Thứ Hai, 18 tháng 6, 2012

QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ CHỦ NGHĨA MÁC–LÊNIN VÀO VIỆT NAM

QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ CHỦ NGHĨA MÁC–LÊNIN VÀO VIỆT NAM



Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã xúc tiến hoạt động lý luận và thực tiễn nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin về nước. Việc truyền bá của Người diễn ra liên tục từ năm 1921 đến năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu sự chiến thắng bước đầu của tư tưởng cộng sản chủ nghĩa trong lịch sử tư tưởng nước ta. Sự truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản của Người không phải là một hiện tượng nhất thời tự phát, mà là một quá trình không đứt đoạn, đi từ thấp đến cao, có chủ đích. Có thể phân chia quá trình đó thành ba chặng, tương ứng với ba thời kỳ hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trên bốn địa bàn khác nhau:  chặng (thời kỳ) Pari, chặng (thời kỳ) Mátxcơva và chặng (thời kỳ) Quảng Châu - Đông Bắc Xiêm. Ở mỗi chặng, tuỳ vào điều kiện lịch sử cụ thể mà Nguyễn Ái Quốc sử dụng các phương tiện truyền bá khác nhau, đề ra những nội dung truyền bá chủ yếu khác nhau và do đó mục đích đạt tới cũng khác nhau.  Các chặng đó được đặt trong một quá trình kế tiếp nhau về mặt thời gian nên có liên quan mật thiết với nhau, chặng trước là tiền đề của chặng sau và chặng sau là kết quả của chặng trước đó. Chúng tôi lần lượt trình bày nội dung chính trong hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin về nước của Nguyễn Ái Quốc ở mỗi thời kỳ.
I. Thời kỳ Pari - Sự khởi đầu của quá trình
Thời gian hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trên đất Pháp bao gồm thời kỳ tìm đường  thời kỳ hoạt động truyền bá tư tưởng cứu nước. Như vậy, hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc chỉ là một giai đoạn trong toàn bộ thời gian Người sống và hoạt động trên đất Pháp. Nghiên cứu những tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc trên đất Pháp, chúng tôi coi bài Đông Dương đăng trên La Revue Communiste (Tạp chí Cộng sản) số 14 (4-1921) và số 15 (5-1921)1là mốc mở đầu cho quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam của Người. Trong bài viết đó, lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc đã trình bày những điều kiện thuận lợi của châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng cho việc truyền bá tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Về điều kiện chính trị - xã hội, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: ''châu Á đau thương'', trừ Nhật Bản là nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, đang bị chủ nghĩa đế quốc xâu xé; nước Trung Hoa rộng lớn luôn luôn là ''con bò sữa'' đối với tư bản châu Âu và châu Mỹ; nước Triều Tiên nằm trong tay chủ nghĩa tư bản Nhật, Ấn Độ một nước nông dân và giàu có bị đế quốc Anh cai trị và Đông Dương với 745.000kmđất đai, 20 triệu dân bị phó mặc cho sự bóc lột thậm tệ của một nhóm kẻ cướp thực dân. Chính sự tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc thực dân về mặt khách quan đã chuẩn bị điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa xã hội nảy nở và phát triển. Đó là giai cấp công nhân - cơ sở xã hội của chủ nghĩa Mác và là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản - ra đời và lớn mạnh cùng với quá trình khai thác của bọn thực dân ở các thuộc địa, trái với ý muốn chủ quan của chúng. Đó là sự xuất hiện của các phong trào giải phóng dân tộc mà những người lãnh đạo các phong trào đó sẽ dần dần hướng tới học thuyết cách mạng nhất, khoa học nhất của thời đại. Trong bài viết của mình, Nguyễn Ái Quốc đã nói đến nước Trung Hoa thức tỉnh: “Việc nắm chính quyền của nhà cách mạng Tôn Dật Tiên ở miền Nam đã hứa hẹn một nước Trung Hoa được tổ chức lại và có tính chất vô sản. Thật không phải quá đáng khi nghĩ rằng trong một tương lai rất gần, hai chị em - nước Trung Hoa và nước Nga công nhân - tay nắm tay cùng nhau tiến lên vì nền dân chủ và vì nhân loại”2. Hay khi nói tới phong trào yêu nước của nhân dân Ấn Độ và Triều Tiên, Người viết “Tất cả các dân tộc bị trị ấy đều nung nấu tinh thần đấu tranh giải phóng dân tộc, một khí thế cách mạng sôi nổi đang lay động tất cả tâm hồn người Ấn Độ, người Triều Tiên. Tất cả đang chuẩn bị âm ỉ nhưng khôn ngoan cho cuộc đấu tranh cuối cùng và giải phóng''3. Trên ý nghĩa đó, Nguyễn Ái Quốc đi tới kết luận: ''Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương... Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một các ghê gớm, khi thời cơ đến…
Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi''4.
Về điều kiện lịch sử, Nguyễn Ái Quốc đã nói đến chế độ tĩnh điền thời hoàng đế, chế độ làm việc bắt buộc thời nhà Hạ, những cái tốt, cái hay trong học thuyết Khổng - Mạnh như: ''người ta không sợ ít, chỉ sợ không công bằng, tính công bằng sẽ xoá bỏ sự nghèo đói'', hay “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh''. Một điều đáng lưu ý trong phần phân tích những điều kiện lịch sử ''cho phép chủ nghĩa cộng sản thích nghi dễ dàng ở châu Á''. Người có đề cập đến chế độ công điền tồn tại trong làng xã Việt Nam với những luật lệ riêng của nó. Người viết: ''Về quyền sở hữu cá nhân - luật lệ của người Việt Nam cấm mua bán chung về đất đai. Hơn nữa một phần tư đất cày cấy buộc phải để làm của công. Cứ ba năm một lần người ta chia lại khoảng đất đó. Mỗi một người dân trong xã được nhận một phần đất công. Điều này tuy không ngăn cản một số người trở nên giàu có vì còn ba phần tư đất vẫn mua bán được, nhưng như thế vẫn có thể còn nhiều người không bị rơi vào cảnh nghèo đói''.5 Cách nhìn nhận đó gần với luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về ruộng đất công trong công xã nông thôn Nga6.
Dựa vào những bằng chứng rút tỉa từ trong lịch sử châu Á và Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra lời giải đáp chắc chắn cho câu hỏi: ''Chế độ cộng sản có thể áp dụng ở châu Á nói chung và ở Đông Dương được không?'' là ''Chúng tôi khẳng định là có''. Như vậy, nếu như trong lời phát biểu tại Đại hội Tua, Nguyễn Ái Quốc mới kêu gọi ''Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa''7thì đến những bài đăng trên La Revue Communiste năm 1921 Người đã chỉ ra một cách cụ thể và minh xác những điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở châu Á và Đông Dương. Đó chính là sự khởi đầu cho quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam mà Nguyễn Ái Quốc tiến hành một cách kiên trì, có phuơng pháp trong nhiều năm sau đó.
Trên nền tảng đó, Nguyễn Ái Quốc tiến hành những cuộc vận động trong đội ngũ những người cộng sản Pháp và những nhà yêu nước của các dân tộc thuộc địa sống ở Pari ủng hộ phương hướng hoạt động của mình. M.Casanh, Vayăng Cutuyriê (những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp), Sarôt (người cộng sản quê ở Máctiních) đã tạo mọi điều kiện cho Nguyễn Ái Quốc triển khai hoạt động theo hướng đó. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc được triển khai theo hai hướng chính: sử dụng các phương tiện sẵn có của các tổ chức chính trị cánh tả Pháp và tạo ra những phương tiện, những tổ chức chính trị mới của chính các dân tộc bị nô dịch.
Ở hướng đầu, Nguyễn Ái Quốc đã chính thức đặt vấn đề đó một cách công khai tại Đại hội I Đảng Cộng sản Pháp họp ở Mácxây. Trong Dự thảo báo cáo của Tiểu ban Đông Dương trong Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã viết: ''Công tác tuyên truyền cách mạng và chống quân phiệt cần được tiến hành dưới sự lãnh đạo và đôn đốc của Đảng, trong tất cả các thuộc địa của Pháp và xứ gọi là bảo hộ.
Công tác tuyên truyền này thực hiện:
a) bằng các báo chí xuất bản ở Pháp.
b) bằng diễn đàn các Đại hội của chúng ta và khi cần, bằng diễn đàn của nghị viện.
c) bằng các hội nghị.
d) bằng mọi phương thức thích hợp với đối tượng, với trình độ giáo dục và văn minh của quần chúng bản xứ ở các thuộc địa''8.
Dự thảo đó chỉ ra một cách rõ ràng những phương thức được sử dụng để tuyên truyền cách mạng và hơn thế nữa chỉ ra, xác định một cách dứt khoát việc tuyên truyền đó phải thích ứng với đối tượng, với trình độ học vấn và văn minh của quần chúng thuộc địa.
Theo tinh thần đó, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục duy trì mối quan hệ đã có từ trước với báo chí cánh tả Pháp, đặc biệt những tờ báo, những tạp chí có lập trường dứt khoát theo đường lối của Quốc tế Cộng sản. Cũng từ thời kỳ này, Người hầu như hoàn toàn đoạn tuyệt với những tờ báo đã chuyển sang lập trường chính trị khác, chẳng hạn như tờ Le Populaire de Paris của Lôngghê. Người tập trung những bài viết của mình cho hai tờ báo có ảnh hưởng rộng lớn nhất trong công nhân và những người lao động Pháp và hải ngoại là tờ L’Humanité và La Vie ouvrière. Từ năm 1921 đến hết tháng 2-1923 có ít nhất trên 20 bài của Nguyễn Ái Quốc đăng trên hai tờ báo trên và một bài cho tờ báoJournal du Peuple số ra ngày 9-8-1922. Nguyễn Ái Quốc không dừng lại ở việc sử dụng báo chí cánh tả Pháp bởi Người ý thức rõ đối tượng phục vụ của các báo chí đó. Trong khi đó, đối tượng tuyên truyền cách mạng của mình là nhân dân bị áp bức, các dân tộc thuộc địa của Pháp. Ý thức đó đã dẫn Người đi tìm cho mình một phương tiện của riêng mình, lấy những người bị áp bức bóc lột ở các thuộc đia làm đối tượng chủ yếu. Nhưng để có một phương tiện riêng thì trước hết cần phải xây dựng được một tổ chức chính trị làm nền tảng cho nó. Sau nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi với các chiến sĩ chống thực dân thuộc nhiều nước khác nhau đang sống ở Pari, ngày 26-6-1921, Nguyễn Ái Quốc tổ chức cuộc họp bàn việc thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa. Tại cuộc họp đầu tiên ấy, những người tham dự đã xây dựng chương trình, điều lệ và cử một ban chấp hành. Tối ngày 20-7-1921, Ban Chấp hành tổ chức cuộc họp tại tiệm cà phê số 5, đường Gay Luytsác, trước nhà ga Luýchxămbua, thông qua lần cuối của các văn kiện chính thức của Hội. Trong Tuyên ngôn của Hội do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và thông qua tại Hội nghị trên, có đoạn:
“Anh em phải làm thế nào để được giải phóng.
Vận dụng công thức của C.Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể được thực hiện bằng sự nỗ lực của bản thân anh em.
Hội Liên hiệp thuộc địa được thành lập chính là để giúp đỡ anh em trong công cuộc ấy.
Với sự giúp đỡ của các bạn ở chính quốc đồng tình với sự nghiệp của chúng ta, Hội tập hợp tất cả những người gốc ở các thuộc địa hiện đang sống trên đất Pháp.
Biện pháp hoạt động: để thực hiện sự nghiệp chính nghĩa ấy, Hội quyết định đưa vấn đề ra trước dư luận bằng báo chí và ngôn luận và cuối cùng bằng tất cả mọi biện pháp mà chúng ta có thể làm...”.
Trong Điều lệ của Hội có ghi:
Điều 2: - Mục đích của Hội Liên hiệp thuộc địa là tập hợp và hướng dẫn cho mọi người dân thuộc địa hiện sống trên đất Pháp.
- Soi sáng tình hình nước Pháp đã thực hiện ở các thuộc địa nhằm mục đích đoàn kết họ.
- Thảo luận và nghiên cứu tất cả các vấn đề chính trị và kinh tế thuộc địa…
Điều 14: Tuỳ theo khả năng tài chính của mình hội sẽ gửi cho tất cả các hội viên những tạp chí, báo, tài liệu có liên quan đến đời sống thuộc địa, nhằm mục đích bênh vực nhân dân các thuộc địa...
... Hội kêu gọi mọi người dân thuộc địa sống trong đất Pháp đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau: “Đoàn kết tạo nên sức mạnh” và gia nhập Hội để bênh vực quyền lợi của nhân dân mình. Ai muốn gia nhập Hội xin gửi đơn cho ông Giôdép Môngnécvin, Tổng Thư ký Hội, số 9, phố Valê, quận V, Pari, hoặc ông Nguyễn Ái Quốc, số 9, ngõ Côngpoăng, quận XVII, Pari”.
Xét theo chương trình và Điều lệ của nó, Hội liên hiệp thuộc địa là hình thức liên minh của các dân tộc bị áp bức lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và là một hình thức có một không hai ra đời tại trung tâm của chính nước đế quốc đang thống trị họ. Hình thức đó chỉ ra đời sau năm 1920, tức là sau khi Quốc tế Cộng sản có những văn kiện về các vấn đề dân tộc và thuộc địa theo khẩu hiệu chiến lược của V.I.Lênin.  Sự ra đời của tổ chức mang tính chất mặt trận sơ khai này là kết quả của những cuộc vận động tích cực của Nguyễn Ái Quốc, của sự đồng tình ủng hộ của những người mácxít chân chính Pháp và cũng là sản phẩm của thời đại Lênin.
Trong hai năm đầu Hội mới tập hợp 120 hội viên, sau tăng lên 300 hội viên là nhũng người dân thuộc địa đang sinh sống trên đất Pháp, từ Bắc Phi, Đông Dương đến Máctinich, Guyan. Mặc dù số hội viên chưa nhiều nhưng cũng đủ đại điện cho hầu hết các dân tộc, các màu da bị thực dân Pháp thống trị trên ba đại lục lớn - châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh.
Một trong những hoạt động tiêu biểu nhất của Hội Liên hiệp thuộc địa là xuất bản tờ báo Le Paria làm cơ quan ngôn luận của mình. Thoạt tiên, những người sáng lập Hội trong đó có Nguyễn Ái Quốc, dự định thành lập tổ hợp xuất bản báo Le Paria. Ngày 29-1-1922, tại quán cà phê Hợp tác số 28, phố Aragô, Nguyễn Ái Quốc và Ban Chấp hành Hội Liên hiệp thuộc địa họp quyết định lập Hội Hợp tác người cùng khổnhằm mục đích xuất bản tờ báo Le Paria. Cuộc họp đã thông qua Điều lệ của Hội Hợp tác người cùng khổ do Nguyễn Ái Quốc trình bày.Điều lệ gồm 25 điều khoản xác định Hội Hợp tác là một hội kinh doanh sản xuất, mỗi cổ phần đóng 100 phrăng làm vốn, 15.000 phrăng để ra tờ báo Le Paria, cơ quan bảo vệ các dân tộc thuộc địa Pháp, đóng trụ sở tại Pari. Điều lệ còn định rõ cơ cấu tổ chức, quyền hạn và việc phân phối tiền lãi. Nguyễn Ái Quốc góp phần mình viết Lời kêu gọi cổ động những người hùn vốn xuất bản báo Le Paria:
“Pari ngày 1-2-1922
Đồng chí thân mến,
Đồng chí đã hoặc sẽ nhận được một bản Điều lệ của Hội Hợp tác người cùng khổ, Hội này đang được thành lập và sẽ xuất bản một tờ báo cùng tên.
...Các bạn ở chính quốc! Các đồng chí ở thuộc địa!
Vì lợi ích của công lý, sự thật và tiến bộ cần xóa bỏ khoảng cách giả tạo chia rẽ các bạn. Người cùng khổ là tờ báo đầu tiên có mục đích thực hiện nhiệm vụ không dễ dàng đó. Để có thể thành công trong việc này, chúng tôi kêu gọi sự tận tình của các đồng chí mà chúng tôi biết là luôn luôn vượt lên trên mọi thử thách.
Hãy gia nhập Hội Hợp tác người cùng khổ của chúng tôi hoặc ngay từ hôm nay gửi mua dài hạn báo Người cùng khổ của chúng tôi, hoặc tốt hơn, nếu có thể, đồng chí làm cả hai việc một lúc.
Thành công của chúng tôi tuỳ thuộc ở sự tận tình của đồng chí và tương lai các thuộc địa tuỳ thuộc ở sự thành công đó, chúng tôi không ngần ngại mà khẳng định như thế.
Cố gắng lên một chút để giúp đỡ chúng tôi, các bạn và các đồng chí sẽ đi theo sự nghiệp của hoà bình và nhân loại”9.
Dự định là như vậy, nhưng vì người đóng cổ phần không đủ nên tổ hợp xuất bản không thành lập được. Mặc dù vậy, với sự nỗ lực của Ban Chấp hành, đặc biệt là của Nguyễn Ái Quốc, tờ báo của Hội vẫn ra mắt bạn đọc. Ngày 1-4-1922, Le Paria ra số đầu tiên. Trên măngséc của nó ghi tên báo bằng ba thừ tiếng: tiếng Pháp (ở chính giữa và đậm nhất), tiếng Ảrập (bên trái), tiếng Trung Quốc (bên phải); dưới tên báo là tiêu đề báo: Diễn đàn của các dân tộc thuộc địa (Tribune des Population des Colonies)10. Trên trang nhất số 1 đăng Lời kêu gọi như một tuyên ngôn xác định sứ mệnh và mục đích chiến đấu của tờ báo:
“... Trong lịch sử phong trào quần chúng bản xứ ở các thuộc địa Pháp, chưa bao giờ có một tờ báo độc lập được lập ra để kêu to lên nỗi thống khổ và sự khốn cùng chung của họ, không phân biệt họ thuộc xứ sở nào và chủng tộc nào. Báo Le Paria ra đời chính là do sự đồng cảm sâu sắc của các đồng chí Bắc Phi, Tây Phi thuộc Pháp, ở Mađagátxca, ở Đông Dương, ở Angti và ở Guyan.
Tờ báo ra đời cũng chính vì những lời hứa hẹn dối trá về tự  do và công bằng được đưa ra trong cuộc chém giết khủng khiếp vào những năm 1914-1918 vừa qua, nhưng không được thực hiện một chút nào khi cơn giông tố đã dịu xuống. Tờ báo cũng chính là sự biểu thị ý thức tập thể của những người vô sản bản xứ đã nhận thức rõ ràng rằng bọn bóc lột lợi nhuận và bọn đặc quyền đặc lợi không muốn mất, dù là chút xíu, quyền lực và sự kiêu hãnh của chúng; bọn cầm quyền vừa mù vừa điếc ấy không muốn biết một chút nào những biến cố đang thai nghén trên thế giới.
Báo Le Paria tố cáo sự lạm quyền về chính trị, sự độc đoán về hành chính, sự bóc lột về kinh tế mà nhân dân trên các lãnh thổ rộng lớn ở hải ngoại đang là nạn nhân. Báo kêu gọi họ đoàn kết lại để đấu tranh cho sự tiến bộ về vật chất và tinh thần của chính họ. Báo hô hào tổ chức lại nhằm mục đích đòi giải phóng những người bị áp bức thoát khỏi các thế lực chính trị, thực hiện tình thương yêu và tình hữu ái. Và giờ đây đội ngũ đã sẵn sàng, các bạn da vàng, da trắng và da đen hãy đặt mua báo của chúng tôi, hãy sát cánh cùng chúng tôi, hãy ra sức ủng hộ chúng tôi dù cho chúng tôi có gặp phải phong ba, bão táp thế nào chăng nữa.
Báo Le Paria đã sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu, mục đích của nó chắc chắn sẽ đạt được: giải phóng con người”.
Le Paria ra được tất cả 38 số, trong đó có 16 số phát hành khi Nguyễn Ái Quốc đang ở Pari. Mỗi số phát hành khoảng từ 1.000 đến 5.000 bản11. 50% số lượng báo in ra được gửi tới các thuộc địa, số còn lại gửi cho những người đặt mua báo dài hạn và bán lẻ ở các đại lý sách báo. Toà soạn có hai đại lý bán Le Paria: Ở Pari là hiệu sách thực chứng số nhà 16, phố Xanh Sêvơrin (Librairie positiviste rue Saint Séverine, 16), ở nhà số 3, phố Marché des Patriarcher và một đại lý ở Máctiních (Pho dơ Phơrăngxơ, số 50, phố Cộng Hoà).
Sau một năm hoạt động Le Paria số 14 (4-1923) đăng bài Kỷ niệm báo Le Paria tổng kết một năm đấu tranh trên mặt trận báo chí, vạch hướng đi tới của tờ báo:
''Một năm đã trôi qua kể từ khi báo Le Paria ra đời. Các bạn quan tâm đến số phận của tờ báo ngay từ buổi đầu, nhân dịp kỷ niệm này, cảm ơn tất cả những ai đã can đảm với diễn đàn nhỏ bé này, bảo vệ nhân dân các thuộc địa.
Các bạn mua dài hạn, các bạn quyên góp cho báo đến số gần đây được 645 phăng, hãy nhận lấy sự biết ơn chân thành của chúng tôi.
Chúng tôi đã không quá lạc quan đối với những điều dự đoán trước. Chúng tôi hiểu rõ sự nghiệp mà chúng tôi theo đuổi, đặt ra vô vàn khó khăn. Một mặt, đông đảo dư luận châu Âu chưa được chuẩn bị để theo dõi đầy đủ quan điểm của chúng ta. Mặt khác, những người dân thuộc địa ở Pháp thường chưa quan tâm đến tình hình có quan hệ tới số phận đồng bào họ ở các thuộc địa đang phải đương đầu với mọi sự phiền nhiễu, với bạo lực của nhà cầm quyền ở địa phương, với sự bóc lột tư bản chủ nghĩa của những kẻ đi khai hóa. Cuối cùng, khoảng cách giữa Pari với châu Phi, châu Á, châu Mỹ rất xa. Những cuộc tiếp xúc giữa chúng tôi với nhân dân các thuộc địa mà Le Pariacó trách nhiệm bảo vệ lại luôn luôn bị cản trở bởi những kẻ thống trị thuộc địa gây ra.
...
Sang năm thứ hai, chúng tôi muốn thực hiện những việc làm tốt đẹp hơn. Phải làm cho Le Paria xuất hiện trong một thời kỳ với những kết quả rực rỡ, có nhiều người tìm đến báo với số lượng bản in tăng hơn và số trang nhiều hơn trước. Tất cả những điều đó chỉ có thể thành sự thật nếu có được những nguồn dự trữ thích đáng…
Đối với tất cả những ai đọc báo, muốn báo sống lâu và lớn mạnh, hiểu nhiệm vụ của nó, nên mua dài hạn cho mình và vận động nhiều người mua dài hạn báo Le Paria...''12.
Nếu tính đến số 1613 ra tháng 7-1923, tức là những số có sự chuẩn bị trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc, Người đã viết 21 bài và vẽ 5 tranh châm biếm cho Le Paria. Bình quân mỗi số báo có 1,7 bài của Nguyễn Ái Quốc. Người là cây bút viết rất khoẻ. Chỉ tính những số báo xuất bản khi Nguyễn Ái Quốc còn ở Pari thì có 3 số đăng 2 bài, 2 số đăng 3 bài, và đặc biệt số 5 ra ngày 1-8-1922 đăng 4 bài và 1 tranh vẽ chiếm gần hết trang nhất. Là người sáng lập, chủ nhiệm kiêm chủ bút, Nguyễn Ái Quốc đã đóng vai trò chủ chốt cho tờ báo. Vai trò đó được thể hiện trên nhiều phương diện khác nhau từ tổ chức, biên tập đến cả việc phát hành tờ báo. Trong hồi ức của mình, luật sư Mác Clanhvin Blôngcua, người Goađơlúp - Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp thuộc địa đã xác nhận:
''Báo Le Paria xuất bản từ năm 1922 đến năm 1926, tất cả được 38 số. Nguyễn Ái  Quốc đã đóng góp rất nhiều cho tờ báo. Anh viết khoẻ, có số viết tới hai, ba bài. Toàn bộ những bài báo của Anh là bản án chủ nghĩa thực dân Pháp và là nguyện vọng giành độc lập tự do cho nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước thuộc địa. Lời văn Anh sắc bén, tư tưởng Anh rõ ràng và mạnh mẽ: đấu tranh đến cùng chống chủ nghĩa thực dân Pháp. Ở nhiều số không những Anh viết bài mà Anh còn vẽ tranh châm biếm nữa để đả kích chế độ thực dân. Tất cả những bài và tranh ký tên Nguyễn Ái Quốc trên báo Le Paria mang một màu sắc đặc biệt: đó là tinh thần đấu tranh cách mạng triệt để và quyết tâm chống chủ nghĩa thực dân. Xem, đọc bài và tranh đó người ta thấy rõ tác giả có một tinh thần tiến công rất chủ động và rất thông minh''14.
Ý thức được mức độ ảnh hưởng không lớn của tờ Le Paria (vì bằng tiếng Pháp) nên Nguyễn Ái Quốc vận động Hội những người yêu nước Việt Nam ra báo Việt Nam hồn. Để cổ động cho tờ báo tiếng Việt sắp ra, Nguyễn Ái Quốc có viết:
“Ở trong thế giới ống nói, tàu bay,
Việc lạ tin hay ngày ngày thường có.
Nào ai muốn rõ, phải có nhật trình.
Mình ở gia đình, mắt soi vạn lý.
Á, Âu, Úc, Mỹ, rút lại một tờ.
Con trẻ đàn bà, ai ai cũng biết.
Mình người nước Việt, khách địa làm ăn.
Chẳng đọc Hán văn, không xem Pháp tự.
Việc đời hay dở, lành dữ mặc ai.
Tuy có mắt tai, cũng không nghe thấy.
Phận mình đã vậy, phận nước thế nào.
Anh chị, đồng bào, có hay chăng nhẽ!
Cũng vì nghĩ thế, tôi muốn làm ra.
Một báo tiếng ta, cho đồng bào đọc...
Báo này sẽ đặt tên Việt Nam hồn.
Mỗi tháng hai lần, mỗi lần trăm bản.
Xin anh em bạn, ai có muốn coi,
Cắt gửi cho tôi, cái toa mãi chỉ.
Mấy lời chung thuỷ, như bất tận ngôn.
Chúc Việt Nam hồn
Vạn tuế, vạn vạn tuế.
Cắt gửi toa này cho ông Nguyễn Ái Quốc, số nhà 3, phố Mácsê đờ Patriácsơ, quận V, Pari.

Tên tôi là:…………………………
Ở số nhà:…………………………
Tỉnh:……………………………..
Gửi lại 12 quan để mua báo Việt Nam hồn 6 tháng
Mùa xuân 1923”

Nhưng rồi do yêu cầu công tác, Nguyễn Ái Quốc đi Liên Xô nên dự định đó không thực hiện được.15 Ngoài báo chí, Nguyễn Ái Quốc còn sử dụng những hình thức khác như diễn thuyết, viết kịch để truyền bá tư tưởng cách mạng của mình. Những hoạt động này của Người thường tập trung ở Câu lạc bộ  ngoại ô Phôbua do Lêô Pôndét, một trí thức tiến bộ tổ chức và lãnh đạo. Tiếp tục truyền thống dân chủ từ cách mạng 1789, câu lạc bộ này thường sinh hoạt vào thứ năm và thứ bảy hằng tuần. Đề tài khá rộng bao gồm khoa học tự nhiên lẫn chính trị - xã hội, văn học - nghệ thuật. Trên trang nhất báo Le Paria, số 1 ngày 1-4-1922 có thông báo: Nguyễn Ái Quốc trình bày đề tài: “Sân khấu Việt Nam'' có biểu diễn tiết mục minh họa. Cũng tại Câu lạc bộ này vào chiều chủ nhật ngày 11-6-1922 vở kịch Con rồng tre, hài kịch ba màn của Nguyễn Ái Quốc, được công diễn lần đầu tiên. Những hình thức truyền bá này tuy không đến được với đồng bào bên Tổ quốc nhưng cũng góp phần tác động mạnh đến một bộ phận Việt kiều sống tại Pháp, hướng họ nghĩ về đất nước và thôi thúc hành động cách mạng.
Có thể nói, với sự xuất hiện của tờ báo Le Paria, một phương tiện truyền bá chủ yếu thời kỳ này, tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc theo quan điểm mácxít đến với nhân dân ta thường xuyên và có hệ thống.
Nghiên cứu những tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc thời kỳ ở Pháp (đến tháng 6-1923) chúng ta thấy rằng Nguyễn Ái Quốc hướng các đòn đả kích mạnh mẽ và sắc bén nhất vào hai kẻ thù chủ yếu của cách mạng là bọn thực dân Pháp và bọn tay sai các loại, qua đó mà thức tỉnh dân tộc. Nói chính xác hơn, cụ thể hơn, thức tỉnh dân tộc là một nội dung chủ yếu, quán xuyến trong những tác phẩm thời kỳ này của Nguyễn Ái Quốc.
Trước hết, Người tập trung sức lực, trí tuệ của mình vào việc vạch trần bản chất xấu xa của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương. Bằng những nét chấm phá, dưới ngòi bút của Người hiện ra một bức tranh toàn cảnh về chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Đông Dương:
''Chủ nghĩa tư bản Pháp đã vào Đông Dương từ nửa thế kỷ nay; vì lợi ích của nó, nó đã dùng lưỡi lê để chinh phục đất nước chúng tôi. Từ đó, chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm... Nhà tù nhiều hơn trường học, lúc nào cũng mở cửa và chật ních người. Bất kỳ người bản xứ nào có tư tưởng xã hội chủ nghĩa cũng đều bị bắt và đôi khi bị giết mà không cần xét xử... Người An Nam bị phân biệt đối xử, họ không có những sự bảo đảm như người châu Âu hoặc có quốc tịch châu Âu. Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có. Chúng tôi không có quyền cư trú và du lịch ra nước ngoài; chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập. Ở Đông Dương, bọn thực dân tìm mọi cách để đầu độc chúng tôi bằng thuốc phiện và làm cho chúng tôi đần độn bằng rượu''16.
Ấy thế mà nhiều chính khách, nhiều tên bồi bút vì quyền lợi sống còn của chúng, đã ra sức biện hộ cho chủ nghĩa thực dân. A.Xarô là một ví dụ điển hình. Y đã viết nhiều cuốn sách17 ca tụng đến trơ trẽn chế độ vô nhân đạo ở các thuộc địa là ''sự nghiệp cao cả'', ''công cuộc khai hoá văn minh'', “làm rạng danh nước Pháp trên thế giới”, ''một sự nghiệp tiến bộ, chính nghĩa, sự nghiệp dẫn dắt các chủng tộc”. Dưới ngòi bút của Nguyễn Ái Quốc, sự thật, sự việc đó được phơi bày ra như thế này: ''Đó là thị trường, là cạnh tranh, là lợi tức, là đặc quyền.  Buôn bán, tài chính, đó là những cái tượng trưng cho lòng nhân đạo của các ông. Sưu thuế, lao dịch, bóc lột nặng nề - công cuộc khai hoá của các ông, tóm lại là thế đó18; hoặc ''Nếu bọn thực dân Pháp rất vụng về trong việc phát triển nền kinh tế ở thuộc địa, thì họ lại là những tay lão luyện trong nghề đàn áp dã man và trong việc chế tạo ra cái lòng trung thành bắt buộc''19. Thuộc địa trở thành cái nuôi sống, làm giàu cho chính quốc và do đó bọn tư bản thực dân ''tìm cách dùng các thuộc địa để củng cố nền thống trị đang lâm nguy của nó. Nó bòn rút ở đó cả nguyên liệu cho các nhà máy của nó, lẫn nhân lực để chống lại cách mạng''20.
Qua những đoạn trích dẫn trên ta thấy Nguyễn Ái Quốc đã tập trung bóc trần bản chất thực sự của thực dân Pháp với hệ thống chính sách, thủ đoạn tàn bạo của chúng trên mọi lĩnh vực đối với một xã hội ở thuộc địa. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc vạch mặt chỉ tên những kẻ đại diện cho nước Pháp, cho nền ''công lý'' cai trị xứ Đông Dương. Trên những trang viết của Người hiện lên sống động hình ảnh những tên cai trị từ Bộ trưởng như A.Xarô, các quan Toàn quyền như M.Méclanh, M.Lông, P.Bôđoanh21, những quan Thống đốc như Utơrây, những viên Công sứ như ĐácLơ đến những viên quan và viên chức hạng bét như Puốcxinhông, Béc, Brét, Đepphi, Angti, Têa, Budinô, v.v.. Tất cả bọn chúng đều ''nhờ độ lượng mẫu tử của nước Pháp bảo hộ Đông Dương thật sự trở thành một chỗ náu chân cho bọn làm bậy đó'' và đã gây ra nhiều nợ máu đối với nhân dân Đông Dương. Với A.Xarô - Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo: ''Danh vọng của Ngài càng cao bao nhiêu thì sự quan tâm đặc biệt của Ngài đối với những người Đông Dương càng tăng lên bấy nhiêu. Ngài đã cho thiết lập ngay ở  Pari một cơ quan đặc trách để theo dõi những người bản xứ cư trú trên đất Pháp, đặc biệt là theo dõi những người Đông Dương, như một tờ báo thuộc địa đã nói rõ”22.
Khi Méclanh được Tổng thống Pháp bổ nhiệm làm Toàn quyền Đông Dương thì Nguyễn Ái Quốc đã cung cấp cho độc giả lý lịch bất hảo của y: ''Anh sẽ hỏi tôi: cái ông Méclanh ấy là ai ư? Chả gì thì đây cũng là một ông đã là quan cai trị các đảo Gămlia, rồi Phó Toàn quyền Tây Phi, rồi Toàn quyền thuộc địa này. Đó là một vị đã bỏ ra 36 năm cuộc đời mình để nhồi các cái sọ bản xứ về tất cả cái văn minh đầy ân huệ của nước Pháp”23.
Một đòn đả kích khác mà Nguyễn Ái Quốc chĩa vào là bọn tay sai các loại từ vua quan bù nhìn đến những kẻ vì miếng bơ thừa sữa cặn của thực dân Pháp sống ươn hèn hoặc ra sức tâng bốc ''công ơn khai hoá'' của nước đại Pháp. Tháng 6-1922, vua bù nhìn Khải Định, đại biểu cho chế độ phong kiến suy tàn, thối nát làm tay sai cho đế quốc, sang Pháp dự khai mạc triển lãm thuộc địa ở Mácxây. Nhà yêu nước Phan Chu Trinh viết Thất điều trần ngày 15-7-1922 đã liệt kê bảy tội đáng chém của Khải Định và ghi thêm ''bảy tội đó đều là kể những điều quan hệ với quốc kế dân sinh mà thôi, chớ còn tội lặt vặt khác thì không kể xiết''. Về mặt nào đó Thất điều trần của Phan Chu Trinh là sự tuyên chiến cao nhất của ông đối với chế độ phong kiến thối nát mà Khải Định là kẻ đại diện. Qua Thất trảm của Phan Chu Trinh vua Khải Định bị hạ bệ trước công luận; cũng qua Thất trảm đã lộ rõ lập trường tư sản của Phan Chu Trinh khi ông chủ trương ''đem chính quyền giao lại cho quốc dân được trực tiếp ngang với Chính phủ Pháp mà làm công việc mưu sự lợi ích sau này''. Còn Nguyễn Ái Quốc lên án Khải Định trên lập trường vô sản với bút pháp trào lộng hóm hỉnh, châm biếm sâu cay. Nên nhớ rằng, vở kịch Con rồng tre và một loạt bài của Nguyễn Ái Quốc đả kích Khải Định xuất hiện ở Pari trước khi Phan Chu Trinh công bố Thất trảm gần một tháng, đã chuẩn bị dư luận trước cho công chúng Pari, khi Khải Định xuất hiện ở đây24. Đề tài đó được Nguyễn Ái Quốc theo đuổi trong suốt thời gian Khải Định lưu lại ở Pháp và tiếp sau đó nữa. Nếu như trong vở kịch Con rồng tre25 Nguyễn Ái Quốc đưa lại cho người xem hình tượng tên vua bù nhìn Khải Định, thì trong những bài viết trên các báo Pari, Người tập trung vào chuyến đi Pháp với đầy đủ sự lố bịch, ngu dốt và muôn vàn thói xấu của y. Nguyễn Ái Quốc viết: ''Ngài đã đến - hay nói cho đúng hơn là người ta đã đưa ngài đến, coi như một món hàng thuộc địa và có thể trưng bày ở hội chợ. Người ta định đem ngài bày ít nhất là vài ba tháng trong tủ kính xinh xẻo, nhưng mỏng manh và có thể bị hủy hoại''26. Và một Khải Định ươn hèn bị tổ tiên ruồng bỏ qua lời của bà Trưng Trắc, một người phụ nữ đã đứng dậy khởi nghĩa giành độc lập cho đất nước những năm đầu sau Công nguyên: ''Thật là nhục nhã thậm tệ, thật là chán ngán ghê gớm, thật là cay đắng ê chề xiết bao cho các vị, nếu từ những tầng mây, tổ tiên mi phải trông thấy dân tộc mà các vị đã giành được tự do nay chịu phận nô lệ, đất nước đã được các vị giải thoát nay lâm vào cảnh nô dịch, kẻ kế tục ngai vàng của các vị nay sống trong ươn hèn''27. Đến những tên tay sai, những tên đầy tớ trung thành của bọn thực dân như Nguyễn Khắc Vệ và Cao Văn Sen thì Nguyễn Ái Quốc đã không ngần ngại hạ bút: ''Nếu quả thực tất cả những người An Nam đều cũng luồn cúi như hai đứa con này của guồng máy cai trị thì quả thực là dân này xứng đáng với cái số phận được cho”28.
Rõ ràng là nội dung chủ yếu nhất trong những tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc ở thời kỳ này nhằm chuẩn bị bước đầu về mặt tư tưởng cho sự vùng dậy của dân tộc ta trong tương lai, hướng đúng vào hai kẻ thù chính của dân tộc, đối tượng của cuộc cách mạng. Phải thừa nhận là vào đầu những năm 20 thế kỷ XX,  những tư tương của Nguyễn Ái Quốc về kẻ thù mà cách mạng phải quật đổ một lúc là những tư tưởng rất mới mẻ và duy nhất đúng trong lịch sử chính trị - tư tưởng nước ta. Chúng ta đều biết, cũng vào thời kỳ ấy hai nhà cách mạng có ảnh hưởng lớn trong các giới đồng bào ta là Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, mỗi người đều dồn sự căm ghét của mình vào một đối tượng. Người trước hô hào quốc dân đồng bào đứng lên đánh đổ thực dân Pháp, người sau dồn mọi uất hận vào bọn vua quan hủ lậu, hai nhà ái quốc đầy nhiệt huyết ấy vẫn chưa nhìn ra bản chất thực sự của chế độ thuộc địa, không nhận ra được kẻ thù của dân tộc cần phải đánh đổ một lúc. Chỉ có Nguyễn Ái Quốc được vũ trang bằng lý luận cách mạng tiên tiến, được trang bị thực tiễn phong phú trong những năm lăn lộn trong phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc mới có thể nhìn thấu suốt bản chất đó, mới có thể phát hiện ra đặc trưng của chế độ tàn bạo đó, mới đem lại cho dân ta cách nhìn đúng đắn về kẻ thù chủ yếu của công cuộc giải phóng.
Với nội dung mang tính chiến đấu cao, Le Paria, phương tiện tuyên truyền chủ yếu tư tưởng cách mạng cho các dân tộc bị áp bức, chiếm được sự mến mộ của nhân dân lao động ở các thuộc địa. Điều đó được thể hiện qua hai chỉ số tiêu biểu: số người đặt mua báo dài hạn tăng lên và người ủng hộ tiền cho báo. Trong một bản báo cáo gửi Bộ trưởng Bộ Nội Vụ, tháng 3-1921, có đề cập đến số lượng người đặt mua báo dài hạn tờ Le Paria “Số lượng người đặt mua báo năm hiện nay ước khoảng 500 người, chủ yếu từ các thuộc địa và phần lớn là công chức bản xứ”29. Trong số 500 người đặt mua báo năm, đáng chú ý là có l50 người Việt Nam (đa số là những người đang sinh sống lên đất Pháp, chỉ có 13 người từ trong nước). Theo hồ sơ mật thám lập vào tháng 5, tháng 6-1923, tức là hai tháng trước khi Nguyễn Ái Quốc rời Pháp, có 20 người gửi đơn đặt mua báo Le Paria cho Nguyễn Ái Quốc tại số 3, phố Marché des Patriarcher, từ những địa chỉ khác nhau và mang quốc tịch khác nhau: Việt Nam, Ma Rốc, Tuynidi, Máctiních, Haiti, Trung Quốc. Một điều đáng chú ý là trong số 12 người Việt Nam gửi đơn xin mua báo năm có hai người từ trong nước (một người ở làng Yên Thái, Hà Nội và một người ở thành phố Nha Trang). Như vậy, không chỉ có những người hiện đang sống trên đất Pháp, mà có cả những người từ trong nước đặt mua báo dài hạn.
Để báo chí và thư từ trao đổi đến được với những độc giả đặt báo, toà soạn đã sử dụng đường đây bưu điện thông thường. Chính đây là con đường công khai đưa báo chí từ Pháp về nước ta. Mức độ đó gia tăng theo thời gian. Và ảnh hưởng của báo chí cánh tả, đặc biệt là tờ Le Paria cũng được mở rộng theo đó. Bởi thế mà bọn thực dân bí mật kiểm duyệt thư tín, bưu phẩm từ Pháp gửi về nước, tịch thu các ấn phẩm không có lợi cho nền thống trị của chúng. Trong bài Phòng kiểm duyệt ở Đông  Dương đăng trên L’Humanité số ra ngày 28-9-1922, Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo chế độ kiểm duyệt của thực dân Pháp ở Đông Dương và cả ở Mađagátxca: ''Đông Dương được quyền cai trị của viên Toàn quyền Lông cũng chẳng khác gì Mađagátxca dưới sự thống trị của viên Toàn quyền Gácbi: cũng những bất công, những việc lộng quyền, những vụ tai tiếng, những điều ô nhục như thế.
Chúng tôi được biết ở Sở Bưu chính và Sở Mật thám Đông Dương được lệnh giữ những gói và thư gửi cho báo Le Paria xuất bản ở Pari, cũng như những thư tín do báo này gửi về Đông Dương''30.
Ý thức được điều đó từ trước, nên đồng thời với việc sử dụng đường dây liên lạc công khai, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động xây dựng mộtđường dây bí mật thông qua những thuỷ thủ yêu nước, có tâm huyết làm việc trên tuyến đường vận tải biển Pháp – Đông Dương. Khởi đầu của đường dây bí mật ấy là việc gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam dưới dạng truyền đơn về nước vào quý IV năm 1919 cho hành khách hồi hương tại cảng Mácxây. Từ đó về sau, con đường đó được xây dựng hoàn chỉnh và bí mật với một hệ thống các trạm tiếp nhận như Le Havrơ, Mácxây, Sài Gòn, Hải Phòng. Với những thuỷ thủ làm giao thông bí mật như Bùi Lâm, Nguyễn Viết Ty, Hoàng Đình Lộc, v.v.. Những thuỷ thủ Việt Nam ấy thực hiện ''Chủ nghĩa cộng sản Đông Dương trên biển'' như tờ báo L’Ami du peuple số ra ngày 20-1-1931 đã gọi. Thực dân Pháp biết rõ con đường này qua mật báo của bọn mật thám. Chẳng hạn, trong mật báo ngày 24-3-1922 bọn chỉ điểm đã báo với cấp trên của chúng: ''Báo chí và tài liệu sẽ gửi về Đông Dương qua đường Anvers trên các chuyến tàu của hãng vận tải Chageurs Réunes có những hành khách hoặc những người làm việc trên tàu đem về''31. Chúng đã ý thức được tầm quan trọng của con đường này trong việc nối Việt Nam với thế giới bên ngoài, gắn phong trào cách mạng nước Pháp với phong trào cách mạng trong nước. Đoạn hồi ký của Nguyễn Viết Ty cho biết công lao của Nguyễn Ái Quốc trong việc kiến tạo con đường liên lạc bí mật đó: “Anh Nguyễn dặn dò có một việc quan trọng: anh em nếu có tàu sắp sang châu Phi và Mỹ Latinh thì sửa soạn lấy thêm tài liệu mà mang đi. Nếu tàu anh không chạy thì anh kiếm tàu khác, nhưng phải chọn người cẩn thận, nếu không thì chết cả. Báo Việt Nam hồn sắp ra rồi đấy, chuẩn bị cách nào đưa được ngay về Sài Gòn rồi đưa ra Bắc. Tìm mọi cách để phát huy trót lọt .
Chúng tôi tiếp tục công việc chuyển tài liệu bí mật. Tất cả các tài liệu chúng tôi giấu trong các sọt đựng trứng đưa xuống tàu để giữa lần rơm lót và lượt trứng xếp ở trên. Lúc tàu sắp sửa kéo cầu lên để chạy thì mới đưa xuống. Tàu về tới Nhà Bè, có người xuống hỏi theo ám hiệu ''có ai gửi thư cho tôi không?'' thì mới giao. Khi tàu tới Ô Cấp, chúng tôi chuẩn bị lấy tài liệu ra. Chúng tôi lấy bột mỳ nhào nước nhét tài liệu vào giữa ổ bánh mỳ, cho vào lò nướng qua vừa vặn không cháy, xong đặt những ổ bánh mỳ đó vào làn bỏ xuống thuyền đem đi''32.
Như vậy, những tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc theo những đường dây đó đến với nhân dân ta. Một số báo chí tiến bộ xuất bản ở Sài Gòn thường xuyên nhận được báo chí từ Pháp gửi sang và đã đăng lại nhiều bài trên Le Paria, L’Humanité. Chẳng hạn, tờ La cloche fêlée do Nguyễn An Ninh chủ trương, số 1 ra ngày 10-12-1923, thường nhận được báo Le Paria và L’Humanité và đăng lại một số bài. Hoặc báo Le Jeune Annam của Lâm Hiệp Châu, số 1, ngày 23-3-1926 tại Sài Gòn, đã đăng lại bài Chủ nghĩa đế quốc Pháp ở Viễn Đông - Varen và Đông Dương của Nguyễn Ái Quốc đã đăng trên Le Paria số 35, tháng 8-1925. Nhiều hồi ký của các chiến sĩ cách mạng lão thành cho ta biết ảnh hưởng rộng lớn của báo Le Paria trong nhân dân ta, đặc biệt trong tầng lớp học sinh, trí thức. Đồng chí Tôn Đức Thắng kể: ''Anh em công nhân Nam Bộ đã đón tờ báo ấy một cách tha thiết và chuyền tay nhau đọc đến nỗi mòn cả giấy, cả chữ. Vì bọn lính kín Pháp theo dõi rất ngặt nên anh em công nhân đã tổ chức thành từng nhóm 5, 6 người hẹn nhau đi mượn thuyền chèo ra giữa sông Sài Gòn, sông Đồng Nai, sông Cửu Long để đọc Le Paria33''. Thông qua hoạt động của những trí thức tiến bộ, ảnh hưởng của báo Le Paria và tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc càng lớn và càng nổi tiếng. Chẳng hạn như Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh. Trò chuyện với thành niên Sài Gòn, Phan Văn Trường đã nói: “Tương lai của nước ta có được các gì chỉ là nhờ Nguyễn Ái Quốc''34. Hay Nguyễn An Ninh đã tuyên bố: ''Thực ra, tôi là một nhà triết lý nhiều hơn là một nhà hoạt động có phương pháp, có tổ chức. Chính anh Nguyễn Ái Quốc đã làm tôi hăng hái cách mạng. Tôi hoàn toàn tán thành đường lối của Quốc tế đệ tam và tôi luôn luôn coi anh Nguyễn Ái Quốc là một người dẫn đường cho tôi”35. Do đó mà trong ý thức của nhân dân ta, đặc biệt lớp trí thức thức thời, Nguyễn Ái Quốc được thừa nhận như một lãnh tụ tương lai của đất nước. Từ đó mà dẫn đến những hành động thực tiễn - xuất dương sang Pháp tìm lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, tìm con đường cách mạng chân chính. Một trong những người đi theo tiếng gọi đó là Nguyễn Văn Tạo. Ông đã kể lại: ''Chúng tôi tìm đến anh em công nhân Ba Son. Gặp những công nhân làm tàu. Thế là chúng tôi gặp Lên án chủ nghĩa thực dân36, Le Paria, Việt Nam hồn. Thế là gặp Nguyễn Ái Quốc. Chúng tôi biết là có Đệ tam Quốc tế, có chủ nghĩa cộng sản, có Liên Xô thành trì của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi cũng trốn sang Pháp đi tìm Nguyễn Ái Quốc, đi tìm cách mạng kiểu mới''37.
Như vậy, thời gian hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Pháp tuy không dài lắm nhưng là thời kỳ rất quan trọng đối với cách mạng nước ta. Đó là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc đặt nền móng cho toàn bộ sự nghiệp của mình, cũng là toàn bộ tương lai của đất nước. Không có thời kỳ mở đầu có hiệu quả này thì không thể có thời kỳ sau đó - thời kỳ Mátxcơva. Nếu như ở thời kỳ này Nguyễn Ái Quốc đã dồn toàn bộ sức lực, trí tuệ khai mở con đường đưa tư tưởng cách mạng theo quan điểm Mác-Lênin về nước mà trọng tâm là thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân thì ở thời kỳ tiếp theo là định hướng cho cuộc vùng dậy đó tới Cách mạng Tháng Mười Nga, thời kỳ phác thảo những nét lớn về chiến lược cho cách mạng nước ta.
II- Thời kỳ Mátxcơva - Phác thảo những nét lớn về chiến lược của cách mạng Việt Nam
Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã xuất hiện một khuynh hướng mới, đó là chú ý đến các thuộc địa mà thời đó đang được hợp lại trong một khái niệm chung có tính chất địa lý là phương Đông. V.I.Lênin, người đầu tiên khai mở khuynh hướng đó, trong một loạt bài viết từ năm 1912 đến tác phẩm trứ danh Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1916), đã đề cập tới vai trò quan trọng của phương Đông trong tiến trình cách mạng thế giới. Cũng trong tác phẩm đó, Người xác định mối quan hệ giữa cuộc đấu tranh chống đế quốc nhằm giải phóng dân tộc ở các thuộc địa với cuộc cách mạng vô sản của giai cấp công nhân ở chính quốc. Sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lê nin đã đi đến kết luận rằng vận mệnh của cách mạng thế giới phụ thuộc vào sự phát triển cách mạng ở phương Đông. Những tư tưởng của V.I. Lênin được những người mácxít chân chính thế giới thừa nhận và góp phần hình thành hướng hoạt động trong phong trào cộng sản quốc tế. Cùng với việc nghiên cứu và hoàn thiện chiến lược và sách lược về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Quốc tế Cộng sản đã tiến hành hàng loạt hoạt động truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản và thúc đẩy phong trào yêu nước ở khu vực này đi theo khuynh hướng vô sản. Một trong những nỗ lực theo hướng đó là việc Quốc tế Cộng sản thành lập những trung tâm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin cho các nước phương Đông như Mátxcơva, Tasken - Bacu, Ircut - Quảng Châu. Với sự hoạt  động tích cực của các trung tâm đó, một đội ngũ những chiến sĩ cộng sản của các nước thuộc địa và phụ thuộc được đào tạo, các Đảng Cộng sản ở một số nước phương Đông được thành lập. Rõ ràng, khuynh hướng mới trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã tạo nên một yếu tố cực kỳ quan trọng để thúc đẩy việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin ở khu vực này: Đông Dương được đặt trong bối cảnh đó thì công việc của Nguyễn Ái Quốc đang theo đuổi sẽ có thêm bước phát triển mới về chất.
Đối với Đông Dương, một địa bàn xung yếu ở Đông Nam Á, Quốc tế Cộng sản đã có sự quan tâm khá sớm, trung tâm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin ở Viễn Đông sau khi thành lập đã vạch kế hoạch tuyên truyền ở Thượng Hải, Sài Gòn, Xinhgapo. Một bức điện đề ngày 26-4-1920 của Lãnh sự Pháp tại Vlađivôxtốc cho thấy rõ điều ấy. Trong bức điện đó, Lãnh sự Pháp đã báo cho các nhà đương cục Đông Dương biết là một cơ quan lãnh đạo việc tuyên truyền cộng sản đã được thành lập tại Hải Sâm Uy, cơ quan này dự định sẽ tổ chức các trung tâm tuyên truyền tại Thượng Hải, Sài Gòn và Tân Gia Ba. Tiếp đó, một bức điện mật đề ngày 8-9-1920 của các nhà chức trách Nam Kỳ báo với cấp trên của họ là hiện họ đang theo dõi một số người Nga vừa đến Sài Gòn, trong đó có một người tên là Ăngtônicốpxki. Những người này, theo sự điều tra của Sở liêm phóng, đều là những đảng viên cộng sản có nhiệm vụ đến đây để tiến hành tuyên truyền cộng sản và gây cơ sở cộng sản.
Đúng hai tháng sau, ngày 8-11-1920 các nhà chức trách Nam Kỳ đã gửi một bản thông tri báo cho các địa phương biết rằng hai người Nga, đảng viên cộng sản, đến Sài Gòn hoạt động đã bị trục xuất. Qua những tài liệu vừa dẫn ở trên, có thể rút ra những kết luận quan trọng:
1. Sài Gòn được Quốc tế Cộng sản chọn làm một điểm tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản ở Đông Dương.
2. Cho đến cuối năm 1920, những nỗ lực của Quốc tế Cộng sản nhằm thiết lập ở Đông Dương một trung tâm tuyên truyền chưa đạt được do sự ngăn cấm của thực dân Pháp.
Có lẽ vì thế mà năm 1921, Đông Dương đã được V.I.Lênin đặt ra gay gắt hơn: ''Cần nghiên cữu kỹ hơn vấn đề Đông Dương và Angiêri, nhưng đây là một nhiệm vụ mà những người bônsêvích không nên uỷ thác cho ai khác là uỷ thác cho chính mình''38.
Một điều thú vị là trong một bức công văn mật của Nha liêm phóng Trung ương gửi các Sở liêm phóng ba kỳ có trích lời của V.I.Lênin dã dẫn trên và nhắc nhở các nhà đương cục Đông Dương phải hết sức đề phòng không cho chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa bônxêvích thâm nhập vào Đông Dương vì đó là nguy cơ lớn nhất cho chúng.
Qua những tài liệu đã dẫn ở trên, chúng ta thấy rõ thực dân Pháp ở Đông Dương đã thực hiện chính sách chống cộng khi ở đây chưa có cộng sản. Và Đông Dương, với những chính sách đó của bọn cầm quyền, đến đầu những năm 20 vẫn là ''khu vực an toàn'' trước sự hoạt động của Quốc tế Cộng sản, trong khi ở một số nước trong vùng Quốc tế Cộng sản đã có những chỗ đứng vững chắc. Công việc tuyên truyền của Quốc tế Cộng sản ở Đông Dương chưa có kết quả và sự xuất hiện của Nguyễn Ái  Quốc, một người cộng sản Đông Dương, tại Đại hội I Quốc tế Nông dân ở Mátxcơva ngày 13-10-1923 tự thân đã là sự khởi đầu cho một ý định công tác mới của Quốc tế Cộng sản và của chính Nguyễn Ái Quốc. Đó chính là cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Quốc tế Cộng sản, một tổ chức đang cần gây ảnh hưởng, gây cơ sở ở Đông Dương, một vị trí chiến lược ở Đông Nam Á và Nguyễn Ái Quốc, người đang muốn mở đường đưa chủ nghĩa Mác - Lênin đến với xứ sở mình. Cuộc gặp gỡ đó dẫn tới ba tháng sau xuất hiện một văn kiện lịch sử quan trọng bằng tiếng Việt của Quốc tế Cộng sản gửi nhân dân ta. Vì tầm quan trọng của văn kiện này, chúng tôi xin chép toàn văn:
“Quốc tế lao nông hội kính cáo.
Nhời hô của hội ''Quốc tế Cộng sản''.
Mạc Tư Khoa, 27-1-1924.
Vừa năm năm qua, ở kinh đô nước Nga là một nước thật là dân chủ (ở trần gian chưa bao giờ có nước thế) có lập một hội để hợp tất cả bao nhiêu người làm ăn. Hội ấy gọi là “Internationale Communlstel”. Nhờ mấy người cầm đầu anh hùng mới dựng lên thì Hội ấy bây giờ mạnh lắm, để giúp hàng triệu, hàng muôn mấy người làm ăn ngũ phương, nhất là nông dân khốn khổ thuộc về thuộc địa như An Nam ta vậy. Hội mới mất ông Lênin làm chủ can đảm, khôn ngoan và rất tử tế. Nhưng mà Hội vẫn cứ chắc thế nào cũng cứ đỡ đầu cho đến nơi. Khắp cả trần gian, đâu đâu nghe thấy tiếng Hội, trông thấy cờ đỏ hồng của Hội thì run, thì giật mình giật mẩy. Thời mình thắng trận gần đến! Anh em ơi! Anh em ơi! Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại!''39.
Văn kiện này do Nguyễn Ái Quốc viết, gửi về in ở Toà soạn báo L’Humanité với 3.500 bản. Nó được bí mật gửi về Đông Dương. Theo báo cáo của Nha mật thám Đông Dương, chúng đã tịch thu được 1.500 bản vào tháng 7 và 315 bản vào tháng 8. Tờ Courrier d' Hải Phòng (Tin tức Hải Phòng) nhận được một bản liền dịch và cho đăng trên số báo ra ngày 9-8- 1924 với lời ghi chú như sau: ''Tờ truyền đơn này do một nhóm cộng sản An Nam gửi tới đây và được một công chức An Nam nộp cho chúng tôi. Nhiều nhà chức trách bản xứ cũng đã biết rằng họ cũng vừa nhận được nhiều tờ truyền đơn như thế để trong những tờ quảng cáo”.
Như vậy, văn kiện đầu tiên của Quốc tế Cộng sản gửi nhân dân ta đã đến được địa chỉ cần thiết. Sự kiện đó minh chứng rõ ràng con đường đưa chủ nghĩa Mác - Lênin từ Mátxcơva, từ Quốc tế Cộng sản đã được khai thông. Người khai  mở con đường đó chính là Nguyễn Ái Quốc.
Tiếp đó, vào dịp kỷ niệm ngày chống chiến tranh đế quốc 1-8-1924, với sự giúp sức của Nguyễn Ái Quốc, Quốc tế Cộng sản công bố một lời kêu gọi bằng tiếng Việt, có đoạn:
 ''Tháng Tám năm nay nhớ đến tháng Tám 10 năm trước, bên Tây bắt đầu đánh nhau. Mọi rợ quá anh em ơi. Quân dã man. Chúng nó cắn nhau hàng triệu, hàng muôn chỉ vì giành nhau miếng đất đồng tiền, nhất là giành lấy thuộc địa để đi ăn cướp dân ta...
Ông Lênin là một người Nga - Latư, đang đánh nhau mà ông ấy đi cắt nghĩa cho dân biết đừng dại mà đi đánh nhau cho mấy thằng dã man nó được lời mà mình chết, xong rồi nó lại xoay mặt, nó lại cứ ăn hiếp người, thế thì mình dại quá.
Thà bằng mình cầm lại súng bắn lại nó còn hơn. Tại ông Lênin cho nên Nga - Latư nó đuổi vua chúa nước nó, ví dụ như dân ta đuổi mấy quân dã man thuộc địa vậy''40. Thông qua Nguyễn Ái Quốc đó là văn kiện thứ hai gửi nhân dân ta của Quốc tế Cộng sản.
Sự thay đổi môi trường sống đã tạo cho hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc có thêm nhiều điều kiện thuận lợi. Ngoài những điều kiện tối ưu cho con người của một đất nước tự do thật sự, Mátxcơva lúc này còn là trung tâm của phong trào cách mạng thế giới, nơi đóng trụ sở của Quốc tế Cộng sản, Bộ Tổng tham mưu của những người cộng sản thế giới, và có khối lượng thông tin đồ sộ. Trong môi trường mới mà lúc đó trên thế giới không nơi nào có được, hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc như được tăng thêm sức, được chắp thêm cánh. Các mối quan hệ giao tiếp của Nguyễn Ái Quốc được mở rộng thêm ra. Nếu như ở Pháp, Người quan hệ với những người mácxít Pháp, với những chiến sĩ chống thực dân đế quốc thuộc các thuộc địa Pháp không thôi, thì ở Mátxcơva mối giao tiếp của Người chẳng những gia tăng về số lượng mà cả chất lượng nữa. Tại đây Người có thể trò chuyện, trao đổi kinh nghiệm với những lãnh tụ nổi tiếng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, với các chiến sĩ chống đế quốc thực dân trên mọi miền của thế giới và được học tập, nghiền ngẫm, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Trong môi trường mới đó, Người hoàn thiện thế giới quan mácxít của mình. Tất cả những cái đó tạo thành nền tảng để trên đó Nguyễn Ái Quốc triển khai hoạt động tuyên truyền của mình với nhiều hình thức phong phú hơn và có chất lượng hơn, sâu sắc hơn.
Trong hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin ở thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc sử dụng nhiều phương tiện thông tin khác nhau. Trước hết phải kể đến phương tiện báo chí. Ở Mátxcơva, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục duy trì quan hệ với báo chí cánh tả Pháp. Bắt đầu tháng 9-1923 đã xuất hiện bài viết của Người trên các tờ báo L’Humanité và La Vie òuvrière. Với tờ Le Paria khi còn ở Pháp, Người là chủ nhiệm, chủ bút, thì khi tới địa điểm mới Người như là phóng viên thường trú của bản báo ở Mátxcơva. Trên cương vị đó, Người đã viết cho tờ báo những bài viết chứa đựng những thông tin mới mẻ diễn ra ở nước Nga, một xứ sở có sức cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh giải phóng ở các nước thuộc địa. Bắt đầu từ số 18, tháng 9-1923, Le Paria đăng những bài của Nguyễn Ái Quốc về Quốc tế Cộng sản, về Đại hội lần thứ I Quốc tế Nông dân, về trường Đại học Phương Đông, về nước Nga Xôviết.
Đồng thời với việc hoàn thành nhiệm vụ của một phóng viên thường trú ở Mátxcơva cho các tờ báo cánh tả của Pháp, Nguyễn Ái Quốc đặt quan hệ với những ấn phẩm định kỳ của Quốc tế Cộng sản như Tạp chí Correspondance Internationale (Thông tin quốc tế) bằng các thứ tiếng như tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức; của Quốc tế Nông dân như Tạp chí Quốc tế Nông dân, với báo chí của Đảng Cộng sản Liên Xô như tờ Sự thật, Người nông dân Bacu. Ở mức độ nào đó, bài vở của Nguyễn Ái Quốc trên các ấn phẩm định kỳ thời kỳ này phong phú hơn về mặt số lượng, và trên những ấn phẩm có tính phổ biến rộng rãi hơn.
Ngoài báo chí, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu sử dụng các phương tiện thông tin mới chưa có trước đó như truyền đơn, sách báo, diễn đàn.
Hai văn kiện của Quốc tế Cộng sản gửi nhân dân ta đã nhắc tới ở trên được in dưới dạng truyền đơn với những khối lượng lớn theo đường dây bí mật từ Pháp đến được địa chỉ cần thiết. Ở Mátxcơva, Nguyễn Ái Quốc dành một phần thời gian cho những công trình dài hơn. Đó là những cuốn sách mang tầm vóc tư tưởng lớn. Từ những tài liệu sưu tầm, tập hợp từ nhiều năm, Người đã hoàn thành công việc biên soạn cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp bằng tiếng Pháp.
Tác phẩm được gửi về in tại Pháp vào năm 1925. Trong lần xuất bản đầu, tác phẩm gồm 12 chương, phụ lục và bài mở đầu của Nguyễn Thế Truyền, lúc đó là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, đang công tác trong Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng ở Pari. Trong thời gian học ở trường Đại học Phương Đông, Nguyễn Ái Quốc cùng với một số sinh viên Trung Quốc viết cuốn Trung Quốc và thanh niên Trung Quốc. Tác phẩm này được Nhà xuất bản Mátxcơva mới xuất bản năm 1924. Cũng vào khoảng thời gian này, Nhà xuất bản Tiếng còi ấn hành cuốnChủng tộc da đen của Nguyễn Ái Quốc. Nội dung hai cuốn sách đó tập trung lên án chế độ xấu xa, tàn ác của chủ nghĩa đế quốc và tình trạng đau khổ của các nước thuộc địa . Điều đáng tiếc là cuốn Chủng tộc da đen đến nay chúng ta chưa tìm thấy.
Thời gian hoạt động ở Mátxcơva cũng là thời gian Nguyễn Ái Quốc tham dự nhiều hội nghị quốc tế lớn. Người tham gia Đại hội lần thứ I Quốc tế Nông dân họp từ ngày 12 đến ngày 15-10-1923. Tại phiên họp chiều 13-10-1923, Người đọc tham luận xác định vai trò cách mạng của nông dân ở các thuộc địa trong công cuộc giải phóng ách áp bức thực dân. Tiếp đó, Người tham dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản họp từ ngày 17-6 đến ngày 8-7-1924Người đã tham luận nhiều lần về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Sau đó, Người tham dự Đại hội III Quốc tế Công hội đỏ, Đại hội IV Quốc tế Thanh niên, v.v.. Tại diễn đàn các đại hội đó, Người đã nói lên tiếng nói của nhân dân thuộc địa, bảo vệ những luận điểm đúng đắn của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, và tuyên truyền những tư tưởng cách mạng của mình trên lập trường mácxít. Những lời phát biểu của Người đã để lại những ấn tượng đẹp đẽ trong lòng các đại biểu, đặc biệt là những đại biểu từ các nước thuộc địa và phụ thuộc Á, Phi, Mỹ Latinh.
Nghiên cứu những tác phẩm, những bài viết và những lời phát biểu của Nguyễn Ái Quốc thời kỳ này, ta bắt gặp một đề tài quen thuộc: đó làtiếp tục tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân nói chung và chủ nghĩa thực dân Pháp nói riêng đối với nhân dân các nước thuộc địa, đối với nhân dân Việt Nam. Sự khác nhau trong chủ đề này ở hai thời kỳ là ở chỗ, nếu như ở Pari vấn đề được đặt ra trong từng bài rải rác thì ở Mátxcơva vấn đề được tập trung lại trong những tác phẩm lớn. Như vậy, mức độ tố cáo tập trung hơn, toàn diện hơn. Về đối tượng tố cáo, Nguyễn Ái Quốc dồn đòn mạnh nhất vào chế độ thực dân Pháp trên lãnh thổ hải ngoại rộng lớn. Ngoài ra, ngòi bút của Người cũng đã hướng tới đế quốc Anh, một cường quốc tư bản có nhiều thuộc địa nhất thời đó, cả đế quốc Đức, Nhật Bản trong âm mưu thôn tính và nô dịch Trung Quốc, Triều Tiên và tệ phân biệt chủng tộc của đế quốc Mỹ. Rõ ràng, diện tố cáo của Nguyễn Ái Quốc rộng hơn, không chỉ đối với các dân tộc bị buộc làm thuộc địa mà cả đối với những người da đen sống trên đất Mỹ, một khía cạnh chưa mấy ai biết tới của nền văn minh Mỹ, có thể nói, ách áp bức của đế quốc thực dân ''không từ một chủng tộc nào''. Bằng những con số thống kê xác thực về các nước đế quốc và thuộc địa của nó, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến kết luận: ''Như vậy, 9 nước với tổng số dân 320.657.000 người và với diện tích 11.407.600 km2 bóc lột các nước thuộc địa gồm hàng trăm dân tộc với số dân 560.193.000 người và với diện tích 55.637.000 km2. Toàn bộ lãnh thổ của các nước thuộc địa rộng gấp 5 lần lãnh thổ của các chính quốc, còn số dân của các chính quốc chưa bằng 3/5 số dân của các nước thuộc địa.
Nếu tính riêng những cường quốc đế quốc lớn nhất, thì những con số này lại càng có sức thuyết phục hơn. Số dân của các thuộc địa Anh đông gấp hơn 8 lần rưỡi số dân nước Anh và đất đai của các thuộc địa Anh rộng gấp gần 252 lần đất đai của nước Anh. Còn nước Pháp thì chiếm một số đất đai rộng gấp 19 lần nước Pháp; và số dân ở các thuộc địa Pháp đông hơn số dân nước Pháp 16.600.000 người''41.
Với chính sách kẻ cướp của đế quốc Anh, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ:
''Chủ nghĩa tư bản Anh, tuy thèm muốn của cải vô tận của Trung Quốc, nhưng vì từ trước đến giờ, vẫn đành chỉ chiếm Hương Cảng làm thuộc địa và thực hiện trên nội địa Trung Quốc chính sách mở cửa, một chính sách giúp cho họ có thể bóc lột đất nước này mà không làm cho nhân dân nổi dậy. Ngày nay, đối với họ như thế không đủ nữa. Họ muốn làm hơn thế nữa kia: họ muốn chiếm cả Trung Quốc làm thuộc địa''42.
Với chế độ phân biệt chủng tộc của đế quốc Mỹ, Người vạch rõ: ''Ai cũng biết giống người da đen là giống người bị áp bức và bóc lột nặng nề nhất trong loài người. Ai cũng biết sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản và việc tìm ra Tân thế giới đã mang lại hậu quả trực tiếp là làm sống lại chế độ nô lệ, một chế độ, trải qua nhiều thế kỷ, đã là một tai hoạ thật sự đối với người da đen và là một bất hạnh đẫm máu đối với nhân loại. Điều mà mọi người có lẽ không biết là người da đen châu Mỹ, tiếng rằng đã được giải phóng 65 năm nay rồi, nhưng vẫn còn phải chịu đựng nhiều nỗi thống khổ ghê gớm về tinh thần và vật chất, mà tàn ác nhất và ghê tởm nhất là tục hành hình kiểu Linsơ”43.
Ngoài đề tài quen thuộc đó ra, ở thời kỳ này Nguyễn Ái Quốc cũng bắt đầu nêu ra những vấn đề mới mẻ trước đó chưa từng có. Với chủ đích rõ ràng là hướng cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc ta tới Quốc tế Cộng sản, tới Cách mạng Tháng Mười Nga.
Trước hết, Nguyễn Ái Quốc cung cấp cho nhân dân ta những hiểu biết, những thông tin về một tổ chức chính trị quốc tế kiên quyết bênh vực quyền lợi của các dân tộc thuộc địa, đó là Quốc tế Cộng sản, đứng đầu là V.I.Lênin. Ngoài hai văn kiện bằng tiếng việt của Quốc tế Cộng sản đã giới thiệu ở trên, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục giới thiệu những văn kiện quan trọng khác của Quốc tế Cộng sản và các tổ chức quần chúng của nó. Trong cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp, ở chương Nô lệ thức tỉnh, Người đưa vào những văn kiện quan trọng đối với các thuộc địa như Tuyên ngôn của Ban Chấp hành Đệ tam Quốc tế, phần liên quan tới nhân dân các thuộc địa. Hiệu triệu của Quốc tế Nông dân gửi nông dân lao động các thuộc địa; Tổ chức Công đoàn ở thuộc địa. Mục đích của tác giả là làm cho độc giả hiểu rằng trên thế giới này có những tổ chức đang quan tâm đến vận mệnh của nhân dân thuộc địa, thông cảm với cuộc sống cực khổ của họ và kêu gọi họ tổ chức lại theo những tổ chức thích hợp để hoàn thành sự nghiệp giải phóng của mình. Muốn cho cuộc đấu tranh đầy gian khổ, khó khăn đó đi đến thắng lợi cuối cùng thì không còn con đường nào khác ngoài con đường ''đoàn kết nhau lại. Xiết chặt hàng ngũ chúng ta quanh lá cờ Quốc tế Cộng sản, lá cờ này là lá cờ duy nhất để giải phóng người bị áp bức...Chỉ có trong chủ nghĩa cộng sản thì chúng ta mới tìm được sự giải phóng của chúng ta''44.
Với V.I.Lênin, người sáng lập và là lãnh tụ của Quốc tế Cộng sản, người đứng đầu Nhà nước Công nông đầu tiên trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã dành những tình cảm tôn kính:
“Tất cả họ, từ những người nông dân An Nam đến người dân săn bắn trong các rừng Đahômmây, cũng đã thầm nghe nói rằng ở một góc trời xa xăm có một dân tộc đã đánh đuổi được bọn chủ bóc lột họ và hiện đang tự quản lý lấy đất nước mình mà không cần tới bọn chủ và bọn toàn quyền. Họ cũng đã nghe nói rằng nước đó là nước Nga, rằng có những người dũng cảm, mà người dũng cảm nhất là Lênin. Chỉ như thế cũng đủ làm cho họ ngưỡng mộ sâu sắc và đầy nhiệt tình đối với nước đó và lãnh tụ của nước đó.
...Khi còn sống, Người là người cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cuộc cách mạng xã hội''45.
Với nước Nga Xôviết, Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã dành nhiều trang viết thắm đượm tình cảm yêu mến, biết ơn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvich, một Đảng thực sự cách mạng, đứng đầu là lãnh tụ V.I.Lênin, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga tiến hành cuộc cách mạng vô sản thắng lợi và đang xây dựng một xã hội mới, một xã hội không có áp bức bóc lột, một xã hội mà nhân loại mơ ước từ lâu. ''Nước Nga là một nước thật là dân chủ (ở trần gian chưa bao giờ có nước như thế)'' - Nước Nga thực sự là một thiên đường trên trần gian này. Trong một loạt bài viết về nước Nga, Người đã đề cập đến tính ưu việt của xã hội mới. Và đây là một nét ưu việt của xã hội đó:
“a) Giáo dục không mất tiền và bắt buộc; giáo dục phổ thông và bách khoa đối với trẻ em nam nữ cho đến 17 tuổi; từ 17 tuổi trở lên thì giáo dục chuyên môn và chuyên nghiệp,
b) Nhà nước chịu phí tổn cho tất cả học sinh về ăn uống, quần áo, giầy dép và những thứ cần dùng cho học sinh.
c) Thiết lập một hệ thống các trường mẫu giáo và vỡ lòng, nhà giữ trẻ, vườn trẻ, nhà nuôi trẻ, v.v. nhằm mục đích cải thiện việc giáo dục của xã hội, giải phóng người phụ nữ.
d) Nhân dân lao động tích cực tham gia việc giáo dục quốc dân; phát triển các ''Hội đồng giáo dục quốc dân''; tất cả những công dân có trình độ giáo dục phổ thông, đều thuộc quyền sử dụng của Nhà nước, v.v..
e) Trong ngành đại học, các sinh viên nghèo và nhất là công nhân và nông dân được cấp học bổng và những ưu tiên khác để họ có phương tiện vật chất theo học ngay cả các trường đại học''46. Bằng tấm gương đó, nước Nga Xôviết khích lệ tinh thần cách mạng của nhân dân thế giới, cách mạng hoá phong trào yêu nước ở khu vực thuộc địa. Nước Nga cách mạng không dừng lại ở sự cổ vũ tinh thần đó, mà đã vươn tới những việc làm cao cả, thiết thực, thắm đượm tinh thần quốc tế vô sản. Nước Nga cách mạng đã ''không vừa lòng đối với việc đọc những bài diễn văn rỗng tuếch và viết ra những nghị quyết ''nhân đạo'' đối với các dân tộc bị áp bức mà cách mạng Nga dạy cho họ đấu tranh, giúp đỡ họ bằng tinh thần và vật chất như Lênin đã tuyên bố trong Luận cương của Người về vấn đề thuộc địa''. Theo Nguyễn Ái Quốc, việc thành lập trường Đại học Phương Đông là một trong những việc làm như vậy. Chính vì thế mà Người đã dành nhiều bài viết của mình trên Le Paria, La Vie Ouvrière, L'Unità, giới thiệu về những thành tựu của loại trường kiểu mới này:
''Việc thành lập trường Đại học Phương Đông, tập hợp những người lãnh đạo trẻ tuổi tích cực, thông minh của các nước thuộc địa đã làm được một công việc to lớn là:
a) Trường đã huấn luyện cho các chiến sĩ tiên phong tương lai ấy nguyên lý đấu tranh giai cấp, nguyên lý mà một mặt các cuộc đấu tranh chủng tộc và mặt khác các tập tục của chế độ gia trưởng đã làm lẫn lộn trong đầu óc họ.
b) Trường đã làm cho đội tiên phong của giai cấp vô sản các nước thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau này, chỉ có sự hợp tác đó mới có thể bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng.
c) Trường đã làm cho các dân tộc thuộc địa - từ trước đến nay rời rạc với nhau - hiểu biết nhau, và đoàn kết với nhau, do đó đặt cơ sở cho một khối liên hợp tương lai giữa các nước phương Đông, khối liên hợp đó là một trong những cái cánh cửa cách mạng vô sản.
d) Trường đã nêu lên cho giai cấp vô sản các nước mà giai cấp tư sản có thuộc địa, một tấm gương về những điều họ có thể và phải làm cho những anh em của họ đang bị áp bức''47.
Và Người lớn tiếng kêu gọi các Đảng Cộng sản, các nước thuộc địa gửi con em của mình đến Mátxcơva để học tập.
“Chúng ta xúc động biết bao... Chính phủ Xôviết đã xây dựng trường Đại học Phương Đông  bên cạnh trường Đại học Phương Tây. Trường Đại học Phương Đông dành cho đồng bào chúng ta (những người lao động phương đông). Nhà trường bảo đảm cho học viên ăn, ở, đối xử với họ như những người anh em, những người tự do. Chính tại đây, họ được học tập mà dù ở đâu họ cũng không được phép. Vậy thì đồng bào thân mến! Tụi thực dân kìm hãm các bạn trong vòng tăm tối? Hãy đọc bài này! Hãy xem! Hãy so sánh! Hãy phán xét! Hãy hành động! Hãy đến Mátxcơva!''48.
Trên diễn đàn Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đề nghị với các đảng trên thế giới: ''Gửi những người bản xứ vào Trường đại học cộng sản của những người lao động phương Đông ở Mátxcơva”49.
Theo đề nghị của Người, Đảng Cộng sản Pháp bắt đầu từ năm 1925 đã cử những thanh niên yêu nước Việt Nam sang học tại trường quốc tế đó. Mở đầu là Nguyễn Thế Rục, Nguyễn Thế Vinh nhập trường vào năm 1925. Từ đó khai thông con đường cho thanh niên yêu nước Việt Nam từ nước Pháp sang Mátxcơva theo học trường Đại học Phương Đông. Con số đó về sau tăng lên hàng chục. Sau này khi về Quảng Châu, Người lại tiếp tục giới thiệu thanh niên yêu nước Việt Nam từ Trung Quốc đến nhập trường. Như vậy, trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản trở thành một lò đào tạo những chiến sĩ tuyên truyền, những cổ động viên cho phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản ở nước ta.
Như vậy, chủ đích của những bài viết đó đã rõ ràng: hướng cuộc đấu tranh của nhân dân các thuộc địa tới nước Nga Xôviết, theo gương Cách mạng Tháng Mười. Hơn thế nữa, Người còn đặt cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa trong quỹ đạo cách mạng vô sản, coi đó là một bộ phận không thể tách khỏi của quá trình cách mạng vô sản thế giới:
“Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại mọc ra”50.
Rõ ràng, người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản không chỉ là giai cấp vô sản ở chính quốc, mà cả giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Luận điểm nổi tiếng của Nguyễn Ái Quốc là lối nói có hình ảnh của khẩu hiệu chiến lược của Quốc tế Cộng sản: ''Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!''.
Để tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi phải có một giai cấp công nhân giác ngộ, có tổ chức, được vũ trang bằng học thuyết cách mạng nhất- chủ nghĩa Mác- Lênin. Có lẽ, thời gian sống ở Mátxcơva, Nguyễn Ái Quốc mới có ý thức rõ ràng về sứ mệnh lịch sử của giai cấp cách mạng này - giai cấp công nhân. Điều đó được thể hiện rõ trong một loạt bài viết của Người như Phong trào công nhân, Nhật Bản (11-1923), Phong trào công nhân ở Thổ Nhĩ Kỳ (1-1924), Phong trào công nhân ở Viễn Đông (1-1924) và trong chương Nô lệ thức tỉnh của cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp. Trong các tác phẩm đó, Người đề cập đến phong trào cách mạng của công nhân, các tổ chức cách mạng của giai cấp công nhân Trung Quốc, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ, Đông Dương, v.v.. Với công nhân Trung Quốc, Người đã nhận định: “Chỉ sau chiến tranh thế giới kết thúc, giai cấp vô sản Trung Quốc mới bắt đầu được tổ chức một cách chặt chẽ, song họ đã thu được một số thắng lợi to lớn trong các cuộc đình công. Mặc dù bị bọn quân phiệt đàn áp và bọn thống trị ngoại lai cản trở, các tổ chức của họ vẫn phát triển bình thường và có thể nói là nhanh nữa. Hiện nay những người thủy thủ, công nhân luyện kim, công nhân đường sắt là những lực lượng thật sự mà bọn tư bản buộc phải coi trọng''51. Với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân nước ta, Người đã biểu dương:
''Tháng 11 năm 1922, 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn (Nam Kỳ) vì bị bớt lương nên đã quyết định bãi công.
Cuộc phản công của bọn chủ liền diễn ra ở khắp nơi, và khắp nơi giai cấp công nhân cũng bắt đầu giác ngộ về lực lượng và giá trị của mình.
...Đây là lần đầu tiên, một phong trào như thế nhóm lên ở thuộc địa. Chúng ta hãy ghi lấy dấu hiệu đó của thời đại”52.
Từ đó Người đi tới khẳng định: ''Trong thời đại hiện nay, giai cấp công nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng”53.
Giai cấp công nhân thực sự có một sứ mệnh lịch sử to lớn vì nó đại diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến. Nhưng ở các nước thuộc địa có một thực tế lịch sử không thể chối cãi được là: số lượng của giai cấp công nhân chiếm một tỷ lệ thấp trong nhân dân, trong khi đó nông dân chiếm tới 95% dân số. Ở Việt Nam, tình hình cũng tương tự, người nông dân chúng ta ''bị người ta ăn cắp, cướp bóc, tước đoạt, làm phá sản. Chính họ là những người phải làm mọi công việc nặng nhọc, mọi thứ lao dịch. Chính họ làm ra cho lũ người ăn bám, lũ người lười biếng, lũ người đi khai hoá và những bọn khác hưởng mà chính họ thì lại phải sống cùng khổ trong khi những tên đao phủ của họ sống rất thừa thãi; hễ mất mùa thì họ chết đói''54. Phải sống trong hoàn cảnh cùng cực đó nên người nông dân nói chung và người nông dân Việt Nam nói riêng chẳng những sớm có ý thức giai cấp, mà hình thành ở họ ý thức dân tộc mạnh mẽ. Vì thế, ở thuộc địa thực chất vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân. Nguyễn Ái Quốc, từ thực tế lịch sử của đất nước và những nước cùng cảnh ngộ, đã nhận ra vai trò cách mạng của nông dân trong công cuộc giải phóng dân tộc: ''Trong tất cả các thuộc địa của Pháp, nạn nghèo đói đều tăng, sự phẫn uất ngày càng lên cao. Sự nổi dậy của nông dân bản xứ đã chín muồi. Trong nhiều nước thuộc địa, họ đã vài lần nổi dậy, nhưng lần nào cũng bị dìm trong máu''55. Mặt khác, Người cũng đã nhận thấy tính chất vô vọng của các cuộc nổi dậy đó: ''Chỉ với lực lượng riêng của chính mình, nông dân không bao giờ có thể trút bỏ được gánh nặng đang đè nén họ... Không thể chiếm được bộ máy nhà nước và giữ được bộ máy đó''56. Từ đó, Người đi đến kết luận là: để thực hiện được khẩu hiệu ''Tất cả ruộng đất về tay nông dân'', một ước mơ ngàn đời của họ, nông dân nhất thiết phải tự nguyện đi với giai cấp công nhân và kết thành một khối. Chỉ bằng cách đó nông dân mới phát huy đầy đủ sức mạnh về số lượng của mình. Và trong cuộc cách mạng ấy công nhân và nông dân là động lực của cách mạng.
Đồng thời với việc xác định, đánh giá đúng đắn vai trò cách mạng của nông dân, Nguyễn Ái Quốc đã nghiêm khắc phê phán những  huynh hướng đề cao quá đáng vai trò của nông dân: ''Những trào lưu cơ hội chủ nghĩa, nịnh nông dân, coi nông dân là một lực lượng chủ yếu, là động lực duy nhất của cách mạng, là đội ngũ cách mạng nhất, đều đi tới chủ nghĩa phiêu lưu, chủ nghĩa cực đoan, vô chính phủ và đi tới chỗ phản bội chủ nghĩa Lênin mà thôi''57.
Như vậy, thời kỳ Mátxcơva những tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc thuộc những vấn đề chiến lược quan trọng trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Những tư tưởng đó chỉ có thể có được ở Mátxcơva, nó là kết quả của những năm tháng miệt mài học tập, nghiên cứu trong sách báo mácxit, đối chiếu, so sánh những kiến thức thu nhận được với thực tế mà Người đã trải qua, đã thu lượm được từ các thuộc địa.
Những tài liệu mácxít, trong đó có những tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc theo những đường dây bí mật đến được với nhân dân ta. Người đã sử dụng đường dây liên lạc của Quốc tế Cộng sản với Đảng Cộng sản Pháp để gửi tài liệu về Pháp, rồi từ đó theo chân các thuỷ thủ về Việt Nam. Như trên đã nói, các văn kiện của Quốc tế Cộng sản gửi nhân dân ta đã được phổ biến ở Việt Nam vào tháng 7-1924. Nhiều hồi ký của các chiến sĩ cách mạng lão thành cho biết tác dụng của cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp đối với phong trào cách mạng nước ta. Đồng chí Phạm Hùng kể: ''Hồi ấy, quyển Bản án chế độ thực dân Pháp có một tác dụng rất lớn đối với thanh niên, học sinh. Hầu hết các trường trung học đều có tủ sách riêng của học sinh tự tổ chức gồm hàng nghìn cuốn sách và tủ sách nào cũng có quyển Bản án chế độ thực dân Pháp. Phong trào thanh niên học sinh lúc bấy giờ lan rộng và khá mạnh mẽ. Lập trường giai cấp tuy chưa rõ rệt lắm nhưng ý thức chống đế quốc rất cao, rất sôi nổi nên tập Bản án chế độ thực dân Pháp trả lời đúng vào ý nghĩ, nguyện vọng và tâm tình thế hệ thanh niên lúc bấy giờ''58.
Trong một cuốn hồi ký của mình, tướng Pháp Xalăng cho biết là khi còn làm đồn trưởng một đồn lính Pháp ở biên giới Lào, Xalăng đã tịch thu được cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp từ Thái Lan thâm nhập vào Đông Dương. Cuốn sách này đã gây cho Xalăng một ấn tượng hết sức mạnh mẽ. Như vậy, nếu như điều mà Xalăng cho biết là đáng tin cậy thì sách vở mác xít vào nước ta không chỉ qua đường biển mà còn qua con đường từ Thái Lan và Lào vào nước ta.
Cũng bắt đầu từ giữa năm 1924, khi truyền đơn cộng sản từ Mátxcơva gửi tới xuất hiện ở Đông Dương thì bọn thực dân thuộc địa lo lắng thực sự về nguy cơ “đe doạ của việc truyền bá tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin ở Đông Dương''. E.Utơrây, đại biểu Nam Kỳ trong Hạ nghị viện Pháp đã viết bài trên tờ Impartial nói rõ sự lo lắng đó: ''Sự đe doạ của chủ nghĩa bônsêvích ở các thuộc địa chúng ta không còn là huyền thoại nữa. Bây giờ chính phủ phải để ý đến nó và chỉ có những biện pháp đã được áp dụng ở Tuynidi mới là bằng chứng rõ ràng. Khi đang thảo luận luật ân xá tại Hạ nghị viện tôi đã chỉ ra nguy cơ tuyên truyền cộng sản ở Đông Dương bằng việc đưa ra trên diễn đàn những tờ truyền đơn bằng tiếng quốc ngữ và chữ Hán bắt được'', và Utơrây đã nhấn mạnh rằng những tờ truyền đơn như vậy là ''bằng chứng rõ ràng nhất về việc tuyên truyền cộng sản đang được đẩy mạnh ở Việt Nam...Việc tuyên truyền cộng sản ở thuộc địa đang lan rộng và nếu chúng ta không phản ứng thì có thể rồi đây nó sẽ lan rộng trên khắp lãnh thổ hải ngoại rộng lớn của chúng ta... Chúng ta không thể và không được để như vậy. Phải thực sự lo lắng trước khi đám cháy xảy ra''59.
Những tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc thời kỳ Mátxcơva đến được với nhân dân ta đã tạo ra một xung lực mới, một chất men mới kích thích phong trào yêu nước đang khởi sắc trên cả nước, chuẩn bị những điều kiện thuận lợi cho thời kỳ tiếp sau đó - thời kỳ Quảng Châu - vùng Đông Bắc Xiêm.
III- THỜI KỲ QUẢNG CHÂU – VÙNG ĐÔNG BẮC XIÊM - BẮT TAY  XÂY DỰNG TỔ CHỨC CÁCH MẠNG
1. Xây dựng tổ chức
Trong một buổi tiếp thân mật Nguyễn Ái Quốc, đồng chí D.Z. Manuinxki60, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản đã thông báo quyết định của Quốc tế Cộng sản cử Người tới Quảng Châu công tác nhằm xúc tiến mọi điều kiện để xây dựng một tổ chức cộng sản ở Đông Dương và giúp đỡ các đại biểu cách mạng ở các nước Đông Nam Á. Từ đó, Người tích cực chuẩn bị cho chuyến đi công tác xa - xích gần lại quê hương. Hồi đó, Quảng Châu là trung tâm cách mạng của đất nước Trung Hoa rộng lớn. Người dân ở đây đang sống trong bầu không khí của ngày hội cách mạng: ''Thật khó mà miêu tả Quảng Châu trong những ngày đó. Ở đây có cái gì tựa như năm 1917 không bao giờ quên ở nước Nga vậy. Tôi luôn luôn có cảm giác rằng ngôn ngữ loài người còn quá nghèo nàn để có thể diễn đạt hết sức mạnh của tình cảm: phẫn nộ và sung sướng, yêu thương và căm giận của quần chúng nhân dân tràn ra trên các đường phố và quảng trường''61. Quảng Châu còn là nơi hội tụ của nhiều thế hệ những người yêu nước Việt Nam từ lớp cách mạng đàn anh như Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, với các đồng chí của ông và lớp thanh niên trí thức yêu nước mới xuất dương sang sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, tập hợp lại trong một tổ chức yêu nước - Tâm tâm xã.
Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu trong một bầu không khí chính trị thuận lợi và thực sự tồn tại một tổ chức cách mạng của thanh niên yêu nước Việt Nam đang sẵn sàng tiếp nhận những gì mới mẻ cho chương trình hành động của mình. Ngay hôm sau, từ Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc viết thư cho người phụ trách Bộ Phương Đông của Quốc tế Cộng sản:
“Quảng Châu, ngày 12-11-1924.
Đồng chí thân mến!
Tôi viết vắn tắt để đồng chí biết hôm qua tôi đã tới Quảng Châu và đang ở tại cơ quan của đồng chí Bôrôđin với 2, 3 đồng chí Trung Quốc. Tôi chưa gặp ai. Mọi người ở đây rất bận rộn với cuộc Bắc phạt của bác sĩ Tôn Dật Tiên.
Tôi sẽ viết cho đồng chí sớm.
Cho tôi gửi lời chào anh em tới đồng chí và tất cả các đồng chí ở Quốc tế Cộng sản.
Nguyễn Ái Quốc
Địa chỉ của tôi:
L.U.
Hãng thông tấn Rôxta
Quảng Châu, Trung Quốc''62.
Cũng bắt đầu từ đó, Nguyễn Ái Quốc đã dành một phần thời gian cho công việc trong văn phòng những người phiên dịch ở gác 1 của toà nhà mà tầng trên là nơi ở của gia đình M.M.Bôrôđin. Người lãnh đạo văn phòng này không phải ai xa lạ mà chính là Trương Thái Lôi - người quen biết hồi còn ở Mátxcơva, nay là người đại diện Đảng Cộng sản Trung Quốc trực tiếp quan hệ với M.M.Bôrôđin. Có lẽ ngoài vợ chồng M.M.Bôrôđin và Trương Thái Lôi ra không còn một ai biết tới những việc làm chủ yếu, thực sự của Nguyễn Ái Quốc, kể cả những nhân viên làm việc với Người trong văn phòng phiên dịch, bởi lẽ người ta thường thấy chàng trai ngoài 30 tuổi ấy lục lọi hàng giờ những chồng sách báo bằng tiếng Trung Quốc và tiếng Anh để lấy tin cho Hãng thông tấn Nga Rôxta. Ký ức của bà V.V.Visơniacôva Akimôva, hồi đó là cán bộ phiên dịch trong văn phòng đã chứng minh điều đó:
''Trong ngôi nhà của M.M.Bôrôđin số phận đã đun đẩy tôi làm việc gần gũi với một trong những người kiệt xuất hồi đó đã sống ở Quảng Châu. Đó là một người Việt Nam họ Lý. Chúng tôi gọi đùa anh là Lý An Nam.
Tôi vẫn nhớ như in anh có thân hình gầy gầy, không cao lắm, mặc bộ quần áo chúc bâu màu trắng, rộng thùng thình. Anh nói thông thạo tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Quảng Đông và biết tiếng Nga. Anh đã dạy tôi những bài học vỡ lòng tiếng Việt. Anh thích thú với công việc đó nên anh sẵn sàng dạy tôi bất kỳ lúc nào. Anh sống với chúng tôi rất thân mật nhưng rất kín đáo và chưa bao giờ anh nói với chúng tôi về những việc mà anh làm trước kia. Chúng tôi chẳng biết gì về anh ngoài một điều là bọn thực dân Pháp đã trao một món tiền cho kẻ nào bắt được anh và Chính phủ Quốc dân Đảng cho anh quyền cư trú chính trị. Trong ngôi nhà của Bôrôđin anh là người nhà''. Hoạt động chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu là hướng tới chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết nhất để xây dựng một Đảng mácxít ở Đông Dương và giúp đỡ các nhà cách mạng các nước khác trong vùng. Như trên đã trình bày, trước khi Nguyễn Ái Quốc tới, tại Quảng Châu đã có những hoạt động cách mạng của những người yêu nước lưu vong Việt Nam, đặc biệt là tổ chức Tâm tâm xã đang tiếp cận những tư tưởng tiến bộ của thời đại. Có lần khi đến Quảng Châu công tác, Phan Bội Châu đã đến trường Hoàng Phố bày tỏ ý định đưa học sinh Việt Nam đến học63. Có lần Tâm tâm xã đã cử người đến liên lạc với phái bộ Bôrôđin. Như vậy qua cơ quan của đoàn cố vấn Xôviết, Nguyễn Ái Quốc có điều kiện để tìm hiểu và tiếp xúc với những nhà yêu nước Việt Nam đang hoạt động tại đây. Có lẽ, thoạt đầu Nguyễn Ái Quốc tiếp xúc với những thanh niên hăng hái nhất trong Tâm tâm xã tại Huệ quần y xã64 hay tại nhà riêng của Nguyễn Giản Khanh ở Quảng Châu. Qua những đại biểu thanh niên này mà Nguyễn Ái Quốc biết được chỗ ở của Phan Bội Châu. Vì thế mà có cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn Ái Quốc và Phan Bội Châu tại nhà Hồ  Học Lãm65 và đã cùng nhau bàn công việc cứu nước. Qua đàm đạo, Phan Bội Châu rất cảm phục Nguyễn Ái Quốc, không phải ai xa lạ mà là con trai của bạn học mình là Nguyễn Sinh Sắc, đã bộc lộ trí thông minh và chí khí từ nhỏ, qua nhiều năm lăn lộn hoạt động ở nước ngoài đã trở thành một người cách mạng trưởng thành. Phan sẵn sàng chấp nhận những kế hoạch mà Nguyễn Ái Quốc đề ra. Ký ức của Phan Bội Châu xác nhận sự thực đó:
“Sau khi đảng cương và chương trình tuyên bố chưa được ba tháng thì ông Nguyễn Ái Quốc ở thủ đô Nga là Mạc Tư Khoa về Quảng Đông thường thường bàn với tôi nên sửa đổi lại. Tháng 9 năm ấy, tôi rời Quảng Đông về Hàng Châu định đến tháng 5 năm Ất Sửu (1925) sẽ trở lại Quảng Đông để cùng các đồng chí trú ngụ ở đây quyết nghị việc này, nhưng chẳng may tôi bị bắt”66.
Trong thư gửi Chủ tịch Đoàn Quốc tế Cộng sản đề ngày 18-12-1924, Nguyễn Ái Quốc đã báo cáo về cuộc gặp gỡ đó:
“Tôi đến Quảng Châu vào giữa tháng 12. Tôi đã gặp tại đây vài ba nhà cách mạng quốc gia An Nam, trong số này có một người đã xa rời xứ sở từ ba mươi năm nay. Trong thời gian đó ông ta đã tổ chức nhiều cuộc nổi dậy chống Pháp. Tất cả những cuộc nổi dậy ấy đều đã đưa tới cái chết của mấy tên sĩ quan và binh lính Pháp, sự chiếm đoạt mấy khẩu súng và... là việc người của chúng ta chạy thoát, do không được giúp đỡ và viện trợ.
Mục đích duy nhất của ông này là trả thù cho nước, cho nhà đã bị bọn Pháp tàn sát. Ông không hiểu chính trị, và lại càng không hiểu việc tổ chức quần chúng. Trong cuộc thảo luận, tôi đã giải thích cho ông hiểu sự cần thiết của tổ chức và sự vô ích của những hành động không cơ sở. Ông đã đồng ý. Và đây là những việc mà chúng tôi bắt đầu cùng nhau tiến hành:
a) Tôi đã vạch một kế hoạch tổ chức và xin gửi kèm bản sao theo đây.
b) Sau khi đã tán thành kế hoạch này, ông đã đưa cho tôi một bản danh sách l0 người An Nam đã cùng ông hoạt động bấy lâu''67.
Vậy là, vào tháng 12-1924, tại Quảng Châu, trung tâm cách mạng dân tộc của nhân dân Trung Quốc đã diễn ra cuộc hội ngộ lịch sử giữa Nguyễn Ái Quốc, người đang khao khát đi tìm lực lượng để “gieo mầm cộng sản” và một tổ chức của những thanh niên yêu nước Việt Nam đang sẵn sằng tiếp nhận những điều mới mẻ nhất, tích cực nhất, cách mạng nhất vào chương trình hành động của mình. Cuộc hội ngộ lịch sử đó đã sản sinh ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội), một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, nói một cách khác, sự ra đời của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là kết quả của sự hội tụ hai luồng tư tưởng lớn: tư tưởng giải phóng đất nước khỏi ách đế quốc thực dân và tư tưởng cần phải ''có một Đảng mácxít kiểu mới để lãnh đạo phong trào đó''.
Ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc xây dựng tổ chức cách mạng tuần tự theo từng bước - từ tiếp xúc tìm hiểu những người yêu nước Việt Nam đang hoạt động ở miền Nam Trung Quốc đến việc thành lập một nhóm bí mật là Cộng sản đoàn làm hạt nhân, cuối cùng là thành lậpHội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và đặt nó trong mối liên hệ với cách mạng Đông Nam Á, tức là thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức. Sau đây là mấy nét đại cương về các bước đi đó:
Sau khi tiếp xúc với Phan Bội Châu và nắm trong tay bản danh sách gồm 14 đồng chí thân cận của Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc đi tới một quyết định thích hợp nhất lúc đó là mở ngay một lớp huấn luyện về phương pháp tổ chức để tìm hiểu một cách tích cực những người được giới thiệu: Sau lớp huấn luyện đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc lựa chọn những thanh niên tích cực, được thử thách qua huấn luyện và công tác lập ra một nhóm bí mật, tức là Cộng sản đoàn làm hạt nhân cho một tổ chức rộng lớn hơn sau đó. Nhóm bí mật, tức Cộng sản đoàn, được thành lập vào tháng 2-1925Lần theo những báo cáo của Người với Quốc tế Cộng sản, ta thấy khá rõ tháng bước đi đó. Trong bức thư ngắn gửi Bộ Phương Đông Quốc tế Cộng sản đề ngày 22-12-1924, Nguyễn Ái Quốc đã thông báo:
''Tôi đã tổ chức được ở đây vài ba người Đông Dương mà tôi hy vọng có thể làm được một số việc. Đồng chí có thể chỉ thị cho các đồng chí Nga ở đây cũng phải chịu trách nhiệm các công việc về Đông Dương được không?''68.
Tiếp đó, trong báo cáo gửi Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản đề ngày 19-2-1925, Nguyễn Ái Quốc đã viết trong phần Công tác đã làm đượcnhư sau: ''Chúng tôi đã lập một nhóm bí mật gồm chín hội viên, trong đó có:
2 người đã được phái về nước.
3 người ở tiền tuyến (trong quân đội của Tôn Dật Tiên).
1 người đã đi công cán quân sự (cho Quốc dân Đảng).
Trong số hội viên đó, có 5 người đã là đảng viên dự bị của Đảng Cộng sản”69.
Nhóm bí mật gồm 9 hội viên đó chính là Cộng sản đoàn trong đó có các đồng chí:
-Lê Hồng Sơn
-Hồ Tùng Mậu
-Lê Hồng Phong
-Lưu Quốc Long (Quý)
-Trương Vân Lĩnh
-Lê Quảng Đạt70
-Lâm Đức Thụ71
Nhóm Cộng sản đoàn đóng vai trò hạt nhân của một tổ chức rộng hơn sẽ được lập mấy tháng sau đó. Nhóm này được phát triển trong suốt thời gian mà Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo, tức là tháng 4-1927. Trong lớp huấn luyện thanh niên từ trong nước sang, sau khi học xong đã kết nạp tất cả vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nhưng chỉ chọn 5 người vững vàng nhất kết nạp vào Cộng sản đoàn là các đồng chí: Trần Phú, Nguyễn Văn Lợi, Phan Trọng Bình, Phan Trọng Quảng, Nguyễn Ngọc Ba72.
Bước tiếp theo, Nguyễn Ái Quốc thành lập một tổ chức có tính chất quần chúng rộng lớn hơn nhằm tập hợp các phần tử thanh niên yêu nước trong và ngoài nước. Tháng 6-1925, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ra đời. Tổ chức này đã công bố Chương trình và Điều lệ. Sau đây là đoạn đầu của bản Điều lệ thứ nhất của tổ chức cách mạng mà Nguyễn Ái Quốc sáng lập và là lãnh tụ:
I- Tên hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên Hội.
II- Mục đích
Hy sinh tư tưởng, quyền lợi, tính mệnh để làm cuộc cách mạng dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành lại xứ sở) rồi sau đó lám cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản).
III. Chương trình
a) Lựa người giác ngộ, huấn luyện họ, tổ chức họ vào Hội.
b) Cử những hội viên đã được đào tạo vào trong nhân dân để tuyên truyền điều phải và tổ chức các đoàn thể như Công hội, Nông hội, Hội học sinh, Hội phụ nữ, v.v..
c) Cơ hội đầu tiên là tập hợp lực lượng của những đoàn thể quốc gia để đập tan bọn Pháp và lấy lại chính quyền.
d) Thành lập chính phủ nhân dân gồm đại biểu của các đoàn thể công nhân, nông dân và binh sĩ.
e) Áp dụng những nguyên tắc tân kinh tế chính sách để thúc đẩy sự phát triển các cơ quan sản xuất trong nước, bài bỏ tư sản tư nhân và sự giao lưu những tài nguyên quốc gia.
g) Đoàn kết với những giai cấp vô sản của tất cả các nước và thành lập xã hội cộng sản...''73.
Về điều kiện vào Hội, bản Điều lệ năm 1926 ghi rõ: người Việt Nam nào từ 17 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, tán thành mục đích, chương trình và kỷ luật của Hội và được hai hội viên giới thiệu thì được gia nhập Hội sau khi đã được chi bộ đồng ý; chỉ trừ 5 đối tượng không được gia nhập Hội, được tách thành mục sau cùng74.
Về tổ chức, trong bản Điều lệ năm 1926 không ghi rõ nhưng trên thực tế được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Cấu trúc tổ chức của Hội là một hệ thống gồm năm cấp: tổng bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ, huyện bộ và chi bộ.
Sơ đồ 1Hệ thống tổ chức của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên 
  
Tổng bộ
                                  

Kỳ bộ


Tỉnh (thành) bộ



Huyện bộ




Chi bộ
Ghi chú: Mũi tên chỉ xuống biểu hiện sự lãnh đạo; mũi tên chỉ lên biểu hiện chế độ báo cáo và việc bầu ra các cấp lãnh đạo.
Nếu đem so sánh tôn chỉ, mục đích và chương trình của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên với những chính đảng cùng thời với nó nhưTân Việt Đảng và Việt Nam Quốc dân Đảng chúng ta thấy có những quan điểm cách mạng rõ ràng, đúng đắn biểu hiện trên những vấn đề sau:
- Cuộc cách mạng Việt Nam bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau liên tục: cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới.
- Về đối nội: Hội chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập chính phủ công - nông - binh và chính phủ đó sẽ áp dụng chính sách kinh tế mới để phát triển đất nước và mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân.
Về đối ngoại: Hội chủ trương đoàn kết với tất cả giai cấp vô sản các nước và xây dựng xã hội cộng sản. Phải thừa nhận là vào giữa những năm 20 của thế kỷ XX mà nêu ra được những vấn đề trên là điều hết sức quan trọng về mặt tư tưởng và chính trị. Chính ở điểm này đã thu hút các lực lượng chính trị và tổ chức cách mạng của mình và có ảnh hưởng tốt, tích cực đến chương trình của các tổ chức chính trị cùng thời khác.
Bước cuối cùng gắn với quá trình thành lập tổ chức chính trị nói trên là việc Nguyễn Ái Quốc đặt nó trong mối liên hệ với phong trào cách mạng thế giới, mà trước hết là phong trào cách mạng ở các nước Đông Nam Á. Ngày 9-7-1925, dưới sự hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc, Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ra đời, do Liêu Trọng Khải, lãnh tụ phái tả Quốc dân Đảng Trung Quốc làm Hội trưởng. Đoàn thể này có sự tham gia của các nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Inđônêxia, Việt Nam, Ấn Độ. Mỗi nước có một phân bộ. Phân bộ Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo và Lê Hồng Sơn giữ con dấu của phân bộ Việt Nam. Bức điện của Toàn quyền Môngghiô (Montghillot) gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pari cho ta biết thêm điều đó:
''Bộ Thuộc địa Pari.
1195. Cá nhân và tối mật. Chỉ một mình cá nhân Ngài được đọc.
Trong tổ chức ''Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á châu'' mà tôi đã báo cho Ngài biết trong bức điện của tôi số 1016 ngày 26-7, Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành một cuộc vận động vô cùng khôn khéo phù hợp với điều kiện của người An Nam nhằm giáo dục cách mạng cho nông dân và công nhân An Nam và đoàn kết họ chống lại sự thống trị của người Pháp''75.
Đó chính là mối liên hệ rất biện chứng của các bước đi trong việc thành lập tổ chức cách mạng Việt Nam và ý định to lớn của Nguyễn Ái Quốc đối với phong trào cách mạng Đông Nam Á.
Một vấn đề đặt ra ở đây là tại sao Nguyễn Ái Quốc không thành lập ngay một Đảng Cộng sản mà chỉ thành lập một tổ chức cách mạng quần chúng mang tính chất quá độ? Để lý giải được vấn đề này cần phải trở lại với những hoàn cảnh lịch sử của các nước trong vùng và của Việt Nam lúc đó.
Xem xét sự ra đời của các Đảng Cộng sản ở các nước trong vùng ta thấy rằng sự xuất hiện của các Đảng Cộng sản gắn chặt với điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước.
Ở Trung Quốc, sau phong trào Ngũ Tứ (4-5-1919) với sự hoạt động tích cực của các đại diện Quốc tế Cộng sản, đặc biệt của G.N.Vôitinxki, xuất hiện các nhóm cộng sản tại Thượng Hải và Hoa Bắc mà trên cơ sở đó Đảng Cộng sản Trung Quốc ra đời vào tháng 7-1921.
Ở Inđônêxia, trong hoàn cảnh phong trào công nhân và phong trào chống đế quốc phát triển mạnh mẽ, ngày 23-5-1920, Đại hội của Đảng xã hội hội dân chủ ở Xêmarang đã quyết định đổi tên tổ chức này thành Đảng Cộng sản Inđônêxia.
Ở Philíppin, Đảng Cộng sản ra đời ở Manila ngày 7-11-1930 trên cơ sở Đảng Công nhân được thành lập từ cuối năm 1924 và dưới sự hoạt động tích cực của những đại biểu Đảng Cộng sản Mỹ.
Còn ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã xuất phát từ thực trạng của đất nước, nơi mà 95% dân số là nông dân, tuyệt đại bộ phận còn mù chữ, ít học, không một ai biết chủ nghĩa cộng sản là gì, đã vận dụng một cách sáng tạo về lý luận xây dựng Đảng Cộng sản vào hoàn cảnh đó bằng việc thành lập một tổ chức tiền thân để qua đó đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam và khi chủ nghĩa Mác - Lênin được kết hợp với phong trào công nhân thì mới xây dựng Đảng Cộng sản. Trùm mật thám Pháp ở Đông Dương L.Mácty cho ta biết thêm điều đó: chính Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội Quốc tế Cộng sản vào mùa hè năm 1927 đã chỉ rõ ràng sự xích dần là cần thiết cho sự hình thành một phong trào cộng sản ở Việt Nam, và trừ một số rất ít người Việt Nam sang du học bên châu Âu ra thì “không một ai biết chủ nghĩa cộng sản là gì cả và không thể thành lập một Đảng Cộng sản ở Đông Dương khi không một ai hiểu được ý nghĩa của từ ''cộng sản''. Chỉ có thể thành lập được một Đảng Xã hội - quốc gia Việt Nam mà các lãnh tụ của nó có nhiệm vụ dần dần đưa các hội viên của mình tới chủ nghĩa Mác''76. Rõ ràng, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên - một tổ chức cách mạng thích hợp, vừa tầm với điều kiện lịch sử cụ thể nước ta lúc đó - là một chủ đích, một hướng sáng tạo, khác với những mô hình thành lập Đảng Cộng sản ở các nước trong vùng. Thực chất toàn bộ công việc mà Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành là tổ chức lực lượng truyền bá tư tưởng cách mạng mới trong một tổ chức cách mạng thích hợp là sự chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng mácxít trong tương lai. Nguyễn Ái Quốc đã thành công theo hướng đó. Toàn bộ sự vận động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên từ tháng 6-1925 đến tháng 5-1929 đã minh chứng về sự đúng đắn đó.
2. Truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin thông qua tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
Sau khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ra đời, với tư cách là người sáng lập và lãnh tụ, Nguyễn Ái Quốc đã đề ra cho Hội một kế hoạch hoạt động cụ thể. L.Mácty gọi đó là “kế hoạch Nguyễn Ái Quốc”. Theo Mácty, kế hoạch đó đòi hỏi:
Ở ngoài nước:
a) Đào tạo những người xuất dương trẻ tuổi.
b) Chuẩn bị tài liệu tuyên truyền và bảo đảm một cách đáng kể việc xuất bản đều đặn tờ báo của Hội.
c) Lập ra và duy trì hệ thống liên lạc, một mặt với Đông Dương, mặt khác với các tổ chức cộng sản và các tổ chức cách mạng nước ngoài có thiện cảm.
d) Giữ cho tất cả hội viên trung thành với chủ nghĩa và đảm bảo kỷ luật mà Tổng bộ đã đề ra.
e) Tung về nước những thanh niên đã được huấn luyện ở Quảng Châu.
Ở trong nước:
a) Tổ chức nhiều chi bộ: Phải hiểu rằng mỗi một  hội viên mới được kết nạp vào Hội phải theo đúng nguyên tắc là phải trở thành một phần tử mới của một chi bộ mới.
b) Lập những tổ chức đã nêu ra trong bản Điều lệ và xây dựng một đảng thống nhất có kỷ luật nghiêm minh.
Vậy là, thực chất của kế hoạch đó là vừa sử dụng những phương tiện có thể truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác-Lênin trong quần chúng, vừa tiến hành xây dựng tổ chức cách mạng trên khắp đất nước.
Có thể quy những công tác mà Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra thành những mặt hoạt động chủ yếu như tổ chức những đường dây liên lạc với trong nước và với Quốc tế Cộng sản, tạo ra những phương tiện truyền bá và nội dung cơ bản của việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Những công việc đó được tiến hành đồng thời hoặc đan xen nhau. Để tiện cho việc trình bày, chúng tôi xin tách thành những vấn đề riêng theo trình tự hợp lý nhất.
Tổ chức những đường dây liên lạc với trong nước và với Quốc tế Cộng sản.
Đến Quảng Châu ngày 11-11-1924, sau khi đã hợp thức hoá công việc của mình trong cơ quan của M.M.Bôrôđin, ngày hôm sau, Nguyễn Ái Quốc đã viết thư liên lạc với đồng chí phụ trách Bộ Phương Đông Quốc tế Cộng sản với một địa chỉ mới:
''Địa chỉ của tôi:
L.U
Hãng thông tấn Rôxta
Quảng Châu, Trung Quốc.
Hoặc địa chỉ: Nilôpxki
Nhờ Đại sứ quán Liên Xô tại Quảng Châu chuyển''.
Rõ ràng, đối với Nguyễn Ái Quốc, Quảng Châu lúc đó là một địa điểm thuận lợi nhất để đặt trung tâm liên lạc với quốc tế và trong nước. Từ Quảng Châu có thể trực tiếp hoặc qua Hồng Kông, nhượng địa của nước Anh, là nơi sự kiểm soát ít chặt chẽ hơn, có thể liên lạc bằng đường thuỷ, đường bộ, đường không từng chặng ngắn với Mátxcơva; bằng đường thuỷ với Xiêm, với Pháp; bằng đường thuỷ, đường bộ với trong nước. Nhờ hệ thống liên lạc của Quốc tế Cộng sản đã được thành lập từ trước, Nguyễn Ái Quốc liên lạc chặt chẽ với Mátxcơva. Đường liên lạc thủy - bộ Quảng Châu - Mátxcơva thông thường đi qua các trạm: Thượng Hải - Vlađivôxtốc - Iếcút - Mátxcơva.
Nhưng đến giữa năm 1921, cuộc đảo chính phản cách mạng của Méckulốp đã cắt miền duyên hải ra khỏi nước cộng hoà Viễn Đông và nước Nga Xôviết nên không thể đi tàu đến Vlađivôxtốc được, chỉ còn một con đường bộ qua Mãn Châu, từ đó đi Trita rồi đến Iếcút. Lúc đó ở Mãn Châu nhan nhản bọn bạch vệ, lính Nhật và cảnh sát nên Quốc tế Cộng sản đã tổ chức các điểm liên lạc ở Thượng Hải, Bắc Kinh và Khácbin. Bà Vaxiliêva - Trưởng phòng liên lạc quốc tế trong Ban Bí thư Viễn Đông,   một cán bộ dày dạn kinh nghiệm đã đóng vai trò lất lớn trong công việc này. Sau khi dẹp được bọn bạch vệ và bọn Méckulốp, con đường thứ nhất mới được lập lại - Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu thường sử dụng đường dây liên lạc đó của Quốc tế Cộng sản. Thư từ chuyển theo đường dây này trung bình phải mất 37 ngày. Trong một bản báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đề ngày 3-6-1926, đến Mátxcơva ngày 10-7-1926. Như vậy, để nhận được chỉ thị của Quốc tế Cộng sản phải đợi ít nhất là 74 ngày. Hơn nữa, thư từ, tài liệu đi theo đường dây này không được quy định thời gian cụ thể, mà được tổ chức khi có giao thông quốc tế đến nhận. Nghiên cứu thư từ trao đổi của Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế Cộng sản ta thấy rằng có những lá thư Nguyễn Ái Quốc viết khá vội trước khi chuyến thư khởi hành. Chẳng hạn như Thư gửi Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản đề ngày 10-1-1925 được viết trong tình trạng: ''Chuyến thư sắp khởi hành rồi. Tôi xin kết thúc bản báo cáo của tôi. Chuyến thư sau, tôi sẽ gửi các đồng chí một bản báo cáo chi tiết hơn”77. Và chuyến thư sau, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thành bản báo cáo chi tiết đó cho Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản đề ngày 19-2-1925. Như vậy với sự hoạt động tích cực của đường dây liên lạc này trung bình mỗi tháng một lần Nguyễn Ái Quốc liên lạc với Quốc tế Cộng sản. Ngoài đường dây trên, thư từ cũng có thể chuyển bằng máy bay theo từng chặng ngắn. Sau cùng, Nguyễn Ái Quốc có thể liên lạc với Quốc tế Cộng sản qua điện tín. Trong một bản báo cáo của Nguyễn Ái Quốc gửi Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản, Người yêu cầu các đồng chí trong Quốc tế Cộng sản rằng: ''Tôi sẽ cám ơn các đồng chí rất nhiều nếu các đồng chí trả lời những yêu cầu của tôi bằng điện báo''78. Chắc chắn là trong những trường hợp thật khẩn thiết Nguyễn Ái Quốc mới sử dụng đến phương tiện liên lạc này. Theo đúng lời dặn của D.Z.Manuinxki, Nguyễn Ái Quốc qua M.M.Bôrôđin, đại diện của Quốc tế Cộng sản ở miền Nam Trung Quốc đã liên lạc chặt chẽ, thường xuyên với Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva, với đại diện Đảng Cộng sản Pháp ở Quốc tế Cộng sản. Từ đó mà liên lạc được với Đảng Cộng sản Pháp ở Pari. Việc xác lập được mối quan hệ chặt chẽ, thường xuyên đó tạo cho Nguyễn Ái Quốc khả năng nhận được chỉ thị, tài liệu tuyên truyền từ Quốc tế Cộng sản cho những hoạt động của mình tại Quảng Châu.
Ngay từ hồi hoạt động ở Mátxcơva Nguyễn Ái Quốc đã ý thức được là ''các nhà hoạt động bản xứ đều bị giám sát và truy nã rất ráo riết tại chính nước họ. Nhưng ở nước láng giềng họ có thể hoạt động dễ dàng hơn vì có ít người biết họ”79. Cho nên khi đến Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã biến nó thành một trung tâm đầu cầu, từ đó đưa cán bộ thâm nhập về nước hoạt động, chuyển các phương tiện tuyên truyền về nước. Trong thư gửi Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản ngày l0-2-1925, sau khi báo cáo những công việc đã làm, Nguyễn Ái Quốc đã trình bày những việc dự định sẽ phải làm trong năm, có kèm theo bản đồ:
“... b) Thiết lập những cơ sở giao thông:
1. Ở Quảng Tây.
2. Ở phía cực nam Quảng Đông.
3. Ở Băng Cốc.
4. Ở Tích Kho (điểm kết thúc của đường xe lửa Băng Cốc và cách Lạc Phách 20 ngày đường).
5. Ở Lạc Phách, trên tả ngạn sông Mê Kông và cách Trung Kỳ 15 ngày đường.
c) Phái một đồng chí về ở trong nước để thu thập và chuyển tin tức.
d) Phái một hoặc nhiều đồng chí làm việc trên các tàu thuỷ đi lại giữa Trung Quốc và Đông Dương''80.
Xin lưu ý là, đoạn trích dẫn trên được Nguyễn Ái Quốc viết cùng trong bản báo cáo gửi Chủ tịch Đoàn Quốc tế Cộng sản thông báo những việc đã làm được là ''chúng tôi đã lập được một nhóm bí mật gồm 9 hội viên'', tức là nhóm Cộng sản đoàn - điều đó có nghĩa là danh mục những công việc sẽ phải làm đã được nhóm bí mật đó thảo luận và quyết định. Vì thế trong mục b, thiết lập những cơ sở giao thông, phần nhiều là thừa hưởng các cơ sở giao thông liên lạc của Tâm tâm xã, của các tổ chức cách mạng chịu ảnh hưởng của Phan Bội Châu. Nếu như các cơ sở giao thông như Tích Kho, Lạc Phách tương ứng với địa danh U Đon và Na Khon thì hầu như các cơ sở giao thông đó hoàn toàn đã có sẵn từ trước. Chúng ta biết là năm 1923 Lê Hồng Sơn đã theo con đường Quảng Đông về Hà Nội. Sau khi hoàn thành công việc anh được Đinh Chương Dương đưa đi Móng Cái, đến Đông Hưng rồi trở lại Quảng Châu vào mùa đông năm 1923. Như vậy, trạm giao thông ở cực nam Trung Quốc là từ Đông Hưng đến Nà Sáo Tụ. Tiếp đó, năm 1924 Hồ Tùng Mậu về nước theo đường thuỷ Quảng Châu - Hồng Kông - Băng Cốc - Phì Chịt. Tại đây, Hồ Tùng Mậu gặp Vương Thúc Oánh dẫn đường về nước theo các trạm giao thông Phì Chịt - U Đon - Na Khon - Pạc Hin Bun - băng qua đất Lào - Nghệ Tĩnh. Khi hoàn thành công việc, Hồ Tùng Mậu được Vương Thúc Oánh dẫn đường qua Vinh - Hà Nội - Hải Phòng - Móng Cái - Đông Hưng - Quảng Châu. Vậy là tổ chức cách mạng mà Nguyễn Ái Quốc lập ra đã kế thừa những trạm giao thông, những đầu mối liên lạc của các tổ chức cách mạng trước đó. Có khác chăng là ở việc tổ chức thực hiện, tức là chất lượng của công việc đó. Chỉ có công việc ở mục c và d trong bản báo cáo là mới. Đó là công việc mà Nguyễn Ái Quốc đã trao cho Nguyễn Lương Bằng, công nhân làm việc trên tàu Căngtông (Quảng Châu), được cử về nước hoạt động với trọng trách là tổ chức đường dây liên lạc trên các tàu chạy tuyến đường Trung Quốc - Đông Dương. Với việc xin được chân trên tàu Sông Bô của một hãng tư nhân Pháp chạy đường Hải Phòng - Hồng Kông - Quảng Châu, Nguyễn Lương Bằng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Trong những năm 1925-1927, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn tất một hệ thống giao thông liên lạc với trong nước. Hệ thống đó đã bảo đảm đưa đón cán bộ, vận chuyển tài liệu, báo chí, sách vở về nước với quy mô và mức độ ngày một tăng cùng với sự lớn mạnh của phong trào cách mạng ở trong nước.
Các phương tiện tuyên truyền.
Thời kỳ Quảng Châu khác với những thời kỳ trước không chỉ ở khoảng cách không gian (địa lý), mà chính ở những điều kiện mới về chất mà kết quả hoạt động của hai thời kỳ trước và điều kiện lịch sử Trung Quốc lúc đó tạo ra. Và cũng chính hoàn cảnh mới ấy đã quy định những phương tiện hoạt động ở thời kỳ này. Do vậy, Nguyễn Ái Quốc không dừng lại ở những phương tiện đã dùng như sách báo mà đã dùng nhiều phương tiện tuyên truyền phong phú và có hiệu quả như thành lập tổ chức cách mạng, và mở các lớp huấn luyện mà thực chấtlà tạo ra những phương tiện tuyên truyền sống. Ở phần này, chúng tôi chủ yếu khảo sát các phương tiện tuyên truyền về mặt hình thức, còn về mặt nội dung tuyên truyền được dành một phần riêng tiếp theo phần này.
+Xuất bản sách báo
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã xuất bản ngay báo Thanh niên làm phương tiện tuyên truyền mục đích, tôn chỉ và chủ trương của Hội, hướng dẫn hoạt động cách mạng cho mỗi hội viên. Đây là điểm khác biệt hẳn với các tổ chức chính trị cùng thời như Tân Việt và Việt Nam Quốc dân Đảng. Tân Việt không hề có báo, còn tờ báo Hồn nước của Việt Nam Quốc dân Đảng chỉ ra được số đầu tiên rồi chết hẳn. Không có báo thì không thể chuyển tải các chủ trương, quan điểm đến tận các tổ chức cơ sở, các hội viên, đặc biệt là trong điều kiện hoạt động bí mật, trong sự cấm đoán gắt gao của chủ nghĩa thực dân Pháp. Trong suốt quá trình tồn tại, tổ chức cách mạng mà Nguyễn Ái Quốc lập ra đã sử dụng thành công, có hiệu quả vũ khí tư tưởng sắc bén này. Sự thành công này không chỉ có lợi cho bản thân Hội mà còn để lại dấu ấn trong Cương lĩnh chính trị của các tổ chức cách mạng cùng thời.
Báo Thanh niên, cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, ra số đầu tiên vào ngày 21-6-1925 tại Quảng Châu. Trong một bản báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản đề ngày 3-6-1926, Nguyễn Ái Quốc viết: ''Ở đây, chúng tôi đã xuất bản tờ báo hằng tuần ''Thanh niên”81.Đây là tờ tuần báo tiếng Việt do Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Trong lịch sử báo chí vô sản ở nước ta, tờ báo này là tờ báo mở đầu.
Báo Thanh niên in trên khổ giấy học sinh ngày trước (khoảng 18 x 24 cm) viết bằng bút sắt nhọn trên giấy sáp. Ở trang 1 phía trên cùng, chỗ trung tâm là tên báo Thanh niên bằng chữ Hán và chữ Việt; ở góc trái là ngôi sao năm cánh, trong đó ghi số báo. Tất cả đóng khung chạy dài suốt trang báo. Là cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nhưng từ số 1, ra ngày 21-6-1925 đến số 107 không thấy có tiêu đề của tờ báo, cho đến mãi số 108 ra ngày 28-7-1929 mới thấy có tiêu đề của tờ báo là “Cơ quan của Đảng Việt Nam Cách mạng Thanh niên”. Ở vị trí ngôi sao năm cánh được thay bằng một ngôi sao và hình búa liềm.
Báo Thanh niên có khi 4 trang, khi 2 trang. Mỗi trang chia làm hai cột như tạp chí, mỗi cột từ 23 đến 26 dòng chữ. Như vậy số mục, số bài ít. Điều đó quy định trước bài viết thường gọn. Thỉnh thoảng mới thấy có bài viết dài được ngắt ra đăng liên tiếp trên mấy số báo liền nhau. Thỉnh thoảng báo có một hình vẽ. Một số người nghiên cứu cho rằng những bức vẽ đó có thể là của Nguyễn Ái Quốc vì các nét vẽ tương tự như những nét vẽ trên tờ Le Paria và một số tờ báo khác sau này. Báo có những mục lớn: Xã luận, Tân văn (Tin tức), Diễn đàn phụ nữ, Thanh niên, Vấn đáp, Nghiên cứu lý luận, Thư tín, v.v.. Mỗi số báo Thanh niên được in khoảng 100 bản, hầu hết được bí mật gửi về Việt Nam, một số gửi cho các cơ sở ở Xiêm.
Nguyễn Ái Quốc là người sáng lập và là cây bút chủ chốt của tờ báo. Theo Huỳnh Kim Khánh, những bài ký tên là Z.A.C. là của Nguyễn Ái Quốc. Đó là những bài quan trọng về mặt chính trị - tư tưởng, về mặt lý luận, thực tiễn. Ngoài Nguyễn Ái Quốc, trong ban biên tập gồm các uỷ viên Tổng bộ Thanh niên như Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Duy Điếm, v.v.. Bài của Z.A.C. trên số 1 ra ngày 21-6-1925 kêu gọi đoàn kết có đoạn:
''Để dẫn dắt nhân dân làm một sự nghiệp vĩ đại cần phải có một sức lãnh đạo, sức lãnh đạo đó không phải có một vài người thôi, mà phát sinh ra từ sự hiệp lực của hàng ngàn, hàng vạn người.
Muốn cho hàng ngàn hàng vạn người ấy đoàn kết chặt chẽ với nhau thì họ phải cùng một ý chí như nhau, họ phải nuôi một kỳ vọng giống nhau, có vậy mới có đoàn kết.
Khi nào cùng ý chí, cùng kỳ vọng thì khi ấy mới có thể đoàn kết bằng không thì dẫu có hô hào đoàn kết mấy đi nữa cũng không thể nào đoàn kết được.
Sự nghiệp cách mạng lớn lắm. Những người cách mạng phải đoàn kết với nhau để thực hiện sự nghiệp đó. Người mình đã làm việc cách mạng đã nhiều năm rồi mà chưa thành công trước hết bởi vì thiếu đoàn kết với nhau''82.
Theo Tầm Vu, Thanh niên tập trung tuyên truyền những vấn đề chính sau đây:
1. Đế quốc và thuộc địa,
2. Cách mạng và cải lương.
3. Vì lẽ gì người Việt Nam chưa làm cách mạng được? Những trở ngại tư tưởng và tổ chức cần vượt qua.
4. Đảng cách mạng, Đảng Cộng sản.
5. Cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới.
6. Đảng cách mạng và Mặt trận dân tộc thống nhất.
7. Hướng đến phát động một phong trào đấu tranh của quần chúng.
8. Học tập các cuộc cách mạng thế giới.
9. Học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin.
Từ ngày 21-6-1925 đến tháng 4-1927, tức là thời kỳ có sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc, Thanh niên ra được 88 số và suốt cả thời kỳ tồn tại của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, báo ra được trên 200 số 83. Nhờ báo Thanh niên mà tổ chức Hội thống nhất về phương pháp và nội dung tuyên truyền, giáo dục trong và ngoài Hội. Báo Thanh niên được bí mật đưa về phổ biến khắp cả ba kỳ và được tổ chức in lại ở trong nước. Chẳng hạn, tại Hà Nội, Nguyễn Danh Đới- Bí thư tỉnh bộ đã phân công cho Nguyễn Đức Cảnh và một số đồng chí khác tổ chức cơ quan ấn loát ở số nhà 92, phố Chợ Đuổi in lại tài liệu của đồng chí Nguyễn Ái Quốc gửi về, in lại báo Thanh niên và báo Công nôngđể có tài liệu tuyên truyền và giáo dục quần chúng.
“Vì là học sinh, lại có chữ đẹp, tôi được phân công chép và in lại bằng thạch cuốn Đường cách mệnh, một tác phẩm lý luận cách mạng đầu tiên ở nước Việt Nam do Bác Hồ soạn và báo Thanh niên một tờ báo cách mạng đầu tiên viết bằng tiếng Việt, xuất bản bằng tiếng Việt do Bác Hồ sáng lập''84.
Báo Thanh niên góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp công nhân vào đầu năm 1930. Ngoài tờ Thanh niên, cơ quan ngôn luận của Hội, Tổng bộ còn xuất bản ba tờ báo định kỳ khác là tuần báo Công nông, bán nguyệt san Lính cách mệnh và nguyệt san Việt Nam tiền phong cho những đối tượng hẹp hơn. Chẳng hạn, tuần báo Công nông xuất bản từ tháng 12-1926 đến đầu năm 1928, nhằm vào đối tượng công nhân và nông dân là chủ yếu, hay bán nguyệt san Lính cách mệnh xuất bản từ đầu năm 1927 đến đầu năm 1928 lấy binh sĩ người Việt Nam trong quân đội Pháp ở Đông Dương làm đối tượng tuyên truyền của mình. Huỳnh Kim Khánh trong một công trình nghiên cứu về phong trào cộng sản Việt Nam đã đưa ra một nhận xét như sau: ''Những nhà nghiên cứu chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam gồm cả những người ở Hà Nội, nói chung quên thừa nhận sự tồn tại chương trình xuất bản của Thanh niên. Các tác giả Việt Nam như Vũ Thọ và Trung Chính đã góp phần chắc chắn hiểu biết thời kỳ đầu của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, nhưng do một vài lý do cũng đã quên ghi nhận có những tờ báo định kỳ cùng thời với tờ Thanh niên như Lính cách mệnh, báo Công nông và Việt Nam tiền phong. Những nhà nghiên cứu phong trào cộng sản Việt Nam của phương Tây lại khăng khăng lặp lại và giải thích báo cáo của Lui Mácty trong Góp phần vào lịch sử các phong trào chính trị ở Đông Pháp,tập IV, về Thanh niên, Mácty báo cáo là 88 số Thanh niên được xuất bản giữa tháng 6-1925 và tháng 4-1927 (tr.17). Điều này đã làm cho một vài cây bút phương Tây đi đến kết luận rằng: thật ra chỉ có 88 số (xem ví dụ: Duiker: Sự vùng dậy của chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam (Rise of Nationalism in Vietnam), tr.205). Ngoại trừ một số ít, AOM (Section d'Outre mer des Archives Nationales) có cả một sưu tập Thanh niên (SLOTFOM, vol 5, Carton 16) và số báo có thực của tờ Lính cách mệnh và báo Công nông''85Rõ ràng Nguyễn Ái Quốc và những học trò của Người đã xuất bản nhiều loại báo cho nhiều đối tượng khác nhau nhằm mục đích cao nhất là tuyên truyền tư tưởng cách mạng trong toàn thể nhân dân Việt Nam từ công nông là ''gốc cách mạng'' đến những người đang lầm đường hoặc buộc phải cầm súng trong quân đội Pháp.
Ngoài báo chí, Tổng bộ còn cho xuất bản sách giới thiệu về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên,v.v.. Đáng kể nhất trong loạt sách nhỏ xuất bản tại Quảng Châu là cuốn Đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc, Đường cách mệnh do Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản đầu năm 1927. Bìa cuốn sách được trình bày: dòng chữ trên cùng phía góc trái: ''Không phải sách bán'', dưới đó là tên cuốn sách viết chữ to: ''Đường cách mệnh'', bên dưới là một đoạn trích trong cuốn Làm gìcủa V.I.Lênin: ''Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động... chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong''. Trong vòng tròn là hình người hai tay bị xiềng, một dấu hình bầu dục và một phần của nó đóng đè lên hình vẽ, giữa hình con dấu là hai dòng chữ Hán, vòng ngoài có dòng chữ Việt: ''Bị áp bức dân tộc Liên hợp hội tuyên truyền Bộ ấn hành''. Nội dung cuốn sách được phân chia theo từng vấn đề và số trang cũng đánh theo từng vấn đề, chứ không có số trang cho toàn cuốn sách. Trong phần mở đầu cuốn sách, Nguyễn Ái Quốc đã viết: ''Mục đích sách này là để nói cho đồng bào ta biết rõ: (1) Vì sao chúng ta muốn sống thì phải cách mệnh. (2) Vì sao cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người. (3) Đem lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi. (4) Đem phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ. (5) Ai là bạn ta? Ai là thù ta? (6) Cách mệnh thì phải làm thế nào?”86. Và để rồi đạt tới đích cao hơn là ''Đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh.”87.
Cuốn Đường cách mệnh tiếp tục phát triển cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc. Nếu như trong Bản án chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc bóc trần và lên án những hành động xấu xa, bỉ ổi của thực dân Pháp ở những thuộc địa của chúng, thì trong tác phẩm thứ hai này, Người chỉ ra con đường cụ thể để giải phóng Tổ quốc mình, đồng bào mình khỏi kiếp nô lệ. Nói một cách khác, ở cuốn sách đầu là thức tỉnh, ở cuốn sách sau là định hướng cho hành động. Vì thế mà E.V.Côbêlép, một nhà nghiên cứu Xôviết am hiểu lịch sử Việt Nam giai đoạn này đã có lý khi nhận định: ''Tác phẩm Đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc đã đóng vai trò tựa như cuốn Làm gì?của Lênin trong phong trào cách mạng nước Nga''88.
Hay như I.A.Ognhetốp xác định: Đường cách mệnh mà trong đó người cộng sản Việt Nam đầu tiên trình bày dưới dạng dễ hiểu bản chất của học thuyết Mác - Lênin và phương hướng phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam đã đóng vai trò chủ đạo trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam những năm 20 và trong việc kết hợp phong trào yêu nước với chủ nghĩa Mác''89.
Cuốn sách đã theo Nguyễn Công Thu về Hà Nội qua đường Lạng Sơn, theo Nguyễn Lương Bằng về Hải Phòng, Hải Dương. Một điều lý  thú là trong cuốn Đường cách mệnh - hiện vật gốc của Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, có một tờ giấy rời viết chữ Nôm bằng mực son nói về lai lịch bắt được cuốn sách đó. Nội dung văn bản đó như sau:
Tên con là Phó lý Nguyễn Văn Tôn, xã Hạ Trường, xin nộp quan huyện Thanh Hà quyển sách này. Con xin làm đơn trình sau. Bảo Đại năm thứ 5, ngày 29 tháng Hai''.
Phó lý Nguyễn Văn Tôn (ký), có chữ ''Nhất'' và chữ ''Phụ đệ'' cùng với dấu của tri huyện Thanh Hà.
Tờ trình của Phó lý xã Hạ Trường xác nhận một điều quan trọng là ngày 29-2, Bảo Đại năm thứ 5, tức là ngày 28-3-1930 hắn đã bắt được cuốn sách ''cấm'' tại nơi cư trú của hắn, sau trên dưới ba năm phát hành, đã nộp ''tang vật'' cùng tờ trình lên quan huyện Thanh Hà và được viên quan cấp trên xác nhận (có dấu của huyện Thanh Hà). Huyện Thanh Hà, Hải Dương là quê hương của Nguyễn Lương Bằng. Vậy là những cuốn sách cấm như vậy đã theo tàu biển từ Quảng Châu về Hải Phòng, đưa lên cất giấu tại ngôi nhà 157C (trên gác 2), phố Lê Lợi (trước đây là phố Bengích) là một trạm giao thông liên lạc mà Nguyễn Ái Quốc đã cử Lý Hồng Nhật về tổ chức và giao lại cho Lê Văn Hiền phụ trách, từ đó mà phân phát đi các ngả. Một trong những cuốn sách đó đã có mặt ở xã Hạ Trường như ta đã thấy. Nguyễn Lương Bằng đã trao Đường cách mệnh cho Nguyễn Văn Hoan tại số nhà 19l phố Hàng Cấp, thành phố Nam Định. Năm 1927, Đường cách mệnh theo đường biển về Sài Gòn rồi từ đó đi khắp nơi ở Nam Kỳ. Có thể nói Đường cách mệnh được phổ biến khắp cả nước dưới nhiều hình thức: những bản in ở Quảng Châu, những bản in lại ở trong nước, có địa phương như ở An Giang, Đường cách mệnh được nguỵ trang ''dưới hình thức kinh phật (có tựa là Đạo Nam kinh) bên trong là nội dung tác phẩm''.
Hồi hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã từng tố cáo chế độ kiểm duyệt gắt gao của thực dân Pháp về thư tín và bưu kiện nên khi về Quảng Châu các phương tiện tuyên truyền đều được chuyển về nước theo những đường dây bí mật đã được tổ chức từ trước. Dẫu sao cũng không thể lọt qua được mạng lưới mật thám dày đặc của Pháp. Theo tài liệu của Pháp, Sở mật thám Pháp ở Đông Dương có đủ bộ báo Thanh niên và đã cho dịch ra tiếng Pháp để theo dõi và tìm cách đối phó với tổ chức cách mạng này.
Huấn luyện những người tuyên truyền, những người tổ chức. Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành công việc này ngay sau khi tiếp xúc với Phan Bội Châu và các hội viên của Tâm tâm xã. Trong bản báo cáo đầu tiên cho Chủ tịch đoàn Quốc tế cộng sản ngày 18-12-1924, Nguyễn Ái Quốc đã viết:
''...b) Sau khi đã tán thành kế hoạch này, ông đã đưa cho tôi một bản danh sách 10 người An Nam đã cùng ông hoạt động bấy lâu.
c) Tôi đã chọn 5 người quê ở 5 tỉnh khác nhau. Chúng tôi sẽ cử một người An Nam đưa họ tới Quảng Châu. Tôi sẽ huấn luyện cho họ về phương pháp tổ chức. Chúng tôi sẽ gửi họ trở về Đông Dương hoạt động sau 3 tháng học tập; và chúng tôi sẽ lấy ra một đoàn khác. Trong lúc này, đây là biện pháp duy nhất''90.
Như vậy, những lớp huấn luyện đầu tiên đó được tổ chức thực hiện trước khi tổ chức cách mạng được thành lập (6-1925). Đương nhiên, học viên của những lớp huấn luyện đầu tiên đó là những thanh niên Việt Nam yêu nước đang hoạt động ở miền Nam Trung Quốc, đặc biệt là những người có chân trong tổ chức Tâm tâm xã. Và Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn từ những lớp huấn luyện đầu tiên những thanh niên có đủ tiêu chuẩn để thành lập Cộng sản Đoàn (2-1925) và tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, sau đó cử về nước tuyên truyền và tổ chức những đoàn xuất dương sang học tập tại Quảng Châu. Một trong những đặc điểm của những lớp huấn luyện đầu tiên này là chưa có trường sở riêng mà nhờ trụ sở Công hội ở các khu phố. Nguyễn Lương Bằng sau khi được huấn luyện đã được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã nhớ lại: ''Mỗi lần tôi ra khỏi được tô giới Pháp, các đồng chí Vương (Nguyễn Ái Quốc) và Xích Ích (Hồ Tùng Mậu) kéo chúng tôi vào trụ sở Công hội ở bất cứ khu phố nào, mượn ngay các trụ sở của bạn mở lớp huấn luyện chúng tôi ở đấy''91. Có thể là cuối năm 1925 hoặc đầu năm 1926 mới chính thức thành lập Trường huấn luyện chính trị. Trong một bản báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản đề ngày 3-6-1926, Nguyễn Ái Quốc viết:
''Tổ chức một trường tuyên truyền. Các học viên được bí mật đưa đến Quảng Châu. Sau một tháng rưỡi học tập họ trở về nước. Khoá thứ nhất được 10 học viên. Khoá thứ hai sẽ mở vào tháng 7 tới, sẽ có khoảng 30 người.
Vì đi đường thì lâu ngày (khoảng 2 tuần lễ), nguy hiểm và tốn kém nhiều và khả năng tài chính của chúng tôi thì eo hẹp (với tiền lương của tôi, tiền lương của một trong số các đồng chí của tôi và một ít trợ cấp của các đồng chí Nga), nên công việc không được nhanh chóng như chúng tôi mong muốn''92.
Đoạn trích trên cho ta những hiểu biết quan trọng sau đây: a) Tổ chức một Trường tuyên truyền, b) Các học viên được bí mật đưa đến Quảng Châu, sau một tháng rưỡi sẽ trở về nước; c) Lớp đầu tiên mở cho 10 học viên; d) Lớp thứ hai sẽ mở vào tháng 7-1926 cho 30 học viên.
''Trường tuyên truyền'' đặt tại ngôi nhà số 1393 đường Văn Minh (sau đổi là phố 422, đường Diên An 1, Quảng Châu), một ngôi nhà 3 tầng kiến trúc theo lối Á Đông. Ở lối vào toà nhà có gắn tấm biển đề “Ban huấn luyện chính trị đặc biệt''. Lớp học ở tầng 3. Trên tường phòng học treo chân dung C.Mác, V.I.Lênin, I.V.Xtalin, Tôn Dật Tiên, Phạm Hồng Thái. Trường huấn luyện chính trị đặc biệt được Chính phủ Tôn Dật Tiên coi như một phân hiệu của Trường Quân chính Hoàng Phố và đã hoạt động dưới sự giúp đỡ của Chính phủ Quảng Châu và Đoàn cố vấn Liên Xô. Được như thế là do tài khéo thu xếp của Nguyễn Ái Quốc. Điều đó đưa lại hai điều lợi: l) Tránh được những cặp mắt soi mói của bọn mật vụ quốc tế và cả bọn phái hữu trong Quốc dân Đảng là bọn chống cộng điên cuồng trong Chính phủ Quảng Châu; 2) Tranh thủ được đội ngũ giáo viên - cố vấn quân sự - chính trị Liên Xô bên trường Hoàng Phố.
Nguyễn Ái Quốc là giáo viên chính. Ngay từ khi chưa mở lớp, Nguyễn Ái Quốc đã dự đoán: ''Khi các học viên đến Quảng Châu, rất có thể rồi sẽ phải đem tất cả hoặc gần tất cả thì giờ của tôi vào việc huấn luyện họ''94. Mọi việc đã diễn ra đúng như vậy. Nguyễn Ái Quốc đã dành hầu hết thì giờ cho lớp huấn luyện từ khâu giảng bài cho đến việc dự nghe học viên thảo luận, thực hiện chương trình ngoại khoá như tham quan, thâm nhập thực tế của Quảng Châu cách mạng lúc đó. Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn tham gia công việc này với tư cách là giáo viên phụ giảng. Trường được sự quan tâm đặc biệt của M.M.Bôrôđin. Bôrôđin đã đến giảng bài Lịch sử Đảng Cộng sản Nga (b). Các giáo viên Liên Xô ở trường Quân chính Hoàng Phố như V.K.Bluikhe, B.A.Páplốp, M.V,Quybưsép, V.M. Primacốp cũng đến giảng bài cho các lớp huấn luyện. Học viên được thu hút và thích thú không chỉ bởi nội dung của những bài giảng mới chưa từng nghe bao giờ, mà còn bởi phương pháp sư phạm của các giáo viên, đặc biệt của giáo viên chính là Nguyễn Ái Quốc. Bằng giọng nói ấm áp, bằng lối dùng từ chính xác, đơn giản, sử dụng nhuần nhuyễn phương pháp so sánh với tình hình thực tế, Nguyễn Ái Quốc đã làm cho học viên tiếp thu nhanh, dễ hiểu và nhớ lâu.
Trong bài giảng của mình, Nguyễn Ái Quốc thường lấy những ví dụ cụ thể thiết thực để chứng minh và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận phức tạp. Chẳng hạn, khi đề cập đến nguồn gốc chủ nghĩa tư bản, Nguyễn Ái Quốc đã hỏi học viên một câu: ''Một tên tư bản chủ của những nhà máy đúc súng đạn ở Đức có liên quan với bà bán nước chè ở Việt Nam ta không?''95.
Những câu hỏi mở của thầy giáo như vậy làm cho học viên phải suy nghĩ và từ đó mà hiểu và nhớ lâu. Ngoài giờ lên lớp, thầy giáo còn đến dự những buổi thảo luận, những buổi diễn đàn của học viên để qua đó nắm được những vấn đề học viên chưa hiểu hoặc hiểu chưa thấu đáo để có kế hoạch cụ thể khắc phục. Để tạo cho những buổi sinh hoạt sinh động, vui vẻ, thắm tình quốc tế vô sản. Nguyễn Ái Quốc đã dịch và phổ biến bài Quốc tế ca theo thể thơ lục bát:
“Hỡi ai nô lệ trên đời,
Hỡi ai cực khổ đồng thời đứng lên.
Bất bình này chịu sao nên,
Phá cho tan nát một phen cho rồi.
Bao nhiêu áp bức trên đời,
Sạch sành sanh phá cho rồi mới tha.
Cuộc đời nay đã đổi ra,
Ta xưa con ở, nay là chủ ông.
Điệp khúc:
Trận này là trận cuối cùng,
Ầm ầm đoàn lực, đùng đùng đảng cơ
Lanh - téc - na - xiô - na - lơ,
Ấy là nhân đạo, ấy là tự do”96.
Chương trình học tập của các lớp huấn luyện khá rộng, bao gồm cả học lý thuyết lẫn học thực hành, học sinh được trang bị cả về lý luận cách mạng vô sản và phương pháp (kỹ thuật) cách mạng. Trong các khoá học, học viên được nghiên cứu tình hình quốc tế, lịch sử tiến hoá nhân loại có nhấn mạnh thời kỳ chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, phong trào giải phóng dân tộc ở Triều Tiên, Trung Quốc và Việt Nam; nghiên cứu có phương pháp chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên, và nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin có liên hệ với cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Học viên cũng được nghe giảng về lịch sử và tổ chức Quốc tế I, Quốc tế II, Quốc tế III và các tổ chức quần chúng của Quốc tế Cộng sản như Thanh niên Cộng sản quốc tế, Quốc tế Nông dân, Quốc tế Công hội đỏ, Quốc tế Cứu tế đỏ. Phần cuối cùng của chương trình huấn luyện gắn chặt với thực tiễn hoạt động cách mạng. Đó là những vấn đề về vận động và tổ chức quần chúng như công hội, nông hội v.v.. Học viên không những chỉ được trang bị về lý luận mà còn được trang bị về kỹ năng thực hành các công việc cách mạng như làm báo, diễn thuyết, v.v.. Khi tiến hành diễn thuyết tuyên truyền học viên phải tuân theo sáu yêu cầu:
1. Người diễn thuyết phải dùng ngôn ngữ thích hợp với người nghe.
2. Phải lựa chọn cách thức để thu hút người nghe, do đó, diễn giả cần phải có giọng nói ấm và truyền cảm, biết đặt ra những vấn đề đơn giản trước khi đi tới những vấn đề phức tạp, tức là biết dẫn dắt người nghe.
3. Bài diễn thuyết phải dễ hiểu. Muốn được thế người diễn thuyết cần phải nói rõ ràng, khúc chiết, đơn giản, có trước có sau và phải tránh nói lắp và rườm rà.
4. Bài diễn thuyết phải thích hợp với từng hoàn cảnh.
5. Cần phải dẫn ra những ví dụ, những chứng cớ rõ ràng. Chẳng hạn, ví bọn Pháp như con dao, cái thớt, còn dân ta như con cá hay miếng thịt thì hết thảy người nghe sẽ hiểu rõ bọn Pháp là kẻ thù không đội trời chung của nhân dân Việt Nam.
6. Trong mọi trường hợp diễn giả phải luôn luôn trung thực và không bao giờ xuyên tạc sự thật.
Trong hồi ức của mình, Lê Mạnh Trinh97 đã viết rằng: ''Mỗi học viên chúng tôi phải đóng vai người tuyên truyền, những người khác ngồi nghe và hỏi lại. Sau đó chúng tôi góp ý kiến bài diễn thuyết và những câu hỏi''98. Như vậy xét theo chương trình học tập, học viên được trang bị những vấn đề rất cơ bản về học thuyết Mác – Lênin, về những nguyên tắc hoạt động cách mạng, về những kỹ năng thực hành của người cách mạng.
Theo bản báo cáo đề ngày 3-6-1926 của Nguyễn Ái Quốc, lớp thứ nhất tại Trường Huấn luyện chính trị cho 10 học viên đã được tổ chức, có lẽ vào đầu năm đó. Trong số những học viên dự lớp huấn luyện đầu tiên tại trường Quảng Châu có hai học viên từ trong nước sang là Lê Duy Điếm, hội viên của Hội Hưng Nam và Lê Hữu Lập (tức Hoàng Lùn) thuộc nhóm Đinh Chương Dương ở nhà số 7 phố Bến Ngự, Nam Định là cơ sở mà Lê Hồng Sơn đã bắt mối hồi năm 1923. Sau khi học xong, cả hai được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Lê Duy Điếm được Nguyễn Ái Quốc cử về Vinh, Lê Hữu Lập được cử trở lại Nam Định, tuyên truyền và tổ chức những đoàn xuất dương sang Quảng Châu dự huấn luyện. Sử dụng thành công mối quan hệ bạn bè, họ hàng Lê Duy Điếm và Lê Hữu Lập đã tuyên truyền và tổ chức được ba đoàn gồm 30 người theo đường Hải Phòng - Móng Cái - Đông Hưng sang Quảng Châu, nhưng chỉ thoát được 10 người99. Việc tổ chức được những đoàn thanh niên từ trong nước sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện chính trị mở ra triển vọng lớn trong việc đào tạo đội ngũ những người tuyên truyền và những người tổ chức, và bước đầu thực hiện có kết quả kế hoạch mà Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra. Nguyễn Ái Quốc đã chọn 7 người trong số học viên dự lớp thứ hai tung về ba miền đất nước hoạt động và lấy ra những đoàn khác. Theo sự phân công của Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Công Thu và Nguyễn Danh Thọ về Bắc hoạt động; Trần Phú, Phan Trọng Quảng và Nguyên Ngọc Ba về Trung; Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn Lợi về Nam. Với sự hoạt động của các chiến sĩ tiên phong này, nhịp độ và quy mô thanh niên trong nước bí mật sang Quảng Châu học ngày một tăng. Từ đó mới có đoàn của Lê Mạnh Trinh, Ngô Thiêm, Lê Văn Phát ra đi từ Sài Gòn và thanh niên các tỉnh miền Trung và miền Bắc theo đường dây liên lạc của Nguyễn Công Thu (Hà Nội - Lạng Sơn - Cống Chạp - Quảng Châu) đến dự các lớp huấn luyện tiếp theo. Riêng ở Bắc và Trung trong năm 1926 và đầu năm 1927 đã có khoảng 180 người sang được Quảng Châu100. Từ Sài Gòn nhiều đoàn thanh niên Nam Bộ theo đường thuỷ sang Quảng Châu101. Đồng thời với việc tuyên truyền, tổ chức thanh niên trong nước bí mật sang Quảng Châu dự các lớp huấn luyện, Nguyễn Ái Quốc còn triển khai kế hoạch đó trong Việt kiều ở Xiêm. Tháng 6-1926, Hồ Tùng Mậu được Nguyễn Ái Quốc cử sang Xiêm công tác với mục đích đó. Anh đã cùng với Đặng Thúc Hứa, một nhà cách mạng lão thành nổi tiếng trong Việt kiều ở Xiêm lựa chọn thanh thiếu niên có năng lực đi học ở Quảng Châu. Đặng Thái Thuyến và những thiếu niên trong đó có Lý Tự Trọng đã đến Quảng Châu theo con đường: Bản Đông - Phì Chịt - Băng Cốc - Hồng Kông - Quảng Châu.
Như vậy, từ năm 1925 đến năm 1927, nhiều thanh niên yêu nước từ khắp các miền đất nước, cả Việt kiều ở Xiêm đã đến Quảng Châu dự các lớp huấn luyện chính trị. Cho đến tháng 4-1927, Nguyễn Ái Quốc đã mở được 10 lớp cho khoảng 250-300 người102. Đó là vốn quý báu mà Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị cho cách mạng Việt Nam. Tuyệt đại đa số học viên sau khi học xong được tung về nước và về Xiên hoạt động. Họ trở thành người tuyên truyền và tổ chức các tổ chức cách mạng trong nước và trong Việt kiều ở Xiêm. Trong điều kiện vô vàn khó khăn dưới sự thống trị của thực dân Pháp, những người được huấn luyện tại Quảng Châu là một phương tiện tuyên truyền sống rất cơ bản đối với việc phổ biến, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin trong quần chúng lao động ở Việt Nam.
Cùng với việc tích cực, chủ động mở lớp đào tạo những người tổ chức, những người tuyên truyền, Nguyễn Ái Quốc còn sử dụng một phương thức đào tạo khác: Lựa chọn và cử học sinh đi học tại Trường đại học cộng sản của những người lao động phương Đông  Trường Quân chính Hoàng Phố. Đây là một phương thức đào tạo mà Nguyễn Ái Quốc triệt để khai thác để trong một thời gian ngắn nhất đào tạo cho đảng mácxít tương lai một đội ngũ cán bộ đa dạng, đáp ứng nhiều mặt cho phong trào. Phương thức đào tạo này có những điểm mạnh sau đây: 1) Đó là trường mà nội dung đào tạo của nó không thể có được ở một trường chính trị ngắn hạn như trường Quảng Châu. Do đó, học viên sẽ được đào tạo có hệ thống; 2) Sẽ giảm được một số kinh phí đáng kể; 3) Tạo được mối liên hệ chặt chẽ giữa tổ chức cách mạng nước ta với Quốc tế Cộng sản và phong trào cách mạng Trung Quốc.
Việc Nguyễn Ái Quốc cử học viên sang học tại Trường đại học Phương Đông chỉ là việc tiếp tục công việc mà Người đã khởi xướng và thực hiện, khi còn ở Mátxcơva. Đến Quảng Châu, trong thư gửi Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản ngày 10-1-1925, Người đã viết: “Một trong số những đảng viên đó, xế trưa nay, đã đi Trung Kỳ và Lào, với nhiệm vụ là tổ chức những cơ sở ở các xứ đó và tìm thanh niên để đi học Trường đại học cộng sản chủ nghĩa ở Mátxcơva.
Các đồng chí cho tôi biết các đồng chí muốn nhận bao nhiêu sinh viên An Nam vào học Trường đại học ấy”103. Có lẽ chưa nhận được thư trả lời của Quốc tế Cộng sản, một tháng sau Người lại nhắc lại yêu cầu đó trong một lá thư khác đề ngày 19-2-1925 trong phần Những việc chúng tôi phải làm trong năm nay, là: ''... Gửi sinh viên An Nam sang học Trường đại học cộng sản ở Mátxcơva'', và trong phần Những điều tôi yêu cầu các đồng chí, Người viết: ''Cho tôi biết là có thể gửi bao nhiêu sinh viên An Nam sang Mátxcơva''. Từ năm 1926, Người đã cùng với M.M.Bôrôđin đại diện của Quốc tế Cộng sản tại miền Nam Trung Quốc lựa chọn và làm thủ tục cần thiết cho thanh niên Việt Nam sang Mátxcơva học tập. Những người đầu tiên đi theo đường này là Trần Phú, Lê Hồng Phong104. Rõ ràng, Nguyễn Ái Quốc khai phá con đường đưa thanh niên Việt Nam từ Quảng Châu đến trường Đại học Phương Đông và nó được tiếp tục nhiều năm. Không dừng lại ở việc gửi học sinh sang học mà Người còn rất quan tâm tới việc học tập, sinh hoạt của sinh viên Việt Nam tại trường. Trong thư gửi chi bộ Đảng trường Đại học Phương Đông thể hiện rõ sự quan tâm của Người:
''Theo quyết định của Ban phương Đông, Ban Bí thư Latinh của Quốc tế Cộng sản và đại diện Đảng Cộng sản Pháp ở Ban Chấp hành, một nhóm cộng sản An Nam đã được thành lập với các đồng chí sau đây:
- Phon Son,
- Le Man,
- Jiao,
- Min Khan,
- Lequy105.
Đồng chí cuối cùng được cử làm bí thư nhóm.
Vì các đồng chí đó đều là sinh viên trường các đồng chí và để cho họ có thể học cách làm việc, chúng tôi yêu cầu chi bộ đồng chí chỉ định một hay hai đồng chí chăm lo việc giáo dục cộng sản cho nhóm đó, để đào tạo các đồng chí đó theo sinh hoạt của Đảng”106.
Theo Đanien Hémery, có 47 người Việt Nam sang học tại Trường Phương Đông ở Mátxcơva, nhưng theo Tiến sĩ sử học Alanh Rútxiô thì ''Sở mật thám Pháp thống kê từ năm 1923 đến năm 1931 đã có 75 người Việt Nam đi học những trường đó''107. Như vậy, trường Đại học Phương Đông đã đào tạo cho cách mạng Việt Nam hàng chục cán bộ. Một số học sinh Việt Nam tốt nghiệp trường này đã trở thành những nhà lãnh đạo nổi tiếng của Quốc tế Cộng sản và của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này như Nguyễn Ái Quốc - công tác nhiều năm trong Ban phương Đông Quốc tế cộng sản; Lê Hồng Phong - Uỷ viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản năm 1935, Trần Phú - Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 và nhiều nhà lý luận xuất sắc khác của Đảng.
Ngoài việc đào tạo và gửi đi đào tạo cán bộ chính trị, Nguyễn Ái Quốc còn chọn thanh niên yêu nước Việt Nam có khả năng về quân sự đi học Trường Quân chính Hoàng Phố. Việc Nguyễn Ái Quốc gửi thanh niên vào học Trường Hoàng Phố có nghĩa là vấn đề bạo lực vũ trang trong một cuộc cách mạng ở một nước thuộc địa đã được đặt ra và được chuẩn bị rất sớm. Không chỉ gửi người theo học mà Người còn chỉ đạo việc đào tạo họ. A.I.Trêrêpanốp, một trong những cố vấn, giáo viên của trường đã xác nhận: “đồng chí Hồ Chí Minh đã ở Quảng Châu vào những năm 1924 - 1925 đã thường xuyên liên hệ với các học viên Việt Nam ở Trường Hoàng Phố và chỉ đạo việc giáo dục họ”108. Từ khoá III năm 1925 đến khi trường bị đóng cửa sau cuộc đảo chính phản cách mạng của Tưởng Giới Thạch, khóa nào cũng có học viên Việt Nam theo võ bị. Trong một bài nhan đề Học viện Quân sự Hoàng Phố và cách mạng Việt Nam đăng trên tờ Tuần báo của Học viện Hoàng Phố của tác giả Wou Hai Tsieou đã xác định: ''Trường Hoàng Phố đã tồn tại 3 năm và đã đào tạo được 5 khoá. Trong suốt thời gian đó đã có những đồng chí Việt Nam vượt qua muôn trùng nguy hiểm tới tham gia sinh hoạt của trường và tăng lực lượng quân sĩ của trường và làm tăng uy tín của trường. Số đồng chí này tốt nghiệp rời trường, số đồng chí khác vào học... Hết khoá này đến khoá khác, số lượng các đồng chí Việt Nam càng đông hơn. Có khoảng 30 học viên Việt Nam đã tốt nghiệp trường này''. Được sự quan tâm sát sao của Nguyễn Ái Quốc, được sự giúp đỡ tận tâm của giáo viên - cố vấn quân sự Liên Xô, các học viên Việt Nam đã học tập đạt kết quả tốt. Lần đầu tiên, dưới mái trường Hoàng Phố những thanh niên yêu nước Việt Nam đã tiếp thu những kiến thức cơ bản về nghệ thuật quân sự theo quan điểm Mác – Lênin, và những quan điểm mácxít về chiến tranh hiện đại, nắm vững những nguyên tắc cơ bản về tổ chức quân đội theo mẫu hình Hồng quân Liên Xô và những kinh nghiệm tác chiến trong mọi điều kiện, hoàn cảnh khác nhau. Người thầy giáo của họ là A.I Trêrêpanốp đã nhận xét: ''Trong số học viên chúng tôi có khoảng 30 người Việt Nam. Họ rất nghiêm chỉnh, cần cù lao động, dốc hết sức để học tập bởi lẽ họ biết rằng để giành chính quyền về tay công nông phải cầm lấy vũ khí chiến đấu và chỉ có tri thức quân sự mới giúp họ bảo vệ được cách mạng khỏi thù trong giặc ngoài''. Những học viên Việt Nam tốt nghiệp ở đây về sau trở thành những cán bộ quân sự của Đảng ta như các đồng chí Phùng Chí Kiên, Trương Vân Lĩnh, Lê Thiết Hùng, Nguyễn Sơn, v.v..
3. Những tư tưởng chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc được truyền bá về nước
Thời kỳ Quảng Châu (từ tháng 11-1924 đến tháng 5-1927), Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều không những cho các tờ báo của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, mà còn cho báo chí của Quốc tế Cộng sản, của Đảng Cộng sản Liên Xô, của Đảng Cộng sản Pháp và cho tờ Le Paria. Trong những bài viết của mình, đặc biệt trong cuốn Đường cách mệnh chứa đựng nhiều tư tưởng chỉ đạo cho cách mạng Việt Nam, hợp thành những vấn đề chiến lược và sách lược của Đảng mácxít tương lai. Trong phần này chúng tôi chỉ xin trình bày một số tư tương chủ đạo đó.
Quan niệm về cách mạng
Một trong những đóng góp quan trọng của Nguyễn Ái Quốc vào việc phát triển tư tưởng – chính trị là việc giải thích, trình bày quan niệm ''cách mạng'' theo quan điểm Mác - Lênin. Trước Nguyễn Ái Quốc ở nước ta mỗi một lãnh tụ, hay mỗi một nhóm, một hội đứng lên chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp đều được xem là cách mạng. Theo Huỳnh Kim Khánh, sự hiểu biết khá nhất được trình bày trong cuốn sách nhỏ mang tên Cách mạng của Nguyễn Thượng Hiền năm 1925. Tác giả đã khai thác trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam một cách kỹ càng, kể cả các phong trào chống đối của Găngđi và phong trào đòi độc lập của Philippin và Ai Cập để tìm những dẫn chứng về cách mệnh đương thời. Nhưng tác giả mới chỉ dừng lại ở những hiện tượng bên ngoài chưa đi sâu vào bản chất của khái niệm ''cách mạng''. Một điều lý thú là sau khi viết xong cuốn sách đó Nguyễn Thượng Hiền đã gửi cho Nguyễn Ái Quốc chú giải và phê bình109. Trong bày phê bình cuốn sách đó, Nguyễn Ái Quốc đã trình bày rõ khái niệm ''cách mạng'' theo quan niệm mới:
“Trong ngôn ngữ Pháp có những cấp độ khác nhau ''cải cách'', ''tiến hoá'', ''cách mạng''. Tiến hoá là một loạt những cải biến hoà bình và liên tục; cải cách là sự thay đổi nhiều hoặc ít trong thể chế của một nước, là sự thay đổi có thể hoặc không có thể sử dụng đến bạo lực. Sau những cuộc cải cách vẫn thường giữ lại chút ít hình thức ban đầu. Cách mạng là sự thay thế toàn bộ chế độ cũ bằng một chế độ mới''.Trong những bài viết trên tờ Thanh niên, trong Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục trình bày một cách rõ ràng quan điểm mới mẻ về cách mạng. Nguyễn Ái Quốc chỉ ra rõ ràng là sự thay thế liên miên bằng bạo lực các chế độ quân chủ trong lịch sử Việt Nam và Trung Quốc, những hành động bạo lực chống ách đô hộ của thực dân Pháp chẳng hạn như phong trào chống thuế năm 1908, vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội, cuộc khởi nghĩa của Thái Nguyên năm 1917 không phải là cách mạng. Đó chỉ là những hành động bạo động dù có đạt được mục đích gì cũng không đạt tới một sự thay đổi căn bản. Theo Nguyễn Ái Quốc, một cuộc cách mạng diễn ra phải chứa đựng trong đó hai hành động chủ yếu đồng thời: vừa xoá bỏ chế độ cũ vừa xây dựng trên chỗ đó một chế độ mới, một xã hội mới. Nói cách khác, theo quan niệm của Nguyễn Ái Quốc, cuộc cách mạng bao gồm sự cải biến toàn bộ trật tự chính trị, kinh tế và xã hội. Nguyễn Ái Quốc viết: ''Cách mạng là sự thay đổi từ xấu sang tốt. Đó là toàn bộ những hành động qua đó nhân dân bị áp bức trở nên hùng mạnh. Lịch sử của một xã hội đã dạy cho chúng ta rằng cách mạng thường diễn ra luôn, rằng cách mạng mới đưa lại cho chính phủ, giáo dục, công nghiệp, tổ chức xã hội, v.v. một hình thức tốt đẹp hơn”110. Chúng ta thấy trong Đường cách mệnh cũng nêu một định nghĩa tương tự về cách mạng: “Cách mạng là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt''. Tiếp đó, Nguyễn Ái Quốc xác định rõ cách mạng bao gồm hai thời kỳ: ''Thời kỳ phá huỷ'' và ''Thời kỳ xây dựng lại'' và nội dung chủ yếu của mỗi thời kỳ:
“Mục đích của thời kỳ đầu là lật đổ chính phủ chuyên chế. Ở An Nam nơi mà nhân dân bị làm cho ngu độn, bị đối xử như con vật, bị bóc lột và bị áp bức cần phải dùng lối tuyên truyền khéo léo để thức tỉnh những người vô sản nam lẫn nữ, khắc sâu trong họ nỗi khổ nhục nô lệ và tình đoàn kết, thống nhất họ thành một khối vững mạnh thôi thúc họ chống lại những tên bạo chúa và đưa họ giành lại những quyền của họ.
Mục đích của thời kỳ thứ hai là phát huy có chủ đích thắng lợi của cách mệnh, vì vậy, sau khi đánh đuổi người Pháp ra khỏi bờ cõi chúng ta, chúng ta cần phải tiêu diệt những phần tử phản cách mạng, xây dựng đường sá giao thông, phát triển thương mại và kỹ nghệ, giáo dục nhân dân sống trong hoà bình và hạnh phúc''111.
Từ định nghĩa ''cách mạng'' Nguyễn Ái Quốc đi tới phân loại các cuộc cách mạng trên thế giới. Theo Nguyễn Ái Quốc, có ba loại cách mạng: ''Tư bản cách mệnh như Pháp cách mệnh năm 1789, Mỹ cách mệnh độc lập năm 1776 (đuổi Anh), Nhật cách mệnh năm 1864. Dân tộc cách mạng như Italy đuổi cường quyền Áo năm 1859. Tàu đuổi Mãn Thanh năm 1911. Giai cấp cách mệnh như công nông Nga đuổi tư bản và giành lấy quyền năm 1917112.
Từ sự phân loại đó, Nguyễn Ái Quốc đi đến đánh giá có tính chất so sánh để hướng người đọc tới một sự lựa chọn duy nhất: ''Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do và bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để dập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới''113.
Cách mạng Việt Nam đang tiến hành thuộc loại cách mạng gì? Theo Nguyễn Ái Quốc đó là cuộc cách mạng dân tộc, hay là cuộc cách mạng chính trị và mục đích cuối cùng là đoàn kết tất thảy mọi người bị áp bức bóc lột vùng dậy lật đổ chính quyền thực dân Pháp và bọn quan lại Nam Triều, giành lại tự do cho nhân dân, độc lập cho dân tộc. Người viết: ''Bọn cường quyền này bắt dân tộc kia làm nô lệ, như Pháp với An Nam. Đến khi dân nô lệ ấy chịu không nổi nữa, tỉnh ngộ lên, đoàn kết lại, biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp bức mình đi; ấy là dân tộc cách mệnh''114. Và báo Thanh niên số 6 ngày 26-7-1925 cũng xác định rõ theo tinh thần đó: Nước An Nam ta ''phải bắt đầu từ cuộc cách mệnh chính trị'' vì ''An Nam chưa sẵn sàng làm cuộc cách mạng giai cấp'', ''Trong hoàn cảnh hiện thời buộc nhân dân An Nam làm cuộc cách mệnh dân tộc chứ không phải là cuộc cách mệnh giai cấp''. Trong hàm ý đó, Nguyễn Ái Quốc muốn nói với người đọc là trước hết nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng dân tộc, tiếp đó muốn được bình đẳng tự do thực sự thì tiếp tục làm cuộc cách mạng như nước Nga. Đó chính là tư tưởng cách mạng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình chung của cách mạng nước ta. Phải thừa nhận là vào nửa cuối những năm 20 thế kỷ trước, những hiểu biết xung quanh khái niệm ''cách mạng'' mà Nguyễn Ái Quốc đưa ra, là bước tiến vượt bậc trong lịch sử phát triển tư  tưởng chính thị nước nhà. Nó giúp nhân dân ta hiểu một cách chính xác khái niệm ''cách mạng'' và biết phân biệt đâu là cách mạng triệt để nhất để từ đó mà định hướng chính xác hành động của mình.
Một vấn đề nữa xung quanh khái niệm “cách mạng” là đối tượng và lực lượng của cách mạng. Theo truyền thống, các nhà cách mạng chúng ta thường diễn tả đối tượng và lực lượng của cách mạng trong một khái niệm chung: chúng nó và chúng ta. Tuỳ sự nhận thức của mỗi nhà cách mạng về mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam, tức là lăng kính chủ quan của cá nhân và lập trường giai cấp của họ, mà các thành phần của hai lực lượng đối lập nhau - chúng nó - chúng ta, có thay đổi, rộng hay hẹp. Chẳng hạn, nếu như Phan Bội Châu xếp thực dân Pháp vào loại ''chúng nó'' thì Phan Chu Trinh coi bọn quan lại là kẻ thù chính, còn trong phe ''chúng ta'', nếu như Phan Bội Châu, thời kỳ Đông du, có liệt kê 10 hạng người và sau khi gặp Nguyễn Ái Quốc có chú ý tới công nông thì Phan Chu Trinh chỉ nói đến khái niệm ''nhân dân'' trừu tượng. Rõ ràng, những hiểu biết của hai ông về đối tượng và lực lượng cách mạng còn rất hạn chế và nông cạn. Nhưng đến Nguyễn Ái Quốc tình hình diễn ra hoàn toàn khác. Lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ cho nhân dân ta thấy kẻ thù chính của mình là bọn thực dân Pháp và bọn địa chủ - phong kiến. Đó là đối tượng mà cách mạng cần phải chĩa thẳng và đánh đổ nó. Điều đó đã được thể hiện rõ nét trong các tác phẩm của Người ở những chặng đầu và đến những chặng này được tiếp tục chỉ ra và sâu sắc thêm, bằng những tác phẩm viết bằng tiếng mẹ đẻ. Ngoài hiểu biết về đối tượng cách mạng duy nhất đúng đó ra, mọi hiểu biết khác đều là phiến diện, không đầy đủ. Và do đó không bao giờ chiếm được toàn bộ nội dung của cách mạng sẽ được tiến hành, bởi lẽ, như ta biết, đặc trưng của chế độ thuộc địa là sự cấu kết giữa đế quốc và phong kiến bản xứ. Còn lực lượng cách mạng, tức là lực lượng thuộc phe ''chúng ta'', gồm những giai tầng nào? Để xác định rõ lực lượng cách mạng, Nguyễn Ái Quốc xuất phát từ nguyên lý cơ bản ''có áp bức, có đấu tranh'':
''Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết. Khi trước tư bản bị phong kiến áp bức nên nó cách mệnh. Bây giờ tư bản lại đi áp bức công nông, cho nên công nông là người chủ cách mệnh.
1. Là vì công nông bị áp bức nặng hơn,
2. Là vì công nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết,
3. Là vì công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc. Vì những cớ ấy, nên công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”115.
Đoạn trích dẫn trên cho ta thấy những luận điểm cơ bản của Nguyễn Ái Quốc về xác định lực lượng cách mạng, đặc biệt là động lực cách mạng và những bạn đồng minh của nó. Hơn thế nữa, đọc đoạn trích dẫn trên chúng ta nhớ tới nguyên lý đấu tranh giai cấp của những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, nhớ tới những câu cuối cùng trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của C.Mác và Ph.Ăngghen: ''Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Trong cuộc cách mạng ấy, họ giành được cả một thế giới cho mình”116. Rõ ràng, đến Nguyễn Ái Quốc, trong khái niệm ''chúng ta'' bao gồm nhiều thành phần giai cấp – xã hội khác nhau, do đó khái niệm đó được mở rộng tới mức tối đa, đáp ứng được đòi hỏi về nội dung của cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ. Những hiểu biết quan trọng mà Nguyễn Ái Quốc đưa lại tạo ra những tiền đề lý luận cho việc xây dựng khối liên minh công nông và Mặt trận dân tộc thống nhất trong cuộc cách mạng sắp tới.
Cách mạng khó hay dễ? Nguyễn Ái Quốc xác định: ''Sửa cái xã hội cũ đã mấy nghìn năm làm xã hội mới, ấy là rất khó'' và Người khẳng định: ''Nhưng biết cách làm, biết đồng tâm hiệp lực mà làm thì chắc chắn làm được''. Như vậy, theo Nguyễn Ái Quốc, cuộc cách mạng mà chúng ta tiến hành là một việc làm hết sức khó khăn nhưng có phương pháp cách mệnh chắc chắn sẽ làm được. Khi rời nước Pháp, trong một lá thư gửi những người bạn chiến đấu của mình, Nguyễn Ái  Quốc đã nói tới việc giác ngộ và tổ chức đưa quần chúng ra đấu tranh. Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã cụ thể hoá tư tưởng đó. Đường cách mệnh đã khẳng định: Muốn làm cách mạng thì phải làm cho dân giác ngộ, phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, phải bày sách lược, cách thức cho dân đấu tranh. Báo Thanh niên đã dành rất nhiều số để phân tích về vấn đề giác ngộ dân chúng, giác ngộ công nông: cách mạng là một sự nghiệp lớn và khó không phải một vài người mà làm nổi, không phải dăm ba người làm xong; muốn làm được phải có sức mạnh của đông đảo quần chúng. Người dân chỉ hành động khi nào họ giác ngộ. Muốn cho dân giác ngộ phải làm cho họ hiểu học thuyết cách mệnh... Phương pháp cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện tập trung nhất trong chiến lược gồm ba giai đoạn của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Chiến lược đó chứa đựng một cách đầy đủ những tư tưởng chuẩn bị những điều kiện cần thiết để khi có tình thế cách mạng sẽ thực hiện bước cuối cùng của nó – lật đổ chế độ cũ, xây dựng một xã hội mới. Ta có thể tóm tắt chiến lược ba giai đoạn ấy như sau:
Giai đoạn 1: Giai đoạn tổ chức. Trong giai đoạn này bí mật tuyên truyền nhằm thu hút những phần tử chống thực dân phong kiến và tổ chức ra những chi bộ cách mạng.
- Giai đoạn 2: Giai đoạn cổ động, tuyên truyền hay là giai đoạn nửa công khai. Ở giai đoạn này các tổ chức cách mạng khi đã có nhiều đảng viên phải phát động những cuộc đấu tranh chính trị, kinh tế và đôi khi cả những hoạt động khủng bố, những cuộc đình công, bãi khoá, bãi thị được kèm theo những tiếng nổ để kích động quần chúng.
- Giai đoạn 3: Giai đoạn khởi nghĩa. Ở giai đoạn  này, các tổ chức cách mạng khắp các xứ Đông Dương, trong mọi tầng lớp xã hội tiến hành hoạt động nhằm lật đổ chính phủ và tổ chức chính quyền cách mạng. Giai đoạn khởi nghĩa phải thực hiện được ba nhiệm vụ:
Thứ nhất, lật đổ chế độ thực dân và thiết lập một chế độ chính phủ mới.
Thứ hai, tuyên truyền trong bộ phận nhân dân chưa tham gia hoạt động cách mạng.
Thứ ba, tổ chức lại xã hội bao gồm việc cải cách hệ thống giáo dục, chế độ thuế khoá và lực lượng vũ trang theo những nguyên tắc cách mạng.
Chiến lược ba giai đoạn đã để lại những dấu ấn rất đậm trong toàn bộ những hoạt động của Đảng ta từ ngày thành lập đến ngày giành chính quyền trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Chiến lược ba giai đoạn đó đã dạy cho Đảng ta kiên trì chuẩn bị lực lượng, không nôn nóng đốt cháy giai đoạn, biết thắng địch từng bước để cuối cùng khi thời cơ đến dốc toàn bộ lực lượng cho cuộc tổng tiến công giành chính quyền. Lịch sử hoạt động của Đảng ta đã chứng minh điều đó. Hơn thế nữa, chiến lược ba giai đoạn của Nguyễn Ái Quốc cũng đã ảnh hưởng đến chương trình hành động của các đảng quốc gia khác như Việt Nam Quốc dân Đảng.
+ Về Đảng cách mạng, Đảng Cộng sản
Tư tưởng xuyên suốt trong di sản lý luận của Nguyễn Ái Quốc thời kỳ này là thực dân Pháp dùng chính sách ''chia để trị'' nên những người cách mạng trước hết phải đoàn kết mới thực hiện được sự nghiệp to lớn và khó khăn của mình. Tư tưởng đó được toát lên trong bài đăng trên báo Thanh niên, số 1, ra ngày 21-6-1925 như là một tuyên ngôn: ''Sự nghiệp cách mạng lớn lắm. Những người cách mạng phải đoàn kết với nhau để thực hiện sự nghiệp đó. Người mình đã làm việc cách mạng nhiều năm rồi mà chưa thành công trước hết bởi vì thiếu đoàn kết với nhau''.
Có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh cho cách mạng. Muốn đoàn kết thì ''Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam''117.
Như vậy, theo Nguyễn Ái Quốc, để đoàn kết và lãnh đạo cuộc cách mạng đi đến thắng lợi, điều kiện tiên quyết là phải có một đảng cách mạng với tính cách là bộ tham mưu của cách mạng chịu trách nhiệm vận động và tổ chức dân chúng trong nước, giữ mối liên hệ với phong trào cách mạng trên thế giới. Để tập hợp những người cùng chí hướng vào đảng cách mệnh, để đảng cách mệnh thống nhất về chính trị, tư tưởng cần phải vũ trang bằng một chủ nghĩa mà mọi người vào Đảng đều phải nắm vững và tuân theo một cách tự giác chủ nghĩa đó. Chủ nghĩa đó là gì? Trên thế giới có biết bao chủ nghĩa, phải chọn chủ nghĩa nào để vũ trang cho đảng cách mệnh đó. Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ cho những người cách mạng Việt Nam cần phải được vũ trang bằng học thuyết - chủ nghĩa nào trong cuộc đấu tranh cách mạng: ''Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin''118. Hoặc ''Muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất., Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”119. Đảng cách mạng được vũ trang bằng học thuyết Mác - Lênin mà Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra chính là Đảng Cộng sản, Đảng kiểu mới của Lênin: Báo Thanh niên, số 60, ra ngày 8-5-1926 khi nói đến chính đảng đã chỉ ra một cách dứt khoát: ''Hỡi đồng bào thân mến, như vậy chỉ còn có một con đường chân chính là phải theo cái đảng duy nhất kiên quyết trong hành động, đó là Đảng Cộng sản”. Đảng cách mạng - Đảng Cộng sản phải bao gồm những phần tử có đầy đủ những tiêu chuẩn phẩm chất đạo đức và trình độ nhất định đáp ứng được đòi hỏi của cách mạng. Theo Nguyễn Ái Quốc, những chuẩn mực đó là: Đối với bản thân phải:cần kiệm, hoà mà không tư, cả quyết sửa lỗi mình, cẩn thận mà không nhút nhát, hay hỏi, nhẫn nại, hay nghiên cứu xem xét, vị công vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo, nói thì phải làm, giữ chủ nghĩa cho vững, hy sinh, ít lòng ham muốn về vật chất, bí mật. Đối với người phải: Với từng người thì khoan thứ, với đoàn thể thì nghiêm, có lòng bày vẽ cho mọi người trực mà không táo bạo, hay xem xét người. Đối với công việc phải: xem xét hoàn cảnh kỹ càng, quyết đoán, dũng cảm phục tùng đoàn thể. Nguyễn Ái Quốc nhận thấy chất keo gắn chặt những thành viên trong một tổ chức không chỉ ở sự đồng tâm, hiệp lực mà chủ yếu là ở chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa đó bồi dưỡng cho các thành viên lý tưởng cao cả. Vì thế mà chủ nghĩa Mác - Lênin là thứ đảm bảo cho Đảng thống nhất về chính trị - tư tưởng, tổ chức và thống nhất trong hành động. Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy chỗ yếu của các tổ chức cách mạng trước đó và đồng thời chính là ở chỗ các tổ chức đó không được vũ trang bằng một thứ chủ nghĩa chắc chắn và thiếu cả một tổ chức chặt chẽ, một kỷ luật nghiêm minh.
Báo Thanh niên, số 6, ra ngày 26-7-1925 viết: “Các tổ chức (ngoài Thanh niên) không được chặt chẽ. Chẳng hạn, Việt Nam Quang phục hộichỉ mạnh lúc đầu nhưng thiếu tổ chức và các hội viên không gắn chặt với nhau. Dẫu Hội có đông hội viên nhưng chưa phải đã tốt. Điều lệ của Hội thiếu chặt chẽ, mỗi hội viên hoạt động theo cách mà người ấy cho là tốt''. Chỉ có một Đảng cách mạng với những đảng viên được lựa chọn kỹ càng và được vũ trang bằng học thuyết khoa học Mác - Lênin và được tổ chức chặt chẽ thì sự nghiệp cách mạng khó khăn và gian khổ nhất định sẽ thắng lợi.
Thời kỳ Quảng Châu - vùng Đông Bắc Xiêm là thời kỳ cuối cùng trong quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc, vì thế mà những tư tưởng cơ bản của Người là những tư tưởng đặt nền móng cho sự hình thành đường lối chiến lược và sách lước của Đảng mácxít tương lai. Một phần những tư tưởng đó đã được thể hiện trong các văn kiện do Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo hoặc trực tiếp thảo ra và được thông qua tại Hội nghị hợp nhất tại Hương Cảng và trong Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương vào tháng 10-1930.
4. Vùng Đông Bắc Xiêm - sự tiếp nối thời kỳ Quảng Châu bị ngắt quãng
Tại Quảng Châu, các hoạt động đang trên đà tiến triển tốt thì tháng 4-1927 Tưởng Giới Thạch phản bội, bất ngờ tấn công Đảng Cộng sản Trung Quốc, thủ tiêu những thành quả đã giành được trong cao trào cách mạng tháng năm 1925-1927. Trong cuộc phản kích đó, bọn phản cách mạng không chỉ khủng bố Đảng Cộng sản Trung Quốc mà còn khủng bố cả những nhà cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở đấy. Các cơ sở hoạt động và huấn luyện của những người yêu nước Việt Nam bị giải tán. Rõ ràng, sự biến tháng 4-1927 đã làm cho những nhà cách mạng Việt Nam không còn những điều kiện thuận lợi để tiếp tục hoạt động như trước nữa. Phải có một mảnh đất mới, một cơ sở mới để tiếp tục đưa phong trào cách mạng tiến lên. Từ khá sớm Nguyễn Ái Quốc đã nghĩ đến mảnh đất Xiêm. Nhưng tại sao lại là Xiêm chứ không phải là một nơi nào khác? Chúng ta đều biết, Việt kiều sinh sống trên đất Xiêm rất đông, có trên ba vạn người. Họ sống quần tụ thành làng xóm ở vùng Đông Bắc Xiêm. Hơn thế nữa, họ có tinh thần yêu nước, đặc biệt chịu ảnh hưởng của tổ chức cách mạng do Nguyễn Ái Quốc lập ra. Từ năm 1925 chính Người đã cử Hồ Tùng Mậu sang gây cơ sở tại đây. Hồ Tùng Mậu đã cùng với Đặng Thúc Hứa tổ chức Chi bộ Thanh niên đầu tiên ở Phì Chịt, lúc đó gọi là ''Đệ nhất chi bộ'', và xây dựng những trạm giao liên đóng vai trò như những trạm trung chuyển giữa Quảng Châu và trong nước. Từ chi bộ đầu tiên đó, Việt kiều yêu nước tiếp tục tổ chức nhiều chi bộ ở Na Khon, U Đon, Sa Khôn và nhiều bộ phận ở các nơi như Bản Mạy, Noóng Bùa, Mục Đa Han, v.v.. Khác với các tổ chức Thanh niên trong nước, Chi bộ Thanh niên trong Việt kiều ở Xiêm trực thuộc thẳng Tổng bộ đóng ở Quảng Châu không qua các cấp trung gian khác. Báo Thanh niên, số 7l, ra ngày 28-11-1925 có bài Người Việt Nam Xiêm nêu rõ nguyên nhân rời bỏ quê hương, biểu dương những điều tốt đẹp, phê phán những thói hư tật xấu và kêu gọi yêu thương đùm bọc nhau: ''Từ khi Tây cướp nước An Nam, dân An Nam lưu ly thất sở tan cửa nát nhà, phải bỏ quê cha đất tổ, dạt ra đất khách quê người... Người An Nam ở Xiêm có đến hơn 3 vạn người. Có chỗ tự lập ra thành làng, thành chợ, có chỗ thì ở lẫn với người Xiêm. Những người ở cụm lại với nhau thì nhân tình phong tục vẫn còn giữ thói cũ, cúng tế lễ, cúng tang ma, đường ăn nói thì không thay đổi chút nào cả... Trong 3 vạn có người tin Phật, kẻ tin thần, có người tin Thiên Chúa giáo, cứ kể ra thì đều bị ngược đãi, áp bức mà chạy cả... Tình cảnh người mình như vậy đều là lưu lạc quê người, cứ kể bình thường thì người An Nam ở Xiêm trông thấy nhau nên thương nhau, giúp đỡ nhau là phải''. Từ khi có tổ chức cách mạng theo khuynh hướng mới, phong trào cách mạng trong Việt kiều ở Xiêm có sự chuyển biến rõ rệt. Đến tháng 6-1927, nhân kỷ niệm liệt sĩ Phạm Hồng Thái hy sinh vì nước, phong trào càng được phát động mạnh mẽ hơn, sôi nổi hơn:
''...Anh em chúng tôi.
Xét nỗi tha phương, đau lòng nước Tổ.
Với tinh thần phấn đấu, chúng tôi nguyện hết sức noi theo.
Với dũng khí diệt thù, chúng tôi quyết một lòng củng cố.
Rừng cách mạng xin góp cây.
Bão cách mạng xin góp gió.
Đọc đến chữ đồng thanh, đồng chí dạ đinh ninh kẻ khuất với người còn.
Đọc đến câu đồng bệnh với đồng thuyền, lễ kỷ niệm hiểu tấm lòng ngưỡng mộ.
Thiêng liêng hồn liệt sĩ thấu cho Cao rộng có trời xanh chứng tỏ''120.
Với những điều đã trình bày ở trên, rõ ràng mảnh đất Xiêm được Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị như là một cơ sở thứ hai sau Quảng Châu. Ngoài ra còn một lý do không kém phần quan trọng đó là phòng Nam Á của Quốc tế Cộng sản vừa mới thành lập do một người cộng sản Pháp lãnh đạo: Hilaire Noulens (Ruce), đặt trụ sở tại Băng Cốc và đang đợi Nguyễn Ái Quốc. Chính Quốc tế Cộng sản cũng tạo điều kiện thuận lợi cho Nguyễn Ái Quốc bằng việc hợp thức hoá vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong Quốc tế Cộng sản, thích hợp với những công việc đang cần được tiếp tục xúc tiến của Người. Như vậy, ngoài Quảng Châu, cơ sở thứ hai có đầy đủ mọi điều kiện cho Nguyễn Ái Quốc tiếp tục tiến hành những công việc dang dở là vùng Đông Bắc Xiêm.
M.M.Bôrôđin biết trước cuộc đảo chính của Tưởng nên đã kịp báo cho những người cộng sự của mình, trong đó có Nguyễn Ái Quốc. Nhưng Người không theo đoàn Bôrôđin vì còn phải thu xếp công việc của bản thân và của tổ chức cách mạng. Mãi đến đầu tháng 5-1927, Nguyễn Ái Quốc mới rời Trung Quốc trên một chiếc thuyền buồm đi Vlađivôxtốc, rồi từ đó ngồi tầu hoả xuyên Xibia về Mátxcơva. Nguyễn Ái Quốc ở lại đây công tác một thời gian, sau đó qua Béclin chuẩn bị các phương tiện, mãi đến mùa thu năm 1928 mới đến Xiêm hoạt động với bí danh Chín Thầu. Ở Xiêm, Nguyễn Ái Quốc thường đi lại hoạt động ở những địa phương như bản Đông Thầm thuộc phủ Phì Chịt, bản Mạy, Vặtxinamăng thuộc phủ Xáckhonne, bản Noóng Bùa thuộc tỉnh U Đon, bản Noọng Khai.
Thời gian Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở vùng Đông Bắc Xiêm là sự tiếp nối thời kỳ Quảng Châu bị ngắt quãng, vì vậy những phương tiện mà Người sử dụng để truyền bá tư tưởng cách mạng về nước căn bản không khác với thời kỳ Quảng Châu. Theo sự thu xếp của Nguyễn Ái Quốc, cơ quan huấn luyện của Thanh niên do Đặng Thái Thuyến phụ trách đã được chuyển về đây từ trước. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục mở các lớp huấn luyện ngắn ngày, đào tạo những chiến sĩ tuyên truyền và tổ chức. Nguyễn Ái Quốc đổi tên tờ báo Đồng thanh vừa ra được 2 số thành tờ Thân áiThân ái, số 1 ra ngày 1-10-1928 đăng bài thơ của Lê Mạnh Trinh, một trong những học trò của Người ở Quảng Châu đang hoạt động ở đây, cổ động cho tờ báo của mình:
''Cuộc thế giới bất bình lắm rồi,
Vận nước thà chìm nổi đôi phen.
Người sang sao ta chịu hèn?
Người chen ta phải đua chen với đời.
Bước tiến thủ lấy ai chỉ bảo.
Cờ tiền phong có báo đưa đường.
Tiếng còi cách mệnh kêu vang,
Gọi người trong lúc canh trường chiêm bao
Hỡi gần xa, kiều bào ba vạn!
Cánh bèo trôi chiếc nhạn lạc đàn.
Sao cho cốt nhục vẹn toàn.
Trong ngoài muôn dặm, báo trương một tờ.
Hỡi đồng bào tỉnh chưa, chưa tỉnh?
Tìm non sông ta tính sao đây?
Đoàn là bạn, báo là thầy,
Yêu nhau hơn thiệt, ta bày giải nhau.
Hỡi ai đó mau mau tỉnh dậy!
Nhớ lấy câu ''máu chảy ruột mềm'',
Lòng mình tự hỏi mình xem.
Canh khuya tờ báo, ngọn đèn với ta''121.
Ngoài mở lớp huấn luyện và ra báo, Nguyễn Ái Quốc viết một số tác phẩm như kịch Đề Thám, bài ca Trần Hưng Đạo và đặc biệt dịch một số tác phẩm của các nhà kinh điển như Nhân loại tiến hoá sử, Chủ nghĩa cộng sản A.B.C, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Balê công xã,v.v.. Rất nhiều chiến sĩ cách mạng hoạt động với Nguyễn Ái Quốc ở Xiêm thời đó đều nhắc tới những cuốn sách của Người đã dịch nhưng đáng tiếc là đến nay vẫn chưa thấy những tác phẩm đó122. Nếu đúng như vậy thì thời gian hoạt động ở Đông Bắc Xiêm mặc dù rất ngắn (trên một năm) nhưng thực sự có ý nghĩa to lớn trong quá trình truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản về nước của Nguyễn Ái Quốc. Nếu như từ năm 1921mở đầu bằng bài Đông Dương trên La Revue Communiste đặt nền tảng cho việc truyền bá chủ nghĩa cộng sản ở Đông Dương thì đến năm 1927 Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin thực chất là truyền bá những tư tưởng cách mạng của Người trên lập trường mácxít, và năm 1928 Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu có ý thức dịch và phổ biến các tác phẩm của các nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản khoa học và các tác giả nổi tiếng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Một trong những tác phẩm có ảnh hưởng to lớn nhất đối với những người yêu nước Việt Nam cuối những năm 20 - đầu những năm 30 của thế kỷ XX là cuốn Chủ nghĩa cộng sản A.B.Ccủa N.Bukharin và Ph.Phêôbragienxki mà trước đây những nhà cách mạng Việt Nam thường gọi là Chủ nghĩa cộng sản toát yếu. Nhiều nhà cách mạng đã khẳng định là nhờ cuốn sách đó mà họ đến với chủ nghĩa cộng sản. Nói một cách khái quát, cuốn Chủ nghĩa cộng sản A.B.C mở ra một nẻo đường cho những người yêu nước Việt Nam đến thẳng với cách mạng vô sản. Chúng tôi xin dẫn ra đây một ví dụ: Năm 1931 trong cuộc phỏng vấn của Uỷ ban điều tra những sự kiện ở Bắc Trung Kỳ của Chính phủ Pháp, Thái Văn Giai123 - Uỷ viên Ban Chấp hành Xứ uỷ Trung Kỳ bị bắt, trước uỷ ban điều tra, anh đã tóm tắt cảm tưởng sâu sắc của một người yêu nước đối với tác phẩm trên:
''Hỏi: Tại sao ông trở thành một người cộng sản? Ai đã đưa lại cho ông những tư tưởng (cách mạng) đó?
Trả lời: Không ai cả! Tất cả nhân dân Việt Nam là những người theo chủ nghĩa dân tộc và mơ ước được độc lập. Vả lại, trên trái đất này, không một người bình thường nào lại không phải là người theo chủ nghĩa dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước là thiên bẩm.
Hỏi: Ai đã dẫn dắt ông trở thành môn đệ của chủ nghĩa cộng sản?
Trả lời: Đọc Chủ nghĩa cộng sản A.B.C... Cuốn sách đó đề cập tới chủ nghĩa tư bản và sự bất bình đẳng của các giai cấp. Đối lập với những mâu thuẫn của xã hội đương thời nó chỉ ra sự hài hoà của xã hội cộng sản, một xã hội có thể thực hiện được sự bình đẳng trong các giai cấp và chấm dứt tình trạng người bóc lột người.
Hỏi: Ông có nghĩ tới điều mà ông đã đọc được trong cuốn sách đó không?
Trả lời: Có, và hiện thực bày ra rất rõ trước mắt tôi. Trong nhà máy chủ xưởng bóc lột công nhân và thôn quê địa chủ bóc lột tá điền. Tất cả những điều đó có nói tới trong A.B.C (những người công nhân) làm việc rất nhiều vì thân phận nô lệ hèn mọn. Ở hãng Timber một đứa trẻ 12 tuổi làm quần quật từ sáng tinh mơ đến tối mịt để nhận được 8 xu đến 12 xu. Tôi buộc phải kể cho các ngài vô vàn những cảnh khủng khiếp mà người tá điền bị bóc lột. Đọc Chủ nghĩa cộng sản A.B.C đã làm cho tôi hiểu được rằng người Việt Nam không bao giờ có thể giành được độc lập của mình nếu như họ không chống lại chính họ và rằng họ phải được ủng hộ, rằng chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới có thể thích hợp với họ''124.
Việc dẫn một sự thật trên không phải để khẳng định là chính Thái Văn Giai đã đọc Chủ nghĩa cộng sản A.B.C mà Nguyễn Ái Quốc đã dịch. Cũng có thể như vậy. Điều mà không tôi muốn nhấn mạnh ở đây chính là sự lựa chọn những cuốn sách viết về chủ nghĩa cộng sản thích hợp để dịch và phổ biến. Qua dẫn chứng trên chúng ta thấy sự trùng hợp lý thú giữa sự chọn lựa sách của Nguyễn Ái Quốc và tác dụng to lớn của những cuốn sách đó trên thực tế.
Đặc biệt trong thời gian hoạt động ở vùng Đông Bắc Xiêm, với điều kiện ở đây cho phép, chủ yếu là Việt kiều quần tụ thành từng làng xóm riêng, Nguyễn Ái Quốc đã áp dụng trên thực tế những điểm mà Người đã từng chứng kiến ở Liên Xô và đã trình bày trong cuốn Đường cách mệnh lập những hợp tác xã và mở những lớp học cho con em Việt kiều. Những việc làm của Nguyễn Ái Quốc dù mang tính chất thể nghiệm vẫn thể hiện đậm nét hoài bão của Người về một xã hội tương lai khi cách mạng thành công. Chắc chắc những việc làm thiết thực đó có ảnh hưởng tốt đẹp đến tình cảm và lý trí của những người yêu nước Việt Nam đang sống ở Xiêm và dội mạnh về trong nước.
_____________
1. La Revue Communiste, tạp chí xuất bản hằng tháng, số đầu tiên vào tháng 3-1920 do Sáclơ Rappôpo chủ trương. S.Rappôpo (1865-1941) tham gia Ban lãnh đạo Đảng do Đại hội Tua bầu ra, nhưng không kiên định, năm 1938 ra khỏi Đảng Cộng sản và chuyển sang Đảng Xã hội. 
2, 3. Tạp chí La Revue Communiste, số 14, 4-1921, tr.205.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđđ, t.1, tr.28.
5. Tạp chí La Revue Communiste, Tlđd, tr. 205.
6. Trong Lời tựa cho Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản bằng tiếng Nga xuất bản 1882, hai ông đã viết: ''Ở Nga... quá nửa số ruộng đất là sở hữu công cộng của nông dân. Bây giờ thử hỏi công xã nông thôn Nga cái hình thức đã bị phân giải ấy của chế độ công hữu ruộng đất nguyên thuỷ có thể chuyển thẳng sang hình thức cao, cộng sản chủ nghĩa về sở hữu ruộng đất không? Hay là trước hết nó cũng phải trải qua trong tiến trình phát triển lịch sử của phương Tây.
Ngày nay, lời giải đáp duy nhất cho câu hỏi ấy là thế này. Nếu cách mạng Nga báo hiệu một cuộc cách mạng vô sản ở phương tây và nếu cả hai cuộc cách mang ấy bổ sung cho nhau thì chế độ ruộng đất công cộng ở Nga hiện nay sẽ có thể là khởi điểm của một sự tiến triển cộng sản chủ nghĩa”.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.23.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđđ, t.l, tr.440.441.
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.493-494.
10. Từ số 21 thay tiêu đề: Diễn đàn của vô sản thuộc địa (Tribune du Prolétariat Colonial), đến số 36 đổi thành: Cơ quan của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa (Organe des Peuples Opprlmées des Colonies) và cuối cùng số 37-38 là Cơ quan của Hội Liên hiệp thuộc địa (Organe de L’Union Internationale).
11. Tuỳ vào mục đích tuyên truyền theo từng thời gian và khả năng tài chính cho phép số lượng in báo Le Paria không cố định, dao động từ 1.000- 5.000 bản, cá biệt có những số in trên 5.000 bản. Chẳng hạn, số 1 in 1.000 bản. Từ số 2 in 2.000 bản. Có lẽ số lượng in kỷ lục là số 12 vì ta được biết trong một bản báo cáo của mật thám đề ngày 23-3-1923 có nói rằng vì nhiều lý do “Ban Chấp hành Hội Liên hiệp thuộc địahọp đầu tuần này quyết định giảm số lượng in Le Paria số tới (số 13) xuống 4.000 bản và không nhận đăng mọi quảng cáo” (Nguyễn Ái Quốc: Những bài đăng trên báo Le Paria, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.336-337).
12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd. t.l, tr.462-463.
13. Số 3 đến nay chưa tìm thấy, nên không biết chắc chắn tất cả bài viết của Nguyễn Ái Quốc.
14. Bác Hồ ở Pháp (Hồi Ký)Nxb. Văn học, Hà Nội, 1970, tr.51-52
15. Mãi gần ba năm sau Nguyễn Thế Truyền mới xuất bản Việt Nam hồn (số 1 ra vào tháng 1-1926). Nhưng để cho tờ báo có sức hấp dẫn, những người ra báo đã lợi dụng tên tuổi Nguyễn Ái Quốc với danh nghĩa “sáng lập viên” ở trên trang đầu tờ báo.
16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.l, tr.22-23.
17. Chẳng hạn như các cuốn: Grandeur et servitude coloniales, Paris Eđ du Sagitaire, 1931; La Mise en valeur des colonies Francaises, Payet Paris, 1923; La doctrine coloniale de la France, Conf à Brixelles, Supplément.
18,19,20. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.l, tr.138, 64,172.
21. A.Xa rô - Toàn quyền Đông Dương 1911-1914 (lần thứ nhất), 1916-1919 (lần thứ hai), Bộ trưởng Bô Thuộc địa Pháp 1920-1924; M.Lông -  Toàn quyền Đông Dương 12-1919 – 4-1923P.Bôđoanh (con rể Xarô) - quyền Toàn quyền Đông Dương từ tháng 4 đến tháng 9 -1923; M.Mélanh -  Toàn quyền Đông Dương 1923-1925.
22.  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.91.
23. Nguyễn Ái Quốc: Những bài đăng trên Báo Le Paria, Sđd, tr.67.
24. Vở kịch Con rồng tre công diễn lần đầu tại Câu lạc bộ Phôbua chiều chủ nhật ngày 11-6-1922, bài Ở Viễn Đông - Đức vua con của Nguyễn Ái Quốc đăng trên L’humanité số ra ngày 20-6-1922 thì ngày 21-6-1922 Khải Định đến Pari.
25. Đến nay ta chưa tìm được kịch bản của Con rồng tre của Nguyễn Ái Quốc, chỉ biết được đại ý của nó qua cuốn sách của Trần Dân Tiên và hồi ức của Lêô Pôndet - Chủ nhiệm Câu lạc bộ Phôbua. Lêô Pôndet kể: ''Tôi đã đọc tập bản thảo, thật là hay, thật là đẹp, lời vừa chải chuốt, vừa gọn gàng với những cái châm biếm dí dỏm của Arixtophan, kịch bản này có đủ ưu điểm để mang lên sân khấu. Con rồng tre, đầu đề kịch bản, chỉ một tên vua bù nhìn đớn hèn, bất lực và ngu dốt mà tác giả không hà tiện lời chế giễu một cách chua cay, hóm hỉnh suốt trong ba hồi'' (Bài Quanh sự tích Chủ tịch Hồ Chí Minh của Lêô Pôndet, báo Pari, số 53, ra ngày 11-6-1946).
26,27. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10l, 80.
28. Nguyễn Ái Quốc: Những bài đăng trên báo Le Paria, Sđd, tr.66.
29. Nguyễn Ái Quốc: Những bài đăng trên báo Le Paria, Sđd, tr.137.
30. Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t.1, tr.110.
31. Thu Trang: Những hoạt động của Phan Châu Trinh ở Pháp 1911-l925, Đông Nam Á, Pari, 1983, tr. 142
32. Bác Hồ ở Pháp, Sđd, tr.82-83
33, 34,35. Báo Thống nhất, số 155, ngày 19-6-1965
36. Tên chính xác cuốn sách của Nguyễn Ái Quốc là Bản án chế độ thực dân Pháp
37. Báo Thống nhất, số 155, ngày 19-5-1965
38. V.I.Lênin: Bàn về chính sách dân tộc và chủ nghĩa quốc tế vô sản, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1972, tr. 153
39,40. Tài liệu lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam
41,42. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.277, 213.
43. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.306.
44. Đoạn trích trên lấy từ bài Tiếng nói của một người Việt Nam của Trần Xuân Hộ, đăng trên Le Paria, số 18-19tháng 9-1923. Theo chúng tôi, đây có thể là bài viết của Nguyễn Ái Quốc, nhưng lại mượn tên của một người bạn ở Pari. Trần Xuân Hộ chưa từng hoạt động báo chí, vả lại nội dung đó không ai ngoài Nguyễn Ái Quốc là người được trang bị những kiến thức tốt nhất lúc đó: Một hiện tượng tương tự như vậy lặp lại trên Le Paria số 21 với bài giới thiệu trường Đại học Phương Đông ký tên Alibaba. Hiện tượng mượn tên người khác thường gặp trong báo chí. Có lẽ khi nghiên cứu những bài viết của Nguyễn Ái Quốc, xin lưu ý tới hiện tượng này, hiện tượng mà từ trước tới nay chưa được để ý tới.
45. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.236-237.
46. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.313.
47. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.301-302.
48. Báo Le Paria, số 21, tháng 9-1923.
49. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.281.
50. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.298.
51. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.216.
52. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.114.
53. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.157
54. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.1, tr.227.
55. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.289
56. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.157
57. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.157-158
58. Báo Thống nhất, số 155, ngày 19-5.1965.
59. Báo Impartial, ngày 6-6-1925
60. D.Z.Manuinxki (1883-1959), là Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản.
61. X.A.Đalin: Hồi ký về Trung Quốc (1921-1927) (tiếng Nga), Nxb. Khoa học, Mátxcơva, 1975, tr.217.
62. Hồng Hà: Bác Hồ trên đất nước Lênin, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1980, tr.149.
63. Xem Phan Bội Châu: Niên biểu, Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1959, tr.201
64. Hiệu thuốc của vợ Nguyễn Công Viễn, tức Lâm Đức Thụ, một trong những người sáng lập Tâm tâm xã.
65. Hồ Học Lãm đã tốt nghiệp khoá 2 Trường võ bị Bảo Định ở Bắc Kinh, từng làm việc trong Bộ Tổng tham mưu quân đội Quốc dân Đảng. Ông là người đã giúp đỡ tích cực những thanh niên yêu nước Việt Nam hoạt động ở Trung Quốc.
66. Phan Bội Châu: Niên biểu, Sđd, tr.201.
67. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. t.2, tr.8.
68. Hồng Hà: Bác Hồ trên đất nước Lênin, Sđd, tr.154.
69. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.141.
70. Lê Quảng Đạt sau khi bị thực dân Pháp bắt đã đầu hàng.
71. Lâm Đức Thụ bí mật làm gián điệp cho thực dân Pháp.
72. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 71, 1965, tr.18.
73. Đoạn trích trên chúng tôi viết lại theo bản gốc nên có một số chữ khác với bản in trong Các tổ chức tiền thân của Đảng, tr.82-83, do Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương xuất bản năm 1977.
74. Mục IX- Không thể gia nhập hội:
a) Bọn tay chân của Pháp;
b) Bọn thù địch của nhân dân;
c) Bọn nghiện thuốc phiện;
d) Bọn rượu chè;
e) Bọn cờ bạc.
75. Dẫn theo Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội. 1985, tr.8l.
76. Louis Marty: Contribution à l’histoire des mouvements politiques de l’Indochine Francaise, 1933, t.I, tr.15.
77, 78. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.20, 142.
79. Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội, 1961, tr.208.
80. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.141- 142.
81. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.224.
82. Theo bản dịch của Tầm Vu trong Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 178 năm 1978.
83. Về báo Thanh niên hiện nay chúng tôi thiếu rất nhiều chỉ có 10 số (từ số 63 đến số 73, thiếu số 69), trong cuốn sách này chúng tôi sử dụng chủ yếu qua bản dịch ra tiếng Anh của Huỳnh Kim Khánh và bản dịch ra tiếng Việt của Tầm Vu. Về số lượng báo Thanh niên, hai tác giả trên cũng có những hiểu biết khác nhau. Tác giả Huỳnh Kim Khánh cho biết tuần báo Thanh niên ra được 208 số từ ngày 21-6-1925 đến tháng 5-1930, sau đó báo vẫn tiếp tục ra dưới hình thức đánh máy 4 bản bằng giấy đó, 3 bản cho ba miền Việt Nam, còn một bản làm bản lưu. Tác giả Tầm Vu qua tài liệu lưu trữ của thực dân Pháp cho biết đến ngày 14-3-1930 báo Thanh niên ra được tất cả là 202 số.
84. Vô sản hoá (Hồi ký), Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1972, tr.42
85. Huỳnh Kim Khánh: Vietnamese Communism 1925-1945, Cornel University Press, Ithaca and London, 1982, tr7.
86, 87. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.261-262, 262.
88. E.V.Côbêlép: Hồ Chí Minh (tiếng Nga), Nxb. Khoa học, Mátxcơva, 1979, tr.121.
89. Việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam (tiếng Nga), Nxb. Khoa học, Mátxcơva, 1983, tr.147.
90. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.8-9.
91. Nhân dân ta rất anh hùng (Hồi ký), Nxb.Văn học, Hà Nội, 1969, tr.18.
92. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr. 223.
93. Còn có hai địa điểm khác nữa: 35 Nhân Hưng Cao (Quảng Châu) và Bản Đáy gần biên giới Việt – Trung.
94. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2. tr.9.
95. Bài nói chuyện của Phan Trọng Bình, một học viên trường Quảng Châu, tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam ngày 29-1-1970 (tài liệu ghi chép của tác giả).
96. Bản dịch Quốc tế ca có sự xác nhận của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1967 Tài liệu lưu tại bảo tàng Cách mạng Việt Nam.
97. Lê Mạnh Trinh (1896-1983) thuộc lớp đầu ra đi từ Sài Gòn sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện. Sau khi học xong, đồng chí được Nguyễn Ái Quốc cử về Xiêm hoạt động.
98. Bác Hồ (Hồi Ký), Sđd, tr.95.
99. Trong số 10 người sang được Quảng Châu có Trần Phú, Phan Trọng Bình, Phan Trọng Quảng, Nguyễn Ngọc Ba, Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Công Thu, Nguyễn Danh Thọ.
100. Xem Đi tìm lý tưởng (Hồi ký), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thái Bình xuất bản, 1969, t.III, tr.20-23.
101. Xem Tình đoàn kết chiến đấu vô sản Việt -Pháp, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986, tr 29-3l.
102. Đến nay chúng tôi chưa có số liệu chính xác học viên được huấn luyện ở Quảng Châu. Một đồng chí đã học ở Quảng Châu năm 1926 ước tính khoảng 300 người (xem Phạm Văn Đồng: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1960, tr.12). Còn Mácty, trùm mật thám Pháp ở Đông Dương đã đoán là có 250 cán bộ được huấn luyện ở Quảng Châu, trong số đó có 200 cán bộ đã được tung về nước hoạt động cách mạng, số còn lại được gửi đi đào tạo ở trường Đại học Phương Đông (xem V.V.Visnôkôva - Akimôva: Hai năm ở nước Trung Hoa vùng dậy (1925-1927) (tiếng Nga), Nxb. Khoa học, Mátxcơva, 1980, tr.19).
103. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd. t.2, tr.19.
104. Lê Hồng Phong, bí danh Lítvinốp, đầu tiên học tại Trường không quân Lêningrát, năm 1928 mới chuyển sang học tại trường Đại học Phương Đông.
105. Theo thứ tự từ trên xuống là các đồng chí: Nguyễn Thế Rục, Ngô Đức Trì, Bùi Công Trừng, Bùi Lâm (tức Nguyễn Văn Xích, Nguyễn Văn Dị) và Trần Phú. Ngô Đức Trì khi về nước tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng, bị Pháp bắt năm 1930, đã khai báo và đầu hàng địch.
106. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.240.
107. Tình đoàn kết chiến đấu vô sản Việt – Pháp, Sđd, tr.83.
108. A.I.Trêrêpanốp: Ghi chép của một cố vấn quân sự ở Trung Quốc (tiếng Nga), Nxb. Khoa học, Mátxcơva, 1976, tr.123.
109. Cuốn Cách mạng của Nguyễn Thượng Hiền đề ngày 19 tháng Chạp năm Giáp Tý (3-1-1925). Lời phê của Nguyên Ái Quốc ký tên L.T., tức Lý Thụy đế ngày 9-5-1925, SLOTFOM, vol 5 Carton 45.
110. Báo Thanh niên, số 2, ngày 28-6-1925, không có bản gốc chúng tôi dịch lại bản tiếng Anh của Huỳnh Kim Khánh.
111. Báo Thanh niên, số 2, ngày 28-6-1925
112, 113. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.264, 280.
114. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.265.
115. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.266.
116. C.Mác và Phăngghen: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.95
117, 118. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđđ, t.2, tr.267-268, 268.
119. Hồ Chí Minh. Toàn tâp, Sđd, t.2, tr.280.
120. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 176, 1977, tr.23.
121. Tổng tập văn học, Nxb. Khoa học xã hội và Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1986, t.35, tr.138.
122. Trong phần danh mục một số tác phẩm viết và dịch của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian từ tháng 1-1925 đến tháng 2-1930 đến nay chưa tìm thấy những tác phẩm viết và dịch thời kỳ ở Xiêm như kịch Đề Thám, bài ca Trần Hưng Đạo, Nhân loại tiến hoá sử, Chủ nghĩa cộng sản A.B.C...
123. Bị thực dân Pháp bắt, trước những trận đòn tra tấn của chúng, Thái Văn Giai đã đầu hàng khai báo.
124. Huỳnh Kim Khánh: Vietnamese Communism 1925-l945, Sđđ, tr.102.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét