Thứ Năm, 16 tháng 8, 2012

Quảng Trị - Thừa Thiên năm 1972

Quảng Trị - Thừa Thiên năm 1972

Thiếu tướng Lê Mã Lương

Kỳ 1: Chiến dịch tổng lực
Quảng Trị - Thừa Thiên là chiến trường được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương lựa chọn làm hướng chủ yếu trong cuộc tiến công chiến lược của ta năm 1972. Chiến dịch diễn ra trong bối cảnh lịch sử đặc biệt khi hội nghị Pa-ri đang đi tới giai đoạn quyết định cho một giải pháp chính trị. Vì vậy, chiến dịch tiến công này đã trở thành cuộc đọ sức quyết liệt nhất giữa ta và đối phương. Hai bên đều tập trung lực lượng tinh nhuệ nhất để giành chiến thắng lớn nhất nhằm làm chuyển biến cục diện chiến tranh có lợi cho mình. Trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ chưa bao giờ đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị - ngoại giao lại kết hợp chặt chẽ đến như vậy. Mọi hoạt động tác chiến trên các chiến trường, đặc biệt là ở Trị - Thiên luôn chịu sự chi phối trực tiếp, toàn diện về chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị, Thường vụ Quân ủy Trung ương.

QĐND - Từ giữa năm 1971 đến đầu năm 1972, sau những thất bại chiến lược liên tiếp, Mỹ cố gắng giữ cho cục diện chiến trường Đông Dương không rơi vào thế bi đát. Do đó, Mỹ tiếp tục thực hiện mục tiêu chiến lược đã xác định: Thúc đẩy “Việt Nam hóa chiến tranh”, rút dần số quân Mỹ còn lại ở Miền Nam nhằm tạo thế trong cuộc đàm phán với ta ở Pa-ri và xoa dịu các phong trào đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam ngay trong lòng nước Mỹ, từ đó mở ra cơ hội cho Ních-xơn tái cử tổng thống vào cuối năm 1972.
Bản đồ quyết tân.
Về phía ta, thực hiện quyết tâm “đánh bại về cơ bản chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh và mọi âm mưu của địch”, tháng 7-1971, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định mở cuộc tiến công chiến lược quy mô lớn trên toàn miền Nam, cả ở vùng rừng núi, vùng nông thôn đồng bằng, nhất là địa bàn đông dân. Cuộc tiến công này được dự định thực hiện trên 3 hướng: Miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Quảng Trị - Thừa Thiên, lấy miền Đông Nam Bộ làm hướng chủ yếu, Trị - Thiên là hướng thứ yếu quan trọng. Mục đích được đặt ra là: Tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân sự của địch, giải phóng những vùng đất đai rộng lớn, làm thay đổi so sánh lực lượng địch, ta; thay đổi cục diện chiến trường có lợi cho ta, buộc địch chấp nhận giải pháp chính trị có lợi cho ta. Đầu năm 1972, căn cứ vào kết quả chuẩn bị và tình hình địch - ta, Quân ủy Trung ương quyết định chọn Trị - Thiên làm hướng tiến công chiến lược chủ yếu. Quyết tâm đó được Bộ Chính trị thông qua ngày 23-3-1972. Đồng thời, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương phê chuẩn Bộ tư lệnh chiến dịch gồm: Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó tổng Tham mưu trưởng, Tư lệnh chiến dịch; Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Chính ủy; các Phó tư lệnh: Cao Văn Khánh, Giáp Văn Cương, Doãn Tuế, Phạm Hồng Sơn, Lương Nhân, Nguyễn Anh Đệ và các Phó chính ủy: Hoàng Minh Thi, Lê Tự Đồng. Đảng ủy chiến dịch do Lê Quang Đạo làm Bí thư; tham gia Đảng ủy còn có Bí thư tỉnh ủy Quảng Trị Hồ Sỹ Thản; Thượng tướng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng là đại diện Quân ủy Trung ương ở hướng chiến lược này[2].
Bộ Chính trị, Thường vụ Quân ủy Trung ương xác định 4 nhiệm vụ của chiến dịch tiến công Trị - Thiên là:
1. Tiêu diệt phần lớn lực lượng quân sự địch ở Trị - Thiên, cơ bản tiêu diệt được 2 sư đoàn và đánh thiệt hại nặng 1 sư đoàn khác.
2. Phối hợp tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng ở nông thôn đồng bằng, đẩy mạnh phong trào đô thị và công tác binh vận, tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng bảo an, dân vệ, phòng vệ dân sự, đánh bại kế hoạch bình định của địch.
3. Giải phóng phần lớn địa bàn Trị - Thiên, có điều kiện thì kiên quyết giải phóng toàn bộ hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên.
4. Tiêu diệt, phân tán, giam chân, thu hút lực lượng địch, phối hợp với các chiến trường khác toàn miền Nam, góp phần giành thắng lợi chung của cuộc tiến công chiến lược năm 1972.
Phương châm chỉ đạo tác chiến của Quân ủy Trung ương là phải nắm thật chắc vấn đề đánh tiêu diệt, không cho địch co cụm lớn, phối hợp chặt chẽ giữa các hướng, kết hợp tốt giữa đòn tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng và binh vận.
Đầu năm 1972, Mỹ - ngụy phán đoán ta có thể dùng 4 đến 5 sư đoàn bộ binh và một số binh chủng mở một đợt tiến công ở Trị - Thiên nhằm giam chân, thu hút lực lượng quân ngụy, tạo điều kiện cho các hướng khác hoạt động. Mỹ - ngụy cho rằng, hướng tiến công chiến lược chủ yếu của ta là Tây Nguyên. Từ phán đoán ấy, chủ trương chiến lược của ngụy ở Trị - Thiên là:
1. Dùng lực lượng tại chỗ có sự chi viện của không quân, hải quân Mỹ để tổ chức bố phòng và ngăn chặn cuộc tiến công của ta là chủ yếu.
2. Đánh phá các khu vực nghi là các căn cứ, các vùng tập trung quân của ta; đánh phá đường vận chuyển tiếp tế, các kho tàng của ta bên ngoài tuyến phòng thủ. Ở tuyến trong, quân ngụy củng cố các ấp xã để ngăn chặn các hoạt động của đặc công và triệt phá các cơ sở của ta. Trường hợp có nguy cơ bị tiêu diệt thì tạm thời co về cố thủ tỉnh Thừa Thiên - Huế, sau đó dùng hỏa lực mạnh và bộ binh phản kích đánh chiếm lại.
Nhân dân làng Cùa - Quảng Trị nổi dậy phá ấp chiến lược, tháng 4 -1972.
Lực lượng phòng thủ của quân ngụy ở Trị - Thiên có 2 sư đoàn bộ binh, trong đó có sư đoàn bộ binh số 3 do Thiếu tướng Vũ Văn Giai làm Tư lệnh đứng chân tại thị xã Quảng Trị (8 trung đoàn bộ binh với 27 tiểu đoàn), 4 tiểu đoàn và 94 đại đội bảo an, 5.100 cảnh sát, cùng 13 tiểu đoàn và 4 đại đội pháo binh (258 khẩu), 3 thiết đoàn (184 xe tăng, thiết giáp). Hệ thống phòng ngự của ngụy quân hình thành 3 tuyến theo chiều sâu. Tuyến ngoài từ Nam sông Bến Hải (vùng giáp ranh Biển Đông) tới Lao Bảo, có nhiệm vụ phát hiện, ngăn chặn, phá chuẩn bị của ta từ xa với lực lượng tham gia chủ yếu là không quân, pháo binh, biệt kích. Khi cần thiết ngụy quân dùng một bộ phận chủ lực tổ chức các cuộc hành quân càn quét. Tuyến phòng ngự cơ bản (trung tâm) với các điểm cao 367, Động Ông Gio, 52, 365, 548, 597, 241, các căn cứ Dốc Miếu, Quán Ngang, Cửa Việt có nhiệm vụ ngăn chặn cuộc tiến công của ta và bảo vệ thị xã Đông Hà, thị xã Quảng Trị, các căn cứ, đường số 1, đường số 9. Ở tuyến phòng ngự cơ bản, ngụy quân tổ chức thành từng khu phòng ngự cấp trung đoàn, có các khu then chốt, các cụm điểm tựa cấp tiểu đoàn, liên kết chặt chẽ với nhau và có lực lượng dự bị tùy theo từng cấp. Tuyến phía sau gồm chủ yếu thị trấn, thị tứ, khu đông dân cư với các hậu cứ Ái Tử vào tới Huế, do một bộ phận chủ lực và lực lượng bảo an, dân vệ trấn giữ.
Về phía ta, nhân dân Trị - Thiên vốn giàu lòng yêu nước, có cảm tình với cách mạng, tuy nhiên có đến 80 đến 90% gia đình có quan hệ với ngụy quân, ngụy quyền. Sau chiến thắng Đường 9 - Nam Lào năm 1971, cơ sở chính trị và phong trào quần chúng có nơi được xây dựng lại nhưng nhìn chung còn yếu. Nông thôn đồng bằng chưa có thôn, xã nào được giải phóng. Cơ sở Đảng ít, quần chúng chưa được chuẩn bị đầy đủ để sẵn sàng nổi dậy.
Lực lượng bộ đội chủ lực sử dụng trong chiến dịch này trên hướng Quảng Trị có 3 sư đoàn bộ binh cơ động: 304, 308, 324[3] (thiếu Trung đoàn 3); 2 trung đoàn độc lập: 48, 27; 4 tiểu đoàn độc lập: 2, 3, 15, 47; tổng số: 34 tiểu đoàn; đặc công: 6 tiểu đoàn; pháo binh: 6 trung đoàn pháo xe kéo; 1 trung đoàn mang vác; tổng số: 390 khẩu pháo các cỡ 130mm, 122mm, 100mm và 85mm, với các cỡ 120mm, 160mm, 2 đại đội B72 (tên lửa diệt xe tăng); cao xạ có sư 367, 2 trung đoàn tên lửa 275, 236; thiết giáp có Trung đoàn Xe tăng 203 với 78 xe tăng, thiết giáp; Công binh: 2 trung đoàn công binh công trình (219, 229); Hóa học: 4 đại đội; Thông tin: 5 tiểu đoàn; Hải quân: Đoàn 126.
Trên hướng Thừa Thiên có trung đoàn bộ binh 3 và trung đoàn độc lập 6; Đặc công 3 tiểu đoàn (3, 7, 12); Pháo binh: Tiểu đoàn pháo 130mm, 1 tiểu đoàn súng cối 120mm, 1 đại đội B72; Cao xạ: 1 tiểu đoàn cao xạ 37mm, 4 tiểu đoàn súng máy cao xạ 14,5mm; Công binh: Trung đoàn Công binh 414 và 2 tiểu đoàn Công binh độc lập; Thiết giáp: 1 tiểu đoàn; Thông tin: 1 tiểu đoàn; Vận tải: 1 tiểu đoàn ô tô với 38 xe.
Quyết tâm của Bộ tư lệnh chiến dịch: Trong khoảng thời gian từ 20 đến 25 ngày, tiến công tiêu diệt cho được từ 4 đến 5 trung đoàn ngụy, thực hiện nổi dậy giải phóng Quảng Trị, sau đó tiếp tục phát triển chiến dịch vào hướng Thừa Thiên. Về cách đánh chiến dịch, tập trung giải quyết 3 vấn đề: Thứ nhất, đánh vỡ tuyến phòng thủ bên ngoài gồm các cứ điểm có công sự kiên cố như Cồn Tiên, miếu Bái Sơn, 544, Động Toàn, nhanh chóng đưa lực lượng vào tiến công Đông Hà, Mai Lộc, Ái Tử. Thứ hai, phá vỡ hệ thống pháo binh địch. Thứ ba, đánh bại quân cơ động ứng chiến cỡ tiểu đoàn, trung đoàn ngụy quân.
Từ ngày 15-7-1971, sau hơn 8 tháng chuẩn bị kế hoạch chiến dịch tiến công Trị - Thiên công phu, kỹ lưỡng, song do tình hình chiến trường diễn biến phức tạp, nên kế hoạch chiến dịch phải điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp. Thời gian chuẩn bị tuy dài nhưng càng về cuối càng gấp. Phần kế hoạch tiếp tục phát triển vào Thừa Thiên chỉ mới dự kiến một số vấn đề, sau khi giải phóng Quảng Trị được xác định thêm.
Cùng với sự chuẩn bị kế hoạch tác chiến là công tác chuẩn bị chiến trường, trong đó chủ yếu là làm các con đường từ phía Bắc xuống. Đến tháng 3-1972, bộ đội và thanh niên xung phong đã làm mới và sửa chữa được 9 con đường dài 264km, bảo đảm triển khai được các loại binh khí kỹ thuật và vận chuyển hậu cần cho chiến dịch ở khu vực Quảng Trị. Hệ thống thông tin hữu tuyến điện đã được triển khai xuống các hướng. Trong khi đó việc chuẩn bị vật chất hậu cần cho chiến dịch tính đến ngày 30-2-1972, Cục Vận tải và Đoàn 559 đã vận chuyển được 12.490 tấn đạt 78% kế hoạch theo yêu cầu của Bộ tư lệnh chiến dịch.
Suốt thời gian các đơn vị chủ lực cơ động lực lượng chuẩn bị chiến dịch, chủ yếu dựa vào hệ thống thông tin hiện có của các đơn vị tại chỗ, đã làm hạn chế khả năng của địch thông qua phương tiện kỹ thuật hiện đại theo dõi hướng và lực lượng cơ động của chủ lực ta. Ta giữ được bí mật. Để nghi binh, Bộ Tổng Tư lệnh cho các tổ đài 15W và 30 cán bộ, chiến sĩ do trợ lý tác chiến Sư đoàn 304 Dương Văn Mùa chỉ huy được lệnh hành quân vào Tây Nguyên, thường xuyên báo cáo từng cung độ hành quân và nhận các mệnh lệnh giả. Chính vì thế càng làm cho Bộ Tổng tham mưu ngụy quân khẳng định chắc chắn hướng tiến công chủ yếu của ta là Tây Nguyên.
-----------------------
[1] Đầu năm 1969, Mỹ có 550.136 tên, năm 1970 còn 335.000 tên, cuối năm 1971 còn 157.000 tên, cuối năm 1972 còn 24.000 tên gồm 2 lữ đoàn bộ binh, 9 tiểu đoàn pháo, 2 đại đội xe tăng, 20 tàu chiến, 1.400 máy bay các loại.
[2] Sở Chỉ huy chiến dịch đặt tại bãi Hà, bắc sông Bến Hải, tây Quốc lộ 1 khoảng 10km.
[3] Sư đoàn 320b, Sư đoàn bộ và Trung đoàn 64 tham gia chiến dịch tháng 6 năm 1972.
Sư đoàn 325 tham gia chiến dịch từ tháng 6 năm 1972.
Sư đoàn 312 Trung đoàn 165 vào tháng 7 năm 1972, Trung đoàn 141 và 209 vào tháng 8 năm 1972. Sư đoàn Bộ vào tháng 11 năm 1972.



Kỳ 2: Giải phóng Quảng Trị


Trước ngày 19-3-1972, các Sư đoàn 304, 324 và các lực lượng binh chủng có xe cơ giới (thiết giáp, pháo binh, cao xạ, tên lửa, xe tăng…) từ hậu phương Quảng Bình hành quân vào vị trí tập kết. Riêng Sư đoàn 308 được lệnh đến ngày 25-3 có mặt ở khu vực điểm cao 202 Bắc sông Bến Hải. 18 giờ ngày 29-3, toàn bộ lực lượng tham gia chiến dịch trên tất cả các hướng, đã vào vị trí xuất phát tiến công. Trong khi đó, ngụy quân không hề biết gì, nên ngày 29-3, các đơn vị quân ngụy vẫn thực hiện thay quân giữa Trung đoàn 2 và Trung đoàn 56 ở Cồn Tiên, Dốc Miếu, Tân Lâm, 241, 544.
Đúng 11 giờ ngày 30-3-1972, các đơn vị nổ súng mở màn chiến dịch tiến công Quảng Trị. Đòn tiến công bất ngờ, sấm sét, bão lửa giội xuống hệ thống phòng thủ quân ngụy, gây choáng váng cho đối phương ngay từ phút đầu. Các đơn vị pháo binh đã bắn dữ dội trúng các mục tiêu, hoàn toàn chế áp quân ngụy, chi viện cho các đơn vị cùng một lúc, tiến công 5 căn cứ Động Toàn, Ba Hồ, 544, 288, 365.
Ở hướng Bắc, Trung đoàn bộ binh 27 do Trung tá Phạm Minh Tâm làm Trung đoàn trưởng, giao nhiệm vụ thọc sâu, chia cắt, cho Đại úy Nguyễn Huy Hiệu, Tiểu đoàn trưởng bộ binh 3 được tăng cường lực lượng và triển khai chiến đấu ở khu vực đồi 322 và 288 trước khi thọc sâu xuống đường 9. 10 giờ 40 phút, đội hình hành quân của địch lọt hẳn vào trận địa phục kích của Tiểu đoàn 3. Tiểu đoàn trưởng Hiệu ra lệnh: Bao vây, diệt địch không cho chúng thoát về Cam Lộ. Chỉ trong 20 phút chiến đấu, toàn bộ Tiểu đoàn bộ binh 2 của ngụy bị xóa sổ. Nguyễn Viết Mão, chiến sĩ Đại đội 1 một mình bắt sống 12 tù binh, trong đó có Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Hà Thúc Mẫn. Ta làm chủ hoàn toàn khu vực Đông Nam, căn cứ 544, đồi Tròn, chặn đứng lực lượng chi viện từ Cam Lộ lên, tạo điều kiện thuận lợi cho Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 đánh chiếm căn cứ Phu Lơ - một mục tiêu quan trọng mà Bộ tư lệnh chiến dịch giao cho Trung đoàn 27. Trận đánh kết thúc cũng là lúc Bộ tư lệnh chiến dịch phát lệnh nổ súng chiến đấu hiệp đồng trên toàn mặt trận.
Ở hướng Tây, trong thế trận chiến đấu hiệp đồng toàn chiến dịch, các Sư đoàn 304, 324 đã dồn dập nổ súng tiến công địch. Trung đoàn 9 đánh chiếm Đầu Mầu, Trung đoàn 24 là lực lượng chủ yếu bao vây, tiến công Trung đoàn 56 ngụy ở cứ điểm 241. 8 giờ sáng ngày 2-4, trên các hướng, bộ đội của Trung đoàn bộ binh 24 đã vào vị trí xuất phát tiến công. Địch dùng máy bay B-52 đánh phía ngoài căn cứ. Đại đội 2 thương vong 17 người. Cùng lúc, Trung tá Trung đoàn trưởng Lê Đắc Long nhận được điện của Thượng tá Hoàng Đan, Sư trưởng 304 đồng ý cho bộ đội nổ súng vào lúc 12 giờ. Toàn bộ căn cứ 241 ngụy bị Trung đoàn 24 vây chặt, không còn lối thoát và không chịu nổi những đòn sấm sét của pháo binh ta. Chỉ huy Trung đoàn 56 ngụy xin ứng cứu bằng lực lượng xe tăng từ Đông Hà theo Đường 9 lên, nhưng bị Tiểu đoàn đặc công 15 chặn đánh. Quân ngụy liều lĩnh dùng trực thăng để cứu bọn chỉ huy nhưng cao xạ của ta không cho hạ cánh. Đúng 13 giờ ngày 2-4, quân ngụy treo cờ trắng lên cần ăng-ten trung tâm chỉ huy rồi kéo nhau ra hàng. Đi đầu là Trung tá Phạm Văn Đính, Trung đoàn trưởng, tiếp theo là Thiếu tá Nguyễn Vĩnh Phong, Trung đoàn phó, Thiếu tá Nguyễn Văn Thế, Tiểu đoàn trưởng pháo binh cùng với 12 sĩ quan cấp úy và 308 hạ sĩ quan binh sĩ. Ta thu 4 khẩu pháo 175mm.
4 giờ sáng ngày 2-5-1972, cờ giải phóng trong tay chiến sĩ Trung đoàn 9, Sư đoàn 304 tung bay trên cổng Thành cổ Quảng Trị.
Ở hướng đông, Trung đoàn 126 Hải quân đã tiến đánh Hải quân ngụy trên sông Cửa Việt và duyên đoàn 11 tại cảng Cửa Việt, khống chế chặt đường sông.
Hướng Cam Lộ, Đường 9, 0 giờ 30 phút ngày 2-4, Trung đoàn 48 nhận được lệnh của Bộ tư lệnh chiến dịch sử dụng Tiểu đoàn 1 chặn xe tăng của thiết đoàn 20 không cho vượt cầu Đuối vào ứng cứu Cam Lộ, sau đó phát triển theo hướng Đông Hà. Nhận lệnh xong, Trung tá Trung đoàn trưởng Lê Quang Thúy trao quyền chỉ huy chung cho Trung tá Tham mưu phó Sư đoàn 320b Trịnh Hồng Thái rồi cùng trợ lý tác chiến xuống Tiểu đoàn 1 triển khai phương án đánh địch.
Sau 5 ngày chiến đấu mở đầu chiến dịch, ta đã đập vỡ hoàn toàn tuyến phòng thủ vòng ngoài của ngụy quân, chiếm hầu hết các điểm cao, khống chế, tiêu diệt một bộ phận lớn lực lượng ngụy quân, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ ở nhiều thôn, xã. Quân ngụy phải bỏ toàn bộ tuyến phòng thủ đường 9 với 4 căn cứ trung đoàn, 7 căn cứ tiểu đoàn.
Bị mất tuyến phòng thủ vòng ngoài và bị thiệt hại nặng, ngụy quân buộc phải nhanh chóng tăng lực lượng để đối phó. Chỉ trong 5 ngày, ngụy quân điều 3 trung đoàn, 2 lữ đoàn và 2 thiết đoàn, đồng thời điều chỉnh lại thế bố trí phòng ngự, tổ chức thành 3 cụm Đông Hà, Ái Tử, La Vang - Quang Trị, tập trung lực lượng chủ yếu ở thị xã Đông Hà, tăng cường hỏa lực không quân kể cả máy bay B-52, nhằm ngăn chặn ta phát triển tiến công. Ngụy quân tận dụng các điểm cao còn lại ở phía tây tổ chức tuyến phòng thủ liên hoàn, lực lượng nòng cốt là xe tăng, thiết giáp.
Trên đà thắng lợi, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định tiến công ngay vào khu trung tâm phòng ngự của địch, không cho ngụy quân kịp củng cố hoặc rút chạy, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị bằng các lực lượng Sư đoàn 308 (thiếu Trung đoàn 88) và Trung đoàn 48 có 2 đại đội xe tăng chi viện, tiến công ngụy quân ở Đông Hà, Lai Phước. Sư đoàn 304 (thiếu Trung đoàn 66) đánh vào cụm quân ngụy ở Ái Tử, chia cắt ngụy quân ở cầu Quảng Trị và các lực lượng ngụy quân tiếp giáp 2 tỉnh Trị - Thiên. Trung đoàn 27 cùng Tiểu đoàn 47 huyện đội Vĩnh Linh, có 2 đại đội xe tăng của Trung đoàn 202, thọc sâu vu hồi ở hướng Đông, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giải phóng 2 huyện Triệu Phong và Hải Lăng. Sư đoàn bộ binh 324 (thiếu Trung đoàn 3), đánh địch ở La Vang - Quảng Trị, cắt giao thông trên đường số 1 đoạn bắc cầu Mỹ Chánh - nam Quảng Trị. Ở phía nam các lực lượng B4 tiếp tục vây lấn Động Tranh, cắt giao thông đường 1 ở nam Phú Bài.
Đúng 15 giờ ngày 8-4, pháo binh ta nhả đạn. 5 giờ ngày 9-4, các đơn vị bộ binh, xe tăng được lệnh xuất kích. Ở Đông Hà, Thượng tá Trương Đình Mậu, Sư đoàn trưởng 308 ra lệnh cho Trung đoàn trưỏng Trung đoàn bộ binh 36 nhanh chóng chiếm ngã 3 đường 1 - đường 9, nhưng ngụy quân chống trả quyết liệt, không phát triển được. Trung đoàn 102 tiến công quân ngụy ở điểm cao 30, Động Côn. Trung đoàn 48 và tiểu đoàn độc lập 15 thọc sâu chia cắt ở Lai Phước, đều bị chặn lại.
Ở hướng đông, từ ngày 5-4, 2 Tiểu đoàn đặc công 19, 25 và Tiểu đoàn 47 đã vượt sông Cửa Việt đánh quân ngụy ở xã Triệu Thượng, Triệu Lê, huyện Triệu Phong. Quân bảo an chống trả rất quyết liệt, quân ta bị tổn thất nặng, không đủ sức phát triển vào thị xã Quảng Trị, chờ đêm xuống bơi qua bờ bắc sông Thạch Hãn. Do chưa chuẩn bị chu đáo, vả lại chưa có cách đánh phù hợp nên các mũi tiến công đều vấp phải sức kháng cự có chiều sâu của quân ngụy, bị tổn thất lớn và không thực hiện được kế hoạch.
Để chuẩn bị đợt tiến công mới được thuận lợi, ta đã tổ chức bước hoạt động đêm từ ngày 10-4 đến ngày 26-4-1972, đồng thời tranh thủ củng cố bộ đội, triển khai binh khí kỹ thuật theo phương án tác chiến mới, chuẩn bị vật chất bảo đảm. Cách đánh của chiến dịch là hiệp đồng binh chủng, phát huy cao độ sức mạnh của binh khí kỹ thuật, thực hành vừa tiến công trên toàn tuyến, vừa chủ yếu tập trung diệt từng điểm, từng cụm, từng khu vực; kiên quyết thực hiện bao vây chia cắt, kết hợp đánh vỡ với bao vây tiêu diệt. Chú trọng kết hợp tấn công quân sự với nổi dậy của quần chúng.
5 giờ ngày 26-4. Từ đầu, pháo binh trút bão đạn dồn dập chế áp hoàn toàn quân ngụy báo hiệu cuộc tiến công của quân ta với sức mạnh khủng khiếp.
Ở cụm Đông Hà - Lai Phước, Thượng tá, quyền tư lệnh Sư đoàn 308 Đào Đình Sung giao nhiệm vụ cho Trung đoàn bộ binh 36 đánh địch ở các khu vực điểm cao 28, 30 (tây bắc Đông Hà); Trung đoàn bộ binh 88 (mới trở về đội hình sư đoàn) đánh địch ở khu vực các điểm cao 35, 37 (Tây Đông Hà); Trung đoàn bộ binh 102 đánh địch ở khu vực các điểm cao 32, 26 (tây nam - Đông Hà). Phát hiện thấy một mũi đặc công của ta thọc sâu vào phía bắc sân bay Đông Hà, ngụy quân dùng xe tăng, bộ binh có không quân và pháo hạm chi viện, liên tục phản kích. Ngay lập tức bị trung đội tên lửa chống tăng B72 của chiến dịch tăng cường cho Sư đoàn do Lục Vĩnh Tưởng chỉ huy, lần đầu xuất hiện trên chiến trường với bản lĩnh chiến đấu và khả năng điều khiển thuần thục khí tài đã lập công xuất sắc phóng 7 quả đạn thiêu cháy 6 xe tăng ngụy.
Sau 10 phút bắn phá bằng hỏa lực, bộ binh ta trên cả 3 hướng tây - bắc, tây, tây - nam ém sát quân ngụy, bật dậy xung phong. Đến chiều 27-4, Sư đoàn 308 đã làm chủ hầu hết căn cứ Đông Hà, dồn địch ra đường 1. Sáng 28-4, 2 tổ du kích do Hồ Thị Bích Liên, Thị ủy viên thị xã Đông Hà phụ trách dẫn đường cho 2 Trung đoàn bộ binh 88 và 102[1], tiến công chiếm được Trung Chi, Đại Áng và bắc cầu Lai Phước nhằm cô lập Đông Hà. Trong bom, đạn, khói lửa mịt mù.
Quân ngụy hoảng loạn tháo chạy, vứt lại xe tăng, thiết giáp, vận tải, vũ khí nặng. 18 giờ ngày 28-4, bộ đội ta hoàn toàn làm chủ Đông Hà, Lai Phước trong niềm vui khôn tả. Ủy ban quân quản thị xã Đông Hà được thành lập do Trung tá Nguyễn Hiền, Phó chính ủy sư đoàn 308 làm Chủ tịch.
Phối hợp cùng các đơn vị chủ lực, lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Trị đã trở về đồng bằng nhanh chóng đánh các đồn, bốt dọc đường 68, phát động quần chúng nổi dậy, truy tìm tàn binh, bắt bọn ác ôn. Các thôn xã vừa được giải phóng lập tức tổ chức tiếp nhận, giáo dục bọn đầu thú; đồng thời xúc tiến ngay việc thành lập chính quyền cách mạng. Trong khi đó, quân ngụy hoảng sợ, vứt bỏ xe, pháo ngổn ngang, lột bỏ quần áo lính, cải trang thường phục, vượt tắt qua đường, lội qua sông tháo chạy về phía Thừa Thiên. Du kích và nhân dân các xã Triệu Lễ, Triệu Ái sát cánh cùng bộ đội trong những trận đánh ác liệt ở thị xã Quảng Trị. Trong khói lửa mịt mù, tiếng pháo, đạn nổ ầm vang nhưng nhân dân Triệu Trạch vẫn hăng hái, dũng cảm giúp bộ đội, tự dỡ nhà mình làm công sự cho các chiến sĩ và tham gia tiếp tế đạn, lương thực cho từng trận địa. Nữ cán bộ xã đội Lê Thị Tám chỉ huy du kích xã Triệu Thượng cùng đồng đội ngày đêm bám đất, bám dân chiến đấu. Và đặc biệt là nữ cán bộ Trần Thị Tâm[2], Huyện đội phó huyện Hải Lăng, trực tiếp chỉ huy tiểu đội du kích xã Hải Quế suốt một ngày quần nhau với 1 tiểu đoàn ngụy ngăn chặn không cho chúng vào làng và đã anh dũng hy sinh.
Trên hướng Ái Tử và cầu Quảng Trị, các trung đoàn bộ binh 24 và Trung đoàn bộ binh 9, Sư đoàn 304 liên tục tiến công trong các ngày 27, 28, 29 tháng 4, chiếm được các điểm cao 22, 23, 42 ở phía Tây. Địch giành giật quyết liệt với bộ đội ta ở từng khu vực, điển hình nhất là: Đêm 9 rạng sáng 10-4, 20 cán bộ, chiến sĩ do Đại đội phó Nguyễn Văn Thỏa và Trung đội trưởng Mai Quốc Ca chỉ huy trung đội 2 thuộc Đại đội 11, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn bộ binh 9, được lệnh thọc sâu chiếm giữ cầu Quảng Trị, thực hiện chia cắt chiến dịch, tạo điều kiện để đại quân ta tiêu diệt tập đoàn quân sự mạnh nhất của ngụy quân ở Đông Hà, Ái Tử, La Vang. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, ngụy quân đã điều 2 tiểu đoàn lính dù, 1 tiểu đoàn thủy quân lục chiến, có xe tăng, pháo binh và máy bay yểm trợ, liên tục tiến công nhằm tiêu diệt chốt chặn của một trung đội quân giải phóng với vũ khí bộ binh nhẹ. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt. Lực lượng ngụy quân đông gấp nhiều lần, nhưng trung đội đã ngoan cường chiến đấu, đẩy lùi nhiều đợt tiến công của địch, tiêu diệt 125 ngụy quân, bắn cháy 5 xe tăng. Cả trung đội chiến đấu đến viên đạn cuối cùng rồi dùng lưỡi lê, dao găm đánh giáp lá cà với quân ngụy. Mai Quốc Ca và 18 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, riêng chiến sĩ Thành Vũ Quang bị thương và rơi vào tay địch. Cầu Quảng Trị bị phá hỏng, quân ngụy bị chặn lại trước chốt thép của 20 cán bộ, chiến sĩ anh hùng.
Ngày 1-5-1972, sau khi Đông Hà, Ái Tử bị mất, quận lỵ Hải Lăng bị uy hiếp, Quốc lộ 1 bị cắt, quân ngụy hoang mang, đến 11 giờ ngày 1-5, quân ngụy bắt đầu rút. Nắm được ý đồ của ngụy quân, Bộ tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn bộ binh 324 lập tức cơ động bộ đội chặn đánh quân ngụy ở Cầu Nhũng, cầu dài và cầu bến Đá. Trung đoàn bộ binh 66, Sư đoàn 304 chặn đánh quân ngụy ở La Vang, đồng thời pháo binh mặt trận bắn mãnh liệt vào đội hình rút lui của ngụy quân, gây nên một cuộc bỏ xe, bỏ pháo tháo chạy hỗn loạn.
15 giờ ngày 1-5-1972, được tin quân ngụy có kế hoạch rút chạy khỏi thị xã Quảng Trị, từ sở chỉ huy phía trước, Thiếu tá Nguyễn Đức Huy, Trung đoàn phó Trung đoàn bộ binh 9 được lệnh của Sư đoàn trưởng 304, nhanh chóng đánh chiếm và giải phóng thị xã Quảng Trị. Sau khi nhận lệnh, Nguyễn Đức Huy cùng Thiếu tá Lê Thanh Khê, Phó chính ủy Trung đoàn bộ binh 9, đốc chiến tiểu đoàn bộ binh 1 do Đại úy Vũ Đức Chiến làm Tiểu đoàn trưởng, Đại úy Nguyễn Văn Thêm làm Chính trị viên cùng đại đội súng máy cao xạ 14,5 ly vượt sông Thạch Hãn vào lúc 20 giờ ngày 1-5, tới bờ nam sông Thạch Hãn. Sau khi ổn định đội hình theo kế hoạch tác chiến, hướng chủ yếu của Tiểu đoàn bộ binh 1 theo đường Trần Hưng Đạo vào đánh chiếm trường Bồ Đề, quân ngụy chống trả quyết liệt, hơn nửa giờ chiến đấu, các chiến sĩ ta đã tiêu diệt bọn lính cố thủ ở đây. Ngay sau đó, bộ đội phát triển đánh chiếm dinh tỉnh trưởng, khu an ninh, tiểu khu quân sự.
Hướng thứ yếu của tiểu đoàn tiến theo trục đường cổng phía tây Thành Cổ, đánh chiếm trại giam, khu bình định, giải phóng hàng trăm người bị quân ngụy bắt và giam tù ở đây. Đáng ngạc nhiên là 1 đại đội ngụy dựa vào nhà thờ Tri Bưu chống cự ác liệt, cuộc chiến đấu kéo dài gần 2 giờ mới chấm dứt. 4 giờ sáng ngày 2 -5-1972, lá cờ giải phóng trong tay chiến sĩ Đào Châu Vũ đã cắm lên nóc dinh tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị báo hiệu thị xã Quảng Trị hoàn toàn được giải phóng. Ủy ban quân quản được thành lập do Thiếu tá Nguyễn Đức Huy - Trung đoàn phó bộ binh 9 làm Chủ tịch. Đây là lần đầu tiên ta giải phóng hoàn toàn một tỉnh trong cuộc chiến tranh chống Mỹ ở miền Nam, giành và giữ được một bộ phận dân, giải quyết được nhiều vấn đề đối với vùng mới giải phóng, tạo bước ngoặt mới cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước cả trước mắt và lâu dài.
 -----------------------
[1] Hồ Thị Bích Liên hy sinh ở tuổi 24 khi vào tiếp quản thị xã Đông Hà.
[2] Năm 1973, Trần Thị Tâm được truy tặng anh hùng LLVT.


Kỳ 3: Nốt trầm bên sông Mỹ Chánh


Sau khi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng tỉnh Quảng Trị, theo kế hoạch tác chiến chiến dịch đã đề ra, nhiệm vụ tiếp theo là phát triển tiến công giải phóng Thừa Thiên.
Hòng ngăn chặn cuộc tiến công của bộ đội giải phóng, nhất là trước thảm bại để thất thủ Quảng Trị, Thừa Thiên bị uy hiếp, ngày 4-5-1972, Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa cách chức Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, đưa Trung tướng Ngô Quang Trưởng thay làm Tư lệnh Quân khu 1 - Quân đoàn 1, đồng thời đưa lực lượng dự bị của quân khu 1 và tổng dự bị chiến lược ra tổ chức tuyến phòng thủ mới ở nam sông Mỹ Chánh và tây đường 12. Như vậy, lực lượng quân ngụy ở Thừa Thiên từ chỗ có 2 sư đoàn bộ binh đã tăng lên thành 4 sư đoàn (thêm sư đoàn lính dù và sư đoàn lính thủy đánh bộ). Cùng thời gian này, Mỹ đã có những động thái về chính trị và ngoại giao vừa lừa bịp dư luận thế giới về mục tiêu giải pháp hòa bình ở Việt Nam, vừa thỏa hiệp với nước lớn; đồng thời đưa máy bay B.52 đánh phá miền Bắc và thả mìn phong tỏa các cửa sông rạch từ Hải Phòng vào Quảng Bình. Đặc biệt, Mỹ cũng đưa không quân, hải quân trở lại ồ ạt tham chiến ở miền Nam, chủ yếu là chiến trường Trị - Thiên nhằm cứu nguy cho quân đội Sài Gòn. Đây là một trong những yếu tố đã làm thay đổi lớn tương quan lực lượng chiến dịch.
Bước vào đợt tiến công mới, Bộ Tổng tư lệnh tăng cường cho chiến dịch Trung đoàn bộ binh 18, Sư đoàn bộ binh 325, Trung đoàn bộ binh 64 (thuộc Sư đoàn bộ binh 320b), các đơn vị toàn mặt trận được bổ sung quân số, phương tiện, khí tài, chạy đua với thời gian vừa đánh địch vừa khẩn trương chuẩn bị cho chiến dịch mới.
19 giờ 30 phút ngày 20-6, pháo binh chiến dịch và pháo của các Sư đoàn 308, 304, 324 bắt đầu trút bão lửa xuống hệ thống phòng thủ trên Quốc lộ 1 do sư đoàn lính dù, sư đoàn thủy đánh bộ ngụy đảm nhiệm và hướng đường 12 do Sư đoàn bộ binh số 1 ngụy trấn giữ.
Trên hướng Quốc lộ 1, theo nhiệm vụ được phân công, các đơn vị đã tiến công địch trên một diện rộng từ Xuân Lộc, Đá Bạc, núi Cái Mương, núi cây Lời, núi Yên Bầu, đánh vào phòng tuyến của sư đoàn dù.
3 giờ ngày 21-6, Tiểu đoàn bộ binh 1, Trung đoàn bộ binh 9, Sư đoàn bộ binh 304 đánh chiếm điểm cao 102. Sau một giờ chiến đấu, bộ đội đã làm chủ trận địa. Đến 8 giờ, Tiểu đoàn bộ binh 1 được lệnh tiến công đại đội lính dù ngụy ở điểm cao 156, sau 30 phút chiến đấu, Tiểu đoàn bộ binh 1 đã tiêu diệt gọn một đại đội lính dù nữa.
Cùng thời gian này, Tiểu đoàn bộ binh 7 và Tiểu đoàn bộ binh 9 (thuộc Trung đoàn bộ binh 66, Sư đoàn bộ binh 304) được lệnh tiến công lên điểm cao 52, Hố Lấy, đến 8 giờ, bộ đội ta làm chủ điểm cao 52 và để một lực lượng chốt giữ điểm cao này. Tiểu đoàn 8 (Trung đoàn bộ binh 66, Sư đoàn bộ binh 304) được lệnh vượt sông Mỹ Chánh vào vây làng Xuân Lộc, đến 14 giờ, bộ đội ta bắt đầu triển khai bao vây tiểu đoàn quân dù. Sau 2 ngày chiến đấu ác liệt, bộ đội ta đã tiêu diệt hơn 400 lính dù. Tuy nhiên, Trung đoàn bộ binh 66, Sư đoàn bộ binh 304 vẫn chưa tiêu diệt được tiểu đoàn dù số 11 ngụy. Trong khi đó, các trận địa pháo binh ngụy đã gây thương vong lớn cho Trung đoàn bộ binh 66. Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304 vẫn ra lệnh cho Trung đoàn bộ binh 66 tập trung lực lượng tiêu diệt tiểu đoàn dù số 11, đồng thời đưa Tiểu đoàn bộ binh 4 và Tiểu đoàn bộ binh 5 của Trung đoàn bộ binh 24 vào chiến đấu thay cho Tiểu đoàn bộ binh 2, Trung đoàn bộ binh 48 độc lập để tiêu diệt tiểu đoàn dù 7 ngụy ở khu vực bắc điểm cao 156. Sau một ngày chiến đấu, bộ đội ta đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn dù 7 ngụy. Tuy nhiên, pháo binh ta không kiềm chế được pháo binh ngụy quân nên bộ đội của 2 tiểu đoàn bộ binh 4, 5 cũng thiệt hại lớn. Đến ngày 25-6, bộ đội ta quá căng thẳng, mỏi mệt, cơ số đạn chiến đấu gần hết, vì vậy cả hai tiểu đoàn bộ binh 4, 5 được lệnh dừng lại củng cố đội hình, bổ sung quân số, đạn dược để tiếp tục chiến đấu.
Binh sĩ ngụy xã Triệu Lễ - Triệu Phong - Quảng Trị ra trình diện với chính quyền cách mạng, tháng 5-1972. Ảnh tư liệu.
Ở hướng đông, Trung đoàn bộ binh 18 đánh địch ở Xuân Viên, Đông Dương đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 369 thủy quân lục chiến do viên Đại tá Phạm Văn Chung làm Lữ đoàn trưởng. Nguy cơ có thể mất tiếp tiểu đoàn nữa nên Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 369 thủy quân lục chiến ra lệnh cho các đơn vị dưới quyền lui về Thanh Hương, Đại Lộc. Tuy nhiên, bộ đội ta cũng bị thương vong lớn, buộc phải lui về tuyến sau củng cố. Ngày 23-6, Trung đoàn bộ binh 64 (thuộc Sư đoàn bộ binh 320b) vào thay thế Trung đoàn bộ binh 18.
Trên hướng đường 12, các đơn vị của Sư đoàn bộ binh 324 và Trung đoàn bộ binh 6 độc lập của Thừa Thiên đang gặp khó khăn về bảo đảm hậu cần, trong khi đó, lực lượng ngụy quân liên tục tổ chức những đợt phản kích với các quy mô khác nhau nhằm tiêu hao lực lượng, giảm bước tiến công của bộ đội ta, nên đến ngày 26-5, các đơn vị mới bước vào chiến đấu, chậm mất 5 ngày so với các hướng tiến công khác. Theo kế hoạch tác chiến, Thượng tá Sư đoàn trưởng bộ binh 324 Chu Phương Đới và cơ quan tham mưu sư đoàn lệnh cho Trung đoàn trưởng bộ binh 1 tiến công Trung đoàn 54 ngụy ở nam Khe Thai. Sau hơn một giờ chiến đấu, bộ đội ta chỉ diệt được hơn 300 quân của Trung đoàn 54 ngụy. Trung đoàn bộ binh 3 tiến công một tiểu đoàn của Trung đoàn 1 ngụy ở điểm cao 372, sau 45 phút chiến đấu, bộ đội ta chẳng những không làm chủ được điểm cao mà bị còn thương vong lớn. Trong khi đó, Trung đoàn bộ binh 6 độc lập tiến công địch ở đèo Sun Na, bộ đội ta chỉ tiêu diệt được một mục tiêu.
Sau 6 ngày tiến công, trên các hướng chiến dịch của sư đoàn và các trung đoàn độc lập tuy có diệt được một số đơn vị ngụy nhưng nhìn chung, các đơn vị của ta đều bị chặn lại do sức tiến công bị giảm sút rõ rệt. Các mặt chuẩn bị cơ sở vật chất bảo đảm chiến đấu lâu dài của ta còn sơ sài và giản đơn, nên không thực hiện được kế hoạch. Trong khi đó, lực lượng ngụy quân được tăng cường mạnh lên để chuẩn bị cho cuộc phản công quy mô lớn.
Vì lẽ đó, đêm 26-6-1972, Thiếu tướng Lê Trọng Tấn - Tư lệnh mặt trận Trị - Thiên ra lệnh ngừng tiến công, để chuẩn bị đánh trả cuộc phản công quy mô lớn của ngụy quân.
Trong đợt tiến công này, bộ đội ta tiêu diệt được 2.800 ngụy quân, bắt sống 25 ngụy quân, đánh thiệt hại nặng 7 tiểu đoàn quân ngụy; nhưng thật trớ trêu, bộ đội ta không giải phóng thêm được đất đai, trái lại quân ngụy lại lấn ra được một số khu vực ở hướng tây và bắc sông Mỹ Chánh. Các Sư đoàn 304, 308, 324, số bộ đội thương vong lớn hơn 2 đợt tiến công trước.
Như vậy, chúng ta đang gặp bất lợi trong việc chuẩn bị để đánh trả cuộc phản công lớn của ngụy quân, bảo vệ vùng mới giải phóng. Do phạm chủ quan dẫn đến mất thế chủ động về chiến dịch trước cuộc phản công quy mô lớn của ngụy quân, hậu quả với ta chắc chắn sẽ rất nặng nề, đây là thời điểm khó khăn nhất, thử thách lớn nhất chúng ta phải vượt qua.
Sau khi ta giành được thắng lợi trong chiến dịch tiến công (từ ngày 30-3 đến ngày 27-6-1972), giải phóng tỉnh Quảng Trị và 3 xã thuộc tỉnh Thừa Thiên, quân ngụy được không quân và hải quân đắc lực chi viện, tổ chức cuộc phản công quy mô lớn mang tên “Cuộc hành quân Lam Sơn 72” do Trung tướng Ngô Quang Trưởng, một viên tướng được giới quân sự ngụy đánh giá cao về năng lực và bản lĩnh, chỉ huy.
Ngày 26-6-1972, đội hình phản công của ngụy quân đã hình thành trên 2 hướng.
Hướng tây đường số 1 gồm Sư đoàn dù do Trung tướng Dư Quốc Đống làm Tư lệnh, liên đoàn 81 biệt kích dù, thiết đoàn 7 kỵ binh, thiết đoàn 20 chiến xa, đại đội Hắc Báo thuộc Sư đoàn 1 bộ binh, một tiểu đoàn pháo binh 155mm, tiểu đoàn 102 liên đoàn 10 công binh và liên đoàn 1 địa phương Quảng Trị.
Hướng đông, có sư đoàn thủy quân lục chiến do chuẩn tướng Bùi Thế Lân chỉ huy, được tăng cường thiết đoàn 18, một chi đoàn xe bọc thép của thiết đoàn 17, một tiểu đoàn pháo 155mm, đã cơ động vào vị trí tập kết. Các lực lượng pháo binh của Quân đoàn 1, Sư đoàn không quân, hải quân vùng 1 duyên hải, các lực lượng không quân, hải quân Mỹ được lệnh hậu thuẫn tối đa cho cuộc hành binh này. Ưu thế về hỏa lực không quân và hải quân trong không gian tác chiến ở đồng bằng và ven biển Quảng Trị rõ ràng rất bất lợi cho ta. Đứng phía sau còn có Sư đoàn bộ binh 1 và liên đoàn 1 biệt động quân phòng ngự ở Huế và Phú Bài, Trung đoàn 51 bộ binh, lực lượng dự bị của quân đoàn đứng ở Huế.
Đêm 26-6-1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch phán đoán địch có thể phản công, nên chủ trương cho các đơn vị đánh chắc thắng, tiến công có trọng điểm, đồng thời điều chỉnh lại lực lượng để chặn cuộc phản công của ngụy quân. Trước mắt, cho Trung đoàn bộ binh 102 quay lại cùng Trung đoàn 66 ngăn chặn địch trên đoạn đường 1 Trường Phước, Hương Điền. Ngày 27-6, Sư đoàn 308 đang ở Phong Điền được lệnh trở lại bắc sông Mỹ Chánh để đánh địch trên trục đường 1.
Đêm 28-6, nhận được chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định “chuyển từ chiến dịch tiến công sang chiến dịch phản công, tiêu diệt sinh lực địch giữ vững vùng giải phóng, đánh bại cuộc hành quân của địch và phát triển tiến công lúc thời cơ có lợi”.
Tuy nhiên, ý định điều chỉnh lực lượng không thực hiện kịp, nhất là hướng tây, vì thời gian quá gấp, không quân, pháo hạm tàu, pháo các đơn vị ngụy quân bắn phá ác liệt các tuyến đường hành quân. Chỉ có Trung đoàn bộ binh 66 (thuộc Sư đoàn bộ binh 304) đến vị trí đúng quy định, không một đơn vị nào khác đến kịp thời gian, vị trí quy định để chiến đấu.

Kỳ 4: 81 ngày đêm quyết tử
Qua thực tế chiến đấu kể từ khi quân ngụy mở cuộc hành quân “Lam Sơn 72”, bộ đội ta bị thương vong tương đối lớn. Tuy có diệt được một số sinh lực địch, làm chậm bước tiến của quân ngụy, nhưng bộ đội ta không giữ được những khu vực trọng điểm, quân ngụy chiếm được những điểm cao khống chế, bàn đạp quan trọng. Trước yêu cầu cấp bách bảo vệ vững chắc vùng giải phóng Quảng Trị, ngày 15-7-1972, vừa chỉ đạo cách đánh phản công, đồng thời Thường vụ Quân ủy Trung ương đã có chỉ đạo phương hướng chuyển chiến dịch vào phòng ngự. Trong bức điện số 118-ĐK ngày 10-7 và điện số 144-ĐK ngày 18-7, đồng chí Văn (1) , Bí thư Quân ủy Trung ương chỉ rõ: “Trong khi thực hiện kế hoạch trước mắt, cần có ngay một kế hoạch tương đối cơ bản… Có kế hoạch tiến công địch, đồng thời có kế hoạch phòng thủ hậu phương trực tiếp của chiến dịch, củng cố vững chắc thế trận của ta ở hướng tây (giữ vững Ái Tử, Đông Hà, Cửa Việt) củng cố trận địa hỏa lực, củng cố các tuyến vận chuyển; bố trí các kho tàng hậu phương; vừa chiến đấu vừa xây dựng các trận địa vững chắc ở phía tây như Động Ông Do, động Chiêu Giòng… để có chỗ đứng chân vững chắc, tiếp tục tiến công địch. Kế hoạch này cần có dự kiến cho đến tháng 9 và tiếp tục trong cả mùa mưa…”. Riêng đối với khu vực thị xã Quảng Trị, Đại tướng Tổng tư lệnh còn chỉ thị: “Cần tăng cường hỏa lực, xung lực, tổ chức tốt các khu vực phòng thủ của các đơn vị cơ sở trong thị xã, bảo đảm phòng thủ liên hoàn, có chiều sâu, tổ chức ngay một trận địa hỏa lực thật mạnh ở bờ bên này sông Thạch Hãn, đối diện với thị xã, gồm pháo cơ giới, pháo 85 ly, một số xe tăng, pháo phòng không, quan trọng là pháo cối mang vác; chuẩn bị trận địa phòng không thật mạnh đề phòng tình huống địch tập kích hóa học rồi đổ bộ bằng trực thăng vào nội thành. Nghiên cứu bí mật đưa một số xe tăng vào Thành cổ, cấu trúc công sự chu đáo, biến thành hỏa điểm đánh xe tăng địch, đồng thời phối hợp với bộ binh tiêu diệt địch”.
Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương và thực tế chiến trường, Bộ tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho các hướng, tổ chức các khu vực phòng ngự, trước hết là làm trận địa vững chắc để bảo toàn lực lượng có chỗ đứng chân để tiêu diệt địch.
Tại thị xã Quảng Trị, khu vực trọng điểm của chiến dịch, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định thành lập ban chỉ huy khu vực thị xã Quảng Trị gồm: Trung đoàn 95, đây là một trong những trung đoàn có nhiều chiến sĩ là sinh viên, giáo viên trẻ, nhập ngũ cuối năm 1971 đầu năm 1972 của gần 30 trường đại học, cao đẳng ở miền Bắc lần đầu tiên tham gia chiến đấu, Tiểu đoàn 7 Trung đoàn bộ binh 18, Sư đoàn 325 và Trung đoàn 48, Tiểu đoàn 8 và Tiểu đoàn 3 địa phương, tiểu đoàn 8 Trung đoàn 64 của Sư đoàn 320b tổ chức thành một khu vực phòng ngự. Trung tá Trung đoàn trưởng bộ binh 48 Lê Quang Thúy được cử giữ chức chỉ huy trưởng, Trung tá Chính ủy Trung đoàn 95 Nguyễn Văn Thiệu được cử giữ chức Chính ủy. Đầu tháng 8, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định Bộ tư lệnh Sư đoàn bộ binh 325, Tư lệnh là Thượng tá Lê Kích, Chính ủy là Thượng tá Nguyễn Công Trang trực tiếp chỉ huy việc phòng thủ thị xã.
Chính trị viên Đại đội 5, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320b Vũ Trung Thướng một mình diệt hơn 100 tiên địch trong 25 ngày đêm chỉ huy đại đội phòng ngự trong thành cổ Quảng Trị, tháng 7-1972. Ảnh tư liệu.
Ngày 1-7-1972, Trung đoàn 48 triển khai xong nhiệm vụ phòng ngự ở vòng ngoài thị xã, Tiểu đoàn bộ binh 1 ở các làng An Thái, Tri Bưu, Quy Thiện, Tiểu đoàn bộ binh 3 án ngữ ở La Vang, đây là căn cứ huấn luyện Gia Long, sở chỉ huy Trung đoàn bộ binh 57 Sư đoàn bộ binh 3 ngụy và sân bay quân sự giã chiến đường băng là những tấm ghi sắt lắp ghép, cách thị xã hơn 1km về phía tây nam. Sở chỉ huy cơ bản ở Bích Khê, sở chỉ huy phía trước trong Thành cổ Quảng Trị.
Khoảng 6 giờ ngày 3-7, tiểu đoàn 11 thuộc Lữ đoàn dù số 3 ngụy có xe tăng yểm trợ tiến công ngã ba Long Hưng, do Trung đội 3 của Đại đội 11 Tiểu đoàn bộ binh 3 chốt giữ. Mặc dù không được pháo chi viện, bộ đội dựa vào công sự, chiến đấu ngoan cường đẩy lùi các đợt tiến công hung hăng của lính dù, góp phần cùng các trận địa khác của Trung đoàn bộ binh 48 phá vỡ kế hoạch của lính dù ngụy trong ngày 3-7 phải chiếm được thị xã Quảng Trị.
Để mặc cả trên bàn đàm phán hội nghị Pa-ri, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho tướng Ngô Quang Trưởng phải cắm bằng được cờ vào Thành cổ trước ngày hội nghị. Do đó các trận đánh vòng ngoài quanh thị xã càng diễn ra quyết liệt, đẫm máu.
4 giờ sáng 10-7, khu vực thị xã Quảng Trị sáng bừng lên bởi đạn pháo của ngụy quân thi nhau trút xuống các trận địa phòng ngự của bộ đội ta. Từ đài quan sát pháo binh và các chốt tiền tiêu liên tục báo về sở chỉ huy trong Thành cổ, rất đông lực lượng quân dù và biệt động quân cùng với xe tăng, thiết giáp ở An Thái, Đại Nại và đường số 1. Lập tức pháo binh chiến dịch được lệnh bắn cấp tập vào khu vực này. Lữ đoàn dù số 2 bị thương vong nặng và cuộc tiến công của quân ngụy đã không thành. Quân ngụy xốc lại lực lượng tổ chức tiến công suốt cả ngày 10-7 nhưng vô vọng vì vấp phải hệ thống phòng ngự vững chắc có chiều sâu của Trung đoàn bộ binh 48 và các đơn vị bám quanh thị xã Quảng Trị. Quân dù đã phải để lại 500 xác chết và 12 xe tăng.
Bị tổn thất nặng nề, ngụy quân phải tạm dừng tiến công, siết lại đội ngũ, bổ sung quân thay vào đó là những đợt B52 “rải thảm” và pháo hạm nã vào trận địa phòng thủ của ta.
Chiều 11-7, quân ngụy dùng trực thăng đổ một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ xuống bãi tha ma An Tiêm - Nại Cửu nhằm thu hút lực lượng và sự chý ý của ta ra vòng ngoài. Trung đoàn bộ binh 27 phối hợp cùng bộ đội địa phương đập tan cuộc đổ bộ, bắn rơi 9 trực thăng. Cùng ngày, tiểu đoàn 9 Lữ dù số 2 ngụy mở đợt tiến công vào ngã ba Long Hưng. Các chiến sĩ Đại đội 5, Tiểu đoàn 2 có 30 tay súng do chính trị viên đại đội Vũ Trung Thướng(2) chỉ huy chờ cho địch vào hết khu nhà một tầng, rồi dùng B40, B41 diệt gọn cả một trung đội địch. Cay cú, quân ngụy gọi pháo đánh vào chốt rồi tổ chức 3 đợt xung phong, nhưng đều bị các chiến sĩ chặn đánh quyết liệt. Quân ngụy buộc phải trở lại vị trí xuất phát tiến công. Ở hướng biển, Sư đoàn lính thủy đánh bộ vượt qua trục đường 68 và dải đất hẹp với những đụn cát trắng cố gắng tạo thế hợp vây cùng với sư đoàn dù đánh vào thị xã Quảng Trị từ hướng đông nam.
Ngày 14-7, Sư đoàn 312 do Thượng tá Thái Hòa làm Sư đoàn trưởng được lệnh của Bộ tổng tư lệnh vào tham gia chiến dịch và Trung đoàn 165, Sư đoàn 312 được tăng cường cho Sư đoàn bộ binh 308. Sau đó 2 trung đoàn của Sư đoàn 312 là 141 và 209 tiếp tục vào chiến đấu phá vỡ thế uy hiếp thị xã Quảng Trị.
Để chi viện kịp thời cho thị xã Quảng Trị, đập tan cố gắng mới của địch trong cuộc tiến công thứ 2, đêm 14-7, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 95, Sư đoàn bộ binh 325 vượt sông Thạch Hãn vào chiến đấu ở hướng đông nam thị xã tiếp sức cho Trung đoàn 48.
Tiếp đó, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 64 cũng được lệnh vượt sông Thạch Hãn vào thị xã chiến đấu trong đội hình Trung đoàn 48. Ta và địch đều được tăng cường lực lượng nên các trận chiến đấu giành đi, giật lại quyết liệt diễn ra giữa quân ta và các đơn vị lính dù, thủy quân lục chiến ở Tri Bưu, Thạch Hãn, khu Mỹ Đông, Trầm Lý, Đại Nại. Lính dù, lính biệt kích ngụy không từ một thủ đoạn nào miễn là đưa được lá cờ vàng 3 sọc đỏ lên được Thành cổ Quảng Trị. Đêm 12-7, một toán biệt kích dù 8 tên thuộc Lữ đoàn dù số 2 tổ chức cuộc đột nhập vào Thành cổ. Khi tên lính biệt kích dù Hồ Khang vừa leo lên bờ Thành cổ và giương lá cờ 3 sọc lên liền bị lực lượng bảo vệ Thành cổ tiêu diệt, 7 tên khác cùng chung số phận.
Quân ngụy tập trung về thị xã Quảng Trị ngày càng đông, ngày cao nhất lên đến 4 Lữ đoàn. Chúng thay nhau mở các đợt tiến công dồn dập vào thị xã Quảng Trị, với mật độ hỏa lực dày đặc, có tính hủy diệt.
Trong khi đó, ta không thể tập trung ở thị xã một lực lượng lớn do địa bàn chật hẹp. Cuộc chiến đấu ở đây được đẩy lên tới đỉnh cao về tinh thần chiến đấu ngoan cường, một ý chí thép của bộ đội và sự sáng tạo cách đánh bản lĩnh của người chỉ huy các cấp. Vì vậy, Bộ tư lệnh chiến dịch luôn chú trọng kiện toàn đội ngũ cán bộ chỉ huy trong Thành cổ, đưa vào thị xã các đơn vị có kinh nghiệm chiến đấu kịp thời như các Trung đoàn bộ binh 48, 64, 95 rất thiện chiến. Tuy nhiên, do chiến đấu căng thẳng, liên tục ngăn chặn và phản kích quân địch, quân số các đơn vị giảm nhanh, để duy trì quân số chiến đấu một tiểu đoàn bộ binh với 100 tay súng, đại đội bộ binh với 30 tay súng là điều cực kỳ khó khăn, mặc dù được bổ sung quân thường xuyên.
Để chia lửa với các đơn vị bảo vệ Thành cổ, phá thế vây ép của địch, Tư lệnh cánh đông, Thượng tá Nguyễn Sùng Lãm ra lệnh cho các đơn vị thuộc quyền tổ chức lực lượng luồn sâu đánh mạnh vào sau lưng địch, buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó với cánh đông nhất là ở khu vực đồng bằng Triệu Hải sát thị xã Quảng Trị.
Ngày 27-7-1972, sau khi thay sư đoàn dù và trở thành lực lượng chủ yếu đánh chiếm thị xã Quảng Trị, Sư đoàn lính thủy đánh bộ bắt đầu cuộc tiến công thị xã Quảng Trị với ưu thế hỏa lực pháo hạm và B52, ngày 1-8-1972 địch bắn phá mãnh liệt mang tính hủy diệt làm 4 bức tường xung quanh Thành cổ sụp đổ hoàn toàn, thành những đống gạch ngổn ngang, nát vụn, hố bom, hố pháo chồng lên nhau. Các chiến sĩ chúng ta ngồi trong hầm sâu dù không trúng mảnh bom, mảnh đạn thì máu ở tai, mũi, miệng cũng trào ra bởi sức ép của gần 40 nghìn viên đạn pháo và hàng chục quả bom nổ đinh tai, váng óc suốt ngày đêm. Trong mưa bom, bão đạn của quân thù, Trung đoàn 48, Trung đoàn 95, Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 8 bộ đội địa phương tỉnh và các đơn vị bạn vẫn vững niềm tin, kiên cường bám trụ chiến đấu tiêu hao, tiêu diệt nhiều đại đội lính thủy đánh bộ ngụy.
Lợi dụng lúc ta đang gặp khó khăn do mưa lũ gây nên, đầu tháng 9-1972, quân ngụy tiếp tục tăng quân để cùng Sư đoàn lính thủy đánh bộ tiến công vào các trận địa phòng ngự của ta. Sau nhiều trận chiến đấu quyết liệt, giành đi, giật lại từng đoạn hào, mô đất, bộ binh và xe tăng địch đã liên kết được với nhau trên các hướng nam, đông nam và đông, đông bắc thị xã Quảng Trị. Do lực lượng của ta mỏng, hỏa lực chi viện yếu, khi chiếm được mục tiêu, địch phản kích nên ta không còn đủ lực lượng để chốt giữ. Dựa vào hỏa lực máy bay và pháo binh vượt trội, những ngày sau đó địch liên tục tiến công chiếm lại các trận địa, có nơi bộ binh, xe tăng ngụy đã vào áp sát chân Thành cổ.
Trong số các đơn vị tham gia chiến đấu giữ Thành cổ Quảng Trị thì Tiểu đoàn 3 tỉnh đội Quảng Trị do Đại úy Đỗ Văn Mến(3) tiểu đoàn trưởng là một trong những đơn vị vào Thành cổ đầu tiên và bám trụ suốt 81 ngày đêm, tiểu đoàn chiến đấu hàng trăm trận, tiêu diệt hàng trăm tên địch. Đặc biệt, ngày 14-9-1972, Lữ đoàn 2, Sư lính thủy đánh bộ tổ chức nhiều đợt tiến công nhưng đều bị ta đánh bật ra. Địch bám trụ và đào hầm, hào bao vây thành. Lúc này lực lượng của Tiểu đoàn 3 còn hơn 20 tay súng. Đỗ Văn Mến lệnh cho các đơn vị tập trung các loại vũ khí lại, mỗi người sử dụng từ 3 đến 4 loại vũ khí và cơ động trong đoạn chiến hào dài khoảng 30m. Lợi dụng trời tối, từ 3 hướng địch liều lĩnh mở đợt tiến công dữ dội vào thành. Theo kế hoạch, hiệp đồng, Tiểu đoàn 8 tỉnh đội từ ngoài đánh vào, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 48 đánh thọc sườn địch, lực lượng Tiểu đoàn 3 từ trong đánh ra làm quân địch rối loạn thương vong lớn, không thực hiện được kế hoạch chiếm thành.
Ngày 16-9-1972, Bộ tư lệnh chiến dịch lệnh cho Trung đoàn 18 vượt sông sang thị xã. Lúc này nước sông Thạch Hãn đang lên to, không quân, pháo binh ngụy ra sức bắn phá khống chế các bến vượt, phương tiện vượt sông bị hỏng hết, Trung đoàn 18 phải rất chật vật mới đưa bộ phận đi đầu qua sông khi tình hình trong Thành cổ đã hết sức nghiêm trọng bởi lực lượng bảo vệ thị xã và Thành cổ bị thương vong lớn. Riêng Tiểu đoàn 3 còn 10 tay súng kể cả tiểu đoàn trưởng Đỗ Văn Mến. Các đơn vị buộc phải rút lui hồi 18 giờ ngày 16-9-1972, kết thúc 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị.
81 ngày đêm trụ vững ở thị xã Quảng Trị, đương đầu với cuộc đánh phá quy mô lớn, ác liệt chưa từng có từ trước đến nay của không quân, hải quân Mỹ, với tất cả những thủ đoạn bỉ ổi nhất, những đơn vị thiện chiến nhất của quân ngụy Sài Gòn, các đơn vị tham gia chiến dịch tiêu biểu là lực lượng bảo vệ thị xã Quảng Trị đã viết nên thiên anh hùng ca bất diệt về sức mạnh của quân dân ta trong cuộc đối đầu với đế quốc Mỹ xâm lược.
 (còn nữa)
 (1) Bí danh Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
 (2) Năm 1973 Vũ Trung Thướng được tuyên dương anh hùng LLVT nhân dân.
 (3) Đỗ Văn Mến được tuyên dương anh hùng LLVT nhân dân.

Kỳ 5: Trận then chốt quyết định
Chiếm được thị xã Quảng Trị nhưng quân ngụy cũng bị tổn thất nặng nề. 26.000 quân ngụy Sài Gòn bị loại khỏi vòng chiến đấu, 349 xe quân sự trong đó có 200 xe tăng, xe bọc thép bị phá hủy, 205 máy bay bị bắn rơi. Sư đoàn lính thủy đánh bộ và Sư đoàn dù thiện chiến nhất bị thiệt hại nặng nề. Mặc dù làm chủ được thị xã Quảng Trị nhưng quân ngụy chưa chiếm được đồng bằng Triệu Phong, chưa tới được Đông Hà - Cửa Việt như kế hoạch đã vạch ra. Lực lượng và tinh thần ngụy quân tuy có giảm sút, nhưng trước yêu cầu chính trị, quân ngụy vẫn không từ bỏ tham vọng tập trung lực lượng để giành lại những vùng đất đã bị quân giải phóng chiếm giữ.
Ngày 17-9-1972, trong bức điện số 253-Đ do đồng chí Văn ký, thay mặt Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Đảng ủy và Bộ tư lệnh chiến dịch: “… Bộ đội ta rút khỏi thị xã chỉ là một sự lui quân có tính chiến thuật. Cần có nhận thức đầy đủ rằng đứng về phạm vi cả mặt trận thì cuộc chiến đấu của ta còn đang tiếp tục…”. Tiếp sau đó Bộ Chính trị và Thường vụ Quân ủy Trung ương còn chỉ thị cho Bộ tư lệnh chiến dịch “Phải dứt khoát dùng hình thức phòng ngự trận địa mới giành được thắng lợi”.
Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương, được sự giúp đỡ của các cơ quan Bộ Tổng tư lệnh và sự đôn đốc của Bộ tư lệnh chiến dịch, các hướng đã thực sự quán triệt được yêu cầu phải xây dựng hệ thống trận địa phòng ngự mới, đồng thời cụ thể cách thức xây dựng chốt liên hoàn, cách bố trí sử dụng binh lực, hỏa lực. Các đơn vị vừa khẩn trương xây dựng trận địa, vừa làm kế hoạch tác chiến phòng ngự, vừa điều chỉnh lực lượng, vừa tiếp tục chiến đấu. Trong những ngày này, lợi dụng mùa mưa, quân ngụy đang gây cho ta những khó khăn. Chúng tiếp tục tập trung cao độ hỏa lực không quân, hải quân đánh phá với cường độ lớn vào các trận địa phòng ngự của ta.
Các chiến sĩ Đại đội 10, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 9, Sư đoàn 304 tiến công đánh địch tại Cầu Sắt - Quảng Trị, ngày 23-7-1972. Ảnh tư liệu.
Cảnh giác và chủ động đối phó với địch, Bộ tư lệnh chiến dịch thông báo các đơn vị toàn mặt trận: “Ngày 20-10 có thể ta và Mỹ trở lại mật đàm ở Pa-ri. Hướng cánh đông phải đề phòng khả năng địch ném bom hủy diệt và đánh chiếm các vị trí quan trọng khi 2 bên bước vào đàm phán ở hội nghị”, đồng thời tư lệnh chiến dịch chỉ thị cho Sư đoàn 304 đưa Trung đoàn 24 là lực lượng dự bị vào cùng với lực lượng phòng ngự tiến hành phản kích. Trung đoàn 66 chiếm lại các điểm cao 124, 128. Tiểu đoàn 2 độc lập đang trên đường vào nam sông Mỹ Chánh, cũng được lệnh dừng lại để tăng cường cho hướng này.
Ở hướng đông, thế trận ngày càng vững vàng hơn. Cuộc sống của bộ đội dù được cải thiện từng bước nhưng vẫn còn không ít khó khăn. Thực hiện kế hoạch luân phiên, cuối tháng 10, Trung đoàn 101 ra củng cố ở bắc Cửa Việt. Trung đoàn 27 vào thay, chiến đấu trên khu vực An Long - Bích La - Chợ Sải.
Đêm 1-11, cuộc hành quân của Lữ đoàn lính thủy đánh bộ 369 từ thị xã Quảng Trị bí mật vượt sông Thạch Hãn sang Nhan Biều, Ái Tử mang tên “Sóng thần 9” đánh chiếm đầu cầu Nhan Biều. Khi Tiểu đoàn 6 thủy quân lục chiến, bộ phận đi đầu của cuộc hành quân mới sang sông đã bị Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 18 chặn đánh và tiêu diệt gọn. Pháo binh chiến dịch của ta vừa chi viện trực tiếp cho Tiểu đoàn 8, vừa bắn trúng đội hình phía sau đang rối loạn của địch ở phía hữu ngạn và trong thị xã diệt nhiều tên. Bị thiệt hại nặng, Lữ đoàn 369 lính thủy đánh bộ phải bỏ cuộc tiến công và nhận kết cục cay đắng thất bại cuộc hành quân “Sóng thần 9”.
Do thế phòng ngự khu giữa đã được ổn định, Bộ tư lệnh chiến dịch điều Sư đoàn 312 vào thay thế Sư đoàn 308 và điều Trung đoàn 165 từ khu giữa sang tăng cường cho Sư đoàn 304. Như vậy, kể từ ngày 7-12, Sư đoàn 304 có thêm Trung đoàn 165 đã tổ chức phản kích lấy lại mỏm A1 nhưng không trụ lại được vì máy bay và pháo binh ngụy thay nhau bắn phá ác liệt.
Ngày 23-1-1973, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định mở một đợt phản kích để cải thiện tình hình ở hướng tây. Trung đoàn 95 ở khu giữa được lệnh sang sông cùng Trung đoàn 209 tiến công quân ngụy ở Tích Tường, Như Lệ, chiếm lại các điểm cao 52, 29, 15, giữ vững được tuyến ven sông Thạch Hãn cho đến ngày có lệnh ngừng bắn.
Nắm được âm mưu của địch mở cuộc hành quân mang tên “Tăng-gô Xi-ti” nhằm đánh chiếm Cửa Việt trước khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, 12 giờ 30 phút ngày 25-1, Bộ tư lệnh chiến dịch chỉ thị cho Bộ tư lệnh cánh đông chuẩn bị phương án đánh địch ra Cửa Việt. Mọi công tác chuẩn bị đang được xúc tiến khẩn trương thì đêm 25 sáng 26-1-1973, không quân pháo hạm của Mỹ, pháo binh ngụy bắn phá dữ dội vào hệ thống phòng ngự cánh đông. Dứt tiếng bom, pháo nổ, lập tức bộ binh và xe tăng quân ngụy thực hành tiến công, cuộc chiến đấu giành giật giữa ta và địch diễn ra ác liệt, địch buộc phải co lại thành 4 cụm kéo dài từ nam Cửa Việt đến Vĩnh Hòa.
Liên tục trong hai ngày 28 và 29-1, lực lượng cánh đông đã tổ chức đánh địch nhưng không thành công. Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định tăng cường cho cánh đông Trung đoàn 24 và Trung đoàn 66 của Sư đoàn 304 cùng với một đại đội xe tăng; đồng thời cử Đại tá Cao Văn Khánh, Phó tư lệnh; Đại tá Hoàng Minh Thi, Phó chính ủy; Đại tá Doãn Tuế, Phó tư lệnh chiến dịch kiêm Tư lệnh pháo binh chiến dịch xuống đốc chiến Bộ tư lệnh cánh đông chỉ huy phản đột kích.
Sáng ngày 30-1-1973, Bộ tư lệnh cánh đông tổ chức lại đội hình đòn phản đột kích. Bộ phận chặn đầu gồm 2 đại đội của Trung đoàn 101, Sư đoàn 325 và Trung đoàn 48, Sư đoàn 320b, bộ phận K5 Hải quân và một bộ phận công binh Sư đoàn 320b, có nhiệm vụ giữ khu vực Cảng, Phó Hội, Hà Tây, kiên quyết ngăn chặn địch trước các chốt phòng ngự, không cho quân ngụy phát triển vào Cửa Việt.
Bộ phận khóa đuôi có Trung đoàn 64; Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 24; Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 101 chốt tại Vĩnh Hòa đánh địch tăng viện từ Thanh Hội lên và chặn quân rút chạy từ Cửa Việt xuống.
Bộ phận chủ lực, gồm Trung đoàn 101, Trung đoàn 24, Tiểu đoàn 38 và Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 271 có nhiệm vụ tiêu diệt quân ngụy từ xóm Mộ lên tới Cảng.
Vì chuẩn bị chậm, đến 12 giờ ngày 30-1 bộ đội ta nổ súng không đồng loạt, nên đòn phản kích này không hiệu quả. Sáng sớm ngày 31-1, Bộ tư lệnh cánh đông tập trung 5 tiểu đoàn của bộ phận chủ lực có một số xe tăng, xe bọc thép cùng các lực lượng chốt tiến công vào quân ngụy ở phía nam cảng. 6 giờ 30 phút các trận địa pháo chiến dịch, các trận địa pháo chống tăng bờ bắc ĐKZ 75, pháo 85mm, B72, các đội hỏa khí chống tăng đi cùng bắn mãnh liệt vào các cụm quân địch mở đầu trận đánh. Bị đòn phủ đầu, quân ngụy choáng váng, đội hình rối loạn. Lập tức các đơn vị theo nhiệm vụ đã được phân công đồng loạt tiến công vào 5 cụm quân. Pháo phòng không của ta khống chế toàn bộ vùng trời từ Long Quang đến Thanh Hội. Đến 8 giờ 30 phút ngày 31 tháng 1, bộ đội ta diệt xong cả 3 cụm quân ngụy ở phía nam cảng.
Một số quân ngụy sống sót theo các triền cát trắng dọc bờ biển Cửa Việt tháo chạy về tới Vĩnh Hòa, vấp phải các trận địa chốt của Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 101, không chống cự, quân ngụy trút vũ khí đầu hàng. Thừa thắng, bộ đội ta đuổi quân ngụy vào tới Thanh Hội. Đến 10 giờ 30 phút, từ cảng Cửa Việt đến Vĩnh Hòa không còn một bóng ngụy quân, ta khôi phục lại tuyến phòng ngự từ Thanh Hội, Long Quang đến Chợ Sải. Cuộc hành quân “Tăng-gô Xi-ti” của ngụy quân bị thất bại hoàn toàn.
Đòn đánh tiêu diệt này đã làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và ngụy quân tại Quảng Trị, làm thất bại hoàn toàn âm mưu của địch chiếm lại vùng ta mới giải phóng. Ta đã tiêu diệt hơn 2.330 tên ngụy, bắt 200 tên, phá hủy 113 xe tăng, xe bọc thép, thu 12 xe, bắn rơi 5 máy bay, phá hủy 10 khẩu pháo, bắn cháy 1 tàu. Lữ đoàn đặc nhiệm bị tiêu diệt, Lữ đoàn lính thủy đánh bộ 147 và 4 chi đoàn thiết giáp bị thiệt hại nặng nề.
Trận phản đột kích Cửa Việt là một trận then chốt quyết định của Chiến dịch phòng ngự Quảng Trị năm 1972, đánh dấu sự kết thúc chiến dịch bằng một chiến thắng oanh liệt. Chiến thắng đó càng có ý nghĩa to lớn cả về quân sự, chính trị - ngoại giao, trong giai đoạn trước mắt cũng như giai đoạn đấu tranh sau Hiệp định Pa-ri.
Cuộc tiến công chiến lược Trị - Thiên năm 1972 đã diễn ra 308 ngày đêm, trong đó có chiến dịch tiến công và chiến dịch phòng ngự, tuy ta không giải phóng được Thừa Thiên và không giữ được Thành cổ Quảng Trị nhưng thắng lợi đó đã làm thay đổi thế và lực của ta trong thời điểm lịch sử vô cùng quan trọng này. Góp phần làm tê liệt chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri, phải rút hết quân Mỹ và đồng minh ra khỏi miền Nam nước ta, đẩy nhanh quân ngụy vào thế suy sụp. Thực tế trên chiến trường Trị - Thiên đã minh chứng, lần đầu tiên chiến trường miền Nam ta đã tiêu diệt nhiều đơn vị lớn của địch, nhất là 2 sư đoàn dự bị chiến lược tinh nhuệ nhất. Lần đầu tiên ta đã giải phóng hoàn toàn một tỉnh, tạo thế để củng cố và bảo vệ vững chắc tuyến đường vận tải chiến lược 559 và kéo dài thêm tuyến vận tải đường biển khá quan trọng với cảng Cửa Việt một trong những cảng lớn ở miền Trung và cả nước.
Thắng lợi ở Trị - Thiên là thắng lợi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, biểu tượng của tinh thần chiến đấu vô song, ý chí kiên cường, không gì có thể lay chuyển nổi, người trước ngã người sau tiến lên, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc, trong chiến đấu quân - dân gắn bó keo sơn, một ý chí.
Thắng lợi ở Trị - Thiên cũng chính là thắng lợi của sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn, sự kết hợp tài tình đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị - ngoại giao của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh; sự chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch sáng tạo, kiên quyết của Đảng ủy và Bộ tư lệnh chiến dịch, thể hiện bằng nghệ thuật tổ chức chiến trường, thế trận chiến dịch; cách đánh chiến dịch; chỉ đạo chiến thuật. Luôn tỉnh táo, chủ động trong bị động, phá thế mạnh của địch để giành lại thắng lợi của chiến dịch.
Tất cả những thành công, và thiếu sót ở hướng tiến công chiến lược Trị - Thiên năm 1972, chúng ta đã thu được những bài học vô cùng sâu sắc, quý giá, nhất là những vấn đề về nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến dịch, chiến thuật cần phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của quân đội ta.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét