Thứ Bảy, 9 tháng 6, 2012

thời kỳ Hùng Vương

1. Kỷ yếu hội thảo về thời kỳ Hùng Vươngết quả công tác của các nhóm nghiên cứu về thời kỳ lịch sử Hùng Vương đã cho biết tương đối rõ ràng-ít nhất là ở giai đoạn cuối-tình hình nhiều mặt của nước Văn Lang xưa.


Chúng ta cỏ thề ước đoán số dân nước Văn Lang có khoảng trên dưới 1.000.000 người, bao gồm nhiều thành phần dân tộc sống trên miền đất suốt từ phía nam Quảng Đông, Quảng Tây Trung Quốc, cho tới miền Bắc Bộ và bắc Trung Bộ mà trung tâm là vùng giáp ranh giữa trung du và đồng bằng Bắc Bộ.

Chúng ta đã nhận thức được vai trò chủ đạo của nghề trồng lúa nước trong nền kinh tế thời Hùng Vương. Người thời đó có thể đã biết dùng cày. Nghề luyện đồng đã đạt tới đỉnh cao. Những chiếc trống đồng nổi tiếng đã làm kinh ngạc cả những người thợ đúc giỏi đời nay. Những công cụ sản xuất bằng đồng như lưỡi cày, lưỡi rìu, lười câu, giáo đã nhiều hơn các công cụ đá. Dấu vết đồ sắt đã được tìm thấy ở một số di chỉ, hiện tượng này cho phép giải thích nền tảng hiện thực của hình tượng roi sắt và ngựa sắt trong câu chuyện người anh hùng làng Dóng ở thời Hùng Vương.
Cái xã hội tổ chức còn giản dị với những thành viên thuần phác đời đời cần cù lao động này cũng đã nảy sinh mâu thuẫn. Quân đội đã ra đời, nhưng có quân đội thường trực hay chưa là điều cần tiếp tục nghiên cứu. Dù người chiến binh đồng thời là người sản xuất, vũ khí đồng thời cũng có thể là công cụ sản xuất (rìu, giáo, lao, mũi tên), thì ta cũng đã thấy được ràng xã hội thời này đã nhiều phen biến động.

Mọi mặt của xã hội cuối thời Hùng Vương được tiếp tục bảo tồn và phát triển trong thời kỳ lịch sử An Dương Vương ngắn ngủi và cả về sau này nữa.

Việc giao lưu văn hóa với nước ngoài, đặc biệt là với phương bắc, tuy đã có lừ lâu nhưng có lẽ chưa vượt khỏi phạm vi khối Bách Việt ở Hoa Nam để tiếp xúc trực tiếp với nền văn hóa Hán tộc miền Trung Nguyên xa xôi.

Ở Trung Quốc vào cuối thời Xuân Thu, nông cụ và công cụ thủ công đã bắt đầu làm bằng sắt. Tới thời Chiến Quốc, chế độ phong kiến đã hình thành. Việc giao lưu kinh tế, văn hóa và kèm theo là những cuộc xung đột quân sự (như việc vua Sở sai Ngô Khởi “bình Bách Việt”) cũng tăng cường hơn trước. Nhưng hơn 5 thế kỷ chiến tranh và xáo trộn vẫn hạn thế sự bành trướng của ảnh hưởng Hán tộc xuống phía nam. Tới khi Tần thống nhất Trung Quốc, tình hình trong nước tạm yên, chủ nghĩa bành trướng phát triến, vua Tần mới tính tới việc đánh chiếm phía nam. Và cuộc đụng độ lớn đầu liên của người Âu Lạc với quân Tần đã xảy ra.
Vào nửa cuối thế kỷ 3 trước Công nguyên, trong khoảng thời gian thành lập nước Âu Lạc, quân Tần đã đánh xuống phía nam. “Người Việt cùng nhau đặt người tuấn kiệt lên làm tướng, ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá Tần và giết được Đồ Thư” (1 Hoài Nam Tử). Cuộc kháng chiến chống Tần thắng lợi là một sự thật lịch sử đã được ghi chép vào sử sách. “Người tuấn kiệt” chỉ huy cuộc kháng chiến đã được một số người nghiên cứu thừa nhận đó là Thục Phán, người cầm đầu bộ tộc Tây Âu, một bộ tộc láng giềng của Văn Lang. Cuộc xâm lược của nhà Tần không chỉ đe dọa một mình Tây Âu hay Lạc Việt mà cả hai. Chính vì vậy Thục Phán có thể đã được cả người Tây Âu lẫn Lạc Việt “cùng nhau” đặt làm tướng chỉ huy cuộc kháng chiến và cuộc kháng chiến đó đã rèn đúc sự đoàn kết của hai bộ tộc Tây Âu và Lạc Việt.

Vào nửa sau thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, nước Âu Lạc ra đời (2). Về năm mở đầu của nước Âu Lạc còn có những ý kiến khác như: Năm 257 trước Công nguyên (theo Đại Việt sử ký toàn thư); Năm 210 trước Công nguyên (theo L.Ô-rút-xô); Năm 208 trước Công nguyên (theo Đào Duy Anh) khoảng trước sau thằng lợi của cuộc kháng chiến chống Tần. Nước Âu Lạc là sự sát nhập của hai thành phần Âu và Lạc (3) Xem thêm Nguyễn Duy Hinh: Bàn về nước Âu Lạc và An Dương Vương.-Khảo cổ học, Hà Nội, số 3-4, tháng 12-1969, tr.145-150. Tác giả cho rằng chỉ có người Lạc Việt nói chung, Tây Âu, Tây Âu Lạc hay Âu Lạc chỉ là tên của một nước của người Lạc Việt). Cuộc “Chiến tranh” Thục-Hùng thực chất chỉ là sự xung đột nội bộ trong tiến trình hình thành dân tộc, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử. Căn cứ vào sự ghi chép của sử cũ, không thấy nêu rõ sự tình một cuộc chinh phục. Truyền thuyết cũng không coi An Dương Vương như kẻ thống trị ngoại tộc, và căn cứ cả vào nhưng phát hiện khảo cổ học, không thấy có một văn hóa vật chất riêng biệt của thời kỳ An Dương Vương, ta có thể thừa nhận An Dương Vương vốn cũng là “Hùng gia chi phái” (4 Xem Thục An Dương Vương tiên đế ngọc phả cổ lục, và Trưng nữ Vương triều âm phủ nhất vị công chúa ngọc phả cổ lục) đã tiếp nhận cơ đồ Hùng Vương, kế tục còng việc dựng nước và giữ nước buổi đầu lịch sử. Âu Lạc chỉ là sự tiếp nối của Văn Lang trên một mức phát triển cao hơn. Về mặt tình cảm dân tộc cũng vậy, nhân dân ta bao đời nay đều trân trọng kính thờ cả Vua Hùng lẫn Vua Thục. Vua chúa của các triều đại về sau đều gia phong mỹ tự, coi cả Vua Hùng và Vua Thục là những vị “hộ quốc tý dân”. Hàng năm đền Hùng mở hội lớn, thì hàng năm đền An Dương Vương cũng mở hội không kém phần long trọng. Nhiều năm tìm kiếm, khai quật trên địa bàn nước văn Lang và Âu Lạc cũ, người cán bộ khảo cổ học chỉ thấy rõ nét một nền văn hóa chung, liên tục phát triển từ thời vua Hùng cho mãi tới thời khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ nảy sinh từ thời các vua Hùng cho tới mãi thời thuộc Đông Hán mới có thể tạm gọi là ngừng phát triển như một nền văn hóa độc lập.
Ngay trên mảnh đất Cổ Loa, khu kinh đô của vua Thục, khảo cổ học đã phát hiện một trung tâm sinh hoạt liên tục của con người suốt từ thời đại đồng sớm (văn hóa Phùng Nguyên) cho tới ngày nay trong đó bao gồm thời kỳ An Dương Vương, mà đại diện cho văn hóa vật chất thời này là di tích thành Cổ Loa và di chỉ khảo cổ học Đường Mây.

Di chỉ Đường Mây được xếp vào nhóm di chỉ Đường Cồ, đã bước sang thời đại sắt sớm (1 Nhóm di chỉ Đường Cồ gồm khá nhiều di chỉ như Đường Cồ (Phú Xuyên), Vinh Quang, Chiều Vậy (Hoài Đức), Đại Áng (Thường Tín), Nam Chinh (Ứng Hoà) thuộc tỉnh Hà Tây; Đình Chàng, Đường Mây (Đông Anh), Gò Chua Thông (Thanh Trì) thuộc Hà Nội). Những di vật đá, đồng, sắt, gốm dù có mang đặc điểm riêng nhưng thể hiện rõ ràng tính bản địa, kế thừa đặc điểm của giai đoạn Gò Mun và rất gần gũi với hiện vật Đông Sơn. Có người đã gọi nhóm Đường Cồ là loại hình Bắc Bộ của nền văn hóa Đông Sơn. Vậy từ Đường Mây của đất thành Cổ Loa, nhóm Đường Cồ và cả một phần văn hóa Đông Sơn rực rỡ có thể được coi như văn hóa vật chất của thời kỳ lịch sử An Dương Vương đậm đà tính dân tộc tuy một số ảnh hưởng của văn hóa Chiến Quốc-Hán đối với văn hóa Việt Nam giai đoạn này là sự thực hiển nhiên.

Nhà Tây Hán kế tiếp nhà Tần duy trì quốc gia thống nhất và ra sức bành trướng thế lực, nhưng buổi đầu chủ yếu vẫn là phát triển về hướng bắc và hướng tây. Còn ở phía nam, ảnh hưởng Hán vẫn chưa đậm nét. Cho tới thời thịnh đạt nhất-đời Hán Vũ Đế-phong, kiến Hán mới chinh phục được Nam Việt (Triệu Đà) và tràn xuống địa phận Văn Lang-Âu Lạc. Tuy nhiên văn hóa Tây Hán vẫn chưa chiếm được địa vị đáng kể. Cho tới nay, tình hình khai quật và điều tra khảo cổ học vẫn chưa cung cấp thêm tư liệu gì để có thể thay đổi nhận định trên. Dấu vết văn hóa Tây Hán khá mờ nhạt trên khắp vùng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ Việt Nam. Ngược lại, bước sang thời Đông Hán tình hình thay đổi hẳn. Số lượng lớn những ngôi mộ gạch Hán cùng những vật tùy táng đồng thời với rất nhiều di vật tìm thấy ở những di chỉ lớn, các trung tâm hành chính, kinh tế đương thời như Luỵ Lâu (Hà Bắc) khiến ta đoán nhận được ngày một sự thay đổi đột ngột, mạnh mẽ, tựa hồ như một bước ngoặt gấp khúc của những đặc điểm văn hóa vật chất trên đất Việt Nam.

Hiện tượng này giúp ta xác định rõ đặc điểm bản địa vẫn chiếm địa vị chủ đạo trong bộ mặt văn hóa vật chất của những thời kỳ lịch sử ngắn ngủi tiếp sau hời kỳ Hùng Vương: từ thời Thục An Dương Vương, qua thời thuộc Triệu cho tới cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổi tiếng, chấn động cả triều đình Đông Hán.
Từ những di vật khảo cổ học, có thể sơ lược suy ra một số nét của xã hội thời kỳ An Dương Vương như sau: người Âu Lạc vẫn tiếp tục xây dựng nơi ở bằng những ngôi nhà sàn kể những cánh đồng lúa, vẫn mặc theo kiểu đàn ông đóng khố, đàn bà mặc váy, những ngày hội vẫn đội mũ cắm lông chim hay bông lau cao vút trên đầu, vẫn tiếp tục đúc những trống đồng, thạp đồng nổi tiếng, vẫn dùng những vũ khí giáo, lao, rìu lưỡi xéo, rìu gót vuông các loại bằng đồng có trang trí hoa văn hình thuyền, người hoá trang lông chim và động vật hươu nai sinh động và đẹp, v.v...

Công cụ bằng kim loại đã thay thế những công cụ sản xuất bằng đá. Những lưỡi cày đồng hình lá tìm thấy tại xóm Nhồi (Cổ Loa) khỏe hơn, dày hơn, kích thước lớn hơn tất cả những lưỡi cày đã tìm thấy chứng minh một sức kéo lớn hơn, một năng suất cao hơn, một kỹ thuật tiến bộ hơn trong nông nghiệp. Điều đáng chú ý là sự xuất hiện của đồ sắt. Phàn lớn dấu vết sát tìm thấy trong các di chỉ khảo co học không còn rõ hình dáng công cụ vì sắt chóng gỉ và đã gỉ thì rất mau mất nguyên dáng-một mặt là bằng chứng cho một bước tiến lớn trong sức sản xuất, mặt khấc là bằng chứng để cải chinh nhận thức có phần phổ biến từ lâu là Việt Nam mới có sắt từ thời thuộc Hán và do người Hán truyền bá sang. Sắt bước vào đời sống con người thời đó đã cắm một cái mốc quan trọng trong lịch sử. Sức sản xuất tăng lên, kéo theo một loạt những biến đổi lớn trong xã hội Âu Lạc, mà hiện vật khảo cổ đã là minh chứng hùng hòn. Nếu ở cuối thời Hùng Vương sự cách biệt giàu nghèo đã có (1 Sự khác biệt về số lượng những vật chôn theo trong các ngôi mộ ở Đông Sơn trong lần khai quật năm 1970 đã phản ánh rõ ràng điều này), thì ở thời An Dương Vương sự phân hóa giai cấp càng rõ nét.


2. THỜI NGUYÊN THỦY VIỆT NAM (nông nghiệp)
1.        TỔNG QUAN
2.        GIAI ĐOẠN SĂN BẮT- HÁI LƯỢM VÀ NÔNG NGHIỆP SƠ KHAI (18.000 đến 8.000 năm trước)
3.        giai đoẠn trỒng lúa rẪy THỜI NGUYÊN THỦY (7.000-5.000 năm trước )
4.        KẾT LUẬN




1.   TỔNG QUAN
Lịch sử trồng lúa là một đề tài lớn trong khi thông tin và tài liệu còn nhiều giới hạn. Tuy nhiên, cây lúa là loại lương thực quan trọng của dân tộc Việt Nam ít nhứt từ 3.000 năm qua và của hơn phân nửa dân số thế giới hiện nay. Dân tộc có lịch sử, cây lúa cũng cần có lịch sử để tìm hiểu sự tương quan giữa con người và loại Hòa Thảo này. Trong thời gian qua, những thành tựu ngành khảo cổ học và thư tịch trong và ngoài nước đã giúp rọi sáng phần nào tiến hóa phát triển của nền nông nghiệp và ngành trồng lúa Việt Nam từ thời sơ cổ đến hiện đại; nhưng lãnh vực này còn cần thêm nhiều nghiên cứu sâu rộng, nhứt là công trình khai quật khảo cổ học để sớm có bức tranh rõ nét về lịch sử tiến hóa của ngành này.

Các phát hiện khảo cổ học cho biết quá trình trồng lúa ở Việt Nam đã tiến hóa lâu dài theo trình độ văn minh dân tộc qua nhiều chặng đường phát triển. Từ thời người Vượn cho đến cuối thời đại Đồ Đá Mới khoảng 5.000 năm trước là thời nguyên thủy (hay tiền sử), con người chỉ biết săn bắt, hái lượm và bắt đầu nghề nông nghiệp; nhưng chưa khai hóa tiến bộ như thời đại Kim Khí. Từ nền văn hóa Hòa Bình (10.000-8.000 năm), cuộc Cách Mạng Đá Mới bùng phát khắp nơi, nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện và con người dùng khoai đậu sò ốc để có thêm thức ăn, biết dưỡng trồng hạt lúa hoang dại quanh nơi cư trú hoặc các đầm lầy, rừng núi để có thêm lương thực. Đến thời kỳ văn hóa Bắc Sơn, nhiều băng nhóm trồng lúa rẫy xuất hiện, đánh dấu thay đổi lớn của con người, ảnh hưởng sâu đậm đến văn minh dân tộc Văn Lang sau này, vì nghề trồng lúa mang đến đời sống xã hội ổn định hơn. Sau đó sự xuất hiện các kim loại như đồng, thau, sắt, gang và nghề luyện kim qua các nền văn hóa Phùng nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun đã cung cấp cho nghề nông chủ yếu ngành trồng lúa các công cụ hoạt động hữu hiệu làm tăng sản xuất và cải tiến năng suất đảm bảo lương thực cho dân số ngày càng đông đảo hơn, đặc biệt vào hậu bán thời đại Hùng Vương và An Dương Vương. 

Về khảo cổ học, từ lâu các trầm tích hạt lúa, hạt gạo, vỏ trấu, than tro, bào tử phấn hoa, côn trùng, phytoliths… thường được các nhà nghiên cứu dùng đến để đánh giá niên đại và nguồn gốc cây lúa. Nhưng các di tích khảo cổ thường bị chi phối lâu dài bởi các điều kiện khí hậu, môi trường địa phương; cho nên phương cách xác định niên đại của các di vật khảo cổ thường gặp sai lầm không thể tránh được. Khí hậu nóng ẩm của các miền nhiệt đới thường hủy hoại các thực vật, hạt lúa gạo nhanh hơn các vùng có khí hậu ôn đới, ngoại trừ chúng được hóa thạch hoặc dưới hình thái khác như gạo cháy, phytoliths... Hiện tượng biển tiến và biển lùi đã làm cuốn trôi nhiều di tích thực vật cổ ở các vùng đồng bằng trũng thấp ven biển. Dù thế, việc dùng phương pháp đồng vị phóng xạ C14 để xác nhận khung niên đại di vật phát hiện trong các cuộc khai quật hoặc sưu tầm có giá trị tương đối để hiểu biết rõ hơn những nền văn hóa khảo cổ trong thời tiền sử và có sử. Nhờ đó, chúng ta có được một số thông tin đáng tin cậy về tiến hóa ngành nông nghiệp lúa qua nhiều giai đoạn thăng hoa của dân tộc và đất nước.

Để có ý niệm thời gian rõ rệt trong quá trình tiến hóa vạn vật, các giai đoạn sử học và khảo cổ học được sơ lược trình bày trước khi bước vào tìm hiểu lịch sử ngành nông nghiệp lúa cổ sơ qua khảo cổ học Việt Nam và quốc tế.

Các nhà sử học thường phân chia lịch sử loài người làm hai thời kỳ chính: tiền sử và có sử.

Thời tiền sử gồm có 3 thời đại:
-          Thời đại Đồ Đá Cũ (hay đá đập): từ khoảng 1.600.000 đến 11.000 năm trước,
-          Thời đại Đồ Đá Mới (hay đá mài): từ khoảng 11.000 đến 6.000 năm trước,
-          Thời đại Kim Khí (thời có sử): bắt đầu khoảng 5.000 năm trước.

Thời có sử gồm có 4 thời đại:
-          Thời Thượng Cổ: từ khi có chữ viết (5.000 năm trước) đến thế kỷ V sau Công Nguyên (CN),
-          Thời Trung Cổ: từ thế kỷ V đến thế kỷ XV sau CN,
-          Thời Cận Đại: từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, và
-          Thời Hiện Đại: từ thế kỷ XVIII đến ngày nay.

Theo khảo cổ học, kỷ Thứ 4 còn gọi là kỷ Nhân sinh, là kỷ hình thành phát triển con người và trái đất. Kỷ Thứ 4 có thể dài lâu độ 1,6 triệu năm hoặc hơn và được phân chia làm 2 giai đoạn:

·         Cánh Tân (Pleistocene) còn gọi là thời đại Đá Cũ thật dài, và
·         Toàn Tân (Holocene) hay thời đại Đá Mới-Kim Loại thật ngắn, khoảng từ 10.000 năm nay.

Riêng thời kỳ Cánh Tân được phân ra là 3 giai đoạn: Cánh Tân sớm Q1, Cánh Tân giữa Q2 và Cánh Tân muộn Q3. Kỷ Thứ Tư được tóm lược với niên đại ước định trong Bảng 1.




Bảng 1: Phân chia giai đoạn kỷ Thứ Tư


Kỷ



Thế

Dưới thế

Niên đại
tuyệt đối


Toàn Tân  (Holocene)
(Đá Mới: Neolithic, Kim Loại và Hiện Đại)


10.000 năm BP
KỶ THỨ TƯ
Nhân sinh
Cánh Tân muộn
125.000 năn BP


Cánh Tân (Pleistocene)
(đá cũ: Palaeolithic)
Cánh Tân giữa
700.000 năm BP


Cánh Tân sớm
1.600.000 năm BP

KỶ THỨ BA
Tân sinh (Pliocene)


Nguồn: - Viện Khảo Cổ Học, 1998
- BP: Before present: trước ngày nay, theo qui ước khảo cổ học trước ngày 1 tháng giêng 1950 vì “ngày nay” luôn bất định.


Thời đại Đá (cũ và mới) là thời kỳ dài nhứt của lịch sử loài người, chỉ chấm dứt cách nay độ 5.000-6.000 năm. Theo các cuộc nghiên cứu cho biết vào thời đại đá Người Vượn (Homo erectus) có nguồn gốc từ châu Phi, di cư tới châu Á cách nay độ một triệu năm (Ciochon, 1988). Người Vượn có thể xuất hiện trên đất nước Việt Nam cách nay độ 250.000 năm hoặc sớm hơn, nhưng chưa có chứng cớ xác thực. Nhưng Người Khôn Ngoan Sớm (Homo sapien) có thể hiện diện ở nước ta cách nay 70.000-60.000 năm và Người Khôn Ngoan Muộn (Homo sapiens sapiens) độ 30.000 năm, căn cứ vào một số di chỉ khảo cổ được tìm thấy như răng, cốt người hóa thạch trong các hang động (Viện Khảo Cổ Học, 1998).

Ở Việt Nam, thời đại sơ kỳ Đá Cũ đã được ghi nhận và khảo sát ở di chỉ khảo cổ Núi Đọ thuộc Miền Bắc và Xuân Lộc ở Miền Nam (cách nay khoảng 300.000 năm), mặc dù các công cụ (Hình 1), vật liệu thu thập được trên mặt đất còn giới hạn và các phương pháp xác định niên đại chưa có tính cách thuyết phục. Tiếp theo thời đại này, các nhà khảo cổ cũng “xác định” được các giai đoạn thời hậu kỳ đá cũ, như sau:

  • Kỹ nghệ Ngườm (30.000-23.000 năm cách ngày nay).
  • Văn hóa Sơn Vi (18.000-11.000 năm cách ngày nay).

Một cách tổng thể, thời đại Đá Mới và Kim Khí gồm có các nền văn hóa chủ yếu như sau:

  • Văn hóa Hòa Bình (10.000-8.000 năm cách ngày nay)
  • Văn hóa Bắc Sơn (6.000-5.000 năm cách ngày nay)
  • Văn hóa Phùng Nguyên 4.500-3.500 năm cách ngày nay)
  • Văn Hóa Đồng Đậu (3.500 - 3.000 năm cách ngày nay)
  • Văn hóa Gò Mun (3.100-2.800 năm cách ngày nay)
  • Văn hóa Đông Sơn (2.800 - 1.800 năm cách ngày nay)

Các nền văn hóa sau này có thời gian ngắn hơn, do con người ngày càng tiến bộ nhanh hơn.


2.   GIAI ĐOẠN SĂN BẮT-HÁI LƯỢM VÀ NÔNG NGHIỆP SƠ KHAI (cách nay 18.000 - 8.000 năm)
(Viện Khảo Cổ Học, 1998 và 1999; Bùi Thiết, 2000; Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2.000; và Viện Thành Tựu Khoa Học Xã Hội, 1987).
Trong giai đoạn hậu kỳ thời đại Đá Cũ, con người còn sống rất hoang dã. Họ trải qua giai đoạn phát triển trí tuệ và thể chất để thích ứng với môi trường thiên nhiên và tồn tại. Nhờ đó, sinh hoạt hàng ngày của họ thay đổi dần theo thời gian, từ sinh hoạt săn bắt và hái lưọm tiến đến nghề “nông nghiệp sơ khai” để có đời sống tương đối
tốt hơn và ổn định hơn, sau thời kỳ Băng Giá cuối cùng và Tiểu Hạn (Younger dryas) khô lạnh[1].

2.1.      Giai đọan săn bắt và hái lượm
Theo các nhà khảo cổ học, kỹ nghệ mảnh tước được tìm thấy ở mái đá Ngườm, Thái Nguyên, được gọi là kỹ nghệ (hay văn hóa) Ngườm (Hình 2) phát triển trước nền văn hóa Sơn Vi (từ 18.000 - 11.000 năm cách ngày nay). Cả hai giai đoạn tiến hóa này thuộc hậu kỳ thời đại Đá Cũ. Giai đoạn đóng băng đạt đến cực đại cuối cùng (và bắt đầu băng tan) cách nay khoảng 20.000-18.000 năm.
Từ thời Người Khôn Ngoan sớm (Homo sapiens) cho đến người Sơn Vi, các di vật khảo cổ liên hệ đến nền nông nghiệp sơ khai không được tìm thấy ở các địa điểm khai quật, ngoài các công cụ thuộc thời đại Đá Cũ liên quan đến sinh hoạt con người như cắt, chặt, bổ…, và các bào tử hạt phấn của một số loài thảo mộc thiên nhiên. Lúc bấy giờ, con người sống từng bầy từng nhóm, với sinh hoạt chủ yếu là săn bắt và hái lượm ngoài trời để sinh tồn và đời sống của họ hoàn toàn hoang dã, di động. Con người tìm những thức ăn thảo mộc như cây có củ (như củ từ), cây đậu và hái những hạt lúa hoang trong các đầm lầy, rừng núi (Chang, 1985). Ở Việt Nam, họ còn bắt ốc núi, ốc suối và thú rừng làm lương thực. Trong điều kiện khí hậu gió mùa có nắng ấm mưa nhiều, đất nước Việt Nam vào thời nguyên thủy chắc chắn có quần thể thực vật rất phong phú và đa dạng, cung cấp cho các cư dân nguồn thực phẩm thảo mộc và động vật thiên nhiên vô hạn.
     
2.2.      Nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện trong văn hóa Hòa Bình
Tiếp theo nền văn hóa Sơn Vi, con người bước đến giai đoạn văn hóa Hòa Bình cách nay khoảng 10.000-8.000 năm hay bắt đầu thời đại Đá Mới. Nền văn hóa này do bà Madeline Colani khám phá (1926), đã xuất hiện không những ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước Đông Nam Á, như Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanmar, Malaysia, Indonesia, Philippines… Con người còn sống từng băng, lấy hang động làm đơn vị cư trú. Có những hình khắc mặt người (Hình 3) và thú trên vách đá hang động trong hang Đồng Nội. Với câu “ăn lông ở lỗ” người ta có thể tưởng tượng đời sống người thượng cổ còn man dại, phần lớn săn bắt và hái lượm là nền kinh tế chủ yếu của họ. Hàng ngày con người rủ nhau đi săn bắn hoặc xuống sông suối bắt ốc, cá hoặc hái lượm các loài cây củ đậu để làm thức ăn. Đời sống luôn phải di chuyển để tìm thức ăn vì chưa biết trồng các loại cây kinh tế cố định. Trong nền văn hóa Hòa Bình - buổi bình minh của nhân loại - con người đã có ít khái niệm chống chế thiên nhiên và có ít sáng kiến trong công việc chế tạo dụng cụ sản xuất hữu hiệu hơn để có nhiều thức ăn. Cũng giống như nền văn hóa Sơn vi, công cụ của nền văn hóa này làm bằng đá cuội để chế tạo các vật dụng bằng gỗ tre, nhưng có phần tốt hơn. Các nhà khảo cổ học xem các dụng cụ ghè đẽo một mặt (Hình 4), còn giữ nguyên một mặt vỏ đá cuội là đặc trưng của văn hóa Hòa Bình. Trong nền văn hóa này chưa có hoặc rất hiếm đồ gốm.

Di tích động vật của nền văn hóa Hòa Bình gồm có các loài nhuyễn thể như ốc núi, ốc suối, loài trai. Các nhà nghiên cứu cho rằng các loại ốc này là đối tượng chính trong hái lượm của cư dân văn hóa Hòa Bình do ít nguy hiểm. Xương động vật có xương sống còn rất ít, gồm các loài hoang dã chưa thuần thục như vượn, khỉ, nhím, chuột, hươu, hoẵng, nai, bò rừng, trâu rừng, lửng, vòi hương, hổ và rất ít voi cổ, tê giác và lợn rừng (Vũ Thế Long, 1984).

Kết quả phân tích bào tử phấn hoa của nền văn hóa Hòa Bình cho thấy có tới 22 loài bào tử và trên 40 loài phấn hoa khác nhau, trong đó chưa gặp các loại thảo mộc được con người thuần dưỡng (Trần Đạt, 1987). Tuy nhiên, lớp trên của văn hóa Hòa Bình và văn hóa Bắc Sơn đã có các rìu mài lưỡi có thể dùng phát hoang để trồng trọt. Điều này cho biết thức ăn thực vật hoang dã chiếm vị trí đáng kể trong hoạt động hái lượm.

Trong các nghiên cứu phân tích phấn hoa, người ta tìm thấy với số lượng cao của các giống cây họ Đậu (Leguminoceae) ở các di tích hang Bưng, Hòa Bình; họ rau Muối (Chenopediaceae) ở hang Con Moong và xóm Trại, Hoà Bình và họ Cà Phê (Rubiaceae) ở hang Con Moong. Ngoài ra, các di tích của nền văn hóa Hòa Bình còn có các loài hạt quả như hạt gắm (Gnetum montanum), hạt cọ (Livistona cochinchinensis), hạt côm (Elaeocarpus sylvestris), hạt me (Phyllanthus emblica L.), hạt trà (Thea sp.), trám tre (Canarium tonkinensis) và trám (Canarium sp.). Tại các di chỉ Hạ Sơn (Thái Nguyên) trong tổng số 38 hạt, dương xỉ có tới 9 hạt, phấn hoa thực vật hạt kín là 20 hạt, chủ yếu là: Lithoiagus, Quercus, Magnolia, Corylus, Betula, Graminae, Araceae (Nguyễn Địch Dỹ và Đinh Văn Thuận, 1981) (Xem Phụ Bản 1: Khảo cổ học Việt Nam: Biến đổi khí hậu và Biển tiến-biển lùi).

Ở hang Ma (Spirit cave) thuộc miền biên giới Thái Lan và Miến Điện, nhà khảo cổ học Chester Gorman (1969) đã tìm thấy được 28 loại bào tử phấn hoa của các loài cây ăn trái khác nhau, di vật hóa than như hai hột đậu Hòa Lan, củ năng, hột ớt, những đoạn dây bầu bí và dưa chuột, cùng với những dụng cụ bằng đá của những người dân có nền văn hóa Hoà Bình xuất hiện cách nay ít nhứt khoảng 8.000 - 6.000 năm. Ngoài ra, các nhà khảo cổ còn tìm thấy dấu vết hạt lúa và vỏ trấu trên những mảnh gốm ở Non Nok Tha thuộc vùng Korat với niên đại phóng xạ cách nay khoảng 6.000 năm (Solheim II, 1967 và 1971). Ông Higham (1989) báo cáo vỏ trấu và liềm gặt lúa bằng vỏ sò được tìm thấy ở Khok Phanom Di gần vùng vịnh Thái Lan có niên đại phóng xạ cách nay 8.000-6.000 năm.

Tại Việt Nam, dù chưa có di tích thực vật rõ rệt, nhưng sự hiện diện của các rìu đá sơ cổ trong nền văn hóa Hòa Bình giúp các nhà nghiên cứu phỏng đoán thời kỳ nông nghiệp sơ khai có thể xuất hiện ở Việt Nam đồng thời với nhiều nước trong vùng Đông Nam Á. Con người bắt đầu thuần dưỡng một số thảo mộc và loài thú hoang dã, ngoài sinh hoạt hàng ngày với hái lượm và săn bắt để có nhiều thực phẩm và tránh bớt nguy hiểm từ thú dữ. Đây có lẽ là cuộc “Cách Mạng Xanh” đầu tiên (còn gọi Cách Mạng Đá Mới) của những cư dân đất Việt lúc bấy giờ, vì từ một cuộc sống hoàn toàn theo thiên nhiên trở nên cuộc sống với hướng đi mới: nghề nông nghiệp. Họ là những người nông dân đầu tiên ở Việt Nam.

Theo một số nhà khảo cổ học, Cuộc Cách Mạng Đá Mới xảy ra do áp lực của khí hậu khô lạnh khắc nghiệt, gọi là Tiểu Hạn (cách nay 13.000-11.500 năm), áp lực dân số (từ “bầy người” tiến đến “băng” và “bộ lạc”) và trình độ văn hóa tiến bộ của con người.

Đối với cây lúa dại, cư dân lượm hoặc hái hạt lúa nhiều đợt để ăn vì thời gian hạt chín kéo dài và dễ rơi rụng. Qua nhiều năm tháng, họ biết lựa chọn hạt to, ít rụng để gieo trồng gần nhà hầu có thêm lương thực, ngoài sinh hoạt săn bắt và hái lượm thường xuyên. Công tác thuần dưỡng này, nhứt là từ thảo mộc hoang dại để trở thành cây sản xuất đòi hỏi rất nhiều thời gian và lao động của người thuần dưỡng. Theo một báo cáo khảo cổ gần đây ở vùng Trung Đông, thời gian thuần dưỡng từ thảo mộc hoang dã cho đến có hệ thống trồng trọt sản xuất kéo dài khoảng 1.000 năm. Thông tin này có được là do phân tích những mẫu di vật còn sót lại trong thời Đồ Đá Mới (9.600 - 9.300 năm cách ngày nay- kể từ 1950) tại một khu vực gần Biển Chết ở nước Jordan. Đây là khoảng thời gian con người bắt đầu chính thức thuần hóa một số loài thảo mộc trên thế giới và cũng là thời gian họ bắt đầu định cư (Nguyễn Sinh, BBC News, 2007).

Vào thời nguyên thủy, cây lúa dại là loại thực vật đa niên, trở thành cây lúa dại hàng niên vì chịu ảnh hưởng của khí hậu và môi trường trong quá trình thuần dưỡng. Qua nhiều năm tháng cây lúa dại trở nên cây lúa trồng có năng suất cao hơn do sự tuyển chọn của con người để có hạt to và nhiều. Theo khảo cứu, cây lúa dại đa niên Oryza rufipogon được thuần dưỡng trở thành cây lúa dại hàng niên Oryza nivara. Sau cùng do thích ứng với thủy thổ địa cầu, chủ yếu khí hậu khô ẩm, nóng lạnh và mưa nắng cây lúa dại hàng niên trở thành cây lúa trồng Oryza sativa hay cây lúa châu Á (Khush, 1997); sau đó cây lúa này tiếp tục tiến hóa thành 3 nhóm lúa Indica ở vùng nhiệt đới, lúa Japonica (Sinica) vùng ôn đới và lúa Javanica (hay Japonica nhiệt đới) trung gian giữa 2 nhóm này. Cũng nên nhắc lại một số nhà khảo cứu quốc tế, trong đó có Tiến Sĩ T.T. Chang (1985) của IRRI, Philippines tin rằng miền thượng du Bắc Bộ là một trong những trung tâm nguồn gốc xuất phát cây lúa trồng trên thế giới (Xem thêm Chương 2: Nguồn gốc cây lúa Việt NamChương 3: Tiến hóa cây lúa và các loại lúa).


3.   GIAI ĐOẠN TRỒNG LÚA RẪY SƠ KỲ
3.1.   Nền văn hóa Bắc Sơn (cách nay 7.000-5.000 năm)
Sau nhiều năm thuần dưỡng, cư dân đã biết được cây lúa trồng có khả năng cung cấp nhiều thực phẩm, nên người tham gia trồng lúa ngày càng đông. Họ tập họp thành từng nhóm người ngày càng lớn. Vì thế, trong nền văn hóa Bắc Sơn và Quỳnh Văn, tiếp theo nền văn hóa Hòa Bình, các nhà khảo cổ học phát hiện nhiều “bộ lạc trồng lúa” sinh hoạt không những ở khắp nước Việt Nam mà còn nhiều nước Đông Nam Á (Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000). Thái Lan và Philippines cũng tìm thấy dấu vết trồng lúa trong thiên kỷ VII và VI cách ngày nay. Vào thời đại Đá Mới giữa này, con người đã bắt đầu sống ngoài hang động và các mái đá của vùng núi đá vôi. Họ vẫn giữ truyền thống chế tạo công cụ bằng đá cuội như các nền văn hóa trước, nhưng họ đã biết mài đá làm những chiếc rìu mài có lưỡi, còn gọi rìu Bắc Sơn (Hình 5). Thời kỳ Đồ Đá Mới bắt đầu từ 8.000 đến 3.000 năm trước đưa đến cuộc “Cách Mạng Đá Mới” (Bùi Thiết, 2.000). Nhờ dụng cụ đá mài, rìu mài họ có thể chặt cây, phá rừng dễ dàng và nhanh hơn để phát triển nghề nông nghiệp nương rẫy.

            Nhiều di vật của nền văn hóa Bắc Sơn được tìm thấy, trong đó có một mảnh đá có khắc vẽ lá của họ Hòa Thảo (lá dài với những gân song song) chứng tỏ là lá lúa (Colani, 1930 theo Bùi Huy Đáp, 1980) (Hình 6 & 7). Di vật nầy cho biết loài lúa đã được người nguyên thủy biết và chú ý đến, ngoài rau đậu và cây củ. Với quá trình phát triển hàng ngàn năm, tầm quan trọng cây lúa ngày càng lớn, do cung cấp lương thực cho cư dân và loại thảo mộc này có thể sinh sống trong những điều kiện phong thổ khó khăn, như ngập nước, khô hạn, nước phèn, nước mặn, v.v. Ngoài ra, hạt lúa còn có ưu thế tồn trữ lâu dài so với nhiều nông sản khác, nên có thể đáp ứng đòi hỏi về kinh tế và an ninh lương thực của dân cư ngày thêm đông đảo. 

Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy các bộ lạc trồng lúa ở khắp nơi từ Bắc chí Nam, đáng chú ý nhất là văn hóa Hạ Long (Quảng Ninh-Hải Phòng) với các di vật như rìu, bôn có cán lắp, khoan tách lõi; Văn hóa Bàu Tró (Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình), với bàn nghiền, bàn xát rất lớn, chiếc cuốc đá có chuôi lắp vào cán;văn hóa Cầu Sắt (Xuân Lộc, Đồng Nai) với rìu vai xuôi, rìu tam giác, cuốc móng trâu, đục, dao đá có hình bán nguyệt gọi là “dao liềm” hay “dao hái” có thể để gặt lúa. Bộ sưu tập Cầu Sắt mang đặc trưng chung của thời đại hậu kỳ Đá Mới; cho nên cùng với các trung tâm văn hóa
  
            Người ta không biết được chính xác các bộ lạc trồng lúa xuất hiện từ lúc nào, nhưng có thể đoán rằng vào cuối thời đại Đá Mới, khoảng 6.000-5.000 năm trước. Vì bấy giờ chưa có gia súc và dụng cụ nông nghiệp tốt, người dân nguyên thủy phải dùng sức lực con người và các công cụ đá mài để khắc phục thiên nhiên. Họ có thể bắt đầu làm lúa rẫy bằng cách dùng rìu đá mài chặt phá cây rừng độ một thước cách mặt đất, phơi khô, trước khi mưa đến dùng lửa đốt cây cỏ làm sạch đất, lấy tro làm phân một cách ngẩu nhiên (vô ý thức lúc ban sơ) (“đao canh hỏa chủng”). Sau đó, họ dùng gậy chọc lỗ, gieo hạt, lắp đất, thỉnh thoảng làm cỏ, trông chừng thú rừng phá hại và chờ lúa chín hái nhặt. Nhiều dân tộc thiểu số hiện nay còn tuốt gié lúa chín bỏ vào gùi mang trên vai. Ngoài ra, ở các thung lũng, đầm lầy quanh nơi cư trú họ có thể dùng lưỡi cuốc đá nhọn để xới đất, gieo trồng lúa; nhưng còn rất hiếm vào thời kỳ này. Vã lại, hiện tượng biển tiến vẫn còn, có lúc mực nước lên cao đến 5 m so với mực nước biển hiện nay (Xem Phụ Bản 1: Khảo cổ học Việt Nam: Biến đổi khí hậu và Biển tiến-biển lùi).

Đó là lý do để tin tưởng nghề trồng lúa rẫy xuất hiện trên đồi núi sớm hơn nghề trồng lúa nước sau này ở Việt Nam và Đông Nam Á. Ngoài ra, còn do thói quen, con người ưa thích sinh sống và hoạt động nông nghiệp trên đất cao trước khi di chuyển xuống thung lũng, đầm lầy do áp lực dân số. Cuộc Nam tiến của người Việt và di dân khai khẩn đồng bằng sông Cửu Long là một bằng chứng. Người dân Phi Châu hiện chưa tận khai thác các vùng đất trũng thấp hoang dã, nhưng có tiềm năng lớn cho phát triển đời sống xã hội; trong khi lục địa Châu Á nay không còn nhiều đầm lầy chưa khai phá.

Ngoài ra, ở miền trung du Bắc Việt thuộc tỉnh Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Sơn Bình là vùng đất cao còn nhiều đồi trọc, theo các nhà thổ nhưỡng học cho rằng do kết quả làm ruộng theo kiểu “làm nương đốt rẫy” trước đây nên đất đai trở nên cứng rắn thành đá ong. Điều này cho biết cư dân đã đến ở đây trước khi xuống sinh sống ở các vùng thấp đồng bằng, họ làm nương rẫy trước khi có ruộng nước, hoặc ruộng rẫy chiếm tỉ lệ cao so với loại ruộng sau này. Các chiếc rìu đá, cuốc đá tìm thấy được ở nền văn hóa Bắc Sơn và Phùng Nguyên chứng minh điều này (Văn Tân và cộng sự viên, 2008).

Trái lại, người dân ở đồng bằng sông Ganges, Ấn Độ và vùng châu thổ sông Hoàng Hà và Dương Tử, Trung Quốc, bắt đầu trồng lúa ở các vùng trũng thấp và đồng bằng trong thời tiền sử.

Các cư dân trồng lúa rẫy phải trải qua một giai đoạn thử thách về an ninh lương thực cho cả bộ lạc trồng lúa, vì sau khi trồng loại lúa này trên đất cao 3-4 năm, năng suất giảm sút dần cho đến không còn gì để thu hoạch, do mỗi năm cỏ dại xâm chiếm mạnh hơn và mức độ phì nhiêu đất đai ngày càng vơi cạn. Vì vậy, họ phải đi tìm vùng đất rừng mới để chặt phá, đốt lửa, chọc lỗ, gieo hạt và thu hoạch. Độ khoảng 10-20 năm sau, họ có thể trở lại trồng trọt nơi mảnh đất cũ đã bỏ hoang, sau khi mức phì nhiêu đất đai phục hồi. Đó là lối sống du canh, nhưng không phải di chuyển mỗi ngày như thời kỳ săn bắt và hái lượm của bầy người và băng nhóm. Lối sống và hệ canh tác này vẫn còn tồn tại ngày nay ở miền thượng du Bắc Việt và Tây Nguyên Trung Phần.

Cư dân đã đạt một bước tiến bộ đáng kể trong thời đại cổ sơ. Đây là lúc đời sống cư dân đất Việt cổ tiến đến sự thay đổi mới, với các biến chuyển quan trọng trong cơ cấu xã hội và đời sống con người. Nhờ vào nền nông nghiệp trồng lúa, đời sống con người ngày càng ổn định hơn và phát triển về mặt xã hội, tổ chức và tinh thần. Đó là nền văn minh lúa khô thời tiền sử.

3.2.   Nền văn hóa ven biển Đa Bút - Quỳnh Văn (cách nay 6.000 - 3.000 năm)    
Sau thời kỳ văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn, biển tiếp tục lùi dần, các đồng bằng sông Hồng và Cửu Long bắt đầu tái lập và các tập đoàn cư dân mở rộng tầm hoạt động xa hơn, di chuyển từ đồi núi, vùng cao xuống thung lũng, đồng bằng và ven biển để sinh sống dễ dàng. Do đó, vào thời đại Đá Mới có hàng loạt văn hóa ven biển xuất hiện, đáng kể hơn hết là văn hóa Đa Bút phân bố ở Thanh Hóa và nền văn hóa Quỳnh Văn xuất hiện ở Nghệ An và Hà Tĩnh, có niên đại từ 4.000 đến 3.000 năm trước CN.

Cư dân sống trong môi trường gần biển và cửa sông nên nguồn thức ăn chính là các ốc sò nước lợ chủ yếu là loài hến, hay nước biển như sò gai, điệp, ngao. Ngoài ra, họ còn săn bắt ở các khu rừng xung quanh mà di vật tìm được như xương răng thú rừng: hươu, nai, trâu, bò, lợn, nhím… Điều đáng chú ý là một số nhà nghiên cứu đã nhận ra vài động vật được con người nuôi dưỡng như trâu và lợn (Patte 1932 và Vũ Thế Long, 1979). Sự hiện diện của trâu trong thời kỳ này cho biết có thể cư dân biết làm ruộng nước; nếu không, nuôi trâu để làm gì? Kỹ nghệ gốm cũng bắt đầu phát triển với những di vật đồ đựng thô, chất liệu pha nhiều sạn sỏi to, đáy tròn, không chân đế. Các di vật đồ đá tiến bộ hơn như cưa, đục, chì lưới, rìu mài (Hình 8); cho thấy kỹ nghệ đá và trình độ của Đa Bút tiến bộ hơn văn hóa Bắc Sơn và những dụng cụ này được dùng để sản xuất nông nghiệp và đánh cá.

Tóm lại, các di vật thu lượm từ nền văn hóa Đa Bút như bào tử phấn hoa rau quả củ, xương trâu lợn và đồ gốm sơ khai cho biết trình độ văn hóa của cư dân ven biển tiến bộ khá nhiều so với cư dân lục địa, nhờ thường xuyên giao lưu với các dân tộc đảo biển và quốc gia khác. Các bào tử phấn hoa được tìm thấy trong nền văn hóa này xác nhận một nền nông nghiệp trồng trọt cổ sơ đã xuất hiện sớm hơn trên các vùng ven biển (Nguyễn Địch Dỹ et al., 1980), trong khi chưa tìm thấy di vật này trong nền văn hóa Hòa Bình-Bắc Sơn. Trong nền văn hóa này, cư dân vẫn còn lưu giữ truyền thống chế tác đá cuội cùng với hiện diện của một số loại rìu ngắn, công cụ bầu dục và rìu mài lưỡi. Nền nông nghiệp vượt xa hơn các vùng khác khi phát hiện cư dân ven biển biết thuần dưỡng gia súc sớm và biết tạo ra các khu vườn cung cấp thêm thức ăn xung quanh nơi cư trú. Cũng vậy, đồ gốm thô xuất hiện sớm hơn, biểu hiện đời sống văn hóa vùng ven biển phong phú vượt bực.

Trong nền văn hóa biển Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu, Nghệ An) cũng có đồ gốm sơ kỳ ở rải rác dọc bờ biển mà hoạt động chủ yếu của cư dân là đánh cá, hái lượm. Di tích độc đáo của nền văn hóa khảo cổ này ở dạng cồn sò điệp phân bố ở quanh vịnh biển cổ Quỳnh Lưu. Mặc dù vị trí công cụ đá kém quan trọng hơn văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, các nhà khảo cổ còn tìm thấy nhóm công cụ không gia công như hòn ghè, hòn kê, bàn nghiền, chày nghiền to lớn (Hình 9), cối và chày đá ở di chỉ Quỳnh Văn, mà nhiệm vụ chính chỉ để dùng lột vỏ các hạt - có thể là hạt lúa với một số lượng nhiều hơn (Nguyễn Trung Chiến, 1998). Trong thời gian này đã có nhiều bộ lạc bắt đầu định cư ở dọc bờ biển, trên núi rừng, hang động.

3.3.   Nền văn hóa Nam Bộ: Cầu Sắt – Suối Linh (cách nay 5.000 – 3.000 năm)
Nền văn hóa Cầu Sắt - Suối Linh được coi là biểu tượng cho giai đoạn phát triển sớm nhứt của thời đại kim khí thuộc lưu vực sông Đồng Nai, do vết tích của loại rìu đá có vai kích thước nhỏ và trung bình với tỉ lệ hơn hẳn các công cụ khác và loại dao hái nhỏ, ghè mài từ những mảnh tước nhỏ có mũi nhọn để làm dụng cụ nông nghiệp. Đồ gốm có trình độ kỹ thuật cao, chế tạo bằng bàn xoay và một số khác bằng tay, độ nung cao, thành gốm mỏng…(Phạm Đức Mạnh, 1997). Chưa tìm được dấu vết kim loại và mộ táng. Ngành nông nghiệp cuốc đá hiện diện rõ nét. Do đó, niên đại của Cầu Sắt tương đương với giai đoạn Phùng Nguyên ở phía Bắc hoặc sớm hơn, tức cách nay khoảng 4.500 năm.



Sự hiện diện dày đặc của các di vật đa dạng như đá, đồng, sắt, gốm, xương, thủy tinh… ở nền văn hóa Đồng Nai cho thấy cư dân sống khá đông đảo cách nay ít nhứt 5.000-4.000 năm. Cư dân Đồng Nai sinh sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp dùng cuốc với các công cụ sản xuất có số lượng rất lớn như rìu có vai hay tứ giác, dao hái, dao cắt khá độc đáo, cuốc đá rất phổ biến (Hình 10, 11 và 12) và nhiều đồ đựng bằng gốm. Nông dân dùng những chiếc rìu đá không những để chế tạo dễ dàng hơn những vật bằng gỗ hay tre, mà còn có thể chặt cây, phá rừng trồng trọt trên đất cao, chủ yếu nông nghiệp nương rẫy, làm vườn.

Sự hiện diện của các di vật cuốc đá, dao hái, dao cắt khá phong phú ở nhiều địa điểm khảo cổ chứng tỏ nghề trồng lúa rẫy xuất hiện trước ở trên đất cao hoặc sườn đồi núi, sau đó lúa nước có mặt ở nơi trũng thấp hoặc ven sông dù ít hơn, bên cạnh các hoạt động hái lượm và săn bắt truyền thống ở Miền Đông Nam Bộ. Nhờ đó, cư dân có đời sống ổn định hơn, họ thành lập xóm làng lâu đời, với các di vật phát hiện dày đặc là chứng tích.

Tóm lại, sự tiến hóa của nghề trồng lúa qua các nền văn hóa khảo cổ học như sau:

(i)                  Cư dân Hòa Bình có thể hái lượm các loài lúa dại để làm thức ăn cùng với rau, củ, đậu và họ bắt đầu thuần dưỡng cây lúa dại quanh nơi cư trú (khoảng 8.000-6.000 năm).
(ii)                Cây lúa rẫy được cư dân Bắc Sơn trồng sản xuất khá nhiều trên các gò cao, triền đồi núi. Những bộ lạc trồng lúa xuất hiện ở Đông Nam Á gồm cả Việt Nam cách nay khoảng 6.000-5.000 năm.


4.   KẾT LUẬN
Suốt thời đại Đá Cũ lâu dài, con người vẫn còn sống với cuộc đời hoang dã, hòa hợp hoàn toàn với thiên nhiên và không có quyền tự chủ. Mãi đến khởi đầu Cách Mạng Đá Mới cách nay độ 10.000 năm, con người tiến vào giai đoạn thay đổi lớn để chuẩn bị trở thành con người thật sự của ngày hôm nay, khi họ nhận thức nghề nông nghiệp sơ khai có khả năng giúp họ ổn định cuộc sống trong tương lai. Từ đó, song song với sinh hoạt săn bắt hái lượm truyền thống, con người bắt đầu thuần hóa một số loài thực vật và động vật hoang dại liên hệ đến đời sống hàng ngày của mình. Cây lúa đã được cư dân trên địa bàn Việt Nam và một số nước Đông Nam Á chú ý đặc biệt và thuần dưỡng; sau đó, loại thảo mộc này trở nên nguồn lương thực căn bản cho nhiều dân tộc thế giới.

 Miền thượng du Bắc Việt được các chuyên gia lúa gạo quốc tế xem như một trong những trung tâm nguồn gốc nguyên thủy xuất phát cây lúa trồng. Trong thời gian 6.000 - 5.000 năm, cây lúa dại đã được cư dân thượng du thuần hóa và tuyển chọn để trở thành một màu kinh tế chủ yếu của đất nước ta sau này. Trong khoảng 3.000 năm qua, lúa gạo luôn là một cây Hòa Thảo quan trọng, được các triều đại và nhà cầm quyền dành ưu tiên cao để phát triển kinh tế đất nước. Có phải chăng cây lúa là một thành tố quan trọng quyết định trong quá trình xây dựng đất nước Việt Nam từ thời cổ đại đến gần đây?!





TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Bùi Huy Đáp. 1980. Các giống lúa Việt Nam. NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 563 tr.
  2. Bùi Huy Đáp. 1999. Một số vấn đề về cây lúa. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 154 tr.
  3. Bùi Thiết. 2000. Việt Nam Thời Cổ Xưa. NXB Thanh Niên, T.P. Hồ Chí Minh, 463 tr.
  4. Chang, T.T. 1985. Crop history and genetic conservation: Rice - A case study. Iowa State Journal of Research 59(4): 425-455.
  5. Colani, M. 1926. Découverte du paléolithique dans la province de Hoabinh, L’Anthropolopie, vol XXVI, Paris, France.
  6. Colani, M. 1930. Quelques stations Hoabinhiennes. Bulletin de l’École française de l’Orient extrême (BEFE), XXIX, Hanoi.
  7. Diệp Đình Hòa, 1978. Người Việt cổ Phương Nam ở vào buổi bình minh của thời dựng nước, Khảo Cổ Học, số 1, tr. 61-69.
  8. Đào Thế Tuấn. 1988. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở Đồng Đậu (Vĩnh Phúc) năm 1984. Khảo Cổ Học, số 4, tr. 44-46.
  9. Higham, C. F. W. 1989. Rice cultivation and the growth of Southeast Asian civilization. Endeavour 13: 82-8.
  10. Hoàng Xuân Chính, Nguyễn Khắc Sửu, và Phan Quang Sơn. 1978. Khai quật địa điểm hậu kỳ đá mới Cầu Sắt (Đồng Nai). Trong: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1977. Viện Khảo Cổ Học, Nhà in Diên Hồng, Hà Nội, tr. 82-84.
  11. Khush, G. 1997. Origin, dispersal, cultivation and variation of rice. Plant Mo. Biol. 35:25-34.
  12. Lĩnh Nam Chích Quái. 1960. NXB Khai Trí, Sài Gòn, 134 tr.
  13. Nguyễn Địch Dỹ, Đinh Văn Thuận và Trần Đạt, 1980. Phân tích bào tử phấn hoa ở Cồn Cổ Ngựa (Thanh Hóa). Những phát hiện mới (NPHM), Viện Khảo Cổ Học 1980.
  14. Nguyễn Địch Dỹ và Đinh Văn Thuận. 1981. Kết quả phân tích bào tử phấn hoa ở Hạ Sơn, Phiêng Tung, Nà Khù. Thần Sa- những di tích của con người thời đại đá. Bắc Thái 1981.
  15. Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2.000. Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến năm 1884. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 479 tr.
  16. Nguyễn Sinh (BBC News), 2007. Con người cổ đại biết trồng trọt khi nào?
  1. Nguyễn Trung Chiến. 1998. Văn Hóa Quỳnh Văn. Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.
  2. Nguyễn Văn Quỳnh. 2002. Các bức ảnh về khảo cổ, Viện Khoa Học Nông Nghiệp Việt Nam.
  3. Patte, E. 1932. Le Kjokkenmodding néolithique de Dabut et ses sépultures (province de Thanh Hóa, Indochine). Bulletin du Service Géologique d’Indochine (BSGI), vol. XIX, pt.3.
  4. Phạm Đức Mạnh, 1997. Tiền sử và sơ sử Đông Nam Bộ (Việt Nam) – Những nhận thức quá khứ và hiện đại. Trong Một số vấn đề khảo cổ học ở Miền Nam Việt Nam. NXB  Khoa Học Xã Hội, tr 242-292.
  5. Phạm Văn Thích và Hà Văn Tấn. 1970. Phân tích chì trong di vật đồng trong thời đại đồng thau và thời đại sắt sớm. Khảo Cổ Học, số 7-8, tr.126-129.
  6. Sakurai, Y. 1987. Reclamation history at the Song Coi (Tonkin) delta of Vietnam. In Watanabe T. Edition “History of Asian Rice”, Shogakukan, Tokyo: 235-276.
  7. Solheim II, W.G. 1967. Two pottery traditions of late prehistoric times in Southeast Asia. Historical Archeological and Linguistic Studies on Southern China, Southeast Asia and the Hong Kong region. Ed. F. S. Drake. Hong Kong University Press, Hong Kong 1967, p. 15-22.
  8. Solheim II, W.G. 1971. New light on a forgotten past. National Geographic, Vol. 139, No. 3.
  9. Trần Đạt và Đinh Văn Thuận. 1984. Phân tích bào tử phấn hoa ở di chỉ Đồng Đậu (Vĩnh Phú). NPHM Viện Khảo Cổ Học, 1984: 91-93.
  10. Trần Đạt. 1987. Nhìn lại các kết quả phân tích bào tử phấn hoa trong nghiên cứu khảo cổ học Việt Nam. Khảo Cổ Học, số 4-1987: 61-68.
  11. Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia.1998. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Tập I (Quốc sử quán triều Nguyễn). NXB Giáo Dục, 1.207 trang.
  12. Viện Khảo Cổ Học. 1998. Khảo cổ học Việt Nam, Tập I: Thời đại đá Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 457 tr.
  13. Viện Khảo Cổ Học. 1999. Khảo cổ học Việt Nam, Tập II: Thời Đại Kim Khí Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 551 trang.
  14. Viện Thành Tựu Khoa Học Xã Hội. 1987. Thành tựu khảo cổ học Việt Nam, tr. 40-41.
  15. Vũ Thế Long. 1979. Di tích động vật ở di chỉ Đa Bút (Thanh Hóa). NPHM, Viện Khảo Cổ Học 1979.
  16. Vũ Thế Long. 1984. Người Hòa Bình và thế giới động vật. Khảo Cổ Học, số 1, 2-1984.



[1] Thời kỳ Băng Giá cực đại cách nay 20.000-18.000 năm, sau đó băng tan cho đến nay, và Tiểu Hạn khô lạnh xảy ra cách nay từ 13.000 đến 11.500 năm. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét