Thứ Hai, 25 tháng 6, 2012

Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta - Một sáng tạo lịch sử

Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta - Một sáng tạo lịch sử



ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG
Đại tá TRẦN TRỌNG TRUNG*
Trong lịch sử hiện đại, đất nước Việt Nam thoát ra khỏi những năm dài nô lệ để trở thành một quốc gia độc lập thống nhất như ngày nay là vì nhân dân và lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam đã kiên trì cuộc chiến đấu bền bỉ theo đường lối chính trị đúng đắn và đường lối quân sự sáng tạo của Đảng.
Đường lối quân sự của Đảng kế thừa và phát triển lên một trình độ mới, một chất lượng mới truyền thống yêu nước, tự lập tự cường, anh hùng bất khuất, quyết chiến quyết thắng, truyền thống quân sự cả nước chung sức đánh giặc của dân tộc Việt Nam, một dân tộc vốn có tài thao lược kiệt xuất.
Từ khi Đảng ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh giành chính quyền (1930-1945) và chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước (1945-1975), trên cơ sở đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, đường lối quân sự hình thành và không ngừng phát triển từng bước qua mỗi thời kỳ cách mạng và chiến tranh cách mạng của nhân dân ta.
Đường lối quân sự của Đảng bắt nguồn từ đường lối chính trị và là một bộ phận hữu cơ của đường lối chính trị của Đảng. Đường lối quân sự của Đảng là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Thực tế khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng Việt Nam đã chỉ rõ, chỉ có dựa trên nền tảng chính trị vững chắc của toàn dân, đường lối quân sự của Đảng mới tạo nên thế trận toàn dân đánh giặc, mới biến được sức mạnh chính trị của toàn dân thành sức mạnh tổng hợp, toàn diện, để thắng địch trên chiến trường.
Từ cơ sở thực tiễn đấu tranh ngày càng phong phú của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng lâu dài, đường lối quân sự của Đảng ngày càng có thêm những cơ sở khoa học vững chắc, có tính chiến đấu cao nên ngày càng hoàn chỉnh và trở thành ngọn cờ trăm trận trăm thắng của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam và toàn dân tộc Việt Nam.         
Đường lối quân sự của Đảng là đường lối khởi nghĩa vũ trang toàn dân và kháng chiến toàn dân, toàn diện
Mục tiêu chính trị của Đảng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Để giành độc lập dân tộc, Đảng đã định hướng cho toàn dân: đối tượngcủa cách mạng, của chiến tranh là kẻ thù thống trị và xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Đường lối quân sự của Đảng thể hiện tư tưởng cách mạng bạo lực trong khởi nghĩa và chiến tranh, quan điểm của Đảng trong khởi nghĩa và chiến tranh là quan điểm quần chúng, quan điểm khởi nghĩa toàn dân, kháng chiến toàn dân.
Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh trong điều kiện của một nước đất không rộng lắm, người không đông lắm, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, cơ sở công nghiệp rất nhỏ yếu. Đối tượng của nhân dân ta trong khởi nghĩa và chiến tranh là những nước không những có số dân và số quân đông mà còn có tiềm lực kinh tế và quân sự lớn, quân đội được trang bị vũ khí và phương tiện kỹ thuật nhiều và hiện đại hơn Quân đội ta gấp nhiều lần.
Tuy nhiên, nhân dân ta tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh trong điều kiện đất nước và dân tộc đã xây dựng nên truyền thống chống ngoại xâm hết sức vẻ vang. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với phương châm toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, nhân dân ta không những kế thừa truyền thống oanh liệt cả nước chung sức đánh giặc của ông cha mà còn không ngừng phát triển truyền thống đó trong điều kiện mới, phát huy lên một tầm cao mới. Đứng trước những đội quân nhà nghề của đế quốc luôn hơn ta về sức mạnh quân sự, Đảng đã huy động lực lượng rộng rãi và mạnh mẽ của cả nước, của toàn dân, đánh địch về các mặt quân sự, chính trị, binh vận, ngoại giao và đã từng bước giành thắng lợi.
Sở dĩ Đảng động viên được sức mạnh của toàn dân vì nhân dân các dân tộc đã được Đảng giáo dục giác ngộ về mục đích chính trị của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, đó là mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ nhân dân và chủ nghĩa xã hội, đó cũng chính là mục tiêu do nhân dân  vì nhân dân với ý nghĩa và nội dung đầy đủ nhất trong thời đại mới. Mục đích chính trị của khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền và của chiến tranh giải phóng dân tộc quyết định tính chất chính nghĩa của khởi nghĩa và chiến tranh, đó là cơ sở để giác ngộ sâu sắc nhân dân về nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ kháng chiến và cũng là cơ sở để huy động sức mạnh chính trị, tinh thần và vật chất của toàn dân vào khởi nghĩa và chiến tranh. Vì, như Lênin nói, “sự hiểu biết của quần chúng về mục đích và nguyên nhân chiến tranh có tầm quan trọng lớn lao và bảo đảm thắng lợi”1.
Quá trình động viên toàn dân, tổ chức toàn dân chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh là một quá trình giác ngộ, giáo dục, tổ chức bền bỉ, lâu dài, liên tục để hình thành và không ngừng phát triển hai lực lượng chủ yếu, chủ thể của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, đó là lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân.
Lực lượng chính trị quần chúng, bao gồm mọi thành phần dân tộc và tôn giáo hết sức rộng rãi, tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Lực lượng chính trị là cơ sở vững chắc nhất để xây dựng và phát triển lực lượng về mọi mặt cho khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân. Lực lượng chính trị quần chúng là chủ thể trong đấu tranh chính trị chống địch và là lực lượng chủ yếu quyết định thắng lợi của khởi nghĩa toàn dân, là cơ sở và là nguồn để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân. Trong chiến tranh, lực lượng chính trị quần chúng là chỗ dựa vững chắc của lực lượng vũ trang cả trong chiến đấu và xây dựng.
Lực lượng vũ trang nhân dân là lực lượng quần chúng cách mạng được tổ chức và vũ trang với mức độ khác nhau, thoát ly sản xuất hoặc không thoát ly sản xuất, tự nguyện chiến đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm ba thứ quân, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Lực lượng vũ trang được xây dựng trên cơ sở lực lượng chính trị rộng rãi và hùng hậu của quần chúng cách mạng, là hình ảnh khối công nông liên minh vũ trang chiến đấu. Trong khởi nghĩa, lực lượng vũ trang là nòng cốt cho quần chúng cách mạng nổi dậy giành chính quyền. Trong chiến tranh, lực lượng vũ trang là lực lượng chủ yếu trực tiếp tiêu diệt địch, giành thắng lợi cho chiến tranh.
Do quân địch thường mạnh hơn ta gấp nhiều lần về trang bị kỹ thuật, cho nên quân và dân ta đánh giặc trong điều kiện phải lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, dùng vũ khí và phương tiện chiến tranh thường kém địch về số lượng và trình độ hiện đại. Vì vậy, về phương thức tiến hành chiến tranh, Đảng không tự hạn chế trong những phương thức chiến tranh thông thường giữa hai quân đội chính quy, mà tiến hành chiến tranh bằng cả lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, lực lượng của toàn dân đánh giặc. Được giáo dục giác ngộ về mục tiêu đấu tranh, các tầng lớp nhân dân lại được Đảng tổ chức rất khoa học, chặt chẽ và rộng khắp, được chỉ đạo vận dụng nhiều phương thức đấu tranh linh hoạt và phong phú, tạo nên một thế trận chiến tranh nhân dân “thiên la địa võng” để thắng những kẻ địch mạnh hơn về trang bị kỹ thuật. Đường lối toàn dân kháng chiến của Đảng, với một thế trận chiến tranh nhân dân ngày càng phát triển lên trình độ cao, đã buộc kẻ địch không chỉ đối mặt với quân đội chính quy trên chiến trường trong một cuộc chiến tranh “quy ước” mà với cả dân tộc Việt Nam, với cả ba thứ quân, không chỉ ở mặt trận phía trước mà “ở bất cứ nơi nào có bóng địch”.
Câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (12-1946) là một định hướng chiến lược, một cẩm nang hoạt động đối với toàn dân ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”2.
Bất ngờ chiến lược lớn nhất đối với cả Pháp và Mỹ trong suốt quá trình chiến tranh xâm lược của chúng, là Đảng đã huy động được mọi tầng lớp nhân dân xông lên mọi trận tuyến đấu tranh với địch, đã huy động được hàng triệu người ra tiền tuyến, đã khai thác và phát huy đến mức cao nhất mọi tiềm lực của đất nước để chi viện cho chiến trường. Đảng đã huy động toàn dân đánh địch một cách toàn diện trên cả ba vùng chiến lược, đã phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang nhân dân và lực lượng chính trị quần chúng, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và công tác binh vận, địch vận, kết hợp khởi nghĩa với chiến tranh, kết hợp các cuộc nổi dậy của quần chúng với hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang, kết hợp cách đánh chính quy của các đơn vị chủ lực với cách đánh du kích của các lực lượng vũ trang địa phương, kết hợp tác chiến của bộ đội, binh đoàn ở mặt trận phía trước với các trận đánh hiểm của các lực lượng luồn sâu trong lòng địch, kết hợp vũ khí hiện đại với vũ khí thô sơ để thắng quân đội nhà nghề và vũ khí hiện đại của chúng.
Đường lối quân sự của Đảng là đường lối vũ trang quần chúng cách mạng đi đôi với xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
Ngay từ Hội nghị Trung ương lần thứ tám (5-1941), Đảng đã đặt vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng gồm nhiều thứ quân: Đội du kích chính thức là đội vũ trang tập trung, rồi đến Tiểu tổ du kích cứu quốc và cuối cùng là Đội tự vệ. Như vậy, sự phát triển về quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng thể hiện trong Hội nghị Trung ương lần thứ tám là xây dựng các lực lượng vũ trang quần chúng rộng rãi, tại chỗ, song song với việc xây dựng quân đội tập trung, tức bộ đội chủ lực, thường trực, thoát ly sản xuất.
Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, trên nền tảng chính trị vững chắc của toàn dân, dù được xây dựng và phát triển trên nhiều địa bàn chiến lược trong những điều kiện cụ thể khác nhau, lực lượng vũ trang nhân dân của ta vẫn bao gồm ba thứ quân ở ba cấp: bộ đội chủ lực ở Tổng hành dinh và cấp khu, bộ đội địa phương ở tỉnh và huyện, dân quân, du kích và tự vệ ở cơ sở. Trong thế trận toàn dân đánh giặc, ba thứ quân là ba thành phần không thể thiếu trong thể thống nhất, thế “kiềng ba chân” của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam. Mỗi thứ quân đều có vị trí chiến lược quan trọng và đều có nhiệm vụ hỗ trợ lẫn nhau, tạo điều kiện để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ.
Bộ đội chủ lực là lực lượng cơ động, nòng cốt để hoàn thành các nhiệm vụ chiến lược - chiến dịch trên chiến trường. Bộ đội chủ lực được tổ chức ở cấp bộ và cấp khu (quân khu). Bộ đội chủ lực của Tổng hành dinh là các binh đoàn chiến lược, cơ động trên các chiến trường trong cả nước, bao gồm lục quân, phòng không - không quân và hải quân do Quân uỷ Trung ương lãnh đạo, Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy. Bộ đội chủ lực của quân khu do đảng ủy quân khu lãnh đạo, bộ tư lệnh quân khu trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy. Nhiệm vụ chủ yếu của bộ đội chủ lực là tác chiến hợp đồng quân binh chủng quy mô ngày càng lớn, nhằm tiêu diệt lực lượng và phương tiện chiến tranh quy mô lớn của đối phương, giải phóng đất đai có ý nghĩa chiến lược quan trọng, góp phần quyết định làm thay đổi cục diện chiến trường và kết thúc thắng lợi chiến tranh. Để tạo thêm điều kiện hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu của mình, bộ đội chủ lực luôn quan tâm giúp đỡ và đoàn kết hợp đồng với các lực lượng vũ trang địa phương, cả trong tác chiến và xây dựng.
Bộ đội địa phương là một bộ phận quân đội thường trực ở tỉnh, huyện, do cấp ủy đảng địa phương trực tiếp lãnh đạo, cơ quan quân sự địa phương trực tiếp chỉ huy, dưới sự chỉ đạo của cơ quan quân sự cấp trên. Quy mô tổ chức và trình độ trang bị của bộ đội địa phương tùy thuộc vào nhiệm vụ tác chiến và điều kiện cụ thể của từng địa phương, từng chiến trường. Bộ đội địa phương có nhiệm vụ tác chiến tiêu diệt địch trong địa phương; giúp đỡ, hợp đồng tác chiến với bộ đội chủ lực và cùng dân quân, du kích và tự vệ làm nòng cốt cho phong trào chiến tranh nhân dân ở địa phương; làm công cụ bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân, bảo vệ sản xuất và tham gia sản xuất, giữ vững trật tự trị an trong địa phương.
Dân quân, du kích và tự vệ là lực lượng nhân dân đông đảo không thoát ly sản xuất, được vũ trang thường xuyên và có tổ chức ở cơ sở, làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc. Dân quân, du kích và tự vệ được tổ chức theo thôn, xã, phường, khu phố, xí nghiệp phù hợp với nhiệm vụ chiến đấu, điều kiện và đặc điểm của từng địa phương. Dân quân, du kích và tự vệ là công cụ bạo lực, là lực lượng bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân ở cơ sở, do đảng ủy cơ sở trực tiếp lãnh đạo, do cơ quan quân sự ở cơ sở trực tiếp chỉ huy, dưới sự chỉ đạo của cơ quan quân sự cấp trên. Dân quân, du kích và tự vệ là nguồn bổ sung trực tiếp cho bộ đội thường trực, là lực lượng phối hợp và phục vụ bộ đội chiến đấu, phục vụ tiền tuyến, bảo đảm giao thông thời chiến.
Để phát huy đầy đủ sức mạnh của ba thứ quân, trong xây dựng Đảng đặc biệt quan tâm chỉ đạo tổ chức các lực lượng một cách hợp lý, có số lượng thích hợp, có chất lượng cao, lấy chất lượng làm chính; trong tác chiến, Đảng lãnh đạo giải quyết tốt vấn đề nâng cao hiệu lực chiến đấu của từng thứ quân, đặc biệt là của bộ đội chủ lực trong những chiến dịch có ý nghĩa chiến lược quan trọng.
Phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự thể hiện cụ thể đường lối quân sự của Đảng
Đứng trước những đội quân viễn chinh nhà nghề của các nước đế quốc xâm lược, Đảng không chỉ dùng lực lượng quân đội để tiến hành cuộc “chiến tranh quy ước” mà huy động sức mạnh của cả dân tộc, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân toàn diện. Cụ thể là, trên nền tảng chính trị vững chắc của toàn dân, Đảng phát huy cao độ tính ưu việt của thế trận toàn dân đánh giặc, phát huy sức mạnh của ba thứ quân trong lực lượng vũ trang nhân dân, nâng cao hiệu lực chiến đấu của từng thứ quân để thắng địch từng bước. Thực tế cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, cuộc Đồng khởi ở miền Nam những năm 1959-1960 và hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã chứng minh sức mạnh của toàn dân là vô địch, chứng minh phương thức khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân theo đường lối quân sự của Đảng là hoàn toàn đúng đắn. Riêng trong chiến tranh, trên cơ sở phát huy sức mạnh của toàn dân kháng chiến, Đảng đã lãnh đạo toàn quân, toàn dân đánh địch trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, tư tưởng. Tuy mỗi mặt trận đều có vị trí quan trọng trong cuộc kháng chiến toàn diện, nhưng đấu tranh vũ trang là hình thức đấu tranh cơ bản, giữ vai trò quyết định trực tiếp trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự của địch trên chiến trường. Chỉ có phát huy cao độ sức mạnh của ba thứ quân, thắng địch về quân sự trên chiến trường mới đưa kháng chiến đến thắng lợi, vì đánh thắng về quân sự là phương thức quyết định đập tan ý chí xâm lược của kẻ thù.
Kẻ thù của chúng ta là quân đội của những nước đế quốc đất rộng, người đông, kinh tế phát triển, có tiềm lực quân sự lớn hơn ta gấp nhiều lần, có quân đội và trang bị kỹ thuật hiện đại, bản chất lại cực kỳ ngoan cố và xảo quyệt. Trong điều kiện đó, Đảng chủ trương đánh lâu dài, đồng thời ra sức tạo thời cơ và kịp thời chớp thời cơ giành thắng lợi trong chiến tranh càng sớm càng tốt. Vận dụng chiến lược đánh lâu dài trong chiến tranh giải phóng dân tộc là tạo điều kiện để đẩy mạnh tiến công tiêu diệt địch, từng bước hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu của chúng, từng bước bồi dưỡng và phát huy chỗ mạnh, khắc phục chỗ yếu của ta. Thực tế hai cuộc kháng chiến đã chứng minh, chiến lược đánh lâu dài là điều kiện để làm cho địch càng đánh càng suy yếu, ta càng đánh càng lớn mạnh, càng đánh càng thắng, làm thất bại từng âm mưu chiến lược của địch, tiến tới giành thắng lợi cuối cùng. “Muốn đạt được tất cả những kết quả ấy, phải đánh lâu, phải có thời gian. Thời gian làm việc cho ta, thời gian là thầy chiến lược của ta nếu nhân dân ta quyết tâm kháng chiến bền bỉ”3.
Đảng chủ trương đánh lâu dài để từng bước chuyển hóa so sánh lực lượng ngày càng có lợi cho ta, nhưng “đánh lâu dài” không có nghĩa là vô hạn độ. Trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, quá trình phát triển của chiến tranh thường có những bước chuyển biến nhảy vọt. Từ tiến dần từng bước đến phát triển nhảy vọt là quy luật của quá trình vận động của chiến tranh, do cố gắng và thắng lợi của ta, do sai lầm và thất bại của địch, hoặc do nhiều điều kiện khách quan thuận lợi tạo nên. Vấn đề là ở chỗ, đi đôi với khẳng định phương châm chiến lược đánh lâu dài, Đảng đã nhạy bén dự kiến trước khả năng chuyển biến của tình hình, kịp thời nắm lấy thời cơ, hạ quyết tâm đúng đắn để thúc đẩy cục diện chiến tranh phát triển, tạo nên những bước nhảy vọt có ý nghĩa bước ngoặt chiến lược mới hoặc để kết thúc chiến tranh trong điều kiện có lợi cho ta. Chiến dịch Biên giới mùa khô 1950, chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ trong kháng chiến chống Pháp; cuộc Đồng khởi 1959-1960, cuộc tiến công chiến lược Xuân 1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 trong kháng chiến chống Mỹ là những dẫn chứng cụ thể.
Trong thời đại ngày nay, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta tiến hành trong điều kiện sự nghiệp cách mạng của các dân tộc trên thế giới có quan hệ khăng khít với nhau, phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau. Nhân dân ta cần và có thể phát huy những nhân tố thuận lợi của thời đại để tạo thêm cho mình thế mạnh và lực mạnh để hạn chế những yếu kém về so sánh lực lượng với quân đội các nước đế quốc xâm lược. Trong điều kiện đó, Đảng vừa động viên toàn quân toàn dân phát huy tinh thần dựa vào sức mình là chính đồng thời ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của phong trào cách mạng thế giới. Về mối quan hệ giữa tinh thần tự lực cánh sinh và ý thức tranh thủ viện trợ quốc tế, tư tưởng chỉ đạo của Đảng là: quân và dân ta chỉ có thể tranh thủ được sự giúp đỡ quốc tế ngày càng lớn và phát huy đến mức cao nhất tác dụng tích cực của nó trên cơ sở có đầy đủ tinh thần tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, tránh mọi tư tưởng ỷ lại vào nước ngoài. Sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam phải do chính nhân dân Việt Nam quyết định. 
Trong kháng chiến, chính nhờ Đảng phát huy được sức mạnh của toàn dân đánh giặc mà cả ba thứ quân đã cùng lực lượng chính trị có điều kiện kết hợp chặt chẽ hai hình thức chiến tranh du kích  chiến tranh chính quy, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, có điều kiện kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng và vận dụng phương thức đánh địch trên cả ba vùng chiến lược nông thôn rừng núi - nông thôn đồng bằng - thành thị với những hình thức thích hợp. Mỗi địa bàn chiến lược và mỗi hình thức đấu tranh đều có vị trí quan trọng khác nhau, xuất phát từ điều kiện cụ thể về so sánh lực lượng giữa ta và địch khác nhau, cho nên Đảng luôn căn cứ vào tình hình phát triển của các cuộc tiến công quân sự của lực lượng vũ trang và phong trào nổi dậy của quần chúng trong từng thời kỳ và trong từng vùng để đặt trọng tâm chỉ đạo vận dụng quy mô và hình thức đấu tranh cho thích hợp.
Tư tưởng đánh tiêu diệt là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong nghệ thuật quân sự của Đảng. Để quán triệt tư tưởng đánh tiêu diệt cả trong chiến lược, chiến dịch và chiến đấu, Đảng luôn nhấn mạnh yêu cầu đánh giá khách quan chính xác so sánh lực lượng trên chiến trường để chọn hình thức tác chiến và sử dụng lực lượng thích hợp, tạo mọi điều kiện để tiến công địch một cách tích cực, chủ động, kiên quyết, linh hoạt, mưu trí sáng tạo, bí mật bất ngờ.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, quân và dân ta luôn đứng trước một đối tượng hơn ta về binh lực, nhất là về trang bị kỹ thuật, do đó phương châm chỉ đạo tác chiến của Đảng cả về chiến lược, chiến dịch và chiến đấu là tích cực tiêu diệt lực lượng địch, giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta, từng bước chuyển hóa so sánh lực lượng, làm cho lực lượng ta càng đánh càng trưởng thành, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng, trên cơ sở quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, tiến công là chủ yếu. Thực tế đã chứng minh, để phát huy tính ưu việt của thế chiến lược toàn dân đánh giặc, quân và dân ta cần và có thể tận dụng mọi hình thức sáng tạo và mọi phương pháp thích hợp để không ngừng phát huy tinh thần tích cực tiến công, đánh bại địch từng bước, trên từng mặt, ở từng vùng, tiến lên kết thúc thắng lợi chiến tranh. Tư tưởng tiến công bắt nguồn từ truyền thống quật cường của dân tộc, từ tinh thần cách mạng triệt để của Đảng, từ chủ nghĩa yêu nước mãnh liệt của quân và dân ta, từ ưu thế tuyệt đối về chính trị tinh thần của chiến tranh chính nghĩa. Tư tưởng chiến lược tiến công dựa trên cơ sở đánh giá khách quan đặc điểm và xu thế phát triển của so sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường; dựa trên kết quả động viên và tổ chức toàn dân đánh địch toàn diện; dựa trên khả năng vận dụng các hình thức đấu tranh độc đáo của lực lượng chính trị quần chúng song song với các phương thức tác chiến sáng tạo của lực lượng vũ trang trên chiến trường.
*
 *      *
Trải qua ba thập kỷ vận dụng vào thực tế đấu tranh giải phóng dân tộc, đường lối quân sự của Đảng hình thành và không ngừng phát triển từng bước. Qua thực tiễn phong phú của Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đường lối đó ngày càng trở nên hoàn chỉnh và trở thành một trong những yếu tố quyết định nhất trong sự nghiệp cách mạng và chiến tranh cách mạng của nhân dân ta.
Ngày nay, đất nước đang trong quá trình đổi mới và hội nhập, đường lối quân sự của Đảng vẫn là bó đuốc soi đường cho toàn quân, toàn dân trong sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân trong điều kiện hòa bình. Tuân theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”4quân và dân ta luôn quán triệt phương châm kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, đồng thời không ngừng nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ bầu trời, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải của Tổ quốc, làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù.
----------------
* Nhà nghiên cứu quân sự.
1. V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Nga, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, t.31, tr.115.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.480.
3. Trường Chinh: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.33.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t.7, tr. 317.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét