Thứ Năm, 21 tháng 6, 2012

Vấn đề thời cơ trong cách mạng tháng tám

Vấn đề thời cơ trong cách mạng tháng tám
THCS Gia Xuyên, Gia Lộc, Hải Dương



“lúc này, thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy trường sơn cũng kiên quyết dành cho được độc lập”
(Hồ Chí Minh)
*                                    *
                                                         *
                   Chiều sâu của cách mạng tháng Tám tiềm ẩn trong truyền thống quật cư­ờng bất khuất mấy nghìn năm của dân tộc . Từ khí phách huyền thoại của em bé làng Gióng, mới lên 3 tuổi đã đánh đuổi giặc nư­ớc mà vẫn cho là muộn , giận chín tầng trời còn thấp khi bay tận mây xanh. Chiều sâu ấy tiềm ẩn trong câu thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế c­ư”của Lý Thư­ờng Kiệt, Từ “Hịch t­ướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn đến “Bình Ngô đại cáo” Của Nguyễn Trãi. Có thể nói, cách mạng tháng Tám là một trong những trang sử vẻ vang chói lọi nhất, là một trong những bư­ớc ngoặt vĩ đại nhất của dân tộc . Thắng lợi ấy là sự kết tinh của nhiều nhân tố khác nhau. Trong đó, vấn đề thời cơ có ý nghĩa tiên quyết. Vấn đề thời cơ trong cách mạng tháng Tám là một sự xâu chuỗi logic từ việc tạo thời cơ, xác định thời cơ và dũng cảm chớp thời cơ .
                                         *                          *
                                                      *
I-lý luận về thời cơ
                 Theo thuật ngữ khái niệm lịch sử phổ thông, thời cơ là “thời gian, điều kiện hoàn cảnh chủ quan, khách quan thuận lợi để tiến hành thắng lợi một việc gì…”.
                Trong chiến tranh, thời cơ là một vấn đề có ý nghĩa then chốt. Hiểu được thời cơ, nắm được vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của thời cơ và biết vận dụng linh hoạt nó sẽ có tác dụng xoay chuyển và đảo lộn toàn bộ cục diện của cuộc chiến. Nói như Nguyễn Trãi: “được thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hoá ra lớn. Mất thời không thế thì mạnh hoá ra yếu, yên lại thành nguy. Sự thay đổi ấy chỉ ở trong khoảng trở bàn tay”.Trong một bức thư viết cho Đô Đốc Thái Phúc , Nguyễn Trãi cũng nói: “Ngày xưa, Bách Lý Hề ở Ngu thì Ngu mất nước , mà sang Tần thì Tần làm nên nghiệp bá. Lý Tả Xa ở Triệu thì Triệu bị diệt mà theo Hán thì Hán dấy nghiệp vương. Nào phải ở nơi này thì ngu , nơi kia thì trí đâu, chỉ tại gặp thời hay không gặp thời mà nên thế”. Ông lại viết: “ Tôi từng xem kinh dịch 384 hào , mà cốt yếu ở chữ thời. Cho nên , người quân tử theo thời thông biến, nghĩa chữ thời to tát sao”. Trong bài phú núi Chí Linh nổi tiếng, Nguyễn Trãi một lần nữa nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của chữ thời. Ông viết:
“Đã do trời mà biến thời
Lại có chí để công thành”
Ở một chỗ khác của bài phú ấy Nguyễn trãi viết:
“Bởi biết người, biết mình , hay yếu, hay mạnh
Đợi thời chờ dịp
Giấu sức, giấu tài
Ăn thường nếm mật
Ngủ thường nằm gai”
 Theo Nguyễn Trãi, người chí giả phải là người biết thời, nắm được thời  “Người quân tử theo thời thông biến”.
               Xưa nghe chuyện Lã Vọng ngồi câu cá chờ thời , rồi sau lập nên nghiệp lớn. Nay được thấy Nguyễn Trãi và nghĩa quân lam Sơn phải chịu “ nếm mật nằm gai” khi quân thù đang mạnh để đợi thờ chờ dịp thuận lợi thì giáng những đòn chí tử vào đầu giặc:
"Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”
             Rõ ràng , chữ thời ấy đâu phải lý luận suông , mà được chứng minh bởi thực tế.
            Chân lý luôn là điểm dừng của mọi sự nhận thức và hành động đúng đắn. Ví như việc nhìn nhận về chữ thời, không phải chỉ Nguyễn Trãi, chỉ người Việt Nam nói riêng hay phương Đông nói chung mới nhìn thấy tầm quan trọng của nó, mà cả phương Tây, đai biểu là Mác cũng khẳng định vai trò của chữ thời. Trong một bức thư gửi Cughenman, Mác viết: “tất nhiên là sẽ rất dễ dàng làm ra lịch sử thế giới , nhưng cuộc đấu tranh chỉ tiến hành trong điều kiện có những thời cơ chắc chắn. Mặt khác , nếu những sự ngẫu nhiên không có tác dụng gì cả thì sự sáng tạo ra lịch sử sẽ mang một tính chất rất thuần tuý. Đương nhiên , những sự ngẫu nhiên này là một bộ phận trong quá trình phát triển chung và được những sự ngẫu nhiên khác bù trừ lại . Nhưng phát triển nhanh hay chậm là phụ thuộc rất nhiều vào những sự ngẫu nhiên như vậy. Kể cả sự ngẫu nhiên như tính cách những người lãnh đạo phong trào”
            Tiếp theo Mác , Lê-nin cũng cho rằng : không thể có cách mạng nếu không có cuộc khủng hoảng trong toàn quốc lay chuyển cả đám người bóc lột lẫn đám người bị bóc lột . Cuộc khủng hoảng ấy sẽ tạo ra tình thế cách mạng mà theo người, tình thế cách mạng có mấy đặc điểm sau:
        Thứ nhất: giai cấp thóng trị không thể thống trị như cũ được nữa, nó đang lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng.
        Thứ hai: giai cấp bị trị không muốn sống như cũ nữa và đang nổi dậy đấu tranh mạnh mẽ.
        Thứ ba: quần chúng được tổ chức, tập hợp, lãnh đạo
             Đến thời đại Hồ Chí Minh, một lần nữa chữ thời lại nổi bật lên như sợi chỉ xanh chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử nhân loại .Trong nghị quyết TW VIII, Hồ Chí Minh đã có những luận điểm đúng đắn về thời cơ cách mạng. Người và trung ương đã chỉ ra những điều kiện thuận lợi cho cách mạng tháng Tám thắng lợi:
                   Điều kiện trong nước:
       Một là: Mặt trận dân tộc thống nhất phát triển trong toàn quốc , công cuộc chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám thành công đã hoàn tất.
       Hai là: nhân dân sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa theo sự lãnh đạo của Đảng ta
       Ba là: kẻ thù cách mạng suy yếu , tầng lớp trung gian ngả theo cách mạng Đảng cộng sản sẵn sàng lãnh đạo nhân dân tổng khởi nghĩa.
               Điều kiện bên ngoài:
     Một là: Liên- xô và phe Đồng minh thắng phát xít.
     Hai là: cách mạng Nhật , Pháp nổ ra thắng lợi .
     Ba là: quân Đồng minh kéo vào Đông Dương giải giáp quân Nhật
                 Có thể nói , cuộc cách mạng xã hội nổ ra là một tất yếu lịch sử. Nhưng muốn thắng lợi phải có những điêù kiện thuận lợi , hay nói đúng hơn, phải có thời cơ cách mạng . Do đó. Hiểu được chữ thời và tầm quan trọng đặc biệt của nó sẽ có tác dụng thúc đẩy cách mạng nhanh chóng thành công.
                                                                             
II-Vấn đề thời cơ trong cách mạng tháng Tám
                  Trong cuộc chiến vấn đề thời cơ có ý nghĩa quyết định sự thành bại và tất nhiên cách mạng tháng Tám cũng không nằm ngoài quy luật ấy.
                 Nói đến thời cơ trong cách mạng tháng Tám là nói đến một vấn đề có tính liên hoàn từ việc tạo thế để chớp thời , đến việc nắm bắt ,xác định được thời cơ và cuối cùng là phải dũng cảm quyết tâm chớp thời cơ.
1.Tạo thời cơ cho cáh mạng tháng Tám-nhân tố quan trọng thúc đẩy cách mạng tháng Tám thành công.
               Tạo thời là tạo ra thế mạnh cho bản thân mình để chớp lấy thời
             Không phải ngẫu nhiên chúng ta đề cập đến vấn đề tạo thời cho cách mạng tháng Tám. Mà ở đây, xuất phát từ mặt lý luận “được thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hoá ra lớn”(Nguyễn Trãi) . Rõ ràng với cách lập luận ấy, Nguyễn Trãi đẫ chỉ ra hai vấn đề của chữ thời:
           Một là: chữ thời xuất hiện từ phía địch
           Hai là:chữ thời xuất hiện từ phía ta
Thời ở đây là những điều kiện thuận lợi do địch suy yếu, khủng hoảng. Còn thế ở đây là thế mạnh của bản thân ta đã tạo ra để chớp lấy thời.Nói như Bác , thời cơ chín muồi là khi: kẻ thù suy yếu, tầng lớp trung gian ngả theo cách mạng ;Mặt trận dân tộc thống nhất phát triển trong toàn quốc, công cuộc chuẩn bị cho cách mạng thành công đã hoàn tất; Đảng cộng sản đã sẵn sàng lãnh đạo nhân dân tổng khởi nghĩa và nhân dân cũng đã sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa theo sự lãnh đạo của Đảng .
         Rõ ràng, có thời mà không có thế thì thời ấy cũng qua đi nhanh chóng. Vì thế, tạo thời cho cách mạng tháng Tám có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
        Để tạo thời, chúng ta đã chuẩn bị chu đáo đầy đủ những yếu tố cần thiết cho cách mạng thắng lợi. Cụ thể:
a. Chuẩn bị về đường lối cách mạng
             Như chúng ta đã biết, đường lối cách mạng và lí luận cách mạng quyết định sự thành bại của cách mạng. Nói như Lê-nin “ không có lí luận cách mệnh thì không có cách mệnh  vận động…”, lý luận luôn đi trước, mở đường cho phong trào cách mạng . Chính vì thế, lý luận cách mạng có đúng thì phong trào cách mạng mới giành thắng lợi.
           Căn cứ vào thực tiễn tình hình thế giới và trong nước , Đảng đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng cho phù hợp và sát với tình hình thực tế. Sự chuyển hướng ấy được bắt đầu ở Hội nhgị Trung ương lần thứ VI (11/1939), khẳng định qua Hội nghị VII(11/1940) và hoàn chỉnh ở Hội nghị VIII(5/1941) với nội dung chủ yếu: xác định mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn dân tộc, kẻ thù chính là phát xít Pháp- Nhật và phản động tay sai. Vì thế, đề cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc , hạ thấp nhiệm vụ phản phong , nhiệm vụ cách mạng ruộng đất nhằm phân hoá kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào bọn đế quốc phát xít và tay sai của chúng dể đánh đổ chúng, lôi kéo, tập hợp những hàng ngũ trung gian (tư sản, địa chủ yêu nước…) về với hàng ngũ cách mạng, nhằm đoàn kết toàn dân đánh đế quốc giành chính quyền, giành độc lập thực hiện từng bước khẩu hiệu “người cày có ruộng”, tiến tới làm cách mạng xã hội chủ nghiã , kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ dân tộc , dân chủ với chủ nghĩa xã hội , vận dụng sáng tạo phương pháp bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh thực tiễn của nước ta. . Theo người, bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng nhân dân cách mạng gồm lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang , kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang , tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền bộ phận , tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
               Nhờ có chủ trương đúng đắn, khoa học, đáp ứng được yêu cầu của lịch sử và phù hợp với nguyện vọng , quyền lợi thiết thân của mọi tầng lớp nhân dân ,Đảng đã tập hợp được đông đảo quần chúng , tạo thành sức mạnh vô song để đánh thắng bọn đế quốc tay sai giành độc lập khi thời cơ đến.
b. Chuẩn bị lực lượng cách mạng.
              Cách mạng muốn thành công, ngoài vạch đường lối đúng còn phải tổ chức lực lượng thực hiện . Lực lượng cách mạng bao gồm lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân.
            Về lực lượng chính trị : Đảng thành lập Mặt trận Việt Minh (19/5/1941) với cương lĩnh 10 điểm , Việt Minh nhanh chóng trở thành nơi tập hợp khối đoàn kết toàn dân đứng lên cứu nước , cứu nhà. Việt Minh có thành phần rất rộng rãi bao gồm tất cả các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội , không phân biệt giàu nghèo, sang hèn già trẻ, gái trai…Mặt trận việt minh bao gồm nhiều tổ chức quần chúng , được thành lập theo lứa tuổi, nghề gnhiệp . Các tổ chức này đều được gọi là “ Hội cứu quốc” nhằm nhắc nhở mọi người nhớ nhiệm vụ chính của cách mạng lúc bấy giờ là cứu nước, giải phóng dân tộc, như “Hội công nhân cứu quốc”…Mặt trận Việt Minh là tổ chức quần chúng rất vững chắc , vì dựa trên cơ sở liên minh công nông , dưới sự lãnh đạo của Đảng.
              Thông qua tổng bộ Việt Minh , Đảng đã phổ biến chủ trương , chính sách của mình đến quần chúng.Việt Minh là cầu nối giữa Đảng với quần chúng. Việt Minh tượng trưng cho khối đoàn kết toàn dân , là lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng.
             Về lực lượng vũ trang: trên cơ sở lực lượng chính trị phát triển Đảng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. sau khi khởi nghĩa Bắc Sơn(1940)thất bại, Đảng duy trì đội du kích Bắc Sơn . Một số đội tự vệ du kích khác được thành lập ở vùng Đình Cả, tràng Xá( Thái Nguyên). Về sau, đội du kích Bắc Sơn phối hợp với một số đội du kích ở Thái nguyên thành đội Cứu quốc quân.
           Ngày 22/12/1944 Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập đội “ Việt nam tuyên tuyền giải phóng quân”.
          Tháng 4/1945 Đảng triệu tập Hội nghị quân sự Bắc kỳ . Hội nghị quyết định thành lập uỷ ban quân sự Bắc kỳ để chỉ huy các lực lượng vũ trang ở miền Bắc Đông Dương , hoạt động cho thống nhất, đồng thời hỗ trợ cho các lực lượng vũ trang ở miền Nam Đông Dương. Hội nghị cũng quyết định hợp nhất hai đội “ Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” và “Cứu quốc quân” thành đội “Việt Nam giải phóng quân”. Như từ nhiều dòng suối nhỏ hợp thành con sông lớn lực lượng vũ trang của ta từ các đội du kích, tự vệ riêng lẻ tập hợp thành đội “ Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”-tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam.
                Dựa vào hai lực lượngchính trị và vũ trang , Đảng phát động hai hình thức đấu tranh : đấu tranh chính trị. Đấu tranh vũ trang và sự kết hợp hai hình thức ấy để tiến hành  tổng khởi nghĩa .
c. Xây dựng căn cứ địa cách mạng
               Căn cứ cách mạng có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng , vì là chỗ đứng chân của cách mạng , là nơi cung cấp người và của cho cách mạng , là nơi xuất phát để đánh địch và rút lui để bảo vệ mình .Căn cứ địa là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của cách mạng . Nhận thức rõ như vậy nên khi đặt chân về nước , Hồ Chí Minh đã xây dựng căn cứ Pắc- bó( Cao Bằng) . Từ Pắc -bó , căn cứ dần dần được mở rộng ra các tỉnh Cao-Bắc- Lạng. Tiếp đó, người chỉ thị “Nam tiến”để mở rộng dần căn cứ xuống các tỉnh miền xuôi.
               Tháng 6/1945 , người chỉ thị thành lập khu giải phóng Việt Bắc gồm sáu tỉnhCao-Bắc-Lạng-Thái –Hà –Tuyên. Trong khu giải phóng , 10 chính sách của Việt Minh được thực hiện . Nó trở thành chỗ dựa vững mạnh của cả nước . Đồng thời, việc thực hiện chính sách này cũng thí điểm một bước để rút kinh nghiệm trước khi tiến hành áp dụng rộng ra cả nước sau này.
             Trước ngày tổng khởi nghĩa , những căn cứ địa đã xuất hiện trong cả nước , như: Patơ, Sơn La,Nghĩa Lộ…Từ khu giải phóng khi thời cơ đến , nhân dân ta tiến lên giải phóng cả nước.
d. Chuẩn bị cho cả nước tập dượt đấu tranh
            Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng không phải ở đâu , bất cứ lúc nào quần chúng cũng làm cách mạng và giành được thắng lợi. Muốn làm cách mạng , quần chúng phải được giáo dục, tổ chức, giác ngộ, tập dượt đấu tranh . Như vậy, lực lượng của quần chúng mới biến thành sức mạnh.
            Nhận thức rõ điều này, ngay từ khi mới thành lập, Đảng đã luôn luôn kiên trì vận động , tổ chức quần chúng. Từ phong trào cách mạng 1930-1931, cuộc vận động dân chủ 1936-1939 , hàng triệu lượt quần chúng được huy động xuống đường , hìmh thành những đội quân chính trị to lớncho cách mạng. Trong phong trào phản đế (1939-1945), quần chúng tiếp tục được rèn luyện  đấu tranh. Trong cao trào kháng Nhật cứu nước thời kỳ tiền khởi nghĩa ( từ tháng 3 đến tháng 8 /1945), Đảng tổ chức lãnh đạo  phong trào phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Qua đấu tranh, quần chúng nung nấu thêm lòng căm thù đối với giặc Nhật và tay sai . Do đó, phong trào thi đua sắm vũ khí đánh đuổi quân thù rất sôi nổi. Đâu đâu, nhân dân cũng bí mật may cờ, sắm vũ khí. Quân Nhật và bọn tay sai đứng trước một tình thế giống như một bãi cỏ khô đặt cạnh một đám than hồng, chỉ chờ một luồng gió mạnh thổi tới là sẽ bùng lên thiêu cháy chính quyền của chúng.Tất cả đã sẵn sàng, chỉ còn chờ đón cơ hội là quần chúng tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
e. Chuẩn bị bộ máy lãnh đạo tổng khởi nghĩa
            Đây là bước chuẩn bị cuối cùng nhưng rất quan trọng. Chúng ta đã lập ra được uỷ ban khởi nghĩa trung ương để sẵn sàng lãnh đạo khởi nghĩa khi thời cơ đến.
            Những sự kiện trên đây đã chứng minh rằng Đảng và nhân dân ta đã chuẩn bị lâu dài, chu đáo cho  cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám . Nhờ chuẩn bị chu đáo trong suốt 18 năm kể từ khi có Đản (1930-1945), trực tiếp là giai đoạn 1939-1945 nên khi thời cơ đến, chúng ta đã có đầy đủ thế và lực để chớp lấy thời cơ. Đây là một thực tế hùng hồn đập tan những luận điệu xuyên tạc của một số sử gia tư sản Phương Tây và bọn bồi bút cho chính quyền miền Nam trước đây nói rằng “Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam thành công chẳng qua chỉ là nổ ra trong một thời cơ bỏ ngỏ”. Đồng thời, là một thực tế sinh động chứng minh rằng “ cách mạng không tự nó đến, phải chuẩn bị nó, giành lấy nó”.
2. Nhận thức đúng thời cơ- yếu tố không thể thiếu được trong nghệ thuật
lãnh đạo cách mạng.
               Nhận thức đúng thời cơ là khả năng phán đoán chính xáclúc nào thời cơ xuất hiện và lúc nào thờ cơ chín muồi.
              Trong chiến tranh, có thời, có thế vẫn chưa đủ. Điều cốt yếu là ở chỗ: có thời, có thế nhưng phải nắm được thời, xác định được một cách chính xác thời cơ ấy đã đến hay chưa?Đến bao giờ?Và đến như thế nào? Thời gian xuất hiện và tồn tại của nó là bao lâu?Có nắm được vấn đề ấy thì mới đưa ra được phương hướng đúng đắn để chỉ đạo cho hành động.
            Ngày 6/6/1941 trong thư gửi cho đồng bào cả nước, HồChí Minh đã chỉ ra :cuộc cách mạng của nhân dân ta sở dĩ chưa thắng lợi “không phải vì đế quốc mạnh , nhưng một là vì cơ hôi chưa chín, hai là nhân dân ta chưa hợp lực đồng tâm”.
            Tháng 12/1941 , Người viết bài “ thế giới đại chiến và phận sự của dân ta” đăng trên báo Việt Lập, trong đó người chỉ rõ: chiến tranh thế giới là cơ hội tốt cho nhân dân Việt nam “nhân cơ hội này mà khôi phục lại tổ quốc, mà làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập”.
           Ngày9/3/1945 , Nhật đảo chính Pháp , tình thế cách mạng thay đổi nhanh chóng tạo cơ hội thuận lợi cho cách mạng nước ta. Từ hai kẻ thù :Nhật, Pháp chỉ còn một kẻ thù-Nhật. Hội nghị thường vụ trung ương đã họp và phân tích thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền cho nhân dân ta đã đến nhưng chưa chín muồi vì nhật và tay sai còn mạnh.
            Đầu tháng 8/1945 , Người và trung ương đã chỉ ra: thời cơ cách mạng ở nước ta đã và đang xuất hiện .Nước ta bước vào ngưỡng cửa một cuộc cách mạng . Lúc này, Đảng và bác đã hoạt động tích cực, nhanh chóng đưa ra những phán đoán chuẩn xác về thời cơ khởi nghĩa. Ngày 13/8/1945 , được tin Nhật đầu hàng Đồng Minh, thời cơ giành chính quyền ở nước ta đã chín muồi. Người và trung ương đã chỉ ra thời cơ đó như sau:
            Thứ nhất: Nhật ở chính quốc đã đầu hàng Đồng Minh, Nhật ở Đông Dương như rắn mất đầu , khủng hoảng, phân hoá thành hai phái: chủ chiến và chủ hoà bắn lẫn nhau.
           Thứ hai: Chính phủ tay sai Nhật là Trần Trọng Kim , những Đảng phái thân Nhật đang hoang mang, lúng túng và tê liệt.
           Thứ ba: lực lượng trung gian( địa chủ, tư sản, tiểu tư sản …)phân hoá, phần lớn đã ngả theo cách mạng và cảm tình, ủng hộ việt Minh.
          Thứ tư: lực lượng cách mạng của nhân dân trưởng thành vững mạnh, Mặt trận Việt Minh phát triển trong toàn quốc, nhân dân cả nước sôi sục chỉ chờ lệnh khởi nghĩa của Đảng và Mặt trận Việt Minh là nhất tề nổi dậy giành chính quyền.
          Thứ năm: Đảng cộng sản Đông Dương chuẩn bị chu đáo sẵn sàng, kiên quyết phát động toàn dân.
         Thứ sáu: quân Đồng Minh sắp kéo vào tước vũ khí của quân Nhật
        Hồ chí Minh một lần nữa khẳng định lại “lúc này, thời cơ thuận lợi đã tới” .Hay trong bức thư kêu gọi tổng khởi nghiã Người lại nhấn mạnh “giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến”.
         Nếu đem đối chiếu quan niệm thời cơ của Hồ Chí Minh và trung ương Đảng với Nguyễn Trãi ,Mác-Lêninchúng ta thấy rằng: mặc dù Hồ Chí Minh và Đảng đã xác định thời cơ một các đầy đủ vàchi tiết hơn song về cơ bản , nó vẫn đảm bảođược những yếu tố:lực lượng của ta đã đủ mạnh và sẵn sàng chiến đấu, lực lượng của địch đã suy yếu đến mức tột cùng và đang khủng hoảng trầm trọng . Lúc này, thời cơ đã đén và thế đã có. Điều đó khẳng định khả năng phán đoán , nhận thức về thời cơ của Đảng và Hồ Chí Mỉnh rất chính xác và tinh tường.
          Song , điểm mấu chốt của cách mạng tháng Tám là thời cơ đến rất nhanh và tồn tại rất ngắn ngủi. Cụ thể: thời cơ xuất hiện từ sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh (13/8/1945) và kết thúc trước khi quân đồng Minh vào nước ta. Đó là lúc kẻ thù cũ đã ngã gục còn kẻ thù mới còn chưa kịp đến. Đó là lúc, sức mạnh của cách mạng ở mức cao nhất , còn sức mạnh của kẻ thù ở mức thấp nhất.
         Như vậy, việc xác định thời cơ một cách chính xác là một công việc rất khó khăn . Bởi lẽ, nếu phán đoán thời cơ trước ngày Nhật đầu hàng Đồng Minh , thì lúc đó sức mạnh của chúng vẫn dồi dào và ý chí xâm lược vẫn chưa lay động . Ta tiến công lúc ấy sẽ hao tổn rất lớn mà khả năng thắng lợi cũng rất mong manh. Còn nếu phán đoán thời cơ sau ngày quân Đồng Minh kéo vào hay từ ngày Nhật đầu hàng Đồng minh trở đi mà không giới hạn đến lúc nào thì một là kẻ thù thêm đông , hai là vấn đề giành độc lập rất khó.
           Có thể nói, nhờ khả năng phán đoán chính xác, lập luận chặt chẽ và nhìn nhận vấn đề thấu đáo Đảng ta đã có biện pháp chỉ đạo kịp thời hành động cách mạng , nhờ đó tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng thành công . Đúng như Mác nói: “ nghệ thuật lãnh đạo cách mạng là nắm vững thời cơ”.
3. Quyết tâm chớp thời cơ- bước đột phá cuối cùng để đi đến thắng lợi
           Xác định đúng thời cơ đã khó, nhưng quyết tâm chớp thời cơ lại còn khó hơn nữa. Bởi lẽ, lúc này, thời cơ đến rất nhanh. Trong cái khoảng trở bàn tay ấy, việc hành động làm sao phải tập trung , kịp thời và linh hoạt , sao cho việc giành được chính quyền phải được tiến hành trước khi quân Đồng Minh vào và phải đứng ở địa vị người chủ nhà để đón tiếp .
           Nhận thức rõ điều đó, ngay khi nghe tin chính phủ Nhật chính thức tuyên bố đầu hàng Đồng Minh không điều kiện(15/8/1945) Hội nghị toàn quốc của Đảng đã họp từ 13-15/8/1945 quyết định tiến hành tổng khởi nghĩa. Tiếp đó, tổng bộ Việt Minh đã triệu tập quốc dân Đại hội ở Tân Trào (Tuyên Quang) . Đại hội đã thảo luận  và tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của trung ương Đảng , thông qua quốc kỳ, quốc ca, đặt tên nước, thảo luận và bổ sung một số chính sách cần thi hành ngay sau khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Cuối cùng , Đại hội đã thông qua mệnh lệnh khởi nghĩa và quân lệnh số 1 . Đại hội quốc dân vừa bế mạc chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên khởi ngthĩa giành chính quyền: “giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến . Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
          Hưởng ứng lệnh Tổng khởi nghĩa của Đảng , lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh , đồng bào cả nước, triệu người như một nhất tề đứng lên với tinh thần “dù hy sinh đén đâu, dù phải đốt cháy cả dãy trường sơn , cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập tự do”.
            Từ ngày 14/8-28/8/1945 cuộc tổng khởi nghĩa đã nổ ra và giành thắng lợi khắp các tỉnh thành trong cả nước. Trong đó, đòn quyết định là ở Hà Nội(19/8), Huế(23/8), Sài Gòn(25/8).
           Cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám đã thành công trong cả nước . Ngày 2/9/1945 taị quảng trường Ba Đình lịch sử, Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản tuyên ngôn độc lập –khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
*                                              *
                                                            *
              Tóm lại, với tinh thần kiên quyết quả cảm, toàn dân ta đã nhất tề đứng  dậy làm nên một mùa thu lịch sử trong khoảng 15 ngày. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã phát huy và và làm rạng rỡ hơn nữa truyền thống kiên cường, bất khuất, anh dũng hy sinh, đoàn kết, nhất trí của dân tộc . Với thắng lợi này, một lần nữa đã khẳng định trong thực tế tầm quan trọng đặc biệt của thời cơ , đã chỉ ra nội dung cụ thể của thời cơ, đã lý giải tại  sao thời cơ đến từ phía địch là như nhau nhưng nhiều nước đã không giành được thắng lợi . Đồng thời nó cũng để lại nhiều bài học quý báu về vấn đề tạo thời, nắm thời và chớp thời cho hậu thế.
                                                                                                                                                   
Ngày 16/08/2011 
Phạm Thị Lan  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét