Thứ Năm, 16 tháng 8, 2012

Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 40 năm chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh (24/04/1972-24/04/2012)

 Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 40 năm chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh (24/04/1972-24/04/2012)


I. Chiến thắng Đăk Tô – Tân Cảnh, mang tầm vóc thời đại to lớn.
1. Bối cảnh lịch sử.
Liên tục bị thất bại và thua đau trong chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đế quốc Mỹ buộc phải xuống thang chiến tranh, tìm lối thoát và gỡ thế thua trong danh dự bằng chiến lược chiến tranh mới: “chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh”. Để thực hiện âm mưu chiến lược trên, đế quốc Mỹ vạch ra các kế hoạch:“quét và giữ”“bình định nông thôn”“phi Mỹ hóa”, trong đó “bình định nông thôn” là trọng tâm cơ bản, để giành lại dân, chiếm lại đất, tiến tới đánh bại phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam, kết thúc cuộc chiến tranh theo hướng có lợi cho Mỹ.
Đăk Tô vốn là vùng địa bàn quan trọng không những với tỉnh Kon Tum mà cả khu vực Bắc Tây Nguyên và miền Nam. Đồng thời, Đăk Tô – Tân Cảnh còn là căn cứ quân sự mạnh nhất của ngụy quân ở Bắc Tây Nguyên, được mệnh danh là vành đai thép của Mỹ ngụy. Sau nhiều lần bị ta tấn công đánh phá các cứ điểm và tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, nhất là trong đợt tấn công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, địch ở Đăk Tô có phần co cụm phòng ngự, đồng thời phân chia lực lượng chốt giữ các nơi trong vùng chúng kiểm soát.
Năm 1969 chương trình “bình định cấp tốc” của địch nhằm mục tiêu giành dân và kìm kẹp dân tại chỗ trong vùng chúng kiểm soát, nhất là những nơi chúng thấy không ổn định cho là mất an ninh và tập trung làm trước như, vùng đồng bào kinh ở Diên Bình, các làng đồng bào dân tộc quanh Đăk Tô, một số ấp ở đường 18 và một số nơi dọc trục đường 14 như Kon Hơ Ring, Kontrăng – Long Loa, Đăk Cang, …
Giữa năm 1971, trên chiến trường Kon Tum, địch liên tiếp bị thất bại nặng nề đã đi dần vào thế phòng ngự chiến lược bị động. Toàn bộ lực lượng địch được bố trí thành 2 tuyến phòng ngự: một tuyến từ phía tây sông Pô Kô – Đăk Tô – Tân Cảnh và đường 18, một tuyến từ thị xã Kon Tum dọc theo đường 14 đến Đăk Tô.
Đầu năm 1972 trên chiến trường miền Nam, cục diện chiến trường có những thay đổi quan trọng. Nhìn chung: diễn biến cơ bản của tình hình là ta đang ở thế thắng, thế chủ động, thế thuận lợi, thế đi lên; địch đang ở thế thua, thế bị động, thế khó khăn, thế đi xuống. Tại hội nghị lần thứ 20 của Trung ương Đảng, trên cơ sở phân tích tình hình địch, ta đã quyết định mở cuộc tiến công chiến lược với quy mô lớn trên toàn miền Nam.
Tại miền núi và đồng bằng khu 5, Khu ủy đã thông qua phương án mở chiến dịch xuân hè 1972, chọn Tây Nguyên làm hướng tấn công chính với quy mô vừa và lớn. Tỉnh Kon Tum được xác định là hướng tấn công quan trọng của chiến dịch với mục tiêu trọng điểm là cụm phòng ngự then chốt của địch tại Đăk Tô – Tân Cảnh nhằm tiêu diệt địch giành thắng lợi, mở ra điều kiện để giải phóng tỉnh Kon Tum, phát triển về hướng Pleiku, tạo bàn đạp để mở rộng vùng giải phóng ở đồng bằng.
Chấp hành chủ trương của khu ủy và sự phối hợp cùng mặt trận Tây Nguyên, tỉnh Kon Tum đã khẩn trương chuẩn bị cho chiến dịch. Quyết tâm của toàn Đảng bộ và quân  dân Kon Tum là tích cực tham gia cùng bộ đội chủ lực nhằm mục tiêu trọng tâm tấn công tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch trên tuyến phòng thủ tây sông Pô Kô – Đăk Tô – Tân Cảnh của sư đoàn 22 ngụy và các lực lượng tăng cường ở Đăk Tô – Tân Cảnh, tiêu diệt lực lượng dự bị của quân đoàn 2 và lực lượng tổng dự bị ngụy đến cứu viện; giải phóng Đăk Tô – Tân Cảnh và bắc thị xã Kon Tum, phát động quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ.
Tỉnh ủy động viên sự nổ lực cao nhất của toàn Đảng bộ, quân dân trong tỉnh dồn sức phục vụ cho chiến dịch, nguồn nhân lực được huy động đến mức tối đa với 446.758 ngày công phục vụ, nhằm mục tiêu ở Đăk Tô – Tân Cảnh. Tỉnh huy động đến 600 cán bộ và 700 du kích tham gia chiến dịch. Nhiều cán bộ từ tỉnh được tăng cường thêm cho Đăk Tô; các lực lượng vũ trang gấp rút được kiện toàn bổ sung quân số; tiểu đoàn bộ binh 304 và tiểu đoàn đặc công 406 của tỉnh đội được phân công trụ bám tại Đăk Tô, phối hợp cùng bộ đội chủ lực tấn công địch …
Là vùng địa bàn trọng điểm của chiến dịch, Đảng bộ và quân dân Đăk Tô (H80) đã quán triệt đầy đủ tinh thần lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy và Khu ủy, tích cực chuẩn bị mọi mặt để phối hợp tham gia chiến dịch nhằm đạt mục tiêu chung, với quyết tâm mong muốn giải phóng Đăk Tô – Tân Cảnh, giải phóng toàn huyện.
Căn cứ vào nhiệm vụ chung của Tỉnh, Huyện ủy đã xây dựng phương án nổi dậy với yêu cầu nhiệm vụ: Diệt và làm tan rã một phần lớn sinh lực địch và phương tiện chiến tranh, quét toàn bộ và tan rã lực lượng phụ quân và lực lượng kìm kẹp tại cơ sở, nhanh chóng phát động quần chúng và xây dựng thực lực, kết chặt với tấn công 3 mũi bên ngoài trong một thời gian ngắn để tiến tới giành toàn bộ dân, không để bị tổn thất. Tiếp theo là tiếp quản tốt vùng mới giải phóng, xây dựng và nhanh chóng phát triển thực lực của ta về mọi mặt.
Toàn Đảng bộ, quân dân Đăk Tô và tỉnh Kon Tum đã khẩn trương tập trung cho công tác chuẩn bị với một quyết tâm “Tất cả cho tuyền tuyến, tất cả cho chiến thắng” và một khí thế vô cùng sôi động là:“Trường sơn chuyển mình, Pô Kô dậy sóng, quét sạch quân thù, giải phóng quê hương”.
Đầu tháng 3/1972, địch đã hình thành 3 cụm phòng thủ mạnh ở khu vực bắc Tây Nguyên: Đăk Tô – Tân Cảnh, thị xã Kon Tum và thị xã Pleiku. Trong đó, Đăk Tô – Tân Cảnh và thị xã Kon Tum là 2 cụm phòng ngự then chốt.
Trên địa bàn Đăk Tô, binh lực địch tập trung khá lớn gồm trung đoàn bộ trung đoàn 42 với 2 tiểu đoàn thường trực đóng tại căn cứ Kon Hơ Yao và sân bay Phượng Hoàng; năm đại đội bảo an thuộc liên đội bảo an 2/17 chia nhau đóng giữ cầu nước Ui, đông Kon Hơ Ring, Diên Bình, đông Đăk Tô, Tân Cảnh; nghĩa quân trong các ấp và khi dồn khoảng 1.200 tên, phòng vệ dân sự khoảng 3.500 tên và 6 đoàn bình định nông thôn với 150 tên. Chi cảnh sát ở thị trấn Tân Cảnh có 80 tên các loại, lực lượng thám báo, thám kích cộng mật vụ khoảng 300 tên. Ngoài ra còn có một ủy ban chiêu hồi 12 tên ở Tân Cảnh, một ủy ban tâm lý chiến 18 tên và 01 ủy ban phụ trách các đoàn bình định 25 tên ở Đăk Tô. Số nhân viên ngụy quyền ở quận, xã ấp có đến 800 tên.
Địch tuy đi vào thế phòng ngự chiến lược, nhưng lực lượng vẫn còn đông, vũ khí và phương tiện chiến tranh còn nhiều, lực lượng kèm kẹp cơ sở vẫn còn khống chế và kiểm soát dân ở các xã, ấp trên một diện rộng. Chúng rất ngoan cố  tiếp tục thực hiện bình định nông thôn, đánh mạnh vào lực lượng của ta trong vùng chúng kiểm soát bằng thủ đoạn “tam giác chiến”, đồng thời lập tuyến phòng thủ từ xa để ngăn chặn ta tấn công, quyết giữ đất, giữ dân vùng chúng kiểm soát, theo đuổi đến cùng của mục đích của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh.
Khu ủy đã thông qua phương án mở chiến dịch xuân hè 1972, chọn Tây Nguyên làm hướng tấn công chính với quy mô vừa và lớn. Tỉnh ủy Kon Tum được xác định là hướng tấn công quan trọng của chiến dịch với mục tiêu trong điểm là cụm phòng ngự then chốt của địch tại Đăk Tô – Tân Cảnh nhằm tiêu diệt địch giành thắng lợi, mở ra điều kiện để giải phóng tình Kon Tum, phát triển về hướng Plei ku, tạo bàn đạp để mở rộng vùng giải phóng ở đồng bằng.
Bộ chỉ huy chiến dịch tại Tây Nguyên, qua nghiên cứu tình hình phòng ngự của địch đã chủ trương hình thành thế trận đánh chia cắt địch ở Kon Tum với Pleiku, Kon Tum với Đăk Tô – Tân Cảnh, tạo thế cô lập từng cụm quân địch; đồng thời dùng thế trận vây hãm địch ở thị xã Kon Tum buộc chúng phải bung ra ngoài để ta tiêu diệt, làm hao mòn lực lượng địch, khiến cho lực lượng phòng thủ ở Đăk Tô – Tân Cảnh bị suy yếu sơ hở, nhân cơ hội đó bộ đội chủ lực ta cùng với lực lượng vũ trang địa phương và phong trào nổi dậy tại chỗ của quần chúng sẽ tấn công tiêu diệt địch. Phương pháp tác chiến được sử dụng là: “Vây hãm, tiêu diệt sinh lực kết hợp với đột phá” để đánh bại địch giành thắng lợi.
Với mục tiêu và hướng tấn công đã được xác định, ta tập trung lực lượng binh lực khá lớn gồm: Sư đoàn 320, Trung đoàn pháo 40 và 675, Trung đoàn 7 công binh, các đoàn xe tăng, một đội pháo cao xạ. Với quyết tâm dùng lực lượng vũ trang làm quả đấm thép kết hợp với tấn công và nổi dậy của quân và dân trên địa bàn tại chỗ đập tan hệ thống kèm kẹp của địch giải phóng những vùng trọng điểm, mở đường tấn công và nổi dậy ở thị xã và thành phố.
Tết Nhâm Tý đã qua, mùa khô sắp kết thúc mà vẫn chưa thấy quân ta tiến công, Mỹ - Ngụy huênh hoang cho rằng “Việt Nam hóa chiến tranh” đã thắng lợi.
Đúng lúc địch chủ quan sơ hở, ngày 30/3/1972 quân và dân ta mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.
Tuy nhiên, ngay từ đầu chiến dịch, Đăk Tô – Tân Cảnh đã là mục tiêu trọng tâm then chốt sớm bị ta chia cắt, bao vây cô lập. Việc giải phóng Đăk Tô – Tân Cảnh không chỉ là lòng mong muốn và quyết tâm của Đảng bộ và quân dân Đăk Tô cũng như tỉnh Kon Tum mà còn là yêu cầu nhiệm vụ chung đối với chiến trường khu 5 và toàn miền. Bộ tổng tư lệnh khi giao nhiệm vụ cho bộ đội chủ lực ở hướng Tây Nguyên đã chỉ rõ: “Tiêu diệt địch, giải phóng vùng Đăk Tô – Tân Cảnh, có điều kiện thì giải phóng thị xã Kon Tum hướng phát triển có thể là hướng Pleiku, có điều kiện thì mở rộng vùng giải phóng tây Pleiku, giải phóng thị xã Buôn Mê Thuột, hình thành căn cứ địa hoàn chỉnh nối liền với căn cứ địa miền đông Nam bộ”.
Qua nghiên cứu thế bố trí phòng ngự của địch ở Đăk Tô – Tân Cảnh, bộ chỉ huy chiến dịch nhận thấy địch tập trung sức mạnh về hướng tây và hướng bắc; hướng đông nơi có sở chỉ huy cụm của địch nằm trong căn cứ 42 cũng nằm lùi sâu về hướng này lại bị bỏ trống, thế che đỡ yếu. Từ đó việc tập trung lực lượng đánh vào yếu điểm sơ hở của địch được bộ chỉ huy chiến dịch quyết định và là mục tiêu trọng tâm của cuộc tấn công.
Tình hình lực lượng giữa địch và ta lúc đó là:
Về lực lượng địch: Cụm phòng ngự Đăk Tô – Tân Cảnh lúc này địch tập trung lực lượng gồm: 13 tiểu đoàn bộ binh, một trung đoàn thiết giáp và 3 tiểu đoàn pháo, 2 đại đội bảo an. Tất cả được bố trí ở 2 cụm cứ điểm lớn là Đăk Tô II và căn cứ 42 – Tân Cảnh. Trong đó, căn cứ 42 – Tân Cảnh là vị trí then chốt, nơi đặt sở chỉ huy nhẹ sư đoàn 22, Trung đoàn 42 ngụy với sự thường trực tại chỗ của đại tá Lê Đức Đạt – Sư đoàn trường sư đoàn 22 ngụy, sau đó có thêm đại tá Tôn Thất Hùng – phái viên của Tư lệnh quân đoàn 2 lên làm nhiệm vụ đốc chiến. Ngoài ra còn có lực lượng tổng hợp gồm: Nghĩa quân, dân vệ, cảnh sát, thám báo, biệt kích, cán bộ bình định, phượng hoàng …
Lực lượng chủ lực của ta gồm: Trung đoàn 66 được tăng cường thêm tiểu đoàn 37 đặc công nằm trong đội hình chiến đấu sư đoàn 2, cùng với một số lớn binh khí kỹ thuật, có cả xe tăng và pháo binh, được điều chuyển từ phía tây sang phía đông để  tấn công vào căn cứ 42. Quá trình vận chuyển đầy khó khăn, vất vả, nhưng nhờ khéo nghi binh và giữ bí mật nên thế trận theo kế hoạch được đảm bảo.
2. Diễn biến của trận đánh.
Đêm 23 rạng sáng ngày 24/4/1972, từ phía đông tại ngầm sông Pô Kô hạ, đại đội thiết giáp 7 gồm 9 xe tăng T54 cùng Trung đoàn bộ binh 66 và tiểu đoàn 37 đặc công bắt đầu xuất kích bất ngờ đột phá trận địa phòng ngự của địch. Những đơn vị địch nằm trên phía đông căn cứ 42 nhanh chóng bị lực lượng ta quét sạch. Pháo của ta liên tục đánh phá các mục tiêu bên trong căn cứ.
Kho đạn bị nổ tung, kho xăng bốc cháy, khu trung tâm thông tin bị đạn pháo ta bắn sụp đổ. Các công sự, lô cốt, boong ke án ngữ trên các hướng cửa mở bị đạn B72 của lực lượng ta bắn sập. Trong khói lửa mù trời, các chiến sĩ trung đoàn 66 và tiểu đoàn đặc công 37 áp sát vào hàng rào căn cứ địch. Từ phía sau, 9 chiếc xe tăng T54 của đại đội 7 thiết giáp bí mật ém quân ở ngầm Pô Kô hạ đã xuất kích tiến ra đường 14, vượt qua quận lỵ Đăk Tô lao nhanh về căn cứ 42.

Địch đang bàng hoàng về sự tấn công bất ngờ của lực lượng bộ binh ta ở hướng đông, lại thấy có thêm nhiều xe tăng xuất hiện đang đánh mạnh về hướng này, biết sắp bị tiêu diệt liền vừa xin cứu viện, vừa cố sức chống cự.
Từng tốp máy bay các loại từ các sân bay Pleiku, Kon Tum liên tiếp lao lên Đăk Tô – Tân Cảnh bắn phá ác liệt vào trận địa và đội hình chiến đấu ta để cứu nguy cho đồng bọn. Nhiều chiến sĩ ta đã dũng cảm hy sinh khi chiến đấu dưới bom đạn của địch.
Ở bên trong căn cứ 42, bọn địch chống cự quyết liệt. Chúng gọi pháo ở các điểm lân cận bắn về, đồng thời dùng xe tăng lao ra phản kích, bắn chất độc hóa học có hơi ngạt, hơi cay hòng chặn bước tiến các cánh quân ta. Tuy nhiên, pháo ta át hẳn pháo địch, buộc chúng phải câm họng, tên lửa chống tăng của ta xuất hiện như những vật lạ bay vào đốt phá xe tăng địch. Bộ đội ta với tinh thần dũng cảm đã phá xong các lớp rào ở phía đông căn cứ 42, giữ vững được cửa mở ở phía bắc căn cứ.
5 giờ 10 phút ngày 24/4, pháo lệnh xuất hiện. Từ các hướng bộ đội nhất tề xung phong. Các loại đạn pháo xe tăng, đạn B40 và thủ pháo của bộ binh ta lần lượt phá sập từng lô cốt của địch, xe tăng ta tiến sâu vào bên trong chà đạp nhiều ụ súng địch kháng cự. Lực lượng ta nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa, đè bẹp sức chiến đấu của địch. Bọn cố vấn Mỹ dùng máy bay lên thẳng tháo chạy, tên Tôn Thất Hùng kịp bám theo. Đại tá Lê Đức Đạt – sư đoàn trưởng và đại tá cố vấn Mỹ bị bắn chết tại trận. Đại tá Vi Văn Bình – sư đoàn phó chạy trốn bị ta bắt sống cùng với số sĩ quan tham mưu, một số cố vấn Mỹ và hơn 400 binh lính.
Đúng 11 giờ trưa ngày 24/4 ta hoàn toàn làm chủ căn cứ 42. Lá cờ giải phóng do Tỉnh ủy Kon Tum trao cho trung đoàn 66 hôm làm lễ xuất quân được các chiến sĩ ta mang vào trận đánh, đã được cắm và tung bay ở đỉnh trung tâm căn cứ 42 của địch, báo tin chiến thắng.
Hướng căn cứ Đăk Tô 2, nơi phòng giữ của trung đoàn 47 thuộc sư 22 ngụy vừa tăng cường đến, cũng đã nằm trong thế bị lực lượng ta bao vây. Ngày 24/4 trung đoàn 1 (sư đoàn 2) của ta được tăng cường thêm tiểu đoàn 10 đặc công đã áp sát cứ điểm địch, đánh thẳng vào sào huyện trung đoàn 47. Pháo và xe tăng ta trong thế áp đảo địch ở căn cứ 42 cũng kịp thời chuyển sang chi viện… sức chống cự của địch tại căn cứ Đăk Tô 2 nhanh chóng bị đè bẹp. Bọn tàn quân bỏ đồn chạy qua sông bị ta phá cầu chặn đánh, số vượt được qua bên kia bờ lại rơi vào vòng vây của lực lượng vũ trang và dân quân du kích Đăk Tô, tất cả bị ta tiêu diệt và bắt sống. Trung đoàn 47 địch bị ta tiêu diệt hoàn toàn, ta chiếm lĩnh và làm chủ căn cứ Đăk Tô 2.
Tại quận lỵ Đăk Tô, tiểu đoàn 304 tỉnh đội Kon Tum từ đầu tháng 3 đã thực hiện vây lấn, ép địch, đột nhập quấy phá ấp Kon Đào, đánh ấp Đăk Chu diệt gọn một đại đội địch, đến ngày 24/4 tiểu đoàn 406 đặc công tỉnh đội tiến công vào quận lỵ, địch bỏ chạy ra ngoài, đã bị tiểu đoàn 304 vây đánh bắt nhiều tù binh, thu nhiều súng đạn, tên quận trưởng Lò Văn Bảo cùng một số sĩ quan ngụy vội vã dùng máy bay HU 1A chạy về thị xã Kon Tum.
Đêm ngày 24/4 trung đoàn 2 (sư đoàn 2) cùng lực lượng vũ trang địa phương Đăk Tô tập kích vào căn cứ Diên Bình diệt gọn 2 liên đội bảo an, thu nguyên vẹn 2 máy bay lên thẳng.
Hai căn cứ trụ cột và Diên Bình bị tiêu diệt, quận lỵ Đăk Tô cũng bị phá tan, bộ đội và lực lượng vũ trang huyện tiếp tục phát triển tấn công phá tung thế trận phòng ngự địch. Bọn đang chốt giữ ở các điểm cao Ngọc Rinh Rua, Ngọc Bơ Biêng phải co cụm về Plei Cần, bọn địch ở Tri Lễ, tàn quân ở quận lỵ Đăk Tô, tây sông Pô Kô hốt hoảng chạy về thị xã Kon Tum.
Hơn 2 vạn đồng bào ở các ấp, khu dồn quanh Đăk Tô, Tân Cảnh, dọc đường 14, Diên Bình, Kon Hơ Ring đã nổi dậy phá tan rã toàn bộ hệ thống phòng vệ dân sự, giải tán ngụy quyền, diệt ác ôn trở về làng cũ.
Ta chiếm lĩnh và làm chủ toàn bộ khu vực Đăk Tô – Tân Cảnh. Ủy ban quân quản quận Đăk Tô đã tiến vào tiếp quản quận lỵ và thị trấn Tân Cảnh, công bố thông lệnh và 9 chính sách đối với vùng mới giải phóng, thông báo cho toàn thể các lực lượng vũ trang, nửa vũ trang, đội công tác cùng với nhân dân tiếp tục truy lùng bọn tàn quân, bọn kèm kẹp và bắt giữ bọn ác ôn, nhanh chóng đưa dân về vùng giải phóng, vùng căn cứ.
3. Kết quả, nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử.
a. Kết quả.
Cuộc tấn công chiến lược xuân hè 1972 trên địa bàn Đăk Tô đã giành được thắng lợi to lớn. Ta đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch trên tuyến phòng thủ bắc và tây bắc Kon Tum, đập tan cụm phòng ngự Đăk Tô – Tân Cảnh. Kết quả các lực lượng ta đã:
Tiêu diệt bộ tư lệnh và toàn bộ cơ quan tham mưu tiền phương của sư đoàn 22 ngụy.
Tiêu diệt ban chỉ huy và cơ quan tham mưu của trung đoàn 42 và trung đoàn 47.
Tiêu diệt ban chỉ huy trung đoàn 14 thiết giáp.
Tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng trung đoàn 42 và trung đoàn 47.
Tiêu diệt 3 tiểu đoàn xe bọc thép và xe tăng, trong đó 2 tiểu đoàn của trung đoàn 14 và 1 tiểu đoàn của trung đoàn 19 ngụy.
Tiểu diệt tiểu đoàn pháo binh 223 và một số đại đội pháo binh khác.
Đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 1 trung đoàn 41 và tiểu đoàn dù số 9 của ngụy.
Tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ 7 đại đội bảo an, toàn bộ lực lượng cảnh sát thuộc chi khu Đăk Tô – Tân Cảnh.
Ngoài ra còn bắn rơi 17 máy bay, thu và phá hủy 30 khẩu pháo hạng nặng, thu rất nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch, bắt sống trên 600 tù binh trong đó có rất nhiều sĩ quan cấp úy và cấp tá.
Một vùng rộng lớn hơn 300 km2 từ Đăk Tô – Tân Cảnh đến Võ Định với 25.000 dân hoàn toàn được giải phóng.
b. Nguyên nhân thắng lợi.
Có được chiến thắng to lớn của chiến dịch xuân hè 1972 mà tiêu biểu là chiến thắng Đăk Tô – Tân Cảnh là bởi những những nguyên nhân sau:
- Nhờ đường lối, phương châm đúng đắn của Đảng; sự nhận định đánh giá chính xác, đúng đắn thực lực và thế trận của địch và ta; sự chỉ đạo sáng suốt của các cấp ủy, của bộ tư lệnh chiến dịch.
- Có quyết tâm lớn của toàn tỉnh Đảng bộ Kon Tum, Ban chỉ huy Mặt trận và Đảng bộ H80.
- Là thắng lợi của tinh thần quyết tâm và tinh thần chiến đấu kiên cường, dũng cảm, tinh thần quyết thắng cao độ, tinh thần đoàn kết nhất trí của quân và dân ta nói chung, của quân và nhân dân các dân tộc huyện H80 và tỉnh  Kon Tum nói riêng.
- Là kết quả của một quá trình chuẩn bị công phu và nỗ  lực  của quân và dân ta: Về bộ đội đã nỗ lực vượt khó khăn, rèn luyện, học tập, nâng cao trình độ chiến đấu và chỉ huy hiệp đồng binh chủng. Các đội công tác tích cực trụ bám, hăng hái, xông xáo. Nhân dân đã đem hết sức mình phục vụ tiền tuyến, thực hiện khẩu hiệu: “Tất cả vì tiền tuyến”, sát cánh cùng bộ đội góp phần giành thắng lợi.
c. Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Đăk Tô – Tân Cảnh.
Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh là khúc ca hùng tráng về tinh thần chiến đấu dũng cảm và kiên cường, đoàn kết một lòng, hợp đồng chặt chẽ giữa các binh chủng, giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích.
Lần đầu tiên lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên tiến công bằng hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn, có tốc độ tấn công nhanh, chỉ trong một thời gian ngắn đã tiêu diệt toàn bộ lực lượng tương đương cỡ một sư đoàn tăng cường của địch, đã đập tan toàn bộ tập đoàn phòng ngự mạnh của địch ở Bắc Tây Nguyên.
Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh đã làm thay đổi cục diện chiến trường ở Tây Nguyên, góp phần làm nên thắng lợi tại hội nghị Pa Ri (ngày 27/01/1973) buộc đế quốc Mỹ phải ký hiệp định Pa Ri, chấp nhận thất bại rút quân về nước; góp phần tạo bàn đạp cho đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
II . Đăk Tô trên đường đổi mới và phát triển.
1. Giai đoạn khắc phục hậu quả chiến tranh, tập trung ổn định và xây dựng quê hương Đăk Tô anh hùng.
Trải qua cuộc chiến đấu vô cùng oanh liệt, chiến tranh qua đi, quê hương Đăk Tô bị tàn phá nặng nề. Đảng bộ và nhân dân Đăk Tô đứng trước vô vàn những khó khăn cần phải giải quyết; song với truyền thống vẻ vang của Đảng  và dân tộc ta, quân và nhân dân Đăk Tô đã tiếp nối truyền thống, vượt lên khó khăn thách thức, gian khổ, từng bước khắc phục tàn tích chiến tranh, đói nghèo, lạc hậu để không ngừng vươn lên lớn mạnh và phát triển như ngày hôm nay.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, ý thức tự lực, tự cường, truyền thống đoàn kết cộng đồng được nhân dân Đăk Tô phát huy cao độ hơn, rực rỡ hơn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhân dân các dân tộc Đăk Tô đoàn kết, kiên trì, cần cù lao động, khắc phục những hậu quả nặng nề do chiến tranh ác liệt cùng những chính sách thực dân để lại; đồng thời kiên cường, mưu trí đấu tranh, đập tan nhiều âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định an ninh chính trị trên địa bàn.
Trong những năm đầu xây dựng quê hương Đăk Tô anh hùng, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện đã giành được nhiều thành tích quan trọng, trở thành địa phương tiêu biểu của tỉnh Kon Tum và địa bàn Tây Nguyên, với nhiều phong trào cách mạng nổi bật như: phong trào khai hoang mở rộng diện tích đất sản xuất, xây dựng cánh đồng, định canh, định cư, làm thủy lợi, xây dựng huyện điểm, hợp tác xã điểm, … với những công trường khai hoang ở Đăk Tờ Kan, Tân Cảnh, cánh đồng lúa nước Kon Cheo, Diên Bình… Do vậy, Đăk Tô được chọn thí điểm xây dựng mô hình hợp tác xã ở miền Nam, rồi lại được chọn làm thí điểm Khoán 100 ở tỉnh Gia Lai – Kon Tum. Đồng thời, Đăk Tô cũng là điểm sáng nổi bật trong phong trào toàn dân tham gia làm đường giao thông nông thôn, phong trào văn nghệ quần chúng, mô hình vừa học – vừa làm v.v…
Đảng bộ luôn biết vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, sát hợp với yêu cầu thực tiễn ở địa phương. Từ những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, với sự năng động sáng tạo, Đảng bộ sớm nhận thức rõ những vấn đề bức xúc nhất của đời sống nhân dân, từ đó lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung mọi nguồn lực xã hội vào phát triển lương thực, nhằm giải quyết vững chắc vấn đề lương thực; phát triển chăn nuôi và trồng trọt, tăng cường sản xuất lương thực, thực phẩm, phát triển ngành nghề tạo hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đảng bộ đã thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VI (1986) của Đảng, đã đề ra chủ trương thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn:  Chương trình lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nhờ đó, nền kinh tế của toàn huyện sớm có những chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Đảng bộ đã làm tốt 2 nhiệm vụ phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội. Như vậy, chỉ hơn 10 năm sau chiến thắng Đăk Tô – Tân Cảnh, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân khắc phục khó khăn, thiếu thốn, tổ chức tốt cuộc sống, ổn định các mặt của đời sống và xã hội, từng bước xây dựng đời sống của các dân tộc trên địa bàn huyện Đăk Tô ngày càng văn minh, ấm no, hạnh phúc.
2. Giai đoạn hội nhập, đổi mới, xây dựng quê hương Đăk Tô ngày càng giàu mạnh và phát triển.
Bước vào thực hiện đường lối đổi mới, Đảng bộ phát huy trí tuệ, sức lực, tìm tòi, vận dụng sáng tạo chủ trương của Đảng vào địa phương, tháo gỡ khó khăn để hiện thực hóa đường lối đổi mới trên quê hương. Chuyển sang cơ chế mới, thực hiện kinh tế hàng hóa thị trường nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, đa dạng hóa sở hữu, đã và đang tạo bước chuyển căn bản trên chặng đường xây dựng phát triển quê hương.
Sau một phần ba thế kỷ hòa bình xây dựng kinh tế, đặc biệt là trong hơn 20 năm đổi mới, Đăk Tô đã có sự biến đổi sâu sắc trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội, an ninh quốc phòng. Từ một huyện miền núi, vùng cao có đông đồng bào dân tộc thiểu số, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, đất rộng người thưa, heo hút; kinh tế tự cấp - tự túc, tập quán du canh du cư khá phổ biến, trình độ sản xuất lạc hậu, còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, tình trạng thiếu lương thực diễn ra phổ biến; tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ hầu như chưa có gì, diện tích đất canh tác nhỏ, đường sá đi lại khó khăn, an ninh phức tạp, là điểm nóng về Fulro, … ngày nay, số hộ giàu không ngừng tăng lên, giảm thiểu số hộ nghèo, cơ bản xóa hộ đói một cách vững chắc, xóa bỏ hẳn tập quán du canh, du cư. Đăk Tô đã trở thành huyện miền núi phát triển với cơ cấu kinh tế hợp lý, phát huy cao độ tiềm năng, nguồn lực của địa phương, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không ngừng được đầu tư nâng cấp và xây mới. Đăk Tô trở thành một trong những huyện phát triển của tỉnh, thu hút được sự quan tâm hợp tác, đầu tư của các thành phần kinh tế. Trên đà công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng bộ và nhân dân Đăk Tô đang nổ lực tạo dựng một huyện miền núi có sự hài hòa giữa vóc dáng đô thị sinh thái với một vùng sơn cước yên bình, bảo tồn được những bản sắc văn hóa truyền thống trong sự hài hòa với đời sống văn minh, hiện đại và năng động, … Đăk Tô đang chuyển mình nhanh chóng với những bước đi mạnh mẽ, diện mạo quê hương không ngừng đổi thay từng ngày.
Từ một huyện có mặt bằng dân trí thấp, nạn mù chữ còn phổ biến, đến năm 2000, huyện đã phổ cập giáo dục tiểu học, năm 2005 phổ cập trung học cơ sở, đời sống tinh thần ngày càng phong phú, các sinh hoạt văn hóa truyền thống được duy trì, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Các thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, gia đình diện chính sách xã hội được chăm lo.
An ninh quốc phòng luôn được giữ vững, thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được củng cố vững chắc, xây dựng huyện thành khu vực phòng thủ cơ bản, liên hoàn vững chắc, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực phản động, thù địch, bảo vệ vững chắc sự nghiệp xây dựng quê hương Đăk Tô anh hùng.
Cùng với quá trình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, Đảng bộ không ngừng phấn đấu để trưởng thành và ngày càng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ; hệ thống chính trị ở cơ sở không ngừng được củng cố, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đội ngũ cán bộ, đảng viên qua thực tiễn và thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ ngày càng trưởng thành. Đăk Tô là nơi đào tạo, rèn luyện và cung cấp cho tỉnh và các huyện được chia tách từ huyện Đăk Tô một số lượng đáng kể cán bộ chủ chốt.
Công tác lãnh đạo nhân dân xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, xây dựng cơ sở vật chất trong chặng đường đầu đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng bộ Đăk Tô đã không ngừng phát triển, trưởng thành; mối quan hệ gắn bó máu thịt với dân không ngừng được tăng cường, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn giữ vững.
Sau 40 năm chiến thắng Đăk Tô – Tân Cảnh, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Đăk Tô đã đoàn kết một lòng phát huy truyền thống để vượt qua mọi khó khăn, thử thách đạt được nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển huyện nhà. Cùng với sự phát triển và lớn mạnh của đất nước, huyện H80 xưa, Đăk Tô ngày nay sau nhiều lần chia tách. Hiện nay tổng diện tích toàn huyện có50.640,8 ha, với tổng dân số 42.849 người. Trong đó, dân tộc thiểu số có 20.231 người, chiếm 52,35%. Với quy mô diện tích và dân số nêu trên, về kinh tế Đăk Tô tập trung phát triển mạnh các cây công nghiệp, ổn định an ninh lương thực, đem lại cuộc sống ngày càng no ấm, giàu mạnh cho nhân dân các dân tộc trong huyện.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2011 đạt 16,02%, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, cụ thể: nông lâm, thủy sản 39,97%; công nghiệp, xây dựng 37,08%; dịch vụ 22,95%. Tổng sản phẩm bình quân đầu người đạt trên 19,9 triệu đồng/người/năm (giá hiện hành). Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm: 9.147 ha. Diện tích một số cây trồng chủ yếu: diện tích trồng lúa: 1.655 ha, sản lượng 6.309 tấn; diện tích trồng ngô: 222 ha, sản lượng 684 tấn; diện tích trồng sắn: 6.943 ha, sản lượng 92.910 tấn. Diện tích cây lâu năm có 7.598 ha; trong đó: diện tích cây cà phê 745 ha, sản lượng đạt 1.029 tấn; diện tích cây cao su 6.579 ha, sản lượng đạt 2.275 tấn. Chăn nuôi: Tổng đàn gia súc toàn huyện có 2.710 con trâu, đàn bò có 5.051 con, đàn heo có 9.341 con.
Hoàn thành quy hoạch, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của huyện đến năm 2015, có tính đến 2020; quy hoạch chi tiết xây dựng trung tâm các xã mới chia tách và một số công trình, dự án trên địa bàn thị trấn, Cụm công nghiệp - dịch vụ 24/4.
Công tác quảng bá, thu hút đầu tư đạt kết quả tương đối tốt. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển cả về quy mô và chất lượng; giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng đạt 302,77 tỉ đồng, vượt 73,76% so với chỉ tiêu đề ra, bình quân hằng năm tăng trên 47%. Một số dự án đầu tư cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã được xây dựng hoàn thành, đi vào hoạt động như: Nhà máy tinh bột sắn, Nhà máy thủy điện Đăk Rơ Sa 1, các nhà máy chế biến mủ cao su... góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất và tạo việc làm cho người lao động. Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng cao so với chỉ tiêu đề ra: tinh bột sắn, điện thương phẩm, khai thác cát, đá, sỏi. Một số dự án đang trong giai đoạn đầu tư như: Nhà máy bột và giấy Tân Mai - Kon Tum, Nhà máy thủy điện Đăk Rơ Sa 2, Nhà máy cồn Tân Cảnh...
Thương mại - dịch vụ tiếp tục phát triển. Ngành bưu chính, viễn thông phát triển vượt bậc; 100% xã có điểm phục vụ bưu chính, 75% xã có điểm bưu điện văn hóa; số thuê bao điện thoại tăng nhanh, bình quân đạt 24,81 máy điện thoại/100 dân, vượt 230,8% so với chỉ tiêu đề ra.
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế, xã hội có bước phát triển khá, nhất là lĩnh vực giao thông, thuỷ lợi, nước sinh hoạt, trường học v.v... Đến nay, hầu hết các thôn (làng) có đường ô tô đến được cả 2 mùa; 100% số trường, lớp học được xây dựng cấp 4 trở lên; 100% thôn (làng) có điện lưới quốc gia; 8/9 trạm y tế xã, thị trấn được xây dựng kiên cố; số hộ sử dụng điện và có đủ nước sinh hoạt tăng; đầu tư nâng cấp, sửa chữa, xây dựng mới nhiều công trình thủy lợi, đảm bảo nước tưới cho trên 800 ha đất nông nghiệp.
Một số tuyến đường liên thôn, liên xã đã được nâng cấp, làm mới. Phong trào làm đường giao thông nông thôn hàng năm đã phát huy hiệu quả, hình thức "Nhà nước và nhân dân cùng làm" để đầu tư bê tông hoá một số ngõ phố ở thị trấn bước đầu phát huy hiệu quả. Từ 2006 - 2010, đã huy động được trên 165 ngàn ngày công và đóng góp của công chức, viên chức và nhân dân với tổng kinh phí trên 5,5 tỷ đồng.         
Thực hiện chủ trương xây dựng thị trấn Đăk Tô đến năm 2015 đạt đô thị loại IV miền núi đã đạt được kết quả quan trọng. Từ năm 2007 đến nay đã bố trí ngân sách hơn 110,2 tỉ đồng để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của thị trấn, một số tiêu chí về đô thị loại IV miền núi đã đạt được như: cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp, tỉ lệ hộ nghèo.
Văn hóa – xã hội có bước chuyển biến tích cực, trình độ, năng lực công tác của cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên được nâng lên. Công tác tuyên truyền, vận động học sinh ra lớp có hiệu quả hơn; tỉ lệ học sinh khá giỏi, học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng ngày càng tăng qua từng năm. Công tác phổ cập giáo dục trung học cơ sở và phổ cập tiểu học đúng độ tuổi đạt tiến độ đề ra. Quy mô trường lớp ngày càng phát triển; trang thiết bị, đồ dùng dạy học được trang bị tương đối đầy đủ cho yêu cầu dạy và học; số trường học đạt chuẩn quốc gia vượt chỉ tiêu đề ra. Công tác xã hội hóa giáo dục từng bước được thực hiện, gắn với thực hiện công tác khuyến học, khuyến tài. Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 03/12/2007 của Tỉnh ủy “Về nâng cao chất lượng giáo dục đối với học sinh dân tộc thiểu số giai đoạn 2008 - 2015”, gắn với triển khai mô hình lớp bán trú dân nuôi ở một số xã.
Các chương trình mục tiêu quốc gia được triển khai kịp thời, đúng đối tượng và hiệu quả; đối với chương trình 167 (hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở) đã triển khai hỗ trợ xây dựng 724 căn nhà. Thực hiện tốt công tác “đền ơn, đáp nghĩa” đối với người có công; huy động các nguồn lực xây dựng 79 căn nhà đại đoàn kết, nhà tình nghĩa, tình thương trị giá gần 1,2 tỉ đồng. Thực hiện tốt công tác cứu trợ đối với các gia đình bị thiên tai, hỏa hoạn, gia đình đặc biệt khó khăn. 
Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được kết quả khá; số hộ nghèo giảm từ 39,61% (năm 2005)xuống còn 18,3%. Tuổi thọ trung bình của người dân tăng.   
Nghị quyết 04-NQ/TU, ngày 14/6/2007 của Tỉnh ủy “Về đẩy mạnh xây dựng các xã đặc biệt khó khăn” đã được triển khai thực hiện có hiệu quả, đồng thời lồng ghép các chương trình, dự án với phát huy nguồn lực tại chỗ để tập trung đẩy mạnh việc xây dựng các thôn (làng) đạt tiêu chí “no đủ - vững mạnh - an toàn”. Chính vì vậy mà tình hình an ninh, trật tự xã hội được ổn định, giữ vững. Công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đạt kết quả tốt; chủ động phòng, chống đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng của các thế lực thù địch, phản động, nhất là âm mưu “Diễn biến hòa bình”, lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tích cực đấu tranh có hiệu quả với các đối tượng có hành động lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật trên địa bàn.
Đảng bộ luôn quan tâm, triển khai thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đưa nội dung thực hiện Cuộc vận động là một trong những nội dung sinh hoạt cấp ủy, chi bộ, sinh hoạt cơ quan, đơn vị định kỳ hàng tháng và là một trong những tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị và của từng cá nhân. Việc “học tập” và “làm theo” tấm gương đạo đức của Bác được tất cả cán bộ, đảng viên và đông đảo các tầng lớp nhân dân trên địa bàn hưởng ứng với nhiều hành động thiết thực; tạo được sự chuyển biến sâu sắc cả trong nhận thức và trong hành động.
Nhìn lại chặng đường cách mạng 40 năm qua, Đảng bộ, nhân dân các dân tộc huyện Đăk Tô đã gặt hái được nhiều kết quả hết sức quan trọng, vô cùng phấn khởi và tự hào. Mặc dù vẫn còn không ít những khó khăn, thách thức ở phía trước, nhưng những thành quả mà Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Đăk Tô đạt được trong quá trình xây dựng và phát triển là vô cùng quan trọng và quý báu. Thành quả đó luôn là nền tảng, tiền đề để Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Đăk Tô hôm nay kế thừa và vững bước đi lên trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Những thành tựu đạt được trong 40 năm qua là kết quả của tinh thần đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng bộ, toàn quân và các dân tộc trong huyện; là kết tinh của sự kế thừa và phát huy truyền thống đấu tranh cách mạng bất khuất trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm mà các thế hệ cách mạng đã dày công xây dựng, vun đắp. Đảng bộ, quân và nhân dân các dân tộc huyện Đăk Tô rất trân trọng, tự hào và xin tỏ lòng biết ơn, sự tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét