Câu: Quá trình nhận thức của Đảng về
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân 1930-1954.
-Hai nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến có quan hệ khắng khít với
nhau.
-Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên
hàng đầu.
-Luận cương chính trị 10/1930 coi cách mạng điền địa là cốt yếu của tư
sản dân quyền.
-Thời kỳ 30-31 hai nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và chống phong kiến
được cụ thể hóa bằng những mục tiêu trước mắt như đòi cải thiện đời sống, chống
khủng bố trắng…
-36-39: Hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến được cụ thể hóa bằng
những mục tiêu nhiệm vụ như: chông phát xít, chống phản động thuộc địa, đòi tự
do dân chủ.
-39-45: Nghị quyết VI, VII, VIII chủ trương đặt nhiệm vụ chống đế quốc
lên hàng đầu, còn nhiệm vụ chống phong kiến rãi ra phục vụ cho nhiệm vụ chống
đế quốc.
-Sau cách mạng Tháng Tám thành công Đảng vẫn đặt lợi ích của dân tộc, tổ
quốc lên trên hết, nhiệm vụ của cách mạng lúc này là giữ vững chính quyền,
chống thực dân Pháp, nhưng Đảng vẫn quan tâm đến giải quyết quyền lợi cho nhân
dân như, giảm tô 25%, chia đất công cho cả nam lẫn nữ.
-Khi cuộc kháng chiến đến giai đoạn kết thúc, Đảng chủ trương cải cách
ruộng đất ở vùng giải phóng nhằm bồi dưỡng sức dân, động viên lực lượng cho
kháng chiến, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Nhìn lại lịch sử đấu tranh cách mạng
gần 70 năm qua, chúng ta thấy rõ đường lối cách mạng đúng đắn của đảng là
nguyên nhân quyết định nhất đưa nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Đó là kết quả của việc đề ra đường lối chính sách đúng đắn của đảng, là
sự trưởng thành của đảng ta trong cả nhận thức và hành động thực tiễn. Để củng
cố lòng tin vào đảng, thực hiện thắng lợi mục tiêu của đảng đòi hỏi chúng ta
phải nâng cao nhận thức về những vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn xuyên
suốt quá trình cách mạng nước ta. Để thấy được quá trình nhận thức của đảng
trong giai đoạn 1930-1945, chúng ta cần tìm hiểu đường lối cách mạng dân tộc
dân chủ của đảng trong giai đoạn này, từ đó thấy được sự đúng đắn trong tư duy
nhận thức của đảng ta đối với quá trình lãnh đạo cách mạng.
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
dưới sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam chìm đắm trong đai
họa: Dân tộc bị tước đoạt tự do, mất độc lập; đất nước bị chia cắt; nhân dân
lao động bị bần cùng hóa. Nhiều mâu thuẫn nảy sinh phát triển, đặc biệt là mâu
thuẫn giữa nhân dân Việt Nam
với đế quốc Pháp và bọn tay sai của chúng. Mâu thuẫn này đòi hỏi cách mạng Việt
Nam đồng thời đánh đổ đế quốc thực dân Pháp và chế độ phong kiến Việt Nam,
trong đó nhiệm vụ đánh đuổi đế quốc và bọn tay sai để giành
độc lập cho dân tộc phải được đặt lên hàng đầu.
Với mục tiêu trên đã có nhiều phong
trào yêu nước chống thực dân Pháp với những nội dung và phương pháp khác nhau.
Thế nhưng tất cả đều thất bại. Thất bại ấy thể hiện sự khủng hoảng sâu sắc của
cách mạng Việt Nam
về con đường cứu nước giải phóng dân tộc, chưa đáp ứng được những yêu cầu khách
quan mà xã hội đặt ra. Nói cách khác, phong trào yêu nước lúc này đều có đường
lối xa rời thực tiễn, thiển cận. Bên cạnh đó xã hội Việt Nam dưới tác động của chính khai
thác thuộc địa của Pháp đã đang diễn ra sự phân hóa sâu sắc, nhiều giai cấp mới
xuất hiện. Nhìn chung các giai cấp đương thời, trừ giai cấp công nhân, đều đã
trở thành đối tượng, hoặc lực lượng của cách mạng ở các mức độ khác nhau. Giai cấp công nhân lúc này, do những đặc điểm của họ, chỉ có
thể trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam với điều kiện: giác ngộ lý luận
Mác-Lênin và tự tổ chức ra chính đảng của mình.
Từ thực tế trên vừa là hoàn cảnh vật
chất để sản sinh phong trào cách mạng, vừa là thước đo đường lối của các tổ
chức chính trị, các phong trào cách mạng Việt Nam . Sự vận động của các phong trào
yêu nước Việt Nam với những thất bại của nó, một mặt nhấn mạnh sự cần thiết
phải tìm con đường cứu nước mới; mặt khác, lý giải vì sao phong trào yêu nước
và phong trào công nhân ở Việt Nam lại gặp nhau ở điểm lấy chủ nghĩa Mác-Lênin
làm cẩm nang giải phóng dân tộc giải phóng giai cấp. Đảng cộng sản Việt Nam ra
đời là sản phẩm tất yếu của sự gặp gỡ trên. Vì thế, ngay từ
đầu, đảng ta đã xây dựng đường lối cách mạng phù hợp với yêu cầu khách quan của
dân tộc, giai cấp và xã hội đặt ra.
Chính cương vắn tắt, sách lược vắn
tắt (cương lĩnh đầu tiên của đảng) chỉ rõ: cách mạng Việt Nam sẽ thực hiện cuộc vận động giải
phóng dân tộc rồi tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong
giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, nhân dân Việt Nam phải đánh đổ ách
thống trị của đế quốc Pháp và bọn tay sai phong kiến, giành độc lập dân tộc,
dân chủ cho nhân dân. Có nghĩa là đảng chủ trương trong khi đồng thời đánh đổ
đế quốc và phong kiến, cần ưu tiên tập trung sức mạnh tiêu diệt bè lũ đế quốc
và tay sai phản động, giành độc lập cho dân tộc; nhiệm vụ chống phong kiến được
thực hiện ở mức độ thấp hơn. Thực hiện sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng, giai
cấp công nhân thông qua đảng cộng sản, động viên, tổ chức những người yêu nước,
có tinh thần dân tộc vào mặt trận đánh Pháp với nòng cốt là liên minh công
nông. Với đường lối đó đảng ta đã thể hiện trình độ tư duy năng động, sáng tạo của
mình. Một mặt, vận dụng linh hoạt chủ nghĩa Mác-Lênin, mặt khác đáp ứng chính
xác những yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam .
Cương lĩnh đầu tiên của đảng là kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, đường lối quốc
tế vô sản và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta,
là sự thể hiện tập trung tư tưởng cơ bản của đồng chí Nguyễn Ai Quốc về cách
mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước thuộc địa nửa phong
kiến.
Nghị quyết của Ban chấp hành trung
ương đảng tháng 10/1930, dưới tác động của tư tưởng “tả khuynh” trong phong
trào cộng sản quốc tế, nhận thức về cách mạng giải phóng dân tộc của đảng đã có
sự thay đổi. Đảng đã thủ tiêu chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, đồng thời
xác định một số quan điểm đề cao đấu tranh giai cấp, giảm nhẹ yếu tố dân tộc
trong đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam (luận cương chính trị); đổi tên
đảng cộng sản Việt Nam thành đảng cộng sản Đông Dương… Thực trạng xã hội Việt Nam
lúc đó cho thấy các quan điểm này bóc lột nhiều nhược điểm trong việc tập hợp
lực lượng dân tộc đánh Pháp, chưa đề cao việc giải phóng dân tộc. Tuy có kế
thừa chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt một số điểm như: xác định đường lối
chiến lược cách mạng hai giai đoạn, sự lãnh đạo giai cấp công nhân là đảng cộng
sản, muốn giành chính quyền phải dùng bạo lực cách mạng… Nhưng luận cương chính
trị tháng 10/1930 vẫn còn những hạn chế: chưa chỉ ra được mâu thuẫn chủ yếu
trong xã hội thuộc địa; chưa xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ
hàng đầu; trong khi nhấn mạnh vai trò của công nông, chưa chủ yếu đúng mức đến
vai trò, vị trí, khả năng cách mạng của các giai cấp, tầng lớp khác. Những hạn
chế nói trên đã được hội nghị Ban chấp hành trung ương đảng tiếp theo khắc
phục.
Cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô
viết Nghệ Tĩnh là cuộc diễn tập đầu tiên của đảng ta đã xác định đội quân chủ
lực của cách mạng, thấu hiểu được sự liên minh đấu tranh của hai giai cấp công
nhân và nông dân, làm cho quần chúng càng tin tưởng vào giai cấp công nhân, sức
mạnh công nông được phát huy mạnh mẽ.
Chỉ thị thành lập “Hội đồng phản đế
đồng minh Đông Dương” tháng 11/1930 khẳng định nếu chỉ thấy lực lượng cách mạng
chỉ có hai giai cấp công nhân và nông dân thì sẽ dẫn tới cô lập, hẹp hòi, hạn
chế việc mở rộng lực lượng cách mạng, thực chất là đặt nhiệm vụ chống đế quốc
lên trên. Chỉ thị còn khẳng định: “Cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà
không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật lớn thì
cuộc cách mạng cũng khó thành công”. Nhưng trên thực tế chỉ thị này không được
đưa vào cuộc sống, nhưng dẫu sao cũng đã thể hiện nhận thức mới, cách nhìn mới
của đảng vì giai cấp và dân tộc.
Trong thời kỳ 1930-1931 hai nhiệm vụ
chiến lược chống đế quốc và chống phong kiến đã được cụ thể hóa bằng nhiều mục
tiêu trước mắt như cải thiện đời sống, chống khủng bố trắng.
Từ năm 1936-1939 cách mạng Việt Nam
diễn ra trong bối cảnh có nhiều diễn biến phức tạp, chủ nghĩa phát xít xuất
hiện, nhân loại đứng trước thảm họa chiến tranh. Trên cơ sở quan điểm thể hiện
trong nghị quyết của quốc tế cộng sản, hội nghị trung ương tháng 7/1936 đảng ta
đã xác định kẻ thù chủ yếu trước mắt là bọn thực dân Pháp và bè
lũ tay sai, mục tiêu trước mắt là đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa,
chống phát xít và đấu tranh đòi tự do dân chủ hòa bình. Để thực hiện mục tiêu
đó đảng chủ trương thành lập “mặt trận dân chủ” thay cho “mặt trận thống nhất
phản đế”, bao gồm các lực lượng tiên tiến không chỉ có công nhân và nông dân mà
còn cả tầng lớp tư sản dân tộc, địa chủ yêu nước, các đảng phái cải lương ít
nhiều tiến bộ, không chỉ trong nước mà cả Việt kiều tán thành mục tiêu trên,
lấy liên minh công nông làm nền tảng. Hội nghị cũng đã đưa ra chủ trương mới
chuyển hướng nhiệm vụ tạm thời, không nêu khẩu hiệu độc lập dân tộc và ruộng đất
cho dân cày, chỉ nêu khẩu hiệu đấu tranh can thiệp dân sinh, dân chủ, chống
phản động thuộc địa và chủ trương từ đấu tranh bí mật sang đấu tranh công khai,
kết hợp đấu tranh bán công khai và đấu tranh bí mật.
Hội nghị cũng đã xem xét lại chủ
trương đồng thời chống đế quốc và phong kiến ngang bằng nhau của đảng, thể hiện
trong luận cương chính trị tháng 10/1930 và khẳng định lại việc chống đế quốc
và tay sai với chống phong kiến phải thực hiện ngang bằng nhau mà tùy vào hoàn
cảnh cụ thể đề cao nhiệm vụ này hay nhiệm vụ kia. Những quan điểm chủ trương
của đảng thể hiện có hướng nhận thức mới về cách mạng Việt Nam theo tinh thần cương lĩnh đầu
tiên của đảng.
Đến hội nghị lần thứ 6 tháng 11/1939
đã xác định kẻ thù chủ yếu của nhân dân ta là chủ nghĩa đế quốc và bọn tay sai
phản bội dân tộc, xác định cuộc cách mạng Đông Dương là cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc. Hội nghị quyết định chủ trương tịch thu ruộng đất của bọn đế
quốc và tay sai chia cho dân cày, thành lập các tổ chức quần chúng phản đế,
hoạt động bí mật, bán hợp pháp nhằm lãnh đạo quần chúng đấu tranh và tiến tới
bạo động giành chính quyền. Thắt chặt mối quan hệ giữa đảng với quần chúng nhân
dân. Trong giai đoạn 1936-1939 hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến được cụ
thể hóa bằng nhiều mục tiêu như chống phát xít, chống phản động thuộc địa, đòi
tự do dân chủ…
Hội nghị lần thứ 7 của đảng tháng
11/1940 đã xác định kẻ thù của nhân dân là phát xít Nhật, Pháp. Hội nghị khẳng
định nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương là giải phóng dân tộc, chủ động
vũ trang bạo động giành chính quyền về tay nhân dân.
Hội nghị trung ương lần thứ 8 tháng
5/1941 đã khẳng định nhiệm vụ giải phóng dân tộc giành độc lập dân tộc cho đất
nước là nhiệm vụ trước tiên của đảng ta. Hội nghị cũng chú trọng giải quyết vấn
đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước của ba nước Đông Dương và theo đề nghị của
đồng chí Nguyễn Ai Quốc. Hội nghị quyết định thành lập “Mặt trận Việt Nam độc
lập đồng minh” gọi tắt là “Mặt trận Việt Minh” để tập trung các lực lượng yêu
nước chống đế quốc giải phóng dân tộc. Cương lĩnh Việt Minh rất phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân, mọi người hăng hái tham gia, Mặt trận Việt Minh phát
triển nhanh chóng. Hội nghị cũng đã tìm ra quy luật khởi nghĩa đó là khởi nghĩa
từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa. Phải xây dựng lực lượng về mọi mặt vừa có
lực lượng chính trị, vừa có lực lượng vũ trang, đẩy mạnh hình thức đấu tranh vũ
trang khi cần thiết.
Hội nghị toàn quốc của đảng tiến
hành từ 14 đến 15/8/1945 tại Tân Trào đã quyết định phát động toàn dân khởi
nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Cách mạng là
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, ở đó nổi bật tính chất giải phóng dân tộc.
Cách mạng tháng 8 đã đem lại cho đảng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý giá,
đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, xây dựng mặt
trận dân tộc thống nhất rộng khắp, thực hiện con đường bạo lực giành chính
quyền. Tích cực chuẩn bị chớp lấy thời cơ, phát động toàn dân khởi nghĩa giành
chính quyền, xây dựng một đảng theo phương châm chủ nghĩa Mác-Lênin, đúng đắn
về chính trị, thống nhất về tư tưởng trong sạch và vững mạnh về tổ chức và liên
hệ chặt chẽ với quần chúng. Cách mạng tháng 8 mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử
dân tộc Việt Nam ,
kỷ nguyên đất nước độc lập thống nhất và phát triển theo chủ nghĩa xã hội.
Ngày 25/11/1945 trung ương đảng ra
chỉ thị “kháng chiến kiến quốc” vạch rõ nhiệm vụ chiến lược và những mục tiêu
trước mắt của cách mạng Việt Nam, chỉ thị chỉ rõ cách mạng Đông Dương lúc này
là: “vẫn là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc” kẻ thù chính của dân tộc ta là
thực dân Pháp xâm lược, khẩu hiệu cách mạng vẫn là “dân tộc trên hết”, “tổ quốc
trên hết” nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta là củng cố chính quyền, chống thực dân
Pháp, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. Trong thời kỳ 1939-1945
đảng đề ra nghị quyết 6, 7, 8 chủ trương đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng
đầu, còn nhiệm vụ chống phong kiến rải ra phục vụ cho nhiệm
vụ chống đế quốc.
Sau khi cách mạng tháng 8 thành công
đảng vẫn đặt lợi ích của dân tộc, tổ quốc trên hết, nhiệm vụ cách mạng lúc này
là giữ vững chính quyền, chống thực dân Pháp nhưng đảng vẫn quan tâm giải quyết
quyền lợi cho nhân dân như giảm tô, chia đất công cho cả Nam lẫn nữ, xóa bỏ
thuế thân, thuế độc quyền…
Đầu năm 1951 đại hội toàn quốc lần
thứ hai của đảng cộng sản Đông Dương đã họp từ ngày 11 đến ngày 19/2/1951 tại
Tuyên Quang đã xác định đối tượng của cách mạng Việt Nam lúc này
là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ,
phong kiến phản động làm tay sai cho đế quốc là đối tượng thứ hai của cách
mạng. Đảng ta đã vạch ra ba nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam
là: Một, đánh đuổi đế quốc giành độc lập dân tộc. Hai là xóa bỏ những tàn tích
phong kiến làm cho người dân có ruộng. Ba là phát triển chế độ dân chủ nhân dân
gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
Động lực của cuộc kháng chiến là:
giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư
sản dân tộc, người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua đảng tiên
phong là đảng lao động Việt Nam .
Lần đầu tiên khái niệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân được đảng khái quát
và đưa vào văn kiện, thuật ngữ này không những chỉ rõ tính chất của cuộc cách
mạng mà còn bổ sung hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của đảng,
bổ sung cho kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trên cơ sở đánh giá tình hình và so
sánh lực lượng, đảng phát động cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện về chính
trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao. Đường lối xác định kháng chiến lâu dài, tự
lực cánh sinh, đảng chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Pháp theo phương châm đánh
lâu dài và phát triển theo ba giai đoạn phòng ngự, cầm cự và tổng phản công.
Đảng đã lãnh đạo xây dựng lực lượng
kháng chiến và tổ chức kháng chiến với phương châm chỉ đạo đúng đắn ta đã giành
chiến thắng ở Việt Bắc, thắng lợi đó chuyển thế cuộc kháng
chiến từ phòng ngự sang thế phản công, chiến thắng biên giới năm 1950 đã làm
thất bại chiến lược quân sự “đánh nhanh thắng nhanh” của địch đẩy Pháp từ thế
tiến công sang thế phòng ngự chiến lược và chiến dịch đông xuân 1953-1954 quân
ta đã đánh bại hoàn toàn quân đội viễn chinh Pháp, cuối cùng là hiệp định Giơ
neo, cách mạng Việt Nam bước sang thời kỳ đấu tranh mới.
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mà
đảng ta đã vạch ra trong cương lĩnh đầu tiên của đảng đã căn bản hàn thành trên
một nửa đất nước, mở đường cho Miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, xây dựng hậu phương vững chắc để nhân dân ta tiếp tục đấu tranh hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước giải phóng Miền Nam
thống nhất đất nước.
Tóm lại đường lối cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân của đảng ta từ 1930 đến 1945 là kết quả của sự vận dụng và
sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, đường lối của quốc tế cộng sản và kinh nghiệm
của cách mạng thế giới vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta nhất là cương lĩnh đầu
tiên của đảng đã thể hiện tập trung tư tưởng cơ bản của đồng chí Nguyễn Ai Quốc
về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước thuộc địa nửa phong kiến. Bài học về
nhân tố giai cấp-dân tộc, dân tộc và quốc tế, về xác định kẻ thù, về xây dựng
lực lượng, dân tộc với thời đại và độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội./.
Câu
Phân tích cao trào cách mạng chống đế quốc, chống phong kiến giai đoạn
1930-1945?
BÀI LÀM
Trong thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp
xâm lược nước ta, lực lượng chính của dân tộc là nông dân đã bị mòn mỏi sau các
cuộc chiến tranh Nam Bắc Triều, rồi Trịnh Nguyễn phân tranh; triều đình nhà
Nguyễn lại thối nát, đầu hàng, nên đế quốc Pháp đã đặt được ách thống trị lên
đầu lên cổ nhân dân Việt Nam. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta đã nổ ra
rất mãnh liệt, song đều thất bại vì không có đường lối đúng. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời năm 1930 đánh
dấu bước chuyển biến quyết định của cách mạng Việt Nam, mở đường thắng lợi cho
cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Bắt đầu từ đó một đường lối, chiến lược
cách mạng rõ ràng, đúng đắn được xác định và đưa hoạt động cách mạng của nhân
dân VN đi đến thành công, đặc biệt là trong cao trào cách mạng chống đế quốc
Pháp và phong kiến 1930-1945.
Ngay sau khi ra đời, trong Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, tiếp đó là Luận cương chính trị, Đảng đã xác
định đường lối cách mạng Việt Nam là phải trải qua hai giai đoạn: trước hết là
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
giai đoạn phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa, mục đích cuối cùng của Đảng
là thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở nước ta. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng luôn luôn nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì
vậy đã giải quyết đúng đắn hàng loạt vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam và đã
giành được những thắng lợi vĩ đại.
Cương lĩnh chính trị (tháng 2/1930)
và Luận cương chính trị (tháng 10/1930) đều khẳng định : dưới thời Pháp thuộc,
xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa dân tộc ta với chủ
nghĩa đế quốc và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân, với giai cấp
địa chủ phong kiến. Cụ thể hơn, Đảng nhận định nước ta là nước nông nghiệp,
nông dân chiếm hơn 90% số dân, chủ nghĩa đế quốc dựa vào chế độ phong kiến để
bóc lột nhân dân, chủ yếu là bóc lột nông dân. Nguyện vọng tha thiết và trực
tiếp của nông dân là dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Từ đó chỉ ra con đường cách mạng VN là “tư sản dân quyền CM và thổ địa CM để
đi tới XH cộng sản”; bằng bạo lực cách mạng đánh đuổi đế quốc Pháp và xóa bỏ
chế độ phong kiến VN, tiến đến cách mạng XHCN bỏ qua phát triển TBCN.
Tuy nhiên, việc giải quyết mối quan
hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến để có thể phát huy
cao độ yếu tố dân tộc là vấn đề phức tạp, Đảng ta đã phải mất một thời gian
tương đối dài mới đạt được sự nhất trí cao. Luận cương chính trị có hạn chế là
chưa vạch ra được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thuộc địa nửa phong kiến; đặt
nhiệm vụ chống phong kiến lên hàng đầu, chống đế quốc là hàng thứ yếu, cho việc
phân loại địa chủ là một sai lầm. Ngược lại với chính cương vắn tắt cho rằng:
Mâu thuẩn giữa dân tộc và đế quốc là mâu thuẩn cơ bản của xã hội nhưng đồng
thời là mâu thuẩn chủ yếu của xã hội, thì phải giải quyết nó trước hết; từ đó
Đảng phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc - giải phóng dân tộc lên hàng đầu, với
khẩu hiệu "Tổ quốc trên hết" để phát huy cao độ sức mạnh dân tộc
nhưng không coi nhẹ những nhiệm vụ dân chủ; chống phong kiến được rải ra từng
bước, chia ra 3 loại địa chủ: tiểu địa chủ, trung địa chủ và đại địa chủ để có
sách lược phù hợp với từng đối tượng, nhằm lôi kéo tranh thủ tập hợp lực lượng
CM. Hai nhiệm vụ chiến lược trên phải được tiến hành khǎng khít với nhau, không
được tách rời. Đó là tư tưởng đúng đắn về chỉ đạo chiến lược, sách lược của
Đảng ta.
Đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh
dân tộc, dân chủ tạo nên cao trào CM 1930-1931, xây dựng lực lượng ctrị với
nòng cốt là công – nông… với đỉnh cao là phong trào Xô viết - Nghệ tĩnh, đây là
cuộc tổng diễn tập đầu tiên của CM VN dưới sự lãnh đạo của Đảng, đem lại cho
Đảng một số kinh nghiệm về xác định mục tiêu đấu tranh, lựa chọn phương pháp CM
phù hợp với giai đoạn CM và về tập hợp lực lượng CM.
Từ giữa năm 1935, Đảng tập trung củng cố và phát triển Đảng trong các xí
nghiệp, hầm mỏ và nông thôn…; đẩy mạnh công tác vận động, thu phục quần chúng
và mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh.
Suốt giai đoạn thực hiện phong trào
vận động dân chủ (1936 - 1939), vận dụng nghị quyết của quốc tế cộng sản vào
đông dương, hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến của CM VN là không hề thay
đổi. Tháng 7/1936, CM VN chuyển hướng chỉ đạo chiến lược; đề ra nghị quyết đấu
tranh chống phát xít và bọn phản động nội địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa
bình. Thành lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi bao gồm các giai cấp, các
đảng phái, các đoàn thể chính trị, tôn giáo và dân tộc. Chuyển hướng hình thức
tổ chức từ bí mật, bất hợp pháp là chủ yếu chuyển sang đấu tranh công khai, hợp
pháp và nửa hợp pháp là chủ yếu như: hội cày, hội cấy, hội đá banh…để đấu
tranh. Cao trào CM dân chủ phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục bổ
sung chủ trương và biện pháp để chỉ đạo phong trào, tháng 3-1938, TW họp quyết
định tổ chức thực hiện Mặt trận thống nhất dân chủ và coi đó là nhiệm vụ trọng
tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Thời gian này, Đảng còn sử dụng báo chí
công khai làm vũ khí đấu tranh CM; xuất bản nhiều sách giới thiệu về đấu tranh
giai cấp, về CNXH, CNCS.
Cao trào dân chủ 1936-1939 là thắng
lợi to lớn, đánh dấu bước phát triển mới của phong trào CM VN. Qua phong trào,
Đảng và các lực lượng CM VN trưởng thành nhanh chóng. Cao trào 36-39 là cuộc
tổng diễn tập lần thứ 2 cho tổng khởi nghĩa sau này. Để lại cho Đảng ta nhiều
bài học kinh nghiệm quý giá về: xác định kẻ thù và mục tiêu đấu tranh trước
mắt; tập hợp lực lượng rộng rãi trên cơ
sở động viên sự tham gia của mọi tầng lớp XH; để lãnh đạo được mặt trận, Đảng
phải vững mạnh về chính trị và tổ chức, phải xây dựng khối liên minh công –
nông làm nòng cốt; phải biết sử dụng linh hoạt nhiều hình thức đấu tranh.
Giai đoạn 1939 – 1945 trước những
biến động to lớn của tình hình thế giới và trong nước, Đảng quyết định chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược, tiếp tục hoàn chỉnh mối quan hệ 2 nhiệm vụ chống đế
quốc và phong kiến. Thể hiện qua Nghị quyết TW 6 (11/1939); NQ TW 7 (11/1940);
NQ TW 8 (5/1941). Các nghị quyết đều khẳng định những nhiệm vụ chống đế quốc và
phong kiến của CM nước ta là không thay đổi, nhưng mục tiêu trước mắt là đánh
đổ đế quốc và tay sai, làm cho nước nhà hoàn toàn độc lập; tạm gác khẩu hiệu CM
ruộng đất, thay vào đó là khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và tai sai
chia cho dân cày.
Lợi dụng Pháp thua Đức trong chiến
tranh thế giới thứ hai, Nhật vào chiếm nước ta, buộc Pháp thỏa hiệp với Nhật
cùng cai trị VN. Nhân dân ta chịu một cổ hai tròng. Xu hướng đấu tranh vũ trang
phát triển mạnh trong nhân dân, mở đầu là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, tiếp theo là
khởi nghĩa Nam Kỳ (11/1940), khởi nghĩa Đô Lương (1/1941) đã thức tỉnh nhân dân
cả nước vùng lên tranh đấu.
Hội nghị lần thứ tám BCH TW
(5/1941), Đảng chủ trương thành lập Mặt trận VN độc lập đồng minh (gọi tắt là
Việt Minh), đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật, thành lập Chính phủ nhân dân của
nước VN dân chủ cộng hòa. Trên cơ sở lực lượng chính trị được xây dựng, Đảng
chỉ đạo tổ chức lực lượng vũ trang CM gồm Hội cứu quốc quân, Đội VN tuyên
truyền giải phóng quân; thành lập các khu căn cứ địa CM; xác định khởi nghĩa
từng phần tiến đến tổng khởi nghĩa, xác định kẽ thù của CM là Phát Xít Nhật và
thực dân Pháp. Đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động trên mặt trận văn hóa
tư tưởng, xây dựng Đảng…chờ đợi thời cơ tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp ở
Đông Dương; cũng đêm đó BTV TW Đảng họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) quyết định và
Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”; chỉ rõ phát xít Nhật
giờ đây là kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương và nêu các khẩu hiệu “Đánh đuổi
phát xít Nhật”, “Thành lập chính quyền CM của nhân dân” để chống lại chính phủ
bù nhìn tay sai của Nhật, phát động cao trào kháng Nhật, làm tiền đề cho cuộc
tổng khởi nghĩa.
Giữa tháng 8-1945, tình thế trực
tiếp CM đã xuất hiện, khi chính phủ Nhật đầu hàng Liên Xô và quân đồng minh vô
điều kiện, quân đội Nhật ở Đông Dương bị tê liệt hoàn toàn. Cơ hội ngàn năm cho
dân tộc ta vùng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã tới. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng tháng Tám thành công. Và ngày
2/9/1945 tại Quảng Trường Ba Đình Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã đọc bảng Tuyên ngôn
độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa- mở đầu một kỷ nguyên mới -
kỷ nguyên độc lập tự do, dân chủ nhân dân, tiến lên CNXH cho dân tộc VN.
Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa
tháng Tám năm 1945 là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của
nhân dân ta; là bước nhảy vọt vĩ đại đánh dấu sự biến đổi cực kỳ to lớn trong
lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt Nam, từng cống hiến to lớn về lý luận và thực
tiễn đối với CM thế giới, đặt biệt là CM giải phóng dân tộc. Nói lên sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng và tinh thần quật khởi mạnh mẽ của toàn dân.
Nhưng với dã tâm đế quốc, thực dân
pháp đã không từ mọi thủ đoạn, đã quay lại tái xâm lược nước ta một lần nữa.
Nhưng với bản lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền đã trãi qua thử thách trong
thực tiễn đấu tranh trên mọi lĩnh vực để giải phóng dân tộc, một lần nữa Đảng
ta lãnh đạo nhân dân đi vào đấu tranh ở giai đoạn mới với hình thức, tính chất
và quy mô ác liệt hơn.
Chủ tịch HCM ra “Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến”. Đảng ta khẳng định đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
của ta là: toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính; tuy lâu
dài, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi.
Đại hội Đảng lần thứ II (2/1951),
Đảng đổi tên là Đảng lao động Việt Nam (được tách ra từ ĐCS Đông
Dương) và ra hoạt động công khai. Đảng đã xác định đối tượng của CM Việt Nam
lúc là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể là thực dân Pháp can thiệp Mỹ, phong
kiến phản động làm tay sai cho đế quốc là đối tượng thứ 2 của CM. Vạch ra 3
nhiệm vụ cơ bản của CM Việt Nam là đánh đuổi đế quốc giành độc lập dân tộc; xóa
bỏ di tích phong kiến, làm cho người cày có ruộng phát triển chế độ dân chủ
nhân dân; xây dựng cơ sở vật chất CNXH. Nhiệm vụ chính vẫn là hoàn thành giải
phóng dân tộc. Động lực của cuộc kháng chiến CM dân tộc dân chủ nhân dân là
giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản tri thức và tư
sản dân tộc. Ngoài ra còn có những nhân sĩ yêu nước và tiến bộ. Người lãnh đạo
CM là giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của giai cấp công nhân là
Đảng Lao Động Việt Nam .
Song, đồng thời Đảng chỉ đạo thực
khẩu hiệu “Người cày có ruộng”, tiến hành cải cách ruộng đất ở vùng tự do và
phát động quần chúng triệt để giảm tô ở các vùng địch chiếm đóng. Các hội nghị
TW 1 (tháng 3/1951), TW 2 (10/51), TW 3 (4/52), TW 4 (tháng 1/1953) và đặc biệt
là hội nghị TW 5 (tháng 11/191953) đều trực tiếp chỉ đạo thực hiện những nhiệm
vụ trên.
Quá trình thực hiện CM ruộng đất diễn
ra đồng thời với cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954 và chiến
dịch Điện Biên Phủ, quân dân ta đã đánh bại hoàn toàn mọi cố giắng quân sự của
Pháp ở VN. Hiệp định Giơnevơ được ký kết (tháng 7/1954), hòa bình lập lại ở
Miền Bắc.
Phản ánh đúng tư tưởng chiến lược về
tính không tách rời của hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, phản ánh nhận
thức của Đảng muốn giữ quyền lãnh đạo dân tộc phải thực hiện những yêu cầu dân
chủ đối với nông dân, Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951) đã định rõ
"nhiệm vụ giải phóng dân tộc bao gồm nhiệm vụ phản phong kiến", và
thay khái niệm "cách mạng tư sản dân quyền" bằng khái niệm "cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân". Nhận thức của Đảng đã rõ ràng. Tuy nhiên,
trong việc tổ chức thực hiện, Đảng đã phạm sai lầm hữu khuynh, có lúc quá chú
trọng tranh thủ tầng lớp trên, coi nhẹ phát triển lực lượng công nhân, và sai
lầm tả khuynh trong cải cách ruộng đất.
Từ những thành công cũng như sai lầm
nghiêm trọng dù là tạm thời, Đảng đã rút ra bài học quan trọng về mối quan hệ
giữa chiến lược và sự chỉ đạo chiến lược. Đó là: "nắm vững và giương cao
ngọn cờ dân tộc và dân chủ với hai khẩu hiệu chiến lược "dân tộc độc
lập" và "người cày có ruộng", Đảng ta đã lôi cuốn được đông đảo
nông dân đi theo giai cấp công nhân, động viên được các tầng lớp nhân dân khác
cùng với công, nông bước lên trận tuyến cách mạng chống đế quốc và phong kiến.
Trong quá trình cách mạng, những nhiệm vụ chiến lược đó đã được cụ thể hoá bằng
những mục tiêu thích hợp với từng thời kỳ, dựa trên sự phân tích những mối quan
hệ giai cấp cụ thể và khả nǎng phân hoá hàng ngũ kẻ thù đế quốc và phong kiến,
nhằm tập trung ngọn lửa cách mạng vào kẻ thù nguy hại nhất trong từng lúc một.
Song, dù ở bất cứ thời kỳ nào, những mục tiêu và nhiệm vụ chính trị cụ thể do
Đảng đề ra, về cơ bản đều bao hàm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, về cơ bản
đều gắn liền hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến". Như vậy về
mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng đã nhận thức đầy đủ hơn, diễn
đạt rõ ràng hơn, có tính lý luận sâu sắc và bảo đảm cho Đảng tránh mắc sai lầm
tả hữu khuynh trong việc lãnh đạo hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền
Nam trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng, cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược và can thiệp của Mỹ đã kết thúc thắng lợi, đã đi vài
lịch sử dân tộc như một chiến công hiển hách. Với thắng lợi của kháng chiến
chống Pháp, nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ mà Đảng ta đã vạch ra
trong cương lĩnh chính trị đầu tiên đã căn bản hoàn thành trên một nửa nước, mở
đường cho miền Bắc bước lên thời kỳ quá độ lên CNXH, xây dựng hậu phương vững
mạnh để nhân dân tiếp tục đấu tranh hoàn thành CM dân tộc, đưa chủ trương cả
nước, giải phóng miền nam, thực hiện thống nhất đất nước đi lên xây dựng CNXH,
đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho người dân
Câu: Bài học giương cao ngọn cờ ĐLDT và CNXH (đề cương trang 165).
Câu : Phân tích bài học kinh nghiệm, bài học xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
qua các giai đoạn từ 1930 đến nay. Liên hệ Nghị quyết Trung Ương 7 Khoá IX
Bài làm
Ngay khi Đảng Cộng Sản
Việt Nam ra đời, chủ trương
đoàn kết toàn dân trong
Mặt trận dân tộc thống nhất là một chính sách lớn của Đảng ta trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam .
Sức mạnh đoàn kết đã được phát huy trong đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định : Đại đoàn
kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất là một trong những nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam .
Nhìn lại lịch sử Việt Nam, ngay từ
thời xa xưa, các nhà lãnh đạo triều đại Lý, Trần, Lê… cũng đã nhìn thấy sức
mạnh của dân, để chủ trương dựa vào dân chống ngoại xâm. Trần Quốc Tuấn đã rút
ra bài học: "phải khoan thư sức dân,
làm kế rễ sâu gốc vững, ấy là thượng sách để giữ nước". Nguyễn Trãi
cũng đã nói: "Đỡ thuyền cũng là dân
mà lật thuyền cũng là dân"… Kế thừa di sản quý báu của dân tộc, vận
dụng di sản đó và kinh nghiệm của thế giới vào cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng đã khẳng định "dân là
gốc của nước", "có dân là
có tất cả" và thực hiện chủ trương: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành
công". Trong tác phẩm "Đường kách mệnh", Người cũng đã nhấn
mạnh “Kách mệnh là việc chung của dân chúng, chứ không phải là việc của một hai
người.
Với tư tưởng cối lõi ấy, ngay từ
ngày thành lập, Đảng ta đã coi Mặt trận dân tộc thống nhất là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược và đã phê phán mọi biểu hiện coi nhẹ công tác mặt trận, hạ thấp vai
trò của quần chúng, coi thường nhân tố dân tộc trong cách mạng.
|
Song song đó, Đảng luôn coi đoàn kết
dân tộc luôn là nguồn sức mạnh của cách mạng và là một trong những nhân tố
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam . Chính vì vậy, Đảng ta đã chủ
trương xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông
– trí thức. Đảng đã
Ngay từ khi mới thành lập, trong
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã chỉ rõ giai cấp vô sản phải tranh thủ được
nhiều bạn đồng minh, phải tập hợp các lực lượng cách mạng trong Mặt trận dân
tộc thống nhất. Hình thức Mặt trận dân tộc thống nhất đầu tiên lấy tên là Hội
phản đế đồng minh. Trong chỉ thị lập Mặt trận, Đảng đã nhấn mạnh: Nếu không tổ chức được lực lượng thật rộng,
thật kín thì cách mạng cũng khó thành công.
Sau cao trào cách mạng 1930-1931, đế
quốc Pháp khủng bố ác liệt, phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống, Đảng
chuyển hướng tổ chức quần chúng đấu tranh và quần chúng vẫn hướng về Đảng. Khi
điều kiện và thời cơ thuận lợi xuất hiện, Đảng đã kịp thời đề ra chủ trương,
chính sách đúng nên đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, liên hiệp hành động với
các giai cấp, các tầng lớp yêu nước, các đảng phái dân chủ, hình thành Mặt trận
dân chủ Đông dương trong thời kỳ 1936-1939. Vì vậy, Đảng đã phát động được một
cao trào đấu tranh cách mạng đòi cải thiện dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình,
chống phản động thuộc địa, chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh.
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Đảng đặt nhiệm
vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Đồng chí Hồ Chí Minh về nước, cùng Ban Chấp
hành Trung ương Đảng hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Hội
nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 khoá I (tháng 5-1941), dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của đồng chí Hồ Chí Minh đã chủ trương tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng
đất của địa chủ, thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt
trận Việt Minh) để mở rộng khối đoàn kết dân tộc không chỉ bao gồm giai cấp
công – nông mà còn cả những người Việt Nam yêu nước, tập trung mũi nhọn đấu
tranh vào nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Dưới ngọn cờ đại đoàn
kết của Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã dấy lên một cao trào kháng Nhật cứu
nước sôi nổi và đều khắp, nắm vững thời cơ Đảng đã chỉ đạo Mặt trận khởi nghĩa
từng phần, khởi nghĩa vũ trang dẫn đến tổng khởi nghĩa đưa Cách mạng Tháng Tám
1945 đến thắng lợi.
Chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, thì quân Pháp núp sau quân đội
Anh trở lại xâm lược nước ta từ phía Nam , còn quân Tưởng kéo vào phía
Bắc. Trước tình thế hiểm nguy ấy, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương mở
rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc thống nhất. Tháng 5-1946, Mặt trận Liên Việt ra
đời, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, làm hậu thuẫn vững chắc cho chính
quyền cách mạng. Với mục tiêu giai đoạn này là đặt nhiệm vụ đánh đổ đế quốc
hàng đầu, Đảng đã huy động lực lượng
toàn dân tham gia và áp dụng nhiều biện pháp linh hoạt để thêm bạn, bớt thù, do
đó đã đẩy lùi được mọi âm mưu thâm độc của thù trong, giặc ngoài.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền
Bắc được hoàn toàn giải phóng, ở miền Nam, đế quốc Mỹ biến miền Nam nước ta
thành thuộc địa kiểu mới và Mỹ trở thành kẻ thù chính của dân tộc ta. Trong
hoàn cảnh mới, Đảng chủ trương thành lập ở mỗi miền một mặt trận dân tộc thống
nhất nhằm mở rộng và tǎng cường khối đoàn kết dân tộc để hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước và đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã
hội
Tháng 9-1955, ở miền Bắc, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam
ra đời với mục tiêu xây dựng CNXH. Tháng 12-1960, ở miền Nam, sau cao trào
"đồng khởi", Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành
lập với mục tiêu giải phóng Miền Nam.
Nhân dân ta còn đoàn kết với nhân
dân các dân tộc Lào và Campuchia anh em, hình thành Mặt trận đoàn kết ba nước,
các lực lượng hoà bình, tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ, ủng
hộ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Trong cuộc kháng chiến Mỹ, cứu
nước đã hình thành trên thực tế ba tầng mặt trận : ở trong nước, trên bán đảo
Đông Dương và trên thế giới, đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ
mọi lực lượng có thể tranh thủ để lên án và cô lập đế quốc Mỹ xâm lược.
Sau đại thắng mùa Xuân nǎm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước
thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực phản động vẫn còn âm mưu và hành động phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc của nhân dân ta. Đảng ta vẫn chủ trương tiếp tục coi trọng vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nơi tập họp đông đảo nhân dân cả nước ra sức thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa. Nhân dân ta tiếp tục tǎng cường đoàn kết với nhân dân hai nước
Lào và Campuchia, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước, các dân
tộc tiến bộ trên thế giới, đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
Từ
những kết quả xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất qua các giai đoạn
trên, ta có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau :
Một là phải xác định đúng kẻ
thù, sắp xếp đúng bạn đồng minh. Muốn có chính sách mặt trận đúng đắn, trước hết phải xác định đúng kẻ
thù cụ thể, phải chỉ rõ kẻ thù cần phải đánh đổ trong từng giai đoạn chiến
lược, trong từng thời kỳ của một giai đoạn. Có như vậy mới tập trung được toàn
bộ lực lượng cách mạng đánh đổ kẻ thù cũng như
mới lợi dụng được những mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù và vận dụng sách
lược mềm dẻo để cô lập cao độ kẻ thù nguy hiểm nhất. Đảng ta đã có nhiều thành
công nổi bật trong việc xác định kẻ thù cụ thể và chính sách mặt trận trong các
thời kỳ cách mạng. Đặc biệt là trong thời kỳ 1945-1946, công tác mặt trận lúc
này hết sức phức tạp, nhưng phong phú và sáng tạo. Tình hình lúc bấy giờ thay
đổi từng ngày, từng tháng. Cùng một lúc cách mạng nước ta phải đối phó với
nhiều kẻ thù, nhưng Đảng đã đánh giá đúng các loại kẻ thù, xác định đúng kẻ thù
chính, để có sách lược và phương pháp đấu tranh phù hợp : khi thì hòa với Tưởng
để chống Pháp, khi thì tạm thời hoà với Pháp để đuổi Tưởng nhằm phân hoá, cô
lập kẻ thù, tránh thế bất lợi phải chống với nhiều kẻ thù cùng một lúc, để tǎng
thêm sức mạnh giành thắng lợi. Trong kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đã sáng suốt
chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất không chỉ của dân tộc ta mà của cả loài người tiến
bộ là đế quốc Mỹ, nên đã hình thành được ba tầng mặt trận: ở trong nước, ở Đông
Dương và trên thế giới, tạo ra sức mạnh để giành thắng lợi trong sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước.
Trong công tác mặt trận, vì trong dân tộc có nhiều giai cấp, nên Đảng
phải đánh giá đúng thái độ chính trị của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác
nhau để sắp xếp đúng đắn vị trí các lực lượng trong Mặt trận dân tộc thống
nhất: vai trò lãnh đạo, lực lượng nòng cốt, bạn đồng minh lâu dài và gần gũi,
bạn đồng minh tạm thời, v.v.. Ngay từ
khi thành lập, Đảng ta đã đánh giá đầy đủ vị trí của giai cấp nông dân Việt
Nam, giai cấp đông đảo nhất, chiếm 95% số dân, là bạn đồng minh cách mạng và
trung thành nhất của giai cấp công nhân Việt Nam. Hai giai cấp công nhân và
nông dân và tầng lớp trí thức có liên minh chặt chẽ mới phát huy đầy đủ sức
mạnh, thực hiện triệt để nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giai cấp, trong đó giai
cấp công nhân phải đóng vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Bên cạnh đó,
Đảng ra sức tập hợp đông đảo lực lượng về phía cách mạng trên cơ sở đánh giá
cao truyền thống yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân. Đảng đã lôi cuốn giai cấp tư sản dân tộc, một
bộ phận hoặc từng cá nhân xuất thân từ giai cấp phong kiến địa chủ có tinh thần
yêu nước tham gia cách mạng giải phóng dân tộc.
Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng hết sức chú ý phân tích
thái độ chính trị của các giai cấp, các tầng lớp, nhất là các tầng lớp trên để
tranh thủ mọi khả nǎng có thể tranh thủ nhằm tǎng cường mặt trận dân tộc rộng
rãi để chống đế quốc và tay sai. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta tiếp
tục lắng nghe, tìm hiểu quan điểm, tư tưởng và thái độ chính trị của các giai
cấp, các tầng lớp để kịp thời đề ra những chủ trương chính sách đúng đắn, những
hình thức tổ chức sát hợp để tập hợp lực lượng đông đảo, nhằm củng cố khối đoàn
kết dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hai là giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ mặt trận. Để tránh tả và hữu khuynh trong việc
thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc, Đảng ta đã giải quyết đúng đắn các mối
quan hệ trong nội bộ mặt trận.
- Đối với mối quan hệ giữa dân tộc
và giai cấp, mặt trận là tổ chức tập hợp lực lượng dân tộc bao gồm nhiều
giai cấp, tầng lớp được tập hợp, đoàn kết trên cơ sở chương trình hành động
chung. Vì vậy, cương lĩnh chung của mặt trận thể hiện đúng mối quan hệ giữa lợi
ích chung toàn dân tộc với lợi ích riêng từng giai cấp. Nếu vượt ra khỏi giới
hạn mục tiêu đó là phạm sai lầm tả khuynh. Trái lại, không đấu tranh để thực
hiện những mục tiêu chung đã xác định là phạm sai lầm hữu khuynh. Trong thời kỳ
1936-1939, Đảng nêu ra mục tiêu đấu tranh đòi cải thiện dân sinh, dân chủ,
chống chủ nghĩa phátxít, chống chiến tranh; trong thời kỳ 1939-1945 là đấu
tranh chống Nhật, Pháp, giành độc lập dân tộc; trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước
đã có lúc Đảng nêu ra mục tiêu trước mắt tranh đấu cho miền Nam Việt Nam, hoà
bình, trung lập, v.v.. .
- Đối với mối quan hệ giữa liên minh công nông và mặt trận, đây là
mối quan hệ lớn nhất trong công tác mặt trận. Chỉ nhấn mạnh liên minh công nông
mà không chú ý tranh thủ các giai cấp, tầng lớp khác là hẹp hòi, tả khuynh.
Ngược lại, chỉ chú ý vận động các giai cấp, tầng lớp khác mà không chú ý củng
cố liên minh công nông là phạm sai lầm hữu khuynh. Đảng ta đã giải quyết đúng
đắn mối quan hệ trên bằng việc thường xuyên nắm vững mục tiêu lâu dài và mục
tiêu chủ yếu trong từng thời kỳ cách mạng, phân tích được mâu thuẫn chủ yếu để
vạch rõ kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm nhất. Khi cần tập trung lực lượng để giải
quyết những nhiệm vụ cấp bách nhất của cách mạng, Đảng đã giải quyết đúng mức
quyền lợi của công nông và của các giai cấp, các tầng lớp tham gia mặt trận.
- Đối với mối quan hệ giữa tranh thủ tầng lớp trên (tiểu tư sản, địa
chủ..) đi đôi với phát động quần chúng cơ bản. Đảng chủ trương “có thể và cần
phải” tranh thủ tầng lớp trên, nhất là những cá nhân có uy tín trong quần
chúng, đó là điều cần thiết và có lợi cho việc phát động quần chúng cơ bản.
Nhưng phong trào vững chắc phải là phong trào cách mạng của quần chúng cơ bản.
Chỉ khi nào phong trào đó mạnh mới bảo đảm tranh thủ được tầng lớp trên. Vận động các dân tộc ít người là một trong những
công tác quan trọng bậc nhất của mặt trận, của chính quyền cách mạng. Để đoàn
kết đồng bào theo các tôn giáo, Đảng đưa ra chính sách tự do tín ngưỡng và giáo
dục quần chúng, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của giáo dân, làm cho họ
phân biệt rõ địch - ta, ra sức đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần. Đối với tầng lớp trên trong tôn giáo, Đảng chủ trương đoàn kết
với họ trên tinh thần yêu nước chân chính và giúp đỡ họ hiểu biết đường lối,
chính sách của cách mạng, vận động họ cùng với đồng bào theo các tôn giáo làm
những việc có ích cho Tổ quốc, chống lại mọi âm mưu chia rẽ dân tộc và phá hoại
của kẻ thù. Trong việc xây dựng mặt trận, Đảng giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa đoàn kết và đấu tranh. Đoàn kết một chiều, thiếu đấu tranh trong thực tế
dẫn đến phá vỡ khối đoàn kết, thủ tiêu mặt trận. Đấu tranh vượt quá cương lĩnh
là phạm sai lầm tả khuynh, trái lại, thiếu đấu tranh để thực hiện cương lĩnh là
hữu khuynh, dẫn đến mất đoàn kết.
|
Tóm lại, bài học thành công của Đảng
ta về xây dựng khối đoàn kết thống nhất dân tộc thông qua hình thức tổ chức các
mặt trận là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, xuyên suốt quá trình cách mạng nước
ta từ trước đến nay, tạo nên một sức mạnh không gì có thể phá vỡ nổi. Trong
công cuộc đổi mới hiện nay, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần phải tiếp
tục được coi trọng và ngày càng mở rộng để tập hợp mọi thành phần, lực lượng
của đất nước, tạo thành sức mạnh tổng hợp làm nên sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng và vǎn minh tiến lên chủ nghĩa xã hội..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét