Thứ Ba, 26 tháng 6, 2012

Vai trò của Mặt trận DTGPMNVN trong cuộc kháng chiến chống Mỹ



Vai trò của Mặt trận DTGPMNVN trong cuộc kháng chiến chống Mỹ


1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975) nhân dân Việt Nam phải đối đầu
với đế quốc Mỹ, một kẻ thù hung bạo và nham hiểm nhất thế giới. Muốn chiến thắng, nhân
dân Việt Nam phải tiến hành cuộc kháng chiến trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị và
ngoại giao. 
Muốn cho cuộc đấu tranh trên cả ba mặt trận đạt được thắng lợi, một điều kiện quan
trọng là phải động viên và tập hợp lực lượng toàn dân tộc, phải xây dựng  cho được Mặt trận
dân tộc thống nhất để bao vây đế quốc Mỹ xâm lược và chiến thắng chúng.
Sau năm 1954, đất nước ta tạm thời chia làm hai miền với hai nhiệm vụ khác nhau.
Nhân dân cả hai miền đều phải làm nghĩa vụ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Song ngoài
nhiệm vụ chung đó ra, mỗi miền còn làm nhiệm vụ chiến lược cách mạng riêng thích hợp
với điều kiện của mình. Miền Bắc làm cách mạng XHCN: cải tạo XHCN và xây dựng Chủ
nghĩa xã hội. Miền Nam làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, quét sạch đế quốc Mỹ
xâm lược và đánh đổ bè lũ tay sai của chúng, giành độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân. Do đó, mỗi miền có một mặt trận riêng, có cương lĩnh thích hợp để tranh thủ và đoàn kết các
giới đồng bào  [9, tr.21]. Toàn dân Việt Nam phải triệu người như một, cùng đứng trong
Mặt trận dân tộc thống nhất, kiên trì đẩy mạnh kháng chiến, đập tan âm mưu chia cắt lâu dài
đất nước ta của đế quốc Mỹ.
Thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân  của Đảng, chúng ta đã xây dựng ba tầng
Mặt trận thống nhất. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời cùng với Mặt
trận Tổ Quốc Việt Nam, nhân dân Đông Dương và nhân dân thế giới bao vây đế quốc Mỹ.  
Mặt trận DTGPMNVN ra đời, cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam thực sự khởi
động một cách độc đáo và khôn khéo, thể hiện bãn lĩnh Việt Nam trong quá trình tiến hành
cuộc chiến tranh cách mạng . 
Mặt trận vừa làm nhiệm vụ  của một đoàn thể  kêu gọi nhân dân miền Nam đứng lên
lật đổ ách gông xiềng đế quốc và tay sai, vừa làm nhiệm vụ của một chính quyền cách mạng
lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ khi  ta chưa xây dựng được
chính quyền cách mạng.
Hoạt động của Mặt trận trên lĩnh vực chính trị, quân sự và ngoại giao thể hiện ý chí
tiến công của cách mạng, thể hiện quyết tâm  hoàn thành  nhiệm vụ cách mạng là giành độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Vai trò của Mặt trận DTGPMNVN trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ vô cùng to lớn.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Vai trò của Mặt trận Dân tộc
giải phóng Miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến  chống Mỹ ”           ( từ 1960  đến
1968 ) làm đề tài luận văn. 
Mặt trận DTGPMNVN ra đời ngày 20-12-1960 và kết thúc ngày 4-2-1977, Mặt trận
đã cùng với nhân dân cả nước làm nên một kỳ tích trong lịch sử dân tộc: đánh thắng đế quốc
Mỹ, một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới trong thời hiện đại. Nội dung hoạt động của Mặt
trận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vô cùng phong phú, Tác giả luận văn chỉ giới hạn
nghiên cứu vai trò của Mặt trận từ 1960 đến 1968, đây là giai đoạn cả  nước chống “chiến
tranh đặc biệt” và “chiến tranh cục  bộ”, là giai đoạn đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh ở
Việt Nam. Nhân dân Việt Nam muốn thắng Mỹ phải đoàn kết  xung quanh “ngọn cờ đoàn
kết, ngọn cờ cách mạng, ngọn cờ chiến thắng của miền Nam anh hùng”.

2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Mặt trận
DTGPMNVN  cùng với  Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc,
dân chủ và hoà bình Việt Nam  hợp  nhất thành  Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [44]. Từ trước
đến nay đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về Mặt trận. 
Chiến tranh Việt Nam thời hiện đại là cuộc chiến tranh “nóng” lên từ “chiến tranh
lạnh”, và “vị trí của Mặt trận miền Nam trong lịch sử chưa có bao giờ như vậy”[35, tr.304].
Cho nên, hoạt  động của Mặt trận DTGPMNVN trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là vô
cùng phong phú, vai trò của Mặt trận trong cuộc kháng chiến vô cùng quan trọng, cần có đề
tài chuyên sâu nghiên cứu về Mặt trận. 
Thông qua văn kiện Đảng, văn kiện của các đại hội Mặt trận, các bản báo cáo chính
trị, Cương lĩnh chính trị được nhà xuất bản Sự Thật xuất bản thành các tập sách đã để  lại
cho chúng ta nhiều tư liệu quý báu:
- Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Nxb Sự Thật, Hà Nội,1961.
- Đại hội Mặt trận DTGPMNVN lần thứ nhất, Nxb Sự Thật, Hà Nội,1962.
- Những văn kiện chủ  yếu của Mặt trận DTGPMNVN ( Từ sau Đại hội lần thứ nhất
của Mặt trận đến tháng mười 1962 ), Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1963.
- Báo cáo chính trị  tại đại hội Mặt trận DTGPMNVN lần thứ hai, Nxb Sự Thật, Hà
Nội, 1964. - Những văn kiện chủ  yếu của Mặt trận DTGPMNVN ( Từ tháng 11 -1964 đến tháng
12-1965 ) Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1966. 
- Cương lĩnh chính trị của Mặt trận DTGPMNVN, Nxb Sự Thật, Hà Nội  ,1967.
- Những văn kiện chủ yếu của Mặt trận DTGPMNVN ( Từ tháng 1 -1967 đến tháng 12
-1967 ), Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1967.
- Văn kiện Đảng về Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, tập II, (1945 - 1977 ), Nxb
Sự Thật, Hà Nội, 1970.
Những tập văn kiện của Đảng, văn kiện Mặt trận giúp chúng ta hiểu rõ  đường lối,
chủ trương Đảng, của Mặt trận trong từng giai đoạn, cho chúng ta thấy được những cái mốc
lịch sử đánh dấu từng bước phát triển và chuyển biến của cách mạng miền Nam.
Thông qua một số sách, bài viết, hồi ký của các vị lãnh đạo tham gia Mặt trận trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cho chúng ta cái nhìn khá rõ nét về hoạt động của Mặt trận như
- Dưới lá cờ  vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành
những thắng lợi mới, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1970 và Thư vào Nam, Nxb Sự Thật, Hà Nội,
1985 của cố Tổng bí thư Lê Duẫn, người trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam thời chống
Mỹ.
- “Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam – Mấy bài học lớn”  của Nguyễn
Hữu Thọ, viết trong Việt Nam trên con đường lớn bản hùng ca thế  kỷ XX, Nxb Lao Động,
Hà Nội , 2005.
- Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Chính phủ Cách mạng lâm thời  tại hội nghị Pa ri về
Việt Nam do Bà Nguyễn Thị Bình chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004 đã cho
chúng ta thấy được khá đầy đủ hoạt động ngoại giao của Mặt trận DTGPMNVN.
- Chung một bóng cờ (về Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam) do Trần
Bạch  Đằng chủ biên,  đây là cuốn hồi ký của những người tham gia Mặt trận trong thời
chống Mỹ ghi lại những hoạt động của Mặt trận khá toàn diện.
Sau khi  cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, nhiều tác phẩm viết về quân
sự  của các tướng lĩnh chỉ huy trên chiến trường miền Nam cũng cho ta nhiều sử liệu khá
phong phú như: Đại tướng Văn Tiến Dũng với Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xuất
bản năm 2005 và Thượng tướng Trần Văn Trà,  Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005 cho chúng ta biết được những họat động của Quân Giải
phóng trên các chiến trường miền Nam. Năm 1964, nhà xuất  bản Khoa học, Hà Nội xuất bản cuốn Ngọn cờ chiến thắng của
miền Nam anh hùng    của Nguyễn Công Bình, Cao văn Lượng và Bùi Hữu Khánh. Các tác
giả đã nêu hoàn cảnh ra đời của Mặt trận, tuyên ngôn và chương trình hành động của Mặt
trận, nêu những hoạt động của Mặt trận DTGPMNVN trong 4 năm đầu mới thành lập. 
Năm 1970, trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử, tác giả Hoàng Vĩ Nam viết bài “Sự ra đời
của Mặt trận DTGPMNVN”, nội dung chủ yếu là phân tích sự ra đời của Mặt trận Dân tộc
giải phóng là một tất yếu lịch sử.
Từ 1975 đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, có đề cập đến Mặt trận DTGPMNVN như: 
- Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( 1954-1975), tập 2,3,4 của Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội , 1995,1997,1999. 
   - Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Lê Mậu Hãn chủ biên, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1998.
-  Lịch sử Việt Nam (1954- 1965) và (1965-1975), Cao văn Lượng chủ biên, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội 1996, 2002.
- Tìm hiểu lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam qua các đại hội và hội nghị trung ương
(1930-2002)- PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc chủ biên, Nhà xuất bản Lao  Động, Hà Nội
2003;  
Tác phẩm viết về  Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam khá sớm và
nhiều thông tin nhất là Miền Nam giữ  vững thành đồng  của Giáo sư Trần Văn Giàu, 5 tập,
nhà xuất bản Khoa học xã hội, xuất bản các năm 1964, 1966, 1968, 1970, 1978. Đây là một
tác phẩm Sử  học, có nhiều tâm huyết của một người dân Nam Bộ, tác giả đã ghi chép khá
chi tiết, cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin về Mặt trận Dân tộc giải phóng.
Trong tập 1, chương V: Bão táp cách mạng bắt đầu, tác giả viết về tình hình miền
Nam trong thời gian 1959, 1960, chính sách đàn áp của Mỹ - Diệm, phong trào đấu tranh
của nhân dân miền Nam, chủ trương của Đảng Lao động Việt Nam và sự ra đời của Mặt
trận Dân tộc giải phóng.
Trong tập 2, chương III: Lực lượng cách mạng nhân dân, tác giả viết về hoạt động
của Mặt trận trong thời gian từ 1961 đến 1963, về vùng giải phóng, về Quân giải phóng, về
phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam từ 1961 đến 1963.
Trong tập 3, chương III: Mặt trận Dân tộc giải phóng – người đại diện chân chính
duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam, tác giả viết về vùng giải phóng, về  họat động của Mặt trận từ năm 1963 đến 1965, đặc biệt họat động đối ngoại của Mặt trận phát triển rất
mạnh trên toàn thế giới.
Trong tập 4, chương VII, Vùng giải phóng, Mặt trận Dân tộc giải phóng trong giai
đọan đầu của “chiến tranh cục bộ”, nội dung viết về họat động của Mặt trận, của vùng giải
phóng từ 1965-1967, về Đại hội bất thường của Mặt trận và Cương lĩnh của Mặt trận, về
hoạt động ngoại giao quốc tế của Mặt trận từ 1965- 1967.
Trong tập 5, chương III: Lực lượng nhân dân miền Nam  được phát  động  đến mức
cao trong năm 1968, nội dung tác giả viết về phong trào đấu tranh chính trị  của nhân dân
miền Nam trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968, về cuộc vận động bầu
cử chính quyền cách mạng ở miền Nam trong năm 1968.
Năm 1977, đề tài “Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960-1975)”
được Nguyễn Thanh Hải bảo vệ luận văn thạc sĩ  Lịch sử  tại trường  Đại học KHXH-NV
TP.HCM. Đây là đề tài cung cấp cho chúng ta khá nhiều tư liệu về Mặt trận, là đề tài nghiên
cứu hoạt động của Mặt trận trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ nhưng chưa đi sâu
vào các hoạt động của Mặt trận DTGPMNVN, nhất là hoạt động ngoại giao, các phong trào
đấu tranh chính trị của Mặt trận…  [26].
Năm 2006, Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử chính phủ đã xuất bản cuốn Biên niên lịch
sử chính phủ Việt Nam, tập 5, nội dung: Mặt trận DTGPMNVN và Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Nội dung cuốn sách cho chúng ta cái nhìn mới về
Mặt trận Dân tộc giải phóng, về vai trò của Mặt trận trên lĩnh vực nhà nước, “Ủy ban trung
ương Mặt trận là chính phủ tiền thân của chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam” [11] đại diện cho nhân dân miền Nam trong giai đoạn 1960-1969. 
Nhìn chung, các tác giả nêu trên đã quan tâm nghiên cứu đến Mặt trận Dân tộc giải
phóng. Tuy nhiên, các đề tài chỉ nghiên cứu một mặt hoạt động của Mặt trận, hoặc nghiên
cứu nhiều mặt nhưng chỉ trong một giai đoạn ngắn, hoặc coi Mặt trận là một bộ phận của
cách mạng miền Nam, các đề tài chưa chú trọng đến vai trò “Mặt trận là một chính phủ  ”ở
miền Nam.
Kế thừa những thành tựu của các người đi trước, luận văn dự định nghiên cứu  hoàn
cảnh ra  đời của Mặt trận, hoạt  động của Mặt trận trên các lĩnh vực chính trị, quân sự và
ngoại giao, đồng thời  hệ thống hoá những hoạt động của Mặt trận theo từng giai đoạn lịch
sử. Qua  đó rút ra vai trò của Mặt trận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ    cứu nước, giai
đoạn từ 1960 – 1968.
 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 
Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam là một tổ chức cách mạng có ảnh
hưởng rất lớn đến thành công của cuộc kháng chiến chống Mỹ  cứu nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng Lao động Việt Nam.
Hoạt động của Mặt trận DTGPMNVN  trên cả 3 mặt trận: chính trị, quân sự và ngoại
giao đã thực sự  hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ do Hội nghị trung ương
lần thứ 15 mở rộng và nghị quyết Đại hội Đảng lần III  của Đảng Lao động Việt Nam đã đề
ra.
Hơn 30 năm qua, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất và bước
vào xây dựng CNXH, sức mạnh của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã được vận dụng và phát
huy trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, hiện nay nhân dân ta đang thực
hiện công cuộc Đổi mới, những bài học về toàn dân đánh giặc, những kinh nghiệm lãnh đạo
phong trào quần chúng nhân dân kiên trì và sáng tạo chống phá “ấp chiến lược”, chống
“bình định ”, những họat động của Mặt trận trên cả ba lĩnh vực: quân sự, chính trị và ngoại
giao cần được tổng kết đầy đủ.
Vai trò của Mặt trận Dân tộc giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là rất to
lớn, Mặt trận  đã huy  động mọi tầng lớp nhân dân giải quyết bất cứ khó khăn gì  để hoàn
thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những kinh nghiệm vận động
quần chúng của Mặt trận Dân tộc giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là những bài
học rất bổ ích cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công cuộc Đổi mới của nước ta hiện
nay.
Nghiên cứu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ là một việc làm thiết thực để giảng dạy tốt phần Lịch sử Việt Nam hiện đại.
4. ĐỐI TƯỢ NG NGHIÊN CỨU
Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ    từ  1954 -1975, Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam có vai trò  rất quan trọng. Thực hiện chủ trương, sách lược của Đảng
Lao động Việt Nam, Mặt trận đã tổ chức và lãnh đạo nhân dân miền Nam trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. 
Nội dung đề tài xác định đội tượng của luận văn là các họat động của Mặt trận Dân
tộc giải phóng từ 1960 đến 1968. Thông qua các họat động của Mặt trận, rút ra được vai trò
của Mặt trận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là một Mặt trận dân tộc thống nhất
của một nước thuộc  địa chống chủ nghĩa  đế quốc, thực dân mới. Mặt trận  đã giương cao 
ngọn cờ độc lập dân tộc, dân chủ. Ra sức xây dựng và tăng cường Mặt trận dân tộc thống
nhất, bao gồm cả giai cấp tư sản dân tộc, tiểu tư sản thành thị, lấy liên minh công nông làm
nền tảng, tiến hành cuộc cách mạng chống đế quốc và tay sai, xây dựng nhà nước độc lập
theo chế độ dân tộc, dân chủ, tạo điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Xét về đối tượng thì Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng Việt Nam. Mặt trận là một bộ phận của Mặt trận dân tộc thống nhất,
thực hiện đường lối đại đoàn kết toàn dân của Đảng. Hoạt động của Mặt trận có nhiệm vụ
cùng với cả  nước hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ,  đánh đuổi  ngoại xâm và
thống nhất nước nhà.
Do điều kiện đặc biệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Mặt trận vừa làm nhiệm vụ là
một chính phủ (khi miền Nam chưa có chính phủ Cách mạng lâm thời), tổ chức và lãnh đạo
cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam, vừa làm nhiệm vụ  của mặt trận dân tộc thống
nhất là tập hợp, huy động tất cả các giai cấp, các tầng lớp, các tôn giáo, các dân tộc dưới sự
lãnh đạo của liên minh công nông để hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ.
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 
Vai trò của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ là rất phong phú, cần có một công trình chuyên khảo mới thực hiện được. Nội
dung đề tài luận văn giới hạn nghiên cứu Mặt trận từ 1960 đến 1968, trên phạm vi toàn miền
Nam. Đây là giai đọan Mỹ trực tiếp xâm lược Việt Nam với hai chiến lược “chiến tranh đặc
biệt” và “chiến tranh cục bộ”. Năm 1968 được coi là bước ngoặc của cách mạng miền Nam.
Sau Tết Mậu Thân 1968, Mỹ bắt đầu kế hoạch xuống thang chiến tranh, rút khỏi Việt Nam. 
Nghiên cứu vai trò của Mặt trận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, tác giả  tập trung
nghiên cứu các họat động sau đây:
Nghiên cứu các hoạt  động chính trị    của Mặt trận, quá trình xây dựng chính quyền,
xây dựng các đoàn thể trong Mặt trận, lãnh đạo các phong trào đấu tranh của quần chúng
trong sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân miền Nam. 
Hoạt động ngoại giao của Mặt trận trên bàn đàm phán, tham gia các diễn đàn và hội
nghị quốc tế, đấu tranh giành sự ủng hộ của nhân dân thế giới. Vai trò của các  đoàn thể  Mặt trận trong công cuộc xây dựng lực lượng Giải phóng
quân miền Nam, trong việc xây dựng nguồn lực cho lực lượng dân quân du kích ở các địa
phương, trong việc xây dựng các căn cứ địa cách mạng, trong thế trận chiến tranh nhân dân.
6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục đích nghiên cứu đề tài, tác giả đặt ra 3 nhiệm vụ cơ bản:
- Nghiên cứu vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam về chính
trị:  Sau Hiệp định Gơnevơ 1954, chính quyền và quân đội tập kết ra Bắc, đế quốc Mỹ đã
xây dựng một hệ thống chính quyền tay sai ở miền Nam. Mặt trận đã từng bước xây dựng
chính quyền miền Nam từ không  đến có, từ “uỷ ban nhân dân tự quản” trong các “Làng
rừng”, đến uỷ ban Giải phóng, từng bước xây dựng chính quyền cách mạng, tạo điều kiện
cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ra đời sau này. Ủy ban
Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng là chính phủ tiền thân của chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam [11]. Ủy ban Mặt trận các cấp đã xây dựng ủy ban
nhân dân cách mạng các cấp. Mặt trận đã tổ chức được các đoàn thể Thanh niên giải phóng,
Phụ  nữ giải phóng, Nông dân  giải phóng…,làm nòng cốt cho công cuộc vận  động giải
phóng miền Nam. Các phong trào đấu tranh chính trị  của nhân dân miền Nam dưới sự lãnh
đạo của Mặt trận đã thực sự góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ  cứu
nước.
-Nghiên cứu hoạt động ngoại giao của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam,  đặc biệt trong quan hệ ngoại giao quốc tế. Mặt trận họat  động từ “ngoại giao nhân
dân” đến “ngọai giao nhà nước”. Thực hiện chủ trương xây dựng ba tầng mặt trận của Đảng,
đại đoàn kết dân tộc trong nước, đoàn kết với nhân dân Đông Dương và nhân dân thế giới
cùng chống đế quốc Mỹ xâm lược.
-Nghiên cứu vai trò của Mặt trận DTGPMNVN trong quá trình xây dựng thế trận
chiến tranh nhân dân, động viên lực lượng tham gia Quân giải phóng miền Nam, tham gia
xây dựng lực lượng dân quân du kích địa phương, xây dựng các căn cứ địa cách mạng.
Từ những hoạt động thực tiễn của Mặt trận rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc
phát huy vai trò của Mặt trận trong việc xây dựng và bảo vệ  Tổ quốc trong điều kiện hiện
nay .
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả  sử  dụng những quan điểm cơ  bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử  làm cơ sở phương pháp luận cho đề tài . Hai phương pháp chủ  yếu sử  dụng để nghiên cứu và trình bày nội dung của đề tài là
phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Phương pháp lịch sử   được sử  dụng để nghiên
cứu các hoạt  động của Mặt trận thông qua tư liệu, báo chí, các văn kiện, nghị quyết của
Đảng, của Mặt trận, thông qua hồi ký các nhân chứng lịch sử. Phương pháp logic được sử
dụng để  nghiên cứu vai trò của Mặt trận đối với  cuộc chiến tranh chống Mỹ, đối với cách
mạng dân tộc dân chủ  ở miền Nam.
Bên cạnh hai phương pháp trên, phương pháp phân tích logic biện chứng, phương pháp
so sánh cũng được sử dụng.
Để có cái nhìn toàn diện về các họat động của Mặt trận Dân tộc giải phóng, luận văn
cố  gắng trình bày các hoạt động của Mặt trận theo hai giai đoạn lịch sử: giai đoạn chống
“chiến tranh đặc biệt” và giai đoạn chống “chiến tranh cục bộ”. Trong mỗi giai đoạn, tách
riêng các lĩnh vực chính trị, quân sự và ngoại giao để có điều kiện nghiên cứu sâu

CHƯƠNG 1MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAMRA ĐỜI


Máy chém thời Ngô Đình Diệm

1.1.HOÀN CẢNH QUỐC TẾ

1.1.1.Chiến tranh lạnh và âm mưu của Mỹ

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình quan hệ quốc tế có nhiều thay đổi. Trên thế giới hình thành một trật tự thế giới mới: “Trật tự hai cực ”, thế giới chia thành hai phe. Tất cả các nước trên thế giới dù lớn hay nhỏ đều bị cuốn vào cuộc “chiến tranh lạnh”.
Tháng 3- 1947, Tổng thống Mỹ, Truman đã đọc diễn văn trước Quốc hội Mỹ, chính thức đưa ra “ Chủ thuyết Truman”. Theo Truman thì các nước Đông Âu “vừa mới bị cộng sản thôn tính” và những đe doạ tương tự đang diễn ra trên nhiều nước khác ở châu Âu, ở Italia, ở Pháp và cả ở nước Đức nữa. Vì vậy, Mỹ phải đứng ra “đảm nhiệm lãnh đạo thế giới tự do ”, phải “giúp đỡ” cho các dân tộc trên thế giới chống lại “sự đe doạ ” của chủ nghĩa cộng sản, chống lại  sự “bành trướng” của nước Liên Xô, giúp đỡ bằng mọi biện pháp kinh tế, quân sự. Tổng thống Mỹ Truman đã phát động cuộc “chiến tranh lạnh” chống Liên Xô và các nước XHCN.
Đầu những năm 1950, do còn độc quyền nắm giữ ưu thế vũ khí hạt nhân, với tham vọng bá chủ thế giới, đế quốc Mỹ cho ra đời chiến lược toàn cầu “Trả đủa ồ ạt “. Mục tiêu của chiến lược là : “Dùng vũ khí hạt nhân làm chiếc ô che chắn để bảo vệ chế độ tay sai của Mỹ, sẵn sàng đánh trả ồ ạt thẳng vào các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa, trước hết là Liên Xô  mà Mỹ  coi là nguồn gốc của phong trào cách mạng và chiến tranh cách mạng trên thế giới ”[15]. Chổ dựa cơ bản cho việc thực hiện mục tiêu chiến lược trên được xác định là : “lực lượng quân sự Mỹ, chủ yếu là lực lượng hạt nhân chiến lược, và hệ thống liên minh quân sự  của Mỹ với các nước đồng minh, đặc biệt là tuyến căn cứ tiền tiêu ở xa nước Mỹ ” [15].
Với 800 căn cứ quân sự được thành lập ở 35 nước và khu vực hải ngoại, Mỹ hy vọng tạo được những bàn đạp tiếp cận để bao vây, tiến công Liên Xô và các nước XHCN khác. Đồng thời, với hơn 2 tỷ đôla viện trợ kinh tế  và 3 tỷ đôla viện trợ quân sự cho các nước đồng minh hàng năm, Mỹ không chỉ muốn duy trì, mở rộng sự hiện diện các căn cứ quân sự của mình ở nước ngoài, mà còn nhằm “cột chặt ” chính phủ các nước nhận viện trợ vào cổ xe chạy đua vũ trang, tiến hành chiến tranh xâm lược của Mỹ.
Mặc dù vậy, thực tế tình hình trên thế giới lại diễn ra trái với toan tính của Mỹ. Tháng 10 -1949 cách mạng Trung Quốc thành công. Tháng 7- 1953, Mỹ phải chấp nhận ký hiệp định chấm dứt chiến tranh Triều Tiên. Tháng 7- 1958, cách mạng Irắc bùng nổ và tuyên bố rút khỏi khối xâm lược Batđa, gạt bỏ chủ  nghĩa Eisenhower. Tháng 1- 1959, cách mạng Cu Ba thắng lợi. Năm 1960, 17 nước châu Phi giành được độc lập ở những mức độ khác nhau. Cũng trong khoảng thời gian nầy, so sánh lực lượng giữa Mỹ và Liên Xô cũng dần dần thay đổi. Liên Xô không những đã chế tạo được một số máy bay ném bom chiến lược, máy bay chiến đấu đánh chặn phản lực tối tân, nhiều loại tên lửa phòng không hiện đại, mà còn sản xuất được các loại tên lửa tầm gần, tầm trung. Đặc biệt, tháng 10-1957, phóng thành công vệ tinh nhân tạo, một tháng sau đó bắn thử nghiệm thành công tên lửa vượt  đại châu. Tất cả những sự kiện trên đã “đánh đòn choáng váng, làm chấn động, hoang mang chính giới Mỹ ” [28].

1.1.2. Âm mưu của Mỹ ở Đông Nam Á

Trong những năm 1953 – 1954 cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam bước sang giai đoạn phản công ở khắp các chiến trường, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ, Pháp càng đánh càng thua. Vì thế, Pháp buộc phải tiến hành thương lượng.
Do đề nghị của Liên Xô, Hội nghị Giơnevơ về Triều Tiên và lập lại hoà bình ở Đông Dương đã được triệu tập ngày 26-4-1954. Mỹ buộc phải đến dự hội nghị nhưng từ đầu đến cuối đã cố tình tìm cách phá hoại hội nghị.
Sau khi thất bại trong chiến tranh Triều Tiên, Mỹ đã tăng cường can thiệp vào Đông Dương. Âm mưu của Mỹ nhằm dần dần hất cẳng Pháp, biến các nước Đông Dương thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, đàn áp các phong trào dân tộc dân chủ của nhân dân các nước Đông Dương, lấy Đông Dương làm chổ dựa để khống chế các nước Đông Nam Á và làm bàn đạp để tấn công Trung Quốc. Mặt khác, Mỹ còn tìm cách kéo dài và mở rộng chiến tranh để thay thế cho chiến tranh Triều Tiên và giải quyết nguy cơ khủng hoảng đang đe doạ nền kinh tế Mỹ.
Khi quân đội Pháp bị xiết chặt vòng vây ở Điện Biên Phủ và gặp rất nhiều khó khăn thì Mỹ càng tích cực lợi dụng thời cơ xông vào để nắm lấy Đông Dương. Mỹ đã dùng áp lực buộc pháp phải “trao trả độc lập” cho ba nước Đông Dương để Mỹ trực tiếp nắm lấy các nước nầy mà không qua Pháp. Mỹ đã tích cực chuẩn bị lực lượng hải quân và không quân trực tiếp can thiệp vào Đông Dương.
Khi quân đội Pháp gần bị thất thủ ở Điện Biên Phủ, Mỹ càng tích cực hơn nữa để quốc tế hoá chiến tranh Đông Dương. Mỹ hứa với Pháp sẽ sử dụng các lực lượng không quân Mỹ để “cứu nguy ”cho Điện Biên Phủ, thậm chí còn có ý định dùng bom nguyên tử chiến thuật trong những ngày cuối cùng của chiến dịch Điện Biên Phủ.
Mặt khác, tại Hội nghị Giơnevơ, Mỹ đã tìm mọi cách phá hoại. Ngày 16-5, Ngoại trưởng Mỹ Đa- lét bỏ hội nghị ra về. Tổng thống Mỹ Eisenhower đã chỉ thị cho Bơđin Smit tích cực phá hoại để nhanh chóng chấm dứt hội đàm ở Giơnevơ.
Hội nghị Giơnevơ đã tiến triển ngoài ý muốn của Mỹ. Ngày 7-5-1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc với thắng lợi của quân đội Việt Nam. Ngày 12-6-1954, chính phủ Lanien Biđô bị lật đổ và phái chủ hoà do Măng đét Phrăngxơ cầm đầu đứng ra lập chính phủ mới. Ngày 21-7-1954, Hiệp nghị Giơnevơ về vấn đề Đông Dương được ký kết ( Mỹ ngoan cố không chịu ký ). Hội nghị Giơnevơ đã kết thúc với sự thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam và nhân dân Đông Dương. Với thắng lợi nầy, miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng và bắt đầu tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà sau nầy.
Một ngày sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết, Tổng thống Mỹ  Eisenhower tuyên bố Hoa Kỳ không bị ràng buộc vào những quyết định của Hội nghị Giơnevơ.
Đối với Việt Nam, từ rất sớm Mỹ đã nhận rõ đây là một vị trí quan trọng, là tiền đồn của phe XHCN, đồng thời là  “nền tảng của thế giới tự do ở Đông Nam Á’”. Theo học thuyết Domino, nếu “làn sóng đỏ “ tràn vào Việt Nam, quân cờ đầu tiên sụp đổ, thì các nước Đông Nam Á  đều ngã về phe của Liên Xô, vì thế Mỹ không thể bỏ rơi khu vực nầy.
Sau khi đã tăng cường viện trợ quân sự cho thực dân Pháp tới  2,6 tỷ đôla (1950 -1954 ), nhưng không ngăn được sự thất bại của quân đội Pháp ở Đông Dương, Mỹ đã chuyển hướng xác định: Điều cơ bản đầu tiên là vạch ra một đường ranh giới mà cộng sản sẽ không vượt qua, rồi sau đó giữ vững vùng nầy và đấu tranh bằng cách viện trợ kinh tế và xây dựng một lực lượng quân sự mạnh, từng bước thiết lập chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam.
Tháng 8/1954, Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ đưa ra ba chính sách lớn:
“Kinh tế : Đẩy Pháp ra khỏi các đòn bẩy chỉ huy, thống nhất chương trình cải cách ruộng đất và định cư dân di cư, cộng tác với Pháp nhưng “khuyến khích ” cho chuyển giao chức năng kiểm soát về tài chính, hành chính, kinh tế cho người Việt Nam. Giao viện trợ trực tiếp cho người Việt Nam không thông qua Pháp.
Quân sự: Chỉ cộng tác với Pháp ở mức cần thiết để xây dựng lại lực lượng quân sự bản xứ có thể bảo đảm an ninh nội bộ.
Chính trị: Pháp phải trao quyền độc lập hoàn toàn cho Nam Việt Nam ( kể cả quyền rút khỏi Liên hiệp Pháp ), và phải ủng hộ một chính phủ bản xứ mạnh. Diệm phải mở rộng cơ sở chính phủ, bầu ra quốc hội, thảo hiến pháp và phế truất Bảo Đại một cách hợp pháp, cần có sự ủng hộ của Pháp trong các chính sách nầy…
Ngày 8/9/1954, Mỹ lôi kéo các nước đồng minh Anh, Pháp, Oxtrâylia, Thái Lan, Philippin và Pakistan ký Hiệp ước Manila ( Philippin ) thành lập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) đặt Việt Nam, Lào, Campuchia dưới sự bảo trợ của tổ chức nầy. Nói là Đông Nam Á nhưng chỉ có hai nước Thái Lan và Philippin là thuộc Đông Nam Á. Thực chất SEATO là liên minh chống cộng khu vực nằm trong hệ thống các tổ  chức quân sự của Mỹ trong thời kỳ thế giới phân chia thành hai cực, nhằm làm chỗ dựa cho Mỹ xâm lược Việt Nam.
Ngày 24/10/1954,  Eisenhower gửi thư cho Ngô Đình Diệm tuyên bố Mỹ viện trợ kinh tế và quân sự trực tiếp, không đòi hỏi Việt Nam phải có những hành động đáp lại sự viện trợ nầy [29].
Ngày 8/11/1954, tướng J.Lewton Collins đến Việt Nam. Ông được giao quyền lực rộng để điều phối toàn bộ chương trình của Mỹ. Sau đó ngày 17/11/1954, ông được cử làm đại sứ ở Sài Gòn.
Tướng Collins đề ra kế hoạch sáu điểm [75, tr.53] nhằm thay chân Pháp, phá hiệp định Giơnevơ và biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ:
- Bảo trợ chính quyền Diệm, viện trợ trực tiếp cho chính phủ Sài Gòn.
- Xây dựng “Quân đội quốc gia Việt Nam ”gồm 15 vạn do Mỹ huấn luyện và trang bị.
- Bầu cử quốc hội, hợp pháp hoá chính quyền Sài Gòn.
- Định cư cho số Công giáo miền Bắc di cư và vạch kế hoạch cải cách điền địa.
- Thay đổi chế độ thuế khoá, dành ưu tiên cho hàng Mỹ vào miền Nam.
- Đào tạo cán bộ hành chính.
Pháp muốn duy trì ảnh hưởng của mình ở Việt Nam và Đông Dương thì cần phải có sự viện trợ của Mỹ, trong khi Mỹ lại có tham vọng là thay thế Pháp, nắm lấy Nam Việt Nam với chiêu bài ngăn chặn phong trào cộng sản phát triển xuống cả Đông Nam Á. Trong khi đó, tình thế nước Pháp ở chính quốc nền kinh tế kiệt quệ , chính trị rối ren, nội bộ chia rẽ, lại phải đối phó với cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân Angiêry. Chính phủ Pháp đành phải nhượng bộ Mỹ, rút quân khỏi Việt Nam .
Ngày 13/12/1954  tướng Ê-ly ( Paul Ely ), tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp thoả thuận với  tướng Collins trao lại quyền tự trị hoàn toàn cho “Quân đội quốc gia ” vào tháng 5/1955 để Mỹ huấn luyện và xây dựng lại theo phương hướng của Mỹ. Cùng thời gian đó, Pháp ký với Ngô Đình Diệm  trao trả chủ quyền hoàn toàn cho Diệm. Từ đó, Diệm tuyên bố xoá bỏ luôn các hiệp định về kinh tế, tài chính đã ký với Pháp trước đó, buộc Pháp phải giao ngân hàng hối đoái và tiền tệ cho Diệm, từ bỏ mọi đặc quyền ưu tiên, chuyển giao khu vực đồng Phơ- răng sang đồng Đô-la .
Ngày 2/6/1955, Mỹ đã cho triển khai Phái bộ trang bị và cung cấp TERM (Temporary equipment recovery mission) tại miền Nam khi Pháp chưa rút hết quân.
Cuối tháng 4/1956, đơn vị cuối cùng của quân đội Pháp rút khỏi miền Nam Việt Nam .
Ngày 14/05/1956, Pháp gởi cho hai đồng chủ tịch Hội nghị Giơnevơ là Liên Xô và Anh thông báo quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam và kể từ ngày 24/08/1956 nước Pháp không còn trách nhiệm thực hiện Hiệp định Giơnevơ nữa. Pháp đã rũ bỏ trách nhiệm của một bên phải thực hiện các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương [29, tr.295-296].
Phái bộ huấn luyện quân sự hỗn hợp về danh nghĩa của Pháp-Mỹ (TRIM ) trước đây chuyển thành Phái bộ huấn luyện tác chiến lục quân CATO ( Combat army training organisation ) gồm toàn người Mỹ. Cả hai tổ chức CATO và TERM đều đặt dưới quyền chỉ huy của Phái đoàn Cố vấn và viện trợ quân sự  MAAG (Military Assistance and Advisory Group ). Từ đây MAAG  chi phối mọi hoạt động quân sự của ngụy. Về sau MAAG đổi thành  Bộ chỉ huy viện trợ quân sự ở Việt Nam MACV ( Military Assistance Command in Vietnam ) [70].

1.2.HOÀN CẢNH TRONG NƯỚC

1.2.1. Miền Bắc sau Hiệp định Giơnevơ

Sau khi Liên hiệp Pháp rút khỏi Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng và ta hoàn thành chuyển quân tập kết, miền Bắc Việt Nam với thủ đô là Hà Nội thuộc quyền quản lý của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Miền Bắc trở thành hậu phương cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở tiền tuyền miền Nam. Không có hậu phương vững mạnh thì tiền tuyến không thể chiến thắng kẻ thù. Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch ngay từ đầu đã xác định miền Bắc là nền tảng của cuộc đấu tranh của cả nước. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 ( khoá II) đã chỉ rõ:”điều cốt yếu là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân miền Nam”. Vì vậy, miền Bắc đã tiến hành nhiều kế hoạch củng cố và xây dựng kinh tế, quốc phòng [75].
- Hoàn thành cải cách ruộng đất- Khôi phục kinh tế (1955- 1957).
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 mở rộng đã quyết nghị: “Để  củng cố miền Bắc, trước hết cần hoàn thành cải cách ruộng đất… vì có đẩy mạnh cải cách ruộng đất mới đoàn kết được đại đa số nhân dân, củng cố được liên minh công nông, củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, mới có thể khôi phục kinh tế một cách nhanh chóng và có thêm điều kiện tăng cường quân đội nhân dân, củng cố quốc phòng…”
Công cuộc cải cách ruộng đất được tiến hành 5 đợt, tiến hành trong hơn 3.000 xã thuộc 22 tỉnh. Hàng vạn cán bộ, bộ đội được huy động về nông thôn tham gia các đoàn, đội vận động quần chúng tiến hành cải cách ruộng đất.
Nhà nước tập trung nguồn vốn, huy động lực lượng khôi phục đê điều, sửa chữa và làm mới các công trình thuỷ lợi, tu bổ hơn 3.000 km đê diều bị phá hoại trong chiến tranh, xây dựng một số công trình tưới tiêu, đào mương,  khơi ngòi, khai hoang, phục hoá .
Được sự khuyến khích, giúp đỡ của nhà nước và nhờ sức sản xuất được giải phóng khỏi quan hệ sản xuất cũ, nông nghiệp miền Bắc trong 3 năm ( 1955- 1957) đã được khôi phục và có bước phát triển về cả diện tích và  năng suất, cả trồng trọt, chăn nuôi và nghề phụ. Sau ba năm, nông thôn miền Bắc đã được hồi sinh, khởi sắc.
Về công nghiệp, hầu hết các nhà máy ở miền Bắc đều bị địch phá hủy hoặc mang đi. Đảng và nhà nước đã nhanh chóng khôi phục các cơ sở sản xuất, tập trung xây dựng một số ngành phục vụ dân sinh như sản xuất vải, giấy, xà phòng…Xây dựng và mở rộng các cơ sở sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu thiết yếu đời sống của nhân dân như nhà máy chè Phú Thọ, diêm Thống Nhất, thuốc lá Thăng Long…Các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc đã tích cực giúp đỡ vốn, kĩ thuật, chuyên gia.
Kết quả, có nhiều nhà máy, xí nghiệp được xây mới, tổng sản lượng công- nông nghiệp 1,5% năm 1954 lên 24 % năm 1957. Sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp năm 1957 đạt mức năm 1939.
- Cải tạo và phát triển kinh tế- văn hoá (1958- 1960).
Tháng 4-1958 trong kỳ họp Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: miền Bắc nước ta từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang cách mạng XHCN. Nhiệm vụ trước mắt của toàn dân ta là ra sức xây dựng và củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên xây dựng CNXH, đồng thời đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, nhằm xây dựng nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Tháng 11-1958, Hội nghị lần thứ  14 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) quyết định động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên miền Bắc tiến hành 3 năm cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế, phát triển văn hoá (1958- 1960) với 3 nhiệm vụ cơ bản:
Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy sản xuất nông nghiệp làm khâu chính, chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề lương thực, đồng thời rất chú trọng sản xuất công nghiệp, hết sức tăng thêm các tư liệu sản xuất và giải quyết phần lớn hàng tiêu dùng.
Ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh theo CNXH, khâu chính là đẩy mạnh hợp tác hoá nông nghiệp, đồng thời tích cực phát triển và củng cố thành phần kinh tế quốc doanh. Trên cơ sở sản xuất phát triển, nâng cao thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, nhất là nhân dân lao động và tăng cường củng cố quốc phòng.
Để cải tạo phát triển nông nghiệp, Đảng và nhà nước chủ trương tiến hành cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp, coi đó là con đường đưa nông dân miền Bắc đến ấm no hạnh phúc. Nội dung cuộc vận động gồm ba mặt: cải tạo quan hệ sản xuất, cải tiến kỹ thuật, giáo dục tư tưởng. Nguyên tắc xây dựng hợp tác xã là : tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ.
Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách để hỗ trợ cho nông dân và tạo điều kiện cho hợp tác xã phát huy tính hơn hẳn so với sản xuất cá thể như: chính sách tín dụng góp vốn cho hợp tác xã phát triển sản xuất, chính sách mậu dịch ưu tiên mua hàng, bán hàng cho hợp tác xã, chính sách thuế nông nghiệp đối với hợp tác xã, chính sách khuyến khích hợp tác xã phát triển nghề phụ …
Với sự nổ lực của toàn Đảng, toàn dân việc cải tạo nông nghiệp tiến hành thuận lợi. Đến tháng 11-1960, hợp tác xã hình thành hầu khắp nông thôn miền Bắc với 41.401 hợp tác xã  chiếm 86% tổng số hộ và 76% diện tích đất canh tác .
Bên cạnh hợp tác xã, nhà nước tiếp thu các đồn điền của thực dân Pháp và những Việt gian bỏ lại, thành lập 15 nông trường quốc doanh, quân đội thực hiện nhiệm vụ khai hoang thành lập được 29 nông trường quân đội, cán bộ miền Nam tập kết tổ chức 10 liên đoàn sản xuất nông nghiệp. Phần lớn các nông trường phân bố trên những khu vực kết hợp được cả kinh tế và quốc phòng.
Cuối năm 1960, hợp tác hoá căn bản hoàn thành tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp phát triển, tổng sản lượng lương thực đạt mức 6 triệu tấn, giá trị sản lượng nông nghiệp hàng năm tăng bình quân 5,6%,  góp phần vào công cuộc kiến thiết miền Bắc và sẵn sàng chi viện nhân tài, vật lực cho sự nghiệp giải phóng miền Nam.
Sau 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế, nền công nghiệp non trẻ ở miền Bắc đã có bước phát triển về nhiều mặt. Giá trị sản lượng công nghiệp trong tổng giá trị kinh tế quốc dân tăng từ 31,4% năm 1957 lên 41% năm 1960, tỷ trọng công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất 23,5% tăng lên 32,5%, công nghiệp hiện đại từ 12,8% lên 23,7%. Đặc biệt thời kỳ nầy công nghiệp quốc doanh tăng mạnh, từ 67% lên 90%    ( không kể tiểu thủ công nghiệp) thực sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, cung cấp cho đất nước một khối lượng sản phẩm quan trọng, trong đó có những sản phẩm trước đây phải nhập từ nước ngoài với giá đắt.
Hoạt động tài chính, ngân hàng, ngoại thương do nhà nước độc quyền quản lý, điều hành đã phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng miền Bắc.
Hệ thống giáo dục hình thành trong ba năm khôi phục kinh tế, đến đây được củng cố, phát triển, bao gồm các nhà trường phổ thông (3 cấp), các trường bổ túc công nông, các trường đại học, trung học chuyên nghiệp đưa tổng số trường đại học  miền Bắc lên 8 trường với 50 ngành học.
Trên nền tảng của những biến đổi trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, miền Bắc tập trung xây dựng nền văn hoá mới, con người mới. Nền văn hoá kết hợp giữa truyền thống và hiện đại đang từng bước hình thành. Đó là nền văn hoá yêu nước, yêu nhân dân lao động, yêu đồng chí, đồng bào, yêu thương miền Nam đang chịu nhiều thương đau, lòng căm thù giặc.
Mạng lưới y tế bảo vệ sức khoẻ nhân dân phát triển nhanh chóng, hình thành rộng khắp. Đến năm 1960, toàn miền Bắc đã có 263 bệnh viện, 3.000 trạm y tế, nhà hộ sinh. Các dịch bệnh được tích cực phòng trừ, phong trào thể dục thể thao phát triển mạnh trong các trường học, các đơn vị quân đội góp phần nâng cao sức khoẻ và ý thức quốc phòng trong nhân dân.
- Củng cố chính quyền- Xây dựng quân đội.
Để củng cố chính quyền, việc nâng cao sức mạnh và khả năng lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định. Đảng đặc biệt coi trọng việc xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức. Về tư tưởng thời kỳ nầy Đảng coi trọng công tác lý luận. Về tổ chức coi trọng việc chỉnh đốn tổ chức Đảng, kiện toàn bộ máy lãnh đạo của Đảng, tích cực sửa đổi lề lối làm việc và phương pháp lãnh đạo, đi sát thực tế, gắn bó mật thiết với nhân dân, đẩy mạnh phê bình và tự phê bình, mở rộng dân chủ nội bộ. Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương Đảng ( khoá II ) chủ trương: “Mạnh dạn cất nhắc cán bộ, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ công, nông một cách thường xuyên trong công tác hàng ngày; lựa chọn cán bộ cho thích hợp với từng công tác, tập trung lực lượng, bố trí cán bộ để đảm bảo thực hiện chu đáo những công tác chính trị. Thực hiện về thống nhất quản lý cán bộ. Cần lập Ban Kiểm tra Trung ương, và ngành nào cũng phải tổ chức việc kiểm tra của mình để kiểm tra một cách có trọng điểm việc thi hành những chính sách của Đảng và chính phủ”.
Đảng lựa chọn và bổ nhiệm các Đảng viên vào các chức vụ quan trọng của bộ máy Nhà nước và các cấp chính quyền. Đảng thông qua các tổ chức đảng đoàn ở Hội đồng Chính phủ và các cơ quan, bộ máy khác của Nhà nước, của Mặt trận để thực hiện sự lãnh đạo của mình. Chuyển sang thời bình, đòi hỏi đội ngũ cán bộ của Đảng phải nâng cao năng lực lãnh đạo về kinh tế. Do đó các cấp uỷ viên các cấp và cán bộ của Đảng được học tập chính sách kinh tế, tài chính và nghiệp vụ ở trong và ngoài nước.
Các Uỷ ban kháng chiến- hành chính trong kháng chiến từ tháng 9-1954 được đổi thành Uỷ ban hành chính. Hệ thống chính quyền địa phương các cấp được chỉnh đốn một bước trong những năm đầu hoà bình lập lại. Từ tháng 7-1957, các địa phương ở miền Bắc tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và sau đó cử ra Uỷ ban hành chính các cấp.
Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc họp từ ngày 5 đến ngày 15-9-1955 tại Hà Nội quyết định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đại hội đã bầu ra Uỷ ban Trung ương do đồng chí Tôn Đức Thắng làm chủ tịch, Đại hội thông qua Tuyên ngôn và Cương lĩnh Mặt trận thể hiện nguyện vọng, ý chí của mọi người Việt Nam yêu nước là đại đoàn kết để hoàn thành sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Ngày 1-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thi hành Hiến pháp mới. Tháng 5-1960, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá II được tiến hành trên toàn miền Bắc, các đại biểu miền Nam trong Quốc hội khoá I được lưu nhiệm.
Kỳ họp Quốc hội khoá II đã bầu Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước, Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao…
Về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9-1954 đã chỉ rõ: Quân đội nhân dân là cột trụ chủ yếu nhất, chắc chắn nhất để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình. Vì vậy phải xây dựng Quân đội nhân dân thành một đội quân cách mạng, chính quy, tương đối hiện đại.
Những năm kháng chiến, bộ đội ta phân tán, chiến đấu trên các chiến trường nên biên chế, tổ chức, trang bị, điều lệnh của bộ đội thiếu thống nhất. Vì vậy, trong khi toàn Đảng toàn dân ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, từng bước ổn định tình hình, giúp nhân dân địa phương tháo gỡ bom mìn, phục hồi sản xuất, quân đội gấp rút chấn chỉnh mọi mặt.
Các đại đoàn trong kháng chiến đổi thành các sư đoàn bộ binh. Bộ đội miền Nam tập kết, bộ đội tình nguyện ở Lào và Campuchia và một số đơn vị chủ lực khu, bộ đội địa phương tỉnh, huyện trên miền Bắc biên chế thành 8 sư đoàn và 5 trung đoàn bộ binh. Lực lượng pháo binh biên chế thành 3 sư đoàn, lực lượng phòng không biên chế thành một sư đoàn cao xạ. Các đơn vị chủ lực địa phương ven biển xây dựng thành 5 trung đoàn, 1 tiểu đoàn phòng thủ ven biển. Bộ đội địa phương các tỉnh biên giới chuyển thành các tiểu đoàn bộ đội biên phòng. Bộ đội địa phương các tỉnh Quảng Bình, Hà Tỉnh, Ninh Bình,  Bắc Giang, Thái Nguyên,Tuyên Quang, Hải Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu biên chế thành 10 tiểu đoàn. 7 đại đội và 15 trung đội làm nhiệm vụ bảo vệ nội địa.
Tháng 3-1958, Bộ Quốc phòng quyết định thống nhất tổ chức biên chế, trang bị của lục quân và các đơn vị không quân, hải quân.
Bên cạnh bộ binh, các binh chủng pháo binh, phòng không, công binh, thông tin, vận tải, phòng hoá được biên chế thành các lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội.
Ngày 31-12-1959, Quốc hội chính thức thông qua  Luật Nghĩa vụ quân sự thay cho chế độ tòng quân tình nguyện trước đó.
Như vậy, trong gần sáu năm xây dựng, khắc phục những khó khăn, nhân dân miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã khôi phục kinh tế, cải tạo XHCN đối với công nghiệp và nông nghiệp đưa miền Bắc phát triển một bước quan trọng. Kinh tế ổn định, đời sống văn hoá được nâng cao, Quân đội nhân dân được củng cố vững chắc. Miền Bắc đã trở thành căn cứ địa vững mạnh của cả nước, chổ dựa vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng ở miền Nam [27],[40],[48].

1.2.2.Chính sách áp bức của chế độ Mỹ- Diệm

Ngày 7-7-1954, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm về nước  và buộc Pháp đặt làm Thủ tướng thay cho Bửu Lộc vốn là tay sai của Pháp.
Thực hiện Hiệp định Giơnevơ, quân đội và chính quyền ta chuyển quân ra phía Bắc vĩ tuyến 17, lực lượng Liên hiệp Pháp chuyển vào phía Nam vĩ tuyến 17. Lợi dụng cơ hội nầy Mỹ tiến hành thay chân Pháp, biến miền Nam Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Tháng 7/1955 theo sự chỉ huy của Mỹ, Bộ Quốc phòng ngụy đề ra kế hoạch xây dựng một đội quân chính quy 155.000 người và đội quân bảo an đoàn 52.000 người .
Về quân sự huấn luyện cho “Quân đội quốc gia ”, Mỹ thực hiện phương châm “nhanh chóng, toàn diện, chú trọng thực hành ”. Về chính trị tâm lý từng đợt mở chiến dịch học tập “ bài Pháp, chống Cộng ”, đề cao danh hiệu “Quân đội quốc gia ”, mặc quân phục kiểu Mỹ, dùng tiếng Việt, tiếng Mỹ thay tiếng Pháp. Khi bước vào cải tổ Mỹ cho đề bạt và tăng lương hàng loạt, phong 4 cấp tướng, 20 đại tá, 60 trung tá, 5.600 sĩ quan và 27.000 hạ sĩ quan, đưa sĩ quan đi đào tạo ở Mỹ [40].
Đến tháng 6/1956 Mỹ hoàn tất việc xây dựng :
Lục quân : có 4 sư đoàn dã chiến, 6 sư đoàn khinh chiến, 13 trung đoàn địa phương, 5 trung đoàn giáo phái, 1 trung đoàn dù. Pháo binh có 7 tiểu đoàn và 9 đại đội. Cơ giới có 5 trung đoàn. Công binh có 6 tiểu đoàn, 14 đại đội. Vận tãi có 12 đại đội .
Không quân: máy bay chiến đấu có 100 chiếc, 132 chiếc dự trữ. Xây dựng 4 sân bay lớn ở Phú Bài, Đà Nẵng, Nha Trang, Tân Sơn Nhất với hàng trăm máy bay chiến đấu, máy bay lên thẳng, máy bay chuyên chở, xây dựng 58 sân bay nhỏ  rãi rác ở khắp nơi.
Lực lượng hải quân có 121  tàu chiến trên sông, 25 tàu chiến trên biển, 96 tàu của lực lượng ở các căn cứ .
Lực lượng Bảo an đoàn 60.000 tên, mỗi quận có 1 đến 2 đại đội. Lực lượng dân vệ và phòng vệ dân sự  được trang bị súng trường và lựu đạn, lực lượng công an, cảnh sát có mặt khắp nơi. Tổng cộng lực lượng bán vũ trang của Diệm lên đến trên dưới 30 vạn [40].
Ngày 23-10-1955, Diệm tổ chức cuộc “trưng cầu dân ý ” dưới lưỡi lê của quân đội để công dân lựa chọn hoặc Bảo Đại hoặc Ngô Đình Diệm là người đứng đầu quốc gia. Mặc dù đa số công dân tẩy chay nhưng nhờ gian lận và người tổ chức trưng cầu dân ý ở các địa phương là người của Diệm nên kết quả là 98% số phiếu ủng hộ Ngô Đình Diệm, Bảo Đại bị phế truất, Ngô Đình Diệm tự  xưng là Tổng thống Việt Nam cộng hoà.
Ngày 4-3-1956 Ngô Đình Diệm tổ chức tuyển cử bầu ra quốc hội. Tháng 10-1956  Ngô Đình Diệm ban hành hiến pháp của “nền Đệ nhất Cộng hoà”. Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ lập tức công nhận chính quyền Ngô Đình Diệm là “hợp hiến, hợp pháp”.
Từ 1955 đến 1956, Diệm dùng “Quân lực Việt Nam cộng hoà” diệt các lực lượng vũ trang giáo phái do Pháp xây dựng  trước đây. Đến tháng 6-1956, lực lượng Cao Đài, Hoà Hảo, Bình Xuyên lần lượt bị tiêu diệt.
Dưới sự giúp đỡ của Mỹ, Ngô Đình Diệm thực hiện chủ trương “Đả thực, bài phong, diệt cộng”, lập ra đảng cầm quyền, thành lập “Mặt trận quốc gia” làm cơ sở cho chính quyền của chúng.
Đến đây, bộ máy, công cụ quân sự, chính trị cho một chính quyền tay sai để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới Mỹ nhằm xâm lược miền Nam Việt Nam coi như đã hoàn chỉnh, vì chủ nghĩa thực dân mới cai trị  “thông qua một chính quyền tay sai đại biểu quyền lợi cho giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản khoác áo “dân tộc dân chủ ” giả hiệu ” [12, tr.18].
Để củng cố chế độ độc tài gia đình trị, trong quá trình thực hiện những chủ trương của Mỹ, Ngô Đình Diệm đã thực hiện nhiều “quốc sách” nhằm mục đích chống lại cách mạng, chống lại nhân dân, thực hiện âm mưu của Mỹ chia cắt lâu dài đất nước ta:
- Quốc sách “tố cộng , diệt cộng” [36], [40].
Từ tháng 5/ 1955 khi quân đội ta hoàn thành tập kết ra miền Bắc, Mỹ - Diệm công bố “tố cộng ,diệt cộng là quốc sách ”, phát động “chiến dịch tố cộng ” trên quy mô rộng lớn toàn miền Nam.
Diệm thành lập “Hội đồng nhân dân chỉ đạo tố cộng ” gồm tất cả các bộ trưởng  trong chính phủ  do Diệm làm chủ tịch danh dự  và Trần Chánh Thành làm chủ tịch hội đồng. Hội đồng chỉ định ra Uỷ ban chỉ đạo tố cộng trung ương, có ban thường trực  gồm đại biểu các bộ Thông tin, Công an, Quốc phòng. Nhiệm vụ của uỷ ban chỉ đạo nầy là trực tiếp chỉ đạo phong trào tố cộng ở các tỉnh, các cơ quan đào tạo cán bộ cho phong trào. Giúp việc cho uỷ bàn này có các ban tuyên huấn, học tập, kiểm thảo, khai thác có sự phối hợp của các cơ quan Công an, Công dân vụ, Dân vệ đoàn .
Mỗi tỉnh có một uỷ ban chỉ đạo tố cộng. Mỗi bộ có một uỷ ban chỉ đạo hàng dọc xuống các cơ quan thuộc bộ mình. Thành phần uỷ ban chỉ đạo tỉnh giống như ở trung ương. Thành phần ở cơ quan thì gồm đại biểu cơ quan và Liên đoàn lao động công chức của “Phong trào cách mạng quốc gia ”.
Huyện, xã đều có ủy ban chỉ đạo tố cộng của huyện, xã. Mỗi xã lại chia ra nhiều liên gia tố cộng .
Mục đích của “chiến dịch tố cộng” được đặt ra là “gây uất hận trong dân chúng đối với Việt Cộng”, để cho nhân dân tố giác Việt Cộng ở lại hoạt động, khủng bố tinh thần Việt Cộng, làm cho Việt Cộng nghi ngờ quần chúng mà không dám hoạt động nữa, đánh lệch tư tưởng của các phần tử lưng chừng còn hướng về cộng sản phải ngả  hẳn về Chính phủ quốc gia .
Mục tiêu đề ra cho suốt quá trình thực hiện quốc sách tố cộng là: đánh trên diện rộng ban đầu, sau đó đánh vào chiều sâu, đánh cả nông thôn và thành thị, trọng điểm nhằm vào nơi có phong trào quần chúng mạnh, đánh vào đảng Cộng sản và đánh vào tổ chức đồng thời đánh vào tư tưởng, tiêu diệt con người  đi đôi với tiêu diệt tinh thần, ý chí. Tất cả để đạt mục đích tối hậu là người cộng sản hoặc bị tiêu diệt hoặc phải thuần phục quốc gia, quần chúng cách mạng hoặc chết hoặc trở thành người dân quốc gia .
Phương châm, khẩu hiệu là “từng bước, lâu dài nhưng kiên quyết và triệt để, tiêu diệt nội tuyến, diệt trừ nội tâm, đạp lên oán thù để thực hiện chủ nghĩa nhân vị quốc gia, giết lầm còn hơn bỏ sót ”. Trọng tâm của chúng là nhằm vào cán bộ, đảng viên và những vùng kháng chiến cũ, những nơi có phong trào đấu tranh của nhân dân, đánh đi đánh lại nhiều lần tới khi “triệt hạ được uy thế của cộng sản ”.
Từ tháng 5-1955 đến tháng 5- 1956, chiến dịch “tố cộng, diệt cộng ”  giai đoạn I được tiến hành, trọng điểm là các tỉnh miền Trung, nội bộ cơ quan nguỵ quyền, đồng thời triệt hạ cơ sở kinh tế của cộng sản và thanh trừng số cán bộ cầu an của chúng ở cơ sở xã .
Ngày 20 - 7-1956, Diệm công khai tuyên bố không thi hành Hiệp định Giơnevơ.
Giai đoạn II tiến hành chiến dịch “tố cộng, diệt cộng ” trên toàn miền Nam, từ tháng 6 -1956 đến tháng 11- 1958  địch thực hiện 4 chiến dịch lớn càn quét các tỉnh miền Tây Nam Bộ, miền Trung Nam Bộ, miền Đông Nam Bộ và khu vực xung quanh Sài Gòn. Trong khi đó tại các chiến trường Cực Nam Trung Bộ địch tiếp tục chiến dịch đi vào chiều sâu, đánh “tận gốc” kết hợp với bắt lính xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố sư đoàn Nùng, tổ chức bảo an, dân vệ, phát triển đạo giáo, mở chiến dịch vận động người  Thượng, lập khu dinh điền .
Biện pháp và thủ đoạn địch áp dụng trong các chiến dịch “tố cộng” là bạo lực phản cách mạng kết hợp lừa mị, lấy bạo lực phản cách mạng làm chính .
Lực lượng vũ trang bao gồm quân đội, cảnh sát, bảo an được sử dụng như lực lượng xung kích mở đường, càn quét đánh phá cả ở nông thôn, thành thị và khu căn cứ, lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm, triệt hạ xóm làng, tiêu diệt cán bộ cơ sở, yểm trợ và làm lá chắn cho các đoàn tố cộng và bộ máy kềm kẹp ở cơ sở. Địch chia quân đi càn quét khắp nơi, chà đi xát lại nhiều lần xây dựng nhiều đồn bót làm điểm tựa cho bọn tề điệp hoạt động, tăng cường hoạt động thám báo, tận dụng bọn đầu thú, làm chỉ điểm .
Dưới sự yểm trợ của lực lượng vũ trang, bộ máy kìm kẹp, các đoàn tố cộng lưu động cùng mạng lưới tình báo gián điệp, các đoàn công dân vụ “cùng ăn, cùng ở, cùng làm ” tấn công điên cuồng vào phong trào và cơ sở cách mạng bằng chiến tranh tâm lý, trong đó hình thức khủng bố giữ vai trò chủ yếu nhằm gieo không khí khủng khiếp trong nhân dân, uy hiếp tinh thần cán bộ .
Chúng tập hợp dân, tổ chức các lớp tố cộng, tiến hành phân loại dân, sau khi học tập, địch bắt mọi ngừơi phải tố giác cộng sản, chúng bắt những người bị tố giác hoặc tình nghi viết bản kiểm thảo, kê khai lý lịch, ly khai Đảng, xé cờ Đảng, xé ảnh Bác Hồ, viết cáo trạng tố cáo tộí  ác cộng sản.
Tính đến cuối năm 1958, trên toàn miền Nam, Mỹ-Diệm đã giết hại khoảng 68.800 cán bộ, đảng viên, bắt giam 466.000 và tra tấn bị thương tật 680.000 người [40, tr.96].
- Cải cách điền địa [40].
Để giành nông dân với cách mạng, Mỹ - Diệm coi trọng việc cải cách điền địa. Ngay từ tháng 10- 1954 Tổng thống Mỹ Eisenhower  đã gởi thư đốc thúc Ngô Đình Diệm làm cải cách điền địa. Lansdale cố vấn của Diệm cũng khuyên Diệm cần tiến hành ngay cải cách điền địa .
Ngày 8-1- 1955, chính quyền Diệm ban hành đạo dụ số 2. Nội dung đạo dụ số 2 khôi phục lại quyền sở hữu ruộng đất cho địa chủ, phủ nhận quyền sở hữu của nông dân đối với ruộng đất do chính quyền cách mạng cấp trong kháng chiến, buộc nông dân làm khế ước, đóng tô cho địa chủ với mức tô từ 15 % đến 25 % so với  hoa lợi .
Ngày 8-2-1955 ra đạo dụ số 7  quy định đối với địa chủ vắng mặt, nông dân phải làm “ tờ tá điền” để đóng tô cho chính quyền Diệm .
Cả hai đạo dụ nhằm tranh thủ giai cấp địa chủ bằng cách  công nhận quyền sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, công nhận quyền thu tô và cả quyền truy thu tô, đồng thời cũng nhằm tranh thủ nông dân bằng cách hạ mức tô. Địa chủ phấn khởi còn nông dân thì  phản đối quyết liệt vì chúng xoá bỏ những quyền lợi to lớn về ruộng đất mà cách mạng đã đem lại .
Ngày 22-10-1956, Diệm đưa ra đạo dụ số 57 truất hữu ruộng đất đối với địa chủ có trên 100 ha. Mỗi chủ điền chỉ được quyền chiếm hữu tối đa 100 ha ruộng lúa, ngoài số đó chính quyền “truất hữu” bằng cách mua lại, trả cho chủ ruộng 10 % tiền mặt, còn 90 % trả bằng trái phiếu trong 12 năm với mức lãi 3 % / năm. Ngoài ra đại địa chủ có quyền giữ thêm 15 ha làm ruộng hương hoả. Những địa chủ nào có đồn điền trồng cây công nghiệp hoặc cây ăn quả thì không bị “truất hữu”. Ruộng “truất hữu” bán lại cho tá điền theo chính sách trả dần để mỗi tá điền có 5 ha ruộng để canh tác. Địch cho đây là chính sách “tư sản hoá địa chủ “ và “tiểu điền chủ hoá tá điền”.
Nói là “truất hữu” ruộng đất của địa chủ nhưng thực tế số địa chủ có trên 100 ha ruộng đất chỉ có 2.055 người, còn đại bộ phận địa chủ chiếm 2/3 đất không bị “truất hữu”. Nói bán cho tá điền mỗi người  5 ha ruộng đất  nhưng có đủ ruộng đất đâu mà bán cho hàng triệu tá điền. Thực tế chính quyền Diệm chỉ đem ruộng đất bán cho bọn tay chân, bọn phản động trong xã, số còn lại mới bán cho  nông dân.
Bằng cải cách điền địa, chính quyền Diệm không ngớt tuyên truyền lừa gạt nông dân là “bảo vệ quyền lợi tá điền”, “hữu sản hoá nông dân ”, “đem lại cho đồng quê một đời sống mới”. Thực tế là nông dân miền Nam bị tước đoạt ruộng đất mà cách mạng đã chia cho họ và người nông dân lại bị buộc đi làm thuê cho địa chủ, địa chủ lại chiếm hữu ruộng đất bóc lột tô tức, điều đã bị cách mạng xoá bỏ mà chính quyền Diệm khôi phục lại.
Rõ ràng cải cách điền địa của chính quyền Diệm là một chính sách phản động, một thủ đoạn thâm độc nhằm cướp đoạt quyền lợi ruộng đất của nông dân đã giành được trong cách mạng và kháng chiến, xoá bỏ ảnh hưởng của cách mạng trong nông dân, khôi phục và duy trì chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ và nhân viên chính quyền, hợp thức hoá việc thu tô, truy thu tô, thuế, gây ra sự xáo canh ruộng đất  gây chia rẽ mất đoàn kết trong nội bộ nông dân.
Nhật ký Lầu Năm góc đã  đánh giá:”Ngay về lý thuyết, toàn bộ chương trình cải cách của Diệm càng kém xa với  những gì Việt Minh đã làm về cải cách ruộng đất ”.
- Khu dinh điền [40].
Mục đích chính sách lập khu dinh điền của Ngô Đình Diệm là để giải quyết vấn đề định cư cho dân di cư từ miền Bắc và khi tiến hành cưởng ép di cư Mỹ- Diệm thừơng rêu rao miền Bắc không có tự do và đưa dân Công giáo di cư vào làm cơ sở chính trị xã hội cho mình, nhưng việc ấy đã gây cho Mỹ -Diệm rất nhiều khó khăn vì số dân di cư quá lớn (860.000 người ) .
Tháng 4-1957, Mỹ- Diệm bắt đầu thực hiện chính sách “khu dinh điền”. Tổng uỷ Phủ di cư được giải tán và Tổng uỷ Phủ dinh điền thành lập. Tất cả phương tiện và nhân viên thuộc chương trình di cư được chuyển sang cho dinh điền sử dụng
Tổ chức bộ máy hành chính của dinh điền gồm: Tổng uỷ phủ đứng đầu là Tổng uỷ trưởng (ngang bộ trưởng) dưới là các vùng hoặc các dinh điền do một quản đốc vùng hay khu trưởng phụ trách, dưới nữa là trưởng trại dinh điền. Ở  Tổng uỷ phủ dinh điền có các nha: Kỹ thuật, tài chính, định cư, chịu trách nhiệm điều hành và vạch kế hoạch hành động. Tại các vùng hoặc khu dinh điền có các nhân viên phụ tá các mặt giúp khu trưởng điều hành công việc. Chúng còn lập ra các ban trị sự “địa điểm” do “địa điểm trưởng ” điều hành và các nhân viên giúp việc ở những địa điểm cụ thể .
Một khu dinh điền được tổ chức thành nhiều liên gia. Một liên gia gồm từ 5 đến 7 gia đình. Liên gia trưởng chịu trách nhiệm điều động và kiểm soát những gia đình trong liên gia mình. Những phần tử “chống đối” hay bị tình nghi có liên quan đến cộng sản đều bị theo dõi, bị bắt giam giữ, tra tấn và thậm chí bị trục xuất ra khỏi liên gia. Mọi người ra hay vào địa điểm dinh điền phải được phép và chịu sự kiểm tra của nhân viên dinh điền. Thanh niên trong các khu dinh điền đều bắt buộc phải luyện tập quân sự và sẵn sàng tham gia quân dịch khi có lệnh.
Thông thường dân về khu dinh điền đi theo xứ đạo, họ đạo. Ví dụ như khu dinh điền Hố Nai là dân di cư Công giáo xứ Bùi Chu. Khu dinh điền Mường Mán    ( Bình Thuận) là dân di cư thuộc các xứ đạo Thọ Ninh và Đông Tràng (đều thuộc hạt Nghĩa Yên địa phận Vinh trước đây ).
Vào khu dinh điền, mỗi hộ gia đình được cấp đất, cấp cây gỗ, tranh tre, sau lại có tôn để làm nhà trên đất được phân phối theo một quy hoạch nhất định. Chính quyền trợ cấp cho dân nhiều tháng để tiến lên sản xuất tự túc. Các gia đình được cho vay tiền để mua sắm dụng cụ, mua hạt giống, phân bón để tiến hành sản xuất và chi tiêu hàng ngày. Tuy vậy, chính quyền Mỹ- Diệm không thể thoã mãn được các yêu cầu của dân di cư bỏ đất miền Bắc để vào “thiên đường miền Nam ”.
Thực hiện chính sách dinh điền, chính quyền Mỹ Diệm cũng nhằm mục đích  diệt cộng, Diệm - Nhu xác định: ”Khu dinh điền là biện pháp xẻ đường đưa dân vào chiến khu, mật khu Việt cộng, dùng dân để đẩy cộng sản ra khỏi vùng đó và dinh điền là nơi cung cấp tin tình báo, nơi xuất phát để hành quân ngăn chặn xâm nhập ”.
Từ năm 1957 đến 1960 , Mỹ- Diệm đã tổ chức xây dựng được 146 địa điểm dinh điền tập trung gần 20 vạn nông dân di cư. Các vùng dinh điền được thiết lập ở Tây Nguyên  dọc theo biên giới Việt-Lào, Việt - Campuchia, vùng cao nguyên xung quanh Buôn Mê Thuột, vùng đồi núi cao nguyên dọc quốc lộ 14, 20, 13, vùng đồi núi phía Tây của tỉnh Bình Thuận .
Các khu dinh điền đều nằm ở các vùng chiến lược, nằm dọc các con đường giao thông tạo thành “hàng rào thịt” bảo vệ các con đường giao thông huyết mạch, hoặc tổ chức ngay trung tâm các căn cứ, các chiến khu trước đây của cách mạng. Đây là vùng “rừng thiêng, nước độc ” nên gây bất mãn lớn trong đồng bào di cư .
Lập các khu dinh điền Tây Nguyên chính quyền địch còn ép đồng bào các dân tộc phải nhường nương vườn cho dân di cư  và dân di cư được thể chính quyền binh vực mình, tiến hành ăn hiếp người dân tộc nên gây ra sự chống đối lớn của đồng bào các dân tộc. Nhật ký Lầu Năm góc có ghi :”Chúng cũng nhanh chóng gây ra những phản ứng chính trị bất ngờ của những người dân vùng núi Tây Nguyên. Rút cục lại, do đưa người Kinh vào những vùng xưa nay vẫn là của người Thượng, và do tập trung người Thượng  vào các khu có thể thể bảo vệ được, Chính phủ Nam Việt Nam đã tạo cho họ lý do để đấu tranh và hướng nổi bất bình của họ chĩa vào Diệm. Do vậy, chính phủ Nam Việt Nam đã tạo điều kiện chứ không phải ngăn chặn để sau này Việt cộng hoạt động lật đổ trong các bộ lạc ”.
Chính sách dinh điền đã gặp phải sự chống đối của nhân dân các vùng, nhất là nhân dân các dân tộc Tây Nguyên và cũng chuốc lấy các sự bất mãn của đồng bào di cư. Tuy nhiên nó cũng giải quyết được những khó khăn về kinh tế chính trị cho gần một triệu người dân di cư  miền Bắc .
- Khu trù mật
Mỹ -Diệm chủ trương xây dựng ”khu trù mật” là để xây dựng các khu dân cư trong đó ngừơi dân có cuộc sống vật chất và văn hóa cao trên cơ sở một nền kinh tế trù phú và một nếp sống dân chủ  xã hội tốt đẹp. Mục đích là tạo sức hấp dẫn đối với người dân xưa nay “sống nghèo khô’” và “mất tự do” ở các vùng căn cứ kháng chiến. Đây cũng là sự thi đua kinh tế và chính trị đối với cách mạng. Ngày 14/03/1960, khi làm lễ khánh thành khu trù mật Vị Thanh- Hoả Lưu Ngô Đình Diệm đã tuyên bố: ”ý nghĩa của khu trù mật là xây dựng một xã hội mới để thực thi công bằng, bác ái , đồng tiến xã hội trong một nước kém mở mang” [3, tr.362-363].
Tuy vậy, bên cạnh tham vọng ấy chính quyền Mỹ - Diệm cũng vẫn nhằm mục đích khác là “diệt cộng ”. Báo Cách mạng quốc gia Sài Gòn số 18-2-1960 tiết lộ mục đích đen tối của khu trù mật là “tách quần chúng ra khỏi những phần tử cảm tình với cộng sản, lùa cộng sản vào rừng rồi bị diệt trừ ” [36, tr.23].
Toàn miền Nam, Mỹ- Diệm đặt kế hoạch lập trước 80 khu trù mật “xong khu trù mật nầy tiến tới khu trù mật khác, cứ làm, làm mãi cho đến khi nào nông thôn trở nên những pháo đài kiên cố của tự do ”[36, tr.23].
Đến năm 1960, địch lập được 42 khu trù mật trên toàn miền Nam. Nói chung các khu trù mật đều lập trong những vùng căn cứ kháng chiến để làm tủ kính mà thu hút người dân cách mạng.
Trong quá trình lập khu trù mật, ruộng đất của nhân dân bị cướp không, chúng bắt dân lao động vất vả nặng nề mà ăn uống phải tự túc. Ngoài ra bọn bảo an, dân vệ tổ chức càn quét, cướp của, giết người ở các vùng lân cận, gây nhũng nhiễu tai vạ cho nhiều gia đình, nhất là các gia đình cách mạng [40].
Chỉ có Ngô Đình Diệm là hết lời ca tụng ý nghĩa tốt đẹp của khu trù mật là xây dựng một xã hội thực thi công bằng và bác ái. Nhưng tờ Đại Việt xuất bản ở Pháp ( 3- 1960 ) viết :”Chỉ có ông Ngô Đình Diệm là hả lòng, hả dạ mỗi khi khánh thành khu trù mật, chớ các tỉnh trưởng, họ đều hiểu rõ sự thực hơn. Họ lấy làm lo sợ sự oán giận của nhân dân. Họ vừa họp lại, báo cáo cho bộ trưởng Lâm Lễ Trinh rằng khu trù mật là thất nhân tâm”.
Do sự mất nhân tâm gây oán hờn và sự chống đối của nhân dân, hầu hết các khu trù mật đều bị phá vào năm 1960 trong phong trào Đồng khởi của nhân dân .
Đánh giá bốn quốc sách của Ngô Đình Diệm, sứ quán Mỹ tháng 1- 1960 nhận xét : ”Tuy Chính phủ Việt Nam đã cố gắng đáp ứng nhu cầu kinh tế và xã hội của nông thôn, song những chương trình này hình như chỉ phần nào gây được sự ủng hộ của Chính phủ  trong thực tế chúng đã đem lại sự căm thù ở nhiều trường hợp. Chúng ta có thể tóm tắt tình hình như thế nầy: Chính phủ đối xử với dân chúng với thái độ nghi ngờ và doạ nạt, và đã được đền đáp bằng một sự thờ ơ và lòng căm thù ”[40].
Ở một đoạn khác Nhật ký Lầu năm góc lại ghi :”Ngô Đình Diệm cũng không lãnh đạo được dân chúng ở thành phố hoặc giới trí thức ”.
Như vậy là sử dụng  chính quyền mạnh do Mỹ dựng lên và cả một bộ máy quân sự, chính trị, cảnh sát, gián điệp đồ sộ, với vũ khí và tiền bạc của Mỹ, Mỹ- Diệm đã thực thi bốn quốc sách lớn hòng thu phục nhân dân miền Nam theo chính sách thực dân kiểu mới của Mỹ. Nhưng các quốc sách của Mỹ - Diệm thực tế đem lại oán hận và lòng căm thù của nhân dân và đều đã thất bại thảm hại .

1.2.3.Chủ trương của Đảng và cao trào “Đồng khởi”

Năm 1959, cách mạng miền Nam đứng trước những thử thách cực kỳ nghiêm trọng, với luật 10/59, Mỹ- Diệm lê máy chém đi khắp miền Nam ra sức tiêu diệt lực lượng cách mạng. Đảng đã lãnh đạo nhân dân vượt qua những khó khăn, mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân được giữ vững và phát triển các cơ sở cách mạng. Đảng kiên trì lãnh đạo và xây dựng khối đoàn kết toàn dân đấu tranh chống Mỹ - nguỵ.
Chính sách nô dịch và gây chiến của đế quốc Mỹ, hành động khủng bố và bán nước của Ngô Đình Diệm đã làm cho đời sống của các tầng lớp nhân dân miền Nam vô cùng cực khổ. Nhân dân ngày càng thấy rõ không thể nào sống dưới chế độ Mỹ - Diệm  được nữa mà chỉ còn một con đường vùng lên đấu tranh một mất một còn với chúng.
Trước tình hình đó, tháng 1-1959 , Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 15 ( mở rộng ) ra nghị quyết : “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh để giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân  trong cả nước ”[40],[45].
Nghị quyết xác định :”Chính quyền Ngô Đình Diệm là chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ, chế độ thực dân  và nửa phong kiến ở miền Nam là một chế độ phản động tàn bạo và đen tối. Chính quyền miền Nam hiện nay là một chính quyền phản bội lợí ích dân tộc, nó đại biểu cho lợí  ích của đế quốc Mỹ, của bọn phong kiến và tư sản mại bản phản động nhất thân Mỹ ở miền Nam. Chính quyền đó là một chính quyền độc tài hiếu chiến. Nó là công cụ xâm lược của đế quốc Mỹ ”.
Hội nghị xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là “Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
Nghị quyết xác định phương hướng của cách mạng miền Nam là “khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân ”. Vạch ra con đường cho cách mạng miền Nam là: “Lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng nên chính quyền cách mạng của nhân dân ”[31],[45].
Nghị quyết còn thấy rõ  chiều hướng phát triển của cách mạng miền Nam là cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam có khả năng chuyển thành một cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ .
Nghị quyết của hội nghị Trung ương lần thứ 15 là một nghị quyết lịch sử rất quan trọng tạo nên bước chuyển biến lớn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân cả nước ta, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của đồng bào hai miền Nam, Bắc : giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng đã góp phần hoàn chỉnh đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam. Nghị quyết phản ảnh sâu sắc nguyện vọng của nhân dân miền Nam cũng như nhân dân cả nước. Nó soi sáng con đường đi tới của cách mạng miền Nam và trực tiếp dẫn tới phong trào Đồng khời, tiến công mạnh mẽ và dồn dập vào đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai .
Dưới ánh sáng Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng, khối đoàn kết toàn dân ở miền Nam được củng cố chặt chẽ hơn, và cuối năm 1959 đầu năm 1960, nhân dân ta ở miền Nam đã vùng lên khởi nghĩa đồng loạt giành nhiều thắng lợi to lớn .
Từ cuối năm 1959 đến đầu 1960, ở Trị Thiên - Huế, các tổ chức vũ trang tự vệ của nhân dân đã đánh trả địch, vây đồn diệt ác ôn, hỗ trợ đắc lực cho công cuộc đấu tranh chính trị như ở làng Dút, sông Axép, Tam Dừa ( Thừa Thiên ), Truồi Muồi (Quảng Trị ). Đến tháng 10 -1960, quân dân miền núi Trị Thiên -Huế đã nổi dậy giải phóng vùng núi Thừa Thiên và 15 xã ven đường số 9 ( Quảng Trị ) hình thành một vùng giải phóng rộng lớn đến biên giới Việt -Lào. Đường hành lang chiến lược Bắc - Nam  qua Trị Thiên - Huế  được thông thương .
Đầu năm 1959, lãnh đạo liên khu V về đến chiến trường, phổ biến nghị quyết 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Đồng bào các dân tộc miền núi đã hăng hái hưởng ứng, nhiều thanh niên đồng bằng đã thoát ly lên căn cứ tình nguyện chiến đấu.
Ngày 3 tháng 3 -1959, đơn vị vũ trang đầu tiên của Quảng Ngãi thành lập tại thôn Nước Xoay- Cà Nung, xã Trà Thọ, huyện Trà Bồng, lấy tên là đơn vị 339 [8, tr.64].Tiếp đó, hai đơn vị vũ trang cũng được thành lập tại huyện Sơn Hà, Ba Tơ và Minh Long lấy tên là đơn vị 89 và 229.
Ngày 28-8-1959, nhân dân các xã thuộc huyện Trà Bồng có sự tham gia của lực lượng vũ trang đã tấn công tiêu diệt  bọn ác ôn cưởng bức nhân dân đi bỏ phiếu. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, đến chiều quân ta làm chủ các xã trên toàn huyện Trà Bồng, quân địch  chỉ còn cố thủ trong đồn Eo Reo, Eo Chim và quận lỵ.
Ngày 31-8 và 1-9-1959, ta đánh chiếm đồn Eo Reo và Eo Chim, toàn bộ huyện Trà Bồng được giải phóng trừ quận lỵ.
Hưởng ứng Trà Bồng, nhân dân các huyện Ba Tơ, Sơn Hà, Minh Long  cũng lần lượt nổi dậy. Tại các vùng thấp, các nhóm vũ trang, các đội vũ trang tuyên truyền mở rộng hoạt động diệt ác trừ gian, đánh chiếm các trụ sở chính quyền, phá kìm kẹp. Ở các xã Sơn Hạ, Sơn Thành, Sơn Rinh, Trường Giang các uỷ ban tự quản trước đây bí mật thành lập, nay ra hoạt động công khai .
Như vậy, trong một tuần lễ, nhân dân ba huyện Sơn Hà, Ba Tơ và Minh Long đã giành quyền làm chủ vùng cao Sơn Hà và 20 xã của hai huyện Ba Tơ và Minh Long .
Ngày 1-1-1960, một hội nghị đặc biệt tại ấp Tân Huề, xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày ( Bến Tre). Đồng chí Nguyễn Thị Định, phó Bí thư Tỉnh uỷ  truyền đạt tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 và chủ trương cụ thể của Khu uỷ cho các Tỉnh uỷ viên và Bí thư Huyện uỷ  các huyện  Mỏ cày, Ba Cầu, Bảy Tranh, Minh Tân.
Hội nghị chủ trương phát động “Một tuần lễ toàn dân đồng khởi” [40], lấy huyện Mỏ Cày làm trọng điểm, ba xã Định Thuỷ, Phước Hiệp, Bình Khánh đột phá đi đầu, thúc đẩy phong trào.
Ngày 17-1-1960, cuộc Đồng khởi của nhân dân Bến Tre nổ ra ở cả ba xã Định Thuỷ, Phước Hiệp và  Bình Khánh. Nhân dân vũ trang giáo mác, được sự hổ trợ của tiểu đoàn 502 đã tràn ra khắp các ngả đường, lùng bắt tề điệp, ác ôn, chiếm công sở, giải tán tề xã, thu nhiều súng đạn.
Đến ngày 20-1-1960, ba xã điểm hoàn toàn thắng lợi. Phong trào khởi nghĩa lan rộng nhanh chóng trên toàn tỉnh Bến Tre
Từ ngày 17-1 đền ngàty 24-1-1960, 47 xã thuộc các huyện Mỏ Cày, Giồng Trôm, Châu Thành, Ba Tri, Thạnh Phú nhân dân đã nhất tề nổi dậy. 22 xã đã đập tan bộ máy kìm kẹp, giải phóng hoàn toàn. 25 xã khác đã vùng lên diệt ác , vây đồn , giải phóng nhiều ấp.
Đồng khởi Bến Tre đã bùng lên mạnh mẽ bằng nhiều đợt. Cuối năm 1960, trong 115 xã ở tỉnh Bến Tre đã có 51 xã giải phóng hoàn toàn, 21 xã được giải phóng một phần. Nhân dân làm chủ 300 ấp / 500 ấp. Hệ thống kìm kẹp của địch ở nông thôn bị đập tan nát.
Sau thắng lợi của Bến Tre, phong trào Đồng khởi lan rộng khắp các tỉnh miền Trung Nam Bộ. Từ Long An, Kiến Tường, Định Tường, An Giang nhân dân đã vùng lên khởi nghĩa, diệt ác trừ gian, nhiều vùng nông thôn được giải phóng.
Tháng 3-1959, đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Xứ uỷ nhận được điện thông báo của Ban Bí thư Trung ương về Nghị quyết 15, kết hợp với hai Tỉnh uỷ Thủ Dầu Một và Tây Ninh chuẩn bị phương án tấn công địch. Thường vụ Xứ uỷ quyết định thực hiện phương án đánh Tua Hai với lý do thắng Tua Hai có tác động thúc đẩy phong trào cách mạng của toàn miền Nam và làm chấn động tinh thần quân địch mạnh mẽ hơn, quyết tâm đánh một đòn chiến lược làm rung chuyển chiến trường và thúc đẩy phong trào nổi dậy khởi nghĩa trên toàn miền Nam.
Căn cứ Tua Hai được xây dựng trên một khoảng đất rộng tại Trảng Sụp  nằm ở phía Đông quốc lộ 22 (từ Gò Dầu đi Xa Mát ) cách thị xã Tây Ninh 7 Km về phía Bắc (hiện nay là xã Đồng Khởi, huyện Châu Thành, Tây Ninh ). Đây là căn cứ quân sự lớn cấp trung đoàn  nhưng không có công sự kiên cố, chưa có hàng rào. Trong căn cứ ta có lực lượng mật, có cả một chi bộ và một chi đoàn.
Lực lượng của ta tấn công gồm có 1 đại đội đặc công, 3 đại đội, 1 trung đội và 1 tiểu đội bộ binh, quân số 225 người . Lực lượng dân công tham gia khoãng 300 gồm chủ yếu là Đảng viên. Ban chỉ huy gồm có chỉ huy trưởng Nguyễn Hữu Xuyến, chính trị viên Mai Chí Thọ  và chỉ huy phó Võ Cương và Lê Thanh.
Đúng 00 giờ 45 phút ngày 26- 01-1960 ta bắt đầu tấn công căn cứ Tua Hai [64].
Kết quả là ta tiêu diệt sở chỉ huy Trung đoàn 32 Sư đoàn 21 nguỵ, diệt và làm tan rã Tiểu đoàn 1 và 2, diệt đại đội pháo, chi đoàn thiết giáp, bắt giáo dục tại chổ và thả 500 tù binh. Ta thu gần 1.000 súng các loại, thu nhiều đạn, phá huỷ một số xe quân sự. Lực lượng ta hy sinh 7 đồng chí [71].
Trận Tua Hai là trận thắng lớn tạo ra bước ngoặc chuyển thế từ giữ gìn lực lượng sang thế tiến công đánh bại quân thù và cũng là trận thắng giòn giã đầu tiên của chiến tranh cách mạng Việt Nam đánh lại chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ.
Từ sau chiến thắng Tua Hai, khắp miền Nam đồng loạt vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền tạo nên phong trào Đồng khởi bùng nổ khắp nới từ Đông Nam Bộ, Trung Nam Bộ đến Tây Nam Bộ.
Tình báo Mỹ ở Sài Gòn thừa nhận :”Vào cuối năm 1960, toàn bộ vùng nông thôn Nam và Tây Nam Sài Gòn và một số vùng Bắc Sài Gòn đã bị cộng sản kiểm soát quá một nửa…” [78].
Phong trào Đồng khởi ở miền Nam đã phá vỡ từng mãng lớn hệ thống kìm kẹp của Mỹ - Diệm ở nông thôn, giành quyền làm chủ dưới hình thức tự quản, giải quyết những quyền lợi dân sinh, dân chủ của nhân dân .
Lực lượng chính trị của quần chúng đã đóng vai trò chủ yếu trong cao trào  Đồng khởi và cũng là lực lượng phát huy tác dụng to lớn trong việc giữ vững và phát triển thắng lợi đã giành được. Khí thế của quần chúng trong Đồng khởi lên rất cao, tạo điều kiện cho lực lượng cách mạng phát triển nhanh . Các đoàn thể cách mạng của nông dân, thanh niên, phụ nữ, phát triển mạnh lại làm cơ sở cho việc phát triển các đội quân chính trị đấu tranh chống địch càn quét, khủng bố. Lực lượng chính trị phát triển làm cơ sở hình thành và phát triển lực lượng vũ trang tập trung ở tỉnh, huyện và dân quân du kích ở thôn, xã mà ở đâu cũng có sau cao trào Đồng khởi. Hai lực lượng chính trị và vũ trang đã kết hợp một cách hữu cơ trong đấu tranh chống địch .
Cao trào Đồng khởi làm cho phần lớn nguỵ quyền cấp thôn, xã ở vùng đồng bằng Nam Bộ tan vỡ. Đến cuối năm 1961,Trung Nam Bộ đã giải phóng được 350 / 480 xã, Tây Nam Bộ đã giải phóng 350 / 365 xã, Tây Nguyên, vùng giải phóng có tới 4.000 làng bản. Từ Nam sông Bến Hải đến Tây Nguyên cùng các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ, vùng giải phóng đã nối liền nhau thành một khối thống nhất .
Điểm nổi bật và sáng tạo của phong trào Đồng khởi ở miền Nam là trong sự khủng bố man rợ của kẽ thù, cách mạng bị tổn thất nặng nề, tựa hồ khó có thể gượng lại được, Đảng luôn tìm cách để nuôi dưỡng, giáo dục và xây dựng khối đoàn kết toàn dân, biết dựa vào dân, phát động và khơi sâu lòng  căm thù, nuôi dưỡng lòng dũng cảm, thổi bùng ngọn lửa quật khởi trong toàn dân thành cao trào nổi dậy khắp nông thôn miền Nam, phá vỡ ách kìm kẹp của địch, mở ra cục diện mới cho cách mạng miền Nam .
Đồng khởi mở ra thời kỳ phát triển mới của cách mạng miền Nam, thời kỳ toàn dân tiến công liên tục và mạnh mẽ vào các chiến lược và chiến thuật của Mỹ - nguỵ. Cách mạng miền Nam chuyển từ đấu tranh chính trị, giữ gìn lực lượng là chủ yếu sang kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự nhằm tiêu hao, tiêu diệt lực lượng địch, phát triển lực lượng của ta, tạo ra tiền đề, những nhân tố cơ bản bảo đảm cho cách mạng miền Nam từng bước tiến lên .
Trong khí thế chiến thắng của phong trào Đồng khởi, tại Hà Nội, từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được tổ chức trọng thể. Trong lời khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Đại hội lần nầy là Đại hội xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà.
Báo cáo chính trị chỉ rõ rằng: cách mạng Việt Nam trong giai đoạn nầy có hai nhiệm vụ, một là, tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc, hai là, tiếp tục đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ cách mạng nầy thuộc hai chiến lược cách mạng và mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết những mâu thuẫn chủ yếu ở mỗi miền. Song cả hai  nhiệm vụ đó đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cách mạng Việt Nam và cùng nhằm một mục tiêu chung là giành lại độc lập và thống nhất Tổ quốc. Hai nhiệm vụ nầy có quan hệ mật thiết và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau [50].
Đại hội xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Đại hội xác định nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: ”đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện đôc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực bảo vệ  hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới” [38].
Trong không khí sôi nổi và chiến thắng của cao trào Đồng khởi, dưới ánh sáng của Nghị quyết 15 và Đại hội III của Đảng, nhân dân miền Nam tiến lên giành thắng lợi mới. Tăng cường đoàn kết, phát huy truyền thống chiến đấu anh dũng của dân tộc, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thúc đẩy phong trào cách mạng miền Nam chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.

1.3.MẶT TRẬN DTGPMNVN RA ĐỜI

Từ năm 1957, Hội nghị đại biểu các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới đã xác định một đường lối đấu tranh hoàn thành giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc là thành lập một Mặt trận dân tộc thống nhất chống chủ nghĩa đế quốc và phong kiến, bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tư sản dân tộc và các lực lượng dân chủ, yêu nước khác. Mấy năm sau đó, quá trình đấu tranh quyết liệt của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế quốc đã đưa đến kết quả là hàng loạt quốc gia mới có chủ quyền xuất hiện. Nhưng bọn đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, cố sức cướp lại những thuộc địa đã mất bằng cách tròng ách chủ  nghĩa thực dân mới  vào các dân  tộc mới giành được độc lập [7, tr.9-10].
Trước âm mưu xâm lược miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Với âm mưu thâm độc và tàn bạo của gia đình trị Diệm – Nhu. Hội nghị 15 Trung ương Đảng chủ trương thành lập ở miền Nam một mặt trận riêng, nhằm tập hợp tất cả các lực lượng chống đế quốc, phong kiến. Mặt trận dân tộc thống nhất miền Nam phải rất rộng rãi: “Đoàn kết tất cả các dân tộc đa số và thiểu số, các đảng phái, các tôn giáo và những cá nhân yêu nước, đoàn kết với ngọai kiều, đặc biệt là Hoa kiều, không phân biệt chủng tộc và tôn giáo, chính kiến, điều cốt yếu là chống Mỹ- Diệm, tán thành tự do dân chủ, cải thiện dân sinh và hòa bình thống nhất Việt Nam ”. Trung ương thấy rằng hiện nay khuynh hướng hòa bình, trung lập đang bắt đầu nảy nở trong một số tư sản dân tộc và trí thức lớp trên ở miền Nam, nên Đảng phải tranh thủ và sử dụng khuynh hướng ấy để mở rộng Mặt trận đoàn kết chống Mỹ - Diệm [75, tr.288-289].
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, hồi 8 giờ tối ngày 19-12-1960, đại biểu các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo và các đảng phái đã họp Đại hội tại Rùm Đuôn, xã Tân Lập, huyện Châu Thành, Tây Ninh.
Lúc 1 giờ sáng ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức thành lập, Mặt trận đề ra tuyên ngôn và chương trình hành động mười điểm ( xem phụ lục IV ) [34], [51].
Nội dung của chương trình nêu rõ: đế quốc Mỹ và bọn bán nước lập nên một chế độ chính trị độc tài  tàn ác nhất chưa từng có trong lịch sử nước ta. Hơn sáu năm qua, chế độ độc tài, tàn bạo của Mỹ-Diệm đã gây ra biết bao tội ác đối với đồng bào miền Nam.  Trong hoàn cảnh đó “ Vì quyền lợi tối cao của Tổ quốc, quyết phấn đấu đến cùng cho những nguyện vọng chính đáng của nhân dân, thuận theo trào lưu tiến bộ của thế giới. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời .
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam  chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước ở miền Nam Việt Nam không phân biệt xu hướng chính trị để đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn tay sai của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, thực hiện độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà bình trung lập ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc ”[18, tr.958-962].
Chương trình hành động 10 điểm của Mặt trận  DTGPMNVN  vạch ra cho các thành viên trong mặt trận cùng nhau đoàn kết phấn đấu .
Đại hội kêu gọi:
“Hỡi toàn thể đồng bào!
Hỡi tất cả những người yêu nước !
      Dân tộc ta đã tranh đấu gần một trăm năm và kháng chiến 9 năm, đã hy sinh biết bao xương máu, quyết không thể trở lại cuộc đời nô lệ !
Vì hoà bình, độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc, vì vận mạng của dân tộc, vì đời sống của chúng ta, vì tương lai của ta và con cháu ta .
Tất cả hãy đứng lên !
Tất cả hãy đoàn kết lại !
  Hãy xiết chặt hàng ngũ, tiến lên chiến đấu dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam để đánh đổ ách thống trị tàn ác của đế quốc Mỹ và tay sai  Ngô Đình Diệm để cứu nước, cứu nhà ”[18].
Cương lĩnh và mười chính sách đối nội, đối ngoại của Mặt trận thể hiện những mong muốn tha thiết của mọi tầng lớp nhân dân, là hoà bình, độc lập, dân chủ, cơm no áo ấm, thống nhất Tổ quốc đã được sự hưởng ứng rộng rãi ở trong nước và sớm có tiếng vang trên trường quốc tế. Cương lĩnh của Mặt trận đã thu hút được sự đồng tình của đông đảo các lực lượng yêu chuộng tự do, công lý trong nước và trên thế giới kể cả người Mỹ tiến bộ và những người “không thích cộng sản”.
Đại hội đã bầu ra Uỷ ban trung ương Mặt trận lâm thời gồm nhiều nhân vật tiêu biểu, đứng đầu là các vị  Phùng Văn Cung, Huỳnh Tấn Phát và Võ Chí  Công .
Mặt trận quyết định chọn cờ nửa xanh, nửa đỏ giữa có ngôi sao vàng 5 cánh làm cờ của Mặt trận, chọn bài “Giải phóng miền Nam” của Huỳnh Minh Siêng làm bài ca chính thức của Mặt trận [51].
Chương trình và tuyên ngôn của Mặt trận đã được tiếp đón một cách nồng nhiệt ở khắp miền Nam, đã gây nên một không khí nhộn nhịp phấn khởi trong đồng bào khắp nơi. Suốt tuần lễ đầu tháng giêng 1961, thành phố Sài Gòn - Gia Định và khắp các tỉnh thành miền Nam tràn ngập hàng triệu tờ truyền đơn in chương trình và cờ Mặt trận. Các xí nghiệp, trường học, trại lính, công sở, rạp hát, chợ búa, đâu đâu  nhân dân cũng xôn xao bàn tán về Mặt trận [21].
Ở Tây Ninh, ngày 21-12-1960, một cuộc mít tinh lớn, có 2000 đồng bào tín đồ Cao Đài, binh sĩ và cựu sĩ quan nguỵ tham gia  hoan nghênh Mặt trận ra đời, mọi người hứa sẵn sàng  đứng trong hàng ngũ Mặt trận.
Ngày 2-1-1961, khắp nội ngoại thành Sài Gòn- Gia Định, đồng bào bãi công, bãi thị, tham gia mít-tin hoan nghênh Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời.
Tỉnh Sa Đéc, chỉ trong đêm 5-1-1961, có 17 cuộc mít tinh chào mừng Mặt trận, có khoảng 5000 người tham gia.
Tỉnh Bến Tre mở đại hội đại biểu các tầng lớp quần chúng để thành lập Mặt trận tỉnh, buổi lễ ra mắt có đến 10.000 người  tham dự, có đầy đủ đại biểu từ nông thôn đến thành thị. Buổi lễ tổ chức cách thị trấn Ba Tri khoảng 5 kilômet, có đèn điện, có cờ Mặt trận tung bay làm xúc động lòng người .
Từ Trị Thiên đến Bình Thuận, đâu đâu cũng nổ ra những cuộc mít tinh lớn nhỏ nhiệt liệt hoan nghênh Mặt trận, hoan nghênh bản tuyên ngôn và chương trình 10 điểm của Mặt trận. Sau khi Mặt trận ra đời, các địa phương đều thành lập ủy ban Mặt trận từ tỉnh đến quận , xã.
Đánh giá về sự kiện lớn nầy, Bác Hồ đã nói :”Một mặt trận của nhân dân  đoàn kết chặt chẽ rộng rãi là một lực lượng tất thắng. Hiện nay trong cuộc đấu tranh anh dũng chống chế độ tàn bạo của Mỹ- Diệm, đồng bào ta ở miền Nam cũng có “Mặt trận Dân tộc giải phóng ” với chương trình hoạt động thiết thực và phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Do đó, có thể đoán rằng đồng bào miền Nam nhất định sẽ thắng lợi, nước nhà nhất  định sẽ thống nhất, Nam - Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà ”[18].

CHƯƠNG 2.       HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN

                       DTGPMNVN  TỪ 1960 ĐẾN 1965


2.1.HOẠT ĐỘNG CHÍNH TRỊ

            2.1.1. Xây dựng hệ thống tổ chức Mặt trận

Sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết, chính quyền và quân đội tập kết ra Bắc, chỉ có Đảng ở lại miền Nam. Với chính sách đàn áp dã man những người kháng chiến cũ, với “quốc sách tố cộng , diệt cộng”,  với luật 10/59 của Ngô Đình Diệm, phong trào cách mạng miền Nam có nguy cơ tan vỡ. Căn cứ vào tình hình cách mạng miền Nam, đồng chí Lê Duẫn đã soạn ra bản Đề cương cách mạng miền Nam và ra báo cáo với Bộ Chính trị và Bác Hồ.
          Tháng 1-1959, Hội nghị lần thứ 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng        ( khóa II) mở rộng được tổ chức tại Hà Nội. Hội nghị quyết định chuyển hướng chỉ đạo cách mạng miền Nam, phải thành lập một tổ chức Mặt trận ở miền Nam, thành lập Đoàn vận tải quân sự 559 và 759 chi viện cho miền Nam, cử 1.500 cán bộ đã được huấn luyện đưa vào miền Nam.
          Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam từ khi ra đời, đã xây dựng hệ thống tổ chức của Mặt trận, xây dựng hệ thống lãnh đạo của Đảng, xây dựng Giải phóng quân, vùng giải phóng, các đoàn thể trong Mặt trận, tiến hành các đại hội, đưa ra những bản tuyên bố, Cương lĩnh của Mặt trận [40, tr.268].

          2.1.1.1.Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận.

          Từ tháng 10-1954, để phù hợp với tình hình mới, cơ quan Trung ương Cục chuyển thành Xứ ủy Nam Bộ, đồng chí Lê Duẫn, ủy viên Bộ Chính trị là Bí thư Xứ ủy. Nhiệm vụ Xứ ủy lúc nầy là “giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam nhằm củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc”.
          Từ tháng 1-1961, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 ( khóa III ) họp và quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam. Bí thư Trung ương Cục đầu tiên là đồng chí Nguyễn Văn Linh, nhiệm vụ Trung ương Cục là lãnh đạo vùng cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ ( chiến trường B2), còn vùng khu V và Trị Thiên do Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo [61, tr.42].
          Khi cách mạng miền Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng  sang tiến công cách mạng, trong hoạt động thực tế, Đảng gặp một số trở ngại trong  việc tuyên truyền, tập hợp quần chúng ở miền Nam. Vì Đảng ta là Đảng cầm quyền ở miền Bắc, đồng thời lãnh đạo cách mạng cả nước, nên địch vin vào cớ đó để xuyên tạc miền Bắc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam.
          Trước yêu cầu mới của cách mạng, tiếng nói của Đảng phải thường xuyên thâm nhập vào quần chúng, làm cho quần chúng không những chỉ biết có Mặt trận mà còn thấy rằng cách mạng miền Nam do Đảng lãnh đạo, nhằm thực hiện mục đích của Đảng là giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Vì vậy, Đảng bộ miền Nam phải có danh nghĩa công khai để tham gia và lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo cách mạng miền Nam, làm thất bại âm mưu xuyên tạc của kẻ thù.
          Căn cứ vào thực tiễn của cách mạng miền Nam  và đề nghị của Đảng bộ miền Nam : ”Đảng bộ miền Nam phải có tên riêng vì nếu giữ tên cũ công khai thì kẻ thù trong và ngoài dễ vin vào đó mà xuyên tạc, vu cáo miền Bắc can thiệp lật đổ miền Nam. Điều đó làm cho miền Bắc gặp khó khăn trong cuộc vận động đấu tranh  cho miền Nam trên phương diện pháp lý quốc tế. Mặt khác, đổi tên Đảng cũng tạo điều kiện  cho Đảng bộ miền Nam công khai hiệu triệu nhân dân miền Nam dùng mọi hình thức để đánh đuổi kẻ thù” [74, tr.20]. Trung ương Đảng đã quyết định Đảng bộ miền Nam lấy tên là Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam.
          Ngày 1-1-1961, Đảng bộ miền Nam lấy tên công khai là Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam  và tuyên bố cương lĩnh của Đảng.
          Trong tuyên bố nhân ngày thành lập, Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam đã nêu rõ: “Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động miền Nam Việt Nam, đồng thời cũng là đảng của toàn thể nhân dân yêu nước miền Nam Việt Nam .
          Đảng tuyên bố nhiệt liệt hưởng ứng tuyên ngôn và chương trình hành động của Mặt trận DTGPMNVN. Đảng tuyên bố tự nguyện đứng vào hàng ngũ của Mặt trận, đoàn kết và hợp tác chặt chẽ với các đảng phái dân chủ, các tôn giáo và các đoàn thể yêu nước trong mặt trận để thực hiện chương trình của Mặt trận. Đảng nhấn mạnh vào sự thực hiện đoàn kết dân tộc, đoàn kết giai cấp, các đảng phái, các tầng lớp yêu nước, giúp đỡ các dân tộc thiểu số, trên tinh thần bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ” [22].
          Nhiệm vụ trước mắt của Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam là đoàn kết lãnh đạo giai cấp công nhân, nông dân, nhân dân lao động và toàn thể đồng bào miền Nam Việt Nam, đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến, hiện nay là đế quốc Mỹ và tập đoàn Ngô Đình Diệm tay sai của Mỹ, giải phóng miền Nam, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ rộng rãi, thực hiện độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân, làm cho người cày có ruộng, phát triển công thương nghiệp, mở mang khoa học giáo dục, làm cho mọi người được cơm no áo ấm, tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà, góp phần bảo vệ hoà bình thế giới.
          Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam là một thành viên đặc biệt của Mặt trận DTGPMNVN, vừa là lực lượng nòng cốt của Mặt trận, vừa bảo đảm một cách chắc chắn cho cách mạng miền Nam đi đúng hướng, thực hiện nhiệm vụ cách mạng Việt Nam do Đảng Lao động Việt Nam đề ra.
          Sự kiện trên là một sách lược có ý nghĩa quan trọng, có tác dụng cổ vũ tinh thần cách mạng của quần chúng, tranh thủ được rộng rãi các tầng lớp và cá nhân vào Mặt trận dân tộc thống nhất, cô lập thêm đế quốc Mỹ và tay sai. Sách lược nầy cũng có tác dụng tranh thủ chính phủ một số nước trên thế giới đồng tình với cuộc đấu tranh của nhân dân ta nhằm giải phóng miền Nam.

          2.1.1.2.Hệ thống tổ chức của Mặt trận

          Từ ngày thành lập đến đại hội lần thứ nhất của Mặt trận (1962) thì cơ quan lãnh đạo của Mặt trận là Uỷ ban trung ương lâm thời. Từ Đại hội Mặt trận lần thứ nhất cơ quan lãnh đạo của  Mặt trận  là Uỷ ban trung ương Mặt trận chính thức do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch Đoàn chủ tịch, Ban thư ký và  và 30 uỷ viên.
          Từ sau đại hội lần thứ nhất, hệ thống Uỷ ban Mặt trận từ trung ương đến thôn, xã được hình thành, Uỷ ban mặt trận làm nhiệm vụ của chính quyền cách mạng khi ta chưa có chính quyền.
          Ngày 19-3-1961, Uỷ ban Mặt trận Dân tộc giải phóng Khu Sài Gòn được thành lập [72, tr.299] do Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch, Kỹ sư Lê Văn Thả làm Phó chủ tịch. Lễ ra mắt được tở chức trọng thể ở xã Phú Mỹ Hưng (Củ Chi), có hàng vạn quần chúng tham dự, nhiều giới đồng bào từ nội thành ra tham gia [60, tr.357-366].
          Tháng 5-1961, trên 200 đại biểu tham dự Đại hội đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng Tây Nam Bộ [3]. Đại hội bầu ra Uỷ ban Mặt trận Khu gồm 32 uỷ viên. Ban thường vụ có các ông: Chủ tịch Dương Văn Vinh, Phó chủ tịch Trần Văn Bỉnh, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ngô Tâm Đạo. Cuộc mít tinh ra mắt Uỷ ban được tổ chức ở xã Trí Phải (Thới Bình, Cà Mâu), có 20.000 đồng bào tham dự, có đại diện các dân tộc, các tôn giáo, các giới, và cả đồng bào ở đô thị, nhân sĩ, trí thức tham dự.
          Tháng 7-1961, Ủy ban mặt trận 6 tỉnh miền Trung Nam Bộ và ủy ban các tỉnh, các vùng khác cũng thành  lập [6, tr.138].
          Cuối tháng 8-1962, Khu uỷ miền Đông tổ chức Đại hội thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Đông Nam Bộ [31]. Đại hội tổ chức tại chiến khu Đ với gần 200 đại biểu tham dự. Đại biểu của đảng Nhân dân cách mạng miền Nam, đại biểu của Quân giải phóng, các đoàn thể chính trị cách mạng (Công đoàn, Phụ nữ, Thanh niên, Nông dân…), các tôn giáo ( Phật, Thiên Chúa, Cao Đài). Uỷ ban Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Đông do đồng chí Lê Thành Long ( Mười Long) làm chủ tịch. Lê Đình Nhơn làm Tổng thư ký. Sự ra đời của Uỷ ban Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Đông Nam Bộ thể hiện được truyền thống đại đoàn kết dân tộc và quyết tâm kháng chiến của Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân miền Đông.
          Giữa năm 1965, tại huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, trên 200 đại biểu các ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng  tỉnh, thành phố, đại biểu các đoàn thể, đại biểu đảng bộ Nam Trung Bộ Đảng nhân dân  cách mạng Việt Nam, đại biểu phong trào tự trị Tây Nguyên… tham dự Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng Nam Trung Bộ [30]. Đại hội đã bầu 25 vị vào ủy ban Mặt trận do  nhà giáo Trần Hữu Duẫn làm chủ tịch, ông Trương Công Thuận làm phó chủ tịch, các ông Rơ Chôm Thép ( Gia Rai), ông Siu Tám ( Ê Đê), nhà báo Hồ Hiếu Dân, Đại đức Thích Giác Lượng, linh mục Gia cô bê Nguyễn Hữu Thiên là ủy viên.
          Tất cả các miền ( Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Sài Gòn –Gia Định, Trung Nam Bộ, Tây Nam Bộ) đều có Uỷ ban Mặt trận. Trong số 41 tỉnh, thành, từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mâu thì 38 tỉnh, thành đã có uỷ ban Mặt trận ra mắt nhân dân. Tất cả các xã ở vùng kềm kẹp và vùng giải phóng đều có cơ sở Mặt trận, có Uỷ ban Mặt trận làm nhiệm vụ đoàn kết toàn dân, tổ chức chính trị, quản trị, quân sự, văn hoá và cả kinh tế nữa. Xét toàn bộ cơ sở và hệ thống của Mặt trận  ta thấy Mặt trận Dân tộc Giải phóng  miền Nam Việt Nam như một Chính phủ.
          Theo báo cáo của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ trong Đại hội Mặt trận lần thứ hai :“Mặt trận vừa phải tiếp tục đảm đương nhiệm vụ chánh trị là động viên tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam, lại vừa phải gánh vác vai trò của một chính quyền đang hình thành ...”[62].
          Cho đến Đại hội Mặt trận lần thứ hai (1964) thì các ngành trực thuộc trung ương được tổ chức và kiện toàn bao gồm các ban: ban Quân sự trung ương, ban Thông tin văn hoá và giáo dục, ban Liên lạc đối ngoại, ban Kinh tế tài chính, ban Y tế, ban Bảo vệ an ninh, ban Quản lý vùng giải phóng, ban Giao thông liên lạc [23].
          Trên mặt trận ngoại giao, từ năm 1962, Mặt trận Dân tộc giải phóng chủ trương đẩy mạnh các họat động đối ngoại, gắn cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân ta với phong trào đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ trên thế giới. Họat động ngọai giao của Mặt trận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đạt hiệu quả rất khả quan, có tác dụng xây dựng ba tầng Mặt trận bao vây đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh tạo điều kiện cho ta “đánh cho ngụy nhào”.
          Theo ông Nguyễn Hữu Thọ : trước khi có chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam “Mặt trận Dân tộc Giải phóng đồng thời làm chức năng nhà nước. Uỷ ban Trung ương Mặt trận thực tế là chính phủ cách mạng ở miền Nam, các uỷ ban tỉnh, quận, xã…thực hiện nhiệm vụ quản lý vùng giải phóng” [18].
          Cơ quan tuyên truyền của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là Thông tấn xã Giải phóng, báo Giải phóng và Đài phát thanh Giải phóng cùng với trên 30 tờ báo trung ương và địa phương.

          2.1.1.3. Các đoàn thể trong Mặt trận

          Ngay từ khi mới ra đời, Mặt trận DTGPMNVN đã nhanh chóng trở thành trung tâm đoàn kết của tất cả các lực lượng yêu nước ở miền Nam. Uy thế của Mặt trận những ngày đầu cũng rất lớn, nhiều vùng rộng lớn ở miền Nam Việt Nam chính quyền Diệm không còn tồn tại, “nông dân chỉ biết có chính phủ bí mật “ [7] ( ý nói uỷ ban Mặt trận dân tộc giải phóng ở các địa phương) tồn tại song song hoặc thay thế nhiều cấp chính quyền của Mỹ -Diệm. Nông dân thôi không nộp thuế, thôi không đi lính, thôi không đi bỏ phiếu cho chính quyền Diệm, và thôi cả việc giữ những thẻ kiểm tra của chính quyền Diệm.
          Thực hiện nghị quyết Bộ chính trị: “Mặt trận cần phải ra sức tăng cường lực lượng công nông, lấy công nông làm cơ sở, đoàn kết chặt chẻ với các tầng lớp trí thức, học sinh, tranh thủ lôi kéo các tầng lớp bên trên, đặc biệt là giới công thương và lôi kéo cả những người địa chủ yêu nước, hợp tác chặt chẻ với các đảng phái, tôn giáo yêu nước” [58]. Mặt trận Dân tộc giải phóng đã huy động tất cả các tổ chức, đoàn thể, đảng phái, tôn giáo, dân tộc ở miền Nam tham gia Mặt trận.
          Hơn một năm sau khi ra đời. Mặt trận DTGPMNVN đã tập hợp vào hàng ngũ của mình hàng triệu người ở nông thôn cũng như ở thành thị. Các uỷ ban Mặt trận dân tộc giải phóng, các uỷ ban dân tộc tự trị và các tổ chức quần chúng khác lần lượt thành lập ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ. Nhân dân miền Nam, đủ các tầng lớp, không phân biệt chính kiến, tín ngưỡng, dân tộc đã tham gia vào các tổ chức của Mặt trận. Hơn hai mươi tổ chức chính trị, quân sự, tôn giáo đã gia nhập Mặt trận, trong đó có:
- Ngày 4-1-1961 : thành lập “Nhóm những người đấu tranh cho hòa bình thống nhất độc lập Tổ quốc Việt Nam ”, nhóm nầy bao gồm những binh sĩ yêu nước trong quân đội ngụy, sau khi thành lập nhóm nầy xin gia nhập Mặt trận [11, tr.21].
- Ngày 9-1-1961 : Hội Liên hiệp học sinh, sinh viên giải phóng, chủ tịch ông Trần Bửu Kiếm.
- Ngày 31-1-1961, đảng Dân chủ miền Nam Việt Nam thành lập, đảng của giai cấp tư sản dân tộc ở miền Nam .
- Ngày 15-2-1961, thành lập Giải phóng quân miền Nam Việt Nam .
- Ngày 20-2-1961: Hội Nông dân giải phóng, chủ tịch ông Nguyễn Hữu Thế.
- Ngày 8-3-1961 :Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng, chủ tịch bà  Nguyễn Thị Tú, về sau bà  Nguyễn  Thị Định.
- Ngày 30-3-1961, Hội Chấn hưng Đạo đức của Phật giáo Hòa hảo thành lập, chủ tịch: Nguyễn Thị Biền.
- Ngày 31-3-1961, nhóm Công thương gia yêu nước miền Nam thành lập.
- Tháng 4-1961, Hội Những người Công giáo Kính Chúa yêu nước thành lập.
- Ngày 8-4-1961, Hội Lục hòa Phật tử miền Nam Việt Nam thành lập
- Ngày 24-4-1961 : Hội Liên hiệp thanh niên giải phóng, chủ tịch ông Trần Bạch Đằng.
- Ngày 27-4-1961 : Hội Lao động giải phóng, sau đổi là Liên hiệp Công đoàn giải phóng, chủ tịch ông  Phan Xuân Thái tức ông Phan Văn Đáng .
- Ngày 19-5-1961 : thành lập Ủy ban Tự trị Dân tộc Tây Nguyên, chủ tịch ông Y Bih Alêô, dân tộc Ê-đê.
- Ngày 1-7-1961 : Đảng xã hội cấp tiến miền Nam Việt Nam, đảng của những trí thức yêu nước miền Nam, Tổng thư ký ông Nguyễn Văn Hiếu .
- Ngày 1-7-1961, Hội Những người kháng chiến cũ ở miền Nam Việt Nam gia nhập Mặt trận. Hội ra tuyên ngôn và tuyên bố cương lĩnh của Hội, chủ tịch : Phan Văn Đáng, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký : Trần Bạch Đằng.
- Ngày 15-7-1961 : Hội Văn nghệ giải phóng, chủ tịch: ông Trần Hữu Trang, Tổng thư ký: ông Lý Văn Sâm.
- Tháng 9-1961 : Uỷ ban Bảo vệ hoà bình thế giới của miền Nam Việt Nam , chủ tịch: Bác sĩ  Phùng Văn Cung.
- Ngày 11-11-1961 : Hội Nhà báo yêu nước và dân chủ miền Nam Việt Nam , chủ tịch ông Vũ Tùng, về sau ông Tân Đức.
- Ngày 1-1-1962, Đảng Nhân dân cách mạng thành lập, đây là đảng của những người theo chủ nghĩa Mác Lênin, có vai trò rất quan trọng trong Mặt trận .
- Ngày 1-1-1962, Đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng Việt Nam thành lập.
- Ngày 30-10-1962, thành lập hội Hồng thập tự giải phóng miền Nam Việt Nam , chủ tịch : Bác sĩ Phùng Văn Cung.
          - Ngày 20-11-1963, thành lập Hội Nhà giáo yêu nước miền Nam Việt Nam [49, tr.36], Ban vận động thành lập  Hội Nhà giáo yêu nước miền Nam Việt Nam đã ra bản dự thảo điều lệ và lời kêu gọi. Các địa phương nhiệt liệt hưởng ứng. Ở Sài Gòn - Gia Định thành lập một Khu hội để vận động giáo chức, đầu tiên là lực lượng của nghiệp đoàn giáo học tư thục.
Ngoài ra, còn có các Ủy ban đoàn kết Á – Phi, Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới, Hội Luật gia dân chủ cũng ra đời và thống nhất hành động với Mặt trận ở khắp mọi nơi.
Sự phát triển các đoàn thể và tổ chức của Mặt trận Dân tộc giải phóng gắn liền với sự phát triển về nội dung và hình thức đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam. Qua cuộc đấu tranh nầy, đội ngũ cách mạng ngày càng được tôi luyện, lực lượng cách mạng ngày càng đông đảo, lực lượng cách mạng không ngừng củng cố và phát triển.

2.1.1.4.Các đại hội Mặt trận

* Đại hội Mặt trận DTGPMNVN lần thứ nhất [18, tr.406].
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Trung ương Cục miền Nam  về củng cố, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất, từ ngày 16-2-1962 đến ngày 3-3-1962, tại vùng núi Kà Tum ( Tây Ninh ), khoảng 80 đại biểu các chính đảng, đoàn thể, lực lượng vũ trang giải phóng, đại diện các dân tộc, các tôn giáo đã họp Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ nhất.
Đại hội đã kiểm điểm và đánh giá công tác chỉ đạo của uỷ ban Trung ương lâm thời. Đại hội đã nhất trí  hoàn toàn tín nhiệm sự chỉ đạo của Uỷ ban Trung ương lâm thời và biểu dương  công lao to lớn của  Uỷ ban Trung ương lâm thời  đã vượt bao khó khăn buổi ban đầu để đưa phong trào cách mạng miền Nam tiến lên  và đã từng bước tạo thế và lực vững chắc cho Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam .
Đại hội cử  ra Uỷ ban Trung ương chính thức gồm 52 vị. Đoàn chủ tịch gồm 15 vị, chủ tịch là Luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Ban thư ký có 5 vị, Tổng thư ký là Kiến trúc sư  Huỳnh Tấn Phát, và 30  uỷ viên ( xem phụ lục I ). Trong đại hội bầu ra 31 vị, còn lại 21 vị để giành cho các tổ chức, cá nhân chưa có điều kiện tham gia đại hội.
Đại hội đã công bố 4 chủ trương cứu nước khẩn cấp trong tình hình mới :
- Thứ nhất: Chính phủ Mỹ phải đình chỉ chính sách và hành vi xâm lược vũ trang miền Nam Việt Nam, phải giải tán bộ chỉ huy quân sự Mỹ (lập ở Sài Gòn), phải rút lui hết quân đội và nhân viên quân sự của Mỹ và của chư hầu, đồng minh Mỹ, phải đưa ra khỏi miền Nam các vũ khí Mỹ và phương tiện chiến tranh.
- Thứ hai: Các phái hữu quan ở miền Nam đình chỉ chiến tranh, lập lại hoà bình, và thực hiện an ninh ở khắp miền Nam trong tinh thần người miền Nam giải quết vấn đề nội bộ của mình. Chính quyền miền Nam chấm dứt các cuộc hành quân khủng bố, các cuộc tàn sát, đàn áp, bắn giết nhân dân, bãi bỏ lệnh khẩn cấp và ngừng ngay việc dồn dân lập ấp chiến lược, giải tán các khu ấp chiến lược đã được dựng lên.
- Thứ ba: Thành lập một chính phủ liên hiệp dân tộc gồm đại biểu của các đảng, các phái, các nhóm thuộc các khuynh hướng chính trị, các tầng lớp, các giới, các tôn giáo và dân tộc ở miền Nam. Chính phủ liên hiệp có trách nhiệm thực hiện và bảo đảm hoà bình, tổ chức tổng tuyển cử tự do để bầu một Quốc hội dân chủ ở miền Nam và thi hành những chính sách cấp bách, ban hành tự do dân chủ cho mọi đảng, mọi nhóm chính trị, mọi tôn giáo, trả tự do cho tất cả những tù chính trị, giải tán tất cả các trại an trí và mọi hình thức tập trung khác, đình chỉ việc bắt lính và việc quân sự hoá thanh niên, phụ nữ, công chức, học sinh, thi hành các  chính sách kinh tế nhằm bảo đảm tự do kinh doanh, độc lập kinh tế, bãi bỏ độc quyền và cải thiện đời sống cho mọi tầng lớp nhân dân.
- Thứ tư: Miền Nam Việt Nam sẽ thi hành đường lối ngoại giao hoà bình trung lập, đặt quan hệ hữu hảo với tất cả các nước, trước hết là các nước láng giềng, không gia nhập vào một khối quân sự nào, không thừa nhận cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở miền Nam, nhận viện trợ không kèm theo điều kiện chính trị của tất cả các nước. Một hiệp ước quốc tế cần thiết được ký gấp rút để các cường quốc thuộc các khối cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, lãnh thổ toàn vẹn và nền trung lập của miền Nam Việt Nam. Miền Nam Việt Nam sẵn sàng với Campuchia, Lào, hình thành một khu vực trung lập, cả ba đều có chủ quyền đầy đủ.
Bốn chủ trương khẩn cấp của Mặt trận nhằm cô lập đế quốc Mỹ và bọn tay sai đầu sỏ ở miền Nam Việt Nam, nhằm mở rộng hơn nữa phạm vi hành động thống nhất chống Mỹ và tay sai, mở ra con đường giải quyết vấn đề miền Nam, chấm dứt chiến tranh xâm lược  của đế quốc Mỹ.
Đại hội Mặt trận DTGPMNVN lần thứ nhất khẳng định: Nhiệm vụ chung của Mặt trận DTGPMNVN là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên minh dân tộc, dân chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hoà bình, thi hành chính sách trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới. Chủ trương “thi hành chính sách trung lập ” là một sách lược mềm dẻo, nhằm tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước chống Mỹ - Diệm [53].
Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua Nghị quyết về một số công tác quan trọng, trong đó công tác số 1 là “chống ấp chiến lược và gom dân”. Sau khi vạch trần âm mưu thâm độc của “quốc sách” ấp chiến lược, Đại hội chỉ rõ :”Đây là vấn đề trung tâm, then chốt của kế hoạch Stalay- Taylo, cho nên địch quyết sống chết và đang dùng đủ hình thức, đủ mánh khóe, thủ đoạn, nhất là dùng bạo lực để khủng bố, tàn sát để bắt sạch, cướp sạch, phá sạch, buộc nhân dân phải gom về đồn bót và xây dựng khu ấp chiến lược cho chúng”.
Từ phân tích trên, Mặt trận đã ra quyết nghị:”Chống phá kế hoạch khu, ấp chiến lược và gom dân là nhiệm vụ công tác quyết định nhất trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tính mạng, tài sản của 14 triệu đồng bào miền Nam, duy trì và mở rộng phong trào đấu tranh cách mạng là vấn đề mấu chốt trong việc bẻ gãy kế hoạch Stalay -Taylo”. Nghị quyết nhấn mạnh: ”Đó là công tác trọng tâm hàng đầu của các cấp uỷ, ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng, của tất cả các lực lượng chính trị và vũ trang” [52].
Đại hội là một sự kiện chính trị quan trọng, góp phần cổ vũ, động viên nhân dân miền Nam đoàn kết trong sự nghiệp chống đế quốc Mỹ và tay sai. Hàng triệu người trên khắp miền Nam đã tổ chức mít tinh hoan nghênh Uỷ ban Mặt trận và bày tỏ niềm tin tưởng vào chính sách đúng đắn, chính nghĩa của Mặt trận .
* Đại hội Mặt trận DTGPMNVN lần thứ hai [54], [62]
Đại hội Mặt trận  diễn ra từ ngày 1-1 đến ngày 8-1-1964 tại một địa điểm gần Xóm Giữa ( Tây Ninh ). Có 150 đại biểu tham dự đại hội. Đây là đại hội có đầy đủ thành phần tham dự  hơn đại hội trước. Có đại biểu người Kinh, người Chăm, người miền Bắc di cư ( trong đó có một vị linh mục ), có đại biểu của các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo, Bình Xuyên, có các sĩ quan chế độ Sài Gòn từng tham gia cuộc đảo chính 11-11- 1960, có đại biểu từ  nước ngoài về, đại biểu từ các đô thị ra.
Đại hội cử ra một Uỷ ban trung ương gồm 45 vị, cũng do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch, đa số các đại biểu trong đại hội trước đều được trân trọng tín nhiệm và giữ lại, trừ  các đại biểu tuổi cao sức yếu hoặc đã hy sinh trong chiến đấu. Đại hội còn giành riêng 11 ghế cho các chính đảng, đoàn thể, lực lượng yêu nước, nhân sĩ còn trong vùng tạm chiếm sẽ tham gia sau này.
Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, đại diện  Uỷ ban trung ương Mặt trận đọc Báo cáo chính trị tại đại hội .
Báo cáo chính trị đã tổng kết tình hình hai năm đánh Mỹ : “Cuộc chiến tranh xâm lược do đế quốc Mỹ phát động, mặc dầu với nhiều cố gắng, đã vấp phải những thất bại căn bản. Chúng bị đánh lui trên nhiều trận địa, không thể gượng dậy. Nói về chánh trị và về quân sự thì địch đang bước vào thời kỳ sụp đổ, chiến thuật trực thăng vận và “quốc sách ” ấp chiến lược tan vỡ có nghĩa là những phần chủ yếu nhất của chiến tranh đặc biệt đã lung lay. Kẻ thù đã không thể giành được thế chủ động, trái lại còn bị động hơn bao giờ hết…” [62].
Báo cáo chính trị cũng đề ra phương hướng  nhiệm vụ sắp tới  là “không ngừng thổi bùng ngọn lửa thi đua … đẩy mạnh phong trào thi đua 4 tốt của thanh niên và nhất là phong trào “thi đua ấp Bắc giết giặc lập công”  trong các giới, ở tất cả các vùng ” [62]. Nhiệm vụ sắp tới của Mặt trận là tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam, chấp hành đúng đắn những chính sách của Mặt trận, bảo đảm thực hiện  Chương trình hành động  Mặt trận đã đề ra.
Ảnh hưởng của Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ hai  thật to lớn đối với trong nước và trên thế giới. Từ đây Mặt trận công khai là người lãnh đạo  cách mạng miền Nam, là người đại diện chân chính của 14 triệu đồng bào miền Nam. Mặc dù chưa lập được chính phủ nhưng  Mặt trận được nhiều nước trên thế giới thừa nhận, có nhiều nước tiếp nhận đại diện chính thức, thậm chí có nơi còn công nhận Đại sứ đặc mệnh toàn quyền.

2.1.2. Xây dựng chính quyền và đời sống nhân dân trong vùng giải phóng

            * Xây dựng chính quyền và vùng giải phóng.
Muốn giải phóng dân tộc khỏi ách ngoại bang, nhất thiết phải  đấu tranh vũ trang. Cuộc chiến đấu vũ trang phát triển đến một mức độ nào đó, tất nhiên làm nảy sinh ra vùng tự quản, vùng giải phóng của nhân dân, phân biệt với vùng bị  nguỵ quyền kềm kẹp, vùng giải phóng là căn cứ địa của cách mạng.
Ở miền Nam từ 1954 đến  trước năm 1960, Mỹ -Diệm kiểm soát tuyệt đại đa số các thôn xã. Tuy nhiên, ngay ở các vùng đồng bằng, một số thôn xã bề ngoài  thì vẫn có nguỵ quyền, nhưng vì ở đấy lực lượng của nhân dân mạnh nên sức kềm kẹp của địch bị hạn chế. Đồng thời, ở nhiều vùng rừng núi Nam Bộ, Tây Nguyên, các tỉnh duyên hải Trung Bộ, địch chưa đặt nổi bộ máy nguỵ quyền của nó. Nhưng dù sao thì những nơi nầy nhân dân cũng chưa xây dựng được bộ máy tự quản của mình.
Từ 1959 - 1960, bão táp cách mạng nổi lên, trước hết là ở Nam Bộ và vùng miền núi miền Trung Trung Bộ, chính quyền Diệm sụp đổ từng mãng. Nhiều nơi nhân dân đã nổi dậy phá thế kềm kẹp của địch, nhiều nơi tự xây dựng chính quyền tự quản. Đến cuối 1960, vùng tự do (là vùng không còn nguỵ quyền) và vùng phá thế kềm kẹp ( là vùng có cơ quan nguỵ quyền nhưng bất lực ), hai loại  đã phát triển nhiều nơi. ở Nam Bộ có 1.000 xã trên tổng số 1.300 xã. Miền rừng núi Nam Trung Bộ có 5.000  thôn trên tổng số 9.000 thôn.
Năm 1961, nguỵ quyền ra sức chèo chống, cố sức lập lại những vùng tề đã bị diệt, củng cố tề ở những vùng tề bất lực, nhưng vùng tự quản của nhân dân và vùng phá thế kềm kẹp vẫn giữ được, chẳng những giữ được mà còn mở rộng. Số xã do nhân dân tự quản ở Nam Bộ là 1.070 xã, ở Nam và Trung Trung Bộ là 5.100 xã.
Năm 1962, năm Mỹ- Diệm ra sức càn quét gom dân lập ấp, năm thực hiện kế hoạch Stalây- Taylo, năm Mỹ- Diệm mở nhiều cuộc phản công lớn nhằm giành lại thế chủ động và tiêu diệt vùng tự do, tiêu diệt các lực lượng vũ trang nhân dân miền Nam, nhưng về cơ bản chúng bị thất bại. Cuối năm 1962, chúng ta có 76 % diện tích và 50% dân số toàn miền Nam.
Cuối tháng 11-1963, miền Trung Nam Bộ có tất cả là 498 xã ,trong đó có 86 xã giải phóng hoàn toàn, 160 xã còn đồn bốt địch , nhưng các đồn bốt đó bị giam trong một khu đất hẹp, mỗi lần lính Mỹ- Diệm muốn đi ra xa đồn thì phải xin phép  quân du kích thì mới được ra vào an toàn, 162 xã còn lại còn bị địch kiểm soát từ một nửa đến 2/3 đất đai, chỉ còn 90 xã còn ở trong vùng kềm kẹp của địch [22].
Cuối năm 1963, vùng giải phóng và phá thế kềm kẹp bao gồm một dải đất rộng lớn chạy từ cực Bắc Tây Nguyên đến tận miền Đông Nam Bộ, lưu vực sông Cửu Long xuống đến tận mũi Cà Mâu. Tuy lúc nầy chưa có tỉnh nào được hoàn toàn tự do, nhưng không phải chỉ vùng rừng núi hiểm trở, mà ngay cả vùng đồng bằng, nhiều tỉnh như Tân An, Mỹ Tho, Bến Tre... địch bị dồn tới sát thị trấn, thị xã. Các vùng giải phóng và phá thế kềm kẹp chia cắt, lấn át, cài nhau với các vùng còn bị địch thống trị, bao vây chúng càng ngày càng chặt.
Vùng giải phóng là kết quả cao nhất của phong trào đấu tranh chính trị và vũ trang của nhân dân. Bằng đấu tranh chính trị và vũ trang, nhân dân đã bức rút đồn bốt  hay trực tiếp hạ đồn bốt, nhân dân bức tề chạy trốn hay trực tiếp diệt tề. Nguỵ quyền bị giải tán, nguỵ quân được giáo dục, ác ôn bị trừng trị. Có nhiều nơi nhân dân tuỳ tình hình cụ thể mà dùng một phần cái vỏ nguỵ quyền xã cũ để bênh vực một số lợi ích của mình. Nhưng nói chung thì nhân dân tự quản hẳn, cấp uỷ và Mặt trận Dân tộc giải phóng thường làm nhiệm vụ quản lý làng xã tự do, lập ra uỷ ban Mặt trận để quản  lý làng xã.
Vùng giải phóng là nguồn cung cấp sức người sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Vùng giải phóng còn là ngọn cờ hiệu triệu nhân dân trong các vùng, miền bị Mỹ- Diệm kiểm soát đứng lên chiến đấu để tự giải phóng. Vùng giải phóng rộng lớn bao nhiêu thì nguỵ quyền càng bị động bấy nhiêu, quân số càng thiếu, thuế càng thất thu, cho đến gạo nhiều khi cũng phải nhập cảng mới đủ cung cấp cho thị trường. Những hiện tượng khủng hoảng đó của chế độ Mỹ-Diệm liên quan sâu sắc đến sự thành lập, sự củng cố và sự phát triển của vùng giải phóng .
Từ 1964 đến 1965, vùng giải phóng càng được mở rộng và được củng cố, chiếm  ¾ diện tích và  2/3 dân số miền Nam Việt Nam .
Thời điểm lịch sử từ sau khi chính quyền Diệm bị sụp đổ cho tới trước khi đế quốc Mỹ đưa đại quân vào miền Nam Việt Nam là thời gian nguỵ quyền Sài Gòn không ổn định nhất. Đây là thời kỳ phong trào đấu tranh của nhân dân đô thị liên tục lên cao, cuộc đấu tranh vũ trang và chính trị sôi nổi mạnh mẽ, đều khắp từ vĩ  tuyến 17 đến Cà Mâu, từ Tây Nguyên xuống vùng biển. Đây là thời gian nguỵ quân bị thất bại liên tiếp. Nếu từ 1962 đến 1963, địch  thụt lùi chầm chậm thì từ  cuối 1963 chúng lùi nhanh chóng, nhất là những nơi đông dân, gần biển, ven đô.
Từ cuối 1964, các đồng bằng miền Trung Trung Bộ được giải phóng, sang đầu 1965, vùng thống trị cũ của địch thu hẹp nhiều, có thể nói không một nơi nào trong thời gian nầy địch tấn công được vùng giải phóng. Trái lại, vùng giải phóng mở rộng, từ phân nửa diện tích toàn miền Nam lên đến ba phần tư với hai phần ba dân số toàn miền Nam. Địch bị dồn về các đô thị và vùng phụ cận, bị dồn về một số những con đường giao thông huyết mạch đã bị cắt đứt ra từng đoạn. Mặt trận Dân tộc Giải phóng chẵng những kiểm soát chín phần mười biên giới trên bộ giữa Việt Nam - Cam-pu-chia và Việt-Lào mà còn kiểm soát phân nửa các bờ biển của miền Nam .
Ở Tây Nguyên, vùng tạm chiếm chỉ còn ở xung quanh 4 tỉnh thành Kom Tum, Plây Ku, Buôn Ma Thuột  và Đà Lạt, ở  một phần dọc đường 14 và con đường từ Cheo Reo đi Củng Sơn, dọc theo sông Ba. Ở Trung Trung Bộ, một rẻo đất dọc theo quốc lộ 1 từ sông Bến Hải đến Đà nẵng, quanh thị trấn Hội An, Quy Nhơn. Ở Nam Trung Bộ, một rẻo đất từ biên giới phía Bắc Khánh Hoà tới Phan Rí và một lõm từ Phan Thiết tới Hàm Tân, dọc theo đường số 1. Ở miền Đông Nam Bộ, địch chỉ còn làm chủ vùng xung quanh Sài Gòn, con đường đi Vũng Tàu, đi Mỹ Tho. Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng tạm chiếm còn rất ít.
Theo báo cáo của Trung ương Cục lần thứ ba (10-1965) số ấp chiến lược còn lại ta chưa phá được là 1.712 ấp chiến lược, vùng giải phóng mở rộng trên 7 triệu dân [30].
Nhìn chung, chỉ thị của Mặt trận Giải phóng cho các tổ chức vũ trang và chính trị của mình “phải làm sao cho xã liền xã, quận liền quận, tỉnh liền tỉnh” [23] đến năm 1965 bước đầu đã được thực hiện.
Trong vùng giải phóng không còn nguỵ quyền nữa. Nhân dân tự quản, chỉ có nguỵ quyền ở cấp quận, cấp tỉnh. Nguỵ quyền cấp quận, tỉnh cũng không còn tay chân ở xã nữa nên bản thân chúng không còn tác dụng cai trị mà trở thành những đối tượng để đồng bào nông thôn đấu tranh trực diện, đòi đình chỉ càn quét, khủng bố, đòi chấm dứt chính sách gom dân lập ấp chiến lược.
Vì vậy, từ sau Đại hội Mặt trận lần thứ nhất ( 16-2-1962), “Uỷ ban nhân dân tự quản tự chuyển thành Uỷ ban giải phóng ” [18, tr.407]. Uỷ ban giải phóng đảm nhiệm chức năng chính quyền ngày càng rõ nét và có hiệu quả, Uỷ ban giải phóng chăm lo nhiều mặt cho đời sống của nhân dân, nhất là trong những đợt càn quét của địch, trong việc cung cấp lương thực  và vận động tuyển mộ tân binh  cho lực lượng võ trang, một số nơi đã giành lại ruộng đất cho nhân dân đã được cách mạng tạm cấp trước đây nay bị địch cướp giật.
Trong vùng giải phóng và một phần vùng tranh chấp, Uỷ ban Mặt trận Dân tộc giải phóng và Uỷ ban nhân dân tự quản các cấp đã được thành lập từ Miền tới xã. Ở Tây Nguyên và vùng núi nhiều tỉnh duyên hải của Liên khu V cũ , song song với các Uỷ ban nhân dân tự quản, có lập những  Uỷ ban phong trào dân tộc tự trị. Uỷ ban Mặt trận và Uỷ ban phong trào tự trị không phải chỉ có ở vùng giải phóng mà có cả một số vùng tạm chiếm.
“Mục đích của ta là đánh đổ chính quyền địch, xây dựng chính quyền cách mạng của ta. Nhưng trước mắt ta chưa xây dựng được chính quyền cuả ta ở những nơi chính quyền địch tan rã. Ở các vùng miền núi và một số vùng đồng bằng, nếu chính quyền địch tan  rã  thì ta dùng các uỷ ban Mặt trận địa phương làm cả nhiệm vụ giữ gìn trật tự  trị an, hướng dẫn quần chúng đoàn kết, sản xuất, học tập, cải thiện đời sống, bảo vệ trật tự cách mạng ,v.v….đó là mầm mống của chính quyền cách mạng sau nầy  ” [58, tr.305].
* Đời sống nhân dân trong vùng giải phóng.
Thực hiện Tuyên ngôn và chương trình của Mặt trận, những nơi chính quyền Diệm bị sụp đổ thì ở đó Uỷ ban Mặt trận điều hành quản lý địa phương, Mặt trận đã đề ra nhiều biện pháp nhằm bênh vực quyền lợi thiết thực cho nông dân như: chia ruộng đất, giảm tô, xoá nợ.
Tính đến năm 1962, nông dân miền Nam Việt Nam đã giành lại được 650.000 mẫu ruộng vườn được chia hồi trước khi chiến tranh Đông Dương kết thúc (1954) mà Mỹ-Diệm và tay chân đã cướp đoạt từ 1954 đến 1959.
Đến cuối năm 1962, nông dân theo lời kêu gọi của Mặt trận đã khai hoang được 101.250 mẫu, Mặt trận cấp cho nông dân thêm 700.000 mẫu. Tính đến năm 1963, trên 2.000.000/ 3.200.000 mẫu ruộng vườn  đã về tay nông dân.
Số lượng đất được khai hoang, phần nào đã nói lên một cách sinh động sự lớn mạnh của vùng giải phóng, nói lên sự gắn bó không gì lay chuyển nổi của hàng triệu nông dân miền Nam đối với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và nói nói lên sự tham gia tích cực của nông dân và phong trào đấu tranh vũ trang và chính trị.
Nông dân miền Nam trong vùng giải phóng cũng được giảm tô rất lớn. Mức tô những năm 1962-1963 giảm từ 40 đến 80 % so với mức tô năm 1958-1959. Ngay trong vùng mới phá thế kềm kẹp thì nông dân chỉ phải nộp thuế cho điền chủ từ 8 đến 20% .
Tính chung, ở Nam Bộ,  từ ngày Đồng khởi (1960) cho đến ngày chính quyền Diệm bị lật đổ thì số tô được giảm lên đến 10 triệu giạ lúa, nghĩa là từ 210.000 đến 230.000 tấn lúa [22].
Nơi nào nhân dân tự quản hay phá thế kềm kẹp thì Mặt trận tuyên bố xoá bỏ mọi khoản nợ của nông dân đối với tổ chức “Nông tín cuộc” của Mỹ-Diệm.
Trong vùng giải phóng, trên cơ sở ruộng đất được cấp, nông dân rất hăng hái sản xuất, trước hết là để cung cấp cho cuộc đấu tranh giải phóng, đồng thời cũng là để nâng cao mức sống của mình ngay trong khi chiến đấu.
Trong các khu giải phóng, Mặt trận đã phát động phong trào thi đua sản xuất. Quân và dân, tay cày tay súng, trồng tĩa quanh năm, đẩy mạnh sản xuất lúa gạo, ngô khoai, thực phẩm,  chú trọng đến chăn nuôi và các nghề tiểu thủ công nghiệp, các nghề phụ gia đình, ra sức xây dựng nền kinh tế tự túc đến mức càng cao bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, bảo đảm nhu cầu cung cấp cho kháng chiến đến mức tối đa. Không khí sản xuất ở đồng quê giải phóng chưa lúc nào sôi động như lúc nầy, vì nó được cổ vũ bằng một động cơ tinh thần vô cùng cao quý: lòng yêu nước.
Uỷ ban Mặt trận các cấp chẳng những quan tâm đến chiến sự, trị an, mà rất quan tâm đến việc hướng dẫn đồng bào cải tiến kỹ thuật canh tác, cải tiến nghề nông. Khắp các vùng tự do Nam Bộ, kể các các vùng hẻo lánh đều có máy bơm nước, máy điện, máy nổ, đài thu thanh, ghe máy, xuồng máy… khá phổ biến.
Trong quá trình chiến đấu với giặc, ta đã phá nhiều lộ chính để ngăn chặn các cuộc hành quân của địch. Bên cạnh đó, ta tổ chức đào nhiều kênh rạch nhỏ, đắp nhiều lộ nhỏ trong các xóm ấp giải phóng để đi lại. Riêng miền Trung Nam Bộ, đến năm 1963 ta đã đào 190 con kênh dài 600 km. Ở Mỹ Tho ta đào 412 km kênh mương rút phèn, nhờ vậy ở hai quận Châu Thành và Cai Lậy đã đưa diện tích trồng lúa lên gấp 3 lần so với trước giải phóng. Chỉ trong 3 tháng đầu năm 1963, nông dân quận Mỏ Cày ( Bến Tre) đã lập thêm được 3.000 công vườn, trồng thêm 160 công dừa, 169 công quýt, 2.563 công mía.
Điều đáng chú ý là việc đào kênh khai mương, đắp bờ trồng cây, lên vườn không phải chỉ nhằm mục đích kinh tế mà còn theo kế hoạch tác chiến quân sự nữa. Kênh là đường giao thông mau lẹ cho xuồng, mương là chiến hào, cây trồng bờ mương bảo vệ việc đi lại cho cán bộ, ngăn chặn việc tấn công của  xe lội nước M113.
Vùng rừng núi từ miền Đông Nam Bộ  tới Tây Nguyên điều kiện sản xuất khó khăn: rừng núi bao la, đất đai chưa khai phá, dân cư thưa thớt, địch bao vây phá hoại, ta thiếu dụng cụ canh tác và thiếu cả muối ăn. Nhu cầu kháng chiến thì mỗi năm mỗi lớn. Do đó, phương châm của Mặt trận là khắc phục mọi khó khăn, vừa đẩy mạnh chiến đấu, vừa phát triển sản xuất, không sản xuất được gần căn cứ thì sản xuất xa, không sản xuất tập trung được thì sản xuất phân tán, phấn đấu sản xuất  đủ để tự túc lương thực.
Năm 1963, ở vùng rừng núi căn cứ, đồng bào, cán bộ và bộ đội đã trồng tới hàng triệu gốc sắn, tỉa 470 ngàn đấu bắp và 1.070 tấn lúa giống. Chăn nuôi bình quân 7 người nuôi 1 con heo.
Về tiểu công nghệ, mở nhiều lò rèn nông cụ, phát triển một số khung cửi, số bàn dệt thô sơ. Số thợ dệt lên tới 5.000, giải quyết được một phần vải mặc cho nhân dân.
Một điều đáng chú ý là trong sản xuất ở đồng bằng Nam Bộ cũng như miền núi Trung Bộ, là sự phát triển của tinh thần tập thể, tinh thần tương trợ. Lao động sản xuất tập thể trở thành một kiểu làm ăn rộng rãi và sôi nổi, một phần vì giác ngộ chính trị, một phần vì tình thế khách quan đòi hỏi, xuất hiện ngày càng nhiều tổ đổi công, tổ hợp tác.
Năm 1962, tỉnh Quảng Ngãi có 600 tổ đổi công, ở 3 tỉnh Bến Tre, Mỹ Tho, Long An có gần 2.000 tổ tương trợ sản xuất. Cuối 1963, ở Mỹ Tho, các tổ vần công, tổ đổi công có 12 vạn hội viên.
Trong phong trào thi đua sản xuất, phụ nữ nông thôn luôn là lực lượng hùng hậu nhất. Ngoài việc đấu tranh chính trị và tham gia du kích bảo vệ xóm làng, các chị xung phong gánh vác mọi công việc đồng áng, quản lý gia đình để chồng con đi bộ đội giết giặc lập công. Ngoài ra các chị còn tham gia giúp đỡ các gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình neo đơn, tham gia văn nghệ, tham gia dạy học...
Mặt trận Dân tộc Giải phóng  không chỉ hết sức chăm lo giải quyết các vấn đề kinh tế, mà còn chăm lo giải quyết các vấn đề văn hoá, văn nghệ trong vùng giải phóng.
Đồng hành với cuộc kháng chiến, một nền “giáo dục dân tộc, tiến bộ, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân” được phát triển mạnh mẽ trong vùng giải phóng. Ngay từ năm 1962, phong trào “học tập bình dân chống Mỹ” đã phát triển ở Nam Bộ. Bên cạnh đó hệ thống trường tiểu học, trung học được thiết lập, thu hút hàng chục vạn thanh, thiếu niên. Có thể nói không có vùng giải phóng nào là không có trường học.
Vùng giải phóng miền Tây Nam Bộ, trong năm 1962 có 1.117 trường tiểu học và trung học, gần 20 vạn học sinh. Vùng giải phóng tỉnh Bình Thuận có 17 trường phổ thông và 2 trường cho đồng bào dân tộc miền núi. Vùng giải phóng tỉnh Kom Tum và tỉnh Đắc Lắc có 7 trường dân tộc và 39 lớp bình dân . Sang năm 1963, toàn miền Nam có tới 1 triệu học sinh trong vùng giải phóng trên tổng số dân trong vùng giải phóng là 7 triệu.
Uỷ ban trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng  miền Nam Việt Nam đã thành lập “Ban thông tin, văn hoá, giáo dục” để chỉ đạo các hoạt động trong vùng giải phóng. Năm 1963, thành lập trường sư phạm đầu tiên trong vùng giải phóng mang tên “Trường Tháng Tám ”, viết một số sách giáo khoa các môn Văn, Sử, Địa và Toán cho cấp 1 và cấp 2. Tới năm 1965, đã có 283 loại sách giáo khoa được biên soạn, nhà in Giáo dục Giải phóng đã in trên 1.000 cuốn sách khác nhau. Học sinh vừa học vừa tham gia sản xuất, tham gia công tác chiến đấu như vót chông, rào làng, trinh sát, giao liên. Không ít học sinh trở thành dũng sĩ diệt Mỹ. Sự kiện nổi bật trong giai đoạn nầy là đặt ra chữ viết cho các dân tộc Tây Nguyên.
Sân khấu, văn nghệ trong vùng giải phóng cũng phát triển mạnh mẽ, nhiều nghệ sĩ bỏ vùng Mỹ- Diệm chạy ra vùng tự do mang theo tiếng hát lời ca phục vụ kháng chiến, nhiều diễn viên, soạn giả là chiến sĩ, nhiều nghệ sĩ xuất thân từ quần chúng. Đời sống sôi nổi vui tươi và đầy nhiệt tình cách mạng đã sản sinh ra nhiều đội văn công giải phóng.
Năm 1963, ở miền Đông Nam Bộ có 100 đội văn nghệ và tổ ca vũ ở xã, ở miền núi có 10 đội văn công dân tộc ít người. Những đơn vị Giải phóng quân đều có đoàn văn công riêng.
Các đội văn công giải phóng cũng có nhiều tiết mục rất phong phú, chương trình biểu diễn ngày càng hấp dẫn. Năm 1962, có trên 62 vở kịch nói, cải lương, tuồng. Các tiết mục như: “Lê Lợi khởi nghĩa”, “Nợ nước thù nhà”, “Lời ca bất khuất”… có nội dung tư tưởng và giáo dục sâu sắc.
Đến năm 1963 vùng giải phóng có xưởng phim Giải phóng, sản xuất được 15 bộ phim giới thiệu đủ các mặt hoạt động yêu nước của các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo. Ở các tỉnh đều có đội chiếu bóng lưu động. Những bộ phim có giá trị tuyên truyền, cổ vũ cao như: “Miền Nam anh dũng”, “Đại hội Mặt trận Dân tộc Giải phóng  miền Nam lần thứ nhất”, “Tổ săn trực thăng”…Tất cả diễn viên văn công, diễn viên điện ảnh đều ý thức sâu sắc về vai trò chiến đấu của mình, coi điện ảnh là một thứ vũ khí hiện đại, sắc bén, cùng với nhân dân miền Nam hoàn thành cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc.
Mặt trận báo chí, thông tin, phát thanh cũng phát triển khá nhanh. Đến năm 1963, toàn vùng giải phóng miền Nam có 40 tờ báo, 17 tờ tạp chí, 40 bản tin. Tờ “Tiên phong ” là cơ quan ngôn luận của Đảng nhân dân cách mạng Việt Nam, các tỉnh đều có những tờ báo của mình. Tỉnh Quảng Nam có tờ: Giải phóng, Hừng đông, tỉnh Đăc lắc có tờ báo tiếng dân tộc : Pơlir, Pơhing rim hrơi, Nam Bộ có gần 30 tờ báo. Có 13 tờ báo văn nghệ như: Văn nghệ Giải phóng, Văn nghệ Đồng Nai.
Thông tấn xã giải phóng và Đài phát thanh giải phóng hoạt động từ 1961. Thông tấn xã giải phóng phát hành bằng  3 thứ tiếng : Anh, Pháp, Hoa, phát trên làn sóng điện tử đủ mạnh để tuyên truyền về mặt quốc tế cho cách mạng miền Nam. Đài phát thanh giải phóng có ảnh hưởng rất lớn, cả trong vùng tự do và trong vùng tạm chiếm, số người nghe đài ngày càng đông làm cho Mỹ nguỵ phải thực hiện một số biện pháp đối phó. Những người làm báo, thông tín viên Thông tấn xã giải phóng cũng như những người làm báo tiến bộ trong các thành thị tập hợp nhau thành Hội Nhà báo yêu nước và dân chủ, trở thành  thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng  miền Nam Việt Nam .
Vùng giải phóng mở rộng thì cũng theo đó mạng lưới y tế cũng hình thành. Mặt trận Dân tộc Giải phóng  miền Nam vận động đồng bào lập tủ thuốc gia đình, tủ thuốc thôn xóm, lập trạm y tế, nhà hộ sinh, lập các tổ nghiên cứu và sử dụng thuốc Bắc, thuốc Nam, phối hợp Đông Tây y để phòng và chữa bệnh.
Năm 1962, trong vùng giải phóng ở miền Đông Nam Bộ xây dựng 1 bệnh viện, 5 nhà hộ sinh, 36 tủ thuốc, đào tạo 165 cán bộ y tế xã, 205 hộ sinh. Năm 1963, vùng giải phóng  miền Trung Nam Bộ xây dựng thêm 78 nhà hộ sinh với 222 hộ sinh, đào tạo thêm 125 y tá. Tinh thần thầy thuốc giải phóng được nêu cao, bác sĩ tận tâm cứu chữa bệnh nhân như người mẹ chăm sóc con cái, lại còn giành thời gian để tăng gia sản xuất và vác súng chống càn, bảo vệ bệnh viện, bảo vệ bệnh nhân.
Ngành y tế giải phóng đã góp công xứng đáng vào công việc phòng chống chất độc hoá học của Mỹ rãi trên xóm làng ở nhiều tỉnh, xây dựng các chuyên đề “chống sốt rét”, “ngoại khoa dã chiến”… Hội đồng quân dân y giải phóng đã biết tổng hợp kinh nghiệm, phổ biến nghiên cứu khoa học, kết hợp Đông Tây y, làm cho công tác điều trị có nhiều tiến bộ. 
Từ 1961 đến 1965, trong vùng giải phóng đời sống của nhân dân được nâng cao, các mặt văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế bước đầu phát triển, đời sống tinh thần của nhân dân lành mạnh, khác hẳn cuộc sống ngột ngạt, sa đọa trong vùng địch đang chiếm. “Đó là hậu phương giàu có và vững chắc của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của toàn dân ta” [55, tr.23].
Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, địch càn quét bắn phá liên miên, mà trong vùng giải phóng phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, văn nghệ, thông tin … rõ ràng là một thành công lớn, đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống của đồng bào trong vùng giải phóng, đáp ứng cho công cuộc giải phóng miền Nam [22], [23].

2.1.3. Lãnh đạo các phong trào đấu tranh chính trị

 2.1.3.1. Đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động.

          Từ năm 1960, nhất là sau khi Mặt trận DTGPMNVN ra đời, phong trào đấu tranh của công nhân khu vực Sài Gòn - Gia Định bùng lên một phong trào mạnh mẽ. Năm 1960 có 227 cuộc đấu tranh của công nhân, nhân dân lao động. Nhiều cuộc bãi công, bãi thị, xe thuyền ngừng chạy, tiệm buôn đóng cửa, truyền đơn giới thiệu Mặt trận rải khắp nơi, nhân dân họp mít tinh chào mừng Mặt trận ra đời.
Năm 1961, có 287 cuộc đấu tranh với 82.230 người tham gia. Trong năm nầy đáng chú ý nhất là cuộc đình công chiếm xưởng ngày 4-9-1961 của 400 công nhân hãng dầu Mỹ Stan-Voc được sự hỗ trợ của 100 nghiệp đoàn công nhân Sài Gòn, nghiệp đoàn Công nhân cao su miền Đông làm cho hàng trăm cây xăng bị tê liệt, việc cung cấp xăng dầu cho máy bay Mỹ bị ngưng trệ từng lúc. Sau hơn 3 tháng đấu tranh chủ buộc phải tăng lương cho công nhân từ 6% đến 12 % .
Năm 1962, có 324 cuộc đấu tranh, có 103.132 người tham gia, trong đó có 10 cuộc đấu tranh quyết liệt đình công, lãn công. Nổi bật nhất là cuộc bãi công ngày 17-2-1962 của công nhân hãng thâu thanh Viđêô. Năm 1962, nhân ngày Quốc tế Lao động 1-5, năm vạn công nhân cao su bãi công kéo về thành phố.
Năm 1963, có 505 cuộc đấu tranh, có 200.000 người tham gia, trong đó có 201 cuộc đấu tranh của công nhân các xí nghiệp, 160 cuộc đấu tranh chống đuổi nhà cướp đất, 114 cuộc đấu tranh chống các luật lệ phường khóm chiến lược và 30 cuộc của chị em tiểu thương chợ đấu tranh .
Năm 1964, có nhiều cuộc đấu tranh lớn:
Hãng Vinatexco có trên 3.000 công nhân, phần đông là nữ đã đưa 6 yêu sách đòi tăng lương, đòi cải thiện chế độ sinh hoạt, ăn uống. Bọn chủ đóng cửa một số phân xưởng và sa thải một số công nhân. Do đó, toàn thể công nhân tiến hành bãi công. Chiều 14-1-1964, công nhân chiếm xưởng, địch đưa một đại đội thuỷ quân lục chiến đến đàn áp, công nhân chống trả quyết liệt không cho lính vào nhà máy. Nông dân và bà con công nhân kéo đến ủng hộ cuộc đấu tranh. Địch tăng cường lực lượng đàn áp lên cả tiểu đoàn, 18 xe GMC, 30 xe Jeep, 5 xe có vòi rồng, 3 xe Hồng thập tự, chúng đàn áp công nhân bằng lưởi lê và lựu đạn cay, dây thép gai trong suốt 5 giờ làm 2 người chết ( bị địch cướp xác đem đi mất tích) và hàng chục người bị thương. Dư luận trong và ngoài nước lên án hành động dã man của chính quyền Sài Gòn . cuối cùng chủ buộc phải tăng lương cho công nhân từ 6% đến 8% và mở lại xưởng cho công nhân đi làm.
          Ngày 10-4-1964, chủ hãng Vimytex giãn công tập thể hàng ngàn công nhân. Công nhân tập trung tại xưởng yêu cầu Trưởng Ty Lao động Gia Định can thiệp để chủ mở máy cho công nhân làm việc. Bọn địch cho một tiểu đoàn đến đàn áp bằng mã tấu, vòi rồng, lưởi lê làm cho hàng trăm chị em công nhân ngất xỉu, chủ tịch nghiệp đoàn Vương Vĩnh Lợi bị hành hung, địch bắt 19 người công nhân đòi thả những người bị bắt nếu không sẽ tuyệt thực và tự thiêu. Địch buộc phải thả những người bị bắt song không đáp ứng những yêu sách của công nhân. Công nhân tiếp tục đấu tranh bằng các hình thức đến văn phòng Ban Giám đốc, Bộ Lao động, văn phòng Tổng liên đoàn Lao động , tranh thủ dư luận báo chí, tập trung khoảng 1000 người tại công viên Quách Thị Trang đòi chấm dứt lệnh giãn công, chủ hãng phải trả lương cho công nhân, chống sa thải công nhân…
Chiều ngày 11-9-1964, Tổng Liên đoàn Lao động buộc phải tổ chức đại hội bất thường để ủng hộ công nhân Vimytex, đại hội có 1.200 đại biểu tham dự đại diện cho hơn 100 nghiệp đoàn ở đô thành. Các đại biểu lên án việc sa thải công nhân, chống lệnh khẩn cấp của chính quyền không cho nghiệp đoàn tự do hoạt động. Đại hội thông qua 5 kiến nghị trình Bộ Lao động và nhà đương cuộc với nội dung : ủng hộ cuộc đấu tranh của các nghiệp đoàn nhất là cuộc đấu tranh của công nhân Vimytex; phải được tự do hội họp ở trụ sở Tổng Liên đoàn và các nghiệp đoàn; công nhân có quyền đình công để bảo vệ quyền lợi của mình phải trả lời các yêu cầu trên trong một thời gian ngắn ; toàn thể công nhân sẽ tổng bãi công và biểu tình để thực hiện các nghị quyết trên và bảo vệ quyền lợi của công nhân .
Cuộc tổng bãi công diễn ra trong hai ngày 21 và 22-9-1964. Từ 8 giờ sáng ngày 21-9, công nhân đã tụ họp đông đảo ở các xí nghiệp kéo đến trụ sở Tổng Liên đoàn Lao động. Sau đó, một vạn công nhân tham gia biểu tình đã kéo tới dinh Nguyễn Khánh, Nguyễn Khánh tránh mặt đã cho Đàm Sĩ Hiền ra tiếp. Đồng bào kéo đến tham gia lên đến 30.000 người, đại diện Tổng hội sinh viên ra trước loa phóng thanh ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân, đến 7 giờ chiều mới giải tán.
Sáng hôm sau, mọi người tiếp tục tập trung tại trụ sở Tổng Liên đoàn Lao động. Cuối cùng chính quyền Sài Gòn cho một Phó Thủ tướng ra tiếp và làm việc với Ban lãnh đạo đấu tranh của công nhân. Chúng phải nhượng bộ và giải quyết những vấn đề sau: công nhân có quyền tự do hội họp tại trụ sở nghiệp đoàn; hứa trừng trị tên Phó tỉnh trưởng Gia Định đã đàn áp công nhân Vimytex; ra lệnh cho các chủ nhà máy, xí nghiệp không làm khó dễ cho công nhân trong những ngày tham gia tổng đình công, biểu tình, công nhân nào bị đàn áp, bị mất giấy tờ thì lấy giấy chứng thương mời cảnh sát đến lập biên bản, truy tố chủ nhân ra toà và đòi bồi thường …
Cuộc tổng đình công trên đã làm cho Sài Gòn hai ngày không có điện nước, xe buýt không chạy.
Từ 1964 đến 1965, phong trào đấu tranh vũ trang của công nhân ở đô thị và đồn điền lên cao. Trong bản báo cáo của kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát trong Đại hội Mặt trận lần thứ hai có viết : ”Bên cạnh phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị của nhân dân ta đang ở thế công khai, hợp pháp, mạnh mẽ hơn bao giờ hết và có tác dụng tấn công trực diện địch, đồng thời phân hoá, cô lập chúng ngày thêm nặng nề, còn có một phong trào có tính chất bất hợp pháp đối với địch, mạnh mẽ, đi vào hình thức cao của nó là hoạt động vũ trang”.
Chiến tranh đã diễn ra ở sát thành phố Sài Gòn, tiếng vang của những trận Hiệp Hoà, Bến Lức, Nhuận Đức, Biên Hoà dội vào Sài Gòn. Trong thành phố Sài Gòn phong trào đấu tranh chính trị lên cao đến độ 10 năm nay chưa từng thấy. Cuộc đấu tranh nổ ra trong các đô thị dưới nhiều hình thức làm rung động “hậu cứ an toàn”của Mỹ- ngụy.
Hàng ngũ công nhân cung cấp cho phong trào cách mạng những chiến sĩ anh hùng như Nguyễn Văn Trỗi, Trần Văn Đang đã làm cho quân thù khiếp đãm hồn vía.  Nguyễn Văn Trỗi thực hiện kế hoạch nổ mìn, giết chết Mac Namara, bộ trưởng chiến tranh của Mỹ, không may bị giặc bắt. Những phút cuối cùng của đời anh hết sức oanh liệt, báo chí nhiều nước đăng tin ca ngợi. Anh lên án đế quốc Mỹ và chết trong những tiếng của anh hô “Đã đão đế quốc Mỹ ”, “Việt Nam muôn năm”, “Hồ Chí Minh muôn năm”.
Tại nhiều hội nghị quốc tế, nhất là những hội nghị của thanh niên gương sáng của các anh Nguyễn Văn Trỗi, Trần Văn Đang được hoan nghênh nhiệt liệt.
Trong nhiều thành phố, ở các khu lao động, nhân dân tổ chức tự vệ để chống ruồng bố, chống bắt lính, chống đốt nhà. Tại các đồn điền, đặc biệt là các đồn điền cao su miền Đông Nam Bộ, công nhân phản đối lệnh của nguỵ quyền bắt công nhân “huấn luyện quân sự chống cộng”, phản đối tổ chức “đội tự vệ chống cộng”. Ngược lại, đông đảo công nhân tham gia phong trào tòng quân. Theo Thông tấn xã Giải phóng thì không có đồn điền nào mà không có công nhân gia nhập Quân giải phóng, riêng đồn điền cao su Dầu Tiếng có đến 1.000 trên 5.000 công nhân tham gia các đơn vị Giải phóng quân. Công nhân các đồn điền đã xây dựng lực lượng vũ trang tự vệ của mình ngay trong các đồn điền, lập làng chiến đấu, đào hầm chống phi pháo, đấu tranh chống gián điệp, chống bắt lính.
Sự ra đời và phát triển các hoạt động vũ trang của công nhân trong các đô thị, trong các đồn điền mà địch còn kiểm soát là một yếu tố mới của tình hình cách mạng miền Nam từ năm 1964, điều nầy góp phần làm cho “hậu cứ”của địch càng mất an toàn [72].

2.1.3.2. Phong trào nông dân đấu tranh chống bình định và lập ấp chiến lược.

Dồn dân lập ấp chiến lược được Mỹ – nguỵ xác định là biện pháp chiến lược, đồng thời là mục đích của “chiến tranh đặc biệt” nói riêng và cuộc chiến tranh xâm lược nói chung mà Mỹ quyết tâm thực hiện bằng được với bất cứ giá nào. Dưới danh nghĩa là “bảo vệ làng xã”, chính quyền Diệm đã “đuổi các gia đình nông dân  và thậm chí là cả làng khỏi những vùng đất cha ông họ để lại và cho họ tái định cư ở khu vực lớn hơn, dễ bảo vệ hơn mà nhiều lúc điều kiện không tốt hơn là mấy so với các trại tập trung”[10, tr.324]. Do vậy, phong trào đấu tranh của nông dân trong thời gian nầy là “làm thất bại kế hoạch gom dân, lập ấp chiến lược của địch”              [31, tr.313], phá phần lớn các ấp chiến lược, giành nhân lực, vật lực cho cách mạng, làm chủ núi rừng và phần lớn đồng bằng.
Từ năm 1961, Mỹ- Diệm tổ chức nhiều cuộc hành quân càn quét trên khắp miền Nam để phục vụ trực tiếp cho việc dồn dân lập ấp chiến lược. Mục tiêu cụ thể được đặt ra lúc đầu là thành lập 16.000/17.000 ấp chiến lược trên toàn miền Năm (1961), sau đó điều chỉnh xuống còn 10.000 ấp (1962), cuối năm 1963 chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ thì chính sách ấp chiến lược vẫn tiếp tục nhưng với cái tên gọi khác là ấp tân sinh, thực chất đây chỉ là sự thay đổi mang tính hình thức.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương cục, uỷ ban Giải phóng các cấp, nhân dân miền Nam tham gia mặt trận chống phá bình định, kiên quyết thực hiện “một tấc không đi, một ly không rời”, kết hợp đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị và binh vận, phối hợp  lực lượng nổi dậy của quần chúng bên trong ấp chiến lược với lực lượng vũ trang tấn công từ bên ngoài để phá thế kìm kẹp của địch. Với phương châm “Đảng bám dân, dân bám đất, du kích bám giặc”, thực hiện “mang nắp hầm bí mật vào ấp chiến lược”. Trung ương cục  và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã phát động quần chúng nổi dậy phá ách kìm kẹp của địch. Trong suốt 3 năm, từ 1962 đến 1964, cuộc đấu tranh chống càn quét và phá ấp chiến lược của nhân dân miền Nam diễn ra cực kỳ quyết liệt.
Phá ấp chiến lược Hoà Nhật [22], Châu Thành, Biên Hoà là một điển hình trong phong trào phá ấp chiến lược của nhân dân Nam Bộ. Theo báo Quân đội nhân dân ngày 17-7-1962, nhân dân Hoà Nhật đấu tranh làm trể nãi việc dồn dân lập ấp chiến lược của bọn Mỹ- Diệm, nhưng cuối cùng chúng cũng lập được ấp chiến lược Hoà Nhật. Đồng bào đã bảo toàn được lực lượng chính trị của mình ngay trong khi đã bị dồn vào ấp chiến lược.
Tháng 5-1962, sau khi hoàn thành ấp chiến lược bọn ác ôn rút đi lập ấp chiến lược khác, để lại quyền kiểm soát cho dân vệ và một số quân đóng đồn ngay trong ấp. Lúc nầy đồng bào tiến hành phá ấp chiến lược. Hàng đêm nhiều khúc hàng rào bị nhổ lên, bị xô ngã xiêu vẹo, nhiều đoạn hào bị lấp. Ban trị sự ấp chiến lược và dân vệ đi lùng bắt người đi xâu để rào lại thì bà con chạy nhà này sang nhà khác hoặc cáo ốm không đi làm. Địch khủng bố thì mọi người nhất tề chống lại, chúng phải ngừng tay. Mặt khác, đồng bào cho người ra ngoài ấp tìm liên lạc với lực lượng vũ trang nhân dân của tỉnh, quận ,đồng thời tìm hiểu tình hình địch.
Đêm 15-6-1962, tự vệ vũ trang hoạt động từ bên ngoài ấp, bắn vào lô cốt ở cổng ấp, đồng bào trong ấp reo hò vang dậy. Nhân dân phát loa cảnh cáo bọn dân vệ ,thanh niên cộng hoà và tề, chúng khiếp vía rút chui vào đồn, hoặc tìm nơi ẩn náu. Lợi dụng tình thế , 200 gia đình thu xếp đồ đạc, trời chưa sáng thì đồng bào đã đạp rào ra khỏi ấp chiến lược . Sáng hôm sau , bọn nguỵ chưa hoàn hồn thì những tin đồn về Giải phóng quân, về chiến khu Đ, thấy truyền đơn của Mặt trận càng làm cho chúng hoảng sợ, đồng bào ra vào cổng không bị kiểm tra ngặt nghèo nữa.
Đêm 16-6-1962, Giải phóng quân bắn từng loạt súng máy vào đồn, cứ sau một loạt súng máy thì đồng bào bắt đầu phát loa binh vận, và kết thúc mỗi bài binh vận ngắn là một đợt reo hò vang dậy của đồng bào.
Mờ sáng ngày 17-6-1962, thêm 109 gia đình phá nát hàng rào ấp chiến lược, rầm rộ kéo ra. Lực lượng vũ trang của bọn Mỹ- Diệm cản lại nhưng không ngăn nổi đồng bào, một số dân vệ còn tiếp tay cho đồng bào bỏ ấp. Bà con trong ấp ra thì bà con ngoài ấp đã chực sẵn đón mừng, tất cả họ mít tinh tố cáo tội ác Mỹ- Diệm. Ngày hôm đó, binh lính Mỹ- Diệm bỏ đồn, đồng bào hai xã Tân Hiệp và Tân Hoà hợp sức với nhau san bằng ấp chiến lược Hoà Nhật, cuốc đường lộ dẫn về Hoà Nhật để ngăn chặn việc trở lại của binh lính Mỹ- Diệm. Đồng bào ai về nhà nấy, dựng chòi, rào làng, vừa làm ăn vừa bố phòng chống địch.
Cuộc biểu tình chống gom dân lập ấp chiến lược của đồng bào 13 xã ở Gò Công là phong trào tiêu biểu của nhân dân Nam Bộ.
Sáng ngày 9-4-1962, trên 10.000 người dân 13 xã vùng Gò Công kéo vào thị xã đấu tranh với quận trưởng đòi huỹ bỏ việc lập ấp chiến lược [22]. Từng đoàn người từng 300 người một, theo những con đường khác nhau kéo vào thị xã, xếp hàng đứng chen chúc trước dinh quận trưởng. Các nẽo đường chật ních người, xe cộ không chạy được. Bọn nguỵ quyền xua 100 quân và cảnh sát ra khủng bố, bắt 4 phụ nữ và 2 nông dân đem giam, lùa đồng bào vào giam ở sân vận động. Chúng lột hết khăn và nón của đồng bào, bắt phơi nắng và bắt đóng 100 đồng mới được thả về. Không ai chịu đóng tiền.
Đồng bào bị giam, một số ác ôn ra oai đánh đập đồng bào, một số lính khác thì lại ủng hộ dân biểu tình, quần chúng nhân dân thị trấn Gò Công đem rất nhiều cơm nước vào tiếp tế cho đồng bào bị giam. Đồng bào bị giam la rầm lên đòi thả ra. Cuộc đấu tranh giằng co đến 4 giờ chiều, địch bị buộc phải thả 6 người đã bị bắt hồi sáng sớm. Bọn chúng đem máy phóng thanh đến sân vận động xuyên tạc, nói xấu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, đồng bào la rầm lên phản đối, địch vẫn giam đồng bào suốt đêm ở sân vận động.
Sáng ngày 10-4-1962, 4.000 đồng bào khác từ nông thôn kéo vào tiếp viện, mang nhiều khẩu hiệu, yêu sách y như hôm qua và thêm khẩu hiệu đòi thả những người bị giam ở sân vận động. Lần nầy địch ngăn đón, đánh đập dữ  dội hơn, địch vẫn giam giữ những người ở sân vận động suốt đêm thứ hai. Chúng định phơi nắng, phơi sưong, bỏ đói, bỏ khát đến khi đồng bào xuống nước, nhưng đồng bào vẫn kiên quyết đấu tranh.
Qua ngày 11-4-1962, hàng mấy nghìn đồng bào khác nữa, lần nầy không phải chỉ có các chị, các bà mà còn có các ông lão và rất nhiều trẻ con ùn ùn kéo ra Gò Công, đứng chật hết các nẽo đường. Hưởng ứng với dân, các tiệm ngừng bán, xe cộ ngừng chạy. Đồng bào thị trấn tiếp tế hết lòng cho cho đồng bào đấu tranh. Một số khá đông binh sĩ ủng hộ đồng bào vào đưa kiến nghị tại văn phòng quận trưởng,bọn ác ôn không làm sao ngăn được.
Trước khí thế đấu tranh của nông dân, được đồng bào thị trấn ủng hộ, được một số binh sĩ của chúng cũng đồng tình, địch đành chịu thua sau 3 ngày đấu tranh giằng co và kịch liệt, chúng phải nhận đơn, thả tất cả mọi người và hứa giải quyết mọi yêu sách của đồng bào.
Từ năm 1963, phong trào phá ấp chiến lược trở thành cao trào cách mạng trên toàn miền Nam. Đến tháng 12-1963, phá được 3.800 ấp chiến lược, trong đó có 1.200 ấp chiến lược trở thành vùng giải phóng.
Cuối năm 1964, “quốc sách ấp chiến lược” của địch bị phá sản, hơn 80% ấp chiến lược đã bị phá. Địch chỉ còn giữ được những ấp chiến lược ở ven các thành phố, thị xã, thị trấn, trên các trục giao thông chiến lược và cạnh các căn cứ quân sự lớn “các đô thị, ngay cả Sài Gòn, một trong những chỗ dựa của đế quốc Mỹ và tay sai, đến nay cũng không còn là hậu phương an toàn của chúng nữa” [73, tr.15].
Cuối năm 1964, Mắc Namara, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ đã phải thừa nhận :“ Trong số đất đai của 22 tỉnh trong số 43 tỉnh, Việt cộng kiểm soát tới hơn 50% hoặc nhiều hơn thế ”.
Cuối năm 1965, quân và dân miền Nam đã phá được tổng số là 5.800 ấp chiến lược, số ấp chiến lược địch kiểm soát năm 1965 là 2.200/12.000 ( chiếm 18 % ). Số dân địch kiểm soát năm 1965 là 6/16 triệu dân [23].

2.1.3.3. Đấu tranh chống chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm và chính quyền tay sai [70], [72]

Diệm- Nhu thực hiện chính sách kỳ thị tôn giáo , dành “chế độ đặc biệt cho các hội truyền giáo Thiên chúa và Gia tô”. Điều nầy gây bất bình trong giới tăng ni Phật tử. Vụ Diệm triệt hạ cờ Phật giáo và cuộc đàn áp đẫm máu Phật tử trước đài phát thanh Huế  đêm 8-5-1963 làm 9 người chết và 14 người bị thương  đã đốt bùng lên ngọn lửa đấu tranh rộng khắp trên nhiều tỉnh thành phía Nam.
Ngày 11-6-1963, Hoà thượng Thích Quãng Đức tự thiêu đã thổi bùng ngọn lửa đấu tranh chống Diệm -Nhu ở Sài Gòn - Gia Định. Phong trào đấu tranh chống anh em Diệm - Nhu là một mặt trận đấu tranh bao gồm đông đảo các giai cấp các giới và đồng bào lao động kể cả một số trí thức có tên tuổi, lực lượng ngòi pháo xung kích là thanh niên, học sinh. Diệm- Nhu đã tự lột mặt nạ dân tộc, dân chủ giả hiệu, chúng cho cảnh sát tấn công các trường học, ra lệnh thiết quân luật ( 21-8-1963) bao vây và tấn công tất cả các chùa lớn ở miền Nam. Tại chùa Xá Lợi, một vị sư đánh chuông báo động đã bị lính đâm chết, một ni cô dùng dây leo từ lầu xuống bị tên giám đốc cảnh sát dùng dùi cui đập vỡ sọ. Trong đêm đó, ở Sài Gòn, có hàng ngàn vị sư bị bắt trong đó có Hoà thượng Thích Kim Khiết. Hành động khủng bố phát xít của Diệm- Nhu như dầu đổ vào ngọn lửa đấu tranh làm cho phong trào dâng lên mạnh mẽ. Ngay trong hàng ngũ chính quyền và quân đội Sài Gòn có sự phân liệt, một số lên tiếng công kích chống chính sách của chính quyền Diệm. Đại sứ, giáo sư Bửu Hội đề nghị Liên hiệp quốc cử phái đoàn sang Việt Nam xem xét vụ Phật giáo. Ngày 25-10-1963, phái đoàn Liên hiệp quốc đến Sài Gòn mở cuộc điều tra.
Ngày 12-6-1963, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng tổ chức lễ truy điệu hòa thượng Thích Quảng Đức, luật sư Nguyễn Hữu Thọ đọc diễn văn nêu rõ hành động anh dũng của hòa thượng Thích Quảng Đức, lên án Mỹ- Diệm đã đàn áp, khủng bố đồng bào các tôn giáo ở miền Nam, kêu gọi tăng ni Phật tử và đồng bào các tôn giáo tiến lên đánh đổ chúng để bảo vệ các quyền tự do dân chủ, bảo vệ tôn giáo.
Từ ngày 5-8-1963 dến ngày 16-9-1963, tại Sài Gòn - Gia Định có  mười triệu lượt đồng bào tham gia biểu tình chống đàn áp Phật giáo. Đế quốc Mỹ buộc phải “thay ngựa giữa dòng”. Ngày 1-11-1963, giới quân sự do tướng Dương Văn Minh cầm đầu đã làm cuộc đão chính chấm dứt cuộc đời cùng chế độ độc tài gia đình trị Diệm- Nhu. Nhân dân thành phố Sài Gòn - Định tiếp tục đấu tranh đòi thủ tiêu mọi tàn tích của chế độ cũ, trừng trị bọn ác ôn.
Phong trào đấu tranh chính trị, vũ trang sôi sục ở các vùng nông thôn đã dội vào các thành thị miền Nam, làm cho chính quyền Sài Gòn ngày càng chao đảo, nội bộ mâu thuẫn, lục đục. Tư tháng 11-1963 đến tháng 6- 1965 chúng đã 10 lần làm đảo chính để thanh toán lẫn nhau.
Sinh viên, học sinh Sài Gòn - Gia Định liên tục xuống đường đốt xe Mỹ, đánh lại cảnh sát dã chiến, đòi huy bỏ “Hiến chương Vũng Tàu”, đòi giải nhiệm nội các Trần Văn Hương .

2.1.3.4. Phong trào dân tộc tự quyết

Ngày 5-8-1964, máy bay Mỹ ném bom các căn cứ của ta ở miền Bắc, chúng chuẩn bị đổ quân ồ ạt vào miền Nam. Khu uỷ Sài gòn - Gia định phân công đồng chí Phạm Trọng Danh, Bí thư Ban Cán sự Thanh niên, học sinh, sinh viên phối hợp với ban Trí vận Mặt trận vận động các lực lượng, các cá nhân tiêu biểu, trí thức trẻ, nhân sĩ yêu nước tạo thế hỗ trợ cho tổ chức công khai ra đời. Tháng 12-1964, sau nhiều cuộc họp chuẩn bị về cương lĩnh, chương trình hành động, Phong trào dân tộc tự quyết mở đại hội tuyên bố đấu tranh và công bố thành viên của phong trào bao gồm các kỹ sư, luật sư, bác sĩ, giáo sư, luật gia, ký giả. Luật sư  Nguyễn Long làm chủ tịch, Kỹ sư Hồ Gia Lý làm phó chủ tịch , các uỷ viên: giáo sư  Tôn Thất Dương Kỵ, Võ Đình Cường, Nguyễn Quý Hương, Ngô Thị Ngọc Sương, Kỹ sư Tô Văn Cang, Trần Văn Đước, Kỹ sư Hồ Văn Trương, Vũ Đình Bổng. Hàng ngày các thành viên và những người đấu tranh đến trụ sở trao đổi công việc, phong trào được mở rộng với sự tham gia của Võ Văn Khắc và Nguyễn Quang Minh ở Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam làm uỷ viên khối công nhân, Nguyễn Thừa Nghiệp ở Liên hiệp Nghiệp đoàn thành phố, Phan Kim Phụng Châu trưởng Châu Gia Định Hội Hướng đạo Việt Nam. Trong số những người thường đến trụ sở còn có Á Nam Trần Tuấn Khải, nhà giáo Phan Đình Lý (cháu nội Phan Đình Phùng ) và các học sinh, sinh viên...
Bản cương lĩnh của phong trào được in vào Nội san Tự quyết số 1 ( 1.000 bản in roneo ). Nhân dịp miền Trung lụt lớn, phong trào đã in 2.000 tờ “kêu gọi khẩn thiết cứu trợ”, đông đảo sinh viên, học sinh tụ họp trước trụ sở phong trào, sau đó phân làm 4 đoàn đi lạc quyên ở 4 khu vực : trước Quốc hội nguỵ, trước chợ Bến Thành, đường Nguyễn Huệ, đường Trần Hưng Đạo, vừa lạc quyên sinh viên học sinh vừa phát lời kêu gọi của phong trào dân tộc tự quyết. Chính quyền Sài Gòn ra lệnh đình chỉ cuộc lạc quyên mọi người chuyển thành tuần hành với lực lượng là sinh viên, học sinh và đồng bào. Phong trào dân tộc tự quyết là một đòn bất ngờ đối với Mỹ- nguỵ [60].

2.1.3.5. Uỷ ban vận động hoà bình

Chi bộ Phong trào dân tộc tự quyết đã phối hợp với cánh Trí vận để thành lập Uỷ ban vận động hoà bình. Đây là một tổ chức tập hợp được đông đảo các trí thức có tên tuổi. Bác sĩ  Phạm Văn Huyến làm chủ tịch, ông Cao Minh Chiến phó chủ tịch, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ phó chủ tịch. Các uỷ viên: Giáo sư Trần Hữu Khuê, nhân sĩ Trí Độ, thầu khoán Nguyễn Văn Hanh, Nữ sĩ Ngọc Sương, Dược sĩ Nguyễn Văn Liễn, Giáo sư Dương Minh Thới, Thẩm phán Trần Thúc Linh, Thẩm phán Đỗ Quang Huê, Nhà văn Thanh Nghị, Giáo sư Trần Quang Diệu, Giáo sư Đặng Văn Ký... Trong Uỷ ban còn có những vị là uỷ viên Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam: Luật sư  Trịnh Đình Thảo ( bí danh là Như Sơn), Nguyễn Văn Vỹ ( bí danh là Huỳnh Đàn), Đính Xáng ( bí danh là Nguyễn Thạch), Kỹ sư  Tô Văn Cang ( bí danh là Trần Nam Sơn), Giáo sư Nguyễn Văn Cứng ( bí danh là Phước Thăng), Giáo sư TônThất Dương Kỵ ( bí danh là Dương Kỳ Nam), phát ngôn viên của uỷ ban là nữ luật gia Ngô Bá Thành.
Uỷ ban ra quyết nghị hoà bình kêu gọi hai phe tham chiến ở miền Nam chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Bản quyết nghị có khoãng 100 chữ ký của các nhân sĩ, trí thức Sài gòn. Uỷ ban đã cử phái đoàn đi gặp Ban Quốc tế giám sát về đình chiến để chuyển quyết nghị cho Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và gặp thủ tướng Phan Huy Quát để đưa quyết nghị hoà bình.
Sáng ngày 24-2-1965, Uỷ ban vận động hoà bình tổ chức họp báo để ra mắt tổ chức và công bố bản quyết nghị hoà bình. Giáo sư Đặng Văn Ký là phát ngôn viên chính thức. Sau buổi họp báo, địch bắt trên 16 người trong đó có luật sư Nguyễn Long, Giáo sư Trần Văn Khuê, bà Ngô Bá Thành, Giáo sư Đặng Văn Ký, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, ông Cao Minh Chiến…
Ngày 10-3-1965, vì không đủ chứng cớ buộc tội “Việt cộng”, địch tống xuất qua cầu Hiền Lương những người mà chúng cho là cầm đầu Uỷ ban: Bác sĩ Phạm Văn Huyên, ông Cao Minh Chiến, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ…rồi thả hầu hết những người bị bắt.
Ngày 6-8-1965, Toà án quân sự mặt trận xét xử 16 người trong nhóm hoà bình. Toà tuyên án: phạt tù 10 năm khổ sai Giáo sư Nguyễn Văn Khuê, Luật sư Nguyễn Long, Nguyễn Quý Hương. Luật sư Trịnh Đình Thảo được tha bổng [60].

2.2. HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO CỦA MẶT TRẬN

2.2.1. Các phái đoàn Mặt trận đi thăm hũu nghị các nước

Từ ngày thành lập đến năm 1965, đã có 78 lần phái đoàn của Mặt trận hoặc của các đoàn thể trong Mặt trận đi dự lễ kỹ niệm, đi thăm hữu nghị nhiều nứớc trên thế giới : các nước xã hội chủ nghĩa, nhiều nước dân tộc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ la-tinh, một số nước Tây Âu. Càng về sau thì số đoàn đi thăm càng nhiều [23].
          Năm 1961, đoàn đầu tiên của  Mặt trận  là  đoàn của Liên hiệp Công đoàn giải phóng do Huỳnh Văn Tâm làm trưởng đoàn đi thăm Liên Xô.
Năm 1962, có 10 đoàn, trong số nầy có đoàn do giáo sư Nguyễn Văn Hiếu, Tổng thư ký Uỷ ban trung ương Mặt trận dẫn đầu đoàn đại biểu đi thăm các nước Tiệp Khắc (tháng 6), Liên Xô (tháng 7), Cộng hoà dân chủ Đức và Hungary ( tháng 8), Inđônêsia (tháng 9), thăm Trung Quốc và miền Bắc (tháng 10), thăm Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên (tháng 11).
Năm 1963, có 16 đoàn đi thăm 10 nước, đặc biệt là các nước châu Phi: Ga na, Ghi nê, Ma li, Ai Cập.
Năm 1964, có 22 đoàn đi thăm 12 nước, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa.
Năm 1965, có 29 đoàn, đi thăm và dự lệ kỹ niệm ở 24 nước, trong đó có Pháp, Cam pu chia, Công gô (B), Bắc Ka- li- man- tan.
Các đoàn dại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng đều được các nơi đón tiếp nồng nhiệt, mức đón tiếp và nhiệt tình năm sau cao hơn năm trước. Hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa và nhiều nước Á, Phi, Mỹ la tinh đón tiếp các đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam theo cấp cao nhất của Đảng, chính phủ hay Mặt trận của các nước ấy, vị trí chính trị của Mặt trận được đề cao, vai trò của Mặt trận được đánh giá cao. Thủ tướng Phi -đen Cat- xtơ-rô tiếp đoàn đại biểu Mặt trận ngày 26-7-1963 tuyên bố:”Tôi xin cám ơn nhân dân miền Nam và các chiến sĩ giải phóng miền Nam vì cuộc chiến đấu ở miền Nam Việt Nam tượng trưng cho cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc, một cuộc chiến đấu cao nhất trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc  hiện nay trên thế giới…. Cuộc đấu tranh của miền Nam Việt Nam là một bài học lớn đối với châu Mỹ la tinh, chúng tôi noi gương anh hùng của nhân dân miền Nam Việt Nam  ”.
Như vậy đến năm 1963, so với yêu cầu chính trị về công tác đối ngoại của Mặt trận thì chúng ta đã những thành tựu đáng kể.
Nhân dịp đi dự lễ 26-7 tại Cu -ba, đoàn miền Nam đã ký tuyên bố tay không với các đoàn đại biểu nhân dân 8 nước châu Mỹ la tinh: U-ra- guay, Pa-ra-goay, Bra-zin,Vê-nê-zu-ê-la, Cô-lôm-bi, Pa-na-ma, Đô-mi-nic.
Chuyến đi thăm hữu nghị các nước châu Phi sau khi Mặt trận phát hành bản tuyên bố lịch sử 22-3-1965, đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được Tổng thống các nước Ma-li, Ghi-nê, Công gô ( B) đón tiếp trọng thể và được điều kiện thuận lợi nhất để giới thiệu tình hình miền Nam Việt Nam cho nhân dân các nước đó, làm cho nhân dân và chính phủ các nước đó thêm tin tưởng và quyết tâm ủng hộ Mặt trận.
78 lần đoàn Mặt trận đi thăm các nước là 78 đòn chính trị đánh vào kẻ thù, là những chiến dịch tuyên truyền góp phần đẩy đế quốc Mỹ vào thế  cô lập, góp phần nâng cao vị trí pháp lý của Mặt trận như là người đại diện chân chính, duy nhất của 14 triệu nhân dân miền Nam Việt Nam.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuy chưa lấy danh nghĩa là chính quyền, nhưng đã có những phái đoàn đại diện thường trực ở nứớc ngoài tương tự như những sứ quán hay tổng đại diện. Mặt trận  đã có 8 cơ quan đại diện thường trực ở 4 châu ( Cu-ba, Trung Quốc, In-đô-nê-xia, An-gê-ry, Liên Xô, Cộng hoà dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Hung-ga-ry). Theo luật sư Nguyễn Hữu Thọ:”Nhiều chính phủ đã đối xữ với Uỷ ban trung ương Mặt trận như đối xữ với một chính phủ và tiếp đón các phái đoàn của chúng ta như tiếp đón những phái đoàn ngoại giao chính thức của một quốc gia”.
Cu-ba là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên đón nhận cơ quan thường trực đại diện Mặt trận và công nhận quy chế đại sứ quán cho cơ quan đại diện Mặt trận         ( 1962).
Đầu năm 1963, Mặt trận đặt cơ quan đại diện tại Algiérie và Tiệp Khắc. Tiếp đó, các cơ quan đại diện  và các phòng thông tin của Mặt trận  lần lượt  thành lập ở Liên Xô, Trung Quốc, CHDC Đức, Rumani, Mông Cổ, Lào, Campuchia ...sau đó là Na Uy, Thuỵ Điển, Phần Lan, Pháp và nhiều nơi khác .
Những hoạt động ngoại giao tích cực của Mặt trận đã lập được mối quan hệ quốc tế rộng rãi, nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân các nước.Trong Đại hội Mặt trận lần thứ hai, luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã tổng kết :”Ngày nay, nhân dân các nước không phải chỉ ủng hộ mục đích chính nghĩa của chúng ta mà còn ủng hộ cả hình thức đấu tranh vũ trang của chúng ta ” [62].

2.2.2. Đại biểu của Mặt trận tham dự các diễn đàn hội nghị quốc tế

Từ năm 1961 đến 1965, Mặt trận đã cử đại biểu tham dự 66 cuộc hội nghị quốc tế của : công đoàn, thanh niên, phụ nữ, luật gia, nhà báo, tôn giáo, hoà bình thế giới, điện ảnh, đoàn kết Á- Phi, đàm phán  về biên giới Việt Nam - Cam pu chia, hội nghị nhân dân Đông Dương, thanh toán chủ nghĩa thực dân, chống căn cứ quân sự ở nước ngoài, kinh tế, khoa học …Trong số 66 cuộc hội nghị nầy, có 37 cuộc hội nghị quốc tế thế giới, 29 cuộc  hội nghị quốc tế khu vực. Cũng như các đoàn đi thăm nước ngoài, số đoàn đi dự hội nghị quốc tế mỗi năm mỗi tăng: năm 1961 có 1 lần, 1962 có 7 lần, 1963 có 14 lần, 1964 có 21 lần, 1965 có 23 lần [23].
Càng ngày dư luận tiến bộ trên thế giới càng nhận thấy rõ và đúng rằng vấn đề chiến tranh ở miền Nam Việt Nam đã trở thành vấn đề trung tâm của thế giới liên quan đến vận mệnh của loài người, rằng cách mạng dân tộc và dân chủ ở miền Nam Việt Nam chống Mỹ và tay sai có một tầm quan trọng đặc biệt đối với cách mạng thế giới trong giai đoạn hiện đại, vì nhân dân Việt Nam trực tiếp đánh vào tên sen đầm chủ chốt của thế giới ngày nay. Cho nên, càng về sau thì các cuộc hội nghị quốc tế, dù thế giới, dù khu vực, đều xem việc bàn về vấn đề chống Mỹ xâm lược, ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam ,như là một trong những chân giá trị của mình. Xét sâu hơn, có thể thấy được rằng vấn đề chống Mỹ xâm lược Việt Nam cuối cùng không còn mang tính chất của những cuộc vận động đơn thuần mà đã thấm sâu vào cuộc đấu tranh hằng ngày của giai cấp công nhân, nhân dân tiến bộ thế giới. Hầu như không có một hội nghị thế giới, khu vực, quốc gia nào của đảng cộng sản, của công đoàn, của tổ chức dân chủ tiến bộ mà không có thảo luận về vấn đề Việt Nam, về vấn đề tìm những phương pháp và hình thức thích hợp để mở rộng và tăng cường đoàn kết và giúp đỡ nhân dân Việt Nam đấu tranh chống Mỹ. Các đoàn của Mặt trận xem trong sự hoạt động của các hội nghị quốc tế như là diễn đàn để mình tố cáo Mỹ-nguỵ, để mình làm sáng tỏ thêm hơn nữa các chủ trương đường lối của Mặt trận, để thông báo xác thực về tình hình chiến thắng của quân dân miền Nam, cố làm cho mọi người thiện chí thấy rằng hoạt động của Mặt trận là phù hợp hoàn toàn với mục tiêu chung của nhân loại yêu chuộng tự do, dân chủ, hoà bình, công lý, rằng con đường Mặt trận đang đi là con đường tất yếu, tất thắng của các dân tộc đang bị đế quốc áp bức hiện nay. Tại các cuộc hội nghị quốc tế, các đoàn của Mặt trận không bỏ lỡ một cơ hội nào để giương cao ngọn cờ chống Mỹ, chống đế quốc thực dân cũ và mới, phát triển những ý kiến có sức mạnh của nhân dân miền Nam, kiên quyết ủng hộ mọi phong trào phản đế  ở  Á, Phi, Mỹ la tinh, ở Đông Á, ở Cam pu chia và Lào. Các đoàn của Mặt trận đóng góp tại các hội nghị quốc tế, những quan điểm được lắng nghe về việc đánh giá đế quốc Mỹ, về mối quan hệ đúng đắn giữa đấu tranh giải  phóng dân tộc và đấu tranh bảo vệ hoà bình thế giới, về sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân trong thời đại kỹ thuật và vũ khí phát triển cao độ hiện nay… nghĩa là các đoàn của Mặt trận đề ra trước các hội nghị quốc tế quan điểm của mình, kinh nghiệm của nhân dân Việt Nam về một loạt vấn đề thuộc loại nóng hổi nhất của thời đại. Những chiến thắng liên tiếp của quân và dân miền Nam Việt Nam càng làm cho tiếng nói của các đoàn Mặt trận tại các cuộc hội nghị quốc tế được chú ý, được cất cao lên. Và luôn luôn, các cuộc hội nghị quốc tế đều có nghị quyết lên án Mỹ, ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam, hoan nghênh Mặt trận Dân tộc giải phóng.
Từ 1962, có nhiều nghị quyết của các hội nghị quốc tế, trong đó tiêu biểu là:
Nghị quyết tháng 10-1962 của Hội luật gia Á- Phi họp ở Cônakry (Ghi nê ) lên án đế quốc Mỹ :”Hội nghị trịnh trọng tuyên bố rằng cuôc xâm lược vũ trang ở miền Nam Việt Nam là trái với Hiệp nghị Giơnevơ, trái với hiến chương Liên hiệp quốc, trái với luật pháp quốc tế. Hội nghị cũng tuyên bố rằng cuộc xâm lược ở miền Nam Việt Nam có tính chất một cuộc chiến tranh thuộc địa rõ rệt, đồng thời là một sự uy hiếp nghiêm trọng trực tiếp đối với hoà bình và an ninh của các nước Đông Nam Á, đối với hoà bình ở viễn Đông và thế giới”.
Hội nghị luật gia Á - Phi ở Cônakry trong khi lên án Mỹ thì nhấn mạnh vào tính chất chính nghĩa và hợp pháp của cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam: ”Phong trào cách mạng ở miền Nam Việt Nam là một phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc, chống đế quốc xâm lược và bè lũ phản quốc, đó là một cuộc đấu tranh chính nghĩa để tự vệ mà bất cứ dân tộc nào bị áp bức, bị nô dịch cũng làm như vậy. Hội nghị tuyên bố rằng cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với Hiệp nghị Giơnevơ năm 1954, với Hiến chương Liên hiệp quốc, với bản Tuyên ngôn nhân quyền, với nghị quyết khoá 15 của Hội đồng Liên hiệp quốc về việc xoá bỏ chủ nghĩa thực dân dưới mọi hình thức và mọi biểu hiện”. Nghị quyết tháng 10-1962 của Hội luật gia Á- Phi là một thắng lợi chính trị đối ngoại lớn của phong trào cách mạng giải phóng miền Nam Việt Nam .
Nghị quyết tháng 2-1963 của Phong trào đoàn kết Á-Phi họp tại Mô-si đã nhất trí thông qua nghị quyết :”Chính phủ Mỹ phải từ bỏ chính sách và những hành động xâm lược miền Nam Việt Nam và phải rút hết quân đội, cố vấn và nhân viên quân sự Mỹ, cũng như mọi vũ khí và dụng cụ chiến tranh ra khỏi miền Nam Việt Nam ”, đòi “chính quyền Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, phải tức khắc đình chỉ các cuộc càn quét”, và tuyên bố “ủng hộ các chính sách của Mặt trận Dân tộc giải phóng và kêu gọi nhân dân toàn thế giới đoàn kết ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam anh dũng”. Như thế, so nghị quyết Cônakry với nghị quyết Mô-si, từ năm 1962 sang 1963, người ta thấy có một sự tiến bộ rõ rệt trong dư luận quốc tế về vấn đề chiến tranh ở miền Nam Việt Nam. Tại Cônakry, nghị quyết lên án Mỹ xâm lược, khẳng định tính chính nghĩa, hợp pháp của cuộc kháng chiến ở miền Nam. Tại Mô-si, nghị quyết đề ra yêu sách cụ thể: Mỹ phải rút quân đội, cố vấn, vũ khí, còn nhân dân thế giới thì cần hiệp sức ủng hộ nhân dân miền Nam.
Tháng 11-1964, Hội nghị quốc tế đoàn kết với nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược, có 64 đoàn đại biểu tham dự đại diện cho 50 nước và 12 tổ chức quốc tế, họp tại thủ đô Hà Nội. Hội nghị tuyên bố: ”Hoàn toàn ủng hộ cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân miền Nam Việt Nam, chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, giành độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà bình và trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc…Cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân miền Nam anh hùng là một tấm gương sáng và là một nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với các dân tộc bị áp bức. Một dân tộc bị áp bức, dù nhỏ nhưng đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh cho một đường lối đúng đắn, lại được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới thì hoàn toàn có thể chiến thắng được chủ nghĩa đế quốc, dù là đế quốc Mỹ…”.
Qua nội dung của những nghị quyết trên, chúng ta có thể nhận thấy dư luận quốc tế từ chổ ủng hộ chính nghĩa của nhân dân miền Nam Việt Nam đến chổ tin tưởng rằng nhân dân miền Nam sẽ chiến thắng quân xâm lược Mỹ và tay sai, đi từ ủng hộ mục tiêu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đến chổ tán thành các phương pháp đấu tranh mà Mặt trận chủ trương để đạt mục tiêu đó. Các nghị quyết quốc tế đó đã đề cao và xác lập vai trò, uy tín , vị trí của Mặt trận trên trường quốc tế, và hơn nữa, đã rút ra từ thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam Việt Nam một số chân lý có tính chất phổ biến cho phong trào nhân dân thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc và bảo vệ hoà bình.
Năm 1964 còn được đánh dấu bằng một sự kiện có ý nghĩa chính trị và pháp lý lớn: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam gửi đại biểu đi dự Hội nghị đàm phán về biên giới với chính phủ Vương quốc Cam-pu-chia. Như vậy là, mặc nhiêh chính phủ Cam-pu-chia  công nhận địa vị pháp lý của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là người đại diện chân chính cho nhân dân miền Nam. Hơn nữa, Quốc trưởng Vương quốc Cam-pu-chia  Xi-ha -nuc  nhiều lần lên tiếng khẳng định vai trò, vị trí pháp lý duy nhất của Mặt trận, và kiên quyết bác bỏ quyền đại diện của chính phủ bù nhìn Sài Gòn.
Từ ngày 1 đến ngày 9-3-1965, tại Phnôm Pênh đã diễn ra hội nghị Nhân dân Đông Dương, Tham dự Hội nghị có các đoàn đại biểu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Cộng đồng xã hội bình dân Campuchia, Neo Lào Hắc xạt, lực lượng trung lập Lào yêu nước và các đoàn thể tổ chức khác thuộc ba nước Đông Dương. Hội nghị đã cực lực lên án đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, gây ra cuộc chiến tranh đầy tội ác chống nhân dân Việt Nam, can thiệp vũ trang vào Lào và đe doạ xâm lược Campuchia. Hội nghị đã đưa ra Nghị quyết chung, khẳng định tình đoàn kết của nhân dân Đông Dương trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và thông qua ba nghị quyết riêng về Việt Nam, Lào và Camphuchia.
Hội nghị Nhân dân Đông Dương đã đánh dấu một bước tiến lớn trong sự nghiệp đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam, Campuchia và Lào chống kẽ thù chung là đế quốc Mỹ xâm lược. Thắng lợi nầy của ba dân tộc chúng ta là một đòn mạnh mẽ đánh vào chính sách can thiệp và xâm lược của đế quốc Mỹ và tay sai của chúng ở Đông Dương. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định :”Đứng trước nguy cơ một cuộc chiến tranh mở rộng do Mỹ gây nên, nhân dân ba nước chúng ta đoàn kết chặt chẽ chống đế quốc Mỹ, thì chúng ta nhất định thắng lợi” [67, tr.153].
Năm 1965, nhất là sau khi Mặt trận đưa ra bản tuyên bố 5 điểm ngày 22-3-1965 và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên bố lập trường 4 điểm, sau sự kiện vịnh Bắc bộ, sau sự kiện Mỹ đổ quân vào miền Nam và đánh phá miền Bắc bằng máy bay. Càng ngày có càng nhiều tuyên bố của những hội nghị quốc tế hưởng ứng bản tuyên bố của Mặt trận.
Ngày 22-3-1965, nhằm thể hiện rõ quyết tâm chiến đấu và thiện chí hoà bình của nhân dân ta, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã ra tuyên bố lập trường 5 điểm:
       1. Vạch rõ Mỹ là kẻ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, kẻ gây chiến và xâm lược cực kỳ thô bạo.
2.Nhân dân miền Nam quyết đánh đuổi đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, thực hiện một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, hoà bình, trung lập.
3.Nghĩa vũ thiêng liêng của quân và dân miền Nam là đánh đuổi đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc.
4.Nhân dân miền Nam Việt Nam tỏ lòng biết ơn sâu sắc sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới và tuyên bố sẵn sàng tiếp nhận mọi sự giúp đỡ, kể cả vũ khí và dụng cụ chiến tranh của bạn bè khắp năm châu.
5.Toàn dân đoàn kết, toàn dân vũ trang, tiếp tục anh dũng xông lên, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ và bọn Việt gian bán nước.
Sau khi bản tuyên bố ngày 22-3-1965 công bố đã có 22 chính phủ, 22 tổ chức quốc tế và khu vực, 446 đảng phái và đoàn thể quần chúng, 27 đảng cộng sản và công nhân thuộc 92 nước trên thế giới lên tiếng đồng tình với Mặt trận, ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam ( so với 9 tổ chức hồi năm 1962, 12 tổ chức năm 1963, 17 tổ chức năm 1964 ).
Nghị quyết về Việt Nam của Hội nghị nhân dân Đông Dương (3-1965) họp tại Phnôm Pênh ca ngợi sự lãnh đạo của Mặt trận và cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam, đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, rút quân và thủ tiêu các căn cứ quân sự để cho nhân dân miền Nam Việt Nam tự giải quyết các vấn đề nội bộ của mình.
Nghị quyết của 67 đoàn đại biểu các nước Á, Phi, Mỹ la tinh và châu Đại Dương họp hội nghị quốc tế các nhà giáo tại An-giê-ri ( 4-1965).
Nghị quyết của 109 đoàn đại biểu sinh viên, thanh niên thuộc 54 nước tại cuộc “họp mặt sinh viên, thanh niên quốc tế về hoà bình và hiểu biết lẫn nhau chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh”, họp tại Béc-linh ( 5-1965).
Nghị quyết 35 nước và tổ chức  quốc tế dự “hội nghị quốc tế bàn về việc thanh toán chủ nghĩa thực dân ở châu Mỹ la tinh”, họp ở La Ha-van( 5-1965).
Nghị quyết của hội nghị 20 Đảng Cộng Sản và công nhân các nước Tây Âu và Bắc Âu ( 6-1965).
Tháng 5-1965, Hội nghị đoàn kết nhân dân Á-Phi lần thứ 4 họp tại Ga-na quyết định:
“Hoàn toàn ủng hộ nhân dân Việt Nam trong cuôc đấu tranh chống mọi sự xâm lược của đế quốc Mỹ, nhằm giải phóng miền Nam , bảo vệ miền Bắc, bảo vệ quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm của đất nước và độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ như hội nghị Giơnevơ đã quy định, nhiệt liệt hoan nghênh những chiến thắng rực rỡ mà nhân dân miền Nam đã thu được và tin chắc rằng đế quốc Mỹ sẽ thất bại ở Việt Nam, nhân dân Việt Nam sẽ chiến thắng trong cuộc đấu tranh chính nghĩa của mình…Hoàn toàn ủng hộ bản tuyên bố ngày 22-3-1965 của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, phản ánh ý chí kiên quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam đấu tranh chống bọn xâm lược Mỹ tới thắng lợi cuối cùng và một lần nữa khẵng định rằng Mặt trận DTGPMNVN là người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam ”.
Ngoài các hoạt động trên diễn đàn các hội nghị, đoàn Mặt trận đã có nhiều hoạt động bên ngoài hội nghị, đi đến những văn bản ký kết, những tuyên bố chung có giá trị chính trị cao. Đoàn cũng đã vận động các tổ chức quốc tế công nhận các đoàn thể trong Mặt trận là hội viên, là thành viên trong ban chấp hành các tổ chức quốc tế. Đoàn cũng đã vận động được các tổ chức quốc tế thành lập những “Ủy ban Quốc tế đoàn kết với nhân dân miền Nam Việt Nam ”, tạo mọi điều kiện để các tổ chức quốc tế ủng hộ nhân dân Việt Nam trong công cuộc chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai.
Từ 1963 đến1965, có nhiều tổ chức quốc tế ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam trong cuộc chống đế quốc xâm lựơc và tay sai.
Năm 1963 có 103 tổ chức quốc tế và quốc gia lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ- Diệm rãi chất độc hoá học ở miền Nam Việt Nam . 10 tổ chức quốc tế và 82 tổ chức quốc gia trên 24 nước hưởng ứng ngày 20-7-1963. 103 tổ chức( trong đó có 7 chính phủ: Trung Quốc, Cu-Ba, Triều Tiên, Liên Xô, Lào, Cam-pu-chia, Xây lan) phản đối Mỹ- Diệm khủng bố Phật giáo, sinh viên, học sinh miền Nam Việt Nam. 12 tổ chức quốc tế và 330 tổ chức quốc gia của 50 nước hưởng ứng ngày kỷ niệm 3 năm thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, cũng là ngày quốc tế đoàn kết ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam .
Năm 1964, sự ủng hộ của quốc tế đối với nhân dân miền Nam càng rộng lớn hơn. Có 27 tổ chức quốc tế và 370 tổ chức quốc gia của 64 nước ( trong đó có 14 nước xã hội chủ nghĩa, 11 nước châu Á ,16 nước châu Phi, 11 nước châu Mỹ la tinh, 10 nước Tây Âu, Bắc Âu và Bắc Mỹ, 2 nước châu Đại Dương) lên tiếng ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và nhân dân miền Nam Việt Nam .
Đẹp đẽ vô cùng và to lớn nhất xưa nay là những con số ghi tên quân chí nguyện các nước sang chiến đấu bên cạnh nhân dân Việt Nam. Chỉ đến tháng 5-1965, đã có 35 nước có người ghi tên tình nguyện, trong đó có Liên Xô, Trung Quốc, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cu Ba. Có nhiều kỹ sư, bác sĩ, cựu chiến binh đến cơ quan đại diện thường trực của Mặt trận ghi tên xin tình nguyện. Mặt trận đã tiếp nhận hàng vạn lá đơn xin tình nguyện.

2.2.3. Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ hình thành

Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ, một đế quốc đầu sỏ trên thế giới đã trở thành vấn đề lớn, một trong những vấn đề trung tâm của thời cuộc quốc tế, có quan hệ đến tình hình hoà bình hay chiến tranh của thế giới, cho nên về phía mình nhân dân miền Nam Việt Nam có ý  thức rằng mình đang đứng trên tiền tuyến nóng nhất của nhân loại tiến bộ đấu tranh cho độc lập dân tộc, hoà bình dân chủ  và chủ nghĩa xã hội, còn về phía nhân dân thế giới thì bè bạn từ khắp năm châu mỗi ngày thêm đông đúc càng thấy rõ nghĩa vụ đối với cuộc cách mạng dân tộc dân chủ chống Mỹ và tay sai ở miền Nam Việt Nam. Vì vậy, một mặt trận nhân dân thế giởi ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam chống Mỹ xâm lược đã hình thành.

2.2.3.1.Các nước xã hội chủ nghĩa , là lực lượng nòng cốt của Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ [23].

Trung Quốc là nước ở trong vị trí và tình nghĩa “môi hở răng lạnh” với Việt Nam. Trung Quốc nhạy bén trong sự giúp đỡ cho cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân miền Nam. Huống chi, Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam là nhằm biến miền Nam Việt Nam thành pháo đài để chống phe xã hội chủ nghĩa. Trong khi so sánh lực lượng giữa ta và địch ta còn yếu, nhiều nước còn chưa tin vào khả năng chiến thắng của ta, thì Trung Quốc đã kiên quyết nói lên lòng tin tưởng vào tương lai thắng lợi của cách mạng miền Nam. Ngày 29-8-1963, Mao Trạch Đông nói: ”Tôi tin chắc rằng, nhân dân miền Nam Việt Nam, bằng cách đấu tranh, nhất định có thể thực hiện được mục tiêu giải phóng miền Nam, góp phần vào việc hoà bình thống nhất nước nhà ”.
Ngày 28-3-1965, Trần Nghị, Bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc, trong một bức công hàm gửi cho Việt Nam đã khẳng định: ”Hai nước Trung Quốc và Việt Nam khắng khít với nhau như môi với răng, vui buồn hoạn nạn có nhau, ủng hộ nhân dân Việt Nam anh em chống sự xâm lược của Mỹ là nghĩa vũ quốc tế thiêng liêng của nhân dân Trung Quốc. Chúng tôi kiên quyết ủng hộ tuyên bố ngày 22-3-1965 của Mặt trận Dân tộc Giải phóng  miền Nam Việt Nam. Nhân dân Trung Quốc sẽ dốc hết lực lượng của mình, giúp đỡ mọi sự cần thiết về vật chất, bao gồm cả vũ khí và dụng cụ chiến tranh, cho nhân dân miền Nam Việt Nam anh hùng ”.
Một cao trào “giúp Việt chống Mỹ” được phát động trong toàn dân Trung Quốc, mở đầu bằng cuộc mít tinh 1,5 triệu người tại Bắc Kinh ngày 10-2-1965, có cả các đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà nước tham dự. Cao trào “giúp Việt chống Mỹ” biểu hiện khắp nơi bằng học tập, sản xuất và tập luyện quân sự với  ý thức Trung Quốc là hậu phương, Việt Nam là tiền tuyến.
Liên Xô cũng rất quan tâm đến tình hình Việt Nam, đã ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân Việt Nam. Ngày 3-8-1962, Uỷ ban đoàn kết Á - Phi của Liên Xô đã ký tuyên bố chung với Mặt trận Dân tộc Giải phóng  miền Nam Việt Nam xác định: ”Cuộc đấu tranh thần thánh của nhân dân miền Nam Việt Nam nhằm thực hiện độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập là hoàn toàn phù hợp với Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam, với bản tuyên bố của Đại hội đồng Liên hiệp quốc lần thứ 15 về thủ tiêu chủ nghĩa thực dân”. “Kiên quyết đòi đế quốc Mỹ phải đình chỉ tức khắc cuộc vũ trang xâm lược của chúng và rút hết quân đội, cố vấn quân sự, vũ trang và phương tiện chiến tranh của Mỹ cũng như  chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam ”.
Đầu năm 1964, Chủ tịch đoàn chủ tịch Xô viết tối cao Brê -jê - nep gửi điện cho luật sư Nguyễn Hữu Thọ bày tỏ mối cảm tình sâu sắc của nhân dân Liên Xô đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân miền Nam và chúc nhân dân miền Nam đạt nhiều thắng lợi.
Ngày 29-4-1965, hưởng ứng lời kêu gọi của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Xô Viết tối cao Liên Xô tuyên bố: “Công việc của miền Nam Việt Nam phải do nhân dân miền Nam Việt Nam tự giải quyết lấy theo cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, người đại diện chân chính của  ý chí và nguyện vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam, người đại diện duy nhất hợp pháp của nhân dân miền Nam Việt Nam ”.
Chính phủ Triều Tiên tuyên bố sẽ cung cấp cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng  miền Nam Việt Nam vũ khí và thiết bị đủ đủ để trang bị cho một lực lượng Quân giải phóng và các đơn vị vũ trang nhân dân miền Nam tương đương với quân Nam Triều Tiên mà đế quốc Mỹ đưa sang đánh thuê, chết thay cho chúng ở Nam Việt Nam. Mặt trận Dân chủ thống nhất Tổ quốc Triều Tiên kêu gọi thanh niên và binh lính Nam Triều Tiên bị đưa sang Việt Nam hãy quay súng chống lại đế quốc Mỹ, chạy sang hàng ngũ Quân giải phóng.
Các nước Mông Cổ, Ba Lan, Rumani, Hungary, Tiệp Khắc, Cộng hoà dân chủ Đức, Anbani, Cuba… đều “Hoàn toàn ủng hộ cuộc đấu tranh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng  miền Nam Việt Nam, đại biểu cho nguyện vọng của nhân dân miền Nam và là người đại diện duy nhất hợp pháp của nhân dân miền Nam ”.
Tóm lại, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa anh em, người trước người sau, đã tỏ rõ nhiệt tình ủng hộ cách mạng miền Nam. Nhiệt tình của bè bạn được thể hiện bằng những hành động cụ thể viện trợ cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng, cho nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Đặc biệt từ sau bản tuyên bố 22-3, phong trào đồng tình và ủng hộ đó trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Lực lượng toàn phe  xã hội chủ nghĩa là chổ dựa mạnh nhất của nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Phe xã hội chủ nghĩa đúng là nòng cốt vững chắc của Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược.

2.2.3.2. Các nước  Á- Phi - Mỹ La tinh ủng hộ Việt Nam chống Mỹ.

Việt Nam là một trong những nước thuộc địa của phương Tây đã nổi lên làm cách mạng dân tộc và dân chủ thành công, đánh đuổi thực dân, khôi phục độc lập, khai trương cao trào giải phóng dân tộc sau chiến tranh thế giới thứ hai. Cho nên dân tộc Việt Nam có cái vốn uy tín lớn trong các nước Á- Phi - Mỹ La tinh. Cuộc đấu tranh vũ trang và chính trị của nhân dân miền Nam Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chống Mỹ, chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới, cho nên cuộc cách mạng của ta sớm được các  nước Á- Phi - Mỹ La tinh đồng tình và ủng hộ.
Campuchia là nước bị hai bù nhìn của Mỹ (Thái Lan và nguỵ quyền Sài Gòn ) kẹp vào giữa và quấy phá thường xuyên. Từ năm 1963, Quốc trưởng Campuchia Norodom Xi ha nuc đã can đảm công khai gửi thư cho luật sư Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng, tỏ ý mong muốn miền Nam sớm được giải phóng để cùng Campuchia xây dựng sự hợp tác và hữu nghị giữa hai dân tộc. Năm 1964, chính phủ Campuchia tiến hành hội đàm tay đôi với Mặt trận Dân tộc Giải phóng  về vấn đề biên giới và như thế Campuchia mặc nhiên thừa nhận vị trí pháp lý duy nhất của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Quốc trưởng Xi ha nuc nói: ”Chính quyền Sài Gòn là chính quyền bù nhìn, ví phỏng họ có tôn trọng biên giới Campuchia đi nữa, thực tế điều ấy cũng chẳng có giá trị gì, vì đó chỉ là một chính quyền tay sai của Mỹ”.
          Hưởng ứng bản tuyên bố ngày 22-3-1965, Quốc trưởng Xi ha nuc gởi thư cho luật sư Nguyễn Hữu Thọ, nói rõ: ”Nhân dân Campuchia hoàn toàn ủng hộ bản tuyên bố ngày 22-3 của Mặt trận và hoàn toàn đoàn kết với những người anh em Việt Nam trong cuộc đấu tranh chính nghĩa chống đế quốc  Mỹ ”.
          Lào là một dân tộc láng giềng của Việt Nam, có thiện cảm với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Lào cũng là nơi đang có cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược. Cho nên giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng  và Neo Lào Hắc -xạt có sự gắn bó với nhau. Từ khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam   ra đời, không có một sự kiện chính trị, một chiến thắng nào của nhân dân miền Nam mà Neo Lào Hắc-xạt  không nhiệt liệt hưởng ứng.
          In -đô-nê -xi-a, dưới thời Tổng thống Xu các nô, Chính phủ và nhân dân In -đô- nê -xi-a có thiện cảm với nhân dân miền Nam chống Mỹ và tay sai. Kỷ niệm 3 năm thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng  (20-12-1963), In -đô- nê -xi-a đã đón tiếp nồng nhiệt đoàn đại biểu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng  do giáo sư Nguyễn Văn Hiếu dẫn đầu. Nhân dịp nầy, Mặt trận dân tộc In-đô-nê-xi-a và Mặt trận Dân tộc Giải phóng  miền Nam Việt Nam đã  ra bản tuyên bố chung, có đoạn viết: ”Nhân dân In-đô-nê-xi-a hoàn toàn ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân miền Nam Việt Nam, nhằm giải phóng miền Nam, tống cổ đế quốc Mỹ ra khỏi miền Nam, thực hiện độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất đất nước. Mặt trận dân tộc In-đô-nê-xi-a cho rằng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là người đại diện chân chính và duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam ”.
          Các nước An-giê-ry, Ma-li, Ghi- nê, Công -gô( B), Cộng hoà Ả Rập Thống Nhất  đều có các phong trào ủng hộ cuộc  chiến tranh chống Mỹ của nhân dân miền Nam Việt Nam, các nước đều tuyên bố “Hoàn toàn đứng về phía nhân dân Việt Nam anh hùng, triệt để ủng hộ cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân Việt Nam nhằm giải phóng đất nước, đòi rút quân Mỹ khỏi Nam Việt Nam ”.
          Nhiều đảng phái chính trị, nhiều đoàn thể của nhân dân các nước Á- Phi - Mỹ La tinh  đã lên tiếng hưởng ứng bản tuyên bố 22-3-1965 của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Có thể nói, không một nước nào mà không có chính đảng và đoàn thể quần chúng ra tuyên bố ủng hộ nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Mỹ.
          Khắp các nước châu Mỹ La tinh bùng cháy ngọn lửa nhân dân chống Mỹ. Ở nhiều nước, phòng thông tin, sứ quán mỹ bị đập phá, đốt cháy. Du kích Vê-nê-du-ê-la học tập gương Nguyễn Văn Trỗi. Thanh niên Mếch -xich, Cô-lôm-bi-a ghi tên tình nguyện sang miền Nam Việt Nam chiến đấu. Phụ nữ U-ra-goay thành lập “Uỷ ban Việt Nam ”. Các Đảng cộng sản Cô-lôm-bi, Si- li, Pê-ru ra nghị quyết ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam. Hội nghị Trung ương Đảng cộng sản Vê-nê-du-ê-la gửi thư cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng  nhấn mạnh rằng: “Sự nghiệp chính nghĩa giải phóng dân tộc của miền Nam Việt Nam không chỉ là sự nghiệp của nhân dân các bạn mà là sự nghiệp của tất cả các dân tộc trên thế giới, đặc biệt là của nhân dân Vê-nê-du-ê-la”. Khi Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền Nam thì “Ủy ban châu Mỹ La tinh ủng hộ Việt Nam ” tại La Ha-van tuyên bố: nguyện tăng cường gấp trăm lần các hoạt động để góp phần vào thắng lợi của nhân dân Việt Nam .

2.2.3.3. Nhân dân tiến bộ các nước tư bản châu Âu ủng hộ Việt Nam chống Mỹ.

Ở Pháp, nhân dân lao động vốn có cảm tình với cách mạng Việt Nam, nước Pháp là nước ký Hiệp định Giơnevơ nhưng chính phủ Pháp từ bỏ trách nhiệm thực hiện nghị quyết ấy. Từ năm 1963, Đảng cộng sản Pháp, Tổng liên đoàn lao động, các tổ chức sinh viên, thanh niên, phụ nữ Pháp đã nhiều lần lên tiếng phản đối chiến tranh đặc biệt của Mỹ ở Nam Việt Nam và ủng hộ Mặt trận Mặt trận Dân tộc Giải phóng  miền Nam Việt Nam. Phong trào ủng hộ Việt Nam chống Mỹ lên cao từ đầu năm 1965, đặc biệt là từ sau khi có bản tuyên bố 22-3-1965 của Mặt trận. Cuộc vận động quần chúng ở Pháp chống Mỹ, biểu hiện tập trung nhất là trong ”Ngày toàn nước Pháp ủng hộ Việt Nam ”( 6-4-1965), ngày ấy ở hầu hết mấy trăm thành phố lớn đều có mít tinh, biểu tình và sau đó có nhiều đoàn đại biểu từ khắp nơi trên nước Pháp về Pa ri, đến đại sứ quán Mỹ đưa kiến nghị phản đối Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam và phá hoại bằng máy bay nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhiều thành phố lập “Uỷ ban ủng hộ Việt Nam ”, những ủy ban đó làm công tác tuyên truyền, lấy chữ ký, quyên góp tiền bạc và thuốc men gửi tặng Mặt trận. Đại hội lần thứ 35 của Tổng liên đoàn lao động Pháp gửi tặng Quân giải phóng 1,5 triệu Phơ - răng thuốc men và kèm theo thư cổ vũ, cam kết với nhân dân miền Nam là sẽ cùng với nhân dân thế giới tiếp tục đấu tranh chống Mỹ.
Ở Thuỵ Điển, thanh niên biểu tình đập phá đại sứ quán Mỹ, hạ quốc huy, quốc kỳ Mỹ. Một tổ chức sinh viên phát hành ”Bản tin Việt Nam ”. Ngày 29-8-1965, “Uỷ ban Thuỵ Điển ủng hộ Việt Nam ” được thành lập có 60 nhân vật nổi tiếng tham gia.
Ở  Ý, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Ý, trong tinh thần hoàn toàn và triệt để ủng hộ bản tuyên bố ngày 22-3-1965 của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Các tầng lớp nhân ngày càng thống nhất hành động và có  nhiều hình thức phong phú ủng hộ hai miền Nam Bắc Việt Nam đấu tranh chống Mỹ. Phong trào rầm rộ nhất là những tháng 3,4-1965. Trong hai tháng đó có tất cả 4.000 cuộc biểu tình khắp nước Ý. Ngày chủ nhật 11-4-1965 có đến 3.000 cuộc mit tinh. Tại thành phố Mi - lan, 3 ngày sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng  tuyên bố bản tuyên bố 5 điểm, Đảng cộng sản Ý tổ chức cuộc biểu tình khổng lồ 7 vạn người để hưởng ứng. Hàng trăm nhà trí thức nổi tiếng ở Rôm ký kiến nghị chống Mỹ xâm lược  Nam Việt Nam. Nhiều cuộc quyên góp của Đảng cộng sản phối hợp với các bác sĩ Ý để mua thiết bị giúp một bệnh viện dã chiến của Việt Nam .
Ở Anh, “Phong trào đòi tự do cho các thuộc địa”, Hội Anh- Việt hữu nghị, Hội đồng hoà bình Anh, Đảng cộng sản Anh… đã lên tiếng ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược, đã tổ chức hàng chục cuộc đi bộ và mít tinh lớn để ủng hộ Việt Nam. Ngày 30-6-1965, 5 vạn người dân Anh đã từ khắp nơi kéo về Luân Đôn, tuần hành, lên án đế quốc Mỹ và ủng hộ nhân dân hai miền Nam Bắc Việt Nam, đòi chính quyền Uyn-xơn không được theo đuôi Mỹ. Phong trào nhân dân Anh phản đối Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam là một phong trào chẳng những gồm đông đảo nhân dân lao động, mà gồm cả hàng trăm nghị sĩ Công đảng, gồm nhiều phần tử trí thức có ảnh hưởng lớn, tiêu biểu nhất là nhà triết học nổi tiếng Bec -tơ -răng Rut -xen. Cụ Rut- xen từ nhiều năm đã liên tục, kiên trì lên án đế quốc Mỹ trên các tờ báo lớn ở Anh, Mỹ, tiếng nói của cụ có ảnhh hưởng rộng.
Ngoài ra, ở các nước Na uy, Phần Lan, Tây Đức, Hà Lan,Thuỵ Sĩ, Bỉ, Hy Lạp…đều có phong trào ủng hộ Việt Nam , đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam .
Nhìn chung, phong trào nhân dân Tây Âu ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam chống Mỹ mạnh nhất là ở những xứ nào có đảng cộng sản mạnh, có giai cấp công nhân giác ngộ nhờ một truyền thống đấu tranh lâu dài, có những tầng lớp trí thức tiến bộ đông đảo. Nhân dân Tây Âu thấy được rằng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam là một sự đe doạ nghiêm trọng đối với hoà bình thế giới, họ thấy rằng nếu không may đế quốc Mỹ thắng trận ở miền Nam Việt Nam thì thế lực phát xít sẽ trỗi dậy rất nguy hiểm ở Trung Âu, ngọn lửa chiến tranh có thể mở rộng do kế hoạch phiêu lưu của giới quân phiệt Lầu Năm góc  mà lan rộng ra, các thế lực phát xít có nguy cơ trỗi dậy.
Phong trào ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ ở Tây Âu mạnh lên sau ngày 22-3-1965, sau bản tuyên bố của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, phong trào trở thành mạnh mẽ, có tính quần chúng rộng rãi, với những yêu sách rõ hơn và cao hơn trước: “Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam ”, “Phải thừa nhận và thương lượng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng”, “Giôn xơn là kẻ giết người”…Các nước Tây Âu đấu tranh có tổ chức, hành động thống nhất trên một khu vực gồm nhiều nước, làm cho đế quốc Mỹ bị cô lập trên thế giới.

2.2.3.4. Nhân nhân tiến bộ Mỹ ủng hộ Việt Nam.

Từ khi Mỹ tiến hành xâm lược Việt Nam thì phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ bắt đầu xuất hiện. Năm 1962, xuất hiện những kiến nghị, những thư ngỏ của giới trí thức và các nhà tu hành, song các kiến nghị và thư ngỏ ngày càng nhiều, hành động ký tên và yêu sách của nhân dân  ngày càng thêm đông .
Từ tháng 4-1962, thư ngỏ của 16 nhà trí thức Mỹ gởi Tổng thống Ken- ne- dy, trong 16 người nầy có nhà bác học nổi tiếng thế giới là J. Pau-linh. Đến ngày 1-3-1963, thư ngỏ của 62 nhà trí thức, nhân sĩ gửi Ken- ne- dy với nội dung đòi chấm dứt chiến tranh ở Nam Việt Nam. Một tháng sau ,lại có một thư ngỏ có ký tên 650 trí thức và nhân sĩ.
Từ tháng 6 đến tháng 8-1963, trong lúc ở Sài Gòn, Huế, phong trào đấu tranh của Phật tử sôi nổi chống chính quyền Ngô Đình Diệm và bị Diệm đàn áp dữ dội thì nhiều mục sư, linh mục Mỹ lên tiếng phản đối tội ác của nhà cầm quyền Mỹ đã làm chổ dựa cho Diệm, có 15.000 nhà  tu hành cả nước Mỹ cùng lên tiếng .
Đầu năm 1965, khi Mỹ tiến hành chính sách “leo thang”, một mặt phá hoại miền Bắc bằng máy bay ném bom, mặt khác đưa từng đơn vị trung đoàn, sư đoàn quân sang miền Nam Việt Nam, điều nầy gây một lo ngại lớn, một xúc động mạnh trong nhân dân Mỹ, từ đấy cuộc vận động phản chiến ở Mỹ mới thực sự phát triển thành một phong trào. Đến đây phong trào mở rộng ra các trường đại học, tầng lớp sinh viên và  nhiều tầng lớp khác trong xã hội Mỹ. Các cuộc biểu tình tuần hành chống chiến tranh diễn ra sôi nổi trên khắp nước Mỹ.
Lúc đầu, phong trào phản chiến chủ yếu bùng nổ trong các trường đại học như : Ann Arbor, Berkeley, Columbia, Stanford…nhưng càng về sau, phong trào lôi kéo mọi tầng lớp nhân dân, nhất là tầng lớp thanh niên trong độ tuổi quân dịch và gia đình của họ. Trí thức tiến bộ tham gia hăng hái, nhân sĩ phản chiến ngày càng đông.
Phong trào phản chiến ở Mỹ biểu hiện dưới nhiều hình thái phong phú và sáng tạo, làm cho nó có tiếng vang lớn trong và ngoài nước Mỹ. Từ phong trào đăng báo những bản tuyên bố, ký tên, thư ngỏ… đến những cuộc bãi khoá, bãi thực trước cơ quan Liên hiệp quốc, và những cuộc biểu tình, những cuộc ngăn chặn quân Mỹ sang Việt Nam trước những căn cứ quân sự của Mỹ. Những cuộc tự thiêu theo gương các vị hoà thượng ở Việt Nam đã tự thiêu để phản đối chính quyền Diệm. Cảm động nhất là những cuộc hiến máu gửi cho nhân dân miền Nam Việt Nam đang bị súng đạn Mỹ sát hại.
Phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ gây thêm tinh thần phản chiến trong quân lính Mỹ và ảnh hưởng tích cực đến phong trào ở Tây Âu ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược.
Nhìn chung, sau 5 năm hoạt động của Mặt trận Dân tộc Giải phóng  trên mặt trận đối ngoại, phong trào nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân miền Nam chống Mỹ có những bước tiến đáng kể. Không có một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc nào trên thế giới, trong thời hiện đại, được nhân dân thế giới ủng hộ đông đảo và nhiệt tình như cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam. Thành phần tham gia phong trào ủng hộ Việt Nam chống Mỹ không phải chỉ có tầng lớp công nông, không phải chỉ có các dân tộc bị áp bức mà bao gồm nhiều tầng lớp xã hội, nhiều chính giới, nhiều chính phủ các nước, kể cả nhân dân nước Mỹ và các nước phương Tây. Nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ, không chỉ ủng hộ về tinh thần, về chính trị, mà còn ủng hộ về vật chất phù hợp với điều kiện của Việt Nam, phù hợp với yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân  miền Nam.
Mặt trận nhân nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ từng bước hình thành và phát triển, tạo điều kiện cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam thắng lợi hoàn toàn. 

2.3.  HOẠT ĐỘNG QUÂN SỰ 

2.3.1. Giải phóng quân  Miền Nam  Việt Nam ra đời

Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, quân đội và chính quyền tập kết ra Bắc, những người kháng chiến cũ ở lại dùng hình thức đấu tranh chính trị  đòi nguỵ quyền miền Nam thi hành các điều khoãn của hiệp định Giơnevơ. Nhưng ngược lại, bọn Mỹ -Diệm lại chủ trương dùng bạo lực phản cách mạng để tiêu diệt những người kháng chiến cũ, đàn áp các phong trào đòi cơm áo, tự do, thống nhất .
Từ 1954 đến 1960, không lúc nào ngớt những cuộc bố ráp, càn quét, hành quân lớn nhỏ nhằm tiêu diệt các lực lượng đối lập với nguỵ quyền. Như thế, dưới chế độ Mỹ - Diệm, ai muốn sống thì lại phải đứng lên cầm vũ khí.
Từ 1956 đến 1957, các lực lượng giáo phái lần lượt bị quân đội Mỹ -Diệm tiêu diệt, một số còn lại tồn tại được một thời gian nhờ sự giúp đỡ của những người kháng chiến cũ và nhân dân. Tuy vậy, thực lực của các đơn vị nầy không nhiều và chỉ ở một số vùng ở miền Trung và Đông Nam bộ. Những người kháng chiến cũ, cùng với nhân dân tiếp tục đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế.
Từ 1957 trở đi, nhiều anh em kháng chiến cũ bị Mỹ – Diệm khủng bố , không thể ở lại làng xóm cũ, phải tập trung nhau lại thành những đơn vị nhỏ, chế tạo vũ khí để tự vệ, xây dựng các ”Làng rừng”, họ làm công tác tuyên truyền vũ trang và bắt đầu trừng trị những tên ác ôn.
Từ 1959, Mỹ - Diệm càng đẩy mạnh bạo lực vũ trang phản cách mạng, nhân dân nhiều nơi đã đứng lên  thành lập các đội vũ trang, đặc biệt là dân tộc  Kơ - ho ở miền núi Trung Bộ , một số nông dân ở miền Tây Nam Bộ, miền Đông Nam Bộ ,vùng chiến khu Đ cũ đã   nổi dậy diệt các đồn lẻ của địch và trừng trị bọn ác ôn.
Sau nghị quyết Trung ương 15( 1-1959), nhiều đội vũ trang tự vệ được thành lập, đặc biệt là trong cao trào Đồng khời 1959-1960 ,nhiều địa phương đã tự chế tạo vũ khí, tấn công đồn giặc cướp vũ khí , xây dựng các đội vũ trang để hổ trợ phong trào đấu tranh chính trị.
Ngày 20-12-1960, Mặt trận DGPMNVN ra đời.
Từ 1960, cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân miền Nam Việt Nam phát triển thành một cuộc chiến tranh thực sự. Cuộc chiến tranh cách mạng phải có lực lượng vũ trang của nhân dân. Cho nên, Giải phóng quân miền Nam  ra đời làm nhiệm vụ cách mạng.
Tháng 1-1961, Tổng quân uỷ Trung ương ra chỉ thị :”Quân giải phóng miền Nam là một bộ phận của quân đội nhân dân Việt Nam , do Đảng sáng lập và xây dựng, giáo dục và lãnh đạo…..Mục tiêu chiến đấu của nó là kiên quyết thực hiện cương lĩnh, đường lối của Đảng, giải phóng miền Nam  khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, người cày có ruộng, tiến lên xã hội chủ nghĩa…” [61].
Ngày 15-2-1961, các lực lượng vũ trang nhân dân miền Nam thống nhất dưới một danh nghĩa chiến đấu chung là “Giải phóng quân miền Nam Việt Nam”. Giải phóng quân miền Nam Việt Nam tuyên bố tán thành mục đích và chương trình của Mặt trận DTGPMNVN , được uỷ ban Trung ương lâm thời của Mặt trận công nhận là thành viên của Mặt trận và được trao quân kỳ có hàng chữ: “Giải phóng quân anh dũng, chiến thắng”. Mặc dù là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, nhưng Quân giải phóng có một sứ mạng lịch sử vô cùng  quan trọng, thực sự là lực lượng nòng cốt trong cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai của chúng .
Cùng với việc thống nhất các lực lượng vũ trang, Bộ tư lệnh các lực lựơng vũ trang giải phóng miền Nam cũng được thành lập. Ban quân sự Miền là cơ quan giúp Trung ương cục chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng ở chiến trường Nam bộ và cực Nam Trung bộ . Hệ thống chỉ huy quân sự được xây dựng từ Miền đến tỉnh - huyện - xã . Các quân khu cũng được thành lập. Đồng chí Phạm Thái Bường là chính uỷ đầu tiên và đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến là tư lệnh đầu tiên của Quân giải phóng.
Tháng 9-1961, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương thông qua đồ án xây dựng lực lượng vũ trang cho chiến trường miền Nam, theo kế hoạch  nầy, bên cạnh  việc phát triển lực lượng tại chỗ, sẽ đưa vào miền Nam khoảng 3 đến 4 vạn cán bộ, chiến sĩ đã được huấn luyện chính quy trên miền Bắc.
Tại các thôn, ấp giải phóng, được các tổ chức cách mạng giác ngộ và động viên, hàng nghìn thanh niên đã tình nguyện tham gia vào lực lượng Giải phóng quân. Năm 1963, ta đã tuyển được 26.000 thanh niên vào lực lượng Giải phóng quân, miền Bắc chi viện 8.719 quân, nâng tổng số quân toàn miền Nam lên 133.650   cán bộ, chiến sĩ [66].
Năm 1964, các địa phương toàn miền Nam đã động viên được 25.960 thanh niên vào lực lượng Giải phóng quân, miền Bắc chi viện 17.475 cán bộ ,chiến sĩ . Đến cuối  1964, lực lượng Giải phóng quân lên tới 294.000 người. Tương quan lực lượng giữa ta và địch đã thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ta : năm 1961 tỷ lệ lực lượng ta và địch là 1/13 (22.000/293.850), đến năm 1963 là 1/3 (133.650/429.300), đến năm 1964 chỉ còn là ½ ( 294.000/ 588.216).
Thực hiện kế hoạch quân sự  5 năm ( 1961- 1965) của Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng , nhiều xã giải phóng thành lập được trung đội du kích tập trung, mỗi huyện, tỉnh giải phóng đều thành lập 1 đến 2 đại đội bộ đội địa phương. Quân khu có 11 tiểu đoàn chủ lực .
Chia chiến trường miền Nam thành các quân khu: Quân khu 5 ( Trị - Thiên- Nam Trung Bộ ),Quân khu 6 ( cực Nam Trung Bộ ), Quân khu 7 ( miền Đông Nam Bộ ), Quân khu 8 ( miền Trung Nam Bộ ), Quân khu 9 ( miền Tây Nam Bộ ), Quân khu Sài Gòn- Gia Định.
          Ngày 2-8-1961, tại chiến khu Dương Minh Châu, trung đoàn chủ lực đầu tiên mang tên Q761 đã được thành lập, đánh dấu bước trưởng thành của Quân giải phóng miền Nam. Lực lượng Dân quân tự vệ miền Nam ( 1959- 1964 ) : 179.000. Tỷ lệ so với dân số 1,25.
Từ 1964, thực hiện chủ trương của Bộ chính trị, quân chính quy miền Bắc được đưa vào chiến trường, khối chủ lực Miền bắt đầu được hình thành.
Sau khi Quân giải phóng củng cố và xây dựng, quân ta mở chiến dịch Đông-Xuân 1964-1965 thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng Bình Giả đã chứng tỏ sự lớn mạnh vượt bậc của Quân giải phóng miền Nam.
Việc thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam và Bộ tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng đã đánh dấu một bước phát triển mới về mọi mặt của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, đưa vai trò của đấu tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới .
Như vậy, từ năm 1961- 1965 Quân Giải phóng vừa chiến đấu vừa xây dựng đã truởng thành và lớn mạnh vượt bậc, phát triển từ lực lượng chính trị của quần chúng và được sự chi viện thường trực của miền Bắc đã hình thành 3 thứ quân hoàn chỉnh. Tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực trong các chiến dịch đã giành được thắng lợi, tiêu diệt một bộ phận quan trọng chủ lực ngụy, làm thay đổi nhanh chóng so sánh lực lượng giữa ta và địch, góp phần cùng toàn dân đánh bại “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.

2.3.3.Chống Chiến  tranh  đặc biệt” (1961-1965 )

              2.3.3.1. Âm mưu “chiến tranh đặc biệt”.

Từ cuối 1960, hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai độc tài phát xít Ngô Đình Diệm bị thất bại, đế quốc Mỹ bị động thay đổi chiến lược, chuyển sang dùng “chiến tranh đặc biệt” để đối phó với cách mạng miền Nam, chiếm lại những địa bàn và vùng dân cư đã bị mất trong phong trào Đồng khởi của ta.
Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” là chiến lược đầu tiên trong ba lọai chiến tranh của chiến lược quân sự toàn cầu “phản ứng linh hoạt” của đế quốc Mỹ. Đặc điểm của chiến lược nầy là sử dụng lực lượng phản cách mạng tại chổ cộng với sự cung cấp đến mức cao nhất những phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ và hệ thống cố vấn Mỹ . Nội dung cơ bản của chiến lược nầy là: càn quét, dồn dân lập ấp chiến lược trên quy mô lớn theo chiến thuật “tát nước bắt cá”.
Mỹ- Diệm coi việc lập ấp chiến lược là “quốc sách”, là “xương sống” của chiến lược “chiến tranh đặc biệt ”. Biện pháp chiến lược là tổ chức hành quân càn quét và gom dân, theo kế họach Xtalây- Taylo bình định miền Nam trong vòng 18 tháng ( từ giữa 1961 đến cuối 1962), lập 16.000 ấp chiến lược. Sau đó kế họach Giôn xơn-Mc Namara bình định miền Nam trong vòng 2 năm ( 1963-1964), tăng cường các cuộc hành quân và bình định có trọng điểm.
          Để thực hiện kế hoạch trên, Mỹ- Diệm tiến hành nhiều thủ đoạn, biện pháp khốc liệt và đẫm máu. Chúng mở hàng chục nghìn cuộc hành quân lớn nhỏ, càn quét dài ngày, dùng bom đạn đánh phá ác liệt, rãi chất độc hóa học, chà đi xát lại từng khu vực để lùa dân vào ấp chiến lược. Chúng huy động máy bay trực thăng, xe cơ giới, thiết giáp để lùa dân đến những nơi lập ấp. Trong các cuộc càn quét, địch đã áp dụng nhiều chiến thuật mới như “bủa lưới phóng lao”, “phượng hòang vồ mồi”,”trên đe dưới búa”…đánh vào các khu căn cứ của ta nhằm tiêu diệt bộ đội và du kích, đánh úp vào các cơ quan đầu não của Mặt trận Dân tộc giải phóng.
2.3.3.2.Các chiến thắng tiêu biểu của Quân giải phóng [38], [69], [76]
Từ khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, các lực lượng vũ trang nhân dân miền Nam thống nhất thành Quân Giải phóng miền Nam, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Cục, Bộ chỉ huy Miền đã tổ chức nhiều cuộc chống càn và phá ấp chiến lược có hiệu quả.
Tính chung trong năm 1961, quân và dân miền Nam đã tiến hành đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị rộng khắp tên cả 3 vùng chiến lược, đã đánh 15.525 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 28.968 tên địch ( có 41 tên Mỹ ), bắt 3.259 tên, thu 6.000 súng các loại. Cùng với các cuộc tấn công quân sự, có 33,8 triệu lượt người đã xuống đường đấu tranh chính trị trực diện với địch. Cuộc đấu tranh chính trị và binh vận của nhân dân đã làm cho 14.500  binh sĩ ngụy đào ngũ và rã ngũ. Vùng giải phóng được củng cố và giữ vững, hàng ngàn thanh niên tham gia Quân giải phóng.
Năm 1962, Quân giải phóng đã loại khỏi vòng chiến 35.000 tên (có 400 tên Mỹ ), làm rã ngũ 32.000 tên, lật đổ 18 đầu tàu hỏa, phá sập 312 cầu, cống, bắn hỏng 12 tàu xuồng và bắn rơi nhiều máy bay địch.
- Chiến thắng  Ấp Bắc ( 1963) [47, tr. 10-19]
Ấp Bắc là một ấp nhỏ, có khoảng 600 dân thuộc  xã Tân Phú Trung, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho (nay là Tiền Giang ). Đây là địa bàn lịch sử có truyền thống cách mạng kiên cường. Nhân dân Ấp Bắc và xã Tân Phú Trung sớm đi theo Đảng tham gia cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ kháng Pháp từ 1940. Trong chín năm kháng chiến, đây luôn là một trong những căn cứ địa quan trọng của miền Tây Nam Bộ, là một trong những điển hình của phong trào đấu tranh chống Pháp xâm lược. Trong kháng chiến chống Mỹ , Ấp Bắc là một trong những vùng giải phóng quan trọng ở phía Bắc đồng bằng sông Cửu Long. Đây là địa điểm dừng chân để củng cố , bổ sung lực lượng, trang bị, vũ khí của các đơn vị Quân giải phóng sau mỗi đợt hoạt động trên chiến trường khu VIII.
Xung quanh Ấp Bắc là những cách đồng bằng phẳng, có hệ thống kênh rạch và đường bộ xung quanh thuận lợi cho việc đi lại của các phương tiện cơ động cả đường bộ lẫn đường thuỷ. Vườn cây trái hai bên bờ kênh tạo thế che khuất cho du kích và nhân dân. Hệ thống hầm hào công sự, trận địa liên hoàn, bảo đảm cho du kích và bộ đội có thể cơ động bí mật để yểm trợ và phối hợp tác chiến đánh địch càn quét.
Thực hiện chủ trưong của Khu 8, chọn mục tiêu và đánh một số trận để tìm ra phương thức tác chiến phù hợp để chủ động đối phó với các chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận của địch, tạo một điển hình làm cơ sở thúc đẩy phong trào đấu tranh chống càn quét, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược trên toàn khu phát triển và giành thằng lợi.
Cuối tháng 12-1962, các đơn vị đã bí mật “ém quân” tại xã Tân Phú Trung. Lực lượng của ta gồm 2 đại đội chủ lực Miền và 1 trung đội bộ đội địa phương, dựa vào hệ thống công sự, hầm hào, trận địa của các ấp chiến đấu. Ta tổ chức phòng ngự với quyết tâm : Nếu đụng địch, phải bám chắc công sự, chiến đấu đến cùng.
Về phía Mỹ-nguỵ, qua mạng lưới trinh sát, điệp báo phát hiện được quân chủ lực Khu VIII về Ấp Bắc, Bộ tư lệnh hành quân của địch quyết định mở cuộc hành quân mang mật danh ”Đức Thắng 1/63” nhằm “tiêu diệt và bắt gọn Việt cộng” ở Ấp Bắc, xoá căn cứ đứng chân của Quân giải phóng và dồn dân lập ấp chiến lược.
Lực lượng của địch huy động gồm: 3 tiểu đoàn bộ binh,1 tiêu đoàn dù, 2 đại đội biệt động quân, 3 đại đội bảo an, 3 đại đội dân vệ, 13 thiết giáp M113, 13 giang thuyền chiến đấu, 6 máy bay khu trục B26, 15 máy bay trực thăng (10 CH21, 5 HU1A), 4 máy bay trinh sát L19, 7 máy bay vận tải C47 và các cụm pháo binh của sư đoàn 7 bố trí trên lộ 4. Toàn bộ lực lượng đặt dưới sự chỉ huy của Bùi Đình Đàm (Tư lệnh sư đoàn 7), Lâm Quang Thơ ( tỉnh trưởng Định Tường)và cố vấn Mỹ J.Van (cố vấn sư đoàn 7) cùng vời 51 cố vấn Mỹ [17], [38].
Rạng sáng ngày 2-1-1963, quân địch điều động 2 đại đội bảo an, 2 đại đội biệt động quân, 2 đại đội bộ binh chia làm ba mũi theo lộ 4 , kênh Nguyễn Tấn Thành và lộ Mỹ Hạnh Trung tấn công vào Ấp Bắc. Sau ít phút cơ động toàn bộ quân địch rơi vào trận địa phục kích của bộ đội và du kích, hàng chục binh sĩ địch bị loại khỏi vòng chiến, 1 giang thuyền bị đánh chìm và một chiếc khác bị hỏng nặng. Đợt tiến công đầu tiên bị quân dân Ấp Bắc đánh bại.
7 gờ 30 phút sáng 2-1-1963, sử dụng chiến thuật trực thăng vận, quân địch huy động 10 máy bay trực thăng chở quân, 5 máy bay trực thăng vũ trang yểm trợ đổ 2 tiểu đoàn bộ binh xuống sau ấp tạo thế bất ngờ và hình thành 2 gọng kìm hòng bao vây tiêu diệt quân ta. Với kinh nghiệm đã được đúc kết về thời điểm bắn máy bay chở quân, ta chờ khi máy bay chuẩn bị tiếp đất bộ đội và du kích đã tấn công máy bay, một chiếc bị bắn hạ tại xóm Bàn Rô, một chiếc bị rơi xuống cách đồng Cà Dăm, số quân nguỵ vừa ra khỏi máy bay bị tấn công dữ dội phải tự xé lẻ đội hình tìm chổ khuất để chống chống đỡ một cách yếu ớt. Để cứu nguy cho quân đổ bộ, quân địch tăng cường bắn pháo và máy bay trực thăng vũ trang tập trung đánh vào trận địa của ta càng lúc càng ác liệt hơn . Kết quả thêm 3 chiếc máy bay bị bắn rơi và nhiều quân nguỵ bị loại khỏi vòng chiến. Đợt tấn công thứ hai của địch vào ấp Bắc bị đánh bại.
Như vậy, trực thăng vận, một trong những chiến thuật tân tiến từng gây bao lúng túng, hoang mang cho quân và dân miền Nam trong suốt hai năm 1961, 1962 đến đây đã bị quân và dân Khu VIII tìm ra phương thức đối phó hiệu quả, một khả năng thực tế đánh bại các cuộc hành quân càn quét của địch đã được mở ra cho toàn thể quân và dân miền Nam.
12 giờ 15 phút, chỉ huy quân địch quyết định đưa 3 tiểu đoàn tấn công vào ấp Tân Thới, sau ít phút chiến đấu ta đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng một trung đội, số sống sót mạnh ai nấy chạy cố thoát ra khỏi khu vực chiến sự. Đợt tấn công lần thứ ba vào Ấp Bắc vẫn không mang lại kết quả.
13 giờ 30 phút, bằng chiến thuật thiết xa vận , quân nguỵ sử dụng 13 xe M113 và một tiểu đoàn bộ binh mở đợt tấn công thứ tư vào Ấp Bắc. Với ý chí “kiên quyết bám trụ, bám trụ đến cùng”, 75 cán bộ, chiến sĩ đã bí mật , kiên trì chờ đợi. Quân ta đã tiêu diệt hai xe M113, đánh hỏng một số xe khác, đẩy lùi quân nguỵ ra khỏi tuyến phòng ngự. Đợt thứ tư của quân nguỵ đánh vào Ấp Bắc bị ta đánh bại.
Với việc đánh bại đợt tấn công lần thứ tư của địch vào Ấp Bắc, khả năng đánh bại thiết xa vận, một trong hai biện pháp chiến thuật mới của Mỹ, nguỵ trong chiến tranh đặc biệt đã được mở ra cho quân và dân miền Nam.
18 giờ 5 phút, địch sử dụng 5 máy bay vận tải C47 thả dù tiểu đoàn dù số 8 xuống ấp Tân Thới, thiết giáp và bộ binh tấn công vào Ấp Bắc. Quân ta dùng biện pháp bắn tỉa quân dù khi đang còn lơ lững trên không, dùng súng phóng lựu tiêu diệt xe tăng M113, toàn bộ quân địch trên cả hai mặt trận đều bị tiêu diệt, lực lượng hai bên ở trong thế xen kẽ các đơn vị hoả lực yểm trợ của địch không hoạt động được , toàn đội hình của địch rối loạn và từ từ rút ra khỏi trận địa.
Sau khi đợt tấn công thứ năm thất bại, địch rút ra vòng ngoài, bao vây dự định ngày hôm sau sẽ tấn công tiếp.
Sau một ngày chiến đấu căng thẳng, ác liệt, nhiệm vụ được giao đã hoàn thành xuất sắc, Ban chỉ huy trận đánh quyết định rút toàn bộ lực lượng ra khỏi Ấp Bắc. Đúng 22 giờ quân ta bằng nhiều con đường rút ra khỏi Ấp Bắc.
Kết quả: qua một ngày chiến đấu ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 450 sĩ quan và binh lính ( trong đó có 11 cố vấn Mỹ ), bắn rơi 5 máy bay, phá huỷ 3 xe thiết giáp M113 và 1 giang thuyền.
Thắng lợi Ấp Bắc đã gây tiếng vang lớn trong phong trào chống Mỹ-nguỵ trên toàn miền Nam, đánh dấu sự phát triển về chất của phong trào đấu tranh chống Mỹ nói chung, đấu tranh chống phá ấp chiến lược nói riêng trong chiến tranh đặc biệt của quân và dân miền Nam. Như vậy, phong trào đấu tranh chống phá ấp chiến lược muốn phát triển và giành thắng lợi phải gắn liền với phát triển đấu tranh vũ trang, đánh bại các chiến thuật mới của địch.
Với thắng lợi Ấp Bắc đầu năm 1963, quân ta đã tìm ra được phương thức  tác chiến phù hợp để đối phó có hiệu quả với trực thăng vận, thiết xa vận của địch. Đến đây, quân và dân miền Nam đã bắt đầu “gỡ” được tình trạng dao động về tinh thần và ‘ngại” chiến đấu với các cuộc hành quân càn quét có sử dụng các biện pháp chiến thuật mới của Mỹ- nguỵ.
- Chiến dịch Bình Giã ( 2-12-1964 đến 3-1-1965) [17], [68].
Cuối năm 1964 ở miền Nam, Mỹ-nguỵ âm mưu đẩy mạnh những cố gắng cuối cùng trong khuôn khổ “chiến tranh đặc biệt”để cứu vãn tình thế chúng đang thua. Với kế hoạch “bình định có trọng điểm”, địch đã biến khu vực Bình Giã, Đức Thạnh, Long Điền, Xuyên Mộc, Đất Đỏ thành 4 chi khu quân sự. Lực lựơng địch tại đây có 4 tiểu đoàn Biệt động quân( 30,33,35,38), 2 tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến   ( 4 và 1 ), 2 tiểu đoàn Dù ( 5,6), và 3 tiểu đoàn Bảo an, một chi đoàn cơ giới M113, 2 trung đội Pháo binh 105mm.
Về phía ta, cuối năm 1964, Bộ Chính trị giao cho Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng chuẩn bị kế hoạch chiến lược, tranh thủ thời cơ đánh bại quân nguỵ trước khi Mỹ tăng cường lực lượng ồ ạt vào miền Nam nứơc ta. Ngày 11-10, Quân uỷ Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị cho các chiến trường mở đợt hoạt động trên toàn miền Nam.
Cuối tháng 11, Bộ chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch tiến công trên địa bàn 4 tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hoà, Bình Thuận. Mục đich Chiến dịch là diệt một bộ phận sinh lực địch, phá kế hoạch bình định trọng điểm của địch, phá ấp chiến lược, hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, đẩy mạnh chiến tranh du kích, mở rộng vùng căn cứ, đánh bại chổ dựa cơ bản của Mỹ trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.
Bộ chỉ huy Miền chỉ định đồng chí Trần Đình Xu làm Tư lệnh, đồng chí Lê Văn Tưởng làm Chính uỷ, đồng chí Nguyễn Hoà làm Phó Tư lệnh- Tham mưu trưởng, đồng chí Lê Minh Hà Bí thư tỉnh Bà Rịa và một số đồng chí trong Thường vụ Quân khu 7 tham gia Đảng uỷ Chiến dịch.
Lực lựơng tham gia chiến dịch gồm : 2 Trung đoàn bộ binh (761,762), 2 tiểu đoàn bộ binh của Quân khu 7( 800,500), tiểu đoàn pháo binh 186 của Quân khu 6. đại đội 445 tỉnh Bà Rịa, đoàn pháo binh Biên Hoà có 4 sơn pháo 75mm, súng cối từ 60mm đến 82mm có 53 khẩu, ĐKZ loại 57 mm và 75mm có 41 khẩu, súng phòng không có 8 khẩu 12.7mm cùng lực lượng dân quân trên địa bàn chiến dịch.
Ngày 15-11-1964, Bộ Tư lệnh chiến dịch thông qua quyết tâm và tư tưởng chỉ đạo chiến dịch là đánh chắc thắng. Với phương châm : tiêu diệt sinh lực địch, hỗ trợ phong trào chính trị phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng bằng lực lượng ba thứ quân. Phối hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, binh vận bảo đảm đánh chắc thắng, tiêu diệt gọn từng đơn vị địch, xây dựng lực lượng ta, mở rộng căn cứ, xây dựng phong trào cách mạng. Phương thức tác chiến chủ yếu là đánh điểm diệt viện, lấy tiêu diệt địch ngoài công sự làm chính. Vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật như phục kích, tập kích và vận động tiến công, đánh bại chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của địch trên quy mô chiến dịch.
Lần đầu tiên Bộ chỉ huy Miền tập trung các đơn vị cấp Trung đoàn với hoả lực trợ chiến cơ động, chiến đấu trên địa bàn xa hậu phương, cùng với lực lượng Quân khu 6,7 , số lượng lên đến 7.000 quân. Phải dựa nguồn cung cấp tại chổ của nhân dân, phải huy động đông đảo quân chúng tham gia chuẩn bị tốt cơ sở vật chất cho bộ đội đồng thời phải giữ được bí mật. Bộ Tư lệnh chiến dịch tổ chức ra một số đoàn bảo đảm: Đoàn K.10 ở Phước Tuy, Đoàn 1.500 ở Lộc An xây dựng bến nhận hàng. Ở Bà Rịa tổ chức đoàn quân khu E chuyên lo thu gom lương thực trong vùng địch tạm chiếm. Tỉnh uỷ Bà Rịa cử một đồng chí trong cấp uỷ chuyên lo móc nối thu gom lương thực, thực phẩm. Bảo đảm quân y thì dựa vào bệnh xá tỉnh, huyện. Với sự nổ lực trên ta đã chuẩn bị được 500 tấn vũ khí, 217 tấn gạo, thuốc men cho thưong binh đạt 71% so với yêu cầu, kịp thời đáp ứng cho chiến dịch mở đúng thời gian dự kiến.
Theo kế hoạch chiến dịch chia làm hai đợt: Đợt 1, tiến công ấp chiến lược Bình Giã và một số cứ điểm để khơi ngòi đánh bại quân địch giải toả. Đợt 2, tập trung toàn bộ lực lượng đánh những trận quyết định, đánh quân đổ bộ đường không.
Rạng sáng ngày 2-12-1964 ta mở đầu chiến dịch, pháo binh ta tập kích vào chi khu Đức Thạnh, đại đội 445 bất ngờ tập kích ấp Bình Giã, trận đánh bất ngờ không thành, quân ta rút ra khỏi khu vực Bình Giã.
Ngày 7-12-1964, quân ta trở lại tấn công ấp Bình Giã, pháo kích chi khu Đức Thạnh, tấn công chi khu Đất Đỏ. Quân địch tổ chức cuộc hành quân “Bình Tuy 33”để giải vây cho cho Đức Thạnh. Khi địch quay về trên lộ 2, Trung đoàn 762 đã chặn đầu, khoá đuôi bao vây tiêu diệt chúng. Được máy bay chi viện, quân địch chống trả quyết liệt. Bộ binh ta siết chặt vòng vây, tiêu diệt từng bộ phận của địch. Sau gần 1 giờ chiến đấu, ta bắn bị thương 7 máy bay phản lực, diệt chi đoàn thiết giáp số 3, phá huỹ 14 xe M113, diệt 107 tên địch (có 9 cố vấn Mỹ), trận then chốt của chiến dịch thắng lợi giòn giã.
Ở hướng Hoài Đức, Tánh Linh, tiểu đoàn 186 đánh chiếm ấp chiến lược Mê Pu, địch đưa quân từ Hoài Đức lên chi viện, ta chặn đánh làm thiệt hại nặng một đại đội Bảo an, một đại đội Dân vệ. Ngày 17-12, ta chủ động kết thúc chiến dịch đợt 1.
Đêm 27-12, để kéo địch ra giải toả, ta đánh chiếm Bình Giã. Sáng ngày 28-12 địch cho máy bay đổ bộ tiểu đoàn 30 Biệt động quân xuống trảng trống phía Tây Nam Đức Thạnh, hình thành 3  mũi tiến vào Bình Giã, quân ta chặn đánh quyết liệt nhưng khoá đuôi không chặt nên địch chạy thoát về La Vân.
Trưa ngày 28-12, địch tiếp tục dùng 28 máy bay trực thăng vũ trang hộ tống cho 50 máy bay đổ quân xuống phía Đông Bắc Bình Giã, hoả lực phòng không của ta bắn rơi 5 máy bay chở đầy quân địch. Địch chuyển hướng đổ quân xuống phía Đông Nam Bình Giã, trung đoàn 761 chia làm hai hướng tấn công tiêu diệt địch , đến 18 giờ ta hoàn toàn làm chủ trận địa, tiêu diệt gần hết tiểu đoàn 33 của địch, bắn rơi 11 máy bay lên thẳng. Đây là trận thắng then chốt thứ hai của chiến dịch.
Ngày 30-12, địch dùng 30 máy bay đổ quân xuống La  Vân bị ta bắn rơi 1 máy bay, chết 4 lính Mỹ.
Ngày 31-12, ta phục kích tiêu diệt tiểu đoàn 4 Thuỷ quân lục chiến, diệt 600 tên địch. Đến 18 giờ ta làm chủ hoàn toàn trận địa. Đây là trận thắng then chốt thứ ba của chiến dịch.
Phối hợp với hướng chủ yếu, ngày 1-1-1965, tiểu đoàn 4, trung đoàn 762 phục kích diệt diệt gọn một đoàn xe 10 chiếc trên Đường 15. Ngày 3-1, trung đoàn 762 phục kích trên Đường số 2 diệt 16 xe, đánh thiệt hại tiểu đoàn 35 Biệt động quân.
Nhân cơ hội địch ở trong các ấp chiến lược hoang mang, ta tiến công đánh chiếm ấp Mê Pu, Sùng Nhơn, Đậm Rim, Tà Bao làm tan rã lực lượng dân vệ ở các ấp nầy. Ngày 3-1-1965 Bộ Tư lệnh quyết định kết thúc chiến dịch.
Kết quả: ta tiêu diệt 2 tiểu đoàn (33 Biệt động quân, 4 Thuỷ quân lục chiến) và chi đoàn thiết giáp M113, đánh thiệt hại 6 tiểu đoàn khác, diệt 1.700 tên, bắt 293 tên, thu 100 máy thông tin và hơn 1.000 súng các loại, phá huỷ 45 xe quân sự, bắn rơi 56 máy bay các loại.
Chiến dịch Bình Giã thắng lợi góp phần tạo bước ngoặc trong so sánh lực lượng và cục diện chiến trường có lợi cho ta. Nhận định về sự kiện đánh dấu bước ngoặc quyết định làm thay đổi cục diện Chiến tranh đặc biệt, Tổng bí thư Lê Duẫn đã nói: “…đến trận Bình Giã, thì Mỹ thấy thua ta trong Chiến tranh đặc biệt” [13].
Tiếp theo chiến thắng Bình Gĩa, có chiến thắng Ba Gia ở Quảng Ngãi: trong thời gian ngắn, Quân Giải phóng đã đánh ngoài trời tiêu diệt gọn nhiều tiểu đoàn địch. Rồi đến Phước Long – Đồng Xoài, chủ lực ta vừa đánh địch ngoài trời, vừa đánh địch trong công sự kiên cố. Trận đánh chiếm cứ điểm chi khu Đồng Xoài ( 9-6-1965) đã nâng trình độ tác chiến của Quân Giải phóng lên một bước cả về kỹ thuật chiến đấu của bộ đội lẫn chỉ huy hợp đồng binh chủng, liên lạc, trinh sát nhanh chóng chính xác, diệt điểm, diệt viện, nghi binh kết hợp ngăn chặn địch từ xa, dự kiến phản ứng của địch và dự đoán nơi địch đổ quân tạo thành thế diệt địch ngay từ phút đầu.
ï Nhìn chung, từ khi ra đời 1960 đến 1965, Mặt trận Dân tộc giải phóng đã lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai trên cả 3 lĩnh vực : chính trị, quân sự và ngọai giao đạt nhiều kết quả.
Hệ thống ủy ban Mặt trận phát triển từ Trung ương đến địa phương, vùng giải phóng mở rộng, số ấp chiến lược địch kiểm soát năm 1965 chỉ còn 2.200/12.000 ấp, số dân địch kiểm soát chỉ còn 6/16 triệu người [66, tr.240].
Trên mặt trận ngoại giao chúng ta thắng lớn, hầu hết các dân tộc trên thế giới đều ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân miền Nam, nhiều đoàn thể, nhiều tổ chức chống Mỹ xâm lược Việt Nam hình thành, uy tín của Mặt trận Dân tộc giải phóng ngày càng có vị trí trên trường quốc tế.
Về quân sự, Quân Giải phóng càng ngày càng trưởng thành, bước đầu chủ động mở các chiến dịch tiêu diệt quân địch, kết hợp ba thứ quân  tấn công địch trên cả ba vùng chiến lược. Quân địch bị tiêu diệt trên khắp các chiến trường, từ 1961- 1964, quân Mỹ chết 303, quân ngụy chết, bị thương và bị bắt  301.800, quân ta diệt 1.433 máy bay, 273 xe tăng và 522 tàu thủy [2].
          Từ 1965, “chiến tranh đặc biệt” thất bại, Mỹ buộc phải thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đưa quân Mỹ trực tiếp tham chiến, mở rộng chiến tranh ra cả nước để cứu nguy cho ngụy quyền tay sai.


CHƯƠNG 3.      HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬNDTGPMNVN  TỪ 1965 ĐẾN 1968


3.1. HOẠT ĐỘNG CHÍNH TRỊ  

3.1.1. Đại hội bất thường của Mặt trận [56], [57]

Theo chủ trương của Đảng, để chuẩn bị cho bước phát triển mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ ngày 15 đến  20 - 8 -1967, tại vùng giải phóng phía Bắc Tây Ninh, tại một  địa điểm còn dày đặc hố bom đạn sau chiến dịch Junction City, Đại hội bất thường của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam  đã diễn ra trong một không khí sôi nổi, hào hứng  và tràn đầy niềm tin. Đó là đại hội bất thường thông qua cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, chương trình 10 điểm của mặt trận đã ra đời 7 năm trước, đến nay  không còn phù hợp, cần phải có cương lĩnh cụ thể để lãnh đạo cách mạng miền Nam. Đây cũng  là đại hội chuẩn bị cho cuộc Tổng công kích và nổi  dậy Xuân Mậu Thân  1968 .
Đại hội đã tổng kết những thắng lợi về chính trị, quân sự và ngoại giao của nhân dân miền Nam dưới ngọn cờ của Mặt trận và nhận định rằng: “Những thắng lợi to lớn của quân và dân miền Nam gắn liền với đường lối, chủ trương đã được ghi trong chương trình 10 điểm của Mặt trận DTGPMNVN… Mặt trận đã thực sự trở thành người đại diện chân chính, duy nhất của nhân dân miền Nam” [57, tr.35].
Đại hội đã  thông qua Cương lĩnh chính trị  mới của Mặt trận nhằm mở rộng hơn nữa khối đoàn kết dân tộc, động viên toàn thể đồng bào miền Nam thừa thắng xông lên quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và cũng nhằm công bố với thế giới về toàn bộ đường lối, chính sách của Mặt trận ở thời kỳ mới. Cương lĩnh của Mặt trận là cơ sở hành động cho một chính phủ cách mạng lâm thời khi thời cơ đến.
Bản cương lĩnh chính trị chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân dân miền Nam hiện nay là đế quốc Mỹ xâm lược và ngụy quyền tay sai bán nước, đồng thời nêu lên những nhiệm vụ trước mắt và mục tiêu chiến đấu của quân và dân miền Nam là : “Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền tay sai của chúng, thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc và dân chủ rộng rãi, xây dựng miền Nam Việt Nam  độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập và phồn vinh, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc” [57].
Cương lĩnh của Đại hội thông qua gồm bốn chương, với nội dung:
Chương I: Đoàn kết toàn dân chống Mỹ cứu nước.
Chương II: Xây dựng miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập và phồn vinh, trong đó nêu rõ  14 chính sách của Mặt trận.
Chương III: Lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền Nam Bắc , tiến tới hoà bình ,thống nhất Tổ quốc.
Chương IV: Thi hành chính sách ngoại giao hoà bình trung lập.
Đoàn chủ tịch  Đại hội nhấn mạnh: con đường trước mắt duy nhất đúng để nhân dân thực hiện Cương lĩnh Mặt trận là tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ, cứu nước cho đến khi không còn bóng quân xâm lược Mỹ trên dải đất miền Nam thân yêu .
Trong khi giới thiệu những vấn đề cơ bản trong Cương lĩnh, luật sư Nguyễn Hữu Thọ nêu lên 5 đặc tính của Cương lĩnh chính trị:
- Cương lĩnh chiến đấu, chống Mỹ, cứu nước, giải phóng dân tộc.
- Cương lĩnh đại đoàn kết toàn dân.
- Cương lĩnh dựng nước.
- Cương lĩnh tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.
- Cương lĩnh đoàn kết với nhân dân thế giới vì hòa bình, đôc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ.
          Cương lĩnh xác định mục tiêu chiến đấu của nhân dân miền Nam: “Mục tiêu chiến đấu của nhân dân miền Nam dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc giải phóng là: độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập và phồn vinh, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Đó là nguyện vọng tha thiết nhất, chính đáng nhất và là ý chí săt đá của 14 triệu nhân dân miền Nam , hoàn toàn phù hợp với lợi ích của dân tộc và lợi ích của hòa bình ở Đông Dương, châu Á và thế giới” [24].
Bản cương lĩnh chính trị của Mặt trận DTGPMNVN đã có một ảnh hưởng chính trị sâu rộng ở trong nước và thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: ”Bản cương lĩnh chính trị của Mặt trận là ngọn cờ đại doàn kết toàn dân, một cương lĩnh quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước” [42, tr.295-296].
Xã luận báo Nhân Dân ngày 2-9-1967 nêu rõ: “Bản Cương lĩnh thể hiện mạnh mẽ ý chí quyết chiến quyết thắng của đồng bào miền Nam, thể hiện mạnh mẽ tình đoàn kết ruột thịt Bắc- Nam và ý chí thống nhất Tổ quốc. Bản Cương lĩnh cũng thể hiện mạnh mẽ tinh thần sáng tạo tài tình của Mặt trận, tổng kết những kinh nghiệm đấu tranh cách mạng và tập trung trí tuệ của đồng bào miền Nam và đồng bào cả nước ta, kết hợp sự vững vàng về nguyên tắc với sự linh hoạt về sách lược, đề ra những chủ trương, chính sách sáng suốt, kịp thời”.

3.1.2. Xây dựng chính quyền và vùng giải phóng

* Xây dựng chính quyền

          Từ sau đại hội Mặt trận lần thứ hai ( 1964), hệ thống tổ chức của Ủy ban Mặt trận từ trung ương đến địa phương được tổ chức hoàn chỉnh, Ủy ban Mặt trận được tổ chức hoàn thiện từ xã, huyện đến Miền.
          Ngày  25-5-1968 Trung ương Cục miền Nam ra chỉ  13-CT NT ( NT là Năm Trường là biệt danh của cục R  lúc đó) với nội dung nhan đề: “Ra sức xây dựng chính quyền cách mạng các cấp theo kịp sự phát triển của tình hình”. Từ đây, “Uỷ ban Mặt trận  Dân tộc giải phóng được thống nhất đổi tên là Uỷ ban nhân dân cách mạng ở toàn miền Nam Việt Nam” [18, tr.411].
          Chỉ thị 13-CT NT đánh giá: “từ sau Đồng khởi cơ cấu tổ chức chính quyền cấp xã, ấp được hình thành và hoạt động nhưng chính quyền cấp xã chính thức mới thành lập đầu năm 1968 ở một số nơi. Còn phần lớn các xã, ấp giải phóng ta chưa lập chính quyền cách mạng hoặc có thành lập nhưng không chặt chẽ” [74, tr.121]. Chỉ thị nêu: “Nhiệm vụ của chính quyền cách mạng được xác định là tổ chức và lãnh đạo nhân dân miền Nam chiến đấu hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân miền Nam, hòa bình, thống nhất Tổ quốc tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Chỉ thị cũng nêu lên cấu tạo, số lượng, thành phần , lề lối làm việc và mối quan hệ giữa chính quyền với các ngành đoàn thể khác [74].
Năm 1968, số dân miền Nam do Mặt trận Giải phóng quản lý là 10 triệu / 14 triệu người, trong đó có “4 triệu người sống trong vùng giải phóng và ít nhất có 6 triệu rưỡi người nữa thuộc quyền cai trị bí mật của Mặt trận trong các vùng danh nghĩa là của Mỹ và Sài Gòn kiểm soát” [25, tr.201]. Vì số đông nhân dân do Mặt trận lãnh đạo nên không có ai cung cấp tin tức về nơi đóng quân của Quân Giải phóng, vì vậy Mỹ khó tìm được Việt cộng để mà đánh, Mỹ hoàn toàn bị cô lập với dân chúng. Mặt trận kiểm soát hoàn toàn các vùng xung quanh các trại lực lượng đặc biệt của Mỹ.
Về những vùng trên danh nghĩa là do Sài Gòn kiểm soát nhưng thực tế cũng do Mặt trận kiểm soát ở những mức độ khác nhau. Trong số khoảng 6 triệu dân do Sài Gòn kiểm soát, không thuộc quyền kiểm soát của Mặt trận cũng đóng thuế cho Mặt trận. Khoảng 70% viên chức cấp xã trong các vùng do  Sài Gòn kiểm soát không dám ở lại xã ban đêm, một số tề xã đóng trụ sở ở quận lỵ cách xã đến mấy dặm. Trên thực tế, từ năm 1968 về sau “Mặt trận là chính phủ mạnh nhất ở nông thôn Nam Việt Nam ” [25, tr.202].
Trong các thành thị, Mặt trận có cán bộ bí mật ở hầu hết các thành thị, các nhà kinh doanh thường xuyên đóng thuế cho Mặt trận. Khi Quân Giải phóng tấn công vào dịp Tết Mậu Thân thì nhân dân ở 40 đô thị trong 28 tỉnh lỵ đã nổi dậy, cùng với Quân Giải phóng tiến hành đấu tranh chính trị và binh vận.
Về ban đêm, phạm vi kiểm soát của Mặt trận được mở rộng. Tối đến, hầu hết các trưởng thôn đều bỏ trụ sở chạy vào thành thị. Trong khi các viên chức chính quyền Sài Gòn đua nhau chạy về thành thị thì các cán bộ địa phương của Mặt trận công khai nắm lấy chính quyền .
Trên cơ sở phong trào kháng chiến chống Mỹ cứu nước phát triển cao nhất là từ đầu năm 1968, trên cơ sở lực lượng mạnh và uy tín lớn của Mặt trận, từ năm 1968, nhân dân miền Nam bắt đầu mở cuộc vận động thành lập chính quyền cách mạng. Cho đến cuối năm 1968, các Uỷ ban giải phóng đã thành lập ở nhiều địa phương, mạnh nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long, căn cứ lâu đời của Mặt trận, và hầu hết cao nguyên Trung phần bắt đầu chuyển thành Ủy ban nhân dân cách mạng [25, tr.210].
Cuối năm 1968, nhiều địa phương ở miền Nam đã tổ chức bầu cử “Hội đồng nhân dân cách mạng”.
Tháng 12-1968, Tỉnh Quảng Đà có hơn 90% số xã và tất cả các quận trong tỉnh đã có chính quyền nhân dân. Việc bầu cử Hội đồng nhân dân cách mạng được tiến hành thắng lợi trong 134 xã và 12 quận.
Tính đến cuối năm 1968,  kết quả thực hiện chỉ thị nói trên: xây dựng chính quyền 516 xã/ 1800 xã, xây dựng chính quyền huyện 7/ 121 huyện, chính quyền cấp tỉnh xây dựng được  3/ 44 tỉnh (Gia lai , Cà Mau và Mỹ Tho) [74, tr122]. Hệ thống chính quyền cách mạng đã đem lại cho đồng bào quyền dân sinh, dân chủ, bình đẳng…trong đó quan trọng nhất là đem lại quyền lợi ruộng đất cho nông dân. Hệ thống chính quyền cách mạng thực sự trở thành một nhân tố thắng lợi cho cách mạng miền Nam.
Như vậy, Mặt trận “có dân, có đất và có lực lượng vũ trang. Mặt trận có trách nhiệm phải giữ đất bảo vệ dân, Mặt trận làm chức năng chính quyền. Trong những vùng giải phóng, Mặt trận là một uy tín chính trị có tổ chức, là chính phủ có hiệu lực, là một tổ chức chính quyền quản lý một phần lớn đất đai ở miền Nam được giải phóng” [45, tr.55].
* Tăng gia sản xuất.
Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ (1954-1975), miền Bắc là “hậu phương lớn” và vùng giải phóng là “hậu phương trực tiếp “ của Quân giải phóng miền Nam, cho nên Mặt trận chú  ý đến việc bảo vệ, xây dựng vùng giải phóng hơn lúc nào hết , động viên nhân tài vật lực cho tiền tuyến.
Mặt trận Dân tộc giải phóng đã chia cho nông dân 2 triệu héc ta đất trồng trọt. Người cày có ruộng là bí quyết lớn về việc củng cố, mở rộng vùng giải phóng, của việc bồi dưỡng sức dân, của việc động viên nhân tài vật lực. Hễ giải phóng đến đâu thì thực hiện chính sách ruộng đất của Mặt trận tới đó, chỗ thì chia ruộng đất, chỗ thì giảm tô, giảm tức. Chính sách ruộng đất của Mặt trận sớm làm cho bộ mặt nông thôn biến đổi: số bần nông hạ xuống nhanh, số trung nông tăng lên mau. Do nhu cầu kháng chiến, nhiều tổ đổi công vần công giúp nhau cày cấy được thành lập. Được sự giúp đỡ của Hội Nông dân giải phóng, đồng bào vượt được mọi khó khăn. Nhân dân ra sức bám làng, bám đất để làm ăn, để sống và cũng là để duy trì và củng cố cơ sở du kích, cơ sở kháng chiến, chống mọi sự cướp bóc, phá hoại, càn quét của địch .
Trong vùng giải phóng nhiều giống lúa mới năng suất cao được phổ biến như :”lúa xiêm”, “sóc rô”, “lúa giáng”…cả những giống lúa từ miền Bắc gởi vào tặng như:”trà trung tử”, “nông nghiệp I”, ở nhiều nơi việc tăng vụ đã bù lại việc địch phá hoại.
Mặc dù địch phá hoại liên tục nhưng nhiều nơi vẫn được mùa, năng suất vẫn đạt mức cao. Ở miền Đông Nam Bộ nhiều vùng không còn xóm làng, nhà cửa, vậy mà, năm 1967, tới 85% diện tích rẫy được trồng trọt. Miền Trung Nam Bộ tiến hành thâm canh, tăng vụ, có nơi ở quận Cai Lậy đạt năng suất đạt 9 tấn thóc trên 1 hec ta.
Trong năm 1967, miền Trung Nam Bộ cấy 384.000 hec ta một vụ và 88.000 hec ta hai vụ, năng suất tăng từ 20% đến 80%. Tây Nam Bộ lúa hai vụ năm 1967 tăng bằng hai lần năm 1966, lúa một vụ tăng 20.000 hec ta. Các tỉnh bị càn quét hết sức nặng như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định vẫn giữ vững diện tích cày cấy, vượt chỉ tiêu 250 kilô bột đầu người hàng năm và vượt 12 ki lô thịt đầu người hàng năm. Nhiều vùng ở Tây Nguyên đạt từ 400 đến 600 ki lô bột mỗi người mỗi năm, dự trữ muối đầy đủ.
Mặt trận Dân tộc giải phóng hết sức chú ý đến công tác thuỷ lợi. Tại Cà Mâu, năm 1967, nông dân đắp và sửa 621 đập và 500 bờ ngăn nước mặn. Tại Trà Vinh, 6 tháng đầu năm 1967, nông dân đào được 75 kênh dài 120 kilômet, vét lại 440 kênh cũ. Trong thời gian đó, Bến Tre đào 20 kilômet kênh mới, vét 62 kilômet kênh cũ. Cả miền Tây đào 467 kilômet kênh mới, vét 263 kênh cũ, đào 3.295 kilômet mương, đắp 4.380 đập.
Đời sống nhân dân vùng giải phóng, nói chung, được cải thiện. Nhiều gia đình trong vùng giải phóng có máy thu thanh, máy may, xe đạp, xuồng máy. Sức đóng góp nhân tài, vật lực của vùng giải phóng cho kháng chiến ngày càng lớn, mặc dù chiến tranh tàn phá ngày càng dữ dội. Mỗi năm có hàng vạn thanh niên tham gia Giải phóng quân, kể cả những người có tuổi tác cũng tham gia phục vụ chiến trường. Thương bệnh binh về làng được nhân dân đùm bọc chu đáo.

Hoạt động văn hoá, y tế, giáo dục

Theo Hội Nhà giáo yêu nước miền Nam thì vùng giải phóng năm 1966 có tất cả 5.994 trường phổ thông, dạy 50 vạn học sinh. Mặc dù chiến sự ác liệt nhưng giáo dục vẫn phát triển. Năm học 1966-1967,vùng giải phóng miền Tây Nam Bộ có thêm 1.671 trường cấp 1, 10 trường cấp 2 với 100.000 học sinh. Không kể mẫu giáo và vỡ lòng thôn, ấp nào cũng có. Miền Trung Nam Bộ, niên khoá 1966-1967, mở thêm 1.250 lớp cấp 1 và cấp 2 với 1.250 giáo viên và 42.000 học sinh. Riêng tỉnh Bến Tre ,tỉnh đươc tặng huân chương Giải phóng hạng nhất về thành tích giáo dục nhân kỹ niệm 5 năm ngày thành lập Mặt trận, đã có 26.000 học sinh 3 cấp. Niên khoá 1966-1967, Bến Tre mở thêm 560 lớp. Quảng Nam, Quảng Ngãi, mỗi tỉnh đều có hơn 1.500 lớp phổ thông và gần 30.000 học sinh.
Phong trào bổ túc văn hoá trong vùng giải phóng phát triển mạnh. Cuối năm học 1965-1966, đã có 10.000 cán bộ các cấp của Mặt trận được bồi dưỡng về văn hoá đến trình độ lớp 3, lớp 4. Sang năm học 1966- 1967 thì tiếp tục lên lớp 5.lớp 6, có nơi như Bến Tre thì lên lớp 7. Tỉnh Quảng Nam có 4 trường văn hoá tỉnh chuyên bồi dưỡng cho các bộ người Kinh, Thượng, mỗi khoá 200 người. Nhân dân tham gia các lớp bổ túc văn hoá rất đông, riêng miền Tây Nam Bộ, năm học 1966-1967 có 10.000 người đi học, tỉnh Kom Tum có 192 làng có lớp bình dân học vụ.
Mỗi miền có trường sư phạm trung cấp để bồi dưỡng và đào tạo giáo viên. Trung Trung Bộ có trường sư phạm miền núi. Tây Nam Bộ có trường sư phạm Hoa kiều. Niên khoá 1966-1967 miền Tây Nam Bộ đào tạo được 2.028 giáo viên phổ thông, 1.541 giáo viên bình dân học vụ [24].

3.1.3. Lãnh đạo các phong trào đấu tranh chính trị

3.1.3.1. Lực lượng Bảo vệ Văn hoá Dân tộc và phong trào văn  hoá, văn  nghệ [72].

Trên trận địa đấu tranh văn hoá tư tưởng diễn ra gay gắt. Chủ nghĩa thực dân mới không chỉ dùng những chiêu bài “dân tộc”, “dân chủ ” giả hiệu mà còn tuyên truyền, vu khống, nói xấu những người cộng sản, nói xấu miền Bắc và phe XHCN. Mỹ nguỵ dùng bộ máy truyền thông làm công cụ ”tâm lý chiến” chống lại cách mạng. Đấu tranh bảo vệ cách mạng là một yêu cầu bức xúc của những người yêu nước. Ban cán sự Đảng khu Sài Gòn - Gia Định đã chỉ đạo cho một số nòng cốt của tờ Tin Văn như Vũ Hạnh, Nguyễn Ngọc Lương, Thái Bạch, Hà Kiều vận động các trí thức văn nghệ sĩ, các nhà hoạt động xã hội hình thành một mặt trận đấu tranh mới. Sau một thời gian vận động, một tổ chức công khai rộng lớn do Đảng lãnh đạo đã ra đời vào giữa năm 1966 đó là Lực lượng Bảo vệ Văn hoá Dân tộc.
Ngày 7-8-1966, Đại hội Lực lượng Bảo vệ Văn hoá Dân tộc được tổ chức ngay Toà Đô chánh Sài Gòn. Ban chấp hành trung ương gồm có:
Chủ tịch danh dự : Giáo sư Dương Minh Thới
Á Nam Trần Tuấn Khải, thi sĩ, Chủ tịch Hiệp hội Văn học nghệ thuật.
Ban chủ tịch gồm có 24 người có tên tuổi, thi sĩ, giáo sư đại học, các linh mục, những văn sĩ, đại diện các tổ chức công khai, bán công khai Liên hiệp Giáo chức và Nghiệp đoàn Tư thục Việt Nam, Hội Phụ huynh học sinh, Hội Bảo vệ Luân lý, Hội Bạn trẻ Việt Nam, Hội  Ái hữu nghệ sĩ, Hội Bảo vệ Nhân phẩm và quyền lợi Phụ nữ, Nghiệp đoàn Ký giả Việt Nam, Đoàn Hương mùa Thu, Đoàn Thanh Minh - Thanh Nga.
Chủ tịch Ban chủ tịch là giáo sư  Lê Văn Giáp. Trong Ban chủ tịch có Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba, là giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc, Trường Đại học Vạn Hạnh, ủy viên Văn Mỹ Nghệ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, về bí mật ông là ủy viên Đoàn chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Nhà giáo Thiên Giang Trần Kim Bảng, sau xuân Mậu Thân ông ra vùng giải phóng tham gia Liên minh các lực lượng Dân tộc Dân chủ Hoà bình Khu Sài Gòn - Gia Định.
Ban cố vấn: có 28 người là những nhà trí thức, giáo sư đại học, văn nghệ sĩ… đại diện cho các tổ chức và các ngành đào tạo: Hội Chủ báo Việt Nam, Hội nghiên cứu Liên lạc văn hoá Á châu, Hội Đức Trí Thể dục, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định, Hội Nhiếp ảnh Việt Nam, Xưởng Mỹ thuật Thành Lễ, Viện Khảo cổ, Ngành Dân tộc học, Kinh tế học, Địa chất học, trong số uỷ viên có nhà văn Thiếu Sơn từng tham gia hoạt động cách mạng từ kháng chiến chống Pháp, giáo sư Nguyễn Văn Kiết, tháng 6-1969 ông tham gia chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Giáo sư Tiến sĩ Lê Văn Hảo, sau xuân Mậu Thân ông ra vùng giải phóng làm Phó chủ tịch Liên minh các lực ượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình Huế.
Ban thư ký: có 14 người là những văn nghệ sĩ, nhà văn Vũ Hạnh làm Tổng thư ký.
Ủy viên có 23 người là các văn nghệ sĩ. Trong đó có nhà văn Nguyễn Ngọc Lương là một trong những nòng cốt của tờ Tin Văn.
Ban chấp hành Lực lượng Bảo vệ Văn hoá Dân tộc được phân công vào 10 uỷ ban đặc trách 10 ngành hoạt động khác nhau, mười uỷ ban lại có nhiều tiểu ban phụ thuộc. Lực lượng Bảo vệ Văn hoá Dân tộc hoạt động mạnh trên hai lĩnh vực giáo dục và văn nghệ, vận động quần chúng xây dựng văn hoá dân tộc song song với việc bài trừ các văn hoá phẩm đồi truỵ, lai căng. Lực lượng đã tổ chức nhiều cuộc nói chuyện, nhiều cuộc hội thảo ở Sài Gòn và các tỉnh phía Nam, phát động một phong trào bảo vệ văn hoá dân tộc, phong trào sáng tác rộng rãi. Nguyệt san Tin Văn trở thành cơ quan ngôn luận, là vũ khí đấu tranh sắc bén của lực lượng. Lực lượng đã lập nhà xuất bản Đồ Chiểu, cho ra đời nội san Người Việt Bảo vệ Văn hoá Dân tộc, xuất bản “mười bài sử ca” tập hợp các bài hát thời kháng chiến chống thực dân Pháp của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, Thẩm Oánh, Nguyễn Thành Nguyên, Nguyễn Hữu Ba…
Lực lượng Bảo vệ Văn hoá Dân tộc là một tổ chức công khai tập họp đông đảo nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ, đại diện các tôn giáo, các tổ chức văn hoá, giáo dục… hình thành một mặt trận đấu tranh chống văn hoá lai căng mất gốc, bảo vệ văn hoá dân tộc. Đến giữa năm 1967, chính quyền Sài Gòn khủng bố bắt nhiều người trong đó có giáo sư Lê Văn Giáp và nhà văn Vũ Hạnh.
Sinh viên, học sinh trên toàn miền Nam đã dấy lên một phong trào văn nghệ rộng khắp, hát những bài “sử ca”, kháng chiến ca, hát những bài nhạc tiền chiến ….đã làm sống lại khí thế của cách mạng Tháng Tám báo hiệu lịch sử sẽ tái diễn một cao trào cách mạng mới. Lồng vào nội dung văn nghệ yêu nước, tuổi trẻ học đường còn hát những bài dân ca, dựng các hoạt cảnh gây xúc động lòng người, thức tỉnh hồn dân tộc như: Tiếng trống hào hùng, Bà mẹ Gio Linh, Tiếng trống Hà Hồi….
Phong trào sáng tác thơ ca tranh đấu của sinh viên học sinh có bước phát triển mới. Tổng hội Sinh viên Sài Gòn nhiệm khoá 1966 -1967 lập Hội Những người sinh viên sáng tác, chủ tịch là Trần Quang Long. Hội ra tuyển tập thơ “Tiếng hát những người đi tới” quy tụ những cây bút tranh đấu của sinh viên học sinh: Trần Quang Long, Lê Hoàng Nguyên, Thảo Nguyên, Hải Hà, Chánh Sử….Trần Quang Long còn xuất bản tập kịch thơ “Tiếng gọi Lam Sơn”, Miên Đức Thắng ra tập thơ “Mặt trời hồng”. Những sáng tác trên góp phần khơi dậy lòng yêu nước trong quần chúng, đẩy lùi những làn sóng văn hoá đồi truỵ, nói lên tiếng nói của sinh viên học sinh có sự lãnh đạo của Đảng.
Về bí mật, trong những năm 1965,1966,1967 sinh viên có tờ “Suối thép”, “Lửa thiêng”, đặt thẳng những vấn đề dân tộc, dân chủ, không để quần chúng mơ hồ.
Truyện ngắn, phóng sự góp phần đấu tranh trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Có nhiều bài viết, có nhiều tác phẩm phê phán thực trạng ở miền Nam lúc bấy giờ như “Mãnh lực đô la” của Dũng Tâm trên báo Tin Sớm, “Trên hè phố Sài Gòn ” của Nam Đình và Phan Châu trên báo Thần Chung, “Địa ngục trần gian”của Tiêu Dao Bảo Cư…Hoạt động phê bình văn học cũng diễn ra sối nổi với những cây bút như Vũ Hạnh, Lữ Phương, Trần Triệu Luật…Một số nhà văn cách mạng cũng gởi bài đăng như Nguyễn Văn Bổng ( dưới bút danh là Lê Nguyên Trung, Vương Quế Tâm).
Trong 21 tờ nhật báo, 12 tờ tuần báo, nguyệt san có những tờ báo chống Mỹ như: Dân Chủ, Dân chúng, Tin Sáng; ở mức độ thấp hơn có : Chánh Đạo, Dân Tiến, Sống Mới, Tin Sớm….
Tháng 6-1966, Đảng uỷ Văn hoá cho ra đời tạp chí Tin Văn do Nguyễn Ngọc Lương làm chủ nhiệm, Tin Văn quy tụ nhiều cây bút nổi tiếng như Á Nam Trần Tuấn Khải, Vũ Hạnh, Lữ Phương …
Ngày 1-7-1966, Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định đóng cửa báo chí trong một tháng để “chấn chỉnh báo chí ”. Các nhà báo ở thành phố đã tổ chức đại hội phản đối quyết định trên của chính quyền Sài Gòn, địch đã phải rút thời hạn đóng cửa xuống còn 3 ngày.
Tổng Hội Sinh viên Sài Gòn đã tập họp các cây bút sinh viên trong tổ chức “Hiệp hội Báo chí sinh viên”, chủ tịch là Nguyễn Hữu Phước, ủy viên báo chí là Trần Triệu Luật. Sau đợt tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân ( 1968) của ta, tờ báo “Sinh viên” đặt thẳng những vấn đề dân tộc dân chủ, bày tỏ lòng hoài vọng quân giải phóng vào giải phóng thành phố. Mỹ nguỵ đã xử chủ bút Nguyễn Trường Cổn  5 năm tù, Nguyễn Đăng Trường 10 năm tù vắng mặt .

3.1.3.2. Đấu tranh trên lĩnh vực xã hội, văn hoá, giáo dục [72].

Trên lĩnh vực giáo dục, văn hóa, xã hội có nhiều tổ chức công khai, bán công khai đấu tranh bảo vệ truyền thống dân tộc, bảo vệ các quyền tự do dân chủ. Cuộc đấu tranh do các Đảng viên hoặc những trí thức tiến bộ lãnh đạo phong trào.
- Hội Bảo vệ Nhân phẩm và Quyền lợi phụ nữ [ 65].
Thực hiện chủ trương của Khu ủy Sài Gòn- Gia Định, ban Phụ vận Thành ủy phân công đồng chí Nguyễn Thị Tú, Hội trưởng Hội Phụ nữ Giải phóng Sài Gòn- Gia Định lập một tổ chức công khai hợp pháp có khả năng tập hợp đông đảo phụ nữ chống Mỹ -ngụy. 
Tháng 6-1966, Hội “Bảo vệ Nhân phẩm và Quyền lợi phụ nữ” ra mắt tại trường nữ trung học Tư thục Đức Trí, có khoảng 300 đại biểu tham dự. Hội nghị bầu bà Phan Thị Của làm Hội trưởng, Phan Bình làm Hội phó, bà Vân Trang làm Tổng thư ký và một số ủy viên.
Hội Bảo vệ Nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ ra lời kêu gọi, soạn một số tài liệu giáo dục, tổ chức các buổi nói chuyện với phụ nữ. Tổ chức nhiều cuộc hội thảo có tiếng vang. Cuộc hội thảo ngày 13-11-1966 với nội dung “Phụ nữ Việt Nam với nạn mãi dâm”, cuộc hội thảo ngày 7-3-1967 với nội dung “Giá trị xác thực của nữ sinh viên hiện tại”, Ngày 5-8-1967, hội thảo với nội dung “Phụ nữ , xã hội và chiến tranh” lên án những kẻ gây chiến phá vỡ những luân lý cổ truyền, phá vỡ quan hệ gia đình.
Cuối năm 1966, Hội còn lập ra Liên đoàn Phụ nữ Phật tử đấu tranh cho tự do tín ngưỡng và hòa bình.
- Phong trào đấu tranh đòi chuyền ngữ Việt ở đại học
Ngoài một số trường Tây sử dụng ngôn ngữ chính là tiếng Pháp, còn các trường phổ thông ở miền Nam dạy bằng tiếng Việt, nhưng khi lên đại học sinh viên phải học bằng tiếng Pháp ở một số bộ môn, đây là một trở ngại lớn việc tiếp thu kiến thức của sinh viên.
Đến năm 1966-1967, Trường Đại học Y Khoa, ngoài hệ tiếng Pháp còn một hệ dạy tiếng Anh. Vì  vậy, ngòi pháo đấu tranh bùng nổ ở trường Đại học Y khoa. Cuối năm 1966, đầu năm 1967, 500 sinh viên y khoa đã tổ chức hội thảo phản đối chủ trương dạy đại học bằng tiếng nước ngoài, với khẩu hiệu :”Dân tộc Việt học tiếng Việt”. Sinh viên hai trường Đại học Sư phạm và Đại học  Khoa học liên tiếp tổ chức các cuộc hội thảo đòi dạy tiếng Việt ở trường đại học. Phong trào đòi chuyển ngữ Việt ở đại học lan ra ở một số trường đại học và các trường phổ thông khác và được một số nhân sĩ, trí thức hưởng ứng. Các lực lượng đấu tranh đã họp ở trường Đại học Sư phạm, lập uỷ ban Thanh niên, Sinh viên đòi chuyển ngữ Việt ở đại học, chủ tịch là Hồ Hữu Nhựt. Tờ báo chính thức của phong trào là tờ Chuyển Ngữ , in ronéo.
Ở Trường Đại học Khoa học, giáo sư Lê Văn Thới cùng các giáo sư khác soạn thảo cuốn Từ điển danh từ khoa học làm cơ sở cho việc giảng dạy bằng tiếng Việt ở đại học.
Đầu năm 1967, các trường đại học đều dạy bằng tiếng Việt, ngoại trừ trường Đại học Y khoa còn một  hệ dạy theo chương trình Mỹ và dạy bằng tiếng Anh.
- Phong trào tự trị đại học
Nguyên nhân nổ ra phong trào đấu tranh đòi tự trị đại học là do chính quyền Sài Gòn thay thế cơ cấu lãnh đạo Trường Đại học Y khoa, thay lãnh đạo mới 5 người và biến Trường Đại học Y khoa thành Trung tâm Y Nha Dược trực thuộc Phủ Thủ tướng không còn trực thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Ngày bàn giao chức khoa trưởng, sinh viên biểu tình ngồi chặn trước văn phòng Khoa trưởng. Lực lượng cảnh sát đến đàn áp.
Một phong trào đấu tranh chống xâm phạm tự trị đại học nổ ra ở Đại học Y khoa rồi lan qua Đại học Sư phạm, Đại học Khoa học và một số trường khác..
Tháng 3-1967, Đại hội Sinh viên Sài Gòn đòi tự trị ở bậc đại học ra mắt ban chấp hành Trung ương. Hồ Hữu Nhựt làm chủ tịch, Dương Văn Đầy làm Tổng Thư ký, có khoãng 2.500 sinh viên, giáo chức, nhà văn ở Sài Gòn tham dự. Đại hội ra tuyên ngôn chủ trương nền đại học tiến bộ, chống chính quyền Sài Gòn can thiệp vào khuôn viên đại học. Phong trào có ban cố vấn khoãng 30 giáo sư , giảng viên có cả Viện trưởng Viện Đại học Sài Gòn và Cần Thơ tham gia, phong trào ra tờ Tự trị đại học.
Các trường đại học tổ chức hội thảo về tự trị đại học và ra mắt Ban Chấp hành Phân bộ Tự trị đại học ở 8 trường.
Phong trào Tự trị Đại học là một tổ chức bán công khai tồn tại từ đầu năm 1967 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng song song với 5 nhiệm kỳ Tổng Hội Sinh viên Sài Gòn do Đảng nắm và chi phối. Đây là một trong những tổ chức tập hợp quần chúng của sinh viên có trung tâm bán công khai bên trên, cơ sở bên dưới và có nhiều giáo sư, giảng viên đồng tình ủng hộ.
- Hội Liên hiệp Giáo chức.
Nhằm mở rộng mặt trận đoàn kết trong giáo chức, ngày 10-11-1966, Đảng chỉ đạo thành lập Hội Liên Hiệp Giáo chức. Thành viên của Hội gồm có ”Hội Ái hữu Giáo chức Công lập”, “Nghiệp đoàn Giáo học Tư thục Việt Nam ”, “Hội Ái hữu Nữ sinh Sư phạm Đông Dương”, “Hội Ái hữu Giáo chức bậc tiểu học”, “Hội Phụ huynh và Ân nhân Học sinh các trường công lập đô thành”, “Hội những nhà giáo về hưu”. Hội ra tuyên ngôn lên án xã hội đồi truỵ, đòi phục hưng tinh thần và cứu vãn nền đạo đức dân tộc đang bị đe doạ và kêu gọi các nhà văn, nhà xuất bản, nhà báo, nhà giáo, sáng tác và in các tác phẩm sách giáo khoa nhằm giáo dục thanh thiếu niên.
Ngày 20-11-1966, Hội đã tổ chức diễn thuyết tại trường Quốc gia Âm  nhạc về đề tài: “Hướng về một nền giáo dục dân tộc”. Hội cũng phối hợp với lực lượng Bảo vệ Văn hoá Dân tôc tổ chức diễn thuyết tại Gia Định, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho, Long Xuyên, Cần Thơ. Hội đã tổ chức nhiều lớp tu nghiệp giáo  viên bậc tiểu học và mẫu giáo. Lớp tu nghiệp giáo viên bậc tiểu học, ngày 20-10-1967 có trên 700 người dự. Trưởng ban : Trần Đình Sung, phó ban: Lưu Văn Lê, ban Thư ký : Lưu Văn Nam, Trần Văn Đẩu. Có nhiều Đảng viên trong ban tổ chức lớp, trưởng ban và phó ban đều là Đảng viên Cộng sản.
Ngày 20-11-1967, “Hội Ái hữu Giáo chức bậc Tiểu học”, “Nghiệp đoàn Giáo học Tư thục Việt Nam ”và “Hội Bảo vệ Nhân phẩm và Quyền lợi Phụ nữ Việt Nam ” tổ chức lớp huấn luyện có giấy chứng nhận tốt nghiệp, sau nầy được Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh công nhận [72].

3.1.3.3. Đấu tranh chống đàn áp đồng bào miền Trung .

Phong trào chống đàn áp đồng bào miền Trung diễn ra với quy mô lớn, trên diện rộng. Phong trào bùng nổ từ Huế, Đà Nẵng, lan đến Đà Lạt, Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ, phong trào mang tính bạo lực, bùng nổ khoảng 100 ngày, từ tháng 3-1966 đến tháng 6-1966, nguyên nhân nội bộ địch mâu thuẫn, viên tư lệnh vùng I chiến thuật bị cách chức, một số cán bộ nhân viên nguỵ quyền cùng nhân dân Huế  tuyên bố ly khai chính quyền Sài Gòn, đốt phòng thông tin Mỹ.
Thiệu, Kỳ phải huy động quân đội, có cả không quân tấn công lực lượng ly khai. Hưởng ứng cuộc đấu tranh của nhân dân miền Trung, thanh niên và nhân dân Đà Lạt đã nổi dậy làm chủ một phần thành phố. Tại Sài Gòn - Gia Định cũng nổ ra một phong trào đấu tranh mạnh mẽ chống nguỵ quyền đàn áp nhân dân miền Trung. Nổi bật là cuộc đấu tranh của sinh viên Đại học Y khoa Sài Gòn trong tháng 3 và 4 năm 1966, của sinh viên Trung tâm Kỹ thuật Phú Thọ,  Đại hội sinh viên nhiệm kỳ II  cũng hưởng ứng cuộc đấu tranh của đồng bào miền Trung đòi chủ quyền và hoà bình.
Thanh  niên và đồng bào Phật tử  đã góp phần đưa phong trào lên cao, đặc biệt  trong dịp lễ Phật Đãn ( 5-5-1966). Phong trào có nội dung bài Mỹ, đòi Mỹ, nguỵ phải rút quân đội khỏi Đà Nẵng, đòi Thiệu, Kỳ phải từ chức. Tuy Thiệu Kỳ hứa từ chức nhưng sau đó chúng lật lọng dùng lực lượng cảnh sát dã chiến bao vây, cô lập lực lượng đấu tranh trong Viện Hoá Đạo.
Bên ngoài, đồng bào đưa “bàn thờ Phật xuống đường” làm cản trở lưu thông, gây nên bầu không khí vô cùng căng thẳng.
Ngày 23-6-1966, chính quyền nguỵ bao vây Viện Hoá Đạo, tổ chức vây bắt 800 đồng bào có cả các nhà sư.

3.1.3.4. Đấu tranh chống bầu cử gian lận của Tổng hội Sinh viên  Sài Gòn ngày 3-9-1967 [72].

Tổng hội Sinh viên Sài Gòn là một tổ chức công khai hợp pháp, là cơ quan đại diện của sinh viên Sài Gòn. Trụ sở của Tổng hội tại số 4 Duy Tân (nay là số 4 Phạm Ngọc Thạch). Vì Tổng hội có số sinh viên nhiều nhất so với sinh viên các viện đại học khác ở miền Nam, trụ sở của Tổng hội đặt ở thủ đô của chính quyền Sài Gòn  cho nên tiếng nói của Tổng hội có tiếng vang ở trong và ngoài nước. Các thế lực chính trị kể cả lực lượng cách mạng và chính quyền Sài Gòn đều tìm cách nắm ban chấp hành Tổng hội sinh viên Sài Gòn,Tổng hội lúc đầu có 14 phân khoa : đại học Y khoa, Nha khoa, Dược khoa, Sư phạm, Văn khoa, Kiến trúc, Luật, Sư phạm kỹ thuật, Nông lâm súc, các trường Cao đẳng Điện học, Công chánh, Hàng hải, Công nghệ và học viện Quốc gia Hành chánh.
Tổng hội sinh viên Sài Gòn có hai tổ chức: Hội đồng đại diện sinh viên và Ban chấp hành Tổng hội sinh viên. Cuộc bầu cử ban chấp hành Tổng hội sinh viên Sài Gòn nhiệm khoá 1966 - 1967 đã diễn ra gay go, kéo dài nhiều tháng, đến cuối tháng 4-1967 thì liên danh Hồ Hữu Nhựt đắc cử, từ đây Đảng và Đoàn thanh niên đã chi phối và nắm các Ban chấp hành liên tiếp cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Ngày  lễ ra mắt Ban chấp hành, đại diện sinh viên đã tham gia cuộc mít tinh nhân ngày Quốc tế Lao động 1-5-1967 với đông đảo thanh niên lao động và thành viên các tổ chức khác. Cuộc mít tinh đòi hoà bình, đòi chấm dứt chiến tranh, đòi các quyền dân sinh, dân chủ .
Ngày 3-9-1967, chính quyền Sài Gòn tổ chức bầu cử bịp bợm lập ra “Đệ nhị Cộng hoà”. Ngày 24-9-1967, đại diện sinh viên Sài Gòn, Vạn Hạnh, Cần Thơ, Đà Lạt đã họp  Đại hội sinh viên liên viện lần thứ nhất tại số 4 Duy Tân đễ thống nhất đấu tranh, chống bầu cử bịp bợm, nêu khẩu hiệu bài Mỹ.
Ngày 30-9-1967, Đại hội sinh viên liên viện kỳ II, sinh viên xuống đường đập phá bảng công bố kết quả bầu cử.
Ngày 2-10-1967, Đại hội sinh viên liên viện kỳ III bị cảnh sát bao vây, sinh viên biểu tình ngồi. Ngày 7-10-1967, trong cuộc họp báo của Hội đồng sinh viên Liên viện. Địch ập vào bắt chủ toạ đoàn bao gồm : Chủ tịch hội Sinh viên Sài Gòn Hồ Hữu Nhựt, Tổng thư ký Tổng hội sinh viên Vạn Hạnh Phan Long Côn và Tổng thư ký Tổng hội sinh viên Cần Thơ Nguyễn văn Tư cùng một số sinh viên khác. Địch đưa tất cả 17 sinh viên đi quân trường. Từ trường Bộ binh Thủ Đức, Hồ Hữu Nhựt đã trốn ra vùng giải phóng.

3.1.3.5. Phong trào đấu tranh của công nhân.

Phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động là một mặt trận đoàn kết phối hợp hành động rộng rãi gây khó khăn tổn thất lớn cho địch. Ba tháng đầu năm 1966, tại Sài Gòn- Gia Định có 152 cuộc đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động, có nhiều cuộc hội thảo lớn liên tiếp được tổ chức từ các xí nghiệp đến các nghiệp đoàn, Tổng Liên đoàn, nội dung tố cáo chế độ Mỹ nguỵ dùng chất độc hoá học, chống khủng bố tàn sát ở nông thôn.
Có 3 cuộc hội thảo lớn tại Tổng Liên đoàn Lao động, mỗi cuộc có hàng ngàn người tham dự, các đại biểu đem các kiến nghị, yêu sách, bản tin, tài liệu về tổ chức các cuộc hội thảo nhỏ ở xí nghiệp mình.
Ngày 10-4-1966, các đại biểu không chỉ nêu những khó khăn về tiền lương giá cả mà còn tố cáo quân đội Mỹ vào miền Nam chiếm đất, đuổi nhà, bom đạn Mỹ đã buộc nông dân phải rời bỏ ruộng vườn vào thành phố, công nhân đòi mỹ rút quân, bãi bỏ nền kinh tế lệ thuộc ngoại bang, đòi tự do ngôn luận, tự do xuất bản. Trong cuộc hội thảo ngày 25-4, công nhân yêu cầu quân đội đồng minh rút về nước, chấm dứt rải chất độc hoá học làm chết hoa màu, đòi hoà bình để thanh niên khỏi đi lính, tăng lương, đòi tự do nghiệp đoàn, tự do đình công, tự do báo chí…
Gần đến ngày Quốc tế Lao động 1-5 hàng ngàn xe có loa phóng thanh vào các xóm lao động kêu gọi đồng bào đi biểu tình ngày 1-5.
Ngày 1-5-1966, Tổng Liên đoàn Lao động tổ chức 3 cuộc biểu tình lớn. Đoàn người biểu tình khoảng hai vạn người gồm công nhân lao động, sinh viên học sinh, nông dân, giáo chức, gia đình binh sĩ, tín đồ Phật giáo,Thiên Chúa giáo…đoàn người tuần hành từ đường Lý Thái Tổ ra Cống Quỳnh, Nguyễn Cư Trinh, Trần Hưng Đạo, Hàm Nghi, khi đến sứ quán Mỹ đoàn người đông lên đến 4 vạn.
Khẩu hiệu của đoàn biểu tình là đòi chấm dứt chiến tranh, phản đối chính sách phá sạch đốt sạch của Mỹ, phản đối độc tài phát xít bóp nghẹt các quyền tự do dân chủ, chống bắt lính bừa bãi, phản đối chính sách chia rẽ công nhân, chia rẽ tôn giáo, đòi mở nhà thương, trường học thay cho trại lính. Trước sứ quán Mỹ , sinh viên vẽ khẩu hiệu trên đường “American go home”( người Mỹ về đi ), “Stop the war”( Hãy chấm dứt chiến tranh ).
Tháng 11-1966, Thường vụ Khu uỷ Sài Gòn - Gia Định đánh giá :“Trong vòng mấy năm nay, đây là lần đầu tiên quần chúng đô thị biểu thị một khí thế chống Mỹ, mạnh mẽ nhất, với nội dung đúng đắn nhất…Về thực tế, cuộc đấu tranh ngày 1-5 là cuộc đấu tranh của mặt trận  dân tộc và dân chủ do công nhân làm nòng cốt”
Cuộc bãi công ngày 21-6-1966 của 15.000 công nhân xưởng đóng tàu, 10 công trường thuộc hãng thầu RMK-BRJ chạy dài từ Tân Sơn Nhất, Biên Hoà, đến Cam Ranh, Quy Nhơn, Chu Lai, Đà Nẵng. Cuộc bãi công làm tê liệt hơn mười công trường xây dựng quân sự thuộc loại ưu tiên của Mỹ đã ảnh hưởng đến kế hoạch quân sự và hậu cần của Mỹ. Đích thân đại sứ Cabot Lodge và tướng Westmoreland phải can thiệp giải quyết các yêu sách của công nhân.
Ngày 22-11-1966, ở Sài Gòn, 5.000 công nhân bốc vác bến cảng lên tiếng tố cáo Mỹ và Thiệu-Kỳ âm mưu sa thải công nhân, anh em công nhân tố cáo chúng viện cớ “bảo vệ an ninh”, “ngăn chặn nạn cắp” để đuổi công nhân ra khỏi một số việc quan trọng và đưa tay chân của chúng vào thay. Toàn thể công nhân cảng nghị quyết rằng : nếu Mỹ, Thiệu- Kỳ không từ bỏ âm mưu sa thải đó thì sẽ tổ chức bãi công. Ngày 29-11, chúng sợ bãi công nổ ra trong khi cảng đang có quá nhiều hàng phải dỡ, bọn Mỹ-nguỵ đành phải nhận không đuổi công nhân nữa. Ngày 5-12, chúng quyết định sa thãi 600 công nhân cảng mà chúng tình nghi, công nhân tổ chức nhiều cuộc biểu tình, chuẩn bị bãi công, Mỹ ngụy co lại, nói rằng “có sự hiểu lầm” và ngưng lệnh sa thãi. Ba tuần sau, chúng lại quyết định sa thãi 600 công nhân , sáng ngày 26-12, hơn 5.000 công nhân bốc vác tuyên bố bãi công, 26 tàu chở hàng quân sự của Mỹ không bốc được hàng lên bến, cảng Sài Gòn hoàn toàn tê liệt. Cuộc bãi công nầy làm cho Mỹ - nguỵ lo sợ không kém gì cuộc bãi công của RMK-BRJ vừa qua. 
Ngày 27-12, một cuộc biểu tình được tổ chức tại lối vào cảng quân sự để nói lên ý chí của công nhân. Cuộc bãi công của công nhân cảng sang ngày thứ 5 thì tại Sài Gòn, các ngành điện, dệt, săm lốp, sơn, dược phẩm, ô tô, một số tiệm buôn đã bắt đầu bãi công để hưởng ứng công nhân cảng. Ba phần tư hệ thống giao thông công cộng Sài Gòn bị đình trệ, điện bị cắt ở nhiều nơi, các khu phố tổ chức quyên tiền giúp công nhân cảng.
Những cuộc đấu tranh lớn kể trên chứng tỏ rằng trong tình hình chiến tranh cục bộ vẫn tổ chức được phong trào bãi công thắng lợi và các cuộc bãi công về kinh tế đều có ý nghĩa và tác dụng chính trị sâu sắc. Đòi tăng lương, chống sa thãi, công nhân đấu tranh thực sự đánh vào hậu cần của quân Mỹ xâm lược.
Sang năm 1967, phong trào đấu tranh của công nhân phát triển mạnh hơn trước, bắt đầu xuất hiện đấu tranh có vũ trang, công nhân đấu tranh vũ trang  độc lập hoặc kết hợp với Quân giải phóng .
Tháng Giêng, bãi công của 2.700 công nhân tổng kho Long Bình, kho lớn nhất của Mỹ ở miền Nam.
Tháng hai, công nhân Long Bình tiếp tục bãi công, 42.000 công nhân RMK-BRJ tập họp ấy quyết nghị, cử đại biểu đi đưa yêu sách cho chủ yêu cầu từ bỏ âm mưu sa thải, nếu không tổ chức tổng bãi công, Mỹ lùi bước.
Tháng ba, công nhân hãng đường Hiệp Hoà đòi tăng lương 35% và tăng 100% tiền phụ cấp đắt đỏ.
Cuộc đấu tranh có ý nghĩa kinh tế và chính trị nổi bật là cuộc vận động của 5 vạn công nhân và tiểu thủ công ngành dệt. 500 đại biểu của  thợ và chủ nhỏ họp đại hội lên án Mỹ và  nguỵ quyền âm mưu bóp chết ngành dệt ở miền Nam. Đại hội kêu gọi đấu tranh đòi hạn chế việc nhập cảng hàng dệt, đòi bỏ thuế lợi tức đánh vào công nhân dệt.
Những tháng cuối năm 1967 có nhiều cuộc đấu tranh của công nhân, tiêu biểu có cuộc biểu tình của 7.000 công nhân hãng giấy và văn hoá phẩm ở Biên Hoà, bãi công của 4 vạn công nhân cao su, cuộc bãi công của 2.000 công nhân Vimitex, chống bắt lính của công nhân Vinatexco, cuộc bãi công của 1.100 người Việt trong hãng máy bay của Mỹ phục vụ cho việc chuyên chở quân sự.
Ngày 11-1-1968, cuộc bãi công của công nhân điện nước chống cúp lương đã làm cho thành phố mất một nửa lượng điện. Cuộc bãi công nầy có sự hưởng ứng của 5.000 công nhân cảng, 5.700 công nhân xe buýt, công nhân dệt, cao su, diêm quẹt, nhà máy xay, xăng dầu Shell, Calten, ESSO… tổng số công nhân tham gia bãi công lên đến 17.000 người. Chính quyền nguỵ buộc phải chấp nhận tăng lương cho công nhân .
Từ 1966 đến 1968 có hàng nghìn cuộc đấu tranh của công nhân trên toàn miền Nam. Công nhân và lao động trong các thành thị có mặt trong các cuộc đấu tranh yêu nước và dân chủ, đấu tranh  giành những quyền lợi về kinh tế, chính trị, chống bắt lính, chống áp bức bóc lột. Công nhân luôn được các tầng lớp khác  trong xã hội ủng hộ.

3.1.3.6. Phong trào chống càn quét, bình định

Càn quét, bình định, chống càn quét, phá bình định có thể được xem là quy luật của chiến tranh ở miền Nam trong thời chống “chiến tranh cục bộ”.
Quá trình chống phá bình định luôn gắn với quá trình xây dựng làng, xã chiến đấu. Cán bộ, đảng viên, quân giải phóng và nhân dân kiên trì thực hiện phương châm “ba bám”, vận dụng linh hoạt phương châm “ba mũi giáp công”, tìm ra nhiều cách đánh phong phú, trừng trị bọn tề điệp, bọn tay sai ác ôn và các đoàn ”xây dựng nông thôn”. Chỉ trong 5 tháng đầu năm 1967 quân và dân  Trị - Thiên tiêu diệt và làm tan rã 31 trong tổng số 64 đoàn bình định, diệt 500 tên ác ôn, giải phóng 100 xã với hơn 10 vạn dân [69, tr.45- 46].
Cuộc chống càn, phá bình định của  xã Anh Dũng, phía Nam thành phố Đà Nẵng được coi là một điển hình  của phong trào chống phá bình định. Xã Anh Dũng chỉ có 4.000 dân, thế mà trong một năm rưởi đã tiêu diệt 2.180 tên địch, bắn rơi 17 máy bay, trong xã có 70 dũng sĩ diệt Mỹ, trong đó có 17 nữ và 2 lão dũng sĩ trên 60 tuổi.
Ngày 5-9-1965, quân Mỹ tràn vào xã Anh Dũng, chúng sa vào một trận địa chông, mìn, bẫy, súng. Kết quã 75 tên bỏ mạng, 4 xe bọc thép bị phá huỹ. Hàng trăm các mẹ, các chị , thiếu nhi nắm tay nhau ra cản đầu xe bọc thép của Mỹ. Đây là một trong những cuộc đấu tranh chính trị trực diện với Mỹ đầu tiên ở miền Nam. Cuối cùng, 20 xe bọc thép bị cản đều phải quay trở lại. Đây là trận phối hợp đầu tiên giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị.
Mỹ tiến hành cuộc phản công mùa khô 1965- 1966 với chiến dịch “5 mũi tên”. Tại khu Sài Gòn - Gia Định, từ ngày 8-1-1966 đến ngày 5-2-1966, Mỹ mở cuộc hành quân Gờ-Rim đánh vào Hố Bò ( Phú Mỹ Hưng), An Nhơn Tây thuộc huyện Củ Chi. Chúng dự định tạo ra một vùng trắng và vành đai thép về phía Bắc để bảo vệ Sài Gòn. Cùng với lực lượng địa phương, nông dân Củ Chi vẫn bám trụ chiến đấu “một tấc không đi, một ly không rời “. Cuối cùng địch đã thất bại, Củ Chi trở thành “Đất thép thành đồng”.
Từ năm 1966, sư đoàn 25 Mỹ và trung đoàn thiết giáp, xe tăng, xe bọc thép với hàng vạn tấn bom đạn đã dội lên đất Củ Chi. Đi đến đâu lính Mỹ thực hiện chính sách “tam hoang” ( phá sạch, đốt sạch, giết sạch) đến đó. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hàng ngàn cuộc đấu tranh của nông dân đã nổ ra, có cuộc quy mô toàn huyện, hàng chục ngàn đồng bào tham gia chống bắt lính, chống gom dân vào ấp chiến lược. Địch cho cảnh sát, dân vệ đàn áp nhân dân, chúng cày ủi, cào nhà, dồn dân vào ấp chiến lược, dân bung ra, chúng đốt nhà, phá nhà, dân dựng lại nhà. Họ nói: “Thà chết ở đây chứ không vào ấp chiến lược ”. Lực lượng võ trang đã đánh địch hàng ngàn trận lớn nhỏ, buộc địch phải quay về đối phó, ta đã đưa được 8.000 dân về vườn đất cũ.
Nông dân còn làm công tác binh vận, họ vận động con em mình trong quân đội nguỵ phản chiến, đào ngũ trở về với nhân dân, với gia đình.
Công trình tiêu biểu nhất của quân và dân Củ Chi là đào hàng trăm cây số địa đạo, hàng vạn ụ chiến đấu, gài mìn, làm hầm chông, đặt cạm bẫy khắp nơi. Thanh niên còn tham gia tòng quân, có hàng nghìn thanh niên tham gia   lực lượng vũ trang, tham gia xây dựng “Vành đai diệt Mỹ” bao vây căn cứ Đồng Dù của Mỹ.
Cuối năm 1966, Mỹ tiến hành cuộc tấn công mùa khô lần thứ hai, chúng tập trung vào hướng Tây Bắc Sài Gòn nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não và một phần quân chủ lực của ta, kết hợp “bình định” với lập vành đai bảo vệ xung quanh Sài Gòn.
 Từ ngày 8-1 đến ngày 26-1-1967, Mỹ mở cuộc hành quân Xê -da -phôn đánh vào khu “Tam giác sắt” ( Củ Chi- Bến Súc - Bến Cát ) với ba lữ đoàn quân Mỹ và ba chiến đoàn quân nguỵ nhằm đánh phá lực lượng cách mạng dọc theo sông  Sài Gòn, chúng đã xúc đi 15.000 dân Củ Chi và Bến Cát, bắt và giết nhiều trâu bò, cướp hàng trăm tấn gạo. Bộ đội địa phương, du kích xã, quân chủ lực đã diệt và làm bị thương trên 2.000 tên Mỹ và hơn 200 lính nguỵ, phá huỹ nhiều xe bọc thép và bắn rơi nhiều máy bay.
Sau cuộc phản công mùa khô lần thứ hai của đế quốc Mỹ, nông dân vẫn phát huy phong trào bám đất, giữ làng, sản xuất, nuôi quân.
Trong mùa khô 1966-1967, quân dân miền Nam đã giành thêm 390 xã, ấp, nâng số xã, ấp được giải phóng năm 1967 lên 700 xã và 6.750 ấp. Chính quyền Sài Gòn thống kê kết quả “bình định” năm 1967 đạt 13 % kế hoạch.
Tại vùng giải phóng nông dân vẫn tiếp tục đào địa đạo, từ 70 Km năm 1962, bây giờ đến 200 Km ở Củ Chi. Nông dân tiếp tục trốn về vườn cũ, sống dưới địa đạo tiếp tục sản xuất để  tiếp tế nuôi  quân.
Tại vùng ven, đồng bào bị gom vào khu tập trung  đã xé rào bung về vườn cũ, sản xuất ở các vùng căn cứ lõm để tiếp tục nuôi quân.
Tại vùng đô thị hoá và ấp chiến lược, Đảng tiến hành vận động quần chúng xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức đấu tranh chính trị, binh vận, xây dựng hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, tạo nơi ém quân khi có lệnh mở chiến dịch tiến công như xuân Mậu Thân.

3.2. HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO CỦA MẶT TRẬN

3.2.1.Đấu tranh tại bàn đàm phán

Cùng với thắng lợi về quân sự và chính trị, trên mặt trận ngọai giao cũng có nhiều bước phát triển, xuất hiện một hình thức ngọai giao rất độc đáo: ngọai giao ”tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Ngày 16-3-1966, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo: “Bây giờ ngoại giao của ta vừa là một mà vừa là hai; vừa là hai mà lại vừa là một. Ta vừa có ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vừa có ngoại giao của Mặt trận Dân tộc giải phóng ” [4].
Đầu năm 1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân của quân và dân ta nổ ra trên khắp chiến trường miền Nam. Đòn tấn công chiến lược hết sức bất ngờ của ta đã gây chấn động cả nước Mỹ, nhất là năm bầu cử Tổng thống và một phần Quốc hội nước nầy, nhiều cuộc biểu tình phản chiến nổ ra làm cho giới cầm quyền của Mỹ rất bối rối. Bộ trưởng quốc phóng Mc Namara phải từ chức, Tổng thống Johnson phải tuyên bố không ra tranh cử nhiệm kỳ hai và chịu xuống thang chiến tranh, hạn chế ném bom miền Bắc để nói chuyện với ta.
Từ ngày 13-5-1968, đại diện Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu cuộc gặp chính thức. Trong phiên họp không chính thức ngày 19/08/1968, phó trưởng  đoàn ngoại giao Mỹ là  Cyrus Vance  và phó trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà  là Hà Thiệu Lâu, phía Mỹ đề nghị cần phải có sự tham  gia của chính quyền Sài gòn  và  đại biểu của  Mặt trận Dân tộc giải phóng [1]. Tại phiên họp ngày 26/10/1968, bộ trưởng Xuân Thuỷ đã đồng ý để Mặt trận Dân tộc Giải phóng  và chính  quyền Nam Việt Nam tham gia vào các cuộc đàm phán [5].
Ngày 31-10-1968, hai bên thống nhất: Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc không điều kiện và chấp nhận ngồi nói chuyện trực tiếp với đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tại Hội nghị bốn bên tại Pari [5].
Sau gần 8 năm tìm mọi cách phủ nhận sự tồn tại và vai trò đại diện của Mặt trận Dân tộc giải phóng, nhưng cuối cùng Mỹ cũng phải đến dự Hội nghị  bốn bên ở Pari mà đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng là một bên, ngang hàng và bình đẳng với đoàn Mỹ để giải quyết vấn đề Việt Nam nói chung và những vấn đề liên quan đến miền Nam Việt Nam nói riêng.
Bước vào cuộc đàm phán ở Pari, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã nhận định: “...Mỹ buộc phải nói chuyện với Mặt trận Dân tộc giải phóng tại Hội nghị bốn bên và đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng tham gia Hội nghị bốn bên với tư cách một đoàn độc lập là thắng lợi ngoại giao to lớn của cách mạng miền Nam”.
Bước và giai đoạn  “vừa đánh, vừa đàm”, ngày 3-11-1968, Mặt trận Dân tộc giải phóng công bố giải pháp 5 điểm:
1. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam phấn đấu thực hiện độc lập ,dân chủ, hoà bình, trung lập, phồn vinh tiến tớit thống nhất Tổ quốc.
2. Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam .
3. Công việc nội bộ miền Nam Việt Nam phải do nhân dân miền Nam Việt Nam tự giải quyết theo Cương lĩnh Mặt trận dân tộc Giải phóng, không có sự can thiệp của nước ngoài, thành lập chính phủ dân tộc, dân chủ rộng rãi để tổ chức tổng tuyển cử tự do ở miền Nam.
4. Việc thống nhất Việt Nam sẽ do nhân dân hai miền giải quyết từng bước, bằng biện pháp hoà bình, nước ngoài không được can thiệp.
5. Miền Nam Việt Nam thực hiện chính sách ngoại giao hoà bình trung lập.
Ngày 4-11-1968, đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng đến Pari chuẩn bị tham dự hội nghị, đoàn trù bị của Mặt trận gồm có 4 người, trưởng đoàn là bà Nguyễn Thị Bình ( xem phụ lục II )
Ngày 16/12/1968, ông Trần Bửu Kiếm trưởng đoàn  đại biểu chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ( xem phụ lục III ) tham dự hội nghị Pari [5].
Như vậy, trên mặt trận ngọai giao, trong giai đọan từ 1965 đến 1968, Mặt trận Dân tộc giải phóng đã chuyển dần từ “ngoại giao nhân dân” sang “ngoại giao nhà nước”. Bước sang năm 1969, khi chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời thì  công tác ngọai giao trên bàn đàm phán được chuyển giao cho chính phủ.

3.2.2. Đấu tranh  giành sự ủng hộ của nhân dân thế giới

Tại nhiều nước dân tộc chủ nghĩa, Mặt trận cũng có cơ quan đại diện: Angiêri, Tandania, Ai Cập, Xyri, Campuchia, Ấn  Độ, Inđônêxia, Lào. Ở các nước khác, Mặt trận Dân tộc Giải phóng có các phòng thông tin thực tế làm nhiệm vụ cơ quan đại diện: Thụy Điển, Na uy, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Chilê. Các cơ quan đại diện nói chung đều được hưởng quy chế ngoại giao; các phòng thông tin không được hưởng quy chế ngoại giao nhưng cũng được các chính phủ sở tại ưu đãi, có trường hợp được giúp đỡ về vật chất để hoạt động.
Nhờ có một hệ thống cơ quan đại diện và phòng thông tin tại các châu lục, có đại diện dự các cuộc họp của các tổ chức quốc tế và quốc gia và nhờ các cuộc thăm viếng, gặp gỡ quốc tế. Mặt trận đã triển khai những hoạt động ngoại giao nhân dân rộng khắp, rất có hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự hình thành phong trào các nước đoàn kết với Việt Nam .
Việt Nam không có điều kiện tới nước Mỹ để trực tiếp vận động, nhưng tranh thủ gặp các đại biểu Mỹ tại các hội nghị liên hoan gặp gỡ quốc tế, để thông báo tình hình đấu tranh ở miền Nam và bàn việc phối hợp hành động.
Từ đầu năm 1965, ở Mỹ, một phong trào chống xâm lược ngày càng lên cao, mở đầu là phong trào của sinh viên, ngày 24-3-1965 tại Trường đại học Michigan, 3.000 sinh viên hội thảo về chiến tranh Việt Nam rồi lan ra hàng trăm trường khác, lôi kéo đủ các tầng lớp của xã hội Mỹ và keo dài hết đợt nầy đến đợt khác, hết năm nầy qua năm khác, với đủ các hình thức đấu tranh: mit tinh, hội thảo, chất vấn… và cả tự thiêu của 16 công dân Mỹ mà bắt đầu từ ngọn đuốc Norman Morisson, một trí thức tự thiêu ngày 2-11-1965 trước trụ sở Bộ Quốc phòng Mỹ để phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, rồi anh Rôgiơ Lapoto 22 tuổi, chị Xila Giancaoxki người mẹ trẻ của hai con nhỏ, cụ bà Henga Hécdơ… Hàng ngàn thanh niên Mỹ đốt thẻ quân dịch và trốn ra nước ngoài không chịu đi lính sang Việt Nam . 22 triệu người Mỹ da đen là tầng lớp chịu hậu quả chiến tranh rõ nhất. Suốt từ tháng 8-1965 đến đầu năm 1968, họ đã nổi dậy, đã xãy ra xung đột đẫm máu giữa người da đen với chính phủ Mỹ, đặc biệt từ giữa tháng 7 đến giữa tháng 8-1967 cuộc chiến đấu ác liệt đã diễn ra trong hơn 100 thành phố làm hàng trăm người chết, hàng vạn người dân da đen bị bắt.
Ngày 12-12-1966, Mặt trận Dân tộc Giải phóng lập phái đoàn đại diện đặc biệt ở miền Bắc, do ông Nguyễn Văn Tiến làm trưởng đoàn, ông Nguyễn Phú Soái làm phó đoàn.
Ngày 22-6-1967, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã thiết lập cơ quan đại diện thường trực của mình tại Phnôm Pênh, Vương quốc Campuchia.
Ngày 30-6-1967, Chính phủ Cuba thành lập cơ quan đại diện ngoại giao của Cộng hoà Cuba bên cạnh Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng.

3.2.3. Tham gia các tổ chức quốc tế  ủng hộ hoà bình, chống chiến tranh

Mặt trận Dân tộc Giải phóng và các đoàn thể trong mặt trận như Thanh niên, Phụ nữ, Công đoàn. Hội Lục hoà (tức đại diện Phật giáo), Công giáo kháng chiến, hội Nhà báo, hội Nhà văn Giải phóng... đều tranh thủ tham gia các sinh hoạt quốc tế lớn hoặc có quan hệ với các tổ chức tương ứng của các nước. Đại diện của Mặt trận đã được tín nhiệm bầu vào cơ quan lãnh đạo của các tổ chức quốc tế: Liên hiệp công đoàn thế giới, Hội đồng hoà bình thế giới, Liên hiệp phụ nữ dân chủ quốc tế, Liên hiệp thanh niên dân chủ thế giới, Hội luật gia dân chủ thế giới, Hội nhà báo, Uỷ ban đoàn kết ba châu, phong trào Không liên kết.
Ngày 15-1-1966, tại La Habana, Hội nghị đoàn kết nhân dân 3 châu : Á- Phi - Mỹ Latinh đã ra nghị quyết “ ủng hộ hoàn toàn và triệt để bản tuyên bố 5 điểm của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và lập trường 4 điểm của chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” và cho rằng “đó là cơ sở duy nhất đúng đắn để giải quyết vấn đề Việt Nam ”. Hội nghị nầy đã hình thành Mặt trận Á- Phi- Mỹ Latinh giúp Việt Nam.
Cuộc chiến đấu anh dũng, lập trường đúng đắn, thái độ thiện chí của Việt Nam , và cuộc chiến tranh xâm lược mà đế quốc Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam hiện nay là điển hình của những hành động tàn bạo dã man nhất của bọn đế quốc xâm lược đã tác động mạnh mẽ tới nhân dân các nước Tây Âu và ngay cả nước Mỹ.
Ngày 15-11-1966, Toà án quốc tế Bertrand Russel đã ra đời theo sáng kiến của nhà bác học nổi tiếng người Anh, Huân tước Bertrand Russel. Toà án đã họp và nhất trí kết luận : Chính phủ Mỹ đã phạm tội ác xâm lược; tội ác chiến tranh; tội ác diệt chủng ở Việt Nam. Tội ác của chính phủ Mỹ chẳng những ức hiếp nhân dân Việt Nam mà còn đe doạ nhân dân thế giới.
Những kết luận của toà án là một bản án, một lời kết tội về chính trị, về tinh thần, có ảnh hưởng sâu sắc trên phạm vi thế giới, góp phần làm thức tỉnh lương tri của nhân dân thế giới, đặc biệt là nhân dân Mỹ đấu tranh chống tội ác xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam.
Ngày 18-10-1966, tại Hội đồng Liên hiệp quốc, trong tham luận kết thúc chung của 101 đoàn thì có 93 đoàn nói về Việt Nam, đòi chấm dứt chiến tranh  và đàm phán hoà bình; 19 nước chính thức đòi ngừng ném bom miền Bắc, ngoài các nước xã hội chủ nghĩa có 5 nước khác đòi Mỹ rút khỏi Việt Nam.
Cùng thời gian nầy, có 30 tổ chức của 20 nước dân tộc chủ nghĩa lấy tên là “Ủy ban đoàn kết với Việt Nam ”, “Ủy ban ủng hộ Việt Nam ”, “Hội đoàn kết nhân dân ba châu” là tổ chức phối hợp hành động ủng hộ Việt Nam của nhân dân Á- Phi-Mỹ La tinh được thành lập. Tổ chức đoàn kết nhân dân Á- Phi đã tổ chức những “Tuần lễ ủng hộ Việt Nam ”.
Thật khó mà thấy được một cuộc cách mạng nào trên thế giới trong thời hiện đại mà đến nhà bác học Anh Bertrand Russell, nhà triết học Pháp J.P.Sartre, nữ nghệ sĩ Mỹ J. Fonda dứt khoát bảo vệ, nhiều người dân Mỹ tự thiêu theo ngọn lữa Morisson để bày tỏ sự ủng hộ, sinh viên, thanh niên Mỹ xuống đường rầm rộ như vậy.
Trong hai năm 1966 và 1967, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã có 59 đoàn đại biểu đi di dự các hội nghị quốc tế, khu vực  hay các quốc gia khác. Năm 1966 có 27 đoàn, năm 1967 có 32 đoàn.
Cũng trong thời  đó, Mặt trận đã cử nhiều đoàn đại biểu đi thăm hữu nghị các nước trên thế giới. Năm 1966 có 29 đoàn đi thăm 16 nước, năm 1967 có 79 đoàn, đi thăm 29 nước. Như vậy, từ năm 1961 đến 1967, Mặt trận đã đi thăm 12 nước xã hội chủ nghĩa, 52 nước tư bản chủ nghĩa và 3 nước dân tộc chủ nghĩa.
Lên tiếng ủng hộ tuyên bố 5 điểm của mặt trận ngày 22-3-1965 có 28 chính phủ, 15 tổ chức quốc tế và khu vực, 471 tổ chức, hội quần chúng ở 92 nước, 28 nước có có quân tình nguyện sẵn sàng sang Việt Nam đánh Mỹ nếu Việt Nam yêu cầu.
Cho đến cuối năm 1967, đã có 41 chính phủ , 12 tổ chức quốc tế, 5 tổ chức có tính chất khu vực đã lên tiếng ủng hộ Cương lĩnh chính trị của Mặt trận [24].
Đến hết năm 1967, Mặt trận đã đặt cơ quan thường trú tại 12 nước ( Liên Xô, Hung-ga-ry, CHDCND Triều Tiên, Cộng hoà Ả- Rập thống nhất, Ba Lan, Cu-Ba, An-giê-ry, Tiệp Khắc, CHDC Đức, Trung Quốc, In-đô-nê-xia, Cam-pu-chia) và một phái đoàn đại diện ở Hà Nội .
Như vậy, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chẳng những được xem là một tổ chức yêu nước, dân chủ, hùng mạnh mà còn được đối xữ như một chính phủ, một nhà nước có đủ tính cách. Điều đó phù hợp với tình hình thực tế ở miền Nam Việt Nam : “Mặt trận lãnh đạo những lực lượng quân sự và chính trị có sức đương đầu thắng lợi trong suốt mấy năm dài với hàng triệu quân Mỹ, nguỵ và chư hầu. Mặt trận quản lý một vùng giải phóng rộng lớn bằng ¾ miền Nam, với dân số hơn 2/3 dân số miền Nam ” [24].

3.3.  HOẠT ĐỘNG QUÂN SỰ 

3.3.1. Âm mưu của “chiến tranh cục bộ”

          Đầu năm 1965, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" đứng trước nguy cơ bị thất bại hoàn toàn. Để cứu vãn tình thế, Mỹ đã ồ ạt đưa quân viễn chính cùng với vũ khí và trang bị kỹ thuật hiện đại vào Việt Nam, đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Từ giữa năm 1965, Mỹ bắt đầu thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc.
 "Chiến tranh cục bộ" là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới, được tiến hành bởi quân viễn chinh Mỹ, quân các nước thân Mỹ và quân của chính quyền Sài Gòn, trong đó quân Mỹ giữ vai trò quan trọng và không ngừng tăng lên về số lượng và trang bị.
Cuối năm 1965, có 200.000 quân Mỹ và quân các nước thân Mỹ  đến Việt Nam, trong đó chưa kể 70.000 quân Mỹ trên các căn cứ quân sự ở châu Á sẵn sàng tham chiến.
Mỹ thực hiện hai gọng kìm chiến lược “tìm diệt” và “bình định”, cố giành lại thế chủ động trên chiến trường và giành lại nông dân trong những vùng giải phóng.
Mỹ gây nên “sự kiện vịnh Bắc Bộ” [20], dùng máy bay ném bom miền Bắc và Lào nhằm ngăn chặn chi viện của miền Bắc, đồng thời liên tiếp tổ chức nhiều cuộc hành quân “tìm diệt” trong các mùa khô 1966, 1967  tạo điều kiện cho lực lượng “bình định nông thôn” chiếm lại vùng giải phóng đã mất trước đây.
Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc giải phóng, nhân dân miền Nam thực hiện chủ trương  “hai chân, ba mũi”, thực hiện tấn công địch trên cả ba vùng chiến lược, tấn công địch trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ. “Đối đầu với sự hung hăng tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc Mỹ, phải có sự khôn ngoan tài trí của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam ” [46, tr.42].

3.3.2.Những trận đánh Mỹ mở màn của Quân Giải phóng [68], [77]

Ngày 16-5-1965, táo bạo và bất ngờ, khi quân Mỹ mới đến Việt Nam, Quân Giải phóng đã tập kích sân bay Biên Hoà, phá huỷ 11 máy bay B57 và 4 máy bay phản lực, làm hư hại nặng 25 máy bay khác, 21 lính Mỹ bị chết, 64 bị thương. Đây là đòn cảnh cáo đầu tiên của của quân dân miền Nam đối với tập đoàn hiếu chiến Mỹ.
Cùng thời gian nầy, với chủ trương đánh giặc ngay từ khi chúng vừa kéo đến, Bộ Tư lệnh Quân khu V chỉ thị cho Tỉnh đội Quảng Nam, nơi quân Mỹ đã triển khai lực lượng ở Đà Nẵng- Chu Lai “Đánh tiêu diệt một đơn vị Mỹ để hạ uy thế quân Mỹ ngay từ đầu, tìm hiểu cách đánh của chúng, rút kinh nghiệm  đánh Mỹ trong toàn khu”. Trận đầu tiên diễn ra ngày 26-5-1965 tại Núi Thành thuộc tỉnh Quảng Nam. Lực lượng Quân Giải phóng gồm đại đội 2 của Tiểu đoàn 70 thuộc tỉnh Quảng Nam cùng với một tổ đặc công nhận nhiệm vụ tấn công một đại đội lính Mỹ đóng quân trên hai mỏm đồi 49 và 50 của Núi Thành, xung quanh có hai lớp kẽm gai bảo vệ. Sau hơn một giờ chiến đấu, các lực lượng giải phóng đã hoàn toàn làm chủ trận địa, diệt đại đội lính thuỷ đánh bộ Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu 140 tên, thu toàn bộ vũ khí, quân dụng. Lá cờ Quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm .lược do Đảng bộ Quảng Nam trao cho Đại đội 2  trước giờ xuất kích phấp phới bay trên Núi Thành.
Chiến thắng Núi Thành có ý nghĩa to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, là trận đầu biểu thị ý chí quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của nhân dân Việt Nam. Từ chiến thắng Núi Thành đã xuất hiện khẩu hiệu “Tìm Mỹ mà đánh, gặp Mỹ là diệt”, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm đánh Mỹ đầu tiên của nhân dân Việt Nam .
Tiếp theo là trận Vạn Tường ngày 8-8-1965. Trong trận nầy, Mỹ dùng một lực lượng quân đội với hoả lực rất mạnh gồm sư đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ Mỹ được tàu chiến, máy bay, pháo bình, xe tăng yểm trợ tấn công hòng tiêu diệt Trung đoàn 1 chủ lực Quân khu V đóng tại Vạn Tường, một thôn ven biển thuộc xã Bình Triệu, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Cuộc tấn công nầy được tướng Oetmolen, Tổng chỉ huy quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam đặt tên là cuộc hành quân Ánh sáng sao (Starlight). Trước khi cho lính thuỷ đánh bộ tấn công với sự mở đường của hàng tiểu đoàn xe tăng, xe thiết giáp, quân Mỹ dùng tàu chiến, tàu đổ bộ và máy bay nã pháo và dội bom xuống thôn Vạn Tường và một số khu vực lân cận. Song, Trung đoàn 1 Quân khu V phối hợp với Đại đội 21 bộ đội địa phương và du kích ở đây chiến đấu ngoan cường, mưu trí, loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 900 lính Mỹ, diệt 22 xe tăng, xe bọc thép, bắn rơi 13 máy bay.
Chiến thắng Vạn Tường làm nức lòng nhân dân cả nước và đã là một minh chứng có sức thuyết phục rằng quân và dân miền Nam hoàn toàn có khả năng đánh bại quân Mỹ trong điều kiện chúng có ưu thế về binh lực, hoả lực, sức cơ động và chúng chủ động lựa chọn chiến trường tác chiến hợp với sở trường để xuất quân. Với ý nghĩa đó, chiến thắng Vạn Tường trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam đã được đánh giá rất cao “….trận Vạn Tường đã chứng tỏ một cách hùng hồn khả năng của ta đánh bại được quân Mỹ trong điều


kiện chúng có ưu thế tuyệt đối về vũ khí, hoả lực” [14, tr.131].

3.3.3. Hai mùa khô 1965- 1966 và 1966- 1967 [15]

Bước vào mùa khô 1965-1966, với lực lượng 720.000 quân, trong đó có 220.000 quân viễn chinh, Mỹ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất. Cuộc phản công được bắt đầu từ tháng 1-1966, kéo dài trong 4 tháng, với tất cả 450 cuộc hành quân lớn nhỏ, trong đó có 5 cuộc hành quân “tìm diệt” then chốt, nhằm vào hai hướng chiến lược chính chính là đồng bằng khu V và miền Đông Nam Bộ, với mục tiêu là đánh bại quân chủ lực giải phóng, thực hiện “bẻ gãy xương sống Việt cộng”, giành lại thế chủ động trên chiến trường, củng cố quân ngụy tay sai.
Quân dân ta với thế trận chiến tranh nhân dân, với nhiều phương thức tác chiến khác nhau, đã chặn đánh địch trên mọi hướng, tiến công chúng khắp nơi.
Bên cạnh những trận đánh chặn các cuộc hành quân càn quét của địch, như trận đánh ở Củ Chi (1 và 2-1966), ở Bắc Bình Định (28-1 đến 7-3-1966)…., Quân giải phóng còn bắn pháo, tập kích vào các sân bay, như sân bay Chu Lai, Tân Sơn Nhất, Phú Lợi…., vào các căn cứ Mỹ- ngụy, như căn cứ Nhà Đỏ- Bông Trang (Thủ Dầu Một), tập kich khách sạn Victoria ngày 4-1-1966, diệt 200 sĩ quan Mỹ.
Trong 4 tháng mùa khô 1965-1966, trên toàn miền quân dân ta lọai khỏi vòng chiến đấu 104.000 tên, trong đó có 42.500 tên Mỹ, 3.500 quân các nước thân Mỹ, bắn rơi và phá hủy 1.430 máy bay, phả hủy 600 xe tăng và xe bọc thép, 1.310 xe ô tô, 80 khẩu pháo và 27 tàu.
Trong hội nghị lần thứ 12 của Mặt trận, Uỷ ban Trung ương Mặt trận DTGP đã nêu rõ: “Những thắng lợi vẻ vang của quân và dân ta trong những tháng vừa qua đánh dấu sự lớn mạnh không ngừng của các lực lượng kháng chiến. Đồng bào và chiến sĩ miền Nam liên tục phát huy thế tiến công và quyền chủ động của mình” [59, tr.43].
Tháng 9-1966, Mỹ bắt đầu tiến hành cuộc phản công mùa khô lần thứ hai với quy mô lớn hơn, tập trung tấn công vào khu vực xung quanh Sài Gòn và chiến khu Dương Minh Châu.
Ngày 14-9-1966, địch mở cuộc hành quân Attơnborơ với 3.000 lính Mỹ và quân Sài Gòn , đánh vào căn cứ Dương Minh Châu để tiêu diệt chủ lực, phá căn cứ,
kho tàng của ta. Dựa vào thế trận liên hoàn đã được bố trí sẵn trên những khu vực dự kiến địch sẽ tấn công, các lực lượng chủ lực, địa phương, dân quân du kích và tự vệ cơ quan liên tục chặn đánh, tiến công vào đội hình địch, đánh bại các mũi tiến quân, gây cho chúng nhiều thiệt hại về sinh lực và phưong tiện chiến tranh. Sau 72 ngày đêm, Mỹ và quân Sài Gòn không thực hiện được mục tiêu cuộc hành quân và ngày càng rơi vào thế bất lợi. Ngày 24-11, Oétmolen quyết định kết thúc cuộc hành quân cấp quân đoàn đầu tiên của Mỹ và quân Sài Gòn , toàn bộ kế hoạch phản công chiến lược của địch thất bại.
Ngày 8-1-1967, Mỹ mở cuộc hành quân Xêdaphôn, cuộc hành quân lớn cấp quân đoàn thứ hai đánh vào Củ Chi, Bến Cát, Bến Súc. Ý đồ của Mỹ là tiêu diệt chủ lực của ta, phá căn cứ du kích, bình định vùng tam giác sắt, nới rộng vành đai an ninh, chia cắt vùng giải phóng của hai tỉnh Gia Định và Thủ Dầu Một để phòng thủ chắc chắn Bắc Sài Gòn. Được chuẩn bị tốt về tinh thần, tư tưởng và tổ chức, quân chủ lực phối hợp với lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định, dựa vào hệ thống địa đạo, công sự của các xã chiến đấu, chủ động chặn đánh địch, liên tục tổ chức các trận tập kích vào đội hình quân Mỹ, Mỹ và quân Sài Gòn đối phó lúng túng với lực  lượng vũ trang tại chổ, lại bị quân chủ lực quân khu Sài Gòn – Gia Định đánh vào bên sườn phía sau tiêu hao nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh.
Ngày 26-1 quân Mỹ phải chấm dứt cuộc hành quân sau gần một tháng càn quét đánh phá nhưng không đạt được mục tiêu dự định ban đầu, Thành uỷ, Bộ tư lệnh Sài Gòn – Gia Định và  Quân giải phóng vẫn tiếp tục đứng vững tại vùng “đất thép”Củ Chi ngay sát Sài Gòn – Gia Định.
Đầu tháng 2-1967, quân Mỹ chuẩn bị cuộc hành quân lớn thứ ba: Cuộc hành quân Gianxơnxiti, cuộc hành quân lớn nhất của Mỹ ở miền Nam đánh vào căn cứ Dương Minh Châu.
Ngay sau cuộc hành quân Xedaphôn, Trung ương cục và Quân uỷ Bộ tư lệnh Miền đã nhận định Mỹ sẽ dốc toàn lực mở cuộc hành quân lớn hơn, đánh sâu vào căn cứ và cố giành thắng lợi quyết định. Trung ương cục và Bộ tư lệnh Miền chỉ đạo các đơn vị khẩn trương chuẩn bị đánh địch. Căn cứ Dương Minh Châu được tổ chức thành 13 ”huyện”, 6 “huyện” do các cơ quan của Trung ương cục đảm nhiệm và 7 ”huyện” do các đơn vị của Bộ tư lệnh Miền phục trách. Mỗi “huyện” chia thành nhiều “xã”, ”ấp”. Các xã , ấp liên kết với nhau thành các khu vực trận địa có thể liên kết với nhau, chi viện cho nhau. Cán bộ, nhân viên các cơ quan dân-chính-Đảng có khoảng 10.000 người được tổ chức thành lực lượng vũ trang tại chỗ gồm ba thứ quân và tăng cường trang bị vũ khí.
Ngày 22-2-1967, Mỹ huy động 45.000 quân, 1.200 xe tăng xe bọc thép, hơn 250 khẩu pháo, 17 phi đoàn máy bay mở cuộc hành quân Gianxơnxiti đánh vào căn cứ Dương Minh Châu. Đây là một căn cứ rộng khoảng 1.500 km­2 thuộc tỉnh Tây Ninh, được hình thành từ thời kháng chiến chống Pháp, tiếp tục được xây dựng trong kháng chiến chống Mỹ. Tại đây tập trung nhiều cơ quan trọng yếu như Trung ương Cục, Cơ quan Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam , Quân uỷ Miền, Đài phát thanh Giải phóng, trường học, bệnh viện, kho tàng… nhưng chỉ có 800 dân.
Dựa vào thế trận đã được xây dựng trước, lực lượng vũ trang trong căn cứ bám trận địa, chủ động tiến công đánh địch rộng khắp bằng nhiều hình thức gây cho quân Mỹ và quân Sài Gòn bị tổn thất lớn ngay từ ngày đầu. Lực lượng chủ lực quân giải phóng miền Nam cơ động đánh vào những chổ sơ hở của địch làm cho chúng thiệt hại nhiều về sinh lực và phương tiện chiến tranh. Trước tình hình đó, Oetmolen phải tuyên bố kết thúc cuộc hành quân vào ngày 15-5-1967.
Trong mùa khô 1966-1967, trên toàn miền Nam quân ta đã loại khỏi vòng chiến 151.000 quân, trong đó có 68.200 quân Mỹ, phá hủy 1.231 máy bay, phá hủy 1.627 xe tăng và xe bọc thép, 2.107 ô tô, 308 khẩu pháo và 42 tàu [17].

3.3.4.Tổng công kích- tổng khởi nghĩa mùa xuân 1968

Tháng 5-1967, ngay sau khi cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ kết thúc, Bộ chính trị Trung ương Đảng đã họp dưới sự chủ toạ của Hồ Chủ tịch đánh giá tình hình, xem xét dự thảo kế hoạch chiến lược Đông –Xuân 1967-1968. Tiếp đó, tháng 6-1967, Hội nghị Bộ Chính trị lại được triệu tập và đã bàn bạc rất kỹ dự thảo chiến lược nầy. Hội nghị nhận định: quân dân hai miền đã giành được thắng lợi to lớn và toàn diện. Vì vậy Hội nghị đã chủ trương :”trên cơ sở phương châm đánh lâu dài, đẩy mạnh nổ lực chủ quan đến mức cao nhất để giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn” [40, tr.84]. Ngày 28-12-1967, Nghị quyết Bộ Chính trị quyết định: ”Tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước” [40, tr.93].
Đêm 28 rạng ngày 29-1-1968 (tức đêm 29 tháng Chạp, năm Đinh Mùi 1967) [39, tr.27], trước đêm Giao thừa một ngày, quân và dân các tỉnh ven biển miền Trung và Tây Nguyên đồng loạt nổ súng tiến công vào các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ và các căn cứ quân sự của Mỹ và quân đội Sài Gòn mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam.
Tỉnh nổ súng sớm nhất là Khánh Hoà, từ 23 giờ đêm 28-1-1968, pháo binh Quân Giải phóng ở Khánh Hoà đã bắn phá trung tâm huấn luyện hải quân Sài Gòn ở thành phố Nha Trang.
Đến 0 giờ 30 phút ngày 29-1-1968, Quân Giải phóng đồng loạt tấn công thị trấn Tân Cảnh, thị xã Kon Tum (tỉnh Kon Tum), thị xã Buôn Mê Thuột (tỉnh Đắc Lắc), thị xã Plâycu (tỉnh Gia Lai), thành phố Đà Nẵng, thị xã Hội An (tỉnh Quảng Đà- Quảng Tín), thành phố Quy Nhơn (tỉnh Bình Định)…
Quân dân Sài Gòn – Gia Định, Quảng Trị, Huế, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Phan Thiết, Biên Hoà, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng, Kiến Phong, Kiến Tường, Gò Công, Bến Tre, Kiên Giang, Vĩnh Bình, Châu Đốc, Tuyên Đức mở nhiều cuộc tấn công qưyết liệt vào quân địch.
Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng là trọng điểm tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân, trong đó, Sài Gòn - Gia Định là trọng điểm lớn nhất. Đây chính là trung tâm đầu não chỉ đạo toàn bộ bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn . Vì vậy, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã bố trí một hệ thống phòng thủ dày đặc ,nhiều tầng gồm cả quân Mỹ và quân đội Sài Gòn tham gia bảo vệ.
Lúc 2 giờ sáng ngày mồng 1 Tết Mậu Thân, tức ngày 30-1-1968, cuộc tấn công và nổi dậy ở Sài Gòn – Gia Định bắt đầu. Quân Giải phóng đã nhanh chóng đánh vào Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất và Đài phát thanh Sài Gòn, Toà đại sứ Mỹ. Các trận chiến đấu đã diễn ra ác liệt, nhiều chiến sĩ cách mạng đã hy sinh nhưng không chiếm được Bộ Tổng tham mưu và sân bay. Tại Đài phát thanh Sài Gòn, Đội biệt động số 1 sau 3 phút tấn công đã loại khỏi vòng chiến đấu trung đội cảnh sát dã chiến bảo vệ ở đây và chiếm được đài, song, do nhân viên kỹ thuật và bộ phận chính trị phụ trách phát thanh của cách mạng không vào kịp nên không thực hiện được ý đồ sử dụng Đài phát thanh Sài Gòn làm công cụ tuyên truyền. Nhận ra tầm quan trọng của Đài phát thanh, quân đội Sài Gòn đã dùng một lực lượng quân sự rất lớn tấn công chiếm lại. Sau 3 ngày chiến đấu quyết liệt mà không được sự chi viện nào, các lực lượng tấn công hy sinh nhiều, quân ta rút lui sau khi phá hỏng một góc Đài phát thanh.
Lúc 2 giờ 30 phút ngày 30-1-1968, 17 chiến sĩ thuộc Đội biệt động số 11 đã vào được sứ quán Mỹ và chiếm gấn hết tầng 1, phát triển lên tầng 2 và tầng 3 sau khi diệt quân cảnh Mỹ gác ở cổng chính và dùng thuốc nổ phá tường bao của sứ quán. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, các chiến sĩ biệt động cách mạng lùng bắt đại sứ Mỹ Bâncơ nhưng viên đại sứ nầy đã kịp thời trốn thoát. Đến 9 giờ sáng ngày 30-1-1968, Mỹ đổ một lực lượng rất đông thuộc sư đoàn dù 101 Mỹ xuống sân thượng Toà đại sứ. Trận chiến đấu diễn ra ác liệt và không cân sức. Lực lượng tăng viện của Quân Giải phóng không đến được theo hợp đồng. 17 chiến sĩ chiến đấu đến viên đạn cuối cùng cho đến khi 16 người hy sinh và 1 người bị địch bắt. Trận đánh chiến Toà đại sứ Mỹ đã gây tiếng vang lớn trên thế giới và làm chấn động nước Mỹ.
Cuộc tấn công còn diễn ra tại Dinh Độc Lập, Bộ Tư lệnh Hải quân quân đội Sài Gòn … Ngay trong đêm 30-1-1968, phối hợp với các đội đặc công và biệt động thành phố, các đội du kích, các nhóm vũ trang và các tổ chức quần chúng cách mạng đã chiếm lĩnh nhiều xóm lao động. Các tiểu đoàn mũi nhọn và địa phưong tiến công và làm chủ trại thiết giáp Phù Đổng, trại pháo binh Cổ Loa, phá huỷ nhiều pháo và xe cơ giới, nhiểu xưởng quân cụ, chiếm trung tâm huấn luyện Quang Trung, làm chủ nhiều ngày khu Bình Hoà, ngã ba Cây Thị, Trường nữ quân nhân Sài Gòn … Các lực lượng vũ trang  cách mạng cũng làm chủ khu vực giáp ranh giữa các quận 5, 6, 8, 10, 11, khu Minh Mạng, Ấn Quang, khu chợ Thiếc, khu cầu Chữ Y, cầu Muối, Bàu Sen, Hàng Xanh, Thị Nghè, Trương Minh Giảng…Nhân dân còn tổ chức nổi dậy, giành quyền làm chủ ở một số nơi thuộc quận 7,8, ngã ba Hàng Xanh, ngã năm Bình Hoà, chợ Trần Quốc Toản, khu vực trường đua Phú Thọ, Gò Vấp, Cầu Tre, Phú Lâm…[16], [35], [37], [68].
Tại Huế, cuộc tấn công của các lực lượng vũ trang cách mạng nổ ra vào lúc 2 giờ 23 phút ngày 31-1-1968. Pháo binh Quân Giải phóng đã bắn đồng loạt vào các mục tiêu của địch ở khu Tam Giác, khu Phan Sào Nam, Phú Bài, Động Toà, Đông Ba mở đầu cho cuộc tiến công đánh chiếm thành phố Huế. Sau đó. Quân Giải phóng chia làm hai cánh, đồng loạt đánh vào 39 khu vực và mục tiêu trong và ngoài thành phố.
Sau những trận đánh diễn ra ác liệt trên các đướng phố và khu dân cư, các căn cứ quân sự… hầu hết các cơ quan đầu não của chính quyền và quân đội Sài Gòn ở Huế đều bị Quân Giải phóng đánh chiếm. Sau một ngày chiến đấu, phần lớn thành phố Huế được giải phóng, trong đó có cả khu Đại Nội. Cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tung bay trên đỉnh Phú Văn Lâu. Nhân dân đã tích cực phối hợp với Quân Giải phóng xây dựng các hệ thống phòng ngự chống địch phản công…
Quân Giải phóng và nhân dân Huế đã làm chủ thành phố 25 ngày đêm, đã tổ chức hàng trăm trận đánh địch phản kích. Đến ngày 22-2-1968, trước sự phản kích điên cuồng của địch và để bao tồn lực lượng, tránh bị bao vây, quân ta quyết định rút khỏi thành phố.
Quân và dân miền Nam mở cuộc tấn công lần thứ hai bắt đầu từ đêm 4 rạng ngày 5-5-1968. Ý đồ chiến lược trong đợt 2 là vây hãm Khe Sanh, kìm giữ và diệt địch ở Đường 9, Trị Thiên, Tây Nguyên. Trọng điểm tổng tiến công và nổi dậy là Sài Gòn – Gia Định. Điểm tiến công quan trọng là Huế và Đà Nẵng. Thời gian hành động toàn miền Nam là từ tháng 4 đến tháng 6-1968. Quân và dân trên khắp các chiến trường đã đồng loạt bắn phá bằng pháo binh, súng cối và tiến công bằng bộ binh vào 31 thành phố, thị xã, 58 quận lỵ, thị trấn, đánh vào 10 bộ tư lệnh quân đoàn, sư đoàn, 30 sân bay, 20 căn cứ xuất phát hành quân và trung tâm huấn luyện cùng các kho tàng quan trọng của Mỹ và quân đội Sài Gòn .
Tại Sài Gòn – Gia Định, pháo binh Quân Giải phóng tập kích vào sân bay Tân Sơn Nhất, Dinh Độc lập, Sứ quán Mỹ, Bộ tư lệnh Hải quân, Tổng nha cảnh sát, Biệt khu Thủ đô…
Các đội đặc công Quân Giải phóng và biệt động thành phố Sài Gòn đánh chiếm Đài Truyền hình, cầu Phan Thanh Giản. Các đơn vị bộ binh Giải phóng cùng các lực lượng vũ trang khác đánh sâu vào trung tâm thành phố, chiếm giữ ngã tư Bảy Hiền, trường đua Phú Thọ, quận lỵ Gò Vấp, cầu Chữ Y, bót cảnh sát quận 8, cầu Bình Lợi, cầu Bình Hoà…
Quân Mỹ và quân đội Sài Gòn có xe tăng và máy bay yểm trợ đã tổ chức phản kích rất quyết liệt. Các trận chiến đấu ác liệt diễn ra tại trường đua Phú Thọ, cầu Chữ Y, cầu Tre, bến Phạm Thế Hiền, đường Minh Phụng. Hai bên đều chịu nhiều tổn thất. Máu của Quân Giải phóng thấm đỏ trên đường phố Sài Gòn .
Ở ngoại vi Sài Gòn – Gia Định, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích các quận, huyện tổ chức phối hợp chiến đấu, tấn công các kho tàng, sân bay, cơ sở đóng quân và cơ sở hậu cần của địch.
Sau những ngày đêm chiến đấu ác liệt, ngày 12-5-1968, các đơn vị Quân Giải phóng rút khỏi Sài Gòn  [16], [68].
Phối hợp chặt chẽ với quân dân Sài Gòn – Gia Định, quân và dân miền Đông Nam Bộ và miền Tây Nam Bộ, khu V, Tây Nguyên đều tiến công vào các thành phố, thị xã như Đà Nẵng, Hội An, Quảng Ngãi, Đà Lạt, Phan Thiết…trong các ngày 4 và 5-5-1968. Quân và dân  Quảng Nam đánh bại cuộc hành quân giải toả của địch ở ven sông Thu Bồn từ ngày 5 đến ngày 24-5-1968.
Trên chiến trường Đường 9-Trị Thiên, sau khi rút khỏi thành phố Huế, Quân Giải phóng tiếp tục vây hãm thành phố Huế, cụm quân Mỹ ở Khe Sanh và chặn các cuộc hành quân của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn.
Bị vây hãm ở Khe sanh từ tháng 4-1968, Mỹ và quân đội Sài Gòn diều Sư đoàn kỵ binh không vận số 1, 3 tiểu đoàn dù và 1 tiểu đoàn biệt động quân Sài Gòn mở các cuộc hành quân Ngựa bay và Lam Sơn 207 để giải toả Khe Sanh. Các trận đánh diễn ra ác liệt, Quân Giải phóng bị thương vong nhiều, một số đơn vị phải rút ra để củng cố lực lượng. Sang tháng 5-1968, Quân Giải phóng được tăng viện thêm Sư đoàn 308 và Trung đoàn 246, mở nhiều cuộc tấn công các vị trí quanh khu vực Tà Cơn, căn cứ Tà Cơn của quân Mỹ bị cô lập và rơi vào tình trạng có thể bị tiêu diệt. Ngày 26-6-1968, quân Mỹ được lệnh rút khỏi Khe Sanh, Quân Giải phóng tiến vào Tà Cơn.
Chiến dịch Đường 9- Khe Sanh thực sự kết thúc vào giữa tháng 7-1968, quân Mỹ và quân đội Sài Gòn bị thiệt hại nặng nề: 11.900 binh lính và sĩ quan bị chết và bị bắt sống, 78 xe quân sự bị bắn cháy, 197 máy bay bị bắn rơi hoặc phá hỏng.
       Từ 17-8-1968, đợt 3 Tổng công kích- tổng khởi nghĩa bắt đầu, mục tiêu của đợt 3 vẫn được xác định là: Chiến trường Sài Gòn – Gia Định và miền Đông Nam Bộ, Khu V là hướng phối hợp, trọng điểm là Quảng  Đà.
Tại Sài Gòn, Quân Giải phóng tiến công Nhà Quốc hội và Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn. Đồng thời, lực lượng vũ trang ở các nơi khác thuộc miền Đông Nam Bộ tiến công vào một loạt căn cứ quân Mỹ và quân đội Sài Gòn ở Trãng Lớn, Cà Tum, Đài truyền hình của Mỹ ở núi Bà Đen, căn cứ Mỹ ở Chà Là, Bến Củi, vị trí đóng quân của Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ ở Lộc Ninh…
Trong tháng 9-1968, trên hướng Tây Ninh, Quân Giải phóng tiếp tục tấn công các vị trí của Sư đoàn bộ binh số 1 và 25 của Mỹ vừa từ Sài Gòn cơ động đến. Lực lượng vũ trang khu VI tiến công các chi khu quân sự Hoà Đa, Di Linh, Phan Thiết, Phan Rang, pháo kích sân bay Thành Sơn, Cẩm Ly. Ở  Khu V, Quân Giải phóng tiến công vào thị xã, quận lỵ  Hội An, Tam Kỳ, Hoà Vang, Vĩnh Điện. Pháo binh Quân Giải phóng tập kích mãnh liệt vào các căn cứ ở Chu Lai, Núi Ngang, Tuần Dưỡng, Phước Lâm, đồi Ông Sầm. Ở Đà Nẵng, Quân Giải phóng tấn công Sở chỉ huy đặc khu, đài phát thanh, sân bay Đà Nẵng… Trên chiến trường Tây Nguyên, Quân Giải phóng tấn công quân Mỹ và quân đội Sài Gòn ở Nam Đắc Lắc, Tây Bắc Kon Tum. Ở Trị- Thiên, Quân Giải phóng đánh trả các đợt hành quân của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn ở vùng giáp ranh, đồng thời tấn công địch ở Đường số 9…Ngày 30-9-1968, đợt 3 cuộc Tổng công kích- tổng khởi nghĩa kết thúc.
Qua 3 đợt tổng công kích- tổng khởi nghĩa, mặc dù Quân giải phóng bị tổn thất khá lớn, nhưng quân và dân ta đã “xoay chuyển được cục diện tình hình” mà trước đó ta chưa bao giờ có được. Cuộc tổng công kích- tổng khởi nghĩa đã tạo ra bước ngoặc chiến lược trên chiến trường miền Nam Việt Nam, làm chấn động nước Mỹ, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn hội nghị và xuống thang chiến tranh [35].
ï Như vậy, từ 1965 đến 1968, hoạt động của Mặt trận DTGPMNVN trên cả ba lĩnh vực chính trị, quân sự và ngoại giao đều có những bước phát triển vượt bậc.
Về chính trị, Mặt trận đã xây dựng được hệ thống  Uỷ ban mặt trận từ trung ương đến địa phương, chuẩn bị mọi điều kiện để xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng miền Nam, bước đầu xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng ở các địa phương [35], [37].
Về quân sự, từ năm 1965 đến 1968, Quân giải phóng đã diệt 30.268 quân Mỹ.  Quân nguỵ chết, bị bắt và bị thương 893.500 tên, phá huỷ 12.667 máy bay, 12.626 xe tăng, 1.463 tàu và 1.850 đại bác [2]. Đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ với một đội quân khổng lồ lên đến hơn nửa triệu quân, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn hội nghị và tìm cách rút quân về nước.
Về ngoại giao, thúc đẩy phong trào chống Mỹ xâm lược Việt Nam phát triển mạnh trên thế giới, kể  cả nhân dân Mỹ. Một thắng lợi quan trọng của mặt trận ngoại giao là Mỹ buộc phải ngồi vào bàn hội nghị, nói chuyện với Mặt trận DTGPMNVN để giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam.
Năm 1968, là năm đánh dấu "chiến tranh cục bộ" của Mỹ thất bại hoàn toàn, Mỹ buộc phải ngồi vào bàn hội nghị, xuống thang chiến tranh.


KẾT LUẬN

Muốn đánh đổ kẻ thù, muốn thực hiện những nguyện vọng cơ bản của đông đảo nhân dân thì con đường duy nhất phải là con đường đấu tranh cách mạng. Vũ khí cách mạng của cuộc đấu tranh hoàn toàn giải phóng dân tộc là mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam kế tục và hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc của toàn dân Việt Nam đã tiến hành nhiều năm trước đó. Mặt trận kế thừa những kinh nghiệm của quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam và vận dụng một cách sáng tạo vào cuộc cách mạng giải phóng miền Nam. Mặt trận đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, vạch trần thực chất của chính sách thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ, cổ vũ và tập hợp mọi lực lượng dân tộc, kiên quyết đập tan ách thống trị của đế quốc Mỹ cướp nước và bọn tay sai bán nước [41].
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời theo chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất của Đảng Lao động Việt Nam.  Sự ra đời của Mặt trận thể hiện bãn lĩnh và khôn khéo của Đảng Lao động Việt Nam. Ngọn cờ Mặt trận “độc lập, dân chủ , hòa bình, trung lập tiến tới thống nhất đất nước” đã thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân có tinh thần dân tộc, có tinh thần chống Mỹ, cả những người cộng sản và những người “không thích cộng sản” [5] đều gia nhập Mặt trận.  Việc hình thành Mặt trận, giương cao ngọn cờ dân tộc thể hiện bản lĩnh chính trị  của Đảng lãnh đạo trong giai đọan gian nan nhất của đất nước: kiên định đường lối chính trị, đồng thời rất mềm dẻo trong sách lược. Vì thế, đã đánh thắng được kẻ thù mạnh hơn mình gấp bội về quân sự.
Mặt trận là người tổ chức và lãnh đạo của nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ và tay sai. Từ 1960 đến 1968, Mặt trận đã có nhiều đóng góp cho cách mạng miền Nam:
1. Về chính trị, thực hiện sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng đã từng bước xây dựng chính quyền cách mạng từ không đến có, hệ thống ủy ban Mặt trận từ Trung ương đến khu, tỉnh, huyện, xã.  Và đến khi đầy đủ điều kiện thì thành lập chính quyền cách mạng. Và từ sau đại hội lần thứ nhất của Mặt trận “Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng thực sự là một chính phủ ở miền Nam, song song tồn tại với chính quyền Sài Gòn” [18].
Các đoàn thể trong Mặt trận tổ chức được hàng triệu hội viên, đông nhất là Hội Nông dân giải phóng, Hội Thanh niên giải phóng, Hội Phụ nữ giải phóng… Mặt trận đoàn kết rộng rãi các tầng lớp, hơn hai mươi tổ chức chính trị và tôn giáo. Từ đầu năm 1968, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình ra đời và tuyên bố đoàn kết chặt chẽ với Mặt trận Dân tộc giải phóng.
Trên thực tế thì từ 1960-1968, Mặt trận Dân tộc giải phóng chính là chính quyền cách mạng, bởi vì các cấp của nó từ trung ương đến xã quản lý một vùng giải phóng rộng lớn, có nhiều triệu dân, nhân dân theo lệnh của Mặt trận, làng xã nào cũng có uỷ ban tự quản, uỷ ban Mặt trận để giải qưyết mọi công việc của nhà nước như chia ruộng đất, xử kiện tụng, thu góp tài chính, động viên thanh niên tham gia  Giải phóng quân hay đi làm dân công phục vụ chiến trường, phục vụ công tác xã hội. Mặt trận “có dân, có đất và có lực lượng vũ trang. Mặt trận có trách nhiệm phải giữ đất bảo vệ dân, Mặt trận làm chức năng chính quyền. Trong những vùng giải phóng, Mặt trận là một uy tín chính trị có tổ chức, là chính phủ có hiệu lực, là một tổ chức chính quyền quản lý một phần lớn đất đai ở miền Nam được giải phóng” [45, tr.55].
Mặt trận còn là người xây dựng vùng giải phóng, quản lý, tổ chức sản xuất và các họat động văn hóa, y tế, giáo dục trong vùng giải phóng. Đến năm 1968, vùng giải phóng rộng bốn phần năm đất đai, gồm hai phần ba số dân miền Nam Việt Nam. Mặt trận đã cấp 1.600.000 ha ruộng vườn cho nông dân. Mặc dù Mỹ nguỵ đánh phá dữ dội và liên tục nhưng diện tích và sản lượng của ruộng đất vùng giải phóng tăng liên tục, phong trào thi đua sản xuất đóng góp cho kháng chiến được đẩy mạnh.
Mặt trận Dân tộc giải phóng đã tổ chức và lãnh đạo các phong trào đấu tranh chính trị ở miền Nam. Từ khi thành lập đến năm 1968 “đã huy động được 140 triệu lượt người tham gia, 467.000 binh sĩ nguỵ đào ngũ, rã ngũ do binh vận của nhân dân” [26]. Các hình thức đấu tranh chính trị vô cùng phong phú, phong trào đấu tranh của công nhân, tiểu thương, sinh viên học sinh nổ ra liên tục. Nông dân kết hợp với du kích ngăn chận các cuộc hành quân lấn chiếm của địch. Việc kết hợp “hai chân, ba mũi”, đấu tranh trên cả ba vùng chiến lược là nét sáng tạo của cách mạng miền Nam trong những năm chống Mỹ.
Ấp chiến lược là “xương sống” của các chiến lược chiến tranh của Mỹ, Mỹ dự định xây dựng 16.000 ấp chiến lược trên toàn miền Nam, nhưng đến tháng 1-1968 Mỹ- nguỵ chỉ còn độ 2.300 ấp chiến lược, chủ yếu là ở quanh các căn cứ quân sự và dọc trục lộ giao thông, trong tết Mậu Thân, một phần trong số 2.300 ấp chiến lược lại bị phá.
2. Về ngoại giao, có lẽ đây là họat động tích cực nhất của Mặt trận. “Mặt trận đã triễn khai những họat động ngoại giao nhân dân rộng khắp, rất có hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự hình thành phong trào các nước đoàn kết với Việt Nam” [4]. Hoạt động ngoại giao đi từ ngoại giao nhân dân đến ngọai giao nhà nước, xây dựng ba tầng mặt trận, huy động nhân dân miền Nam tham gia chống Mỹ, huy động nhân  dân Đông Dương chống Mỹ và cả một thế giới phản đối việc đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam. Cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hình thành nền ngọai giao “tuy hai mà một, tuy một mà hai” là “một nét  đặc thù, một ưu thế mà không nước nào trên thế giới có được trong cùng hoàn cảnh đất nước bị chia cắt” [5, tr.282].
3. Cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam chống chế độ Mỹ- Diệm đến năm 1959, làm sản sinh ra lực lượng vũ trang tự vệ của nhân dân, các lực lượng nầy phát triển nhanh chóng trong năm 1960 và đầu năm 1961, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Ba thứ quân của lực lượng vũ trang nhân dân là dân quân du kích, bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực cùng tiến hành cuộc chiến trên cả 3 vùng chiến lược: đô thị, nông thôn và rừng núi.
Tính đến tháng 10-1968, các cuộc chiến đấu quân sự ở miền  Nam dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc giải phóng đã :
- Giết, làm bị thương và bắt sống hơn 2 triệu lính Mỹ, nguỵ và chư hầu.
- Phá huỷ, bắn rơi 13.000 máy bay các loại.
- Phá huỷ, bắn hỏng 26.000 xe quân sự các loại.
- Bắn chìm, bắn hỏng 1.100 tàu các cỡ [26].
Lực lượng vũ trang của Mặt trận đông hàng chục vạn, dày dạn chiến đấu, sát cánh với nhân dân như cá với nước.

Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam nhận được sự chi viện rất lớn của miền Bắc. Tuy nhiên, ta có thể nói  Mặt trận đã cùng với cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ cách mạng Việt Nam, làm theo lời dạy của Bác Hồ: “Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta” [43].

          4.  Qua hoạt động về quân sự, chính trị và ngoại giao của Mặt trận Dân tộc giải phóng từ 1960 đến 1968, ta thấy vai trò của Mặt trận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vô cùng to lớn. “ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam : ngọn cờ đoàn kết, ngọn cờ cách mạng, ngọn cờ chiến thắng của miền Nam anh hùng ” [6, tr.174]. Mặt trận vừa hoàn thành nhiệm vụ xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng, là “tiền thân của chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ”, vừa hoàn thành nhiệm vụ  của mặt trận là huy động toàn dân tham gia chống Mỹ, tạo điều kiện cho cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thắng lợi.
Đánh giá công lao của Mặt trận trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã nêu:“Công lao của Mặt trận Dân tộc giải phóng sẽ đời đời được ghi nhớ” [63] vì dưới ngọn cờ chính nghĩa của Mặt trận nhân dân miền Nam đã từng bước làm thất bại các chiến lược chiến tranh  của Mỹ, bảo vệ được độc lập và thống nhất đất nước.
Cố Tổng Bí thư Lê Duẫn, người tham gia chỉ đạo cách mạng miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đánh giá về Mặt trận : “Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, MTTQVN, MTDTGPMNVN, LMCLLDTDC & HBVN đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử vẻ vang là tăng cường khối đoàn kết toàn dân ở cả hai miền Nam – Bắc dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, đánh thắng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên CNXH” [ 44, tr. 7-10].
Nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, nguyên Bí thư Trung ương Cục, người trực tiếp lãnh đạo cách mạng miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng đã có những đánh giá về vai trò của Mặt trận : “Năm tháng đã đi qua, song những gì nhân dân miền Nam ”đi trước về sau” được nhân dân cả nước kề vai sát cánh, những cống hiến vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, dưới ngọn cờ Mặt trận Giải phóng ấy mãi mãi có chỗ đứng trang trọng trong lịch sử” [18].
          Hoạt động của Mặt trận trên 3 lĩnh vực quân sự, chính trị và ngoại giao đạt nhiều thắng lợi để lại cho chúng ta nhiều bài học.
Trong quá trình đấu tranh lâu dài, “đoàn kết chiến đấu đã trở thành một truyền thống rất quý báu và rất vững chắc của dân tộc ta” [9]. Khi bọn đế quốc đến xâm lược nước ta, chúng giày xéo non sông ta, áp bức dân tộc ta, nhân dân ta đã rất thấm thía ý nghĩa câu nói “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”, cho nên đã kề vai sát cánh, triệu người như một, chiến đấu vì độc lập, tự do của mình, “nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”[42].
Phát huy truyền thống 4000 năm lịch sử, “tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh soi sáng chiến lược đại đoàn kết toàn dân của Đảng trong mọi thời kỳ cách mạng, trong đó thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là một điểm sáng chói lọi, đã đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho ngày nay” [67, tr.214], chỉ có đoàn kết toàn dân ta mới xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân, tiến công địch bằng “hai chân, ba mũi”, tấn công trên cả “ba vùng chiến lược”.
Cũng  xuất phát từ tư tưởng đại đoàn kết toàn dân của Đảng, Mặt trận đã xác định được rõ ai bạn, ai thù, từ đó xác định được nội dung chiến lược và sách lược tập hợp lực lượng rộng rãi nhất để cô lập kẻ thù. Xác định được nội dung chiến lược và sách lược là điều kiện cần thiết cho cuộc cách mạng thắng lợi.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng với đường lối đúng đắn và không ngừng hoàn thiện là yếu tố đưa cuộc cách mạng đến thành công. “Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ có thể tập hợp đông đảo quần chúng và đóng vai trò hạt nhân của mặt trận  ấy khi bản thân Đảng “đã trở thành dân tộc”” [72, tr.442]. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng với dân gắn bó với nhau bằng quan hệ máu thịt, Đảng tin dân, dân tin Đảng, quân với dân một ý chí, cả nước một lòng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đã làm nên một chiến thắng vĩ đại trong lịch sử.
Ngày nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc Đổi mới. Trước hết, vận dụng những kinh nghiệm của cuộc kháng chiến, Mặt trận thu hút vào tổ chức của mình tất cả những người tán thành mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn  minh”. Tích cực tham gia giải quyết những tiêu cực của nền kinh tế thị trường, đóng vai trò phản biện trong hệ thống chính trị của Đảng. Cần có những biện pháp thích hợp để phát huy những tiềm năng sẵn có của dân tộc để hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, đưa Việt Nam: “sánh vai cùng với các cường quốc năm châu”.

¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬ |||  ¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬


TÀI LIỆU THAM KHẢO

aíb
1.   Pierre Asselin (2005), Nền hoà bình mong manh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2.   Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
3.   Ban chỉ đạo và Ban biên tập truyền thống Tây Nam Bộ (2000), Tây Nam Bộ 30 năm kháng chiến (1945 - 1975).
4.   Nguyễn Đình Bin chủ biên (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
5.   Nguyễn Thị  Bình  chủ biên (2004 ), Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Chính phủ Cách mạng lâm thời tại Hội nghị Paris về Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6.   Nguyễn Công Bình ( 1963 ), Mặt trận Dân tộc thống nhất  trong cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học, Hà Nội.
7.   Nguyễn Công Bình -Cao Văn Lượng- Bùi Hữu Khánh (1964), Ngọn cờ chiến thắng của miền Nam anh hùng, Nxb Khoa học, Hà Nội .
8.   Phạm Thanh Biền- Nguyễn Hữu Nghĩa (2004), Cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
9.   Trường Chinh ( 1975), Về công tác mặt trận hiện nay, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
10.   Thomas J Mc Cormick (2004), Nước Mỹ nửa thế kỷ, Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong và sau Chiến tranh lạnh, Nxb Chính trị Quốcgia , Hà Nội .
11.   PGS.TS.Trần Đức Cường chủ biên (2006), Biên niên lịch sử chính phủ Việt Nam 1945-2005 , tập 5, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
12.   Lê Duẫn (1970 ), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
13.   Lê Duẫn ( 1993), Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,  Hà Nội .
14.   Lê Duẫn (1985), Thư  vào Nam, Nhà xuất bản Sự Thật , Hà Nội .
15.   Nguyễn Anh Dũng ( 1990), Về chiến lược quân sự toàn cầu của đế quốc Mỹ, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
16.   Văn Tiến Dũng (2005), Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội .
17.   TS.Phạm Huy Dương-ThS.Phạm Bá Toàn (2005), Ba mươi năm chiến tranh giải phóng -Những trận đánh đi vào lịch sử, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội .
18.   Trần Bạch Đằng chủ biên (1993 ), Chung một bóng cờ (Về MTDTGPMNVN), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,  Hà Nội.
19.   Trần Bạch Đằng chủ biên (1995), Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, cả nước tôn vinh Anh, Nxb Văn học, Hà Nội.
20.   Daniel Ellsberg (2006), Những bí mật về chiến tranh Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
21.   Trần Văn Giàu (1964), Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 1, Nxb Khoa Học xã hội, Hà Nội .
22.   Trần Văn Giàu (1966), Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 2, Nxb Khoa Học xã hội, Hà Nội .
23.   Trần Văn Giàu (1968), Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 3, Nxb Khoa Học xã hội, Hà Nội .
24.   Trần Văn Giàu (1970), Miền Nam giữ vững thành đồng , tập 4, Nxb Khoa Học xã hội, Hà Nội .
25.   Trần Văn Giàu (1978), Miền Nam giữ vững thành đồng , tập 5, Nxb Khoa Học xã hội, Hà Nội.
26.   Nguyễn Thanh Hải (1997), Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960- 1975), luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường ĐH. Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM.
27.   Lê Mậu Hãn chủ biên ( 1998), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
28.   Goerge C. Herring(2004 ), Cuộc chiến đấu dài ngày của nước Mỹ và Việt Nam   ( 1950 - 1975 ), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
29.   Lê Phụng Hoàng ( 2007), Lịch sử quan hệ quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ hai, tập 1, khoa Lịch sử trường ĐHSP TP.HCM.
30.   Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến (1995), Nam Trung Bộ kháng chiến ( 1945- 1975), Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội.
31.   Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ(2003), Lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ( 1945- 1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
32.   TS.Trần Thị Thu Hương (2003), Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống phá “quốc sách” ấp chiến lược của Mỹ-nguỵ ở mìên Nam Việt Nam ( 1961-1965), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội .
33.   PGS.TS.Trần Thị Thu Hương chủ biên (2006), Đảng Cộng sản Việt Nam chặng đường qua hai thế kỷ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
34.   Tường Hữu (2005), Sự thật về cuộc chiến tranh Việt Nam , Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
35.   Hồ Khang (2005), Tết Mậu Thân 1968 bước ngoặc lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb Công an nhân dân, Tp.Hồ Chí Minh.
36.   Cao Văn Lượng, Pham Quang Toàn, Quỳnh Cư ( 1981), Tìm hiểu phong trào Đồng khởi ở miền Nam Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
37.   Cao Văn Lượng ( 1993), “Về cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân 1968”, Tạp chí NCLS, (1/1993), tr.1 – 6.
38.   Cao Văn Lượng chủ biên( 1996), Lịch sử Việt Nam  1954- 1965, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội .
39.   Cao Văn Lượng chủ biên (2002), Lịch sử Việt Nam 1965-1975, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội .
40.   Lê Hồng Lĩnh ( 2005 ), Cuộc đồng khởi kỳ diệu ở miền Nam Việt Nam ,Nxb Đà Nẵng , Đà Nẵng.
41.   Hồ Chí Minh ( 1967), Về nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước, Nxb Sự Thật, Hà Nội .
42.   Hồ Chí Minh ( 1970), Vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
43.   Hồ Chí Minh (1972), Về Mặt trận dân tộc thống nhất, Nxb Sự Thật , Hà Nội
44.   Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam ( 1978), Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam ,Hà Nội.
45.   Hoàng Vĩ Nam (1970), “Sự ra đời của Mặt trận DTGPMNVN “,Tạp chí NCLS,(135), tr 41-58.
46.   Trần Nhâm (1978), Nghệ thuật biết thắng từng bước, Nxb KHXH, Hà Nội
47.   Nguyễn Phúc Nghiệp ( 2007),”Chiến thắng Ấp Bắc (1963) trong sự phát triển của cách mạng miền Nam Việt Nam ”, tạp chí NCLS, (369), tr. 10-19.
48.   Trần Thục Nga chủ biên (1987), Lịch sử Việt Nam 1945-1975, Nxb Giáo dục, Hà Nội .
49.   Nguyễn Tấn Phát chủ biên (2004), Giáo dục cách mạng ở miền Nam giai đoạn 1954-1975, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
50.   PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc chủ biên (2003 ), Tìm hiểu lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam  qua các đại hội và hội nghị trung ương ( 1930-2002),  Nhà xuất bản Lao Động,  Hà Nội .
51.   Nxb Sự Thật (1961), Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Hà Nội.
52.   Nxb Sự Thật (1962 ), Đại hội Mặt trận DTGPMNVN lần thứ nhất , Hà Nội.
53.   Nxb Sự Thật (1963), Những văn kiện chủ yếu của Mặt trận DTGPMNVN  ( Từ sau Đại hội lần I của Mặt trận đến tháng 10-1962 ), Hà Nội.
54.   Nxb Sự Thật (1966), Những văn kiện chủ yếu của Mặt trận DTGPMNVN ( Từ tháng 11 -1964 đến tháng 12-1965 ), Hà Nội .
55.   Nxb Sự Thật ( 1966), Năm năm chiến đấu anh dũng, thắng lợi vẻ vang của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Hà Nội .
56.   Nxb Sự Thật (1967), Những văn kiện chủ yếu của Mặt trận DTGPMNVN ( Từ tháng 1 - 1967 đến tháng 12- 1967 ), Hà Nội  .
57.   Nxb Sự Thật (1967), Cương lĩnh chính trị của Mặt trận DTGPMNN, Hà Nội .
58.   Nxb Sự Thật (1985),Văn kiện Đảng về Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, tập II,  ( 1945 – 1977 ), Hà Nội.
59.   Nxb Quân đội nhân dân (1967), Năm 1966, Quân và dân miền Nam thắng lớn Mỹ  nguỵ thua to, Hà Nội.
60.   Nxb Chính trị quốc gia (2003), Huỳnh Tấn Phát cuộc đời và sự nghiệp, Hà Nội.
61.   Hồ Sĩ Thành-Trần Thị Nhung (2005), Bộ tư lệnh Miền, Nxb Trẻ,TP.HCM.
62.   Nguyễn Hữu Thọ (1964 ), Báo cáo chính trị tại Đại hội Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ hai, Nxb Sự thật, Hà Nội.
63.   Nguyễn Hữu Thọ (2005),”Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam -Mấy bài học lớn”, Việt Nam trên con đường lớn bản hùng ca thế kỷ XX, Nxb Lao Động, Hà Nội .
64.   Mai Chí Thọ ( 2005),”Chiến thắng Tua Hai phát pháo hiệu của Đồng khởi Nam bộ”, Chiến thắng Tua Hai hiệu lệnh của phong trào Đồng khởi, Thông tin tư liệu, Thư viện Khoa học tổng hợp Tây Ninh.
65.   Trương Thị Thu chủ biên (2006), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66.   TS.Nguyễn Công Thục (2006), Phong trào đấu tranh chống phá ấp chiến lược, Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội .
67.   TS.Hoàng Trang (2005), Toàn dân đoàn kết chống Mỹ, cứu nước dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh ( 1954-1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
68.    Trần Văn Trà (2005), Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội .
69.   TS. Nguyễn Xuân Tú (2003), Đảng chỉ đạo giành thắng lợi từng bước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thời kỳ 1965-1975, Nxb Lao Động, Hà Nội .
70.   Phạm Thành Vinh (1963), Các văn tự bán nước của Ngô Đình Diệm hay là các hiệp nghị xâm lược và bất bình đẳng của đế quốc Mỹ về Việt Nam, Nxb Khoa học, Hà Nội .
71.   Nguyễn Hữu Xuyến ( 2005),”Đánh giá đúng tầm vóc của chiến thắng Tua Hai và phong trào Đồng khởi vũ trang sau Tua Hai”, Chiến thắng Tua Hai hiệu lệnh của phong trào Đồng khởi, Thông tin tư liệu, Thư viện Khoa học tổng hợp Tây Ninh.
72.   Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc TP.HCM (2006), Lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Sài Gòn- Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Tổng hợp TP.HCM.
73.   Ủy ban Trung ương Mặt trận DTGPMNVN (1965), Mặt trận Dân tộc Giải phóng là người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam , Nxb Sự Thật , Hà Nội .
74.   Viện lịch sử Đảng ( 1998 ), Những sự kiện hoạt động của Trung ương cục miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1961- 1975), Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội .
75.   Viện Lịch sử quân sự (1995), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954- 1975 ),Tập II, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
76.   Viện Lịch sử quân sự (1997), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954- 1975 ),Tập III, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
77.   Viện Lịch sử quân sự (1999), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954- 1975 ),Tập IV, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
78.   Việt Nam Thông tấn xã ( 1971), Tài liệu mật Bộ quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh Việt Nam, Tập 1, Hà Nội.
hïg


PHỤ LỤC

PHỤ LỤC I

DANH SÁCH UỶ BAN TRUNG ƯƠNG
MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM  [18].

I.ĐOÀN CHỦ TỊCH :

1.Chủ tịch : Luật sư Nguyễn Hữu Thọ
2.Phó chủ tịch :
- Kts. Huỳnh Tấn Phát, Tổng thư ký Đảng Dân chủ miền Nam Việt Nam, Chủ tịch uỷ ban Mặt trận Dân tộc giải phóng khu Sài Gòn - Gia Định.
- Bác sĩ Phùng Văn Cung
- Ông Võ Chí Công, đại diện Đảng nhân dân cách mạng Việt Nam .
- Ông Y Bih Alêô, dân tộc Ê đê, Chủ tịch ủy ban phong trào tự trị các dân tộc Tây Nguyên.
- Đại đức Thôm Mê Thê Nhem, dân tộc Khmer.
- Ông Trần Nam Trung, đại diện các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam .
      3.Uỷ viên:
  - Ông Phan Xuân Thái ( tức Phan Văn Đáng ), Chủ tịch Liên hiệp công đoàn giải phóng miền Nam Việt Nam .
  - Ông Nguyễn Hữu Thế, Chủ tịch Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam .
  - Ông Trần Bạch Đằng, Chủ tịch Hội Liên hiệp thanh niên giải phóng miền Nam Việt Nam .
  - Bà Nguyễn Thị Định, Hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam .
  - Ông Trần Bửu Kiếm, Chủ tịch Hội Liên hiệp sinh viên giải phóng miền Nam Việt Nam .
  - Hoà thượng Thích Thiện Hào, đại diện những người Phật giáo yêu nước miền Nam Việt Nam .
  - Ngọc đầu sư Nguyễn Văn Ngợi , đại diện những người Cao Đài yêu nước miền Nam Việt Nam .
  - Ông Đặng Trần Thi ( tức Bùi San ), Phó chủ tịch Liên hiệp công đoàn giải phóng miền Nam Việt Nam .

II.BAN THƯ KÍ

1.Tổng thư ký : Kts. Hỳnh Tấn Phát về sau là Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu
2.Phó Tổng thư ký:
      - Giáo sư Lê văn Huấn, Chủ tịch Hội nhà giáo yêu nước miền Nam Việt Nam.
  - Dược sĩ  Hồ Thu
        3.Ủy  viên:
  - Ông Ung Ngọc Ký, Phó tổng thư ký Đảng dân chủ miền Nam Việt Nam
  - Ông Hồ Xuân Sơn ( tức Hồ Văn Lộc ), nhà báo.

III.ỦY VIÊN:

1.          Thầy giảng Joseph Mari Hồ Bá Huệ, đại diện những người Công giáo kính Chúa yêu nước miền Nam Việt Nam .
2.          Bà Nguyễn Thị Bình tự Yến Sa, Phó hội trưởng hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam .
3.          Ông Rơ Chôm Briu, dân tộc Giarai, Phó chủ tịch Uỷ ban  Phong trào tự trị các dân tộc Tây Nguyên.
4.          Ông Lê Quang Chánh, đại diện Mặt trận DTGP tại Cộng hoà Indonesia.
5.          Dược sĩ Mã Thị Chu.
6.          Ông Huỳnh Cương , trí thức Khmer.
7.          Nữ bác sĩ Nguyễn Thuỳ Dương tức Dương Quỳnh Hoa.
8.          Giáo sư Nguyễn văn Hiếu, Tổng thư ký Đảng Xã hội cấp tiến miền Nam Việt Nam .
9.          Kỹ sư Lâm Kiết Chánh tức Trần văn Được, đại diện Việt kiều yêu nước ở Campuchia.
10.     Trung tá Võ Văn Môn , nhân sĩ Bình Xuyên.
11.     Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ.
12.     Ông Võ Oanh, nhà báo , nhân sĩ.
13.     Linh mục Chu Phát, tức linh mục Nguyễn Trinh Đoàn .
14.     Bà Lê Thị Riêng, Phó hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ GPMNVN.
15.     Ông Sắt, dân tộc Bana, Phó Chủ tịch Uỷ ban Phong trào tự trị các dân tộc Tây Nguyên.
16.     Ông Hoàng Bích Sơn, đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng tại Cuba.
17.     Ông Như Sơn tức Michel Văn Vỹ, nhân sĩ Sài Gòn.
18.     Ông Huỳnh văn Tâm, đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng ở Algéria.
19.     Kỹ sư Lê Văn Thả.
20.     Ông Nguyễn Thạch tức Đinh Xáng, nhà kinh doanh công nghiệp Sài Gòn.
21.     Ông Trần Văn Thành, đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng tại Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
22.     Ông Lê Văn Thịnh tức Lê Toàn Thư, đại diện Mặt trận DTGP tại Cuba.
23.     Giáo sư  Nguyễn Ngọc Thưởng, Phó tổng thư ký Đảng xã hội cấp tiến miền Nam Việt Nam .
24.     Ông Nguyễn Văn Tiến, Trưởng phái đoàn thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng tại thủ đô Hà Nội, sau là Trưởng phái đoàn đại diện đặc biệt Cộng hoà miền Nam Việt Nam tại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
25.     Nhà soạn kịch Trần Hữu Trang, Chủ tịch hội văn nghệ giải phóng miền Nam Việt Nam .
26.     Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước .
27.     Ông Vũ Tùng, Chủ tịch hội nhà báo yêu nước và dân chủ miền Nam Việt Nam
28.     Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tứ tức Nguyễn Hữu Ba ( Huế ).
29.     Hoà thượng Thích Hưng Từ tự Hồng Liêm.
30.     Ông Huỳnh Thiện Từ, đại diện những người yêu nước trong Phật giáo Hoà Hảo.
ïœ


PHỤ LỤC II

ĐOÀN ĐẠI BIỂU
MẶT TRẬN DTGPMNVN TẠI HỘI NGHỊ PARI
ĐOÀN TRÙ BỊ  [5]
( Từ ngày 4-11 đến ngày 16-12-1068)

1.      Nguyễn Thị Bình : trưởng đoàn
2.      Trần Văn Tư : đoàn viên
3.      Dương Đình Thảo : đoàn viên, người phát ngôn.
4.      Phạm Thanh Vân (Nguyễn Bình Thanh): thư ký trưởng đoàn, phiên dịch

hïg


PHỤ LỤC III .       

MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT  NAM
TẠI HỘI NGHỊ PARI  [5]
( Từ 16/12/1968 đến 6/6/1969 )
1.Trưởng đoàn :  Trần Bửu Kiếm
2.Phó trưởng đoàn :
                          - Nguyễn Thị Bình
                          - Trần Hoài Nam
3.Uỷ viên :
                          - Nguyễn Văn Tiến
                          - Đinh Bá Thi
                          - Đỗ Duy Liên
                          - Trần Văn Tư
4.Cố vấn phát ngôn:
                          - Dương Đình Thảo
                          - Lý Văn Sáu
     5.Chuyên viên:
                     - Nguyễn Ngọc Dung
                     - Phạm Thanh Vân
                     - Phan Nhẫn
                     - Đặng Ninh Đăng ( Hà Đăng ).

ŸŸŸŸŸŸŸŸÿŸŸŸŸŸŸŸŸ



PHỤ LỤC IV

CHƯƠNG TRÌNH CỦA MẶT TRẬN DTGPMNVN [ 18].

ïœ
Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, dân tộc Việt Nam ta đã chiến đấu không ngừng cho độc lập và tự do của Tổ quốc. Năm 1945, đồng bào cả nước đã đứng lên đánh đổ Nhật-Pháp giành chính quyền và đã anh dũng kháng chiến 9 năm , đánh bại xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ, đưa cuộc kháng chiến oanh liệt của dân tộc ta đến thắng lợi vẻ vang.
Tại hội nghị Giơnevơ tháng 7-1954, đế quốc Pháp buộc phải cam kết rút quân khỏi Việt Nam và các nước tham dự hội nghị đều trịnh trọng tuyên bố công nhận chủ quyền, độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam .
Đáng lẽ từ đó, chúng ta được an hưởng thái bình cùng với đồng bào toàn quốc xây dựng một nước Việt Nam độc lập dân chủ thống nhất và giàu mạnh .
Nhưng, đế quốc Mỹ trước đây đã tiếp sức cho thực dân Pháp tàn sát đồng bào ta, nay lại âm mưu chia cắt lâu dài nước ta, nô dịch miền Nam nước ta với một chế độ thuộc địa trá hình, biến miền Nam thành căn cứ quân sự, chuẩn bị chiến tranh xâm lược Đông Nam Á. Chúng lại đưa  bọn Ngô Đình Diệm, tay sai của chúng, lên nắm chính quyền với chiêu bài quốc gia độc lập giả hiệu, dùng chính sách “viện trợ” và bộ máy “cố vấn ” để nắm tất cả các ngành quân sự, kinh tế, chính trị và văn hoá miền Nam .
Bọn cướp nước và bán nước lập lên một chế độ thống trị độc tài tàn ác nhất chưa từng có trong lịch sử nước ta. Chúng đàn áp khủng bố mọi phong trào dân chủ và yêu nước, thủ tiêu hết các quyền tự do của con người. Chúng nắm các độc quyền kinh tế, bóp nghẹt các ngành công nông thương nghiệp, bóc lột đến cùng kiệt mọi tầng lớp đồng bào. Chúng dùng  đủ mọi thủ đoạn đầu độc, ngu dân, truỵ lạc hoá để hòng tiêu diệt tinh thần dân tộc của đồng bào ta. Chúng ráo riết tăng cường binh bị, xây dựng căn cứ quân sự, dùng quân đội làm công cụ đàn áp nhân dân, và chuẩn bị chiến tranh theo chính sách của đế quốc Mỹ .
Hơn sáu năm qua, chế độ độc tài, tàn bạo của Mỹ- Diệm  đã gây ra biết bao tội ác: ở khắp miền Nam, tiếng súng khủng bố không lúc nào dứt, hàng chục ngàn đồng bào yêu nước bị chặt đầu, mổ bụng, moi gan, bắn giết, hàng trăm ngàn đồng bào bị tra tấn tù đầy, và chết mòn trong các trại giam; biết bao người bị đốt nhà, đuổi nhà, cướp đất, bị bắt đi phu, đi lính;  biết bao gia đình khốn đốn và tan nát vì chính sách tập trung dân vào các “khu trù mật”, các “dinh điền ”, nạn sưu cao thuế nặng, nạn ruồng bố bắt bớ, cướp bóc, vơ vét, tống tiền, nạn thất nghiệp nghèo đói lan tràn, đang uy hiếp nghiêm trọng đời sống của tất cả các tầng lớp nhân dân .
Phải HOÀ BÌNH!  Phải ĐỘC LẬP !  Phải DÂN CHỦ !  Phải CƠM NO ÁO ẤM !  Phải HOÀ BÌNH THỐNG NHẤT TỔ QUỐC!
Đó là nguyện vọng thiết tha cấp bách nhất của chúng ta. Nguyện vọng đó đã trở thành ý chí sắt đá, sức mạnh phi thường thúc đẩy đồng bào ta, phải đoàn kết lại, phải kiên quyết đứng lên đấu tranh đánh đổ ách thống trị tàn bạo của đế quốc Mỹ và bọn tay sai để cứu nước cứu nhà.
Vì quyền lợi tối cao của Tổ quốc, quyết phấn đấu đến cùng cho những nguyện vọng chính đáng của nhân dân, thuận theo trào lưu tiến bộ của thế giới. MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG  MIỀN NAM VIỆT NAM ra đời. MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG  MIỀN NAM VIỆT NAM chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước ở miền Nam Việt Nam  không phân biệt xu hướng chính trị để đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn tay sai của Mỹ ở miền Nam  Việt Nam, thực hiện: ĐỘC LẬP, DÂN CHỦ, CẢI THIỆN DÂN SINH, HOÀ BÌNH, TRUNG LẬP Ở MIỀN NAM, TIẾN TỚI HOÀ BÌNH THỐNG NHẤT TỔ QUỐC.
Chương trình của Mặt trận Dân tộc Giải phóng  miền Nam Việt Nam gồm 10 điểm sau đây:
I.   Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình  của đế quốc Mỹ  và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh dân tộc, dân chủ.
Chế độ ở miền Nam hiện nay là một chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ. Chính quyền miền Nam là chính quyền tay sai, thực hiện mọi đường lối chính sách của Mỹ. Phải đánh đuổi chế độ đó và chính quyền đó, thành lập chính quyền liên minh dân tộc dân chủ rộng rãi, gồm đại biểu các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các đảng phái, các tôn giáo và những nhân sĩ yêu nước, giành lại các quyền lợi kinh tế, chính trị xã hội, văn hoá của nhân dân, thực hiện độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà bình trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc.
II.Thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi và tiến bộ
1.Bãi bỏ hiến pháp hiện hành của chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của Mỹ. Tiến hành bầu cử Quốc hội mới bằng phổ thông đầu phiếu.
2.Ban bố quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do nghiệp đoàn, tư do đi lại, tự do tín ngưỡng và các quyền tự do dân chủ khác. Nhà nước không có sự phân biệt đối xử với các tôn giáo. Các đảng phái, các đoàn thể yêu nước không phân biệt xu hướng chính trị đều được tự do hoạt động.
3.Toàn xá chính trị phạm, giải tán các trại tập trung dưới mọi hình thức. Bãi bỏ luật phát xít 10/59 và các luật phản dân chủ khác. Mọi người vì chế độ Mỹ -Diệm mà phải chạy ra  nước ngoài đều được tự do trở về nước.
4.Nghiêm cấm mọi sự bắt bớ giam cầm trái phép, tra tấn nhục hình. Trừng trị bọn gian ác tàn sát nhân dân mà không chịu hối cải.
III.Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ thực hiện cải thiện dân sinh
1.Bãi bỏ độc quyền kinh tế của đế quốc Mỹ và của bọn tay sai. Xây dựng một nền kinh tế và tài chánh độc lập, tự chủ, lợi cho quốc kế dân sinh. Tịch thâu tài sản của đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị tay sai của Mỹ làm tài sản quốc gia.
2.Giúp đỡ công thương gia khôi phục và khuếch trương công nghệ và tiểu công nghệ, khuyến khích phát triển kỹ nghệ. Tích cực bảo vệ hàng nội hoá bằng cách bãi bỏ thuế sản xuất, hạn chế hoặc đình chỉ nhập cảng hàng  hoá trong nước sản xuất được, giảm thuế nhập cảng nguyên liệu, máy móc.
3.Chấn hưng nông nghiệp, canh tân nghề trồng tỉa, nghề cá và chăn nuôi. Giúp đỡ cho nông dân khai hoang và phát triển sản xuất, bảo vệ mùa màng, đảm bảo tiêu thụ nông sản.
4.Khuyến khích và đẩy mạnh việc giao lưu kinh tế giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, phát triển buôn bán với nước ngoài không phân biệt chế độ chính trị, theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
5.   Thi hành chính sách thuế công bằng và hợp lý. Bãi bỏ phạt vạ vô lý.
6.Ban hành luật lao động: cấm sa thải, cúp phạt, đánh đập thầy thợ, cải thiện đời sống cho công nhân và viên chức. Quy định tiền lương và điều kiện bảo đảm sức khoẽ cho thiếu niên học nghề.
7.Tổ chức cứu tế xã hội:
  - Giải quyết công ăn việc làm cho những người thất nghiệp.
  -  Bảo trợ trẻ mồ côi, người già yếu, tàn tật.
  - Giúp đở những nơi mất mùa, những nơi hoả hoạn, thiên tai.
8.Giúp đở cho đồng bào di cư muốn về xứ sở, giải quyết công ăn việc làm cho những người muốn ở lại.
9.Nghiêm cấm việc đuổi nhà, đốt nhà, cướp đất, dồn dân. Bảo đảm cho đồng bào ở nông thôn và các giới cần lao ở thành thị được yên ổn làm ăn.
IV.Thực hiện giảm tô, tiến tới giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân làm cho người cày có ruộng
1.Thực hiện giảm tô. Đảm bảo nguyên canh. Đảm bảo quyền sở hữu đất khai hoang cho người có công khai phá. Bảo đảm quyền sở hữu chính đáng về ruộng đất đã được chia của nông dân.
2.Bãi bỏ các “khu trù mật”, chế độ bắt dân đi “dinh điền”. Đồng bào đã bị cưỡng bức vào “khu trù mật” và “dinh điền” được tự do trở về sinh sống, làm ăn trên ruộng vườn của mình.
3.Tịch thâu ruộng đất của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai để chia cho dân cày nghèo không có ruộng hoặc thiếu ruộng. Chia lại công điền cho công bình hợp lý.
4.Bằng thương lựơng và giá cả công bằng hợp lý. Nhà nước mua lại ruộng đất của điền chủ có từ mức độ nào trở lên tuỳ tình hình ruộng đất của mỗi địa phương đem chia cho nông dân không đất hoặc thiếu đất. Nông dân được chia ruộng đất không phải trả tiền và không bị ràng buộc bởi một điều kiện nào.
V.Xây dựng một nền văn hoá và giáo dục dân tộc, dân chủ
1. Bài trừ văn hoá và giáo dục nô dịch, cao bồi theo kiểu Mỹ; xây dựng một nền văn hoá giáo dục dân tộc, tiến bộ, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
2. Xoá bỏ nạn mù chữ. Lập thêm các trường phổ thông, đảm bảo cho thanh niên và thiếu niên có đủ trường học. Mở mang các trường đại học và chuyên nghiệp, các trường dạy nghề. Thực hiện chế độ dạy bằng tiếng Việt trong các trường học. Giảm học phí cho học sinh và sinh viên; miễn học phí cho học sinh và sinh viên nghèo; cải cách chế độ thi cử.
3. Phát triển khoa học, kỹ thuật và văn học, nghệ thuật dân tộc; khuyến khích và giúp đỡ trí thức, văn nghệ sĩ có đủ điều kiện phát triển tài năng để phục vụ công cuộc xây dựng nước nhà.
4. Phát triển y tế để chăm nom sức khõe cho nhân dân. Phát triển phong trào thể dục thể thao.
VI.Xây dựng một quân đội dân tộc bảo vệ Tổ quốc , bảo vệ nhân dân
1.Xây dựng một quân đội dân tộc bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân. Bãi bỏ chế độ cố vấn quân sự Mỹ.
2.Bãi bỏ chế độ bắt lính. Cải thiện đời sống vật chất, bảo đảm quyền lợi chính trị cho binh lính. Bãi bỏ chế độ ngược đãi đánh đập đối với binh lính. Có chính sách chiếu cố gia đình quân nhân nghèo.
3.Khen thưởng và trọng dụng các sĩ quan và binh lính có công trong cuộc đấu tranh chống ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn tay sai của Mỹ. Khoan hồng đối với những người trước đã đi theo Mỹ- Diệm gây tội ác với nhân dân nhưng nay hối cải, phục vụ nhân dân.
4.Xoá bỏ các căn cứ quân sự của nước ngoài ở Việt Nam .
VII.Thực hiện dân tộc bình đẳng, nam nữ bình quyền, bảo hộ quyền lợi chính đáng của ngoại kiều và kiều bào
1.Thực hiện quyền dân tộc tự trị:
  Thành lập các khu tự trị ở các vùng dân tộc thiểu số trong đại gia đình dân tộc Việt Nam .
  Bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Các dân tộc đều có quyền tự do dùng và phát triển tiếng nói, chữ viết của mình, tự do giữ gìn hoặc thay đổi phong tục tập quán của mình. Bãi bỏ chính sách ngược đãi, cưởng bức đồng hoá của Mỹ - Diệm hiện nay.
  Giúp đỡ các dân tộc thiểu số tiến kịp trình độ chung bằng cách phát triển kinh tế, văn hoá ở các vùng dân tộc thiểu số, đào tạo nhân tài người dân tộc thiểu số.
        2.Thực hiện nam nữ bình đẳng. Phụ nữ được hưởng quyền lợi như nam giới về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
3. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của ngoại kiều sinh sống ở Việt Nam .
4. Bảo vệ và chăm sóc kiều bào ở hải ngoại.
VIII.Thực hiện chính sách ngoại giao hoà bình trung lập
1.   Xoá bỏ mọi hiệp ước bất bình đẳng xâm phạm đến chủ quyền của dân tộc do tập đoàn tay sai của Mỹ ký với nước ngoài.
2.   Đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị; theo những nguyên tắc chung sống hoà bình của hội nghị Băng-đung.
3.   Đoàn kết chặt chẽ với các nước yêu chuộng hoà bình và các nước trung lập. Mở rộng quan hệ hữu hảo với các nước Đông Nam Á, đặc biệt đối với các nước láng giềng Campuchia và Lào.
4.   Không tham gia khối liên minh quân sự nào, không liên minh quân sự với nước nào.
5.   Nhận viện trợ kinh tế của bất kỳ nước nào sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam không có điều kiện ràng buộc.
IX.Lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc
Yêu cầu bức thiết của đồng bào trên toàn quốc là phải hoà bình thống nhất Tổ quốc. Mặt trận Dân tộc Giải phóng  miền Nam chủ trương thống nhất nước nhà từng bước bằng phương pháp hoà bình, trên nguyên tắc hai miền cùng nhau thương lượng, cùng nhau bàn bạc mọi hình thức và biện pháp có lợi cho dân tộc, cho Tổ quốc Việt Nam .
Trong khi nước nhà chưa thống nhất, chính phủ hai miền cùng nhau thương lượng cam kết không tuyên truyền chia rẽ dân tộc, không tuyên truyền chiến tranh, không dùng binh lực đối với nhau. Thực hiện trao đổi kinh tế văn hoá giữa hai miền. Cho nhân dân hai miền được tự do đi lại buôn bán, thăm viếng, tự do gửi thư từ cho nhau.
          X.Chống chiến tranh xâm lược, bảo vệ hoà bình thế giới .
1. Chống chiến tranh xâm lược và tất cả các hình thức nô dịch của đế quốc. Ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước.
2. Chống tuyên truyền chiến tranh. Đòi tổng giải trừ quân bị, cấm vũ khí hạt nhân, sử dụng năng lực nguyên tử vào mục đích hoà bình.
3. Ủng hộ các phong trào đấu tranh cho hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới.
Hỡi toàn thể đồng bào!
Hỡi tất cả những người yêu nước!
Dân tộc ta đã tranh đấu gần một trăm năm và kháng chiến 9 năm, đã hy sinh biết bao xương máu, quyết không thể trở lại cuộc đời nô lệ !
Vì hoà bình, độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc, vì vận mạng của dân tộc, vì đời sống của chúng ta, vì tương lai của ta và con cháu ta .
TẤT CẢ HÃY ĐỨNG LÊN !
TẤT CẢ HÃY ĐOÀN KẾT LẠI !
Hãy xiết chặt hàng ngũ, tiến lên chiến đấu dưới ngọn cờ của MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM để đánh đổ ách thống trị tàn ác của đế quốc Mỹ và tay sai  Ngô Đình Diệm để cứu nước, cứu nhà.
Chúng ta nhất định thắng, vì lực lượng đoàn kết của nhân dân ta là lực lượng vô địch, vì chính nghĩa thuộc về chúng ta, vì chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời ngày nay đang tan rã và đi tới diệt vong. Trên thế giới, phong trào hoà bình dân chủ, độc lập dân tộc đang phát triển rộng rãi, mạnh mẽ và ngày càng thu được nhiều thắng lợi mới. Tình hình đó hết sức thuận lợi cho sự nghiệp cứu nước cứu nhà của chúng ta.
Đế quốc Mỹ và tay sai của Mỹ nhất định sẽ thất bại!
Sự nghiệp giải phóng dân tộc ở miền Nam Việt Nam nhất định sẽ thành công!
Hãy đoàn kết, tin tưởng và phấn đấu anh dũng ! Tiến lên giành lấy thắng lợi huy hoàng cho dân tộc ta, cho Tổ quốc ta.
MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG  MIỀN NAM VIỆT NAM
                          20-12-1960
                                                                               ThS. Đoàn Luyến

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét