1. Văn hóa Sơn Vi
Văn hóa Đông Sơn - rực rỡ một nền văn minh Việt cổ
TTXVN
Bằng
kết quả của việc điều tra khảo cổ học, các nhà khảo cổ học xác định vào thời
điểm 3 vạn năm cách đây, những người nguyên thuỷ đã có mặt ở vùng cao Bắc
Giang.Họ đã biết sản xuất ra công cụ ghè đẽo, đi săn hái lượm. Các nhà khảo cổ
gọi họ là những người Sơn Vi. Dấu tích của họ để lại là một loạt các công cụ
làm từ đá cuội được ghè đẽo tu chỉnh đang vương trên các sườn đồi của vùng cao
Bắc Giang. Trên địa bàn tỉnh đã phát hiện được 13 địa điểm là các di tích thuộc
văn hoá Sơn Vi phân bổ chủ yếu ở hai huyện Sơn Động và Lục Ngạn, có niên đại to
tướng được xếp vào thời đại đồ đá cũ và niên đại tuyệt đối vào khoảng 30.000-
23.000 năm (thời kỳ sớm ) kéo dài đến khoảng 12.000- 11.000 năm cách đây.
Ở
khu vực Chũ huyện Lục Ngạn tìm được địa điểm
khảo cổ học thuộc văn hoá Sơn Vi, đó là các địa điểm Non Trúc, Minh Khai, Cầu
Cát và Giếng Xẻ. Những địa điểm này nằm ở đôi bờ sông Lục Nam và liền kề nhau
thành một dải đồi có độ cao trung bình vào khoảng 15-20 m.
Trong
số các địa điểm văn hoá Sơn Vi này đáng chú ý là địa điểm Non Trúc và Giếng Xẻ,
là những địa điểm có nhiều đồ đá cũ tập trung nhất. Đó là những đồ đá được ghè
đẽo thành những công cụ có cạnh sắc hay mũi nhọn để chặt cây săn thú.
Ở
huyện thứ hai tìm thấy dấu tích văn hoá Sơn Vi thuộc thời đại đá cũ là huyện
Sơn Động. Các di vật được tìm thấy ở hai
địa điểm An Châu và Yên Định.
Cụm
di tích An Châu gồm các địa điểm Xóm Phe, An Châu, Chùa Chẽ, Xóm Thượng, Hợp
nhất.
Cụm
di tích Yên Định gồm các địa điểm đồi Bà Thể, đồi Bà Nhãn, Hâm Mật, Khe Táu.
Hai cụm di tích này cách nhau khoảng 5km và đều nằm ở thềm bậc hai của sông Lục
Nam .
Ngoài ra ở Yên Thế năm 1975, các nhà khảo cổ đã phát hiện trên cách đồng Cửa
Ngõ thuộc thị trấn Bố Hạ một viên cuội được ghè đẽo rất điển hình. Đây là một
viên cuội quắc dít màu sẫm có hình mu rùa được tách ra từ viên cuội lớn. Mảnh
tách ra còn diện ghè hình viên phấn với vết ghè rất rõ. Bụng của mảnh tước này
gần vuông góc với diện ghè có đường sóng chấn động chứng tỏ nhát ghè rất mạnh.
Phần rìa hình vòng cung được ghè phía mặt những nhát nhỏ, toạ thành rìa tác
dụng sắc. Dấu vết ghè tạo của con người thể hiện rất rõ có ý thức tạo lưỡi. Đó
là công cụ dùng để chặt đập hoặc có thể dùng để nạo công cụ ghè đẽo từ loại
cuội này. Công cụ có niên đại cuối hậu kỳ đá cũ, đầu thời đá mới thuộc văn hoá
Sơn Vi (Trần Quốc Vượng - Trần Đình Luyện - Nguyễn Ngọc Bích: Một Hà Bắc cổ
trong lòng đất, Ty Văn hoá xuất bản, 1980 ).
Hiện
nay ở Bắc Giang đã thu thập được 202 di vật đá thuộc văn hoá Sơn Vi. Những di
vật này có nguồn gốc từ hai bộ sưu tập chính. Sưu tập 1 có 144 di vật sưu tầm
trong những năm 1975-1979 ở 7 địa điểm. Sưu tập 2 có 58 di vật ở 6 địa điểm
được thu nhặt vào 1990.
Đặc
trưng của hiện vật thời đại đồ đá cũ ở Bắc Giang là công cụ cuội chiếm đa số
đến 82,67% gồm 167 tiêu bản. Công cụ ghè đẽo có những loại hình sau : công cụ
ghè đẽo có dìa lồi và có cả loại có rìa thẳng, ngoài ra còn có loại rìa lưỡi
lõm.
Trong
số công cụ đá cũ ở Bắc Giang lần đầu tiên tìm thấy công cụ ghè đẽo hết một mặt
, đốc chặt ngang, mặt bổ dọc hình nêm gần gũi với loại hình rìu ngắn của văn
hoá Hoà Bình sau đó. Một trong những đặc điểm của văn hoá Sơn Vi ở Bắc giang là
có cả giai đoạn muôn có niên đại kéo dài ở khoảng gần 2 thiên niên kỷ.
Chủ
nhân của văn hoá Sơn Vi cũng là những người có mặt sớm nhất ở Bắc Giang. Họ có
công khai phá vùng đồi gò trung du bằng những công cụ đơn giản nhưng hữu hiệu
làm từ đá ghè đẽo. Trong tương vùng đồi gò Bắc Giang còn tìm được nhiều hơn nữa
những địa điểm văn hoá Sơn Vi, vì cảnh quan rất phù hợp với điều kiện sinh hoạt
và sản xuất của con người thời đại đá cũ.
2. Hoà Bình- Dấu ấn một nền văn hoá
(HBĐT) - Nằm ở cửa ngõ vùng Tây Bắc của Tổ quốc, Hoà Bình là một tỉnh miền núi có nền "Văn hoá Hoà Bình" nổi tiếng - cái nôi văn hoá của người Việt cổ, là vùng sử thi huyền thoại “Đẻ đất đẻ nước”, là miền đất âm vang tiếng cồng, tiếng chiêng, vùng của những lễ hội giầu bản sắc dân tộc Tây Bắc, của kho tàng phong phú về văn nghệ dân gian các dân tộc: Mường, Dao Thái, Mông... Là quê hương của những làn điệu dân ca "ngọt như mật ong, trong như dòng suối"; những trường ca, truyện thơ đậm nét văn hóa dân tộc và chất nhân văn tinh tế… Mời bạn đến với mảnh đất Hoà Bình để cùng khám phá và cảm nhận vẻ đẹp của một miền văn hoá giàu bản sắc.
|
Phần 1: Hoà Bình - Dấu ấn một nền văn hoá
Hoà Bình là một trong những vùng đất mà các nhà khảo cổ học chứng minh đã có người Việt cổ sinh sống cách đây hàng vạn năm. Nơi đây còn đọng lại nhiều dấu ấn của một nền văn hóa Hòa Bình rực rỡ qua việc tìm thấy 47 chiếc trống đồng cổ trong đó có trống đồng sông Đà và Miếu Môn thuộc loại đẹp và cổ cùng một hệ thống các di tích xác định nền văn hoá Hoà bình đó là:
Hang Muối - nơi cư trú của người nguyên thuỷ trong thời gian dài. Tại đây đã xác định nhiều công cụ đá, di tích bếp, xương của người nguyên thuỷ.
Là Hang Khoài - Niên đại kỹ nghệ cuội Việt nam. Nơi cư trú của người nguyên thuỷ cách đây 17.000 đến 11.000 năm.
Là Khu mộ cổ Đống thếch: Có hàng trăm ngôi mộ xung quanh được được chôn nhiều hòn mồ, có hòn cao tới hơn 3 m, trên khắc chữ Hán ghi tên người đã chết. Người Mường quan niệm rằng người chết vẫn có linh hồn và linh hồn thường được trú ngụ và gửi gắm vào đá. Do đó các cột đá (hòn mồ) dựng lên không chỉ có ý nghĩa đơn thuần là đánh dấu mộ. Hiện tượng này không chỉ có ở vùng Mường mà còn khá phổ biến ở một số dân tộc Đông
Là Hang chùa: Còn gọi là "Văn Quang Động", đó là 3 chữ đại tự khắc trên vách đá, dưới có khắc nhiều bài thơ, bài văn ở thế kỷ 18 – 19…
Đặc biệt, phát hiện mới nhất về lối mòn cổ cách đây 22 nghìn năm tại hang xóm Trại xã Tân Lập (thuộc Mường Vang, Lạc Sơn) đã khẳng định chắc chắn về điều đó.
Hang xóm Trại là một hang tiêu biểu của văn hoá Hoà Bình trên thế giới. Nền văn hoá mà thế giới biết đến và công nhận. Từ năm 1932 tại Hội nghị các nhà tiền sử châu Á Thái Bình Dương, Tiến sỹ khảo cổ học người Pháp, bà Mađơlin Colani đã đề xuất công nhận một nền văn hoá mang tên là văn hoá Hoà Bình. Theo Tiến sỹ Nguyễn Việt, Trung tâm tiền sử Đồng Nam Á: Hang xóm Trại là một điểm cư trú lâu dài của người nguyên thuỷ trong văn hoá Hoà Bình. Theo kết quả nghiên cứu mới nhất, địa điểm này có niên đại cách ngày nay từ khoảng 22 nghìn năm. Tầng văn hoá trong hang có độ dầy trung bình lên tới 5m. Lối đi cổ mới phát hiện ở ngách phía Bắc hang có niên đại vào khoảng 22 nghìn năm. Đây là lối đi đầu tiên của người nguyên thuỷ ra, vào hang. Bên cạnh những phát hiện mới về lối đi cổ, về mộ táng, về niên đại, hang xóm Trại còn tiêu biểu của Văn hoá Hoà Bình không chỉ ở Việt Nam mà còn là di tích tiêu biểu trong khu vực Đông Nam Á. Đây vừa là nơi cư trú lâu dài với điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn thức ăn dồi dào, vừa là công xưởng chế tác công cụ của cư dân Văn hoá Hoà Bình.
Qua những phân tích khoa học, hang xóm Trại không chỉ khẳng định là cái nôi sinh sống của người Việt cổ mà nó còn là “bảo tàng” văn hoá của người Việt cổ. Với sự xuất hiện liên tiếp của các thời kỳ văn hoá như thời kỳ đồ đá, văn hoá Phùng Nguyên, thời kỳ nhà Trần, nhà Lê.
Cho đến thời điểm này, hang xóm Trại có khoảng trên 4 nghìn hiện vật được khai quật. Qua các so sánh thì đây là hang phát hiện được nhiều hiện vật nhất và có nhiều tầng văn hóa nhất trong khu vực Đông Nam Á. Với số lượng hiện vật được phát hiện đã khẳng định đây là hang được người nguyên thủy sử dụng sớm nhất và lâu đời nhất. Đặc biệt, ngoài việc phát hiện 2 lối đi cổ, các nhà nghiên cứu còn tìm thấy vết tích tro bếp - một hiện vật tiền sử sớm nhất ở Việt Nam - và bộ hài cốt có độ tuổi trên 14 nghìn đến 17 nghìn năm.
Trước đó, cuộc khai quật hang xóm Trại vào những năm 80 của thế kỷ trước, các nhà nghiên cứu đã phát hiện những hạt thóc của người xưa rơi vãi. Sau khi phân tích đã xác định các hiện vật này thuộc thời Trần. Việc khai quật di tích cũng đã phát hiện vết tích của mộ táng cuối thời Trần đầu thời Lê vẫn còn gần như nguyên vẹn. Qua đó cho thấy các tầng lớp văn hoá ở đây rất dày. Được xếp tầng tầng lớp lớp thể hiện qua các công cụ khai quật dưới các tầng sâu trong lòng hang. “Từ các cứ liệu thu được, có thể khẳng định đây là di tích Văn hoá Hoà Bình có bộ di vật phong phú nhất về công cụ đá, cũng như công cụ xương. Đặc biệt là số lượng công cụ đá cuội mài lưỡi thu được trong các lần khai quật khá phong phú so với các di tích Văn hoá Hoà Bình đã được khai quật từ trước đến nay”, Tiến sỹ Nguyễn Việt cho biết. Công cụ đá tìm thấy ở đây đã cho thấy kỹ thuật chế tác đá khá điêu luyện của người Việt cổ.
Ngoài những công cụ đá, mộ táng của người nguyên thủy như rìu đá, xương thú, các nhà nghiên cứu còn tìm thấy vỏ trấu, vỏ quả óc chó và rất nhiều hoá thạch của vỏ ốc. Đây được coi là thức ăn thường dùng của người Việt cổ. Với chiều rộng của hang trung bình 7m và chiều dài từ miệng vào đáy khoảng 22m, sâu khoảng 7-10m, qua hàng nghìn năm vùi lấp chủ yếu là vỏ ốc ken đặc. Tiến sỹ Nguyễn Việt nhận định: Phải qua hàng chục nghìn năm mới tích tụ được lớp vỏ thức ăn dày như vậy. Để khai quật, các nhà khảo cổ đã phải đào vét lượng ốc hóa thạch khổng lồ đổ xuống triền núi đá làm lối đi. Việc phát hiện các tầng văn hóa tại hang xóm Trại đã khẳng định đây là điển hình của nền văn hóa Hòa Bình không chỉ của các nước Đông Nam Á mà còn thuộc loại hiếm có trên thế giới.
Cách thức ăn ốc cho đến ốc mà người Việt cổ thường dùng, đã được kế thừa cho đến ngày nay. Đến nay, đồng bào Mường ở Hòa Bình vẫn dùng ốc bằng cách chặt đuôi để hút thịt. Sự kế thừa của người cổ xưa vẫn hiển hiện trong đời sống sinh hoạt của bà con như chứng tích cụ thể minh chứng cho lịch sử của người Việt cổ có nguồn gốc trên lãnh thổ Việt Nam. Theo tính toán khoa học, bình quân 1m3 vỏ ốc trong hang xóm Trại đếm được khoảng hơn 40 nghìn vỏ ốc. Số lượng này tương đương với khoảng 300kg thịt ốc. Căn cứ theo các tầng ốc hóa thạch qua các thời kỳ có thể thấy phải qua hàng chục nghìn năm mới có được tầng vỏ ken đặc như vậy. Với những cứ liệu đó, hang xóm Trại xứng đáng được gọi là “bảo tàng” văn hoá của người Việt cổ.
HBĐT tổng hợp |
Văn hóa Đông Sơn - rực rỡ một nền văn minh Việt cổ
TTXVN
Nhân kỷ niệm 80 năm phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn (1924-2004), từ 25-8 đến cuối tháng 11-2004, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp với các bảo tàng tỉnh, thành phố: Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Nội và Bảo tàng Hùng Vương tổ chức cuộc trưng bày với chuyên đề: "Văn hóa Đông Sơn - rực rỡ một nền văn minh Việt cổ". Cuộc trưng bày này khắc hoạ một diện mạo tương đối toàn diện của nền Văn hóa Đông Sơn qua 80 năm sưu tầm, nghiên cứu.
Văn hoá Đông Sơn có vị trí và vai trò đặc biệt trong tiến trình lịch sử văn hoá Việt Nam. Qua 80 năm phát hiện và nghiên cứu, Văn hoá Đông Sơn được biết đến như là cơ sở vật chất cho sự ra đời của Nhà nước Văn Lang-Âu Lạc - Nhà nước đầu tiên thời đại các Vua Hùng.
Nguồn gốc, khái niệm và đặc trưng văn hoá Đông Sơn
Nguồn gốc, khái niệm và đặc trưng văn hoá Đông Sơn
Đông Sơn là tên một làng nằm ở bờ sông Mã, cách cầu Hàm Rồng khoảng 1km về phía thượng nguồn (thuộc huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá). Năm 1924, người nông dân tên gọi Nguyễn Văn Lắm ở làng Đông Sơn khi ra bờ sông Mã câu cá đã tìm thấy một số đồ đồng ở nơi bờ sông sạt lở. Viên thuế quan người Pháp tại tỉnh Thanh Hoá tên là Pajot - một người say mê nghiên cứu lịch sử Đông Dương và phong tục tập quán của Việt Nam đã mua những đồ đồng đó và đem đến trường Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) để xác định giá trị. Được sự ủy quyền của Giám đốc EFEO thời đó, từ năm 1924 đến 1932, viên quan Pajot tiến hành khai quật ở Đông Sơn và thu được nhiều hiện vật có giá trị. Năm 1929, với những hiện vật thu được ở Đông Sơn kết hợp với những di vật do các nhà nghiên cứu của Pháp tìm thấy ở lưu vực sông Hồng, các học giả về Đông Nam Á ở trên thế giới đã biết về “Thời đại đồng thau ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ” (bài viết của Gloubew).
Năm 1934, R.Heine Geldern, một nhà nghiên cứu người Áo lần đầu tiên đề nghị định danh nền văn hoá đó là “Văn hoá Đông Sơn”. Cùng với Gloubew (1929), Geldern coi Văn hoá Đông Sơn có vai trò của “văn hoá mẹ” đối với toàn vùng Đông Nam Á. Những di vật Văn hóa Đông Sơn đã được người dân Việt Nam biết đến từ lâu, nhưng từ năm 1934, thuật ngữ "Văn hóa Đông Sơn" bắt đầu mới có chính thức.
Năm 1934, R.Heine Geldern, một nhà nghiên cứu người Áo lần đầu tiên đề nghị định danh nền văn hoá đó là “Văn hoá Đông Sơn”. Cùng với Gloubew (1929), Geldern coi Văn hoá Đông Sơn có vai trò của “văn hoá mẹ” đối với toàn vùng Đông Nam Á. Những di vật Văn hóa Đông Sơn đã được người dân Việt Nam biết đến từ lâu, nhưng từ năm 1934, thuật ngữ "Văn hóa Đông Sơn" bắt đầu mới có chính thức.
Công cuộc tìm hiểu, nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn của các nhà nghiên cứu Việt Nam thực sự bắt đầu từ sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Năm 1957, học giả Đào Duy Anh coi Văn hoá Đông Sơn là văn hoá đồ đồng và là văn hoá của người Lạc Việt được coi là tổ tiên của người Việt-Mường. Dưới ánh sáng của những phương pháp nghiên cứu mới, thông qua việc phúc tra lại những di tích và thẩm định lại những sưu tập hiện vật, các nhà khảo cổ Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của Văn hóa Đông Sơn trong tiến trình lịch sử dân tộc. Nhận thức đó càng được củng cố qua các hội nghị nghiên cứu về thời kỳ Hùng Vương trong thập kỷ 60-70 của thế kỷ XX.
Dưới góc độ nghiên cứu khảo cổ học và dân tộc học, Văn hoá Đông Sơn là một nền văn hoá thời đại kim khí cách ngày nay khoảng 2000-2500 năm, có nguốn gốc bản địa với địa bàn phân bố rộng (từ biên giới phía Bắc đến tỉnh Quảng Bình ở Bắc Trung Bộ) và bao gồm nhiều nhóm di tích có niên đại sớm, muộn khác nhau.
Văn hoá Đông Sơn ra đời và phát triển rực rỡ dựa trên nền tảng của cả một quá trình hội tụ lâu dài từ những nền văn hoá trước đó. Nguồn gốc cơ bản để hình thành nên Văn hóa Đông Sơn đó là các giai đoạn "Tiền Đông Sơn" từ Phùng Nguyên, Đồng Đậu đến Gò Mun. Văn hóa Đông Sơn có mối liên hệ mật thiết với các nền văn hoá phát triển cùng thời trên đất nước như văn hoá Sa Huỳnh (ở Trung Nam Bộ) và văn hoá Đồng Nai (ở lưu vực sông Đồng Nai). Văn hoá Đông Sơn còn được coi là trung tâm phát triển của Đông Nam Á, có mối tương quan với các trung tâm phát triển trong khu vực như trung tâm Đông Bắc (Thái Lan), trung tâm Điền (Vân Nam, Trung Quốc).
Chính vì vây, đặc trưng cơ bản của Văn hoá Đông Sơn là tính thống nhất trong đa dạng. Đỉnh cao của Văn hoá Đông Sơn là nghệ thuật đúc đồng Đông Sơn mà ở đó, người Việt đã hoàn toàn làm chủ nguyên liệu và công nghệ chế tạo đồng thau. Đồ đồng đúc có mặt trong toàn bộ đời sống vật chất tinh thần của người Đông Sơn. Kỹ thuật luyện kim và đúc đồng thời này đã đạt đến trình độ hoàn mỹ. Đồ đồng thuộc Văn hóa Đông Sơn không thể lẫn với bất cứ nền văn hóa khảo cổ nào khác trên thế giới. Trống đồng là loại di vật điển hình nhất của Văn hóa Đông Sơn.
Trống đồng chính là một linh vật của người Việt cổ được sử dụng trong các lễ hội, nó còn là một bộ sử bằng hình ảnh khi chữ viết chưa phát triển. Trống đồng Đông Sơn có quy mô đồ sộ, hình dáng cân đối, thể hiện trình độ cao về kỹ năng và nghệ thuật. Trống đồng thể hiện tín ngưỡng, cuộc sống sinh hoạt của người Việt cổ. Có hai loại hoa văn không thể thiếu trên mặt tất cả các trống đồng Đông Sơn là hình Mặt Trời với số cánh chẵn 12, 14, 16 hoặc 18 cánh và Chim Lạc (xuất phát từ việc cư dân Việt cổ gắn với văn minh lúa nước do đó thờ thần mặt trời và những loài chim gắn bó với đồng ruộng). Điều đó giúp chúng ta hiểu thêm về đời sống vật chất và tâm linh của dân cư bản địa thời Đông Sơn.
Qua quá trình nghiên cứu, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã chia sưu tập hiện vật Văn hóa Đông Sơn làm các loại chính sau:
- Vũ khí: Rìu, giáo, lao, dao găm, búa chiến, mũi tên, hộ tâm phiến...
- Công cụ sản xuất: Rìu, lưỡi cày, cuốc, lưỡi dao gặt...
- Đồ dùng sinh hoạt: Thạp, thố, bình, khay, đĩa, chậu, âu, muôi, thìa...
- Nhạc cụ: Chuông, trống, lục lạc...
- Đồ trang sức: Vòng, khuyên tai, hạt chuỗi, trâm, khóa thắt lưng...
Các trung tâm văn hóa Đông Sơn
Phạm vi phân bố của Văn hoá Đông Sơn tập trung đậm đặc ở lưu vực ba con sông lớn: Sông Hồng (các tỉnh châu thổ Bắc Bộ), sông Mã (Thanh Hoá), sông Cả (Nghệ An). Chính từ lưu vực ba con sông này, Văn hoá Đông Sơn bao gồm ba Trung tâm chính: Trung tâm làng Cả (loại hình sông Hồng); Trung tâm Đông Sơn (loại hình sông Mã); Trung tâm Làng Vạc (loại hình sông Cả).
Trung tâm Làng Cả (loại hình sông Hồng): Loại hình này được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1945 với di tích Hoàng Ngô (Quốc Oai, Hà Tây) và di tích Làng Cả (Việt Trì, Phú Thọ). Địa bàn chủ yếu của loại hình này là vùng miền núi phía Bắc, vùng Trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Đặc trưng của loại hình là sự phong phú, đa dạng, mang nhiều sắc thái địa phương rõ rệt.
Vũ khí có số lượng lớn và gồm nhiều loại: Rìu, giáo, lao, dao găm, búa, mũi tên, hộ tâm, qua, đinh ba. Điểm khác biệt với loại hình khác là các bộ dao găm có tay chắn thẳng; rìu lưỡi lượn gấp khúc và lưỡi xéo gót vuông có hoa văn trang trí.
Nông cụ: Rìu, lưỡi cày, cuốc, nhíp… đặc sắc nhất là bộ lưỡi cày đồng (tìm thấy trong trống Mả Tre của Bảo tàng Hà Nội).
Đồ dùng sinh hoạt: Thạp, thố, muôi, thìa, đinh hình chữ U. Đặc sắc nhất của loại hình sông Hồng là thạp Đồng Thịnh (Yên Bái) có niên đại 2000-2500 năm. Thạp được đúc với kỹ thuật cao, được trang trí các hình chèo thuyền, chim bay…trên nắp thạp được tạc 4 cặp tượng nhỏ nam nữ trong tư thế giao hoan, thể hiện sinh động tín ngưỡng phồn thực của người Việt cổ.
Nhạc cụ: Trống đồng, chuông đồng mà trong đó trống đồng Đông Sơn (trống đồng Ngọc Lũ) là trống loại I cổ nhất, đẹp nhất (theo cách phân loại của Heiger).
Đồ gốm: Chủ yếu là đồ đựng. Gốm có màu trắng mốc, trắng hồng, xương gốm mịn màu đen có độ nung cao.
Đồ trang sức: Vòng tay bằng đá, đồng, hạt chuỗi
Trung tâm Đông Sơn (loại hình sông Mã): Được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1924 ở di tích làng Đông Sơn, Thanh Hoá, bên bờ phải sông Mã. Địa bàn phân bố của loại hình chủ yếu thuộc lưu vực sông Mã, sông Chu, ranh giới phía Bắc của nó tiếp giáp với địa bàn của Văn hoá Đông Sơn loại hình sông Hồng. Đặc trưng của loại hình sông Mã mang đặc trưng của Văn hoá Đông Sơn điển hình. Đặc biệt những đồ đồng thuộc trung tâm Đông Sơn là tiêu chí để nhận biết cho đồ đồng thuộc các loại hình địa phương khác hay để phân biệt giữa Đông Sơn với những nền văn hoá kim khí khác.
- Vũ khí: Giáo đồng, mũi tên bằng xương, qua đồng, kiếm, rìu đồng.
- Nông cụ: Dụng cụ đan chài bằng đồng, dọi xe chỉ, rìu đồng...
- Đồ dùng sinh hoạt, đồ trang sức, tượng nghệ thuật: Thạp đồng Xuân Lập, đèn đồng, trâm cài đầu, khuyên tai đá, gốm, vòng tay trang trí hình cá sấu, khối tượng cóc, tượng người cõng nhau thổi khèn...
- Nhạc cụ: Trống đồng Cẩm Giàng, Mã Nguôi, Thành Vinh.
- Đồ gốm: Đồ gốm có màu trắng phớt hồng, màu xám đen, màu đỏ thổ hoàng được phủ cả trong lẫn ngoài hiện vật.
Trung tâm Làng Vạc (loại hình sông Cả): Được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1972 với di tích làng Vạc (Nghĩa Đàn, Nghệ An) và di tích Đồng Mỏm (Diễn Châu, Nghệ An) vào năm1976. Đặc trưng cơ bản của loại hình này là có sự giao lưu mạnh mẽ với văn hoá Sa Huỳnh ở miền Trung và văn hoá Điền (Vân Nam, Trung Quốc), đồng thời cũng mang những nét đặc trưng riêng biệt, nằm trong tổng thể nhất quán của Văn hoá Đông Sơn:
- Vũ khí: Dao găm hình chữ T, dao găm đốc củ hành, dao găm hình búp đa, dao găm có cán tượng người, cán tượng động vật. Đặc biệt nhất là dao găm chuôi hình người phụ nữ (thể hiện vị trí quan trọng của người phụ nữ trong xã hội Việt cổ).
- Nông cụ: Rìu với họng tra cán hình đuôi cá (đặc trưng Làng Vạc), lẫy nỏ...
- Đồ dùng sinh hoạt: Thạp đồng, muôi đồng. Trong các loại đồ dùng, chiếc muôi đồng có vai trò trong các nghi lễ tôn giáo, có thể dùng để rảy nước nước hoặc các loại rượu cúng thần. Muôi đồng có loại cán là tượng voi; có loại trên cán muôi có trang trí những vòng tròn tiếp tuyến đối đầu và kết thúc bằng một đầu trâu hai sừng dài cong vút, trên mỗi tai có một quả chuông. Hình ảnh con trâu là con vật tiêu biểu không những của văn hoá Đông Sơn (Văn minh lúa nước) mà còn thể hiện đậm nét trong văn hoá Điền (Vân Nam, Trung Quốc). Điều này cho thấy sự giao lưu của văn hoá Đông Sơn.
- Đồ trang sức: Phong phú về loại hình, vừa có ý nghĩa trang sức, vừa có ý nghĩa về nghi lễ, gồm: vòng tay, khuyên tai bằng đá, thủy tinh, bao chân, bao tay, vòng tay có gắn lục lạc, khoá thắt lưng hình hộp, thắt lưng hình tượng rùa...Đồ trang sức ở loại hình này mang đậm dấu ấn giao lưu rõ nét với văn hoá Sa Huỳnh.
- Đồ gốm: gốm có màu nâu cháy có pha nhiều cát thô, vỏ nhuyễn thể với các loại hình nồi, thạp, chõ.
- Tượng nghệ thuật: Tượng voi cõng chim, tượng rùa.
Vấn đề bảo tồn văn hóa Đông Sơn
Trong 80 năm phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn, đã có hơn 200 di tích và hàng vạn di vật thuộc Văn hoá Đông Sơn được phát hiện, nghiên cứu. Tuy nhiên việc bảo tồn gìn giữ các cổ vật Đông Sơn này còn nhiều vấn đề tồn tại.
Thứ nhất, đối với công tác bảo tồn trong nước, các cổ vật Đông Sơn chưa quy tụ về một đầu mối quản lý chính thống do mật độ tập trung di tích Đông Sơn ở mỗi địa phương khác nhau. Văn hoá Đông Sơn trải rộng và tập trung trên ba lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả, vì vậy các địa phương nằm dọc hai bờ của ba con sông này đều có sưu tập cổ vật Đông Sơn phong phú trong các viện bảo tàng. Ngoài ra các nhà sưu tập tư nhân cũng sở hữu một khối lượng lớn cổ vật Đông Sơn. Theo ông Nguyễn Tuấn Đại - Trưởng phòng Trưng bày, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, thì "khả năng mua lại các hiện vật của bảo tàng và các nhà sưu tập tư nhân là khó có thể, vì nguồn kinh phí của các bảo tàng Trung ương có hạn. Hơn nữa, bên cạnh kinh phí sưu tầm còn cần một nguồn kinh phí lớn khác cho việc bảo quản các hiện vật". Để giải quyết những khó khăn này, Nhà nước cần có chính sách phù hợp để khuyến khích và bảo trợ cho những bộ sưu tập tư nhân giá trị, mở ra một hướng đi mới trong hoạt động bảo tàng. Đó là xã hội hoá kết hợp các lực lượng trong công tác sưu tầm, nghiên cứu đối với các cổ vật nói chung và cổ vật Đông Sơn nói riêng.
Thứ hai, đối với công tác sưu tầm khai quật cổ vật, do thiếu nguồn kinh phí nên một bộ phận không nhỏ các hiện vật dù đã phát lộ nhưng vẫn không thể tiến hành khai quật.
Thứ ba, cổ vật Đông Sơn là loại hiện vật có tuổi cao, mang dấu ấn văn hoá độc đáo, chế tác tài tình và tinh xảo nên việc phục chế và bảo quản là việc rất khó khăn. Thực tế cho thấy rất nhiều hiện vật Đông Sơn khi tìm thấy thường trong tình trạng bị vỡ, bị hỏng, chất đồng đã bị mủn do nằm dưới lòng đất nhiều thế kỷ và do chủ nhân Văn hoá Đông Sơn có tập tục đập nát, hoặc làm hư hại một phần đồ tuỳ táng trước khi đem chôn theo người chết nhằm cắt lìa với thế giới sự sống. Trong khi đó, ngày nay khi khai quật được các đồ tuỳ táng, người ta thường đem sửa chữa cho nguyên lành, mong sao khôi phục lại hiện vật. Việc làm này nhiều khi làm cho giá trị phi vật thể quan trọng ẩn dấu trong các hiện vật không còn nữa.
Thứ tư là vấn đề ngăn chặn nạn chảy máu cổ vật ra nước ngoài. Thế giới biết đến một nền Văn hoá Đông Sơn rực rỡ thông qua một số lượng không nhỏ hiện vật Đông Sơn được trưng bày tại các bảo tàng lớn nổi tiếng trên thế giới như Bảo tàng Cernuschi (Pháp), Bảo tàng Hoàng gia về nghệ thuật và lịch sử (Bỉ), Bảo tàng cổ vật Viễn Đông (Thụy Điển), Bảo tàng Cổ vật Quốc Gia Pháp... và trong các sưu tập tư nhân ở nước ngoài. Tuy nhiên, con đường lưu lạc của những cổ vật Đông Sơn đến các bảo tàng trên là từ những cuộc xâm chiếm thuộc địa trong lịch sử - là lý do bất khả kháng. Còn hiện nay, việc đào bới và buôn bán bất hợp pháp cổ vật ra nước ngoài có xu hướng gia tăng. Cổ vật Đông Sơn được chào bán trên mạng rất đa dạng về chủng loại với giá cao. Cổ vật Đông Sơn cũng như nhiều loại cổ vật khác bằng mọi cách tìm đường đến các thị trường đồ cổ châu Á như Hồng Công, Singapore, Thái Lan để rồi từ đó đến với các bộ sưu tập tư nhân các bảo tàng ở Châu Âu, Châu Mỹ. Thực tế là đỉnh cao của nghệ thuật Đông Sơn hiện nằm ở nước ngoài.
Để giải quyết tận gốc vấn đề bảo tồn, phát triển Văn hoá Đông Sơn, các cơ quan quản lý Nhà nước cần ban hành những quy định để gìn giữ bảo tồn hiện vật Đông Sơn - những minh chứng về một nền văn hoá rực rỡ trong lịch sử./.
Bài sau đây trích từ VietnamNet.vnn.vn
Di vật Đông Sơn và nhu cầu về cái đẹp |
08:24' 28/08/2004 (GMT+7) |
Bản thân nhu cầu làm đẹp của chủ nhân nền văn hoá Đông Sơn đã phản ánh rất rõ quan niệm thẩm mỹ của người Việt cổ.
Câu chuyện về một nền văn hoá lớn được cả thế giới biết đến với tên gọi Văn hoá Đông Sơn được đánh dấu bởi cái mốc khá đặc biệt: Năm 1924, một người đánh cá vô danh "nhặt" được vài di vật lạ trên đầu nguồn sông Mã thuộc địa phận Thanh Hoá. Từ một vài di vật "lạ" của người đánh cá vô danh ấy, nhà khảo cổ học người Pháp L.PaiJot đã tiến hành nhiều cuộc khai quật khảo cổ và ông đã xác định được những nét cơ bản của nền văn minh Việt cổ: Mạch chảy liên tục từ thời đá cũ đến thời đồng sắt trải rộng khắp các lưu vực của các con sông lớn như sông Hồng, sông Mã, sông Lam...Cái tên di chỉ Đông Sơn (nhằm chỉ một địa danh khai quật khảo cổ) đã trở thành tên của một nền văn hoá rực rỡ và không ngừng toả sáng.
Suốt 80 năm qua, giới khảo cổ Pháp cũng như các nhà khoa học Việt Nam không ngừng khám phá ý nghĩa của các di vật Đông Sơn bằng phương pháp thực chứng. Họ đã cắt nghĩa, giải mã được rất nhiều điểm như kỹ thuật đúc trống đồng, khả năng chế tác công cụ sản xuất, binh khí, đồ trang sức... không thua kém bất cứ một nền văn hoá lớn nào khác ở cùng thời điểm. GS. Hà Văn Tấn còn đi xa hơn: Người Việt cổ không chỉ tạo tác được những di vật bằng đá, đồng, sắt, gốm... mà còn có cả những công cụ sản xuất bằng tre, gỗ tinh xảo, tiện dụng nhưng do thời tiết nóng ẩm nên đã bị huỷ hoại hoàn toàn. Tất nhiên, đây là một giả thuyết khoa học nhưng nó phản ánh rõ nét nhất quan điểm giải mã các di vật khảo cổ xuất phát từ sự tiện lợi của đồ vật đối với cuộc sống con người. Một câu hỏi hết sức tự nhiên nhưng không kém phần quan trọng khi chúng ta xem xét các di vật có niên đại từ 2500 năm đến 3000 năm: Nếu chỉ là sự tiện ích cho con người thì tại sao những di vật này được chế tác một cách tinh tế và đẹp đến thế?
Chiếc thạp đồng Đào Thịnh có hình dáng cân đối, hài hoà tuyệt đẹp và nơi bề mặt tiếp giáp với phần thân thạp có các cặp trai gái giao hoan rất tự nhiên. Nếu giải mã theo quan điểm tiện ích thì các cặp trai gái này đóng vai trò như những vấu buộc (để khiêng khi vận chuyển). Nhưng nếu vậy thì tại sao các chủ nhân của nền văn hoá Đông Sơn không đúc ngay các quai xỏ giây với các lý do như vừa dễ đúc, vừa tiện cho người sử dụng? Chủ nhân của nền văn hoá Đông Sơn đã cảm nhận thế giới ngoại quan như thế nào và tại sao họ lại đúc nên chiếc thạp đẹp và kỳ lạ đến vậy? Chức năng của chiếc thạp đồng này là để đựng đồ vật quý và nếu giả thiết là đựng hạt giống ngũ cốc thì hình dạng như trên sẽ chuyên chở những ý nghĩa gì? Ngoài chức năng chứa, đựng... theo quan niệm tiện ích như chúng ta đã biết thì nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu cái đẹp có thực sự tồn tại?
Rất nhiều di vật của nền văn hoá Đông Sơn đang được trưng bày tại Bảo tàng lịch sử VN đã cho thấy những câu hỏi như trên là hợp lý và chúng cần được giải mã một cách khoa học. Chiếc ấm đồng, cái thố đồng... nếu chỉ dùng cho việc đựng nước, đựng rượu để uống cho tiện thì chắc chắn chúng không được chế tác cầu kỳ và đẹp đến kinh ngạc như thế. Miếng giáp hộ tâm, chuôi dao hình người, vòng đeo tay, bao tay, bao chân có gắn những chiếc chuông nhỏ vv... nếu chỉ giải mã theo quan niệm tiện ích, dễ chế tác, dễ sử dụng thì sẽ không thoả đáng.
Bản thân nhu cầu làm đẹp (khuyên đeo tai, vòng đeo cổ, bao tay, bao chân...) của chủ nhân nền văn hoá Đông Sơn đã phản ánh rất rõ quan niệm thẩm mỹ, nhu cầu thiết yếu của cái đẹp trong đời sống của người Việt cổ.
Một câu hỏi cũng hết sức tự nhiên khi chúng ta xem xét 700 di vật của nền văn hoá Đông Sơn đang trưng bày tại cuộc triển lãm là: Các nhà khảo cổ học người Pháp đã phát hiện và trình bày thành hệ thống các di vật quý giá này thế thì chúng ta - chủ nhân của những di vật này đã và sẽ làm được gì để tôn vinh nó? Chúng ta giải thích như thế nào về nền văn hoá cổ rực rỡ của chính chúng ta?
Câu trả lời có thể nằm trong cách tiếp cận vấn đề của chính chúng ta.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét