lớn, đã giành được những thắng lợi rực rỡ trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã nhanh chóng tăng cường sức mạnh về mọi mặt, thể hiện rõ tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, một chế độ trong đó nhân dân lao động là người chủ chân chính và mục đích cao nhất là hạnh phúc của con người. Liên Xô đang tiến mạnh vào giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa cộng sản; nhiều nước đang đẩy nhanh quá trình hoàn thành xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển; một số nước đang xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Các nước xã hội chủ nghĩa trong Hội đồng tương trợ kinh tế vẫn giữ được nhịp độ phát triển kinh tế cao. Riêng Liên Xô đã tăng tài sản cố định lên hơn hai lần so với mười năm trước, và lực lượng sản xuất đã đạt tới một trình độ mới về chất lượng. Các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa đã xây dựng được nền quốc phòng vững mạnh, phát triển cách mạng khoa học - kỹ thuật cả chiều rộng lẫn chiều sâu, và giành được những thành tựu nổi bật về văn hoá, xã hội, tạo nên một lối sống tốt đẹp, bảo đảm những quyền chân chính của con người. Sự liên kết kinh tế ngày càng mở rộng, việc đẩy mạnh hợp tác về các mặt sản xuất và khoa học, kỹ thuật cũng như sự phối hợp chặt chẽ trên các mặt chính trị và ngoại giao đã mở ra triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của cộng đồng xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù còn gặp những khó khăn nhất định trong quá trình tiến lên,... hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tạo ra sức mạnh tổng hợp vượt hơn các thế lực đế quốc và phản động. Với Liên Xô là trụ cột, hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày càng phát huy mạnh mẽ tác dụng là nhân tố quyết định chiều hướng phát triển của xã hội loài người, là thành trì vững chắc của hoà bình, là chỗ dựa tin cậy cho cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới.
Phong trào giải phóng dân tộc và độc lập dân tộc đang quét nốt những vị trí cuối cùng của chủ nghĩa thực dân cũ và giáng những đòn nặng nề vào chủ nghĩa thực dân mới. Trong năm, sáu năm qua, đã có thêm hơn 20 nước giành được độc lập và trở thành những thành viên bình đẳng trong cộng đồng quốc tế. Các nước độc lập dân tộc ở á, Phi, Mỹ Latinh tiếp tục đấu tranh mạnh mẽ giành chủ quyền hoàn toàn về những tài nguyên thiên nhiên bị đế quốc khống chế, đòi thiết lập trật tự kinh tế thế giới mới. Nhiều quốc gia như Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Yêmen, ápganixtan, Ănggôla, Môdămbích, Êtiôpia, Libi, Cônggô, Bênanh, Angiêri, Mađagátxca, Nicaragoa, Grênađa... đã đoàn kết chặt chẽ với các nước xã hội chủ nghĩa, và các nước kiên định trong từng khu vực, giương cao ngọn cờ chống đế quốc và phản động quốc tế, thiết lập chính quyền dân chủ và nhân dân, tiến hành nhiều cải cách kinh tế, văn hoá xã hội vì lợi ích của đông đảo quần chúng lao động, chọn con đường đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự gắn bó ngày càng chặt chẽ của phong trào độc lập dân tộc với hệ thống xã hội chủ nghĩa tạo nên thế mạnh mới cho các lực lượng cách mạng. Dựa vào thế mạnh đó, phong trào Không liên kết đã có những cống hiến to lớn vào sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc và giữ gìn hoà bình thế giới.
ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra rất gay gắt. Phong trào của giai cấp công nhân và nhân dân lao động có bước phát triển mới, quy mô rộng lớn, khí thế sôi nổi, hình thức rất phong phú. Những đợt đấu tranh quyết liệt chống chính quyền tư sản trút gánh nặng khủng hoảng kinh tế, lạm phát và suy thoái lên đầu người lao động, chống thất nghiệp, chống bóc lột, chống tệ nạn xã hội, gắn liền với đấu tranh chống bóp nghẹt dân chủ, đòi thực hiện các quyền chính trị của nhân dân lao động, chống chạy đua vũ trang, đòi thi hành chính sách đối ngoại hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa các nước. Những làn sóng đấu tranh đó đã làm cho nền độc tài phát xít ở một số nước sụp đổ và chính quyền tư bản lũng đoạn bị khủng hoảng triền miên. ở một số nước, các Đảng Cộng sản và Công nhân đóng một vai trò quan trọng đối với đời sống chính trị của đất nước và là lực lượng chính giương cao ngọn cờ dân chủ và tiến bộ xã hội chống chính quyền tư bản lũng đoạn.
Trong thời gian qua, chủ nghĩa đế quốc bị thất bại liên tiếp; thế giới tư bản chủ nghĩa lâm vào một cuộc tổng khủng hoảng trầm trọng chưa từng có. Nhiều nhân tố từng đưa lại bước phát triển mạnh về lực lượng sản xuất của thế giới tư bản cho đến đầu những năm 70, đã và đang mất dần tác dụng. Đi đôi với sự bế tắc về kinh tế, xã hội, là sự sụp đổ của các học thuyết mị dân và những luận điệu tô vẽ cho xã hội tư bản. Trong thế suy yếu chung của chủ nghĩa đế quốc, tên đầu sỏ là Mỹ bị thất bại lớn nhất, khủng hoảng sâu sắc nhất và bị các cường quốc tư bản khác cạnh tranh, lấn bước. Cuộc khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng năng lượng và nguyên liệu trên thế giới càng làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các đế quốc với nhau.
Hòng tìm lối thoát cho khủng hoảng kinh tế và đối phó với phong trào cách mạng thế giới, đế quốc Mỹ tập hợp lại lực lượng, cố duy trì sự khống chế của Mỹ trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa, điều chỉnh lại chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, chĩa mũi nhọn chủ yếu chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa...
Đế quốc Mỹ mưu toan tiến hành một cuộc phản công có tính chất toàn cầu, hòng thực hiện tham vọng giành ưu thế quân sự trên thế giới, giành lại vị trí đã mất, ngăn chặn sự phát triển của ba dòng thác cách mạng. Chúng đẩy mạnh chạy đua vũ trang với quy mô chưa từng có, ra sức phát triển các loại vũ khí giết người hàng loạt, kể cả bom nơtơrông, đưa tên lửa hạt nhân tầm trung bình vào châu Âu, tuyên truyền trắng trợn cho chiến tranh hạt nhân, gây lại không khí "chiến tranh lạnh" phá hoại hoà dịu và an ninh quốc tế.
Mỹ công khai dựa vào chính sách vũ lực để tiến công phong trào giải phóng dân tộc mà chúng vu cáo là "chủ nghĩa khủng bố". Mỹ mở rộng và tăng cường hệ thống căn cứ quân sự của chúng trên thế giới; ráo riết vũ trang cho các chế độ độc tài phản động ở Trung Mỹ, Trung Đông, Nam á, nam phần châu Phi, v.v. nhằm thổi to ngọn lửa xung đột vũ trang và gây ra những lò căng thẳng mới ở các khu vực... Mỹ và bọn phản động can thiệp vào công việc nội bộ của Ba Lan, hòng lật đổ chủ nghĩa xã hội ở nước này, phá hoại sức mạnh thống nhất của cộng đồng xã hội chủ nghĩa.
Chính sách phiêu lưu đó đang gây mối hiểm hoạ cực kỳ nghiêm trọng đối với hoà bình thế giới. Cuộc đấu tranh cho những mục tiêu của thời đại chúng ta đang trải qua một thời kỳ đầy sóng gió, gay go và quyết liệt hơn trước.
Song, bọn đế quốc và phản động quốc tế đang vấp phải sự lớn mạnh và thế tiến công của ba dòng thác cách mạng, nguyện vọng và ý chí hoà bình của các dân tộc, được đường lối đối ngoại hoà bình lêninnít của Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa cổ vũ.
Hiện nay, không một dân tộc nào trên thế giới muốn chiến tranh làm huỷ hoại sinh mệnh của hàng triệu con người, phung phí của cải và tài nguyên quốc gia, tàn phá nền văn minh nhân loại. Hoà bình, thành quả chung của cuộc đấu tranh của nhân dân các nước, phải được bảo vệ. Sự thống nhất mọi cố gắng của các nước xã hội chủ nghĩa, của các nước Không liên kết, của các lực lượng dân chủ và hoà bình, của tất cả các dân tộc, có khả năng to lớn đẩy lùi nguy cơ một cuộc chiến tranh hạt nhân, ngăn chặn chính sách hiếu chiến và xâm lược của bọn đế quốc và phản động quốc tế.
Đế quốc Mỹ hoặc kẻ nào muốn đóng vai trò sen đầm quốc tế đều nhất định sẽ bị trừng phạt đích đáng bất cứ ở đâu mà chúng thò bàn tay can thiệp và xâm lược vào. Loài người đang ở trong thời đại mà nhân dân tất cả các nước đều đã thức tỉnh về vai trò làm chủ của mình và một hòn đảo nhỏ cũng đứng lên giành được độc lập. Bất kỳ một cuộc chiến tranh nào do bọn xâm lược phát động nhằm đè bẹp phong trào giải phóng dân tộc hoặc đánh vào các nước độc lập dân tộc nhất định sẽ đem lại tai hoạ cho chính kẻ gây ra nó.
Tại Đại hội lần thứ XXVI Đảng Cộng sản Liên Xô, đồng chí L.I. Brêgiơnép đã đưa ra một cương lĩnh hoà bình quan trọng bao gồm nhiều biện pháp mới về hạn chế vũ khí hạt nhân và giải trừ quân bị, về ngăn chặn sự xuất hiện và xoá bỏ nhanh chóng các lò xung đột vũ trang và căng thẳng, về thiết lập các khu vực hoà bình ở các vùng xung yếu trên thế giới, từ Trung Âu đến Viễn Đông, từ Trung Cận Đông, Địa Trung Hải đến ấn Độ Dương, v.v..
Cương lĩnh hoà bình này là tiếng nói đanh thép của một dân tộc, một đất nước đã chịu đựng những hy sinh nặng nề nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai và đã có những cống hiến lớn lao nhất vào cuộc sống hoà bình của nhân dân các nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nhân dân Việt Nam biểu thị một lần nữa sự ủng hộ hoàn toàn đối với cương lĩnh hoà bình và lập trường trước sau như một của Liên Xô, nhiệt liệt hoan nghênh những đề nghị thiện chí và xây dựng của Liên Xô trong quan hệ với phương Tây, đặc biệt là những đề nghị mới đây trong các tuyên bố quan trọng của đồng chí L.I. Brêgiơnép liên quan đến tình hình châu Âu, châu á nhằm ngăn chặn chạy đua vũ trang, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân, củng cố hoà bình, an ninh và hợp tác quốc tế.
Thưa các đồng chí,
Nhìn lại hơn nửa thế kỷ hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta vui mừng nhận thấy rằng từ khi thành lập đến nay, đi đôi với chính sách đối nội đúng đắn, Đảng ta luôn luôn có chính sách đối ngoại đúng đắn. Chính sách đối ngoại lêninnít do đồng chí Hồ Chí Minh đề xướng và kiên trì là một bộ phận hợp thành chiến lược và sách lược của Đảng trong tất cả các thời kỳ phát triển của cách mạng Việt Nam. Dựa trên sự nhận định sáng suốt những biến chuyển lớn của tình hình thế giới sau Cách mạng Tháng Mười và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, Đảng ta đã đưa cách mạng Việt Nam luôn luôn đi đúng phương hướng phát triển của thời đại. Đó là một nguyên nhân quan trọng đưa đến thắng lợi của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng thời bảo đảm cho nhân dân ta góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.
Năm năm qua, thực hiện chính sách đối ngoại có nguyên tắc của Đảng, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, tăng cường thế và lực vững chắc của nhân dân ta trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tạo thêm những điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Bất chấp mọi âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù nhằm bao vây và cô lập nước ta, vai trò và vị trí của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.
Trong thời gian tới, công tác đối ngoại phải ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và nhiều mặt cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, góp phần bảo đảm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ lịch sử do Đại hội lần này đề ra. Đặc biệt công tác đối ngoại phải trở thành một mặt trận chủ động, tích cực trong cuộc đấu tranh nhằm làm thất bại chính sách của ... câu kết với thế lực hiếu chiến Mỹ, mưu toan làm suy yếu và thôn tính nước ta; trước mắt, nhằm đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt do chúng gây ra, ngăn chặn âm mưu của chúng gây lại chiến tranh xâm lược, củng cố hoà bình ở Đông Dương và Đông Nam á.
Trung thành với nghĩa vụ quốc tế của mình, nhân dân ta luôn luôn đoàn kết với các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh kiên quyết của nhân dân các nước chống chính sách hiếu chiến và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Thưa các đồng chí,
Thắt chặt tình hữu nghị và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa là vấn đề hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Nhân dân ta hết sức vui mừng về bước phát triển rực rỡ của tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác giữa nước ta với Liên Xô kể từ khi hai nước ký kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác năm 1978.
Là bạn đồng minh hùng mạnh và vững chắc nhất của Việt Nam, Liên Xô đã kiên quyết đứng bên cạnh nhân dân ta, đáp ứng kịp thời và khảng khái những nhu cầu của chúng ta trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Liên Xô đã cung ứng cho nền kinh tế nước ta những vật tư kỹ thuật và hàng hoá thiết yếu nhất đối với sản xuất và đời sống của nhân dân ta, đã viện trợ cho chúng ta hàng loạt công trình lớn tạo nên cơ sở vật chất - kỹ thuật quan trọng đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Việc Liên Xô hợp tác và giúp đỡ ta trên các lĩnh vực văn hoá, khoa học, kỹ thuật, đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề ngày càng được mở rộng và tăng cường. Việc trao đổi hàng hoá hằng năm qua con đường mậu dịch giữa hai nước đang phát triển thuận lợi.
Đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng của chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Vì lợi ích của nhân dân hai nước, từ nay về sau, chúng ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Liên Xô. Chúng ta coi đó là một bảo đảm cho thắng lợi của công cuộc bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, cũng như cho việc củng cố độc lập dân tộc và vị trí của chủ nghĩa xã hội trên bán đảo Đông Dương; đồng thời đó là một đóng góp tích cực vào việc củng cố và tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa, tăng cường cuộc đấu tranh vì hoà bình và chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
Gắn bó chặt chẽ và hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược, đồng thời là tình cảm cách mạng. Đảng ta có nhiệm vụ giáo dục các thế hệ người Việt Nam nắm vững nguyên tắc này, thấu suốt chiến lược này, biến thành một động lực mạnh mẽ đưa sự nghiệp cách mạng của chúng ta đến toàn thắng.
Năm nay, Nhà nước Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết kỷ niệm lần thứ 60 ngày thành lập. Nhân dân ta chân thành chúc nhân dân Liên Xô anh em, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô vĩ đại, giành được những thành tích xuất sắc mới trong việc thực hiện những nghị quyết lịch sử của Đại hội lần thứ XXVI để tiến tới ngày lễ quang vinh của mình.
Trong thời gian qua, tình đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia bước sang giai đoạn phát triển mới, đã đem lại những đổi thay chưa từng có cho cục diện cách mạng của ba nước Đông Dương.
Chúng ta chào mừng nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, người đồng chí kiên cường, người bạn chiến đấu chung thuỷ đã giành được những thành tựu xuất sắc trong công cuộc khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế theo chủ nghĩa xã hội và trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Chúng ta chào mừng nước Cộng hoà Nhân dân Campuchia, người đại diện chân chính, hợp pháp duy nhất của nhân dân Campuchia anh dũng, đã giành được những thắng lợi to lớn trong công cuộc hồi sinh dân tộc và đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Giữa nước ta với hai nước anh em, quan hệ hữu nghị về mặt Nhà nước và nhân dân, sự hợp tác về chính trị, kinh tế, văn hoá phát triển tốt đẹp, việc trao đổi hàng hoá ngày càng tăng. Thực hiện Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa nước ta với Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, giữa nước ta với Cộng hoà Nhân dân Campuchia, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đem hết sức mình ủng hộ và giúp đỡ hai nước anh em một cách tận tình trên tinh thần quốc tế vô sản. Và mỗi chiến công bảo vệ Tổ quốc, mỗi thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta đều gắn liền với sự giúp đỡ quý báu của nhân dân hai nước anh em. Sự gắn bó trong tình thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, vinh quang có nhau, hoạn nạn có nhau ngày càng thể hiện trong cuộc sống và đi sâu vào tình cảm của nhân dân mỗi nước chúng ta.
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia là một quy luật phát triển của cách mạng ba nước, là điều có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc. Từ thế hệ này đến thế hệ khác, nhân dân ta phải giữ gìn tình hữu nghị trong sáng và truyền thống đoàn kết giữa ba dân tộc, không ngừng củng cố và tăng cường quan hệ đặc biệt và liên minh chiến đấu giữa ba nước, quyết làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại, chia rẽ, xâm lược của kẻ thù chung là ... đế quốc Mỹ và các thế lực phản động khác. Chúng ta coi đó là một bảo đảm vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ độc lập, tự do và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước trên bán đảo Đông Dương, đồng thời là nhân tố cực kỳ quan trọng đối với hoà bình và ổn định ở Đông Nam á.
Trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, bình đẳng và tin cậy lẫn nhau, chúng ta luôn luôn hết lòng, hết sức làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với hai nước anh em, đồng thời cùng hai nước hợp tác chặt chẽ và giúp đỡ nhau về mọi mặt để phục vụ ngày càng có hiệu quả công cuộc củng cố quốc phòng, an ninh và xây dựng kinh tế, văn hoá của mỗi nước.
Tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác anh em giữa nước ta với các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa đã có bước phát triển mới về chất từ khi nước ta trở thành một thành viên chính thức của Hội đồng tương trợ kinh tế. Chúng ta đã nhận được từ các nước anh em sự ủng hộ mạnh mẽ và sự giúp đỡ nhiều mặt. Theo những hiệp ước hữu nghị, hợp tác và các hiệp định đã ký giữa nước ta với các nước anh em, việc hợp tác trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật đã được triển khai thực hiện và đạt những bước tiến và kết quả đáng phấn khởi.
Trong thời gian tới, chúng ta sẽ làm hết sức mình cùng các nước anh em thực hiện tốt quan hệ hợp tác trong khuôn khổ những hiệp ước và hiệp định tay đôi và thúc đẩy các quan hệ hợp tác ngày càng phát triển trong quá trình phối hợp kế hoạch và chính sách giữa các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế.
Chúng ta nhiệt liệt ủng hộ những biện pháp đúng đắn, kiên quyết của Hội đồng Quân sự cứu nước Ba Lan, đánh bại âm mưu cướp quyền của bọn phản động, lập lại trật tự và an ninh để giải quyết các khó khăn về kinh tế và xã hội của Ba Lan. Chúng ta kịch liệt phản đối những hành động của các thế lực đế quốc can thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ của Ba Lan hòng cản trở quá trình hồi phục của nước Ba Lan xã hội chủ nghĩa. Chúng ta khẳng định tình đoàn kết không lay chuyển đối với Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan, đối với những người cộng sản và nhân dân Ba Lan anh em. Chúng ta tin chắc rằng những người anh em Ba Lan nhất định sẽ hoàn toàn đập tan mọi thế lực phản động, vượt qua mọi khó khăn, giữ vững và phát triển những thành quả cách mạng của mình. Nước Cộng hoà Nhân dân Ba Lan mãi mãi là mắt xích vững chắc trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới!
Nhân dân ta kiên quyết đứng bên cạnh nhân dân Cuba anh em, ủng hộ mạnh mẽ nước Cộng hoà Cuba, một nước độc lập, có chủ quyền, thành viên của cộng đồng xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch phong trào các nước Không liên kết, đang đấu tranh chống âm mưu xâm lược và sự đe doạ tiến công của đế quốc Mỹ. Nhân dân Cuba vùng lên từ cuộc sống nô lệ, đang phất cao ngọn cờ tự do và chủ nghĩa xã hội, vì độc lập của Tổ quốc và hạnh phúc của chính mình. Đó là một dân tộc anh hùng, bất khuất, không kẻ xâm lược nào chiến thắng nổi. Không được đụng đến Cuba!
Nhân dân ta trước sau như một, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Triều Tiên nhằm hoà bình thống nhất đất nước, không có sự can thiệp từ bên ngoài.
Chúng ta tích cực góp phần tăng cường sự đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bằng thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và có tính chất thời đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bằng thắng lợi vẻ vang của hai cuộc chiến tranh giữ nước vừa qua và cuộc đấu tranh kiên cường hiện nay ... Đảng ta đã và đang góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh ... bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Là một dân tộc đã từng bị chủ nghĩa đế quốc áp bức và đã chiến đấu lâu dài chống các thế lực xâm lược, nhân dân ta hoàn toàn ủng hộ cuộc đấu tranh của các nước á, Phi, Mỹ Latinh, nhằm loại trừ khỏi đời sống thế giới mọi hình thức của chủ nghĩa thực dân, giành và bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới.
Nhân dân Việt Nam thực hành triệt để đường lối phát triển sự hợp tác giữa Việt Nam với các nước thành viên khác trong phong trào các nước Không liên kết, góp phần phát huy vai trò tích cực của phong trào này trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân, bảo vệ hoà bình thế giới và độc lập, chủ quyền của các dân tộc. Nhân dân ta ủng hộ những cố gắng tích cực của các nước Không liên kết nhằm biến ấn Độ Dương thành khu vực hoà bình.
Chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh sáng kiến của nước Cộng hoà Nhân dân Mông Cổ về việc ký kết công ước không tiến công lẫn nhau và không sử dụng vũ lực trong quan hệ giữa các nước châu á và Thái Bình Dương.
Nhân dân ta đánh giá cao vai trò to lớn và uy tín ngày càng tăng của ấn Độ trong phong trào Không liên kết cũng như những đóng góp của ấn Độ vào việc giữ gìn hoà bình và ổn định ở châu á và trên thế giới. Chúng ta rất vui mừng về bước phát triển tốt đẹp hiện nay của quan hệ Việt Nam - ấn Độ, và tin tưởng rằng tình hữu nghị, sự hợp tác về nhiều mặt giữa hai nước ngày càng củng cố và tăng cường.
Chúng ta kiên quyết ủng hộ Chính phủ Cộng hoà Dân chủ ápganixtan và nhân dân ápganixtan anh em được sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, đang chiến đấu chống cuộc chiến tranh không tuyên bố của bọn đế quốc và phản động quốc tế, bảo vệ những thành quả của Cách mạng tháng Tư.
Nhân dân ta kiên quyết đứng bên cạnh nhân dân các nước Nicaragoa, Grênađa đang đấu tranh chống sự đe doạ xâm lược của đế quốc Mỹ. Chúng ta ủng hộ hoàn toàn cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân En Xanvađo chống chế độ độc tài phát xít và bọn can thiệp Mỹ. Chúng ta ủng hộ mạnh mẽ nhân dân Chilê, Goatêmala đấu tranh chống bọn thống trị phát xít và sự can thiệp của đế quốc Mỹ; ủng hộ nhân dân Panama đấu tranh thực hiện chủ quyền về kênh đào Panama.
Chúng ta lên án đế quốc Mỹ dùng Ixraen làm tên lính xung kích chống lại nhân dân các nước Arập, khuyến khích Ixraen mở những cuộc tiến công dã man vào Libăng và Irắc, xâm chiếm Giêruxalem, thôn tính vùng Gôlan của Xyri, gây nên tình hình cực kỳ nguy hiểm ở Trung Đông. Chúng ta ủng hộ mọi cố gắng nhằm thực hiện một nền hoà bình công bằng và bền vững tại vùng này, trên cơ sở Ixraen phải chấm dứt việc chiếm đóng tất cả đất đai Arập bị họ chiếm, phải tôn trọng những quyền dân tộc cơ bản không thể tước đoạt của nhân dân Arập, Palextin, mà Tổ chức giải phóng Palextin PLO là người đại diện chân chính duy nhất, kể cả quyền được thiết lập quốc gia riêng của mình.
Chúng ta ủng hộ kiên quyết nhân dân và Chính phủ Libi trong cuộc đấu tranh ngoan cường chống chính sách thù địch của đế quốc Mỹ, giữ vững chủ quyền và bảo vệ độc lập dân tộc.
Nhân dân ta bày tỏ sự đồng tình sâu sắc và ủng hộ nhiệt liệt đối với nhân dân Namibia và các dân tộc khác ở miền Nam châu Phi đang chiến đấu chống ách thống trị của bọn phân biệt chủng tộc Nam Phi vì độc lập, tự do và bình đẳng dân tộc. Chúng ta kịch liệt lên án những cuộc tiến công ăn cướp của Nam Phi ở ănggôla, và hoàn toàn ủng hộ mọi biện pháp của ănggôla nhằm giáng trả đích đáng bọn xâm lược.
Với mối cảm tình sâu sắc, nhân dân ta chăm chú theo dõi phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Hơn một năm nay, ở hầu hết khắp các nước Tây âu, Bắc Âu, và Bắc Mỹ, dâng lên một phong trào quần chúng sâu rộng và mạnh mẽ chưa từng có từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chống chính sách hiếu chiến và can thiệp của chính quyền Rigân đang làm cho bầu không khí quốc tế căng thẳng và tình hình châu Âu trở nên cực kỳ nguy hiểm. Những diễn biến gần đây của tình hình một vài nước châu Âu như Pháp, Hylạp, chứng tỏ rằng ngọn cờ hoà bình, dân chủ, tiến bộ xã hội có sức tập hợp đông đảo giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đấu tranh đánh lùi từng bước chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước, giành thắng lợi từng phần, tạo ra những điều kiện thuận lợi để đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân tiếp tục tiến lên. Nhân dân ta hy vọng rằng trong thời gian tới, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển sẽ giành được thắng lợi to lớn hơn trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Nhân dân Việt Nam chủ trương thiết lập những quan hệ láng giềng tốt với các nước ASEAN, luôn luôn sẵn sàng cùng các nước này phối hợp cố gắng để xây dựng Đông Nam á thành một khu vực hoà bình và ổn định... Chúng ta mong rằng vì lợi ích cơ bản của mình, vì hoà bình và an ninh ở khu vực này và trên thế giới, các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương tiến hành đối thoại và thương lượng để giải quyết những vấn đề trong quan hệ giữa hai nhóm nước, tiến tới thực hiện một Đông Nam á hoà bình và ổn định, hữu nghị và hợp tác.
... Kiên trì chính sách hữu nghị và láng giềng tốt với nhân dân Trung Quốc, chúng ta chủ trương khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau và giải quyết những vấn đề tranh chấp bằng con đường thương lượng...
Chúng ta chủ trương thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt Nhà nước, về kinh tế, văn hoá và khoa học, kỹ thuật với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, xã hội trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Những quan hệ như thế đã được thiết lập giữa nước ta với nhiều nước ở Tây Âu, Bắc Âu, Nam Mỹ, và các khu vực khác; riêng với Mỹ, quan hệ chưa cải thiện được là do chính sách thù địch của Oasinhtơn. Là thành viên của Liên hiệp quốc, chúng ta có quan hệ với nhiều tổ chức quốc tế do Liên hiệp quốc bảo trợ.
Nhân dân ta mãi mãi trân trọng sự ủng hộ quý báu và tình cảm nồng hậu mà nhân dân và chính phủ các nước bầu bạn cũng như nhiều tổ chức quốc tế đã dành cho chúng ta. Chúng ta tin tưởng, trong tương lai, những quan hệ giữa nước ta với các nước và tổ chức nói trên sẽ được duy trì và phát triển hơn nữa vì hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc.
Phần VI
Nâng cao sức chiến đấu của Đảng
Thưa các đồng chí,
Đảng ta là một đảng cách mạng kiên cường. Trong cuộc chiến đấu mới đầy khó khăn và phức tạp để cải tạo xã hội cũ, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta tiếp tục phát huy bản chất cách mạng và khoa học của mình. Đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng vạch ra đã được cuộc sống kiểm nghiệm là đúng đắn. Sự đoàn kết, thống nhất của Đảng vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc... ngày càng được củng cố. Qua chấp hành Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng, các tổ chức đảng, các cơ quan quản lý nhà nước đã có thêm những kinh nghiệm và năng lực mới trên các lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Đông đảo cán bộ, đảng viên bước vào một cuộc chiến đấu mới, vẫn giữ vững phẩm chất cách mạng tốt đẹp và được nâng cao một bước về trình độ chính trị, kiến thức văn hoá, khoa học và kỹ thuật, năng lực lãnh đạo và quản lý.
Tuy nhiên, thực tế mấy năm qua cũng cho thấy rõ những nhược điểm, khuyết điểm của Đảng trong lãnh đạo kinh tế và xã hội, thể hiện ở những thiếu sót về việc thực hiện và cụ thể hoá đường lối của Đảng, ở năng lực tổ chức thực tiễn, ở phong cách lãnh đạo có nhiều điều chưa phù hợp với những yêu cầu của giai đoạn mới. Những ưu điểm và khuyết điểm trong sự lãnh đạo chính trị của Đảng gắn liền với những ưu điểm và khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức.
Chúng ta đã có những cố gắng để không ngừng nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, từng bước kiện toàn hệ thống tổ chức đảng từ trung ương đến cơ sở, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên kết hợp với việc tăng cường bộ máy nhà nước, xây dựng và phát huy vai trò của các đoàn thể quần chúng. Song những khuyết điểm trong lãnh đạo và quản lý kinh tế - xã hội chậm được sửa chữa, cùng với nhiều khuyết điểm kéo dài trong công tác tư tưởng và công tác tổ chức của Đảng, nhất là những biểu hiện sa sút về phẩm chất cách mạng, ý chí chiến đấu, tinh thần trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ phụ trách ở các cấp, các ngành đã làm giảm hiệu quả lãnh đạo của các tổ chức đảng, gây trở ngại lớn cho việc chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật Nhà nước, đồng thời ảnh hưởng không tốt đến uy tín của Đảng trong quần chúng.
Hiện nay, nhiệm vụ lịch sử mà Đảng phải gánh vác rất nặng nề. Cuộc đấu tranh để xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đang diễn ra gay gắt và phức tạp. Các loại kẻ thù của nhân dân ta trong và ngoài nước đang chĩa mũi nhọn vào Đảng ta, tìm mọi cách phá hoại Đảng ta về tư tưởng và tổ chức. Tình hình của Đảng, nhiệm vụ lịch sử mà Đảng phải gánh vác, hoàn cảnh đấu tranh mới, càng làm nổi lên vị trí đặc biệt quan trọng của công tác xây dựng Đảng: phải tạo bằng được một sự chuyển biến thật mạnh mẽ về chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng hiện nay là tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, làm cho Đảng ta luôn luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, một đảng thật trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với quần chúng. Muốn làm được như vậy, nhất thiết phải đổi mới công tác xây dựng Đảng.
Nội dung nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng hiện nay là: các cơ quan có trách nhiệm của Đảng và Nhà nước phải thấu suốt đường lối của Đảng, kịp thời cụ thể hoá đường lối, các nghị quyết của Đại hội Đảng lần này, căn cứ vào đường lối và nghị quyết của Đảng mà vạch ra các kế hoạch, chính sách, biện pháp đúng đắn về xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như về bảo vệ Tổ quốc; nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn, sửa đổi những hình thức tổ chức và phương pháp công tác không thích hợp, xây dựng ở các ngành và các cấp cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý; lựa chọn và bố trí cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý chủ chốt ở các ngành, các cấp, các cơ sở quan trọng, có phẩm chất và năng lực ngang tầm với nhiệm vụ của giai đoạn mới; tổ chức và động viên quần chúng tạo nên phong trào cách mạng sôi nổi. Việc nâng cao năng lực lãnh đạo trên đây phải là kết quả tổng hợp của việc thấu suốt đường lối của Đảng, đặc biệt là nắm vững và vận dụng các quy luật của quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta được phản ánh trong đường lối, rút những bài học đúng đắn từ những kinh nghiệm trong nước và ngoài nước, có sự hiểu biết cần thiết về quản lý và khoa học, kỹ thuật, có phương pháp tư duy khoa học, luôn luôn nhạy cảm với cái mới, có cách tổ chức tốt để đi sâu vào thực tiễn, nắm được kịp thời yêu cầu và nguyện vọng của quần chúng, phát hiện và nâng cao những kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng.
Sự lãnh đạo của Đảng phải được tăng cường một cách toàn diện, nhưng cần đặc biệt coi trọng lãnh đạo kinh tế: toàn Đảng đi sâu vào mặt trận kinh tế, cải tiến phong cách lãnh đạo kinh tế, nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo kinh tế.
Để nâng cao chất lượng lãnh đạo kinh tế, cụ thể hoá đường lối của Đảng phải tiếp tục tổng kết công tác kinh tế trong thời gian qua, tổng kết những điển hình tiên tiến về nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, phân phối, lưu thông. Từ những bài học và kinh nghiệm thực tế đó mà đề ra những chủ trương, chính sách sát đúng, những hình thức cụ thể thích hợp, từ hình thức tổ chức và phân công lao động, bộ máy quản lý kinh tế, quản lý sản xuất, đến tổ chức và phương thức kinh doanh, phân phối, v.v.. Không tiến hành công tác nghiên cứu và tổ chức tỉ mỉ để làm cho được những việc cụ thể ấy thì không thể biến đường lối kinh tế của Đảng thành hiện thực.
Trong lãnh đạo kinh tế, một mặt chúng ta cần biểu dương những địa phương, những cơ sở đã nêu cao tinh thần chủ động, sáng tạo trong việc chấp hành đường lối của Đảng, thi hành các chính sách của Trung ương phù hợp với hoàn cảnh của địa phương, đề ra được những chủ trương và biện pháp đúng đắn để nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân. Cần động viên khuyến khích những cán bộ nhạy cảm với cái mới biết đứng trên quan điểm mới để xem xét các vấn đề, sớm phát hiện những cái lỗi thời trong các chủ trương, chính sách, hình thức tổ chức và quản lý cũ, đồng thời biết vun trồng những mầm non mới nảy sinh trong cuộc sống. Nhưng mặt khác chúng ta cần khắc phục và ngăn ngừa những khuynh hướng lệch lạc như: tự do chủ nghĩa, địa phương chủ nghĩa, cục bộ và bản vị, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, buông lỏng cuộc đấu tranh giữa hai con đường, làm sai đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa của Đảng.
Trong khi đi sâu vào các nhiệm vụ xây dựng, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hoá là những nhiệm vụ còn rất mới mẻ, Đảng ta không một phút nào lơi lỏng sự nghiệp củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, một nhiệm vụ đang đòi hỏi Đảng phải tiếp tục nâng cao hơn nữa năng lực, trình độ lãnh đạo của mình.
Đảng phải tăng cường và nâng cao chất lượng lãnh đạo tư tưởng. Nhiệm vụ cơ bản của công tác tư tưởng là vũ trang cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội khoa học, xây dựng ý chí kiên cường, quyết tâm sắt đá và trình độ hiểu biết cần thiết để làm tròn cả hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác tư tưởng phải làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ngành, các địa phương, các cơ sở hiểu sâu sắc đường lối chung về cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, và phấn đấu thực hiện đường lối ấy một cách tự giác với nhiệt tình cách mạng cao nhất của người làm chủ tập thể. Chỗ yếu của công tác tư tưởng trong thời gian vừa qua là chưa trang bị cho cán bộ, đảng viên những hiểu biết cần thiết, chưa làm cho cán bộ, đảng viên thấu suốt đường lối, chính sách của Đảng, và phổ biến rộng rãi đường lối, chính sách đó trong nhân dân; tạo ra sự nhất trí cao, có căn cứ lý luận và thực tiễn đầy đủ; chưa phê phán mạnh mẽ những quan điểm sai trái với đường lối của Đảng; chưa trả lời kịp thời những vấn đề thực tế và cụ thể được đặt ra trong quá trình thực hiện đường lối đó.
Việc giải thích đường lối không dừng lại ở những quan điểm chung. Phải chứng minh bằng những luận cứ khoa học và bằng thực tế sinh động, giúp cho mọi người hiểu rõ, hiểu sâu đường lối của Đảng; gắn chặt việc làm thấu suốt đường lối của Đảng với việc giải thích các chính sách cụ thể của Đảng và Nhà nước; giải thích cục diện cách mạng hiện nay của nước ta, khẳng định những thắng lợi to lớn trên mặt trận bảo vệ Tổ quốc và những thành tựu trên mặt trận xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá, làm cho mọi người phấn khởi tự hào về những thắng lợi mà nhân dân ta đã giành được; đồng thời nói rõ những khó khăn, phân tích rõ nguyên nhân của những khó khăn trong sản xuất và đời sống; nghiêm khắc phê phán những khuyết điểm trong công tác lãnh đạo và quản lý, chỉ rõ phương hướng và biện pháp khắc phục khó khăn. Phải nói rõ cuộc đấu tranh để xây dựng chủ nghĩa xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa là một cuộc đấu tranh giai cấp giữa hai con đường diễn ra rất gay go, phức tạp, lâu dài và làm cho mọi người giữ vững lập trường xã hội chủ nghĩa kiên định trong cuộc đấu tranh ấy.
Công tác tư tưởng phải làm cho mọi người thấy rõ, không chút mơ hồ, kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của dân tộc..., hiểu rõ những âm mưu và hành động của chúng nhằm xâm lược và phá hoại nước ta, nâng cao cảnh giác thấu suốt đường lối của Đảng, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu quên mình bảo vệ Tổ quốc. Phải tổ chức thật chặt chẽ việc tuyên truyền, phổ biến quan điểm của Đảng...
Công tác tư tưởng phải hướng mạnh vào việc giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên, chống chủ nghĩa cá nhân, chống chủ nghĩa cơ hội dưới mọi hình thức, kiên quyết khắc phục những biểu hiện sa sút về phẩm chất chính trị, vô kỷ luật về mặt tổ chức, thoái hoá về lối sống, quan liêu hoá về tác phong, bảo thủ trong cách nhìn nhận sự vật của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong vấn đề này, phải kết hợp chặt chẽ các hình thức giáo dục tư tưởng, tự phê bình và phê bình với các biện pháp tổ chức tăng cường kiểm tra thi hành kỷ luật của Đảng một cách nghiêm minh; kết hợp công tác giáo dục tư tưởng trong Đảng với cuộc đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong các cơ quan nhà nước, trong xã hội.
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng, sẽ tiến hành một đợt giáo dục chính trị sâu sắc trong toàn Đảng, lấy việc nghiên cứu các văn kiện của Đại hội làm nội dung giáo dục cán bộ, đảng viên về đường lối, chính sách của Đảng, tiến hành tự phê bình và phê bình nghiêm túc, phê phán những tư tưởng sai lầm, nâng cao ý chí cách mạng và tinh thần trách nhiệm của người đảng viên cộng sản trước tình hình và nhiệm vụ mới.
Tổ chức tốt việc bồi dưỡng những kiến thức khoa học, kỹ thuật, nhất là kiến thức kinh tế, cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên phong cách lãnh đạo kinh tế, có tinh thần cách mạng sôi nổi, khẩn trương, lại có đầu óc thực tế, biết kinh doanh, tính toán hiệu quả, biết phát hiện và khai thác những tiềm năng của đất nước.
Trong công tác tư tưởng, phải nâng cao tính chiến đấu, phân tích, phê phán sâu sắc những biểu hiện tư tưởng tiểu tư sản, kiên quyết chống tư tưởng tư sản, chống những tàn dư văn hoá thực dân mới và tàn dư tư tưởng phong kiến. Cuộc đấu tranh chống các loại tư tưởng phi vô sản ấy phải được tiến hành một cách có tổ chức, bằng nhiều biện pháp có sự chỉ đạo cụ thể và luôn luôn gắn chặt với việc thực hiện những nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Sức sống, hiệu quả của công tác tư tưởng là ở tinh thần cách mạng và khoa học của nó. Công tác tuyên truyền phải chân thật; cần nói rõ cho nhân dân hiểu sự thật, những việc làm được và những việc chưa làm được, thuận lợi và khó khăn, thành tích và khuyết điểm. Chỉ có tiến hành công tác tư tưởng trên cơ sở khoa học, không chủ quan, một chiều, khắc phục bệnh hời hợt, sơ lược, mới đấu tranh sắc bén và có hiệu quả chống mọi tư tưởng sai lầm, thù địch.
Những phương tiện thông tin đại chúng phải được sử dụng tốt và hoạt động có hiệu quả cao hơn. Đồng thời, tăng cường và cải tiến công tác chính trị và tư tưởng thường xuyên của chi bộ đảng. Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ đều có trách nhiệm tuyên truyền, giải thích đường lối, chính sách của Đảng, giải đáp những vấn đề vướng mắc của quần chúng, kịp thời vạch trần những luận điệu xuyên tạc thù địch, bảo vệ đường lối của Đảng, xây dựng và giữ vững lòng tin của quần chúng đối với sự nghiệp cách mạng của nước nhà.
Cần mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm từng bước đem lại cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng, hiểu biết có hệ thống về những thành tựu mới trong công tác lý luận của Đảng ta và các đảng anh em, để tham gia một cách chủ động, tích cực vào việc xây dựng và vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng. Cần cải cách toàn diện công tác giáo dục lý luận và chính trị trong các trường của Đảng, của Nhà nước và của các đoàn thể về nội dung và phương pháp giảng dạy, về đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên.
Tăng cường công tác lý luận, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học xã hội, làm cho công tác lý luận, công tác khoa học xã hội gắn chặt với việc nghiên cứu xác định và phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; phát huy vai trò và tiềm lực khoa học xã hội trong việc giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho nhân dân lao động, trong việc nghiên cứu cải tiến quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Trong thời gian tới, cần nghiên cứu sâu về các quy luật của thời kỳ quá độ từ sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, về chiến lược kinh tế của Đảng trong những năm 80, về chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, về cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, về xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, về một số vấn đề quốc tế như: bước phát triển mới của ba dòng thác cách mạng, chiến lược toàn cầu hiện nay của đế quốc Mỹ, phê phán... các hệ thống tư tưởng tư sản chống cộng khác...
Tích cực đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lý luận, kiện toàn Viện Mác - Lênin, Trường Đảng cao cấp Nguyễn ái Quốc và các cơ quan lý luận đã có; xây dựng một số viện nghiên cứu mới, phối hợp chặt chẽ các cơ quan nghiên cứu khoa học của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện các chương trình nghiên cứu lý luận.
Đảng phải đặc biệt tăng cường lãnh đạo tổ chức, một khâu quyết định đối với việc thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng. Trước hết cần lãnh đạo thật tốt việc xây dựng và củng cố Nhà nước xã hội chủ nghĩa, bởi vì ngày nay, Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng chủ yếu thông qua Nhà nước. Trong cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng thể hiện ở chỗ không lơi lỏng sự lãnh đạo đối với những vấn đề quan trọng về đường lối, chính sách, chủ trương, nhưng không sa vào những việc quản lý và điều hành cụ thể, không lấn át quyền hạn trách nhiệm của cơ quan nhà nước. Tổ chức đảng ở một địa phương, một cơ sở phải biết lựa chọn cho đúng những việc thuộc phạm vi lãnh đạo của Đảng. Cải tiến các phương pháp, hình thức lãnh đạo của tổ chức đảng đối với cơ quan nhà nước ở các ngành, các cấp.
Đảng phải dành nhiều công sức xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý. Chất lượng cán bộ là điều kiện quyết định thắng lợi của công tác lãnh đạo. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước phải có phẩm chất chính trị, trình độ hiểu biết và năng lực công tác tương ứng với yêu cầu của nhiệm vụ mới. Trên mặt trận kinh tế, đội ngũ cán bộ phải đủ sức thực hiện đường lối kinh tế của Đảng, thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế và xã hội do Đại hội lần thứ V của Đảng đề ra.
Trong công tác cán bộ, phải có chính sách lựa chọn đúng, bố trí tốt cán bộ cốt cán của các cấp, các ngành. Không để cán bộ kiêm nhiệm nhiều việc; kết hợp đúng đắn những cán bộ có phẩm chất và năng lực ở những lứa tuổi khác nhau. Tích cực đưa những cán bộ trẻ, cán bộ nữ và cán bộ dân tộc có phẩm chất và năng lực trưởng thành trong phong trào cách mạng của quần chúng vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Trong việc đánh giá cán bộ, cần khắc phục khuynh hướng chỉ thiên về quá trình công tác, về thành phần xuất thân, hoặc chỉ thiên về bằng cấp, học vị.
Cất nhắc, sử dụng cán bộ phải đi đôi với đào tạo và bồi dưỡng cán bộ một cách có kế hoạch. Thời gian qua, chúng ta có nhiều thiếu sót trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo của Đảng ở các cấp; chưa định được những tiêu chuẩn cụ thể của cán bộ lãnh đạo ở từng cấp; chậm cải tiến và nâng cao chất lượng chương trình đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo. Nhiều cán bộ lãnh đạo chưa được đào tạo, bồi dưỡng một cách kịp thời, có hệ thống và có chất lượng. Đối với người cán bộ lãnh đạo của Đảng, nhất là các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của cấp uỷ, sự hiểu biết về lý luận chính trị, trình độ kiến thức nói chung phải biến thành phương pháp tư duy khoa học, nhãn quan chính trị sâu rộng, khả năng phân tích nhạy bén, chính xác các sự kiện diễn ra trong đời sống, năng lực tổ chức điều hành bộ máy, năng lực thuyết phục và động viên quần chúng.
Cần phải gấp rút củng cố đội ngũ cán bộ hiện có, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo và quản lý; đổi mới nội dung phương pháp giảng dạy và học tập ở các trường Đảng và trường quản lý của Nhà nước; nâng cao trình độ khoa học trong việc nghiên cứu chính sách cán bộ và xây dựng nhanh quy hoạch đào tạo cán bộ lãnh đạo ở các cấp, các ngành, các huyện và các cơ sở kinh tế quan trọng.
Đảng phải tổ chức tốt công tác kiểm tra, một trong những chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng. Thời gian qua công tác kiểm tra chưa được coi trọng, chưa tổ chức tốt và chưa thành chế độ, nền nếp chặt chẽ. Có những cấp uỷ đảng đề ra chủ trương rồi dừng lại ở những chủ trương ấy mà không tổ chức và kiểm tra việc thực hiện. Vì vậy, nhiều công việc tiến hành chậm trễ, nhiều chủ trương đúng không được thực hiện đầy đủ, nhiều lệch lạc chậm được sửa chữa. Hiện nay, hơn lúc nào hết, phải tăng cường kiểm tra, nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra. Kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng ở các cấp, các ngành; kiểm tra việc giữ gìn phẩm chất cách mạng và sự hoạt động của cán bộ, đảng viên, nhân viên trong bộ máy nhà nước; bảo vệ những cán bộ có phẩm chất tốt, có năng lực, có triển vọng; phát hiện nhanh những nhân tố mới; sửa chữa kịp thời những thiếu sót, khiến cho sự lãnh đạo luôn luôn cụ thể sắc bén.
Làm theo phương châm xây dựng Đảng mà Đại hội lần thứ IV đề ra, chúng ta đã đạt được những kết quả quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, tăng cường các tổ chức cơ sở, kiện toàn bộ máy lãnh đạo các cấp của Đảng.
Hiện nay, Đảng ta có 1.727.784 đảng viên1 hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở. Trong bước phát triển mới của cách mạng, đại đa số đảng viên đã tỏ rõ phẩm chất cách mạng và năng lực sáng tạo của người cộng sản. Trên trận tuyến chiến đấu bảo vệ đất nước, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, trên mặt trận xây dựng, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học, cũng như trên mặt trận đối ngoại, hàng vạn đảng viên của Đảng đã nêu những tấm gương hy sinh, tận tụy vì Tổ quốc và nhân dân, hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Trình độ chính trị và văn hoá của đảng viên đã được nâng lên. Trên một triệu đảng viên đã được học tập, bồi dưỡng về chính trị, lý luận theo những chương trình khác nhau. Hiện nay, Đảng ta đã có gần 50 vạn đảng viên có trình độ học vấn cấp III và trên 20 vạn đảng viên có trình độ đại học và trung học chuyên nghiệp.
Song, trong lúc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân phấn đấu kiên cường vì sự nghiệp cao cả của Tổ quốc, của chủ nghĩa xã hội, một bộ phận đảng viên đã không giữ vững phẩm chất cách mạng, mất ý chí chiến đấu, bỏ nhiệm vụ, vi phạm chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Những người ấy thực tế đã xa rời Đảng, xa rời cách mạng, làm tổn hại đến uy tín của Đảng. Trong 5 năm qua, Đảng ta đã đưa ra khỏi Đảng những đảng viên hư hỏng, thoái hoá. Việc đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng như vậy là đúng. Nhưng ở nhiều nơi đã phát thẻ Đảng, vẫn còn một số không ít đảng viên chưa được nhận thẻ. Có những người rõ ràng không xứng đáng là đảng viên, nhưng các đảng bộ chưa kiên quyết đưa ra khỏi Đảng.
Để giữ cho đội ngũ của Đảng trong sạch, sau Đại hội này, phải kiên quyết đưa ra càng sớm càng tốt khỏi hàng ngũ của Đảng tất cả những kẻ cơ hội, những người tê liệt ý chí cách mạng, những kẻ bóc lột, buôn lậu, đầu cơ, tham ô, hối lộ, ức hiếp quần chúng. Đối với những đảng viên trình độ giác ngộ quá thấp, qua giáo dục của tổ chức đảng vẫn không tiến bộ, thì cũng đưa ra khỏi Đảng. Việc này phải làm rất kiên quyết và khẩn trương, nhưng có sự chỉ đạo chặt chẽ của Ban Bí thư và các cấp uỷ đảng, đề phòng những lệch lạc.
Các cấp uỷ đảng phải căn cứ vào những yêu cầu về phẩm chất và năng lực đảng viên trong thời kỳ mới mà ra sức nâng cao chất lượng đảng viên. Mỗi đảng viên, dù hằng ngày làm việc gì, là công nhân, viên chức nhà nước, xã viên hợp tác xã hoặc chiến sĩ quân đội, công an... đều phải có phẩm chất và năng lực của người chiến sĩ cộng sản.
Phẩm chất và năng lực của người đảng viên lúc này thể hiện trước hết ở tinh thần cách mạng tiến công, tin tưởng vững chắc ở thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, trước khó khăn không dao động, hằng ngày hằng giờ phấn đấu làm được những việc thiết thực để góp phần vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển sản xuất, ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân. Trên mặt trận bảo vệ Tổ quốc, người đảng viên không những phải nêu cao tinh thần chiến đấu, dũng cảm ở tiền tuyến, mà còn phải có tinh thần cảnh giác cao chống lại những hành động phá hoại về chính trị, kinh tế và tư tưởng... Không được bàng quan, lẩn tránh hoặc chỉ kể lể, kêu ca về những biểu hiện tiêu cực; trái lại phải tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh giữa hai con đường, chống những biểu hiện tiêu cực, những khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa để bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, củng cố và tăng cường trận địa của chủ nghĩa xã hội, bảo vệ sự trong sạch của Đảng. Mỗi đảng viên, bất kỳ ở cương vị công tác nào đều phải xem xét tác phong công tác của mình, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, đi sâu vào phong trào quần chúng, lắng nghe ý kiến và tiếp thu những kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng, luôn luôn giữ vững ý thức tổ chức và kỷ luật, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, chống lại những quan điểm, tư tưởng sai lầm, bảo vệ chân lý, bảo vệ Đảng; giữ vững được cuộc sống lành mạnh, lương thiện, không bị lối sống xa hoa, đồi trụy cám dỗ.
Phẩm chất của người đảng viên hiện nay còn thể hiện ở tinh thần say sưa học tập, khao khát trí thức, ra sức nâng cao trình độ hiểu biết về chủ nghĩa xã hội, về đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nâng cao sự thành thạo trong công việc đang làm. Tự mãn, không chịu học tập, bỏ phí thời gian, không chịu thường xuyên nâng cao trình độ về mọi mặt, cũng là một biểu hiện thoái hoá nghiêm trọng về phẩm chất đảng viên.
Công tác giáo dục, rèn luyện, kiểm tra đảng viên phải gắn với phong trào cách mạng của quần chúng, với nhiệm vụ, quyền hạn được giao, với việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và tuân thủ pháp luật của Nhà nước, với việc cải tiến tổ chức và quản lý của xí nghiệp, hợp tác xã, cơ quan đơn vị. Việc tổ chức cho quần chúng giới thiệu người vào Đảng, góp ý kiến vào việc đưa những người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi Đảng, phê bình đảng viên, kiểm tra hoạt động của đảng viên, là bài học rất quý trong công tác xây dựng Đảng, cần được tổng kết chu đáo áp dụng rộng rãi và có nền nếp trong tất cả các tổ chức đảng. Việc nâng cao tính tích cực, tác dụng lãnh đạo của chi bộ, của đảng viên không thể tách rời việc sửa đổi những chính sách, chế độ không hợp lý, những cách tổ chức quản lý không phù hợp. Mặt khác, phải nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho đảng viên, đổi mới cách thức sinh hoạt của chi bộ đảng, thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình.
Trong 5 năm, Đảng đã có thêm trên 37 vạn đảng viên mới, 85,9% đảng viên mới là đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Đó là những nam nữ thanh niên ưu tú, được quần chúng góp ý kiến xây dựng, nhận xét, kiểm tra và giới thiệu để Đảng kết nạp. Lớp đảng viên mới này đã nhanh chóng phát huy tác dụng đem lại cho Đảng sức sống mới.
Nguồn dự trữ của Đảng ta rất dồi dào, phong phú. Hàng vạn, hàng chục vạn thanh niên công nhân, nông dân tập thể, trí thức xã hội chủ nghĩa ưu tú không ngừng xuất hiện trong phong trào cách mạng của quần chúng. Cần tiếp tục mở rộng hàng ngũ của Đảng, kết nạp thêm nhiều đảng viên mới có chất lượng. Chú ý những nơi lực lượng đảng viên còn quá ít, như các tỉnh thuộc Nam Bộ. Coi trọng hơn nữa việc kết nạp đảng viên thuộc thành phần công nhân. Không nên vì ngại khó mà hẹp hòi, đóng cửa. Nếu làm tốt công tác phát triển đảng, thu hút vào Đảng những người ưu tú, giác ngộ lý tưởng của Đảng, đã được bồi dưỡng thử thách, lại có kiến thức chính trị, văn hoá, khoa học và kỹ thuật, thì chất lượng của tổ chức đảng được nâng cao. Không được giảm nhẹ yêu cầu về chất lượng đảng viên. Hết sức ngăn ngừa những phần tử cơ hội chui vào Đảng.
Mấy năm qua, các cấp uỷ tỉnh, thành, huyện, quận đã chú trọng củng cố tổ chức cơ sở đảng, đi sát cơ sở, tăng cường nhiều cán bộ cho cơ sở. Nhờ vậy, số cơ sở mạnh ngày càng tăng lên, số cơ sở yếu kém giảm dần. Điều đáng mừng là xuất hiện ngày càng nhiều đảng bộ cơ sở ở nông thôn, xí nghiệp lãnh đạo sản xuất chiến đấu và tổ chức đời sống nhân dân rất tốt, tạo ra được những điển hình xuất sắc có tác dụng thúc đẩy phong trào chung trong cả nước. Tuy vậy, vẫn còn không ít đảng bộ cơ sở không biết cải tiến công tác lãnh đạo, không tạo ra được phong trào cách mạng của quần chúng, tiến hành công việc một cách chậm chạp, thụ động. Có những cấp uỷ tỉnh, thành, huyện, quận còn chỉ đạo cơ sở một cách gò ép, cứng nhắc, không coi trọng phát huy vai trò làm chủ và tinh thần chủ động, sáng tạo của đảng bộ cơ sở. Ngược lại, cũng có những tỉnh uỷ, huyện uỷ không thường xuyên kiểm tra chặt chẽ hoạt động của cơ sở. Để nâng cao hiệu quả lãnh đạo của đảng bộ cơ sở, cần xác định phương thức hoạt động của từng loại đảng bộ cơ sở; kiện toàn hệ thống chỉ đạo tổ chức cơ sở đảng cho phù hợp với tình hình mới, tích cực bồi dưỡng, huấn luyện các bí thư đảng uỷ cơ sở và bí thư chi bộ về phương pháp lãnh đạo.
Cần đặc biệt coi trọng củng cố chi bộ đảng. Chi bộ phải làm tốt việc phân công, kiểm tra, rèn luyện từng đảng viên, tuyên truyền, giáo dục từng người ngoài Đảng. Sửa đổi nội dung sinh hoạt chi bộ cho đúng với vị trí và trách nhiệm lãnh đạo chính trị của Đảng, không được hạ thấp sinh hoạt chi bộ đảng như sinh hoạt của tổ chức quần chúng, tổ chức sản xuất. Từng chi bộ phải có biện pháp cụ thể giáo dục, rèn luyện về phẩm chất cho từng đảng viên, bảo đảm không để cho một đảng viên nào có hành động tham ô, ức hiếp quần chúng, làm trái đường lối, chính sách của Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước.
Tăng cường các cấp uỷ đảng, hạt nhân lãnh đạo của đảng bộ các cấp, là một nhiệm vụ rất quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Cấp uỷ đảng phải đề ra được các chủ trương đúng đắn, sắc bén, giải đáp đúng các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Muốn vậy, cấp uỷ phải phấn đấu nâng cao trình độ về mọi mặt, nhất là đi sâu vào các vấn đề kinh tế, văn hoá, tổ chức đời sống nhân dân. Cấp uỷ đảng lại phải tổ chức thực hiện một cách thắng lợi các chủ trương đã đề ra. Điều đó đòi hỏi cấp uỷ nâng cao năng lực tổ chức, biết xây dựng và điều hành bộ máy, phát huy hiệu lực quản lý của cơ quan nhà nước, làm tốt công tác vận động quần chúng. Cải tiến các hình thức và phương pháp công tác cho phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của công tác lãnh đạo, khắc phục cho được nếp suy nghĩ và tác phong thủ công nghiệp của người sản xuất nhỏ.
Cấp uỷ đảng phải có số lượng và thành phần hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện trên mọi lĩnh vực hoạt động. Thành phần cấp uỷ cần kết hợp những cán bộ già dặn về chính trị với những cán bộ thông thạo về kinh tế, khoa học, kỹ thuật, có năng lực tổ chức và quản lý. Song các cấp uỷ viên phải có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực lãnh đạo, phải là những cán bộ tuyệt đối trung thành với cách mạng, với đường lối của Đảng, có khả năng thật sự cùng tập thể cấp uỷ bàn bạc và quyết định các chủ trương và tổ chức thực hiện tốt. Không được biến cấp uỷ thành một tổ chức có tính chất liên hiệp. Một số đồng chí chủ chốt của cấp uỷ phải tập trung làm công tác đảng, bảo đảm sự lãnh đạo và kiểm tra của Đảng, không làm công việc chính quyền.
Cấp uỷ đảng phải chăm lo xây dựng và ngày càng hoàn thiện bộ máy của Đảng; lựa chọn và bố trí những cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực để tăng cường các ban của cấp uỷ, sử dụng tốt và phát huy năng lực, sức mạnh của bộ máy. Đổi mới phương pháp và chế độ làm việc, trước hết là cải tiến và nâng cao chất lượng công tác thông tin của Đảng để các cơ quan lãnh đạo của Đảng luôn luôn nắm được tình hình thực tế một cách kịp thời và chính xác, đổi mới phương pháp chuẩn bị quyết định và ra quyết định, chấp hành nghiêm ngặt các quy tắc, chế độ về tổ chức thực hiện quyết định. Các cấp uỷ đảng phải bồi dưỡng, rèn luyện cho đội ngũ cán bộ nếp làm việc có kế hoạch, có phương pháp, theo đúng chức trách, chế độ, luôn luôn tính toán hiệu quả.
Từ Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đến nay, trước những thử thách mới của cuộc đấu tranh cách mạng, trước những âm mưu, thủ đoạn phá hoại, chia rẽ..., toàn Đảng ta, từ Ban Chấp hành Trung ương đến các chi bộ đảng, các cán bộ, đảng viên đã siết chặt đội ngũ, tăng cường đoàn kết, giữ vững sự thống nhất về ý chí và hành động. Sự đoàn kết, thống nhất của Đảng đã thể hiện rõ trong sự hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Những nghị quyết và chủ trương đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương và của Bộ Chính trị chính là sản phẩm của trí tuệ tập thể, của sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng.
Sự đoàn kết, thống nhất của Đảng ta dựa trên cơ sở vững chắc là chủ nghĩa Mác - Lênin, là đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, và nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng. Vì vậy, để giữ vững và tăng cường sự đoàn kết, thống nhất của Đảng, ở tất cả các cấp, các ngành, phải luôn luôn thấu suốt sâu sắc đường lối, chính sách của Đảng, đánh giá tình hình thực tế một cách đầy đủ và chính xác, phân tích rõ các ưu điểm và khuyết điểm trong công tác lãnh đạo của Đảng, phát huy dân chủ và đề cao kỷ luật, thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm túc trong các cấp uỷ và chi bộ đảng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống thái độ bàng quan, vô trách nhiệm.
Toàn Đảng ta, mỗi đảng bộ, mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta quyết làm hết sức mình để giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện đúng lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Chúng ta quyết nâng cao hơn nữa tinh thần cảnh giác, đập tan mọi âm mưu và thủ đoạn phá hoại của kẻ thù, tạo ra sự nhất trí ngày càng cao trong Đảng, động viên sức mạnh của toàn Đảng và toàn dân ta trong cuộc chiến đấu mới để hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ lịch sử mà Đại hội này đề ra.
*
*       *
Thưa các đồng chí đại biểu thân mến,
Đại hội lần thứ V là cột mốc mới trên con đường đấu tranh lâu dài, gian khổ, đầy chiến công của Đảng ta vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ mới đặt ra trước Đảng ta và nhân dân ta những nhiệm vụ hết sức to lớn, phức tạp và nặng nề. Chúng ta có đầy đủ niềm tin và sức mạnh để thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đó.
Chúng ta đã vượt qua sự ngỡ ngàng khó tránh khỏi khi chuyển vào giai đoạn mới. Chúng ta đã cụ thể hoá và làm phong phú đường lối cách mạng do Đại hội lần thứ IV của Đảng đề ra. Chúng ta đã hiểu sâu hơn đất nước ta và nhân dân ta. Chúng ta đã nhận biết kẻ thù và thấy rõ các trở lực trên con đường đi tới. Chúng ta đánh giá chính xác hơn, cụ thể hơn những khả năng và thế mạnh cũng như những khó khăn và chỗ yếu của mình. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trong 5 năm qua, đối với chúng ta rất bổ ích. Tất cả những điều đó, mà 5 năm trước đây chưa thể có, là trang bị cách mạng vô cùng quý báu của chúng ta khi bước vào chặng đường đấu tranh mới.
Hiện nay, lực lượng vật chất và tinh thần của nhân dân ta không ngừng được tăng thêm; triển vọng cách mạng sáng sủa và tốt đẹp. Nhưng khó khăn còn nhiều. Những yêu cầu về đời sống nhân dân, về bảo vệ đất nước, về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật để tiến lên, đều đặc biệt cấp bách và to lớn.
Song, Đảng ta đã dày dạn trong chiến đấu khắc phục khó khăn và chưa bao giờ lùi bước trước khó khăn. Đảng ta có tất cả sức mạnh cần thiết để chiến thắng mọi khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.
Đó là sức mạnh của khối đoàn kết, nhất trí có truyền thống trong toàn Đảng, là sức mạnh của khối thống nhất không gì lay chuyển nổi giữa Đảng với nhân dân. Những nghị quyết của Đại hội này nhất định sẽ củng cố thêm một bước sự đoàn kết của Đảng, tăng cường hơn nữa sự gắn bó máu thịt giữa nhân dân với Đảng.
Đó là sức mạnh của tình đoàn kết quốc tế trước sau như một gắn bó Đảng ta và nhân dân ta với Đảng Cộng sản Liên Xô và nhân dân Liên Xô anh em, đội tiên phong cách mạng của thời đại; với Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và nhân dân Lào anh em; với Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia và nhân dân Campuchia anh em; với các Đảng Cộng sản và Công nhân cùng nhân dân các nước anh em khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; với hết thảy các Đảng Cộng sản và Công nhân; với cả ba dòng thác cách mạng trên thế giới.
Có một đảng như thế, một nhân dân như thế, một quan hệ quốc tế như thế thì nhiệm vụ nào chúng ta cũng hoàn thành, khó khăn nào chúng ta cũng vượt qua, kẻ thù nào chúng ta cũng đánh thắng.
Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong một nước mà sản xuất nhỏ còn là phổ biến, làm thất bại mọi âm mưu và hành động... của bọn phản động... câu kết với đế quốc Mỹ, bảo vệ độc lập dân tộc và hoà bình ở Đông Dương và Đông Nam á, là sứ mệnh rất nặng nề, nhưng rất vẻ vang mà lịch sử giao phó cho nhân dân ta và Đảng ta. Chúng ta quyết đạp bằng mọi khó khăn, phấn khởi và tự hào vươn lên, làm tròn nghĩa vụ đối với dân tộc ta và đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.
- Dưới lá cờ bách chiến, bách thắng của Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hăng hái tiến lên!
- Nhân dân Việt Nam anh hùng muôn năm!
- Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!
- Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!
- Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân!
- Sự nghiệp cao cả của chúng ta nhất định thắng lợi! 

3. Báo cáo Về xây dựng Đảng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V do đồng chí Lê Đức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng trình bày Ngày 27 tháng 3 năm 1982
Ngày 5/9/2006. Cập nhật lúc 10h 19'
Thưa các đồng chí đại biểu thân mến,
Trong quá trình phát triển không ngừng của cách mạng nước ta từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đến nay, dưới ánh sáng của đường lối đúng đắn do Đại hội đề ra, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ra sức phấn đấu khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi thử thách và đã giành được những thắng lợi rất to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, những thành tựu bước đầu trong sự nghiệp xây dựng lại đất nước.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương do đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư của Đảng trình bày, đã tổng kết một cách toàn diện tình hình cách mạng nước ta từ sau thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975, sự hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương trong nhiệm kỳ qua và đề nghị với Đại hội những mục tiêu, nhiệm vụ, biện pháp nhằm đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta trong thời gian tới tiến lên vững chắc.
Báo cáo về xây dựng Đảng của Ban Chấp hành Trung ương tổng kết tình hình của Đảng và công tác xây dựng Đảng từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ IV, đề nghị với Đại hội những nhiệm vụ, chủ trương và biện pháp lớn về xây dựng Đảng ta nhằm tạo ra một sự chuyển biến mới trong việc nâng cao chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đáp ứng những yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới đã được trình bày trong Báo cáo chính trị.
Phần một
Tình hình Đảng ta từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ IV và nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng
I- Những ưu điểm, khuyết điểm của Đảng và của công tác xây dựng Đảng
Thưa các đồng chí,
Tháng 12 năm 1976, Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã đề ra đường lối chung về cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Năm năm qua, chấp hành các nghị quyết của Đại hội, Đảng ta đã triển khai những nhiệm vụ rộng lớn và rất khẩn trương trên quy mô cả nước trong điều kiện có nhiều thuận lợi mới nhưng cũng đầy khó khăn, phức tạp mới.
Bước vào cuộc chiến đấu trên mặt trận kinh tế - xã hội chưa được bao lâu thì chúng ta đã phải đương đầu với kẻ thù mới rất dã man và xảo quyệt...
Trước tình hình mới, Đảng ta đã tiếp tục phát huy truyền thống đấu tranh kiên cường, nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đưa nhân dân ta tiến lên giành những thắng lợi rất vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
1. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị, Đảng ta đã có những ưu điểm rất cơ bản, đồng thời cũng bộc lộ những nhược điểm và khuyết điểm lớn cần ra sức khắc phục
Những thắng lợi to lớn đã được khẳng định trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương nói lên phẩm chất anh hùng và sức mạnh chiến đấu vĩ đại của nhân dân ta, những ưu điểm cơ bản của Đảng ta, của đội ngũ cán bộ, đảng viên ta. Những khuyết điểm, nhược điểm trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội cũng đã đặt ra cho Đảng và đội ngũ của Đảng nhiều yêu cầu mới nhằm tăng cường chất lượng lãnh đạo, nâng cao sức mạnh chiến đấu của Đảng. Thực tiễn cách mạng 5 năm qua tiếp tục chứng minh rằng:
a) Đảng ta là một đảng Mác - Lênin kiên cường, vững vàng về đường lối, đã tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi thử thách nghiêm trọng của đất nước, luôn luôn phát huy tinh thần cách mạng tiến công để đưa cách mạng tiến lên không ngừng
Đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa, đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đường lối đối ngoại của Đảng là đúng đắn. Trong mọi tình huống khó khăn, phức tạp, Đảng đã kiên trì đường lối đúng đắn ấy.
... Đảng đã quyết tâm đưa dân tộc ta đứng lên gánh vác sứ mạng lịch sử mới và khẳng định: "Trong cuộc đấu tranh này, nhân dân ta phải toàn thắng, làm cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta không ngừng tiến lên, Đảng và Nhà nước ta mạnh lên, tổ chức và quản lý khoa học hơn, xã hội ta tốt đẹp hơn"1.
Trước hành động xâm lược của kẻ thù dân tộc, toàn Đảng đã siết chặt hàng ngũ xung quanh Ban Chấp hành Trung ương, động viên, tổ chức toàn quân, toàn dân đánh bại hai cuộc chiến tranh xâm lược của chúng, giành thắng lợi có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Đảng ta rất tự hào về đội ngũ của mình, một đội ngũ tuyệt đối trung thành với dân tộc, với Đảng, với chế độ, đã được rèn luyện trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và từng bước được nâng cao về trình độ mọi mặt. Đảng ta rất tự hào về những đảng viên đang hoạt động quên mình ở mọi ngành, ở các địa phương, các cơ sở và ở các đơn vị chiến đấu. Biết bao cán bộ, đảng viên đã chiến đấu suốt mấy chục năm trường, nay vẫn có mặt ngoài tiền tuyến, không quản ngại gian khổ, khó khăn, đương đầu với quân thù, sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách, kể cả sự hy sinh cao nhất! Biết bao cán bộ, đảng viên ngày đêm lăn lộn, tổ chức, xây dựng phong trào cách mạng để phát triển kinh tế và văn hóa, ổn định đời sống của nhân dân, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đã góp phần xứng đáng vào những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng.
Lập trường kiên định của Đảng trong việc giáng trả mọi âm mưu và hành động xâm lược... cùng sự kiên định đưa cách mạng tiến lên, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội chứng tỏ Đảng ta là một đảng Mác - Lênin chân chính, đã không bao giờ do dự hoặc lùi bước trước thử thách. Đó là một ưu điểm và cũng là một bài học kinh nghiệm lớn của Đảng ta.
b) Đảng ta đã nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp hài hoà giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng và đã phấn đấu cao để làm tròn nghĩa vụ quốc tế
Với lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa nồng nàn và tinh thần quốc tế vô sản sâu sắc, chúng ta đã hết sức ủng hộ và giúp đỡ nhân dân Campuchia anh em đập tan chế độ diệt chủng. Với thắng lợi đó của nhân dân Campuchia, cả ba nước Đông Dương đã hoàn toàn độc lập, tự do và cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi to lớn đó đã tăng cường sự liên minh chiến đấu và hình thành thế liên hoàn vững chắc chưa từng có của cách mạng ba nước Đông Dương để..., bảo vệ nền độc lập, tự do của mỗi nước, góp phần vào sự nghiệp củng cố hoà bình ở Đông Nam á và thế giới.
Cũng với tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa nồng nàn và tinh thần quốc tế vô sản sâu sắc, Đảng và nhân dân ta đã phát triển mạnh mẽ tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác toàn diện với Liên Xô, thành trì của cách mạng và hoà bình thế giới, đã ra sức tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác anh em với các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa.
Sự kết hợp giữa tinh thần yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản trên đây đã khẳng định lòng trung thành vô hạn của Đảng ta với chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản...
... trước bước ngoặt mới của cách mạng, sự kiên định trên đây về đường lối quốc tế của Đảng, việc đề ra các chủ trương chiến lược kiên quyết và sáng suốt, các quyết định chính xác và kịp thời để giành thắng lợi trong đấu tranh chống quân... xâm lược nói lên sự vững vàng, bản chất lêninnít và tinh thần quốc tế vô sản trong sáng của Đảng ta. Đó cũng là một ưu điểm và cũng là một bài học kinh nghiệm lớn của Đảng.
c) Bên cạnh những thắng lợi đã giành được trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta cũng đã phạm những khuyết điểm và sai lầm trong lãnh đạo quản lý kinh tế - xã hội. Qua thắng lợi và trước những vấp váp, Đảng đã hiểu thêm thực tiễn của đất nước, có thêm những kinh nghiệm và bước trưởng thành mới trên lĩnh vực quản lý kinh tế và xã hội.
Từ Đại hội lần thứ IV của Đảng đến nay, các tổ chức của Đảng đã có những tiến bộ trong cuộc đấu tranh để thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Đội ngũ của Đảng đã trưởng thành thêm.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta thu được nhiều thành tựu mới: nhanh chóng thống nhất nước nhà, khắc phục những hậu quả nặng nề do chiến tranh xâm lược và thiên tai liên tiếp gây ra, khôi phục về cơ bản các cơ sở kinh tế bị giặc đánh phá, từng bước xây dựng và tăng cường chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố một bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, tạo thêm một số cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, giành thêm nhiều thành tựu trong công tác giáo dục, văn hóa, y tế, xã hội.
Qua thực tiễn chấp hành Nghị quyết của Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương, các cấp uỷ đảng, các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức sản xuất, kinh doanh đã thấy rõ hơn các khuyết điểm, nhược điểm của mình và đang tìm các biện pháp khắc phục những khuyết điểm, nhược điểm ấy. Nhiều đảng bộ, cán bộ, đảng viên đã phát huy sáng kiến, khắc phục khó khăn, ủng hộ cái mới, đưa phong trào quần chúng đi lên.
Thấy được khuyết điểm, tìm tòi suy nghĩ để tìm ra biện pháp khắc phục khó khăn là biểu hiện của sự trưởng thành. Chúng ta hoan nghênh mọi cố gắng phấn đấu của cán bộ, đảng viên và của các tổ chức đảng, các đoàn thể, các cơ quan nhà nước, các đơn vị cơ sở trong việc nâng cao tính tích cực, phát huy sáng kiến nhằm sửa chữa khuyết điểm, khắc phục khó khăn.
Chúng ta khôi phục và phát triển kinh tế, ổn định đời sống trong tình hình cách mạng chuyển biến nhanh chóng nhưng nhiều mặt công tác, cả về tư tưởng và về tổ chức, lại chưa được chuẩn bị tốt. Trong khi chúng ta bắt tay vào quản lý đất nước đang mang nặng trên mình vết thương do hơn 30 năm chiến tranh để lại, thì chiến tranh xâm lược mới lại xảy ra. Chúng ta phải vừa xây dựng đất nước, vừa bảo vệ Tổ quốc; quân thù đã thất bại, nhưng âm mưu, quỷ kế của chúng còn tiếp tục; cuộc chiến đấu chưa chấm dứt. Chúng ta vừa ổn định và phát triển kinh tế, vừa xây dựng lực lượng quốc phòng và an ninh mạnh mẽ để đối phó với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt mà kẻ địch đang tiến hành, và để sẵn sàng tiêu diệt địch nếu chúng lại liều lĩnh gây ra cuộc chiến tranh xâm lược mới.
Cũng cần nhận rõ rằng, tuy Đảng ta là đảng cầm quyền từ trên 35 năm nay, nhưng thời gian chưa có bao nhiêu để tập trung lãnh đạo kinh tế, lại thiếu tổng kết công tác kinh tế nên kinh nghiệm về mặt này của chúng ta còn rất ít.
Những khó khăn hiện nay thật sự có những nguyên nhân khách quan, song phải nghiêm khắc nhận rõ những khuyết điểm và sai lầm chủ quan của chúng ta nhất là trong lãnh đạo về quản lý kinh tế - xã hội.
Đường lối chính trị và đường lối kinh tế trong cả thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta do Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đề ra là đúng đắn. Nhưng chúng ta đã chậm cụ thể hoá và mắc phải những khuyết điểm, sai lầm trong việc cụ thể hoá đường lối và chấp hành đường lối của Đại hội.
Trong việc đề ra nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm (1976 - 1980), chúng ta đã đánh giá tình hình chưa sát với thực tế, thấy chưa hết các khó khăn, đã phạm chủ quan, nóng vội, đề ra những nhiệm vụ và chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước quá cao so với khả năng; việc bố trí về đầu tư chung và cho từng ngành đã có những khuyết điểm lớn. Mặt khác, cần nhấn mạnh là chúng ta cũng bảo thủ, trì trệ trong việc đề ra và chấp hành những chủ trương chính sách cụ thể để thực hiện đường lối, trong việc đánh giá và vận dụng những khả năng về nhiều mặt của chúng ta.
Chúng ta có khuyết điểm, sai lầm lớn về tổ chức thực hiện, có nhiều mặt yếu kém về quản lý kinh tế. Tình trạng quan liêu, bảo thủ, trì trệ, vô trách nhiệm, phân tán trong tổ chức thực hiện là nghiêm trọng. Chúng ta đã để kéo dài tình trạng quản lý kinh tế theo lối quan liêu, bao cấp; chậm đổi mới phương pháp làm kế hoạch, chậm đề ra các chính sách kinh tế phù hợp làm đòn bẩy cho kinh tế phát triển, chậm chuyển sang hạch toán kinh tế và không biết kinh doanh.
Trên nhiều mặt, ở nhiều nơi, nhiều lúc chúng ta đã phạm khuyết điểm buông lỏng trong quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội, trong công tác tư tưởng, công tác an ninh, đã không tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa để giữ vững kỷ cương xã hội, làm cho mặt tiêu cực phát triển kéo dài và chậm được khắc phục.
Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương gần đây, nhất là các Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu, lần thứ chín và các nghị quyết của Bộ Chính trị về phân phối, lưu thông, về an ninh chính trị, về chính sách khoa học và kỹ thuật, về công tác tổ chức và nghị quyết của Ban Bí thư về công tác tư tưởng, đã đặt cơ sở bước đầu cho một sự chuyển hướng nhằm khắc phục các thiếu sót, khuyết điểm đó. Một số chính sách về phân phối, lưu thông, về cải tiến quản lý kinh tế được đưa vào cuộc sống, bước đầu đang tạo ra những nhân tố tích cực trong các hoạt động kinh tế.
Bài học kinh nghiệm lớn mà chúng ta rút được từ những thắng lợi và vấp váp trong những năm qua chính là sau khi vạch ra đường lối đúng, thì điều rất quan trọng là phải làm quán triệt đường lối một cách sâu sắc, biết cụ thể hoá đường lối một cách kịp thời và chính xác, với bước đi, kế hoạch và cơ chế quản lý phù hợp với thực tiễn của đất nước để từ đó mà chuyển hướng đồng bộ các biện pháp về kinh tế và hành chính, về tư tưởng và tổ chức nhằm bảo đảm cho đường lối được thấu suốt và được tổ chức thực hiện thắng lợi.
Hiện nay việc sửa chữa các khuyết điểm còn chậm, tình trạng trì trệ vẫn còn nặng nề, chúng ta tin tưởng rằng Nghị quyết của Đại hội lần thứ V của Đảng với những bài học kinh nghiệm của 5 năm qua sẽ tạo ra một sự chuyển biến mạnh mẽ và sâu sắc trong Đảng, đưa năng lực lãnh đạo và tổ chức của Đảng lên một trình độ mới, và mở ra những triển vọng mới trong việc đưa nền kinh tế và đời sống của nhân dân ta tiến lên.
2. Những ưu điểm và khuyết điểm trong sự lãnh đạo chính trị của Đảng gắn liền với những ưu điểm và khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và về tổ chức
a) Năm năm qua, chúng ta đã có những cố gắng mới trong công tác xây dựng Đảng về các mặt này:
Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã tổng kết công tác xây dựng Đảng, đề ra nhiệm vụ, phương châm và chủ trương đúng đắn về xây dựng Đảng trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và thông qua Điều lệ mới (sửa đổi) của Đảng.
Thi hành Nghị quyết của Đại hội, chúng ta đã phấn đấu để không ngừng nâng cao tính chất giai cấp công nhân, tính tiền phong của Đảng, cụ thể hoá và vận dụng phương châm xây dựng Đảng do Đại hội đề ra.
Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương đã thể hiện sự gắn bó hơn giữa nhiệm vụ chính trị với công tác tư tưởng và công tác tổ chức. Bộ Chính trị, Ban Bí thư có nhiều chỉ thị cụ thể về công tác này.
Với các chủ trương đúng đắn ấy, chúng ta đã xây dựng và từng bước kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng trong cả nước, đã sử dụng bộ máy ấy để lãnh đạo và tổ chức nhân dân thực hiện những công tác lớn có ý nghĩa chiến lược về cải tạo và xây dựng kinh tế, văn hoá, phát triển sản xuất, về tổ chức đời sống nhân dân, tăng cường quốc phòng, giữ gìn trật tự, an ninh, đánh thắng quân... xâm lược và làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương về kiện toàn tổ chức, cải tiến chế độ làm việc, Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị về "thực hiện một sự chuyển biến sâu sắc về tổ chức nhằm tăng cường lãnh đạo và quản lý, nhất là về kinh tế" đã thể hiện rõ hơn phương châm xây dựng Đảng ta và đã cụ thể hoá quan điểm của Đảng về xây dựng cơ cấu tổ chức trong điều kiện cụ thể cách mạng nước ta.
Hiến pháp mới của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thể chế hoá đường lối đối nội, đối ngoại của Đảng, đặt nền tảng cho việc xây dựng và củng cố chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ chế "Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ tập thể, Nhà nước quản lý".
Chúng ta cũng đã có những cố gắng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Trong 5 năm qua chấp hành Điều lệ Đảng, các cấp đã tiến hành hai lần đại hội đảng bộ. Việc tiến hành Đại hội theo Chỉ thị 55-CT/TW của Ban Bí thư được chỉ đạo tập trung hơn trước, là một dịp tiến hành xây dựng Đảng một cách toàn diện về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là một dịp mở rộng dân chủ nội bộ, tiến hành tự phê bình và phê bình từ trên xuống, từ dưới lên một cách sâu sắc, một dịp phát động quần chúng tham gia xây dựng Đảng một cách toàn diện.
Mỗi lần đại hội bầu cử cấp uỷ, khoảng trên dưới 1/3 số cấp uỷ viên ở các cấp đã được đổi mới; số cấp uỷ viên có phẩm chất, có kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý, đã qua các trường Đảng, số xuất thân từ công nhân được tăng thêm. Trong các tỉnh uỷ, thành uỷ, số cấp uỷ viên có trình độ đại học nói chung chiếm 27,7% (ở miền Bắc là 42%; có tỉnh như Hải Hưng 81%); ở các huyện uỷ, số đồng chí có trình độ đại học và trung học chuyên nghiệp là 24,6% (ở miền Bắc là 32%). Đó là một sự phát triển mới về trình độ kiến thức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo so với trước Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng.
Việc phát thẻ Đảng được tiến hành lần đầu tiên trong Đảng ta là một cuộc sinh hoạt chính trị sâu rộng, đã nâng cao ý thức đảng, tinh thần trách nhiệm của đảng viên. Chúng ta hoan nghênh những kết quả bước đầu đó của công tác phát thẻ Đảng.
Trong 5 năm qua, Đảng đã đưa ra khỏi đội ngũ của mình nhiều người không đủ tư cách đảng viên.
Công tác kiểm tra của Uỷ ban kiểm tra các cấp được tăng cường một bước đã đem lại những kết quả nhất định góp phần phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt tiêu cực, phát hiện, đưa ra khỏi Đảng những phần tử xấu và không còn đủ tư cách đảng viên.
Qua các phong trào quần chúng trong sản xuất, chiến đấu, Đảng đã kết nạp vào đội ngũ của mình trên 375.000 đảng viên, trong đó trên 85% là đoàn viên ưu tú của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Việc kết nạp đảng viên mới đã góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ của Đảng, lập thêm nhiều chi bộ đảng. Trong số gần 15 vạn chi bộ thuộc 35.146 tổ chức cơ sở đảng, đã có 39.766 chi bộ mới được thành lập từ sau Đại hội lần thứ IV của Đảng.
Việc kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng với cuộc vận động xây dựng cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh theo năm yêu cầu gắn liền với kiện toàn cơ sở, xây dựng huyện đang được xúc tiến; qua cuộc vận động, diện cơ sở đảng yếu kém ở nhiều nơi được thu hẹp dần.
Các cấp uỷ và tổ chức đảng ở miền Nam từ tỉnh, thành phố đến cơ sở được xây dựng đều khắp, có một số đảng bộ có tiến bộ nhanh trong lãnh đạo kinh tế, văn hoá.
Đảng và Nhà nước ta cũng chăm lo đào tạo cán bộ đáp ứng các yêu cầu của nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng; đã điều động gần 10 vạn cán bộ cho các tỉnh, thành phố miền Nam, các huyện biên giới và đi làm nhiệm vụ quốc tế; gần đây đã mở các lớp bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cao cấp, trung cấp của Đảng và Nhà nước những kiến thức mới về quản lý kinh tế. Trong 5 năm có thêm 34 vạn cán bộ đã tốt nghiệp tại các trường, lớp trung học chuyên nghiệp và đại học.
Hệ thống trường đảng các cấp được mở rộng, công tác giáo dục lý luận chính trị được tăng cường. Trên một triệu đảng viên đã được học tập, bồi dưỡng về chính trị, lý luận theo các chương trình khác nhau. Báo chí, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, công tác văn hoá, văn nghệ và các công cụ tuyên truyền của Đảng, Nhà nước đã góp phần tăng cường một bước mặt trận tư tưởng của Đảng.
Những cố gắng trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và về tổ chức đã góp phần nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng.
b) Mặc dầu có những cố gắng và kết quả đó, công tác tư tưởng và công tác tổ chức của Đảng trên các lĩnh vực, nhất là về xây dựng chủ nghĩa xã hội, về nhiều mặt vẫn còn rất trì trệ.
Trên mặt trận tư tưởng: công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, thiếu kịp thời và kém tính chiến đấu. Có những mặt còn phạm hữu khuynh, giản đơn, một chiều, kém tính linh hoạt, chưa bám chắc những vấn đề nóng hổi do cuộc sống đặt ra nên hiệu quả thấp.
Chỗ yếu trước hết của công tác tư tưởng là chưa làm thấu suốt được đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong toàn Đảng, toàn dân và chưa tạo ra được sự nhất trí cao trên cơ sở những căn cứ lý luận và thực tiễn đầy đủ của đường lối đúng đắn của Đảng. Tính giai cấp trong nội dung giáo dục tư tưởng còn chưa được coi trọng.
Đối với chúng ta, việc đưa một nền kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là sự tiến công vào lĩnh vực khó khăn và phức tạp chưa từng được khai phá. Chúng ta chưa hiểu sâu sắc đặc điểm đó, lại thiếu biện pháp tích cực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về chủ nghĩa xã hội, về quản lý kinh tế, thiếu tổng kết từ thực tiễn nên việc quán triệt đường lối thiếu sâu sắc, và việc cụ thể hoá đường lối chưa sát hợp với từng giai đoạn, từng ngành, từng địa phương.
Sau chiến thắng chống Mỹ, chúng ta đã thiếu giáo dục sâu rộng về chuyển biến giai đoạn, chưa đánh giá đúng tình hình, chưa lường hết các khó khăn và những diễn biến về tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng để bằng mọi biện pháp chủ động ngăn chặn các mặt tiêu cực. Việc giáo dục về cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa chưa được tiến hành thường xuyên và sâu sắc. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao giác ngộ về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về lý tưởng cộng sản trong Đảng, trong nhân dân, nhất là trong thanh niên, bị xem nhẹ. Việc giáo dục tư tưởng làm chủ tập thể cho cán bộ, đảng viên và quần chúng thiếu cụ thể, thiết thực.
Trên mọi lĩnh vực khác nhau, cuộc đấu tranh để khắc phục những tư tưởng phi xã hội chủ nghĩa như tư tưởng tiểu tư sản, tư tưởng tư sản, tàn dư văn hoá của chủ nghĩa thực dân mới và tàn dư tư tưởng phong kiến, v.v. không được coi trọng.
Trong đấu tranh chống địch, sự hiểu biết của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân lao động về bản chất và tư tưởng phản động..., của đế quốc Mỹ còn chưa sâu sắc. Tình hình thiếu cảnh giác cách mạng là nghiêm trọng.
Chúng ta đã không kịp thời vạch cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy hết âm mưu và thủ đoạn thâm độc của chúng nhằm phá hoại nội bộ Đảng ta, phá hoại sự đoàn kết nhất trí của Đảng, làm suy yếu Nhà nước chuyên chính vô sản, làm sa đoạ đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân viên nhà nước, phá hoại cơ sở quần chúng của Đảng, phá hoại nền kinh tế nước ta.
Trong Đảng và cơ quan nhà nước, bên cạnh tư tưởng nóng vội, tình trạng thiếu nhạy bén, quan liêu, bảo thủ nặng nề đang là một nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trì trệ hiện nay. Tình hình đó đang hạn chế việc tiếp thu sâu sắc và chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách, kìm hãm sức sáng tạo của quần chúng, của cán bộ, đảng viên, cản trở việc đổi mới cơ chế quản lý, việc sửa đổi các chính sách, chế độ đã lạc hậu.
Những năm gần đây, nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi không được chấp hành triệt để. Tình trạng vô tổ chức vô kỷ luật, cục bộ, địa phương với mức độ khác nhau phát triển phổ biến.
Mặt khác, tình hình mất dân chủ, thiếu tự phê bình từ trên xuống và phê bình từ dưới lên, thiếu thông tin đầy đủ và kịp thời cho cấp dưới, không xem trọng việc phân tích dư luận của quần chúng, những hiện tượng gia trưởng, độc đoán, thành kiến với cán bộ, trù dập cán bộ, đảng viên và quần chúng tốt dám phê bình khuyết điểm cũng không kém phần nghiêm trọng.
Tình trạng sa sút phẩm chất, giảm sút ý chí chiến đấu trong một bộ phận cán bộ phụ trách ở các cấp, các ngành từ trên xuống dưới và một bộ phận đảng viên đang gây tác hại lớn. Nhiều người từ sai lầm trong sinh hoạt, quan liêu hoá trong tác phong, đã đi đến chỗ bị biến chất trong lối sống, thoái hoá về chính trị. Đến nay, số này vẫn chưa được sàng lọc hết.
Đảng ta có truyền thống đoàn kết thống nhất về đường lối. Nhưng vừa qua, việc cụ thể hoá đường lối còn chậm, việc làm quán triệt đường lối chưa sâu sắc. Trên một số vấn đề về chủ trương để thực hiện đường lối còn chưa thật thông suốt hoặc thiếu sự nhất trí cao ở các cấp, các ngành. Bên cạnh tình hình đó, trong cán bộ, đảng viên, do phương pháp tư tưởng không đúng đắn (như chủ quan, phiến diện, giản đơn, v.v.) hoặc do những động cơ không trong sáng xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân cùng những tư tưởng không vô sản khác như gia trưởng, phong kiến, đặc quyền, đặc lợi, cơ hội, kèn cựa, địa vị, v.v. nên đã gây nên tình trạng thiếu đoàn kết, kém hợp tác, thậm chí bè cánh trong một số cán bộ ở không ít địa phương, cơ quan, đơn vị.
Cần nhấn mạnh rằng, Đảng ta là một đảng nắm chính quyền, nên những nhược điểm về trình độ và những khuyết điểm trên đây về phẩm chất, đạo đức của cán bộ, đảng viên đã làm cản trở việc tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, gây tác hại lớn về kinh tế, chính trị, và đang bị kẻ địch lợi dụng để kích động quần chúng, làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối với Đảng.
Chúng ta đã nhiều lần nói tới tình hình đó, đã phân tích nguyên nhân và đề ra biện pháp giải quyết. Song những biện pháp đề ra đã không được triển khai đồng bộ, không được chỉ đạo ráo riết và ở nhiều nơi không được chấp hành nghiêm túc ngay từ trong đội ngũ cán bộ chủ chốt, hoặc do cảm tình nể nang kém đấu tranh nội bộ nên việc sửa chữa còn ít có hiệu quả.
Về mặt tổ chức: công tác tổ chức cũng rất trì trệ, chậm chuyển hướng, không đi kịp tình hình và nhiệm vụ.
Chúng ta chưa xây dựng được một cơ cấu tổ chức đồng bộ và mạnh từ trung ương cho đến cơ sở. Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ tập thể, Nhà nước quản lý, như Báo cáo chính trị đã chỉ rõ, chưa thể hiện trong nền nếp sinh hoạt hằng ngày của các cấp uỷ đảng, các cơ quan nhà nước và các đoàn thể quần chúng ở mọi cấp, mọi ngành.
Tổ chức đảng có nơi chưa trong sạch. Nhiều tổ chức cơ sở đảng yếu kém kéo dài. Chất lượng sinh hoạt chi bộ thấp, tính năng động chủ quan của nhiều đảng bộ cơ sở yếu. Các cơ sở sản xuất - kinh doanh, tế bào của nền kinh tế quốc dân, nơi trực tiếp phát huy các tiềm năng về mọi mặt, nơi trực tiếp tạo ra mọi của cải vật chất cho xã hội, chưa có cơ chế đồng bộ để hoạt động theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Các huyện chậm được xây dựng theo yêu cầu mà Đại hội lần thứ IV của Đảng đã đề ra; nhiều tổ chức liên hiệp sản xuất vẫn mang nặng tính chất hoạt động của cơ quan hành chính. Tình hình đó đã ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
Chỗ yếu kém trong cơ cấu tổ chức của Đảng và Nhà nước từ trung ương đến cơ sở nói chung hiện nay là bộ máy tổ chức cồng kềnh, nặng nề mà hiệu lực lại thấp, chế độ trách nhiệm không rõ ràng; sự phân định về chức năng, trách nhiệm, quyền hạn giữa cơ quan đảng, cơ quan nhà nước và các đoàn thể, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa cơ quan quản lý với các đơn vị sản xuất, kinh doanh, sự nghiệp, giữa cá nhân và tập thể đều chưa thật rõ. Việc chia tách hoặc sáp nhập tổ chức, thành lập tổ chức mới trong nhiều trường hợp còn tuỳ tiện.
Cơ chế quản lý kinh tế quan liêu và bao cấp đang gây tác hại về nhiều mặt, gây tâm lý ỷ lại, tạo ra thói vô trách nhiệm, làm mất tính năng động của bộ máy, kìm hãm sáng kiến của quần chúng, tạo điều kiện cho tệ quan liêu phát triển mạnh, làm cho biên chế hành chính quá nặng nề. Có tình hình vừa tập trung quan liêu, vừa phân tán chia cắt, vừa không phát huy được tính chủ động của ngành, địa phương và cơ sở, vừa không bảo đảm lãnh đạo và quản lý tập trung thống nhất của trung ương, quản lý thông suốt toàn ngành.
Công tác cán bộ còn bảo thủ, trì trệ về nhiều mặt: đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, đề bạt cũng như chính sách, chế độ đãi ngộ. Đó là một nguyên nhân hết sức trọng yếu của sự trì trệ trong công tác tổ chức và nhiều việc khác.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về quản lý kinh tế bị xem nhẹ; việc đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật được đẩy mạnh nhưng mất cân đối về nhiều mặt; việc sử dụng đội ngũ này chưa tốt. Việc đào tạo cán bộ trong công nhân cho các địa phương miền Nam, miền núi, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ, cán bộ quản lý hợp tác xã, xí nghiệp và các loại cơ sở khác theo từng chức danh thiếu quy hoạch, kế hoạch, biện pháp và chương trình thích hợp.
Việc bố trí đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành những năm qua tuy có những tiến bộ nhưng còn bảo thủ, chắp vá, trước hết là do thiếu một quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với sự phát triển của nhiệm vụ chính trị. Công tác đề bạt cán bộ còn bị chi phối khá nặng nề bởi quan điểm đánh giá và lựa chọn người theo lối cũ, quá nhấn mạnh đến quá trình công tác, nặng tác phong, thái độ, về cấp bậc, chức vụ hoặc bằng cấp đã qua, chưa thật sự lấy hiệu quả công việc làm thước đo chủ yếu của phẩm chất và năng lực. Công tác quản lý cán bộ chậm được đổi mới. Nhiều chính sách, chế độ đãi ngộ cán bộ lạc hậu, bảo thủ, không khuyến khích phát triển tài năng, gây tâm lý không lành mạnh trong cán bộ và ngoài xã hội.
Chúng ta chưa xây dựng được phong cách và chế độ làm việc cách mạng và khoa học. Bệnh sự vụ, thủ công, phân tán, họp hành, giấy tờ quá nhiều từ trên xuống dưới, đều còn rất nặng là một nguyên nhân quan trọng của những khuyết điểm trong việc ra những quyết định thiếu chính xác, thiếu cụ thể.
Công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng cũng như kiểm tra việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và việc thi hành kỷ luật trong Đảng còn rất yếu.
Những khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức đang làm cho bộ máy của chúng ta kém hiệu lực và có một sức ỳ rất lớn. Kẻ địch đã lợi dụng và khoét sâu các khuyết điểm đó để làm tăng thêm những khó khăn trong đời sống kinh tế - xã hội, làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo và quản lý kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Hội nghị lần thứ tư của Trung ương và tiếp đó, Hội nghị Bộ Chính trị về công tác tổ chức, Hội nghị Ban Bí thư về công tác tư tưởng đã chỉ rõ nguồn gốc sâu xa của những khuyết điểm và nhược điểm trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và về tổ chức. Những nguyên nhân trực tiếp của những khuyết điểm đó là do trong chỉ đạo thực hiện, Trung ương và các cấp uỷ chưa gắn chặt công tác tư tưởng và công tác tổ chức với nhiệm vụ chính trị, thiếu kiên quyết sửa chữa những khuyết điểm, thiếu sơ kết tổng kết những vấn đề lớn trong từng thời gian, thiếu cụ thể hoá các vấn đề cần thiết về xây dựng Đảng cho phù hợp với từng vùng, từng loại cơ sở, v.v.. Các cơ quan tham mưu về công tác tư tưởng và công tác tổ chức của ban chấp hành các cấp trước hết là của Ban Chấp hành Trung ương và các cơ quan tổ chức của các ngành, chậm được kiện toàn, còn yếu, chưa đủ sức đáp ứng những yêu cầu của nhiệm vụ được giao. Cần ra sức khắc phục tình hình đó của các khuyết điểm và nhược điểm của công tác xây dựng Đảng.
Bài học kinh nghiệm của việc chỉ đạo công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và về tổ chức trong thời gian qua là phải coi trọng việc làm quán triệt sâu sắc hơn nữa tính chất giai cấp công nhân, tính tiền phong của Đảng, các nguyên tắc và phương châm xây dựng Đảng đã được Đại hội toàn quốc lần thứ IV tổng kết, cụ thể hoá và phát triển hơn nữa cho sát với thực tế của tình hình không ngừng đổi mới, và chỉ đạo việc thực hiện các nguyên tắc, phương châm ấy một cách đồng bộ. Cần đề cao vai trò gương mẫu và kỷ luật chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng mà đặc biệt là các nghị quyết, chỉ thị về công tác tư tưởng và công tác tổ chức, từ trên xuống dưới, trước hết là từ trong cơ quan lãnh đạo và cán bộ chủ chốt ở mọi cấp, mọi ngành, nhất là từ cấp trung ương và các cấp uỷ cấp trên để có thể triển khai tốt xuống cơ sở.
Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức phải bám chắc và nhằm thúc đẩy hơn nữa những nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ kinh tế, mà khâu rất bức thiết hiện nay là đổi mới công tác quản lý kinh tế, nhất là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Đó là điều mà trước đây chúng ta chưa coi trọng.
Thưa các đồng chí,
Nhìn một cách tổng quát, những khuyết điểm trong lãnh đạo và quản lý kinh tế - xã hội cũng như trong công tác tư tưởng và công tác tổ chức trong thời gian qua là rất nghiêm trọng.
Ban Chấp hành Trung ương, trong Báo cáo chính trị trước Đại hội, đã nghiêm khắc tự phê bình và nhận trước Đại hội trách nhiệm về phần mình.
Những khuyết điểm sai lầm trong việc cụ thể hoá đường lối và trong tổ chức thực hiện các nghị quyết có nguyên nhân tổng hợp cả về tư tưởng và về tổ chức.
Trong việc cụ thể hoá đường lối, chúng ta đã có khuyết điểm chưa coi trọng bồi dưỡng quan điểm cơ bản của đường lối, chậm bồi dưỡng kiến thức về kinh tế cho cán bộ, đảng viên, đánh giá chưa sát tình hình, chưa tập hợp được trí tuệ của nhiều cấp, nhiều ngành, ít tổng kết kinh nghiệm thực tiễn ở địa phương và cơ sở, ít làm thử để nghiên cứu, chỉ đạo những vấn đề lớn và mới, không coi trọng kiện toàn để sử dụng tốt các cơ quan tham mưu của Trung ương Đảng, các cơ quan tổng hợp của Nhà nước, các bộ phận tham mưu, nghiên cứu của các bộ, các viện và trường cho tương xứng với tầm quan trọng của nó. Cơ cấu tổ chức, cách phân công, phương pháp làm việc có chỗ chưa hợp lý, trước hết là từ trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng cũng là một nguyên nhân cụ thể của tình hình đó.
Sự yếu kém, trì trệ trong tổ chức thực hiện không phải chỉ do phương pháp và tác phong công tác, mà chính là kết quả tổng hợp của những khuyết điểm về tư tưởng và về tổ chức, nhất là của tệ quan liêu và bảo thủ, thiếu trách nhiệm trong bộ máy với cơ chế quan liêu và bao cấp kéo dài, của những khuyết điểm về phẩm chất cách mạng và năng lực của một bộ phận cán bộ phụ trách và đảng viên ở các cấp, các ngành, cũng như của sự buông lỏng, hữu khuynh trong tổ chức chỉ đạo nhiều mặt công tác.
Khắc phục những thiếu sót về lãnh đạo và về tổ chức thực hiện không chỉ giải quyết riêng ở một khâu nào mà phải giải quyết đồng bộ những nguyên nhân trên đây. Đặc biệt phải nghiêm chỉnh thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt của Đảng và trong quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, chống quan liêu và bảo thủ để sớm có kế hoạch và cơ chế quản lý với các chính sách, chế độ phù hợp với quy luật kinh tế và đặc điểm nền kinh tế nước ta, tạo ra thế mới trong phong trào quần chúng nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển, ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân. Phải từ đó và từ công tác bồi dưỡng, bố trí giáo dục cán bộ, phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, trước hết là cán bộ chủ chốt từ trên xuống dưới mà giải quyết tốt các vấn đề khác về tư tưởng và về tổ chức, khắc phục các mặt tiêu cực.
Chúng ta đang phấn đấu để khắc phục các khuyết điểm sai lầm trên đây. Song thời gian còn ngắn, sức ỳ còn nặng chưa tạo ra được sự chuyển biến cần thiết.
Thật sự đạt tới một sự chuyển biến sâu sắc có tính cách mạng về tổ chức và xây dựng Đảng, về cải tiến công tác quản lý là yếu tố quyết định trước hết việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng.
II- Nhiệm vụ chung về xây dựng Đảng
Thưa các đồng chí,
Chúng ta xây dựng Đảng trong hoàn cảnh Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước trong những điều kiện thuận lợi mới của đất nước thống nhất và của phong trào cách mạng thế giới lớn mạnh vượt bậc, nhưng đồng thời cũng có những khó khăn rất to lớn: đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; đối phó với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt kéo dài; hai nhiệm vụ chiến lược phải tiến hành cùng một lúc; cuộc đấu tranh giữa hai con đường ở trong nước cũng như trên phạm vi thế giới diễn ra gay gắt; nghĩa vụ quốc tế của Đảng lại rất nặng nề.
Từ thực tế tình hình của Đảng và của đất nước, từ những nhiệm vụ mới đã được đề ra trong Báo cáo chính trị, nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng hiện nay là: Tiếp tục nâng cao tính chất giai cấp công nhân, tính tiền phong của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, làm cho Đảng ta luôn luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, một đảng thật trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với quần chúng. Nhiệm vụ trên phải được tiến hành gắn liền với việc đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước, nhất là về kinh tế - xã hội, phát huy hiệu lực quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện của xã hội, bảo đảm cho Đảng lãnh đạo tốt cả hai nhiệm vụ chiến lược trước mắt là: thực hiện thắng lợi những mục tiêu do Đại hội đề ra cho 5 năm 1981 - 1985 và những năm 80, giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt..., sẵn sàng ứng phó với mọi tình thế do chúng gây ra và làm tròn nghĩa vụ quốc tế của Đảng.
Đảng phải thật sự là một đảng có bản lĩnh, có kiến thức và năng lực lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là có kiến thức và năng lực về lãnh đạo quản lý kinh tế, có khả năng xây dựng Nhà nước, biết quản lý kinh tế, đời sống, quản lý xã hội có hiệu quả.
Đảng phải là một đảng rất kiên cường trong cuộc đấu tranh chống... đế quốc Mỹ và các thế lực phản động khác, đủ sức đánh bại mọi hành động phá hoại và xâm lược của chúng.
Đảng phải thật sự là một đảng có sức chiến đấu cao, đoàn kết thống nhất, trong sạch về chính trị, vững mạnh về tổ chức, thực sự gắn bó với quần chúng.
Nhằm vào những nhiệm vụ trên đây, trong 5 năm tới, phải đổi mới và tạo ra một chuyển biến sâu sắc và căn bản về công tác tư tưởng và công tác tổ chức của Đảng theo các yêu cầu sau đây:
Một là: Bảo đảm thấu suốt đường lối; nâng cao năng lực lãnh đạo và tổ chức về mọi mặt: kinh tế, xã hội, quốc phòng và an ninh, nhất là về kinh tế.
Hai là: Cải tiến sự lãnh đạo của Đảng gắn với việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và việc tinh giản bộ máy, khắc phục quan liêu và bảo thủ trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Ba là: Củng cố cho được cơ sở đảng gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị xây dựng huyện, quận, thành phố, xã, phường, v.v., xây dựng các tổ chức sản xuất, kinh doanh, các đơn vị chiến đấu và phát động các phong trào quần chúng. Nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng; phát triển và củng cố đội ngũ của Đảng, kiên quyết đưa những phần tử cơ hội, thoái hoá, biến chất và những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng.
Bốn là: Theo quy hoạch, tiến hành đổi mới việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, bố trí đúng và bảo đảm tính kế thừa trong việc xây dựng đội ngũ cốt cán, ra sức nâng cao phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, bảo đảm sự vững vàng của Đảng trong mọi tình thế. Đó là một điều cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng lâu dài của Đảng ta.
Năm là: Giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất của Đảng, thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tiến hành tự phê bình và phê bình thường xuyên trong sinh hoạt của Đảng.
Phần hai
Những nhiệm vụ, chủ trương cụ thể nhằm nâng cao chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
I- Tăng cường mặt trận tư tưởng để củng cố đảng và nâng cao chất lượng lãnh đạo chính trị của Đảng
Thưa các đồng chí,
Trên cơ sở quán triệt đường lối của Đảng, nâng cao giác ngộ về cách mạng xã hội chủ nghĩa và rèn luyện phẩm chất cho cán bộ đảng viên, nhiệm vụ cơ bản của công tác tư tưởng là phải xây dựng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ý chí kiên cường, quyết tâm sắt đá và trình độ hiểu biết cần thiết để làm cả hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
1. Làm quán triệt đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao lập trường giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường
Thực tế 5 năm qua đã chỉ rõ rằng việc quán triệt đường lối, nhất là đường lối kinh tế, cũng như việc nắm thực tiễn và quy luật kinh tế không phải đơn giản. Việc đó không chỉ dừng lại ở chỗ vũ trang bằng kiến thức lý luận hoặc quan điểm chung về đường lối, mà phải kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với tình hình và kinh nghiệm thực tế trong quá trình cụ thể hoá đường lối thành bước đi, mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách, chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài, cũng như trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối.
Để cụ thể hoá đường lối thành kế hoạch với mục tiêu, nhiệm vụ và chỉ tiêu đúng đắn, phải nắm vững đường lối và nắm vững thực tiễn nhằm đề ra được những quyết định có căn cứ khoa học khắc phục mọi thiên hướng chủ quan nóng vội, thoát ly thực tế, không coi trọng quy luật hoặc bảo thủ, trì trệ, thiếu tin vào quần chúng, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên. Có như vậy thì đường lối mới được quán triệt một cách sâu sắc, mới nâng cao được tính tự giác trong việc chấp hành đường lối, vận dụng quy luật và mới làm cho công tác tư tưởng có thêm điều kiện để đi vào chiều sâu và có tính chiến đấu cao.
Những khuyết điểm về kinh tế vừa qua cho thấy rõ sau khi đã xác định đường lối chung, và đường lối kinh tế, Đảng phải có chiến lược kinh tế - xã hội để có phương hướng xác định cơ cấu kinh tế, xây dựng tốt kế hoạch kinh tế - xã hội, có cơ chế quản lý đúng, bảo đảm cho đường lối được thể hiện trong đời sống thực tế và từ đó được quán triệt ngày càng sâu sắc hơn.
Sự kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn là điều kiện cần thiết để tránh chủ quan trong việc quán triệt và cụ thể hoá đường lối.
Để làm tốt việc đó, phải triệt để khai thác một cách sáng tạo kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, những kinh nghiệm phong phú của Đảng Cộng sản Liên Xô và của các đảng anh em, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới; đồng thời phải rất coi trọng tổng kết tình hình thực tế của ta nhất là về mặt kinh tế; tổng kết các hoạt động kinh tế, rút ra được những bài học kinh nghiệm để làm cơ sở cho việc cụ thể hoá đường lối của Đảng, phát triển và làm rõ hơn nữa để nắm vững những quy luật tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở nước ta một cách sát đúng và có sáng tạo. Phải khắc phục chủ nghĩa kinh nghiệm, coi thường lý luận cũng như chủ nghĩa giáo điều áp dụng kinh nghiệm nước ngoài một cách máy móc.
Cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý, cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận phải được thông tin về những vấn đề cần thiết một cách kịp thời và chính xác, đi sâu hơn nữa vào thực tế, lắng nghe hơn nữa tiếng nói của cán bộ, đảng viên và quần chúng, nhạy cảm hơn nữa với những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống để đề xuất các vấn đề cần giải quyết về lý luận, chính sách.
Công tác lý luận, công tác nghiên cứu khoa học phải bám sát các mục tiêu kinh tế - xã hội, góp phần tích cực vào việc làm quán triệt, phát triển, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối. Phải tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ lý luận, cán bộ nghiên cứu khoa học làm tốt các việc trên một cách có tổ chức, có nguyên tắc, không để anh chị em đó đứng ngoài quá trình chuẩn bị các quyết định về kinh tế, văn hoá, xã hội của Đảng và Nhà nước.
Cùng với việc tăng cường công tác lý luận và để làm tốt việc đó, phải coi trọng tổng kết việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng. Hằng năm, mỗi cấp uỷ phải có chương trình tổng kết một số điển hình tiên tiến, một số khâu quan trọng cần thiết cho việc đẩy mạnh phong trào quần chúng.
Sắp tới, trên cơ sở quán triệt Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng và kiểm điểm việc thi hành Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ IV, từng cấp, từng ngành, từng đơn vị phải tổng kết kinh nghiệm 5 năm qua của cấp mình, địa phương mình, đơn vị mình nhằm thống nhất hơn nữa nhận thức về đường lối của Đảng, tìm ra nguyên nhân để sửa chữa các khuyết điểm, đưa công tác của chúng ta tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn nữa.
Để bảo đảm cho việc quán triệt cụ thể hóa và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng phải nâng cao kiến thức về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, đặc biệt là kiến thức về quy luật kinh tế, về quản lý kinh tế cho cán bộ, đảng viên một cách rộng rãi. Cần quy định chế độ bắt buộc cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý phải học tập những kiến thức kinh tế, làm dấy lên phong trào học tập kinh tế trong Đảng và trong nhân dân.
Để làm tốt những việc trên phải xây dựng và kiện toàn các viện và trường trực thuộc Trung ương Đảng, các viện thuộc Viện hàn lâm khoa học, các học viện; rất coi trọng kiện toàn các cơ quan làm công tác lý luận, tổ chức lại hệ thống các trường đảng, các trường quản lý, nhất là về quản lý kinh tế, các trường đại học và trung học chuyên nghiệp, cải tiến nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy và học tập ở các trường để đổi mới chất lượng học tập, tạo cơ sở cho việc thấu suốt đường lối gắn liền với nâng cao kiến thức các mặt.
Nâng cao hơn nữa vị trí của môn học chính trị, học chủ nghĩa Mác - Lênin, học đường lối của Đảng trong các trường, trong cán bộ giảng dạy và trong thanh niên học sinh, soát lại để bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ giảng viên chính trị ở các trường. Đó là một vấn đề hết sức quan trọng cho việc xây dựng lớp người mới, một khâu then chốt để làm cho hệ tư tưởng, chính trị của Đảng thực sự chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống tinh thần của nhân dân ta và trở thành hệ tư tưởng của toàn dân.
Trong việc quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, phải không ngừng nâng cao tư tưởng làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng lập trường cách mạng kiên định của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường, khắc phục các thiên hướng hữu và "tả".
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa vốn là cuộc cách mạng sâu sắc và triệt để nhất. Thực tiễn 5 năm qua cho thấy rõ trong quá trình thực hiện đường lối của Đảng để đưa cách mạng đi lên, cuộc đấu tranh về tư tưởng để giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa hai con đường trong điều kiện của nền kinh tế phổ biến vẫn còn là sản xuất nhỏ là hết sức gay go, phức tạp. Cuộc đấu tranh ấy đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải có giác ngộ sâu sắc về đường lối và lý tưởng của Đảng, phải vững vàng về lập trường, quan điểm, có trí thông minh, có tính sáng tạo và vươn lên về kiến thức.
Sự chủ quan, nóng vội hoặc bảo thủ, những tư tưởng của người sản xuất nhỏ và không vô sản khác như do dự trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, muốn làm giàu bằng cách vi phạm các chính sách, đối phó với luật pháp và các quy định của Nhà nước, những ảo tưởng không thấy tính gay gắt của cuộc đấu tranh giai cấp, xoá bỏ bóc lột, đã xuất hiện ở nơi này hay nơi khác, lúc này hay lúc khác trong một số cán bộ, đảng viên, cần được phê phán nghiêm khắc. Những biểu hiện đó cùng cách làm chủ quan, kém hiệu quả, xét cho cùng đều làm chậm công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Trong khi tiến công để phá vỡ cơ chế quản lý quan liêu bao cấp gò bó là một việc làm rất cần và hoàn toàn đúng, bên cạnh mặt tích cực là chính, cũng đã xuất hiện những thiên hướng lỏng lẻo không nắm vững nguyên tắc tập trung dân chủ cùng những nguyên tắc cơ bản khác về quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong khi chúng ta nhấn mạnh thực hiện sự thống nhất giữa "ba lợi ích", khắc phục thiên hướng xem nhẹ lợi ích của người lao động (cũng là hoàn toàn đúng), lại đã xảy ra hiện tượng xem nhẹ, thậm chí xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của toàn xã hội. Khuyết điểm của một số cấp uỷ và tổ chức cơ sở đảng là đã không đấu tranh khắc phục kịp thời những sai lầm đó.
Trong đấu tranh để tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đã xuất hiện những khuynh hướng bảo thủ hoặc nóng vội không thể hiện đúng đường lối của Đảng, những quan điểm lệch lạc không nhận rõ vai trò then chốt của cách mạng khoa học - kỹ thuật, hoặc chỉ đơn thuần nhấn mạnh vai trò của kỹ thuật, không thấy yếu tố tích cực của tư tưởng và sức mạnh của quần chúng làm chủ tập thể.
Trên các lĩnh vực văn hoá, xã hội, quân sự, an ninh, tư tưởng và tổ chức cũng vậy, trong quá trình đưa cách mạng đi lên, rõ ràng bên cạnh mặt tích cực cũng đã xuất hiện những khuyết điểm hữu khuynh mất cảnh giác, buông lỏng trận địa tư tưởng, dẫn đến buông lỏng chuyên chính, và làm cho không ít cán bộ, đảng viên, đoàn viên sa ngã, tiêm nhiễm lối sống tư sản, thực dân kiểu mới, chạy theo thị hiếu tầm thường, thoái hoá, biến chất.
Nhiệm vụ của công tác tư tưởng là phải chủ động giáo dục cho cán bộ, đảng viên đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và của Nhà nước trên mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội, xây dựng tinh thần gương mẫu chấp hành các chính sách, mẫu mực trong lối sống xã hội chủ nghĩa.
Bằng các biện pháp giáo dục, kinh tế, hành chính và tổ chức, phải tích cực khắc phục các mặt tiêu cực, xác định lập trường kiên định cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, phê phán sâu sắc những biểu hiện tư tưởng tiểu tư sản, kiên quyết chống tư tưởng tư sản, chống tàn dư văn hoá thực dân mới và tàn dư tư tưởng phong kiến. Cần phải nhận thức đầy đủ đây là một cuộc đấu tranh kiên trì, không dung hoà, không lơi lỏng.
Cần làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận rõ cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa hai con đường ở nước ta là một cuộc đấu tranh lâu dài và phức tạp, phải phấn đấu gian khổ mới đem lại thắng lợi vinh quang. Khó khăn còn nhiều, những người cộng sản phải có thái độ đúng trước khó khăn, không ảo tưởng, nôn nóng, phải nhận rõ ranh giới giữa hai con đường để ra sức vươn lên cùng với nhân dân khắc phục khó khăn giành bằng được thắng lợi, chống ỷ lại, bàng quan, vô trách nhiệm, dao động, hoặc chùn bước trước khó khăn.
Cần thông qua tiến hành ba cuộc cách mạng, xây dựng cơ cấu kinh tế mới và thực hiện phương thức quản lý mới mà nâng cao tư tưởng làm chủ tập thể cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, khắc phục những thiên hướng lệch lạc, hiểu không đúng về chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa; hiểu nó một cách phiến diện, chỉ nhấn mạnh dân chủ về chính trị, không thấy phải thể hiện làm chủ tập thể cả trong xây dựng cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, cơ chế tổ chức và trong cuộc sống hằng ngày; hiểu nó một cách sai lệch, cao xa, không thấy làm chủ tập thể là chủ trương thiết thực, có thể và cần phải thực hiện ngay, không thấy làm chủ tập thể là một quá trình từ thấp lên cao, gắn liền với tiến hành các mặt công tác và việc chăm lo một cách thiết thực đời sống hằng ngày của người lao động; hiểu nó một cách cắt khúc, không thấy sự gắn bó giữa quyền lợi và nghĩa vụ, chỉ nhấn mạnh quyền lợi hoặc nghĩa vụ, không thấy sự gắn bó giữa quyền làm chủ ở tất cả các cấp, dẫn đến tập trung quan liêu, hay bản vị, cục bộ hoặc không thấy mối quan hệ giữa làm chủ tập thể với chuyên chính vô sản mà đối lập hai mặt đó với nhau. Cũng cần khắc phục thiên hướng mơ hồ về lập trường giai cấp, nói làm chủ tập thể chung chung, không thấy đó chỉ là quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
2. Xây dựng lập trường kiên định..., chống đế quốc Mỹ và các thế lực phản động khác, luôn luôn đề cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
.....
Phải xây dựng trong toàn Đảng ta tinh thần cảnh giác cách mạng sẵn sàng chiến đấu, xây dựng ý chí sắt đá, sự kiên quyết và kiên trì trong cuộc đấu tranh chống những hành động phá hoại và xâm lược nước ta...
Cần làm rõ cuộc đấu tranh này là gay go, phức tạp, lâu dài và không khoan nhượng. Lịch sử đã giao phó cho Đảng và nhân dân ta đảm nhiệm cuộc đấu tranh đó vì độc lập và tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì nghĩa vụ quốc tế cao cả.
Hiện nay bên cạnh các hoạt động về quân sự ở vùng biên giới ba nước Đông Dương, cuộc chiến tranh tâm lý và gián điệp do chúng tiến hành đang nhằm phá hoại kinh tế và đời sống, tư tưởng và văn hoá của nhân dân ta, đưa nọc độc chính trị phản động vào nội bộ Đảng ta, nhằm vào những người vốn bất mãn hoặc còn mơ hồ trong nhận thức về cuộc đấu tranh giai cấp.
Điều nguy hiểm hơn là từ những hoạt động hòng làm rối loạn chính trị trong nhân dân ta, chúng âm mưu kết hợp hoạt động gián điệp và lật đổ với hoạt động quân sự để chuẩn bị tiến hành chiến tranh xâm lược quy mô lớn khi điều kiện cho phép.
Nhiệm vụ của công tác tư tưởng là phải tiếp tục đề cao tinh thần độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy truyền thống yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản, tiếp tục làm rõ tính chất không khoan nhượng của cuộc đấu tranh;...,  khắc phục mọi biểu hiện lơ là cảnh giác cách mạng, đề phòng mọi biểu hiện của tư tưởng thoả hiệp, tư tưởng mệt mỏi, xả hơi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Mỗi chi bộ đảng phải là một pháo đài chiến đấu, cảnh giác cao với mọi âm mưu và hành động của địch.
Phải nâng cao bản chất giai cấp công nhân của quân đội và lực lượng an ninh, bảo đảm cho lực lượng vũ trang và an ninh của chúng ta phát huy truyền thống mưu trí và dũng cảm, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, với mục đích và lý tưởng của Đảng, với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Tổ quốc và nhân dân, với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Các công cụ chuyên chính của Đảng và Nhà nước trước hết là các cơ quan, đơn vị quốc phòng và an ninh, phải phối hợp chặt chẽ và mài sắc cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết thực hiện chuyên chính với kẻ thù, không để cho kẻ địch và phần tử xấu dễ bề hoạt động lén lút hoặc công khai.
.....
3. Nắm vững nguyên tắc, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, với thực tiễn, chống quan liêu, chủ quan, bảo thủ; chấp hành nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ, chống tự do vô kỷ luật, thiếu dân chủ, vô trách nhiệm
a) Phải sâu sát thực tế, nhạy cảm với cuộc sống, chống quan liêu và bảo thủ, khắc phục chủ quan, nóng vội
Liên hệ với thực tế, với quần chúng, lắng nghe ý kiến và ủng hộ sáng kiến của quần chúng, của cấp dưới, chống quan liêu, là một vấn đề thuộc về nguyên tắc cơ bản của đảng cầm quyền.
Sự trì trệ hiện nay trên nhiều lĩnh vực quan trọng, trước hết là trong kinh tế, có nguồn gốc sâu xa từ tư tưởng chủ quan bảo thủ và tệ quan liêu, một biểu hiện của sự xa rời quần chúng trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Tư tưởng bảo thủ thường có nguồn gốc từ nhiều mặt: do không thấu suốt đường lối của Đảng, thiếu nhạy cảm với cái mới, không sát thực tế, xa rời quần chúng, không lắng nghe ý kiến của cán bộ, đảng viên, của quần chúng, hoặc có khi do chủ quan, tự mãn dẫn đến chỗ không nhạy bén, thiếu sáng tạo, không chấp nhận sự sáng tạo từ bên dưới, và trong trường hợp không tự giác thường là do thiếu kiến thức mà lại ít học tập.
Trong lĩnh vực kinh tế, bảo thủ và quan liêu đã thể hiện một cách rõ nét trong việc duy trì cơ chế hành chính quan liêu, bao cấp, những chính sách, chế độ không phù hợp với đòi hỏi mới của sản xuất và cuộc sống.
Cơ chế ấy đến lượt nó tạo ra và làm trầm trọng thêm tệ quan liêu vốn đã có trong bộ máy, tạo ra một lớp cán bộ bảo thủ, cũ kỹ, ỷ lại, vô trách nhiệm, thiếu tính năng động, thích ứng với nó, làm hạn chế khả năng của cán bộ, thậm chí bóp nghẹt sáng kiến và tính năng động cách mạng của quần chúng, bởi các quy chế gò bó và các chính sách, chế độ không hợp lý, không thể hiện đúng đường lối và quan điểm giai cấp công nhân của Đảng.
Bảo thủ thường gắn với quan liêu và quan liêu thường là nguồn gốc có tính phổ biến của tư tưởng bảo thủ. Tệ quan liêu đang gây trì trệ nghiêm trọng trong bộ máy, nó ngăn cản tiếp cận các vấn đề thực tiễn, làm cho cán bộ không sát cơ sở, không lắng nghe được ý kiến của đảng viên và quần chúng ở cơ sở, khiến cho cơ quan cấp trên thiếu nhạy bén với thực tiễn. Đó cũng là mảnh đất tốt cho sự phát triển của bệnh chủ quan nóng vội, một thiên hướng cũng cần được phê phán và khắc phục.
Phải chống quan liêu trong cán bộ, đảng viên, trước hết là từ cấp trên, trong những cán bộ thường nguội lạnh trước những yêu cầu sục sôi của sản xuất, đời sống, chiến đấu.
Tệ quan liêu biểu hiện trên nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu là quan liêu trong việc đề ra chính sách, chế độ, quan liêu trong tổ chức bộ máy và trong phong cách làm việc của cán bộ.
Cần chấm dứt tình trạng quan liêu, mệnh lệnh, không thấy hết tác hại của việc dùng biện pháp hành chính đơn thuần thay cho các biện pháp kinh tế và giáo dục, quản lý kinh tế theo lối hành chính quan liêu, bao cấp: "Nuôi mọi hoạt động bằng tiền Nhà nước", làm cho mọi hoạt động của bộ máy không tính toán hiệu quả kinh tế mà chỉ cần "xin lệnh cấp phát" từ trên xuống, nhất nhất làm theo quy định gò bó đã lỗi thời, thiếu vận dụng có sáng tạo các chủ trương, biện pháp vào điều kiện mới.
Trong tư tưởng và phong cách của cán bộ, đó là tệ quan liêu hành chính, thái độ cửa quyền, làm cản trở sản xuất, gây phiền hà cho quần chúng, kìm hãm sáng kiến của cấp dưới.
Phải thấy rõ bệnh quan liêu như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói là "một thứ giặc trong lòng chúng ta", hay như V.I.Lênin nói: "Nếu có cái gì làm cho chúng ta thất bại thì chính là điều đó".
Phải có "trăm nghìn biện pháp" để chống quan liêu và bảo thủ. Trước hết, phải chỉ rõ để tìm cách khắc phục những tác hại của cơ chế hành chính quan liêu, bao cấp, cơ sở của tệ quan liêu trong kinh tế cùng những ảnh hưởng và tác động của nó đã thấm sâu vào mọi lĩnh vực công tác, mọi mặt của đời sống xã hội. Từng cơ quan, từng mặt hoạt động phải tìm ra tác hại cùng những ảnh hưởng tiêu cực đó để có biện pháp khắc phục.
Mỗi cán bộ, đảng viên, phải trau dồi cho mình quan điểm của Đảng đối với quần chúng một cách sâu sắc, gột rửa những quan điểm phong kiến, bảo thủ để xây dựng lòng tin ở khả năng sáng tạo của quần chúng, thấy rõ vai trò của quần chúng, của cơ sở, của đông đảo cán bộ, đảng viên đang lăn lộn trong cuộc chiến đấu trên mọi lĩnh vực hoạt động.
Phải xây dựng một nếp làm việc sát cơ sở, sát quần chúng, thực hiện các chế độ đi xuống dưới và cơ sở, tiếp cận với thực tế. Cán bộ lãnh đạo ở các cơ quan của Trung ương, từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng đến các ban, các bộ phải tổ chức tiếp cận với những nơi khó khăn, những khâu quan trọng chưa gỡ được trong sản xuất và đời sống ở cơ sở, nắm sát hơn nữa tình hình ở những vùng khác nhau, nhất là ở miền Nam, miền núi để chỉ đạo, nghiên cứu chính sách, chế độ, giải quyết một cách nhanh chóng các vấn đề do cơ sở đề ra, kịp thời tháo gỡ các gò bó, vướng mắc nghiêm trọng hiện nay.
Cần cổ vũ sáng kiến, nghiên cứu, tổng kết, phổ biến những điển hình tiên tiến xuất hiện trên mọi lĩnh vực, động viên những cán bộ hăng say với nhiệm vụ, có nhiệt tình cách mạng cao. Khuyến khích giúp đỡ những ngành, địa phương, đơn vị, những cán bộ có những sáng kiến mới để mạnh dạn làm thử cái mới hoặc sửa đổi cái lạc hậu trong phạm vi quyền hạn của mình.
Trong khi phát huy sáng kiến, rất có thể có chỗ sai sót. Thái độ tích cực là giúp cho cán bộ cấp dưới thấy rõ các thiếu sót, những chỗ chưa thích hợp để xây dựng, vun xới cho mầm non sáng kiến, dù là nhỏ, vươn lên.
Các cơ quan của Trung ương cần tổng kết từ thực tiễn để bổ sung, sửa đổi kịp thời các chính sách, chế độ, tạo điều kiện cho sáng kiến của quần chúng nảy nở, những nhân tố tích cực sớm được nhân lên.
b) Nghiêm chỉnh chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường kỷ luật, đề cao trách nhiệm
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản về xây dựng Đảng của Lênin. Vi phạm nguyên tắc ấy là làm suy yếu tổ chức đảng, và đối với một đảng cầm quyền, đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến buông lỏng chuyên chính hoặc rơi vào tệ quan liêu, vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Chống bảo thủ, quan liêu, chủ quan, ủng hộ sáng kiến của cấp dưới, của cơ sở, tổng kết từ thực tiễn để đổi mới cơ chế quản lý, sửa đổi các chính sách, chế độ là biểu hiện tích cực của việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng và của Nhà nước ta. Nguyên tắc này đòi hỏi phải bảo đảm vừa có kỷ luật chặt chẽ, vừa có dân chủ rộng rãi và dân chủ cũng phải nhằm tạo nên sức mạnh của tổ chức, tính kỷ luật của tổ chức.
Thể hiện nguyên tắc đó trong điều kiện Đảng nắm chính quyền chính là phải bảo đảm cho đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng, các quy tắc sinh hoạt đảng, kế hoạch nhà nước và pháp chế nhà nước được xây dựng sát đúng và được triệt để chấp hành; phải trên cơ sở xác định rõ chế độ trách nhiệm của tổ chức và của mỗi người, phân rõ trách nhiệm quản lý giữa trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới mà giữ vững tập trung, mở rộng dân chủ.
Trong Đảng ta có rất nhiều gương tốt về chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, về giữ gìn kỷ luật của Đảng, tuân thủ pháp luật nhà nước. Song bên cạnh những gương tốt, những mặt tích cực, vẫn bộc lộ những mặt tiêu cực, vừa tự do vô kỷ luật, vừa mất dân chủ. Tình hình hạn chế dân chủ hoặc dân chủ hình thức vẫn còn nặng.
Phải thừa nhận rằng tình hình tự do vô kỷ luật trong thời gian qua có chiều hướng phát triển trước những khó khăn của đất nước, trước sự tấn công của chiến tranh tâm lý của địch.
Có một số cán bộ, đảng viên đã tuỳ tiện phát ngôn về đường lối, chính sách của Đảng; họ không chấp hành nghị quyết hoặc chỉ chấp hành những điểm mình tán thành mà không xin ý kiến cấp trên. Chúng ta khuyến khích toạ đàm, hội thảo, sinh hoạt khoa học để nâng cao chất lượng nghiên cứu, nhưng phải có lãnh đạo chặt chẽ. Chúng ta khuyến khích cán bộ đề đạt ý kiến với lãnh đạo, nhưng việc đó phải làm một cách có tổ chức với mục đích xây dựng.
Tình trạng tự do vô kỷ luật trong một số cán bộ là nghiêm trọng và đang làm yếu sự chặt chẽ về tổ chức của Đảng. Sự lỏng lẻo đó đều bắt nguồn từ chỗ thiếu tính nguyên tắc, thiếu ý thức chấp hành kỷ luật của Đảng, pháp luật nhà nước.
Giữ gìn kỷ luật của Đảng, chấp hành pháp luật nhà nước là bắt buộc đối với mọi đảng viên, là vấn đề thuộc về tính đảng, không có ngoại lệ. Tăng cường kỷ luật đối với Đảng ta càng phải là một vấn đề thường xuyên, không được xem nhẹ, còn vì nền kinh tế sản xuất nhỏ và chiến tranh du kích kéo dài đã để lại trong nhiều cán bộ, đảng viên những dấu ấn tiêu cực về cách suy nghĩ, những thói quen và tập quán lạc hậu, cách làm việc tuỳ tiện, tính bản vị, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, thiếu hợp tác xã hội chủ nghĩa. Nhiều đồng chí chúng ta đã phạm khuyết điểm tự do vô kỷ luật do chưa được rèn luyện trong kỷ luật của nền sản xuất đại công nghiệp, lại sống trong biển người của sản xuất nhỏ mà không coi trọng tự rèn luyện mình theo đường lối quan điểm của Đảng.
Chúng ta nhận rõ rằng muốn có kỷ luật chặt chẽ thì phải mở rộng dân chủ thật sự, muốn có tập trung tốt thì phải phân cấp đúng, chỉ với cơ chế quản lý đúng thì mới có kỷ luật chặt chẽ. Song đối với mọi đảng viên thì bao giờ cũng phải hành động trong phạm vi kỷ luật tổ chức, phải báo cáo, xin ý kiến kịp thời, phải chấp hành nghị quyết, chỉ thị một cách đúng đắn và sáng tạo.
Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác tổ chức đã nhấn mạnh kỷ luật chấp hành nghị quyết, kỷ luật phát ngôn, kỷ luật báo cáo, xin chỉ thị, kỷ luật giữ gìn bí mật của Đảng và của Nhà nước. Phải có biện pháp thi hành các chế độ giữ gìn kỷ luật đó ở mỗi cơ quan, đơn vị.
Kỷ luật của Đảng bao giờ cũng phải trên cơ sở phát huy dân chủ nội bộ.
Trong bộ máy của Đảng và Nhà nước ta, tệ độc đoán, chuyên quyền, bệnh gia trưởng phong kiến còn khá nặng. ở những cơ quan, đơn vị có cán bộ phụ trách mắc căn bệnh đó thì thường tính chủ động, sáng tạo và năng lực của cán bộ, đảng viên và quần chúng bị kìm hãm, họ thường sợ sệt, không dám phê bình người phụ trách hoặc nể nang e dè, bỏ qua cho xong chuyện khuyết điểm của cơ quan, đơn vị, nhất là của người phụ trách. ở đó, quyền làm chủ tập thể chỉ là hình thức, tiếng nói của những người tích cực, dám thẳng thắn đấu tranh thường bị xem là "tiêu cực". ở đó, thường xảy ra những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, thói nịnh hót, bợ đỡ, "gió chiều nào che chiều ấy", "kéo bè, kéo cánh", gây mất đoàn kết. ở đó, thường không tránh khỏi hiện tượng trù dập tinh vi hoặc trắng trợn đối với những cán bộ dám thẳng thắn đấu tranh.
Phải thừa nhận một thực tế không đúng đắn là những hiện tượng tự do vô kỷ luật có khi bắt nguồn từ chỗ ra các quyết định không chính xác, không tiến hành trên cơ sở dân chủ.
Chúng ta phải sửa tình trạng mất dân chủ trước hết từ trong việc chuẩn bị và ra quyết định ở các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến cơ sở, đồng thời phải giữ vững kỷ luật trong việc chấp hành các quyết định. Việc xây dựng quy chế làm việc, kiện toàn tổ chức, sửa đổi cách chuẩn bị và ra các quyết định của các cơ quan lãnh đạo, các cơ quan tham mưu của Đảng và Nhà nước có ý nghĩa quan trọng về mặt này.
Cần xây dựng thành nền nếp và bằng chế độ việc lấy ý kiến của cấp dưới trước khi ra một quyết định quan trọng có liên quan rộng rãi đến hoạt động kinh tế, đời sống.
Phải lên án mạnh mẽ, kiểm tra chặt chẽ để sớm kết luận và ngăn chặn các trường hợp thành kiến, trù dập cán bộ và có kỷ luật nghiêm khắc đối với người phạm sai lầm đó. Các cấp uỷ và cơ quan kiểm tra phải hết sức cương quyết, công minh. Các chi bộ, các đảng uỷ phải giữ vững bản chất trong sáng của Đảng, phải bảo vệ chân lý, đấu tranh chống trù dập và mọi biểu hiện bất công, dìm sáng kiến, chèn ép cán bộ và thành kiến đối với cán bộ.
Trong Đảng phải vừa phát huy dân chủ thật sự, vừa đề cao kỷ luật sắt, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình từ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng đến chi bộ.
Việc giáo dục nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng phải gắn liền với xây dựng các chế độ công tác và tiến hành trên cơ sở đổi mới cơ chế quản lý, nhất là về kinh tế. Trong Đảng cần có những đợt sinh hoạt về Điều lệ Đảng; qua các đợt sinh hoạt đó cần liên hệ tự kiểm điểm và phê bình cấp trên trong việc thực hiện các quy định của Điều lệ Đảng về nhiệm vụ và quyền của đảng viên, về nguyên tắc tập trung dân chủ, về thực hiện chế độ báo cáo từ trên xuống và từ dưới lên, về tự phê bình và phê bình, v.v..
Tăng cường kỷ luật, mở rộng dân chủ vừa là điều kiện, vừa là kết quả tất yếu của đề cao trách nhiệm.
Cần đề cao trách nhiệm của cá nhân và trách nhiệm của tập thể; không thể kéo dài tình trạng vô trách nhiệm hiện nay.
Việc xây dựng và hoàn thiện các điều lệ, chức trách, quy chế tổ chức, xác định rõ trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng tổ chức và từng cá nhân một cách rõ ràng và rành mạch là điều kiện tối cần thiết để làm cho guồng máy của Đảng, Nhà nước và mỗi cán bộ, đảng viên, nâng cao trách nhiệm của mình. Việc này phải được tiến hành ráo riết. Trong hai năm 1982 - 1983, phải tiến hành xây dựng bằng được quy chế tổ chức của cơ quan và đơn vị từ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng đến các đơn vị cơ sở và làm xong việc xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ của các chức danh chính trong mỗi tổ chức.
Cùng với các biện pháp tổ chức, trên mặt trận tư tưởng, việc phát huy yếu tố tinh thần nhằm đề cao trách nhiệm không thể bị xem nhẹ.
Sự giác ngộ về lý tưởng, ý thức làm chủ tập thể, nhiệt tình cách mạng, tinh thần trách nhiệm và ý thức hợp tác xã hội chủ nghĩa cao, bao giờ cũng là động lực để phát huy mạnh mẽ chế độ trách nhiệm đã được quy định bằng các biện pháp tổ chức và được tạo điều kiện bằng các yếu tố vật chất.
Để thật sự đề cao trách nhiệm, phải đánh giá, nhận xét ưu điểm; biểu dương, khen thưởng những tổ chức và người làm tốt trách nhiệm, phát hiện khuyết điểm và quy trách nhiệm rõ ràng để giáo dục, thi hành kỷ luật kịp thời đối với những tổ chức và người làm việc tắc trách, vô trách nhiệm.
Trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, kỷ luật phải bình đẳng không có ngoại lệ với bất kỳ ai. Khen thưởng phải kịp thời và công bằng. Càng giữ chức vụ cao, càng được rèn luyện lâu năm trong Đảng nếu phạm kỷ luật thì việc thi hành kỷ luật càng phải nghiêm khắc. Vi phạm kỷ luật nhà nước thì phải xử lý về mặt hành chính, phạm pháp luật thì phải xử lý theo pháp luật, không được châm chước để xử lý trong nội bộ Đảng nhằm bao che cho nhau. Sự quan tâm của cơ quan và người lãnh đạo trong việc động viên khen thưởng về tinh thần và vật chất cũng như trong việc giữ vững kỷ luật nghiêm minh của Đảng, kỷ luật và pháp luật nhà nước là một điều không bao giờ được xem nhẹ.
4. Rèn luyện phẩm chất cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân
Chất lượng lãnh đạo và uy tín của Đảng chính là đường lối đúng đắn và ở hiệu quả thực hiện đường lối ấy. Song một yếu tố cũng rất quan trọng để bảo đảm cho đường lối sát đúng, được thực hiện tốt và để giữ vững uy tín của Đảng là phẩm chất của cán bộ, đảng viên trong công tác, trong cuộc sống tập thể và cá nhân.
Đã là đảng viên thì phải phấn đấu không mệt mỏi cho lý tưởng, sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng. Phải sống trong sạch; phải là người tiêu biểu nhất cho con người mới xã hội chủ nghĩa. Người cộng sản phải là tấm gương sáng để quần chúng noi theo. Cán bộ, đảng viên từ uỷ viên Trung ương Đảng đến mọi đảng viên ở cơ sở phải là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu về mọi mặt để tập hợp được quần chúng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thời gian qua, trong lúc cả đội ngũ đông đảo tiến lên phấn đấu quên mình vì sự nghiệp cao cả của Đảng, của Tổ quốc thì một bộ phận cán bộ, đảng viên sa sút về phẩm chất đã làm giảm uy tín của Đảng, làm yếu hiệu lực tổ chức thực hiện đường lối của Đảng. Điều đáng chú ý là trong bộ phận ấy đã có một số cán bộ cấp cao và cấp trung, những đảng viên đã lăn lộn nhiều năm trong đấu tranh chống địch, kể cả từ trước Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp.
Sự sa sút về phẩm chất, sự thoái hoá trong lối sống, quan liêu hoá trong tác phong thường xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân. Những mặt tiêu cực đó càng phát triển nghiêm trọng trong một số cán bộ do ảnh hưởng của lối sống theo kiểu tư sản và của chủ nghĩa thực dân mới từ sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng.
Chủ nghĩa cá nhân cùng những ảnh hưởng của tư tưởng tư sản và của chủ nghĩa thực dân kiểu mới đã làm mất ý chí chiến đấu của nhiều cán bộ, đảng viên; họ làm sai chính sách, bỏ nhiệm vụ, thậm chí đi vào buôn bán kiếm lời, tham gia bóc lột, tham ô, ăn hối lộ, chiếm đoạt của công, thông đồng với gian thương, ăn chơi truỵ lạc, v.v.. Mấy năm vừa qua, Đảng đã thi hành kỷ luật nghiêm khắc và đưa những người nói trên ra khỏi Đảng. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là vẫn còn một số cán bộ, đảng viên phạm sai lầm, nhất là thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm phẩm chất, trong đó có những cán bộ giữ cương vị phụ trách, vẫn chưa được phê phán hoặc thi hành kỷ luật một cách nghiêm túc.
Chúng ta cho rằng trước những khó khăn về đời sống và các mặt tiêu cực ngoài xã hội, khuyết điểm của chúng ta là đã thiếu biện pháp đồng bộ có hiệu lực về kinh tế, hành chính và giáo dục để giải quyết kịp thời.
Song đối với người đảng viên thì trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được buông lỏng rèn luyện, bỏ danh hiệu cao cả của người cộng sản, xa rời vị trí chiến đấu của mình.
Đảng phải đặc biệt coi trọng việc tổ chức học tập một cách có hệ thống tư tưởng, đạo đức tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn Đảng.
Phải nâng cao nhiệt tình cách mạng, chống sa sút về phẩm chất, chống chủ nghĩa cá nhân, tư lợi cá nhân, xem trọng tiền tài, lợi ích phi pháp hơn là danh dự con người, lý tưởng của người đảng viên cộng sản, hơn cả sinh mệnh chính trị của người chiến sĩ cách mạng.
Chúng ta phải bằng hành động thực tế bác bỏ luận điệu sai lầm cho rằng quan liêu hoá, thoái hoá là bệnh tất yếu của đảng cầm quyền. Hoàn toàn có thể ngăn chặn tình trạng đó bằng các biện pháp đồng bộ mà chúng ta đã đề ra. Phải rất coi trọng cải tiến quản lý kinh tế, coi trọng việc dựa vào quần chúng để kiểm tra bộ máy; phải tăng cường giáo dục, tăng cường kiểm tra của Đảng và Nhà nước. Phải nghiêm cấm đặc quyền, đặc lợi; nghiêm cấm các cơ quan có quyền nắm trong tay vật tư, tài chính lại tự định ra chế độ riêng cho mình và cho cán bộ dưới quyền; nghiêm cấm quỹ đen; chấm dứt chè chén bê tha, lấy của công để chia nhau trong nội bộ. Các chi bộ phải giám sát việc đó thật chặt chẽ.
Phải giúp đỡ cán bộ, đảng viên mà đời sống có khó khăn; song tư cách của một đảng viên không cho phép vi phạm đạo đức cộng sản.
Cần nhấn mạnh một điều quan trọng là cơ quan quản lý cán bộ, đảng viên phải kịp thời giúp họ sửa chữa khuyết điểm ngay từ khi nó mới chớm nở; các chi bộ và cấp uỷ phải nghiêm khắc làm tròn trách nhiệm của mình là phải loại ra khỏi Đảng trước hết những ai ức hiếp quần chúng, tham ô, ăn hối lộ, bóc lột, bất cứ người đó giữ cương vị gì và phải tìm mọi biện pháp để chấm dứt tình trạng đó.
5. Siết chặt hàng ngũ, tăng cường đoàn kết toàn Đảng
Bài học lịch sử của Đảng ta và của các đảng anh em đều chỉ rõ rằng sức mạnh vô địch của Đảng Mác - Lênin là ở sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Sự đoàn kết thống nhất ấy phải dựa trên đường lối chính trị đúng đắn và những nguyên tắc tổ chức sinh hoạt của Đảng, được củng cố bằng tình cảm cách mạng trong sáng của những người cùng chung lý tưởng.
Truyền thống đoàn kết toàn Đảng từ trước đến nay luôn luôn vẫn là một nguyên nhân cơ bản của những thắng lợi to lớn của Đảng và nhân dân ta.
Những năm gần đây, trước bước ngoặt của cách mạng, bên cạnh những ưu điểm, thành tích, chúng ta có những khuyết điểm. Trước những khuyết điểm ấy và những khó khăn mà cách mạng đang gặp phải, trong Đảng ta có những ý kiến khác nhau về vấn đề này hay vấn đề khác trong việc cụ thể hoá đường lối, trong đánh giá tình hình và xác định nguyên nhân của khuyết điểm.
Có những ý kiến khác nhau như vậy là điều bình thường. Vấn đề quan trọng là phải thảo luận kỹ để đánh giá đúng ưu điểm, khuyết điểm, làm rõ những nguyên nhân cơ bản của tình hình, tổng kết từ thực tế những vấn đề lý luận và thực tiễn đang có ý kiến khác nhau để tăng cường nhất trí cao hơn nữa, giải quyết những mắc mứu về nhận thức và đề ra những chính sách, chủ trương phù hợp với tình hình mới, không để kéo dài tình trạng ấy. Chúng ta đang làm việc đó.
Trong thời gian tới, Bộ Chính trị, Ban Bí thư sẽ có chương trình tổ chức thảo luận để tổng kết một cách kỹ lưỡng những vấn đề cần có sự nhất trí cao, tạo cho mọi đồng chí tham gia các cuộc thảo luận nói lên một cách thẳng thắn ý kiến của mình. Việc đó là rất cần thiết để tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng và nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng. Phải làm những việc đó một cách có tổ chức, nhằm mục tiêu giải quyết vấn đề, đưa phong trào quần chúng đi lên. Sự đoàn kết thống nhất của Đảng đòi hỏi toàn Đảng phải chấp hành đúng nguyên tắc tổ chức của Đảng; đối với những vấn đề đã thành nghị quyết của tập thể thì chỉ có một quyết tâm, một tiếng nói và một hành động. Trong Đảng tuyệt đối không được bè phái. "Giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình" theo lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nghĩa vụ tuyệt đối đối với mọi đảng viên. Chia rẽ, bè phái phải coi là phạm tội lớn nhất đối với Đảng, đối với nhân dân.
Trong tình hình mới, thái độ đúng mức của mỗi đảng viên là góp phần khắc phục khó khăn, nghiên cứu kỹ các vấn đề để đề đạt ý kiến với Đảng, không tùy tiện phát ngôn, cũng không bàng quan, vô trách nhiệm.
Việc thảo luận các dự thảo văn kiện của Trung ương trình Đại hội toàn quốc ở đại hội các cấp và cơ sở vừa qua đã khẳng định một cách mạnh mẽ rằng tuyệt đại đa số đảng viên có ý thức chăm lo giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng, nhất trí với đường lối đúng đắn của Đảng, biết sử dụng quyền dân chủ một cách đúng đắn để đóng góp ý kiến với Trung ương về các vấn đề chung của toàn Đảng. Điều đó thể hiện sức mạnh đoàn kết thống nhất của Đảng ta.
Tuy nhiên, trong Đảng cũng có những đồng chí tuy có ý thức tốt, nhưng do phương pháp tư tưởng hoặc thái độ, tác phong chưa tốt, nên đã tỏ ra thiếu khách quan, kém bình tĩnh, chỉ đứng ở vị trí của mình để phê phán cấp trên hoặc cấp dưới, không thấy thiếu sót về phần mình, không tìm hiểu kỹ ý kiến của đồng chí khác, phát biểu thiếu cân nhắc, gây nên tình trạng kém đoàn kết. Chúng ta cần giúp đỡ các đồng chí đó để có cách nhìn, cách giải quyết vấn đề cho đúng mức.
Điều nguy hiểm là có một số phần tử cơ hội đang lợi dụng lúc Đảng gặp khó khăn để thực hiện mưu đồ riêng tư. Họ đả kích lãnh đạo, thông tin sai lệch để gây hoang mang trong nội bộ. Có những phần tử cơ hội nịnh bợ, luồn cúi, lựa gió theo chiều để lấy lòng người này, người kia, họ đề cao người này, nói xấu người khác để hòng gây chia rẽ, bè phái. Bè phái chính là đặc trưng của chủ nghĩa cơ hội. Bọn cơ hội về quan điểm tư tưởng là không có tính nguyên tắc; về lý luận, thường nguỵ biện; về hành động, theo chủ nghĩa thực dụng.
Phải siết chặt kỷ luật của Đảng, thanh lọc ra khỏi Đảng những phần tử cơ hội, gây chia rẽ.
Một số phần tử... đã phản bội Tổ quốc, chạy sang hàng ngũ địch làm tay sai cho chúng để chống phá cách mạng, đang tìm cách lôi kéo những phần tử bất mãn, những người còn mơ hồ về vấn đề dân tộc để chia rẽ nội bộ ta, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng hòng xây dựng lực lượng phản cách mạng... để ngấm ngầm phá hoại ta về mọi mặt.
.....
Lại có một số phần tử cơ hội đã bị đưa ra khỏi Đảng đang tìm cách chia rẽ nội bộ Đảng ta. Chúng xuyên tạc một cách trắng trợn đường lối, chính sách của Đảng, phủ nhận thành quả cách mạng, bôi đen thành tích và xuyên tạc đường lối quốc tế của Đảng hòng chia rẽ tình đoàn kết quốc tế của Đảng và nhân dân ta với đảng và nhân dân các nước anh em... Phải đập tan những luận điệu đó của chúng.
6. Không ngừng tăng cường đoàn kết quốc tế và giáo dục tinh thần quốc tế vô sản cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
Trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản, Đảng luôn đấu tranh chống mọi khuynh hướng sôvanh nước lớn hoặc ích kỷ dân tộc và cho rằng trong thời đại ngày nay, lợi ích chân chính của bất cứ dân tộc nào cũng không thể tách rời khỏi lợi ích của cộng đồng xã hội chủ nghĩa, của phong trào cách mạng thế giới mà Liên Xô là trụ cột. Chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản cao quý.
Đảng ta đã không ngừng củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Liên Xô, coi đó là "nguyên tắc, là chiến lược đồng thời là tình cảm cách mạng". Liên Xô đã không ngừng giúp ta xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự giúp đỡ ấy là hết sức to lớn. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Đi theo con đường của Lênin vĩ đại đã vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lênin vĩ đại và đối với nhân dân Liên Xô là vô cùng sâu sắc". Đảng và nhân dân ta mãi mãi phải tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và mối quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô. Đó còn là nghĩa vụ quốc tế vô sản cao quý của Đảng ta đối với việc tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa và đối với đấu tranh cho hoà bình và chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
Đảng ta đã không ngừng củng cố và tăng cường quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia, coi đó là một quy luật của sự phát triển của cách mạng ba nước, là điều có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc. Đó là tình cảm cách mạng trong sáng và sự gắn bó lâu đời giữa ba đảng và nhân dân ba nước. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải thường xuyên vun đắp cho tình đoàn kết, sự liên minh chiến đấu và mối quan hệ đặc biệt ấy.
Đảng ta cũng đã không ngừng củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, sự hợp tác anh em giữa Việt Nam và các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, luôn luôn biết ơn đối với sự giúp đỡ của Đảng, Nhà nước và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em và không ngừng giữ vững tình cảm chân thành đối với những người anh em cùng chung lý tưởng.
Sự đoàn kết hợp tác trên đây là sức mạnh vô địch không một thế lực phản động nào có thể phá vỡ nổi. Tất cả bọn cơ hội và phản động đang tìm cách xuyên tạc đường lối đoàn kết quốc tế của Đảng ta nhằm phá hoại sự đoàn kết hợp tác trên đây, nhất định sẽ thất bại.
Toàn Đảng, toàn dân phải coi tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào, Campuchia và các nước xã hội chủ nghĩa anh em là một nguyên tắc, một vấn đề có ý nghĩa về chiến lược của đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đó cũng là điều kiện sống còn của cách mạng nước ta, là nghĩa vụ quốc tế tất yếu đối với giai cấp công nhân và nhân dân thế giới, đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế mà Đảng ta luôn luôn phấn đấu để làm tròn.
Phải giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu một cách sâu sắc quan điểm và đường lối quốc tế của Đảng ta.
Phải không ngừng giáo dục tinh thần quốc tế vô sản cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, khắc phục mọi tư tưởng dân tộc hẹp hòi hoặc dân tộc nước lớn.
Mọi lời nói và việc làm của cán bộ, đảng viên phải không ngừng góp phần tăng cường đoàn kết thống nhất của Đảng, góp phần vun đắp cho tình đoàn kết quốc tế.

Thưa các đồng chí,
Những nhiệm vụ, nội dung trên đây về tăng cường mặt trận tư tưởng của Đảng nhằm củng cố Đảng và nâng cao chất lượng lãnh đạo chính trị của Đảng cũng chính là những nội dung chủ yếu của việc giáo dục về tính chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng.
Rõ ràng tăng cường mặt trận tư tưởng của Đảng là yếu tố cực kỳ quan trọng để tạo nên sức mạnh về tinh thần và về vật chất. Đó cũng là một yếu tố hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Phải nâng cao tính đảng, tính khoa học của công tác tư tưởng, làm cho công tác này thật sự có hiệu lực.
Toàn Đảng phải làm công tác tư tưởng, mọi đảng viên đều phải làm công tác tư tưởng, phải thấy rõ vị trí của mình trên mặt trận tư tưởng và chủ động làm tròn trách nhiệm của chính mình.
Tổ chức đảng, trước hết là các cấp uỷ đảng, các chi bộ, các ban tuyên huấn và các ban khác ở các cấp, các ngành đều phải làm công tác tư tưởng. Phải đổi mới phương thức làm công tác tư tưởng, biết phối hợp tất cả các cơ quan, các ban, các ngành, các đoàn thể, sử dụng tất cả các công cụ thông tin, văn hoá, văn học, nghệ thuật, giáo dục, v.v. để làm công tác tư tưởng; phải gắn chặt công tác tuyên truyền, giáo dục với công tác tổ chức và tổng kết thực tiễn để làm công tác tư tưởng.
II- Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, xây dựng đội ngũ
của Đảng đáp ứng hai nhiệm vụ chiến lược
Thưa các đồng chí,
Việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức, xây dựng đội ngũ của Đảng để đáp ứng hai nhiệm vụ chiến lược đòi hỏi toàn Đảng phải có quyết tâm cao, có nhận thức mới nhằm thực hiện bằng được những nhiệm vụ cụ thể sau đây về công tác tổ chức.
1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng kết hợp chặt chẽ với phát huy hiệu lực quản lý của Nhà nước và thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động
Vai trò ngày càng tăng của Đảng Mác - Lênin đã trở thành quy luật chung trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề then chốt và cấp bách của Đảng ta hiện nay là phải nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, nhất là lãnh đạo về kinh tế - xã hội. Để làm tốt việc đó và để xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc, một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Đảng là phải lãnh đạo xây dựng và tăng cường bằng được bộ máy nhà nước, phát huy một cách tốt nhất hiệu lực của bộ máy nhà nước, đồng thời phải chăm lo củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể quần chúng.
Điều lệ Đảng đã quy định và Hiến pháp mới đã thể chế hoá nội dung cơ bản của nguyên tắc "Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ tập thể, Nhà nước quản lý". Đó là cơ sở để tiếp tục cụ thể hoá mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở từng cấp, từng ngành, từng đơn vị, thành các nguyên tắc, chế độ, nền nếp hoạt động để giải quyết đúng đắn các vấn đề cụ thể trong mối quan hệ giữa các tổ chức đảng và cơ quan nhà nước, giữa Nhà nước với nhân dân.
a) Đảng lãnh đạo mọi tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản. Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức quần chúng một cách toàn diện bằng đường lối và các chính sách của Đảng, bằng các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về mục tiêu phấn đấu, chủ trương và chính sách lớn, các biện pháp chủ yếu, các vấn đề lớn về tổ chức và cơ chế hoạt động của Nhà nước, quyết định những vấn đề quan trọng nhất về tổ chức và cán bộ. Đảng lãnh đạo bằng công tác giáo dục chính trị, công tác tổ chức vận động quần chúng và làm cho mọi đảng viên đứng ở vị trí tiên phong trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Đảng lãnh đạo bằng kiểm tra tổ chức chính quyền và các tổ chức khác trong hệ thống chuyên chính vô sản thực hiện đường lối, chính sách, các nghị quyết của Đảng, pháp luật nhà nước, phối hợp chặt chẽ hoạt động của các tổ chức đảng, nhà nước và đoàn thể, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chuyên chính vô sản hướng vào mục tiêu chung.
Từ những nguyên tắc chung trên đây, chúng ta cần căn cứ vào đặc điểm của từng cấp, từng loại cơ sở, từng lĩnh vực công tác để xác định một cách cụ thể nội dung lãnh đạo của tổ chức đảng cho thật phù hợp, không máy móc, giản đơn.
Cần nắm vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, không được buông lỏng lãnh đạo, nhưng cần có ý thức rằng sự lãnh đạo của Đảng bao giờ cũng dựa trên cơ sở phát huy đầy đủ hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước không phải là người thừa hành một cách bị động và vụn vặt các công việc do Đảng đề ra.
Cần nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước. Thực tiễn đã chỉ rõ: Đảng chỉ có thể đạt được những thành tựu trong lãnh đạo kinh tế và toàn xã hội nếu biết kiện toàn mạnh mẽ Nhà nước và đề cao một cách có ý thức vai trò quản lý của Nhà nước với chức năng chủ yếu là cụ thể hoá, thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành kế hoạch nhà nước, thành pháp luật, thành chính sách, chế độ, biện pháp cụ thể và tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách ấy.
Quản lý bằng pháp luật là phương thức quản lý riêng của Nhà nước. Song cùng với phương thức ấy, Nhà nước còn quản lý bằng giáo dục, bằng tổ chức, bằng vận động, thuyết phục. Một vấn đề lớn trong việc bảo đảm chức năng quản lý của Nhà nước hiện nay là phải tăng cường mạnh mẽ và nhanh chóng pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước phải quản lý toàn diện, biết điều hành guồng máy một cách nhịp nhàng và có hiệu quả. Pháp luật, các chính sách, chế độ, thể chế nhà nước phải được mọi người, trước hết là mọi cán bộ, đảng viên chấp hành nghiêm chỉnh. Tổ chức đảng không thể và không được làm thay công việc của cơ quan nhà nước.
Các cấp uỷ đảng cần phát huy tối đa vai trò của Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng, đồng thời tăng cường sử dụng cơ quan nhà nước trong việc phối hợp với các ban của Đảng để làm tham mưu cho Đảng, khắc phục thiên hướng xem nhẹ vai trò của Nhà nước còn khá nặng ở nhiều cấp, nhiều ngành.
b) Cần khắc phục một cách kiên quyết và dứt khoát tình trạng lẫn lộn chức năng giữa cơ quan đảng và cơ quan nhà nước kéo dài đã từ lâu.
ở cấp trung ương, cần xác định rõ hơn nữa những vấn đề về kinh tế, xã hội cần đưa ra Bộ Chính trị quyết định thông qua; trách nhiệm của Ban Bí thư đối với việc chuẩn bị các quyết định của Ban Chấp hành Trung ương và của Bộ Chính trị; tăng cường hơn nữa trách nhiệm kiểm tra của Ban Bí thư đối với các cơ quan nhà nước cấp trung ương. Trên cơ sở đó, phát huy trách nhiệm, quyền hạn của Hội đồng Bộ trưởng và các bộ.
ở các bộ, việc thành lập các ban cán sự có ý nghĩa thực tiễn trong thời gian trước đây khi mà đất nước mới thống nhất, các đảng uỷ cơ quan chưa được củng cố. Song ngược lại cũng đã gây tác dụng tiêu cực là không đề cao được uy tín và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, phần nào gây nên sự dựa dẫm và không rõ ràng về trách nhiệm của người phụ trách. Để xác định rõ hơn chế độ trách nhiệm ở các cơ quan nhà nước, chúng ta sẽ không thành lập các ban cán sự ở các bộ, các sở. ở các bộ sẽ thực hiện đúng chế độ thủ trưởng dựa trên một tập thể Hội đồng của bộ gồm bộ trưởng, các thứ trưởng và một số thành viên theo quy định của Nhà nước chủ yếu để làm tư vấn cho bộ trưởng. Hội đồng Bộ trưởng sẽ quy định rõ nội dung các vấn đề phải đưa ra bàn bạc ở tập thể tổ chức này và các chế độ cần thiết khác, bảo đảm trong khi phát huy đầy đủ trách nhiệm của người phụ trách, ngăn chặn được hiện tượng độc đoán, thiếu chu đáo, thiếu tập thể, nhất là đối với các vấn đề về nhiệm vụ kế hoạch, các chính sách, các vấn đề lớn về tổ chức, cán bộ. ở các sở cũng cần định rõ chế độ sinh hoạt giữa thủ trưởng và các đồng chí giữ chức phó theo hướng trên.
Cần tăng cường công tác kiểm tra của Đảng ở các bộ, các sở bằng cách nâng cao trách nhiệm của các ban của Trung ương và của cấp uỷ đảng, bố trí đúng bí thư và cán bộ chủ chốt trong đảng uỷ cơ quan, bảo đảm chất lượng kiểm tra của đảng uỷ và chi bộ cơ quan theo một quy định cụ thể của Trung ương. Việc đề bạt cán bộ ở các bộ, các sở vẫn phải bảo đảm do một tập thể có thẩm quyền quyết định hoặc chuẩn y theo quy định của Trung ương.
Các đồng chí bộ trưởng, giám đốc sở được Trung ương hoặc cấp uỷ giao trách nhiệm giúp các bí thư đảng uỷ ở các đơn vị cơ sở trực thuộc bộ hoặc tỉnh, thành phố quán triệt nhiệm vụ công tác của ngành, của đơn vị, nâng cao trình độ hiểu biết về kinh tế - kỹ thuật và phối hợp với cấp uỷ địa phương để xây dựng và thực hiện quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng các bí thư đảng uỷ cơ sở về kiến thức quản lý kinh tế, chuyên môn, kỹ thuật... Các ban cần có trách nhiệm giúp Trung ương nắm vững, giúp đỡ, kiểm tra những tổ chức cơ sở đảng ở các đơn vị cơ sở và cơ quan liên hiệp sản xuất, kinh doanh lớn.
ở các địa phương, phương hướng chung là cấp uỷ đảng phải bỏ bao biện, sự vụ, làm cho cơ quan nhà nước chủ động chỉ đạo sản xuất, kinh doanh, tổ chức và quản lý đời sống xã hội. Cấp uỷ phải nắm chắc các vấn đề lớn và mới, các nhiệm vụ trọng tâm để có chủ trương lãnh đạo và kiểm tra sự thực hiện. Phải tăng cường công tác đảng, công tác kiểm tra, công tác bồi dưỡng, bố trí cán bộ, là những khâu then chốt bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng. Không thể để tình trạng cấp uỷ hội họp bàn định mọi việc rồi phân công cấp uỷ viên đi đôn đốc chỉ đạo công việc thay cho cơ quan chính quyền. Còn cơ quan chính quyền thì không quyết định công việc của mình hoặc làm một cách hình thức.
ở các cơ sở thực hiện chế độ thủ trưởng như xí nghiệp, công trường, nông trường, trường học, bệnh viện, phải cải tiến và hết sức coi trọng nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng. Các đảng uỷ cần chăm lo công tác đảng, công tác vận động quần chúng, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong Đảng và ngoài quần chúng. Phải coi trọng lãnh đạo phong trào thi đua, động viên quần chúng phát huy sáng kiến, phát hiện và sử dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật và kinh nghiệm tiên tiến vào sản xuất, tăng cường kỷ luật lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, thực hành tiết kiệm, bảo vệ của công và của tập thể, chống quan liêu, lãng phí, tham ô. Các tổ chức cơ sở đảng phải làm quán triệt và bàn biện pháp thi hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng trong đơn vị theo chức trách lãnh đạo của mình. Phải gắn chặt công tác đảng, công tác quần chúng với công tác kinh tế, công tác chuyên môn nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp ở đơn vị cơ sở, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở, quyết định bố trí, đề bạt cán bộ chủ chốt thuộc diện do đảng uỷ quản lý, đấu tranh khắc phục các mặt tiêu cực, hướng mọi hoạt động của mình vào mục tiêu hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước của đơn vị.
Tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm kiểm tra hoạt động của giám đốc và cơ quan quản lý, bảo đảm cho đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng, pháp luật nhà nước được quán triệt, được thực hiện nghiêm chỉnh và có hiệu quả. Tổ chức cơ sở đảng không quyết định các chỉ tiêu cụ thể của kế hoạch, các biện pháp về sản xuất, chuyên môn, kỹ thuật thuộc trách nhiệm quản lý của người thủ trưởng. Người thủ trưởng và cơ quan quản lý phải báo cáo với đảng uỷ theo đúng chế độ và theo yêu cầu của đảng uỷ.
Qua kiểm tra, phát hiện các ưu điểm, các khuyết điểm, nêu ra các vấn đề giúp cho người thủ trưởng nghiên cứu để bổ khuyết và phải uốn nắn những việc mà người thủ trưởng hoặc cơ quan quản lý làm trái với nghị quyết của Đảng, pháp luật nhà nước.
Kế hoạch kinh tế - xã hội (hoặc chuyên môn, nghiệp vụ) của đơn vị do người thủ trưởng chịu trách nhiệm xây dựng. Tổ chức cơ sở đảng phải lãnh đạo quần chúng tham gia xây dựng kế hoạch trước khi cấp trên có thẩm quyền quyết định. Để làm việc đó, tổ chức cơ sở đảng phải nắm vững tình hình cụ thể, chỉ ra những khả năng tiềm tàng, phát hiện những sáng kiến, kể cả về kinh tế - kỹ thuật của quần chúng, chỉ rõ những yếu tố mới về tinh thần, về chính sách, về tổ chức, v.v. cần được phát huy để thể hiện được tính tích cực và tính khoa học trong việc xây dựng kế hoạch, bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng được quán triệt trong kế hoạch. Người thủ trưởng phải báo cáo với đảng uỷ về dự án kế hoạch, tiếp thu ý kiến của đảng uỷ để bổ khuyết, báo cáo lên cấp có thẩm quyền xét duyệt kế hoạch về những ý kiến còn chưa nhất trí.
Cần cải tiến sự lãnh đạo các tổ chức cơ sở đảng ở các đơn vị thực hiện chế độ thủ trưởng theo hướng trên đây để tránh tình trạng người phụ trách dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể tổ chức đảng, vừa phát huy chế độ thủ trưởng, vừa nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng, tăng cường công tác đảng, công tác quần chúng, hoàn toàn không phải là hạ thấp vai trò của tổ chức đảng.
Theo tinh thần đó, Ban Chấp hành Trung ương đề nghị Đại hội làm rõ hơn nữa trong Điều lệ Đảng một số vấn đề về trách nhiệm lãnh đạo và kiểm tra của tổ chức đảng ở cơ quan và ở các đơn vị thực hiện chế độ thủ trưởng. Trên cơ sở quy định chung của Điều lệ Đảng, Trung ương cần có quy định chức trách, chế độ cụ thể để bảo đảm thực hiện tốt quy định mới và ngăn chặn những lệch lạc.
c) Các đoàn thể quần chúng, với chức năng tổ chức, giáo dục vận động quần chúng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự phối hợp và giúp đỡ của Nhà nước, cũng chính là người đại diện cho quyền làm chủ tập thể của quần chúng, là người tập hợp, đề đạt ý kiến, nguyện vọng của quần chúng ở giới mình, giai cấp và lứa tuổi mình với Đảng và Nhà nước. Các đoàn thể quần chúng phải tham gia xây dựng Đảng, xây dựng bộ máy nhà nước, góp phần kiểm tra đảng viên, cán bộ, nhân viên nhà nước thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, làm nghĩa vụ của mình đối với nhân dân lao động.
Cần khắc phục thiên hướng xem nhẹ vai trò của các đoàn thể quần chúng và công tác vận động quần chúng trong điều kiện Đảng nắm chính quyền, phải coi đó là một biểu hiện của tệ quan liêu xa rời quần chúng. Các cấp uỷ cần khắc phục tình hình xem nhẹ kiểm tra và giúp đỡ công tác của các đoàn thể, chỉ giao việc cụ thể khi cần. Tình trạng ấy làm cho nhiều tổ chức của các đoàn thể hoạt động rời rạc, hình thức, và ý kiến, nguyện vọng của quần chúng ít được tập hợp để phản ánh cho Đảng một cách có hệ thống, hạn chế khả năng tập hợp quần chúng và nâng cao tính tích cực của quần chúng trong việc thi hành nghị quyết của Đảng và của Nhà nước cũng như trong việc đấu tranh khắc phục các mặt tiêu cực ngoài xã hội bằng hoạt động của các đoàn thể.
Các cấp uỷ từ trung ương đến cơ sở cần định chế độ làm việc với các đảng đoàn trong các đoàn thể; từng đoàn thể phải đề đạt ý kiến, nguyện vọng của quần chúng với Đảng và Nhà nước; phân tích có hệ thống thái độ của quần chúng đối với các chính sách của Đảng để báo cáo với Trung ương và cấp uỷ. Cần định ra các chế độ bắt buộc các cơ quan đảng và nhà nước phải trả lời trước quần chúng về những ý kiến do quần chúng đề đạt qua các ban chấp hành của các đoàn thể. Phải định các chế độ cho các đồng chí phụ trách Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ được tham dự và phát biểu ý kiến ở các kỳ họp của Ban Bí thư Trung ương Đảng, của Ban Thường vụ các cấp mà nội dung có liên quan đến việc phát động phong trào quần chúng, đến công tác của các đoàn thể.
Vai trò của các đoàn thể, nhất là của Công đoàn, Đoàn Thanh niên trong chức năng tham gia quản lý kinh tế và kiểm tra công việc của Nhà nước, cần được hướng dẫn, định thành chế độ và được thể chế hóa thành pháp luật.
Cần nhấn mạnh trách nhiệm của các tổ chức đảng và của công đoàn trong việc xây dựng giai cấp công nhân, đào tạo cán bộ công nhân cho Đảng, trách nhiệm của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong việc làm tròn vai trò đội xung kích trong mọi nhiệm vụ cách mạng và là đội hậu bị của Đảng. Ra sức kiện toàn tổ chức của các đoàn thể, đặc biệt coi trọng việc nâng cao chất lượng sinh hoạt, củng cố và xây dựng các tổ chức cơ sở của các đoàn thể, bảo đảm cho các đoàn thể, đặc biệt là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Nông hội ở miền Nam và Mặt trận Tổ quốc làm tròn trách nhiệm đã được xác định rõ trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương.
Chúng ta hoan nghênh những cống hiến to lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của các đoàn thể trong sự nghiệp chống Mỹ trước đây, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Song từng đoàn thể phải vươn lên làm tốt hơn nữa trách nhiệm của chính mình để bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động mà mình là đại diện.
Đảng và Nhà nước phải có biện pháp tích cực khắc phục tình trạng vi phạm nghiêm trọng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở nhiều khâu trong đời sống chính trị, tinh thần, văn hóa, kinh tế và xã hội.
Phải quan tâm bồi dưỡng cho quần chúng hiểu biết một cách có hệ thống đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền lợi và nghĩa vụ công dân, tình hình chung của đất nước, những khó khăn và thuận lợi của Đảng, của Nhà nước trong sự nghiệp cách mạng, kiến thức quản lý kinh tế, quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
Phải tổng kết để nâng cao chất lượng và quy định thành chế độ việc quần chúng tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền ở cơ sở và ở các cấp thông qua hoạt động của các đoàn thể, các Hội đồng nhân dân, các tổ chức kinh tế.
Phong trào quần chúng thực hiện ba cuộc cách mạng là thể hiện ý thức và năng lực làm chủ tập thể, là kết quả tổng hợp của sự lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý của Nhà nước và công tác của đoàn thể.
Phải phát động thật tốt các phong trào quần chúng ở cơ sở dựa trên việc thực hiện chế độ hoạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, kết hợp chặt chẽ giữa các biện pháp kinh tế, giáo dục, hành chính, thực hiện một cách đúng đắn sự thống nhất giữa ba lợi ích, qua đó mà nâng cao từng bước vai trò làm chủ của quần chúng.
2. Kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương và các cấp uỷ đảng
Đảng ta được rèn luyện trong chiến đấu lâu dài. Trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các cấp uỷ, nhất là từ cấp tỉnh trở lên, số đông cấp uỷ viên là những đồng chí đã được rèn luyện, thử thách, vững vàng về chính trị, có kinh nghiệm thực tiễn, rất mực trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đó là mặt tốt cơ bản.
Tuy nhiên cũng có những nhược điểm: nhiều đồng chí tuổi cao, sức yếu, sự hiểu biết về kinh tế, kỹ thuật bị hạn chế.
Cấu tạo và sự phân công trong Ban Chấp hành chưa thể hiện được một cách đầy đủ yêu cầu tăng cường năng lực tổ chức thực hiện theo hệ thống tổ chức của Đảng. Số uỷ viên Bộ Chính trị và uỷ viên Ban Thường vụ của một số cấp uỷ công tác ở cơ quan nhà nước quá nhiều; Ban Bí thư Trung ương Đảng và Ban Thường vụ các cấp uỷ thiếu các đồng chí phụ trách công tác của Đảng ở các lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực trọng yếu nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Việc phân công quá nhiều uỷ viên Bộ Chính trị làm công tác trong Hội đồng Bộ trưởng làm cho Bộ Chính trị không có đủ thì giờ nghiên cứu giải quyết kịp thời các vấn đề về chiến lược, các chính sách lớn hoặc tổng kết các vấn đề về đường lối và lý luận của Đảng.
Cấu tạo của Ban Chấp hành Trung ương và của các tỉnh uỷ, thành uỷ chưa thể hiện được tính kế thừa trong việc xây dựng cơ quan lãnh đạo của Đảng: gần 100% uỷ viên Trung ương vào Đảng từ trước và trong kháng chiến chống Pháp, trên 90% tỉnh uỷ viên, thành uỷ viên cũng vào Đảng từ trước chống Mỹ, cứu nước và trên 62% từ trước năm 1954.
Những khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế của Đảng rõ ràng có phần do nguyên nhân về cấu tạo của cấp uỷ.
Cần có một sự đổi mới trong cấu tạo và cách phân công của Ban Chấp hành Trung ương và các cấp uỷ nhằm khắc phục những nhược điểm trên đây.
Ban Chấp hành Trung ương đề nghị Đại hội chú trọng yêu cầu nâng cao chất lượng lãnh đạo của Trung ương về kinh tế - xã hội, hạ thấp tuổi đời bình quân của Ban Chấp hành Trung ương. Trong Ban Chấp hành Trung ương nên có các đồng chí tham gia hoạt động từ trước Cách mạng Tháng Tám, có các đồng chí tham gia kháng chiến chống Pháp và trong chống Mỹ, đã trải qua công tác thực tế, nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, có kiến thức và năng lực quản lý kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, có đủ tiêu chuẩn về chính trị đã đề ra. Về thành phần nên thêm cán bộ xuất thân từ công nhân, cán bộ nữ và cán bộ dân tộc.
Để nâng cao chất lượng lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, phát huy hiệu lực chỉ đạo của Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng cần giảm bớt số uỷ viên Bộ Chính trị làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, chọn những đồng chí tương đối trẻ, có sức khoẻ, có khả năng chỉ đạo thực hiện để kiện toàn Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng.
Các cấp uỷ tỉnh, thành phố, quận, huyện, thị trong những năm qua đã có nhiều cố gắng và tiến bộ, có những cấp uỷ và cấp uỷ viên nhất là ở miền Nam trưởng thành nhanh trong công tác lãnh đạo kinh tế và văn hoá.
Nhằm khắc phục những mặt yếu chung hiện nay của các cấp uỷ, sau Đại hội toàn quốc, đại hội các cấp cần mạnh dạn đưa thêm vào cấp uỷ các đồng chí trẻ, cán bộ nữ, các đồng chí có trình độ quản lý kinh tế - kỹ thuật, có năng lực tổ chức thực hiện, nhạy cảm với cái mới, tiếp thu và chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và qua thực tiễn đã tỏ ra tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự nghiệp cách mạng. Cần có nhiều cấp uỷ viên công tác ở cấp dưới và cơ sở nhưng phải bảo đảm tiêu chuẩn, không nên cấu tạo một cách nhất loạt hễ là bí thư cấp dưới đều là cấp uỷ viên cấp trên. Mỗi cấp đều phải có quy hoạch và biện pháp tích cực bồi dưỡng, đào tạo công nhân để đưa vào cấp uỷ.
Cần kiên quyết đổi mới nhận thức về việc đưa người vào Ban Chấp hành các cấp; không thể coi cấp uỷ là nơi để thăng quan tiến chức, nơi để có chính sách đãi ngộ thoả đáng, nơi để cấu tạo một cách hình thức có tính chất "liên hiệp". Ra hoặc vào cấp uỷ là do yêu cầu của nhiệm vụ. Đó là việc bình thường. Có những đồng chí có nhiều công lao thành tích, đã phát huy tốt tác dụng trong lãnh đạo tập thể của cấp uỷ, nay vì điều kiện sức khoẻ hoặc khả năng, không ra ứng cử cấp uỷ nữa để có thêm những đồng chí mới có đủ điều kiện phát huy tác dụng hơn mình thay thế. Chúng ta hết sức coi trọng những cống hiến của các đồng chí đối với sự nghiệp chung và có chính sách đúng đắn đối với các đồng chí đó.
Cần tăng cường khả năng tổ chức thực hiện công tác đảng, công tác quần chúng của các tỉnh uỷ, thành uỷ, huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ,v.v. bằng cách đổi mới sự phân công trong Ban Chấp hành và Ban Thường vụ, tăng thêm uỷ viên thường vụ chuyên trách công tác đảng, bớt một số đồng chí công tác bên Uỷ ban nhân dân, nơi có nhiều, xác định rõ trách nhiệm của bí thư và phó bí thư đối với công việc hằng ngày. Bí thư và các phó bí thư phải chuyên trách công tác đảng.
Cấu tạo cấp uỷ phải bảo đảm sự lãnh đạo của cấp uỷ đối với các lĩnh vực công tác, thể hiện được yêu cầu và trách nhiệm lãnh đạo của cấp uỷ đối với xây dựng cơ cấu kinh tế trên lãnh thổ, đối với yêu cầu tăng cường lãnh đạo văn hoá, quốc phòng, an ninh, công tác đảng và công tác quần chúng ở địa phương (kể cả ở các đơn vị do cấp trên quản lý).
Theo tinh thần đó, cần đổi mới cấu tạo của nhiều cấp uỷ, hạ thấp tuổi đời bình quân của các cấp uỷ.
Coi trọng kiện toàn các huyện uỷ đáp ứng những yêu cầu cấp thiết của việc lãnh đạo xây dựng huyện có cơ cấu nông - công nghiệp và thành những pháo đài chiến đấu theo vị trí tính chất cụ thể của từng loại huyện. Các quận uỷ cần được kiện toàn để đủ sức lãnh đạo những nhiệm vụ được giao trên địa bàn quận, đặc biệt rất chú trọng tăng cường tổ chức và năng lực của quận uỷ để lãnh đạo công tác đảng, công tác quần chúng ở các đơn vị cơ sở trên địa bàn quận mà tổ chức đảng được giao trực thuộc quận uỷ.
Coi trọng kiện toàn các thành uỷ, thị uỷ. Trước hết kiện toàn các Thành uỷ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng đúng với vị trí của Thủ đô và các thành phố nói trên. Kiện toàn các thành uỷ ở các khu vực công nghiệp quan trọng như: Đà Nẵng, Biên Hoà, Thái Nguyên, Việt Trì, Hòn Gai, Vinh, v.v.. Tăng thêm các đồng chí có năng lực, có kiến thức lãnh đạo và quản lý công nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, các công tác sự nghiệp, dịch vụ và bảo đảm an toàn xã hội để các thành uỷ đó có đủ sức lãnh đạo các mặt công tác ở thành phố và khu công nghiệp.
ở các thành phố trực thuộc trung ương và thành phố, thị xã thuộc tỉnh có khu công nghiệp, cần đưa thêm vào cấp uỷ những cán bộ có năng lực công tác ở các cơ quan và nhất là ở các đơn vị cơ sở trực thuộc trung ương đóng ở địa phương để nâng cao chất lượng lãnh đạo của cấp uỷ đối với công tác đảng và đối với việc quản lý nhà nước ở địa phương trên lãnh thổ.
Trong các tỉnh uỷ, thành uỷ, cần có nhiều cán bộ công tác ở cơ sở sản xuất kinh doanh và các liên hiệp sản xuất.
Các uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương và các cấp uỷ phải tiêu biểu cho trí tuệ của toàn Đảng hay của mỗi đảng bộ và phải thật sự có khả năng đóng góp vào sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành.
Cần có quy chế làm việc để uỷ viên Ban chấp hành các cấp phát huy được trách nhiệm và khả năng của mình trong lãnh đạo tập thể. Ngoài các phiên họp của Ban Chấp hành cần nghiên cứu các hình thức tổ chức sinh hoạt và công tác như uỷ ban, tiểu ban để các uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương và các cấp uỷ tỉnh, thành phố tham gia chuẩn bị các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị hoặc của cấp uỷ và Ban Thường vụ cấp uỷ về những lĩnh vực công tác quan trọng.
Chất lượng lãnh đạo của các cấp uỷ đảng không chỉ tuỳ thuộc ở bản thân cấp uỷ, mà một phần hết sức trọng yếu còn tuỳ thuộc ở chất lượng chuẩn bị của các cơ quan tham mưu của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, kiện toàn các cơ quan tham mưu là một khâu rất then chốt để bảo đảm chất lượng lãnh đạo tập thể của Trung ương và của các cấp uỷ.
Cần kiện toàn và sử dụng tốt các ban của Trung ương và của các cấp uỷ. Bố trí đúng trưởng ban, các phó trưởng ban và đưa về các ban những cán bộ thực sự có phẩm chất và năng lực. Bộ máy của các ban phải tinh và gọn. Các đồng chí trưởng ban, các đồng chí Bí thư Trung ương Đảng phụ trách từng ban phải đích thân chỉ đạo việc tinh giản bộ máy của ban do mình phụ trách. Không nhất thiết có ban là có vụ, một số ban chỉ cần có trưởng ban, các phó trưởng ban và một số tổ chuyên viên; không nhất thiết cấp trên có ban gì cấp dưới có ban ấy. Phải kiện toàn và sử dụng tốt cơ quan tham mưu của Nhà nước. Quy định chế độ cho các ban được sử dụng cộng tác viên để cải tiến chất lượng công tác của các ban và giảm nhẹ biên chế.
Từ trước đến nay, Đảng ta luôn luôn đặc biệt quan tâm đến việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Thực tế lịch sử gần 40 năm qua đã chứng minh sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi và sự trưởng thành của lực lượng vũ trang nhân dân.
Tình hình đất nước và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi phải tiếp tục xây dựng quân đội nhân dân cách mạng hùng mạnh, có trình độ chính quy và hiện đại ngày càng cao. Để đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng và yêu cầu của chiến tranh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, đồng thời phải thực hiện đầy đủ chế độ một người chỉ huy bảo đảm cho người chỉ huy phát huy được đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho, hạ quyết tâm và xử trí các tình huống một cách chủ động, quyết đoán chính xác, kịp thời và bộ đội hành động kiên quyết, khẩn trương để giành thắng lợi, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Đảng lãnh đạo trực tiếp, tập trung, thống nhất các lực lượng vũ trang cả về chính trị, tư tưởng và về tổ chức, không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân của quân đội, làm cho quân đội trung thành vô hạn với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, đoàn kết chặt chẽ xung quanh Ban Chấp hành Trung ương, gắn bó chặt chẽ với nhân dân lao động, tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, hăng hái lao động xây dựng đất nước và làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
Ban Chấp hành Trung ương đề nghị Đại hội sửa đổi Điều 12 của Điều lệ Đảng và giao cho Ban Chấp hành Trung ương quy định cụ thể tổ chức sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam.
Cần thành lập một ban của Trung ương đặt trực thuộc Bộ Chính trị để giúp Trung ương quản lý cán bộ trong lực lượng vũ trang và an ninh, tiến hành các công tác cần thiết khác theo yêu cầu của Trung ương.
3. Kiện toàn bộ máy nhà nước
Vấn đề lớn hiện nay là phải xây dựng Nhà nước theo yêu cầu của việc xây dựng cơ cấu kinh tế mới và bảo đảm phương thức quản lý mới. Ba vấn đề cơ bản của việc kiện toàn bộ máy nhà nước là xây dựng cơ chế quản lý mới, sửa đổi phương pháp làm việc của Đảng và Nhà nước, bố trí đúng cán bộ.
Những quyết định gần đây của Đảng và Nhà nước dựa trên các Nghị quyết số 10 của Ban Chấp hành Trung ương và số 32 của Bộ Chính trị, đánh dấu những tiến bộ bước đầu của việc kiện toàn Nhà nước theo yêu cầu nói trên. Cần tiếp tục cụ thể hoá để thực hiện tốt các nghị quyết đó.
Vấn đề xây dựng cơ chế quản lý là một vấn đề hết sức trọng yếu để tăng cường tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước. Trong một vài năm tới, phải tập trung sức tăng cường lực lượng, huy động các tổ chức đi vào thực tế để nghiên cứu một cách tương đối đồng bộ vấn đề này, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, để thúc đẩy hoàn thiện việc kiện toàn bộ máy nhà nước và hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị cơ sở.
Phải kiện toàn bằng được các cơ quan quản lý tổng hợp, đặc biệt là Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, hệ thống thông tin kinh tế, kiện toàn các viện nghiên cứu khoa học, các khâu then chốt về nghiên cứu quy hoạch, kế hoạch, dự luật, chính sách, chế độ quản lý trong các bộ quản lý các ngành kinh tế - kỹ thuật. Đó là những khâu rất quan trọng quyết định hiệu lực quản lý của Nhà nước, tạo ra những điều kiện cần thiết để đưa hệ thống các đơn vị sản xuất, kinh doanh đi vào hạch toán kinh tế và có phương hướng đúng đắn để phát huy tính chủ động của cơ sở, kiện toàn các đơn vị cơ sở.
Trong khi coi trọng kiện toàn các cơ quan và đơn vị kinh tế phải thấy hết những yêu cầu mới về tăng cường quốc phòng, an ninh. Chúng ta phải xây dựng quân đội ngày càng vững mạnh. Để không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của quân đội, đi đôi với tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực của công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội, phải thực hiện đầy đủ chế độ một người chỉ huy và quản lý chặt chẽ quân đội về mọi mặt.
Chúng ta còn nhiều nhược điểm trong quản lý xã hội. Phải kiện toàn về chất lượng các cơ quan công an, lực lượng công an nhân dân và bảo đảm chặt chẽ tiêu chuẩn của người được chọn vào các cơ quan, đơn vị này. Các cấp uỷ và đồng chí bí thư cần nắm chắc cơ quan công an và lực lượng công an nhân dân, chỉ đạo trực tiếp việc kiện toàn, củng cố các cơ quan, đơn vị ấy. Coi trọng lãnh đạo và kiện toàn về chất lượng các cơ quan bảo đảm pháp chế nhà nước như Viện kiểm sát, toà án, tư pháp, trọng tài kinh tế, v.v..
Các cơ quan quản lý khoa học thông tin, văn hoá xã hội, giáo dục, văn học, nghệ thuật giữ vị trí rất trọng yếu trong việc đẩy mạnh ba cuộc cách mạng và đấu tranh chống địch. Xem nhẹ lãnh đạo văn hoá, xã hội, không kiện toàn tốt các cơ quan trên đây là tự tước bỏ những công cụ rất trọng yếu để xây dựng con người mới, thế hệ mới, cuộc sống mới, là để lãng phí một tiềm năng to lớn trong cuộc đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục các mặt tiêu cực trong xã hội.
Trong hệ thống bộ máy nhà nước, Đảng ta coi trọng làm cho cơ quan quyền lực nhà nước do dân cử, thực sự làm tròn trách nhiệm và giữ vững quyền hạn của mình dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tinh thần ấy cần được quán triệt tốt hơn nữa trong các cấp uỷ đảng.
Sức mạnh điều hành của Nhà nước phải được thể hiện trong hệ thống pháp luật. Hệ thống này phải vừa có sức thuyết phục, vừa có sức mạnh bắt buộc đối với toàn xã hội. Pháp luật, xét cho cùng là thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng. Nhưng không được lẫn lộn giữa đường lối, chính sách và pháp luật.
Phải hết sức quan tâm đến pháp luật, kế hoạch hoá việc xây dựng pháp luật và phòng ngừa phạm pháp. Vấn đề cấp bách hiện nay là phải coi trọng các luật kinh tế, luật hình sự, luật lao động, luật dân sự.
Phải từng bước xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và phải làm cho mọi cán bộ đảng viên trước hết là mọi cán bộ chủ chốt chấp hành đúng pháp luật.
Trong kiện toàn bộ máy nhà nước, một vấn đề bức thiết là phải tinh giản bộ máy, giảm nhẹ biên chế nhất là biên chế hành chính một cách kiên quyết trên cơ sở xoá bỏ cơ chế hành chính quan liêu, bao cấp, đổi mới các chính sách lao động, có chính sách khuyến khích người phụ trách dùng ít người mà công việc vẫn bảo đảm; định rõ chức danh và xác định tiêu chuẩn nghiệp vụ của các chức danh; thực hiện đổi mới kế hoạch và biện pháp về tuyển sinh vào các trường đại học và trung học chuyên nghiệp theo hướng lấy từ cơ sở; sớm ban hành các chính sách chế độ cụ thể để giải quyết các trường hợp cần đưa ra khỏi biên chế, v.v.. Cần chấm dứt tình trạng đồng chí phụ trách nào cũng kêu biên chế nặng nề, nhưng đối với cơ quan mình phụ trách thì cứ lập thêm tổ chức, lấy thêm hoặc không giảm biên chế.
Phải quản lý chặt chẽ việc đặt ra tổ chức mới và tuyển người vào biên chế. Nghiên cứu để giảm bớt các tổ chức không cần thiết hoặc nhập lại các tổ chức đã bị chia tách ra quá sớm. Việc lập tổ chức mới tuyệt đối phải theo các quy định về xét duyệt tổ chức; việc tuyển người vào biên chế phải theo đúng tiêu chuẩn nghiệp vụ.
4. Ra sức kiện toàn tổ chức cơ sở đảng gắn với đẩy mạnh xây dựng huyện, quận, kiện toàn cơ sở, xây dựng, củng cố các liên hiệp sản xuất và phát động các phong trào quần chúng
Chúng ta biểu dương những cố gắng rất lớn của các tổ chức cơ sở đảng trên mọi lĩnh vực. Chính từ cơ sở mà nhiều kinh nghiệm phong phú thể hiện đường lối cần được tổng kết. Tuy nhiên, sự cố gắng đó so với nhiệm vụ nặng nề của cách mạng còn chưa đủ. Mặt yếu kém của cơ sở đảng còn nhiều. Việc nâng cao sức chiến đấu, tính chủ động, sáng tạo, sự vững vàng của tổ chức cơ sở đảng, nhất là của các chi bộ, cho tương xứng với vị trí và tầm quan trọng của các tổ chức cơ sở đảng bao giờ cũng là trách nhiệm hàng đầu của toàn Đảng.
Tình trạng có những tổ chức cơ sở đảng yếu kém kéo dài đòi hỏi phải giải quyết một cách tổng hợp và tận gốc những nguyên nhân cơ bản sinh ra tình trạng trì trệ ấy.
Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và của Bộ Chính trị về công tác tổ chức đã rút ra những nguyên nhân từ sự chỉ đạo của cấp trên, nhất là khuyết điểm trong cơ chế quản lý kinh tế, và từ các khuyết điểm của bản thân tổ chức cơ sở đảng, đã đề ra một cách đúng đắn những biện pháp đồng bộ để đưa tổ chức cơ sở đảng tiến lên đồng đều. Cần thi hành nghiêm túc các nghị quyết ấy.
Trong tình hình mới, tất cả các loại cơ sở cần xác định rõ hơn nữa trách nhiệm của mình đối với cả hai nhiệm vụ chiến lược, tăng cường lãnh đạo quân sự, công an, xây dựng lực lượng dự bị, thực hiện các chính sách hậu phương, đề cao cảnh giác cách mạng, phân công các đồng chí cán bộ chủ chốt vững vàng, đã qua thử thách, nắm chắc lực lượng dân quân tự vệ, quân dự bị, công an nhân dân, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng.
a) Phải qua phong trào xây dựng huyện, củng cố cơ sở mà kiện toàn tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn, gắn xây dựng huyện với kiện toàn cơ sở. Chủ trương của Đảng ta về xây dựng các huyện theo hướng kết hợp nông - công nghiệp (hoặc lâm - nông - công nghiệp hoặc ngư - nông - công nghiệp) và thành những pháo đài bảo vệ Tổ quốc là một chủ trương đúng đắn có tính chiến lược mà 5 năm qua chúng ta làm chưa tốt. Cần khẩn trương đẩy mạnh việc xây dựng huyện trong 5 năm (1981 - 1985) và những năm 80.
Theo phương hướng đã vạch rõ, mỗi huyện phải phấn đấu để trong 5 năm tới, từ đất đai, tài nguyên, lao động và cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có của chính huyện mình mà vươn lên để trở thành những huyện tiên tiến, những huyện tiên tiến hiện nay phải vươn lên đạt những mục tiêu cao hơn trong kinh tế, đời sống.
Để xây dựng huyện, các cơ quan trung ương và tỉnh, thành phố phải phân loại các huyện theo vùng kinh tế, hướng dẫn phương hướng sản xuất phù hợp với từng vùng nhằm tạo ra những vùng có sản phẩm hàng hoá lớn (lương thực, nguyên liệu cho công nghiệp, sản phẩm xuất khẩu) theo hướng từng bước đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Phải giúp cho từng huyện kiểm kê nắm vững đất đai, lao động, công cụ, cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có của huyện mình để vạch ra phương hướng và quy hoạch phát triển công nghiệp (ngư, lâm nghiệp, v.v.), tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, phát triển ngành, nghề, xây dựng các mục tiêu và đề ra các biện pháp thực hiện về đời sống, văn hoá, xã hội. Trên cơ sở đó, phát động quần chúng và các cơ sở trên địa bàn huyện ra sức xây dựng huyện chủ yếu bằng sức mình, không trông chờ ỷ lại vào cấp trên.
Dựa vào phương hướng, quy hoạch đó, phải có quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng bố trí cán bộ, nhất là đối với cán bộ chủ chốt, kiện toàn tổ chức của huyện uỷ, uỷ ban nhân dân, các đoàn thể, gắn chặt với kiện toàn các cơ sở sản xuất, kinh doanh, trạm trại trong huyện.
Các cơ quan trung ương, tỉnh, thành phố phải trên cơ sở quy hoạch của huyện, phân cấp quản lý và tích cực khẩn trương tạo điều kiện cho huyện quản lý kinh tế, văn hoá và các mặt công tác khác một cách chủ động. Phải giúp cho huyện có quy hoạch, kế hoạch để sớm bố trí được một đội ngũ cán bộ tương đối đồng bộ có chất lượng, có nghiệp vụ từ bí thư, chủ tịch đến cán bộ từng ngành và cán bộ cơ sở theo yêu cầu của nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng ở từng huyện. Phải coi trọng đào tạo cán bộ tại chỗ, đồng thời tăng cường cán bộ có năng lực, có trình độ của trung ương và của tỉnh, thành phố cho huyện, tập trung sức giúp đỡ, kiện toàn các huyện có tiềm năng lớn về kinh tế hoặc có vị trí quốc phòng trọng yếu.
Trung ương và cấp tỉnh, thành phố phải có tổ chức để chỉ đạo phối hợp giữa các ban, ngành trong việc chỉ đạo xây dựng huyện và phải cải tiến sự chỉ đạo của cấp huyện mình đối với huyện và cơ sở đảng.
Gắn với xây dựng huyện và củng cố cơ sở sản xuất, cần coi trọng xây dựng và kiện toàn các chi bộ, các đảng uỷ xã, hợp tác xã (nông nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp) thật trong sạch, vững mạnh, loại trừ bằng được hiện tượng cán bộ, đảng viên tham ô và ức hiếp quần chúng, không làm đúng chức trách, không thực hiện các nghị quyết của Đảng; có biện pháp làm chuyển biến cơ sở yếu kém.
 Các đảng uỷ, chi bộ ở xã, hợp tác xã phải nắm vững quan điểm của Đảng, lãnh đạo tốt ba cuộc cách mạng, thúc đẩy phong trào cải tiến quản lý, thực hiện chế độ khoán mới ở hợp tác xã, xây dựng các tập đoàn sản xuất và hợp tác xã ở miền Nam để đưa nông nghiệp đi lên theo đúng đường lối của Đảng. Phải qua đó và các phong trào khác mà kiểm tra, nâng cao chất lượng đảng viên, bố trí, bồi dưỡng tốt đội ngũ cán bộ ở cơ sở, củng cố và tăng cường tổ chức, phát huy mặt tích cực, đấu tranh khắc phục các mặt tiêu cực, ngăn chặn hủ tục, mê tín dị đoan, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng. Cần nghiên cứu có tổ chức sinh hoạt chung cho các đảng viên theo đơn vị thôn ở những nơi một thôn có nhiều chi bộ để bàn các vấn đề cần thiết trong phạm vi thôn.
Trong việc kiện toàn cơ sở đảng đối với nhiều vùng ở miền Nam và ở nhiều xã thuộc các tỉnh miền núi, vùng cao biên giới, cần có biện pháp đặc biệt. ở những nơi này, tỉnh uỷ và huyện uỷ cử các đoàn cán bộ xuống tìm hiểu tình hình, giúp đỡ cơ sở xác định nhiệm vụ, mục tiêu, biện pháp phấn đấu và giúp đỡ các chi bộ, đảng bộ xây dựng cho được đội ngũ cán bộ cốt cán thông qua công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, xây dựng các đoàn thể quần chúng nhất là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đẩy mạnh các mặt công tác, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. ở các xã miền Nam, miền núi, nếu thôn, ấp nào chưa có chi bộ, tổ đảng, nhất thiết phải xây dựng các tổ trung kiên và giao cho các tổ chức này làm trách nhiệm như một tổ đảng.
Coi trọng kiện toàn cấp quận, thị xã để tăng cường lãnh đạo và quản lý tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp và các mặt công tác dịch vụ, văn hoá, xã hội, trật tự an ninh trong quận, thị xã. Các quận uỷ, thị uỷ phải coi trọng kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng ở các lĩnh vực nói trên. ở các quận cần coi trọng củng cố, kiện toàn các phường. Hội đồng Bộ trưởng cần nghiên cứu để xác định rõ hơn nội dung hoạt động của cấp phường về các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội...
b) Trong các xí nghiệp quốc doanh, để bảo đảm thực hiện cơ chế quản lý mới, phải sớm định rõ tiêu chuẩn nghiệp vụ của giám đốc, các phó giám đốc, các cán bộ chủ chốt khác, và điều chỉnh lực lượng cán bộ từ dưới lên và từ trên xuống nhằm khắc phục tình trạng bố trí nhiều giám đốc, phó giám đốc không tương xứng với nhiệm vụ hiện nay. Các bộ phải xây dựng và tổ chức thực hiện ngay kế hoạch mở lớp bồi dưỡng các giám đốc, phó giám đốc xí nghiệp về trình độ quản lý, kết hợp với điều chỉnh cán bộ về nơi cơ sở yếu để sớm khắc phục tình trạng nghiêm trọng hiện nay là mới có chưa đầy 30% giám đốc xí nghiệp được bồi dưỡng về quản lý kinh tế, và gần 50% giám đốc xí nghiệp trung ương chưa qua các trường kinh tế - kỹ thuật trung cấp hoặc đại học. Viện quản lý kinh tế và các ban phải hướng dẫn, đôn đốc cụ thể việc này.
Các giám đốc xí nghiệp phải là những đồng chí nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, được bồi dưỡng về quản lý kinh tế, biết kinh doanh, có hiểu biết chuyên môn, kỹ thuật ở mức độ cần thiết, dám chịu trách nhiệm và phải là những đồng chí có tính đảng cao, có quan điểm quần chúng, biết dựa vào quần chúng, tôn trọng vai trò của tổ chức đảng, không được vì thực hiện chế độ thủ trưởng mà chủ quan, độc đoán, chuyên quyền, vô kỷ luật.
Có tình hình ở nhiều địa phương, trình độ của bí thư đảng uỷ xí nghiệp quá thấp so với giám đốc, và ở nhiều xí nghiệp cần có bí thư chuyên trách mà hiện chưa có. Các cấp uỷ đảng phải phối hợp với các bộ trưởng để nhanh chóng sửa chữa tình trạng đó.
Theo phương hướng đổi mới quản lý kinh tế, hiện nay các hình thức liên hiệp sản xuất (xí nghiệp liên hợp, liên hiệp các xí nghiệp, công ty, v.v.) được hình thành. Cần có cơ chế hoạt động đồng bộ bảo đảm cho các đơn vị cơ sở và các tổ chức liên hiệp sản xuất thực hiện có hiệu quả chế độ hạch toán kinh tế.
Về mặt tổ chức của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương sẽ nghiên cứu tổ chức sự chỉ đạo đối với tổ chức cơ sở đảng ở các xí nghiệp trong liên hiệp các xí nghiệp cho phù hợp với tình hình mới.
ở mỗi xí nghiệp liên hợp sẽ thành lập một tổ chức cơ sở đảng; trong trường hợp một bộ phận của xí nghiệp liên hợp ở xa nơi đơn vị đóng (khác tỉnh, khác huyện), thì tổ chức đảng ở bộ phận ấy có thể được đặt trực thuộc cấp uỷ địa phương (huyện, thị) ở nơi bộ phận ấy hoạt động. Đảng uỷ xí nghiệp liên hợp được đặt quan hệ với tổ chức đảng ở bộ phận đó và với cấp uỷ địa phương để phối hợp hoạt động, trao đổi kinh nghiệm.
Các tổ chức cơ sở đảng ở các cơ sở văn hoá, giáo dục, khoa học kỹ thuật, đặc biệt là ở các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, các viện nghiên cứu đều phải tiến hành kiện toàn tổ chức, cải tiến cách lãnh đạo và kiểm tra của mình gắn với cải tiến công tác quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ của đơn vị theo hướng nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của cơ sở.
Tổ chức cơ sở đảng nói trên nhất là ở trường học phải quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng thế hệ trẻ một cách toàn diện cả về kiến thức văn hoá, chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ, cả về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, chuẩn bị và bồi dưỡng cho thanh niên trở thành những cán bộ có chất lượng ngay từ khi bước vào cuộc sống thực tế trong xây dựng và chiến đấu.
Trách nhiệm đó không chỉ hạn chế trong công tác giảng dạy và trong việc nâng cao chất lượng sinh hoạt của Đoàn, mà phải thể hiện cả ở việc giáo dục bằng hành động thực tế, ở vai trò gương mẫu của giáo viên, của cán bộ, đảng viên và cả ở cách quản lý trường sở, xây dựng nếp sống có văn hoá ở các trường, các đơn vị.
Bồi dưỡng, đào tạo các giáo viên về trình độ chính trị, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng, của Công đoàn, Đoàn Thanh niên cũng như kiện toàn bộ máy quản lý của các trường là công tác có ý nghĩa quan trọng, rất bức thiết đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Ban Khoa giáo Trung ương và các cơ quan có trách nhiệm cần có kế hoạch chu đáo nhằm chấn chỉnh, tăng cường công tác này thật cụ thể. Các đảng uỷ, các Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên ở các trường cần chăm lo cải tiến sinh hoạt của Đoàn và các bộ môn ở các trường, chú trọng đến nội dung giáo dục, nhằm phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt tiêu cực trong cán bộ, học sinh.
ở các đơn vị công an nhân dân, các tổ chức cơ sở đảng phải thực sự được củng cố trong sạch, vững mạnh; phải tiêu biểu cho ý chí kiên cường, bất khuất, cho tinh thần cảnh giác cách mạng triệt để, cho tính tổ chức kỷ luật cao, luôn luôn xứng đáng là đội tiên phong chiến đấu kiên cường của giai cấp công nhân ở đơn vị cơ sở. Tổ chức sự chỉ đạo của tổ chức đảng trong lực lượng công an nhân dân cần được Trung ương quy định cho phù hợp với đặc điểm của công an nhân dân.
ở các cơ quan trung ương cần định rõ nội dung, yêu cầu để bảo đảm chất lượng kiểm tra của các đảng bộ cơ quan và kiện toàn bằng được các đảng uỷ để làm tròn trách nhiệm theo yêu cầu mới.
Các đảng bộ cơ quan trung ương nói chung vừa chịu sự chỉ đạo của Trung ương trên các vấn đề lớn, nhất là về quán triệt đường lối, chính sách, quan điểm trong công tác chung và của cơ quan, chịu sự chỉ đạo của cấp uỷ địa phương ở nơi cơ quan đóng về công tác đảng vụ, công tác quần chúng, về việc chấp hành các chính sách được thực hiện ở địa phương. Các ban phụ trách từng khối phải giúp Trung ương trong việc giúp đỡ, hướng dẫn, kiểm tra các hoạt động của tổ chức đảng ở cơ quan gắn với công tác quản lý cán bộ. Ban Bí thư Trung ương Đảng cần phân công người và cơ quan có trách nhiệm kịp thời và theo chế độ mà phổ biến, truyền đạt trực tiếp cho các đảng uỷ cơ quan trực thuộc những vấn đề quan trọng về thời sự, chính sách và các nghị quyết, chỉ thị quan trọng của Đảng. Cần tổng kết kinh nghiệm việc đưa đảng viên ở các cơ quan về tham gia sinh hoạt, công tác ở các phường theo quyết định của Ban Bí thư. Cần quy định rõ và thiết thực hơn trách nhiệm của đảng viên đối với công tác xã hội, coi đó là một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng đảng viên. Trung ương sẽ tổng kết để giải quyết những mắc mứu hiện nay trong tổ chức hệ thống chỉ đạo các đảng bộ cơ quan trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc, và có những hình thức tổ chức linh hoạt để giải quyết những chỗ hiện còn chưa hợp lý.
Việc kiện toàn các đảng uỷ cơ sở và trước hết là việc bố trí đúng bí thư và các uỷ viên thường vụ có tầm quan trọng quyết định đối với việc nâng cao chất lượng lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng; Ban Bí thư Trung ương Đảng căn cứ vào số lượng đảng viên, số lượng lao động và tầm quan trọng của các đơn vị cơ sở để định chế độ bí thư chuyên trách. ở những nơi đó, đồng chí nào được cử làm bí thư sẽ thôi giữ chức vụ khác của Nhà nước và các đoàn thể. Việc xếp lương của các bí thư chuyên trách, và các chính sách, chế độ đãi ngộ đối với các đồng chí đó phải do cơ quan đảng quyết định. Bí thư đảng bộ ở các bộ, tổng cục (hoặc sở) phải được các ban của Đảng xem xét để báo cáo với Ban Bí thư (hoặc với cấp uỷ) những trường hợp cần thay đổi.
Các đảng uỷ cơ sở được thành lập các ban tổ chức, tuyên huấn; thành viên của các ban này nói chung được chọn trong số đảng viên có tín nhiệm, có năng lực hoạt động kiêm chức. ở các xí nghiệp, đảng uỷ cơ sở cần lập các tiểu ban hoặc tổ kiểm tra để giúp cấp uỷ thực hiện chức năng kiểm tra hoạt động của thủ trưởng và cơ quan quản lý.
5. Nâng cao tính chiến đấu và vai trò tiên phong của đảng viên, xây dựng đội ngũ đảng viên trong sạch, vững mạnh
Đảng ta hiện có 1.727.784 đảng viên1 bao gồm những chiến sĩ ưu tú đã được kết nạp vào Đảng qua nhiều thế hệ cách mạng trong hơn nửa thế kỷ qua.
Chúng ta đánh giá cao đội ngũ của Đảng với bản chất cách mạng tốt đẹp, sự hy sinh phấn đấu và sự từng trải của đông đảo đảng viên, dù đã tham gia cách mạng ở thời kỳ nào. Trong bước chuyển biến của cách mạng vừa qua, nhiều đảng viên đã giữ vững phẩm chất cách mạng, nhanh chóng nâng cao năng lực công tác, xứng đáng là chiến sĩ tiên phong, được quần chúng tin yêu, mến phục. Sự vững vàng của đông đảo đảng viên trước bước ngoặt lịch sử và trước những khó khăn to lớn vừa qua nói lên lòng trung thành và sự từng trải của đội ngũ của Đảng. Song trong đội ngũ của Đảng hiện nay, ngoài một số đã thoái hoá biến chất nhưng chưa được đưa ra khỏi Đảng, còn một bộ phận đảng viên không thể hiện ở mức tối thiểu vai trò của người cộng sản cả về lý tưởng và về hành động, trong đó có một số không ít người thực sự đã mất ý chí chiến đấu. Bộ phận này xét không xứng đáng với danh hiệu đảng viên và đang hạn chế đáng kể sức chiến đấu của nhiều đảng bộ.
Đảng viên dù ở cương vị công tác nào cũng đều phải là những chiến sĩ cộng sản có lý tưởng và hành động theo đường lối của Đảng.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng qua các phong trào quần chúng và qua công tác phát thẻ Đảng, chúng ta đã nâng một bước chất lượng đảng viên và đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng. Tuy vậy, việc này ở nhiều nơi chưa được tiến hành kiên quyết do những nhận thức không đúng đắn về tiêu chuẩn đảng viên, do cảm tình nể nang, do sự chỉ đạo thiếu chặt chẽ của các chi uỷ, đảng uỷ và các cơ quan có trách nhiệm cấp trên... Các cấp uỷ tỉnh, thành phố cần tiến hành kiểm tra công tác phát thẻ Đảng và chỉ đạo tốt việc tổng kết công tác này ở từng chi bộ, từng tổ chức cơ sở đảng. Nơi nào phát thẻ Đảng rồi nhưng chưa làm tốt thì phải đưa ra chi bộ xem xét lại lấy ý kiến của quần chúng và thu hồi lại thẻ Đảng đối với những người đã được phát thẻ không đúng.
Việc tiến hành tổng kết công tác phát thẻ Đảng phải là một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn trong toàn Đảng, được tiến hành từ chi bộ trở lên, trên cơ sở quán triệt Nghị quyết của Đại hội lần thứ V về công tác đảng viên. Trong cuộc sinh hoạt chính trị này, chúng ta sẽ kiện toàn tốt các đảng uỷ, phát huy dân chủ nội bộ để kiểm tra tư cách đảng viên, biểu dương những tiến bộ của đảng viên từ sau khi nhận thẻ Đảng và tiếp tục nâng cao chất lượng đảng viên, đưa người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng.
Cần kiên quyết đưa ra khỏi Đảng tất cả những phần tử xấu hư hỏng, cơ hội, thoái hoá, biến chất, tê liệt ý chí cách mạng, không còn tín nhiệm với quần chúng. Cũng cần đưa ra khỏi Đảng những người ý chí chiến đấu sa sút, bạc nhược, chỉ chăm lo vun vén cho gia đình bản thân mà không làm nhiệm vụ được giao hoặc làm một cách chiếu lệ, cốt để có danh nghĩa đảng viên, không còn tác dụng lãnh đạo quần chúng. Không vì lý do gì mà để lại trong Đảng những người như vậy, dù trong quá khứ họ có thành tích, dù họ không phạm sai lầm gì về tư cách của người công dân.
Đã từ lâu, chúng ta kiên trì giáo dục số đảng viên này; giữ gìn tình cảm của Đảng đối với các đồng chí đó là cần thiết, song tình cảm cao nhất vẫn phải vì lợi ích của Đảng, của cách mạng. Nếu cứ tiếp tục để những đảng viên như thế ở trong Đảng thì chỉ làm giảm sức chiến đấu của Đảng, làm hạ thấp uy tín của tổ chức đảng. Việc đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng phải làm một cách kiên quyết và được chỉ đạo chặt chẽ. Nếu phải đưa ra nhiều người thì cũng phải kiên quyết làm không do dự; làm như vậy chắc chắc Đảng ta sẽ mạnh lên, công tác lãnh đạo của Đảng sẽ tốt hơn, lòng tin của quần chúng đối với Đảng sẽ tăng thêm.
Đối với những đảng viên do trình độ thấp, sức khoẻ kém, chúng ta cần có biện pháp kiên trì, giúp đỡ để tiến bộ; cần phân công hợp lý cho các đồng chí đó, cử đồng chí khá giúp đỡ tận tình. Còn đối với những đảng viên trình độ giác ngộ quá thấp, qua giáo dục của tổ chức đảng vẫn không tiến bộ thì phải đưa ra khỏi Đảng.
Không được lầm lẫn những người ý chí sa sút, không còn đủ tư cách đảng viên với các đồng chí tuổi già sức yếu thương tật, v.v. mà không còn đủ sức làm việc cần được nghỉ ngơi, an dưỡng. Đối với các đồng chí này, yêu cầu chính vẫn là giữ vững phẩm chất cách mạng.
Công tác phát triển Đảng là một việc phải làm thường xuyên, kịp thời. Chúng ta phải tích cực chỉ đạo việc kết nạp vào Đảng những người ưu tú trong phong trào quần chúng, nhất là những công nhân đã được giác ngộ về lý tưởng của Đảng, được bồi dưỡng, thử thách, có trình độ chính trị, có kiến thức văn hoá, khoa học, kỹ thuật và quản lý.
Công tác phát triển Đảng từ sau khi có Chỉ thị 72 của Ban Bí thư đã có những tiến bộ theo hướng bảo đảm chất lượng đảng viên. Với Chỉ thị đó, Đảng đã sửa được một bước những khuyết điểm về phương hướng giai cấp, về phương pháp và thủ tục. Song nhìn chung công tác phát triển Đảng vẫn còn chậm trễ, có địa phương hầu như đóng cửa Đảng, không kết nạp được bao nhiêu đảng viên mới. Nhiều cơ sở ở các tỉnh miền Nam và vùng rẻo cao miền núi có rất ít đảng viên nhưng vẫn không kết nạp đảng viên mới. Trong số đảng viên được kết nạp từ sau Đại hội lần thứ IV của Đảng, thì 59% đã được kết nạp trong quân đội.
Cần nhấn mạnh phải coi trọng hơn nữa việc xây dựng đội ngũ của Đảng trong giai cấp công nhân. Rất nhiều tỉnh, thành phố và khu công nghiệp đã phạm khuyết điểm ít chú trọng bồi dưỡng để kết nạp những công nhân ưu tú vào Đảng, thiếu kiểm tra đôn đốc rút kinh nghiệm để chỉ đạo công tác này, thiếu uốn nắn những nhận thức lệnh lạc đối với công nhân, nhất là đối với công nhân đã làm việc dưới chế độ cũ.
Sắp tới, ở các thành phố khu công nghiệp, việc kết nạp đảng viên mới chủ yếu phải từ trong công nhân. Nhiều đơn vị văn hoá, văn nghệ, cơ quan nghiên cứu khoa học ít kết nạp vào Đảng những văn nghệ sĩ, những chuyên gia về văn học, nghệ thuật, những nhà khoa học, các cán bộ có tài năng, có nhiều cống hiến và gắn bó với Đảng. Cần sửa chữa các khuyết điểm đó. ở các đơn vị này việc kết nạp đảng viên mới phải nhằm vào các đối tượng nói trên đây.
Cần khắc phục tình trạng có nơi chỉ kết nạp vào Đảng những người "tròn trĩnh", "dễ bảo", ngược lại có thành kiến và không dám bồi dưỡng để kết nạp những người trung thực, dám phê bình những khuyết điểm của đơn vị, của người phụ trách.
Các huyện uỷ, quận uỷ, các đảng uỷ cơ sở cần phát hiện ra những người trung thực đã dám vì sự nghiệp chung mà vạch trần khuyết điểm bảo vệ chân lý, và có biện pháp bồi dưỡng giáo dục để kết nạp họ vào Đảng khi có đủ tiêu chuẩn. Phải đưa công tác phát triển Đảng đi vào nền nếp và có quy hoạch, kế hoạch gắn liền với việc nâng cao chất lượng giáo dục sinh hoạt và hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên đòi hỏi phải tiến hành đồng thời cả ba biện pháp: đưa người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng, kết nạp đảng viên mới và giáo dục bồi dưỡng đảng viên qua công tác, qua học tập, phê bình tự phê bình và sinh hoạt của Đảng.
Đặc biệt cần nhấn mạnh phải nâng cao chất lượng của sinh hoạt chi bộ, duy trì đều đặn chế độ sinh hoạt chi bộ. Chi bộ phải thật sự là nơi thảo luận một cách kỹ lưỡng các vấn đề về đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng, nơi quán triệt và bàn biện pháp chấp hành triệt để nghị quyết của Đảng, nơi đấu tranh về quan điểm và nguyên tắc để bảo vệ đường lối và tổ chức của Đảng, nơi rèn luyện đảng viên về ý chí cách mạng, về năng lực lãnh đạo. Không được lẫn lộn sinh hoạt của chi bộ với sinh hoạt của công đoàn của cơ quan hành chính, chuyên môn nghiệp vụ, hoặc của tổ chức sản xuất. Phải thực hiện phê bình và tự phê bình thẳng thắn và trên tinh thần đồng chí trong chi bộ trên những vấn đề về đường lối, chính sách, nguyên tắc tổ chức của Đảng, phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên. Không nên tích luỹ những thiếu sót cụ thể có thể giúp nhau sửa chữa hằng ngày để đưa ra phê bình ở hội nghị chi bộ.
Để nâng cao chất lượng đảng viên, một vấn đề mấu chốt là phải nâng cao chất lượng của cán bộ chủ chốt ở các đơn vị cơ sở. Các đảng ủy, trước hết là các bí thư đảng uỷ, bí thư chi bộ phải thật sự có đủ phẩm chất và năng lực; phải được sự bồi dưỡng chỉ đạo và kiểm tra thường xuyên của tổ chức đảng cấp trên; phải chịu sự giám sát và phê bình kịp thời của tập thể cấp uỷ, của đảng viên và quần chúng. Ban Bí thư Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo chương trình bồi dưỡng hằng năm cho bí thư đảng uỷ cơ sở và một số đảng uỷ viên về những vấn đề chung cần thiết cho sự lãnh đạo của Đảng và giao cho các tỉnh uỷ, thành uỷ hướng dẫn thêm các nội dung mà địa phương thấy cần quan tâm. Ban Tuyên huấn Trung ương phối hợp với các ban để soạn chương trình bồi dưỡng này.
6. Theo quy hoạch cán bộ, đào tạo, bố trí đúng và đổi mới đội ngũ cán bộ chủ chốt từ trên xuống dưới
Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc càng phức tạp, vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng thì vị trí quyết định của công tác cán bộ, đặc biệt là của việc bồi dưỡng đào tạo, bố trí đội ngũ cán bộ chủ chốt càng lớn. Kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ rõ, sự chính xác của đường lối, chính sách và thành công của việc thực hiện đường lối, chính sách ấy đều tuỳ thuộc cuối cùng ở chất lượng của công tác cán bộ.
Đảng ta đã thành công trong việc đào tạo, bố trí đội ngũ cán bộ chủ chốt tuyệt đối trung thành với cách mạng, đáp ứng các yêu cầu của cách mạng dân tộc dân chủ; song, chuyển sang giai đoạn mới, sự chậm trễ trong việc bồi dưỡng, bố trí cán bộ theo yêu cầu của lãnh đạo và quản lý kinh tế - xã hội, đang là một khuyết điểm lớn.
Sự chuyển hướng của giai đoạn cách mạng, sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế sang phương thức hạch toán và kinh doanh xã hội chủ nghĩa càng đòi hỏi phải gấp rút bồi dưỡng và bố trí cán bộ theo yêu cầu mới. Chúng ta phải làm việc đó một cách khẩn trương, nhưng phải theo một trình tự thích ứng với tính khoa học của quá trình đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đi lên một cách có kế hoạch.
 a) Trước hết phải thường xuyên chăm lo xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Muốn có đủ cán bộ có chất lượng để chủ động đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ thì vấn đề cơ bản là phải có quy hoạch cán bộ, trên cơ sở đó có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo yêu cầu trước mắt và lâu dài, không phải chỉ 5 năm, 10 năm mà còn xa hơn nữa. Đây là khâu trung tâm của toàn bộ công tác cán bộ. Đối với cán bộ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nguồn đào tạo chính là từ cán bộ đã qua thực tiễn công tác, sản xuất, chiến đấu từ cơ sở lên, từ trong phong trào và công tác thực tế của từng ngành mà lựa chọn những người có triển vọng để đưa đi bồi dưỡng, đào tạo. Nhìn một cách xa hơn, phải tạo ra một nguồn dự trữ rộng rãi ngay từ khi tuyển sinh vào các trường Đảng và các trường đại học để đào tạo thành cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ kinh tế, kỹ thuật ở cơ sở. Theo chủ trương của Đảng, làm kế hoạch chiêu sinh về cơ bản cũng là làm kế hoạch phân phối, phải đổi mới phương pháp tuyển sinh vào các trường đào tạo nói trên. Đào tạo cho cấp nào, địa phương nào, ngành nào cần chú trọng lấy ngay những cán bộ, công nhân, xã viên ở ngành đó, địa phương đó, đã qua thử thách trong phong trào quần chúng và đã làm tròn nghĩa vụ quân sự nếu là thanh niên. Phải chú trọng khắc phục tình trạng mất cân đối trong việc đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật. Khắc phục tình trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách tràn lan, không tính toán hiệu quả. Coi trọng đào tạo cán bộ từ công nhân, nữ, người dân tộc, cán bộ tại chỗ cho địa phương, cơ sở, nhất là ở miền Nam, miền núi. Có chính sách chế độ, biện pháp cụ thể thích hợp để nhanh chóng đào tạo đội ngũ này.
Bên cạnh việc đào tạo cán bộ mới, phải khẩn trương có kế hoạch bồi dưỡng cho số cán bộ chủ chốt đương chức chưa được học tập theo một chương trình thích hợp với từng vùng, từng miền. Có kế hoạch bổ túc những vấn đề mới về lý luận, đường lối, chính sách, quản lý kinh tế, những phát triển mới về khoa học - kỹ thuật cho cán bộ lãnh đạo.
Chú ý khắc phục tình trạng xem nhẹ việc bồi dưỡng cho học viên, cán bộ trong các trường Đảng về phong cách làm việc, phương pháp lãnh đạo, các quy tắc sinh hoạt của Đảng, về cơ chế tổ chức, chế độ làm việc và cách tiến hành công việc của người cán bộ lãnh đạo.
Cần kiên quyết đưa cán bộ chủ trì và cán bộ dự bị đi bồi dưỡng trước theo kế hoạch, chấm dứt tình trạng cử cán bộ thứ yếu đi thay chỉ vì lý do "bận việc".
b) Khẩn trương sắp xếp, bố trí lại cán bộ. Cần có một sự quyết đoán dứt khoát để thực hiện những sự thay đổi về tổ chức và nhân sự đã rõ là không đáp ứng được nhiệm vụ, trước hết đối với cán bộ chủ trì ở các cấp, các ngành và ở các cơ quan, đơn vị quan trọng
Cán bộ lãnh đạo ở mọi cấp, mọi ngành, theo cách nhìn của quần chúng, chính là người đại diện cho Đảng, bảo đảm cho đường lối của Đảng được thực hiện và là người thể hiện hiệu lực của Nhà nước chuyên chính vô sản. Sự đổi mới trong cơ chế quản lý kinh tế đặt ra cho sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước những yêu cầu mới rất cao. Tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực đối với cán bộ lãnh đạo do đó có bước phát triển mới rất cao về chất lượng. Việc đòi hỏi phải có một sự đổi mới về chất lượng trong đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành do đó là một tất yếu khách quan.
Lâu nay, cán bộ thường thiếu tin tưởng vào hiệu lực của các nghị quyết chính là vì trong khâu thực hiện nghị quyết, chúng ta thường thiếu quyết tâm, thiếu dứt khoát, nhất là trong việc thay đổi, bố trí lại số cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt của các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở đã rõ là không tương xứng với cương vị đang đảm nhiệm.
Một thời gian dài trước đây, khi bố trí cán bộ chủ chốt, chúng ta thường có khuyết điểm hay chuyển cán bộ từ vị trí này sang vị trí khác ở cấp tương đương, ngay cả khi người cán bộ có khuyết điểm hoặc chuyển cán bộ từ ngành này sang ngành khác, ít chú trọng đề bạt cán bộ trong ngành từ dưới lên, khiến cho nhiều cán bộ làm việc không có hiệu quả, không phù hợp với khả năng công tác; nhiều trường hợp lại thay đổi luôn làm cho cán bộ chưa kịp phát huy tác dụng.
Sự bố trí đó dẫn đến cán bộ không chuyên sâu, không bảo đảm các nhiệm vụ lãnh đạo và quản lý.
Việc bố trí cán bộ vẫn còn bị ảnh hưởng bởi những quan điểm phong kiến về cấp bậc, chức vụ trong Đảng và trong bộ máy nhà nước, bởi những nhận thức chủ quan do không hiểu người và hiểu việc, bởi sự quan liêu và cũ kỹ trong công tác quản lý cán bộ.
Phải kiên quyết thực hiện Nghị quyết số 10 NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ­ương1) và Nghị quyết số 32 NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác tổ chức; nắm thật vững quan điểm "phải hoàn toàn xuất phát từ công việc, từ yêu cầu của kinh tế - kỹ thuật mà đặt tổ chức, bố trí cán bộ".
Chúng ta cần xác định rõ tiêu chuẩn cán bộ theo từng chức danh. Có tiêu chuẩn cán bộ rõ ràng, chúng ta sẽ dành thời gian cần thiết và tạo điều kiện cho những cán bộ có khả năng đáp ứng tiêu chuẩn ấy vươn lên làm tốt công việc được giao. Đối với những đồng chí đã rõ là không đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ thì cần kiên quyết và nhanh chóng đưa xuống hoặc bố trí sang một công tác thích hợp hơn; nếu đã tới tuổi hưu thì để nghỉ hưu; không vì "chính sách cán bộ" mà để giữ chức vụ cũ, hoặc vì "chính sách cán bộ" mà tìm cách bố trí "vị trí tương xứng" cho cán bộ. Cần coi "có lên, có xuống" là việc bình thường trong bố trí cán bộ; phải đặt lợi ích công việc lên trên hết, không nên vì nể nang, cảm tình mà do dự trong việc bố trí cán bộ để ảnh hưởng không tốt đến công việc. Những cán bộ có phẩm chất và có năng lực xét thật sự có thể đảm đương được nhiệm vụ mới thì đề bạt vượt cấp.
Trong tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, của Nhà nước ở các cấp, các ngành, các đơn vị, chúng ta cần chú ý đầy đủ đúng mức đến tiêu chuẩn chính trị, tiêu chuẩn chuyên môn và khả năng lãnh đạo, nhưng phải lấy hiệu quả công việc làm thước đo cuối cùng của tiêu chuẩn.
Sự tuyệt đối trung thành với cách mạng, sự nhất trí với đường lối của Đảng là đòi hỏi hết sức cần thiết đối với mọi cán bộ của Đảng và Nhà nước. Đối với cán bộ lãnh đạo, ngoài nội dung đó, tiêu chuẩn chính trị còn phải thể hiện ở trình độ chính trị và mẫu mực về đạo đức xã hội chủ nghĩa, mà điều cần nhấn mạnh là đức tính liêm khiết, sự thẳng thắn đấu tranh chống tiêu cực; không được đặt lợi ích của cá nhân, của gia đình, của bè bạn lên trên lợi ích của tập thể và của toàn xã hội; không đặt lợi ích cục bộ, của địa phương lên trên lợi ích của Nhà nước, của toàn xã hội.
Đã là cán bộ lãnh đạo của Đảng, của Nhà nước, thì đều phải có kiến thức chuyên môn, trình độ quản lý kỹ thuật, nghiệp vụ tuỳ theo tính chất và cương vị công tác. Trong điều kiện mới, việc xem xét bằng cấp và học lực đã qua là cần thiết, nhưng không được máy móc, chỉ thiên về bằng cấp, mà còn phải xem xét kinh nghiệm và khả năng thực tế và cả kiến thức tự học của cán bộ.
Về khả năng lãnh đạo, phải chú trọng khả năng điều hành bộ máy, tập hợp được cán bộ và lao động dưới quyền, tinh thần dám quyết định và dám chịu trách nhiệm để hoàn thành nhiệm vụ.
Cần có biện pháp kết hợp các loại cán bộ cũ và mới để hạ thấp tuổi đời bình quân hiện còn cao của đội ngũ cán bộ chủ chốt, bảo đảm tính kế thừa trong xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở mỗi cấp, mỗi ngành. Cần làm trẻ đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, mạnh dạn đề bạt những nhân tài, những cán bộ có triển vọng từ dưới lên, nhất là cán bộ trưởng thành từ cơ sở. Khắc phục thiên hướng bảo thủ, cũ kỹ, không vì việc mà bố trí người. Kiên quyết xoá bỏ tình trạng thiếu tin ở cán bộ, giao cho cán bộ chủ chốt kiêm nhiệm nhiều chức vụ chỉ vì "uy tín" cá nhân, dẫn đến làm việc không thực chất và nhiều việc không có người chuyên trách.
Các thứ trưởng không kiêm giám đốc các đơn vị sản xuất - kinh doanh, các bí thư đảng uỷ không được kiêm giám đốc.
Phải mạnh dạn thay đổi ngay những cán bộ chủ trì ở những cơ quan, đơn vị hiện không đủ sức tiếp thu đường lối, chính sách của Đảng và những người thực sự không còn đủ sức để điều hành công việc một cách sâu sát, nhạy bén, có hiệu quả.
c) Vấn đề không kém phần quan trọng là phải đổi mới phương pháp chọn và quản lý cán bộ. Việc đổi mới công tác này phải theo các nguyên tắc: bảo đảm sự lãnh đạo và quyền quyết định tập thể của tổ chức đảng đối với việc đề bạt cán bộ chủ chốt, thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc đề bạt, lựa chọn, thi hành kỷ luật đối với cán bộ; quản lý người phải gắn với quản lý và kiểm tra công việc, có thái độ khách quan nghiêm túc trong đánh giá cán bộ, tiếp xúc với cán bộ và kịp thời giúp cán bộ phát huy ưu điểm, sửa chữa các khuyết điểm. Cần chống quan liêu hình thức trong việc quản lý cán bộ.
Bố trí, đề bạt cán bộ phải theo quy chế kết hợp giữa tự phê bình của cán bộ với nhận xét của cơ quan quản lý cán bộ, tham khảo ý kiến của cán bộ, đảng viên và quần chúng biết người, hiểu việc, nhất là cán bộ dưới quyền có quan hệ mật thiết, và tập thể có thẩm quyền quyết định. Chú trọng lấy ý kiến dân chủ để tham khảo cả khi "đưa lên và đưa xuống", nhưng phải xem xét kỹ nội dung các ý kiến, không máy móc, đơn giản, nhất là ở nơi nội bộ có vấn đề bè phái.
Phải đổi mới chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức, kiện toàn các ban, nhất là ban tổ chức các cấp và các vụ, các phòng tổ chức ở các ban, các bộ, các sở, các tổ chức sản xuất, kinh doanh, giao cho các ban giúp cấp uỷ quản lý cán bộ chủ chốt ở từng lĩnh vực, có sự phối hợp của Ban Tổ chức Trung ương và các cấp. Người phụ trách công tác ở từng bộ phận phải trực tiếp quản lý cán bộ dưới quyền; cán bộ lãnh đạo phải trực tiếp giúp đỡ cán bộ, tìm ra và bồi dưỡng cán bộ có tài.
Các chi bộ, các ban chấp hành Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ phải phát hiện các nhân tài ở địa phương, đơn vị, ngành, giới mình để đề nghị với Trung ương và cấp uỷ lựa chọn và có kế hoạch bồi dưỡng. Việc này cần phải được quy định thành chế độ.
d) Để đáp ứng sự đổi mới trong công tác bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ, cần đổi mới một cách có hệ thống các chính sách, chế độ đãi ngộ khen thưởng đối với cán bộ cho phù hợp với cơ chế quản lý mới và với vị trí mới của các tổ chức, nhằm khuyến khích phát triển tài năng của cán bộ. Đảng phải chú trọng chăm lo đời sống tinh thần và vật chất của cán bộ hoạt động lâu năm, cán bộ có công lao, cán bộ nghỉ hưu, bằng các chính sách, chế độ, thể hiện sự tôn trọng, tình cảm và sự chăm sóc của Đảng, của nhân dân đối với các đồng chí đó; phải có tổ chức để thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các chính sách, chế độ ấy. Phải có chính sách, chế độ cụ thể nhằm phát huy tác dụng lâu dài của các chuyên gia giỏi về mọi lĩnh vực. Khắc phục những quan điểm phong kiến trong việc nghiên cứu và chấp hành chính sách, chế độ. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở là một chính sách lớn của Đảng; các chính sách chế độ đãi ngộ đối với cán bộ cơ sở cần được đổi mới cho phù hợp với tầm quan trọng của các đơn vị cơ sở.
7. Phải đổi mới phương pháp làm việc, xây dựng phong cách làm việc lêninnít của Đảng. Đây là một vấn đề lớn trong công tác lãnh đạo của Đảng ta. Thực tế đã chỉ rõ, phương pháp và chế độ làm việc đúng là một yếu tố đặc biệt trọng yếu để bảo đảm tính chính xác của việc ra các quyết định và biến nó thành hiện thực.
a) Trước hết phải dứt khoát đổi mới phương pháp chuẩn bị và ra các quyết định, nhất là đối với các vấn đề kinh tế, theo hướng nâng cao tính khoa học trong phương pháp làm việc.
Điều cốt yếu để đề ra các quyết định chính xác là phải nắm chắc tình hình thực tế, bảo đảm thông tin chính xác. Điều đó đòi hỏi không phải chỉ có sự sâu sát thực tế của cán bộ lãnh đạo, mà còn đòi hỏi phải hết sức coi trọng kiện toàn tổ chức, đổi mới cách nghiên cứu và nắm tình hình của các cơ quan tham mưu. Các cơ quan nghiên cứu phải tổng hợp tình hình, xử lý thông tin để đề ra phương án dựa trên cơ sở thông tin chính xác. Cơ quan, bộ phận thông tin tổng hợp phải thông tin nhanh, chọn lọc thông tin để thông báo, báo cáo kịp thời giúp cho cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo việc nghiên cứu và giải quyết các vấn đề một cách đích đáng. Phải coi trọng ý kiến của quần chúng, tổng hợp được ý kiến của cấp dưới.
Việc chuẩn bị các quyết định quan trọng phải dựa trên cơ sở nghiên cứu các phương án khác nhau, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có trách nhiệm ở các cấp, các ngành, sử dụng rộng rãi thành quả nghiên cứu của các viện, lấy ý kiến của những người am hiểu vấn đề. Những vấn đề mới, phức tạp và đặc biệt quan trọng cần được Bộ Chính trị, Ban Bí thư trực tiếp chỉ đạo làm thử, lấy kết quả thực tế của việc làm thử mà ra quyết định.
Phải chuẩn bị kỹ đến mức trước khi ra quyết định, về cơ bản đã rõ lý lẽ để nhất trí hoặc lựa chọn các phương án. Trường hợp chưa nhất trí thì phải thảo luận triệt để, không vì nể nang, e dè mà dung hoà ý kiến, ra quyết định nửa vời, gây nên tác hại về nhiều mặt: hiểu và thực hiện nghị quyết không thống nhất, gây phân tán, làm giảm hiệu lực của kỷ luật chấp hành quyết định.
Phải coi trọng tạo điều kiện để các quyết định của Đảng và Nhà nước được dựa trên cơ sở phân tích khoa học. Các kế hoạch, chính sách, chủ trương kinh tế phải được xét toàn diện, sâu sắc, tính toán cụ thể. Phải đẩy mạnh điều tra cơ bản, tăng cường công tác thống kê, nắm chắc tình hình, phân tích tình hình để phục vụ cho yêu cầu của lãnh đạo.
Phải xây dựng từ trên xuống dưới quy trình ra quyết định theo tinh thần bảo đảm không ra quyết định khi chưa có thông tin đầy đủ, không ra quyết định khi chưa có phương án tính toán hiệu quả, không ra quyết định khi chưa tuân thủ các thủ tục để ra quyết định.
b) Ra quyết định đúng chỉ mới đặt cơ sở cho phương hướng hành động. Vấn đề trọng yếu là tổ chức thực hiện các quyết định để biến nó thành hiện thực. Nếu xem việc nghiên cứu ra quyết định là một thì việc tổ chức thực hiện phải là mười. Kiên quyết khắc phục tình trạng đánh trống bỏ dùi, thỏa mãn với việc ra các quyết định. Phải có kế hoạch thi hành nghị quyết, phân công rõ người, cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện, định thời gian hoàn thành, định rõ người và cơ quan theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện. Những nghị quyết lớn của Đảng phải được cụ thể hóa kịp thời thành các chính sách, chủ trương, biện pháp cụ thể về mặt Nhà nước để triển khai việc thi hành nghị quyết được nhanh chóng. Những vấn đề chưa có kinh nghiệm thì phải chỉ đạo thí điểm trước khi mở rộng ra diện.
Nghệ thuật lãnh đạo và quản lý là phải biết tập trung sức và sự chú ý vào chỗ nào, vào khâu nào; phải đặc biệt coi trọng công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, khen thưởng, kỷ luật kịp thời.
c) Sự đổi mới phương pháp ra quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định theo yêu cầu trên đây là một bộ phận quan trọng của phương pháp và phong cách làm việc lêninnít. Chúng ta còn phải làm nhiều việc để thực hiện bằng được phong cách này trong cải tiến sự lãnh đạo của Đảng.
Phải nắm vững hơn nữa yêu cầu thực hiện sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, giữa lời nói với việc làm, giữa chính sách và tổ chức. Sự tách rời nghiêm trọng hiện nay giữa các mặt đó là một nguyên nhân quan trọng của tình trạng kém hiệu lực trong tổ chức thực hiện.
Phải thực hiện sự thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học trong mọi công việc, gắn nhiệt tình cách mạng với hành động có tổ chức và với phương pháp tốt. Đảng phải đào luyện cho đội ngũ cán bộ một nếp suy nghĩ thiết thực, cụ thể, một thói quen làm việc có tính toán hiệu quả. Phải gấp rút bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo về khoa học lãnh đạo và khoa học quản lý.
Phải làm việc theo chức trách và chế độ công tác, không được tuỳ tiện làm theo ý riêng của từng người phụ trách. Từ trung ương xuống các cấp đều phải xây dựng và sử dụng tốt tổ chức. Bộ máy phải tinh, người điều hành phải thật sự là người có năng lực, có kiến thức. Trên cơ sở chức trách chế độ công tác, phải kiểm điểm việc thực hiện các quyết định, có biểu dương, khen thưởng và kỷ luật kịp thời.
Phải thực sự thực hiện phong cách tự phê bình trong Đảng và trước quần chúng; thực sự bàn bạc với dân cách giải quyết các khó khăn trong quá trình quản lý để đưa phong trào liên tục đi lên. Phải định kỳ ba tháng hoặc sáu tháng và khi có công tác lớn, thực hiện chế độ hỏi dân, lấy ý kiến của dân, tổ chức cho quần chúng phê bình cán bộ, đảng viên và cơ quan của Đảng, của Nhà nước. Phải nghiêm túc phân tích dư luận xã hội để kịp thời đề ra các chủ trương chính sách.
8. Coi trọng và luôn luôn tăng cường công tác kiểm tra của Đảng
Công tác kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng, một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, nhất là trong hoàn cảnh Đảng lãnh đạo chính quyền.
Hiệu lực tổ chức chỉ đạo thực hiện đòi hỏi phải hết sức coi trọng và tăng cường công tác giám sát và kiểm tra việc thực hiện các quyết định. Phải có chương trình và kế hoạch tổ chức công tác kiểm tra một cách chu đáo. Trong chương trình công tác của Ban Bí thư Trung ương Đảng và của Ban Thường vụ các cấp uỷ phải có chương trình kiểm tra.
Cần tăng cường công tác kiểm tra của Đảng. Công tác này phải được nâng lên trình độ khoa học, bảo đảm kịp thời, chính xác và có hiệu quả cao.
Đây là một công tác trọng yếu mà các cấp uỷ, các Uỷ ban kiểm tra và các ban của Đảng phải tiến hành một cách có kế hoạch.
Việc kiểm tra các vấn đề chung về chấp hành đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng để đôn đốc, uốn nắn việc chấp hành phải do cấp uỷ và các ban theo chức trách và phạm vi công tác của mình bảo đảm.
Công tác kiểm tra các vụ đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng nhằm vào các vụ vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật nhà nước, tư cách đảng viên; kiểm tra việc thi hành kỷ luật trong Đảng, kiểm tra tài chính của Đảng, v.v. theo quy định của Điều lệ Đảng, phải do Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và các cấp thực hiện. Công tác này có ý nghĩa rất trọng yếu để giữ gìn kỷ luật của Đảng, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh, trong sạch. Phải coi trọng kiện toàn Uỷ ban kiểm tra các cấp.
Mọi việc đều phải được kiểm tra chặt chẽ, mọi ngành đều phải tăng cường công tác kiểm tra của mình.
Nâng cao chất lượng và hiệu lực công tác kiểm tra của Đảng phải gắn chặt với nâng cao hiệu lực công tác kiểm tra của Nhà nước và công tác kiểm tra có tính chất quần chúng, của mạng lưới kiểm tra nhân dân. Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không có lãnh đạo.
Kết luận
Coi trọng chất lượng và hiệu quả của công tác xây dựng Đảng
Thưa các đồng chí,
Những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam cũng là thắng lợi của công tác xây dựng Đảng. Chúng ta có sáng tạo trong công tác này, đã đạt những kết quả và có những kinh nghiệm quý báu về mặt này. Rất nhiều cấp uỷ, chi bộ, đảng bộ, đảng viên trong công tác thực tế đã sáng tạo ra những kinh nghiệm quý về công tác tư tưởng và công tác tổ chức.
Chúng ta khẳng định những ưu điểm cơ bản của Đảng và của đội ngũ cán bộ, đảng viên, song cũng thấy rõ những nhược điểm, khuyết điểm rất lớn của Đảng và của công tác xây dựng Đảng, nhất là ở các lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Thực tế tình hình công tác tư tưởng và tổ chức của Đảng hiện nay nói lên rằng chất lượng và hiệu quả của công tác xây dựng Đảng chưa tương xứng với đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị và công sức đã bỏ ra.
Có những nghị quyết, chỉ thị đúng đắn về xây dựng Đảng, về tổ chức, cán bộ vẫn không được quán triệt sâu sắc và thực hiện triệt để. Có những việc làm quan trọng nhưng không được sơ kết, tổng kết kịp thời để đánh giá kết quả.
Trước hết phải nói rằng công tác xây dựng Đảng một thời gian dài chưa gắn chặt với nhiệm vụ chính trị, biểu hiện ở khuyết điểm lớn là chưa bảo đảm tốt việc cụ thể hoá đường lối, chưa gắn chặt với việc xây dựng cơ chế quản lý kinh tế, không coi trọng kiện toàn tổ chức và bồi dưỡng cán bộ để thúc đẩy việc xây dựng cơ cấu kinh tế mới và phương thức quản lý mới.
Công tác xây dựng Đảng chưa được coi là nhiệm vụ hàng đầu của các cấp uỷ đảng. Có nhiều cấp uỷ, cán bộ, đảng viên không nghiên cứu Điều lệ Đảng để chấp hành đúng, mà thường chờ đợi hoặc ỷ lại vào các hướng dẫn của cấp trên.
Nhiệm vụ của chúng ta là phải xem trọng việc phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm trên đây để nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác xây dựng Đảng, công tác tổ chức, công tác tư tưởng, chống buông lỏng các công tác này.
Phải chống bệnh quan liêu và bệnh hình thức trong công tác xây dựng Đảng. Điều quan trọng là phải tăng cường công tác kiểm tra để thúc đẩy việc thực hiện các nghị quyết, phổ biến những kinh nghiệm tốt, uốn nắn các lệch lạc, giảm bớt các giấy tờ, hội nghị không cần thiết.
Phải chấp hành nghiêm túc Điều lệ Đảng. Mỗi cấp uỷ, mỗi chi bộ và cán bộ, đảng viên phải nghiên cứu kỹ Điều lệ Đảng, các văn kiện đã được tổng kết về xây dựng Đảng ở Đại hội IV và Đại hội V của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác này để chủ động chấp hành. Đó là cơ sở chính để mỗi cấp uỷ tiến hành chỉ đạo công tác xây dựng Đảng. Phải có kỷ luật nghiêm đối với các cấp uỷ, các cán bộ, đảng viên trong việc chấp hành Điều lệ Đảng. Những khuyết điểm hiện nay, suy cho cùng chính là đã không chấp hành nghiêm chỉnh Điều lệ Đảng.
Công tác xây dựng Đảng phải thật sự là công tác của toàn Đảng. Mỗi cấp uỷ, mỗi cơ quan giúp việc, mỗi cán bộ, đảng viên đều có trách nhiệm xây dựng Đảng theo đúng cương vị và trách nhiệm của mình trên cơ sở tuân thủ Điều lệ Đảng, các phương châm xây dựng Đảng và các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương.
Các phương châm xây dựng Đảng phải được các cấp uỷ và cán bộ, đảng viên thấm nhuần để nâng cao chất lượng và nghệ thuật chỉ đạo công tác xây dựng Đảng. Phải tổng kết thực tế để hiểu các phương châm ấy một cách sâu sắc với nội dung mới. Hiểu và làm đúng phương châm sẽ có sáng tạo. Cùng với việc tổng kết thực tiễn của Đảng ta, phải coi trọng học tập kinh nghiệm về xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Liên Xô và của các đảng anh em là những đảng đã đi trước chúng ta trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Phải đổi mới về chất lượng đội ngũ chuyên trách làm công tác tổ chức, công tác tư tưởng và công tác kiểm tra bằng cách vừa bồi dưỡng đội ngũ hiện có, vừa thay đổi những người không còn xứng đáng như kém phẩm chất, thiếu công tâm, không khách quan hoặc còn lợi dụng chức quyền, quan liêu, hống hách, thậm chí còn ăn hối lộ, "móc ngoặc"... Cần xây dựng cho từng cấp uỷ, từng cơ quan và mỗi cán bộ làm công tác nói trên một nếp suy nghĩ có tính toán hiệu quả và cách làm việc thiết thực trong chỉ đạo công tác tổ chức và công tác tư tưởng. Vũ trang cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ tổ chức kiến thức về nhiều mặt, đặc biệt về lĩnh vực công tác mình phụ trách, về kiến thức quản lý kinh tế, khoa học kỹ thuật, khoa học tổ chức. Đó là những điều kiện tối cần thiết để giúp Trung ương và các cấp uỷ nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác xây dựng Đảng.
*
*        *
Thưa các đồng chí đại biểu thân mến,
Trong hơn nửa thế kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua biết bao hy sinh gian khổ và đã giành được thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong quá trình đấu tranh lâu dài, được Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập, giáo dục và rèn luyện, Đảng ta từ trước đến nay rất xứng đáng với danh hiệu của một đảng Mác - Lênin chân chính, một đảng có đội ngũ kiên cường, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với chủ nghĩa quốc tế vô sản, một đảng đoàn kết nhất trí về đường lối, luôn luôn xứng đáng với lòng tin cậy của nhân dân và của bè bạn khắp năm châu.
Những thắng lợi to lớn của cách mạng nước ta từ Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đến nay cũng là thắng lợi của sự trưởng thành của Đảng. Những khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng và trong công tác lãnh đạo của Đảng phải được xem là những bài học kinh nghiệm mà qua đó, Đảng ta sẽ trưởng thành thêm gấp bội.
Công tác xây dựng Đảng vốn đã có tầm quan trọng và có tính quyết định đối với mọi thành quả của cách mạng, ngày nay, trước sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng rộng lớn, phức tạp, và trước sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hết sức khẩn trương, càng có tầm quan trọng và có tính quyết định đối với vận mệnh của đất nước ta.
Làm theo Điều lệ Đảng và Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn kính mến, chúng ta quyết vươn lên về mọi mặt để "xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".
Chúng ta tin tưởng rằng, với Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần này, trên cơ sở những kinh nghiệm đã tổng kết được từ thực tiễn và sự nỗ lực của toàn Đảng trong việc thực hiện các nhiệm vụ, chủ trương, biện pháp đề ra trên đây, công tác xây dựng Đảng đã vươn lên đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và nhất định sẽ góp phần quan trọng tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chuyên chính vô sản trong cả nước, bảo đảm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ do Đại hội đề ra.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét