Thứ Năm, 11 tháng 12, 2014

THÁI ĐỘ, TRÁCH NHIỆM CỦA TRIỀU NGUYỄN TRONG VIỆC ĐỂ NƯỚC TA RƠI VÀO TAY THỰC DÂN PHÁP CUỐI THẾ KỈ XIX - Đặng Minh Sang

THÁI ĐỘ, TRÁCH NHIỆM CỦA TRIỀU NGUYỄN TRONG VIỆC ĐỂ NƯỚC TA RƠI VÀO TAY THỰC DÂN PHÁP CUỐI THẾ KỈ XIX

Đặng Minh Sang

MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU
            1. Lí do chọn đề tài
            2.  Tổng quan tình hình nghiên cứu
            3.  Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
            4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
            5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
            6. Những đóng góp mới của đề tài
            7. Bố cục của đề tài
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Bối cảnh nước ta trước khi thực dân Pháp xâm lược (nữa đầu thế kỉ XIX)
                   1.1 Tình hình thế giới
                                    Âm mưu xâm lược của thực dân Pháp đối với nước ta………...
                        1.2 Tình hình trong nước
                                    1.2.1 Tình hình kinh tế …………………………………………
                                    1.2.2 Tình hình chính trị ………………………………………
                                    1.2.3 Tình hình văn hóa – xã hội……………………………….
CHƯƠNG 2: Thái độ, trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp (1858-1884)
                        2.1 Thái độ
                                    2.1.1 Khi Pháp nổ súng mở đầu xâm lược nước ta 1858 ………
                                    2.1.2 Trong công cuộc canh tân đất nước ……………………...
                                    2.1.3 Khi kí kết các hiệp ước đầu hàng cuối cùng nước ta rơi vào tay Pháp 1884 ……………………………………………………………………
                        2.2 Trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay của thực dân Pháp ……………………………………………………………………
C. PHẦN KẾT LUẬN ………………………………………………………..
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………..

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
            Lịch sử Việt Nam thế kỉ XIX, trãi qua nhiều biến động, chứa đựng nhiều nội dung đang xen phức tạp đòi hỏi công tác nghiên cứu cần phải thận trọng và thật sự khách quan
            Nếu như trước đây, do hạn chế bởi quan điểm, chúng ta đã đánh giá có phần chủ quan về triều Nguyễn, ví như triều Nguyễn bán nước, triều Nguyễn phải chiệu mọi trách nhiệm trong việc đề mất nước,… Thời gian gần đây, các nhà sử học đã có những nhận định khách quan hơn về triều Nguyễn qua một số công trình nghiên cứu như: kỉ yếu hội thảo triều Nguyễn,…
            Đứng trước những bất ổn về kinh tế xã hội cùa đất nước lúc bấy giờ, đặt biệt là nạn ngoại xâm đang đến gần, vậy thái độ của triều Nguyển ra sao để giải quyết những bất ổn của đất nước? rồi nhà Nguyễn có thái độ như thế nào khi Nguyễn Trường Tộ dâng lên bản điều trần với mong muốn canh tân đất nước? và thái độ của nhà Nguyễn như thế nào khi chấp nhận kí các hiệp ước đầu hàng để rồi nước ta rơi hoàn toàn vào tay Pháp?...Đúng là có hàng loạt câu hỏi được đăt ra và đòi hỏi phải giải quyết.
            Mặt dù đã có nhiều công trình nghiên cứu khác có liên quan như: Góp phần tìm hiểu về tư tưởng canh tân dưới triều Nguyễn hay vị trí của triều Nguyễn trong lịch sử phong kiến Việt Nam,… Tuy nhiên, vẫn còn nhiều nội dung chưa được làm rõ. Đặc biệt là thái độ, trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX. Trên đây là những thắc mắc mà bản thân tác giả nghiên cứu thiết nghĩ rằng, cần phải giải đáp thỏa đáng, và cũng là nguyên nhân thôi thúc chúng tôi chọn đề tài “ Thái độ, trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX” để nghiên cứu với mong muốn làm sáng tỏa những thắc mắc đã nêu trên, đồng thời rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báo trong công cuộc đổi mới, nhất là đổi mới về tư duy nhận thức, thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay của Đảng và Nhà nước ta.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
            Hiện nay, việc nghiên cứu về triều Nguyễn nói chung, thái độ và trách nhiệm  của triều Nguyễn nói riêng đang được sự quan tâm của các nhà khoa học. Mỗi tác giả, tác phẩm nghiên cứu đều đứng ở gốc độ khác nhau thậm chí có nhiều ý kiến còn trái ngược nhau.
            Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã tham khảo và kế thừa một số tác phẩm tiêu biểu sau:
            Tác phẩm có giá trị khoa học là “ Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia về nghiên cứu và giảng dạy lịch sử thời Nguyễn ở trường Đại học, Cao đẳng, phổ thông”, xuất bản năm 2002. Tác phẩm đã tập hợp hơn 100 bài của các nhà nghiên cứu và giáo dục lịch sử viết về triều Nguyễn, nêu lên những vấn đề chung về nghiên cứu và dạy học lịch sử thời Nguyễn. Và đặc biệt là các bài viết tập trung nghiên cứu về triều Nguyễn trên các lĩnh vực như: Kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục,…Qua đó, giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về triều Nguyễn.
            Tác phẩm “ tư tưởng canh tân đất nước dưới triều Nguyễn” Nhà xuất bản Thuận Hóa, đã giới thiệu những nhà canh tân tiến bộ. Qua đó, giúp chúng ta có những nhận xét về triều Nguyễn trước nhu cầu canh tân đất nước.
            Bên cạnh đó, Tác phẩm “ Lịch sử Việt Nam” tập II của ủy ban khoa học xã hội Việt Nam đã giành hẳn chương I để phân tích tình hình “ Nước Việt Nam trước khi bị chủ nghĩa thực dân Pháp xâm chiếm”. Qua đó tìm được những nguyên nhân xã hội, kinh tế, chính trị dẫn tới việc mất nước. Tuy nhiên, ở đây có những nhận định hơi “ cứng”, quá nhấn mạnh mặt tiêu cực, như “ nhà Nguyễn, triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến chuyên chế, không còn khả năng mở mang kinh tế và phát huy được tiềm lực nhân dân trong xây dựng đất nước” . Thực ra, như nhiều nhà nghiên cứu đã xác nhận, các vua đầu triều Nguyễn cũng có ý thức và khả năng phát triển kinh tế, cũng mong muốn canh tân đất nước và trình độ xã hội Việt Nam nữa đầu thế kỷ XIX cũng có thể xếp vào loại hàng đầu trong số các nước  phương Đông.  Như vậy, nước ta không phải không có khả năng đánh thắng giặc ngoại xâm, bảo vệ
Tổ Quốc như các triều đại trước đã từng làm. Điều này càng làm rõ hơn trách nhiệm của triều đình Huế trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp. Và cũng hiển nhiên rằng quá trình xâm lược của chủ nghĩa đế quốc phương Tây nói chung và Pháp nói riêng từ giữa thế kỷ XIX có thể coi là tất yếu, song việc mất nước ta vào tay thực dân Pháp lúc bấy giờ quyết không phảỉ là tất yếu.
Các tác giả “ Đại cương lịch sử Việt Nam” (Toàn tập) đã trình bày và phân tích rất chi tiết, đầy đủ tình hình “ Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XIX thời Nguyễn” trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục và đi đến kết luận rằng các vua triều Nguyễn cúng có những biện pháp tích cực để phát triển đất nước. Song do chính sách bảo thủ, phản động nên “ nhanh chóng cấu kết với bọn cướp nước để làm tay sai cho chúng, đàn áp, bóc lột nhân dân cả nước” . Trên cơ sở ấy, các tác giả “ Đại cương lịch sử VIệt Nam” đã có một phán xét công bằng: “ Đó là tội lớn của phong kiến nhà Nguyễn trước dân tộc, trước lịch sử. Nhưng tất nhiên, khi khẳng định “ tội” của nhà Nguyễn trong việc để mất nước ta vào tay thực dân Pháp vào nửa sau thế kỷ XIX, chúng ta không hề quên những đóng góp của họ về các mặt phát triển giáo dục, văn hóa, nghệ thuật và một số thành tựu đến ngày nay và là tà sản quý của dân tộc”
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
            Tái dựng lại bức tranh về chế độ phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn, qua đó xác định được thái độ và trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX.
            Đề tài làm rõ tình hình nước ta dưới triều Nguyễn thông quá một số chính sách về kinh tế, chính trị, xã hội,… để đánh giá một cách khách quan, chính xác về các chính sách đó và thấy được những biểu hiện của triều Nguyễn khi Pháp đã tiến hành xâm lược nước ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
            Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về thái độ và trách nhiệm của triều Nguyễn trong lịch sử phong kiến Việt Nam
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
            Đề tài sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chuyên ngành là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra, trong qua trình nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, sưu tầm và xử lí tài liệu.
            Chúng tôi đứng trên lập trường của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác-Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho quá trình nghiên cứu của mình.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Đề tài nghiên cứu thành công sẽ giúp cho việc học tập, nghiên cứu triều Nguyễn và nhất là thái độ, trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX, sẽ có tính thống nhất, chiều sâu hơn và khách quan hơn.
7. Bố cục của đề tài
            Ngoài phần mở đầu, kết luận, phục lục, tài liệu tham khảo,đề tài còn có hai chương
            CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH NƯỚC TA TRƯỚC KHI THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
            CHƯƠNG 2: THÁI ĐỘ, TRÁCH NHIỆM CỦA TRIỀU NGUYỄN TRONG VIỆC ĐỂ NƯỚC TA RƠI VÀO TAY THỰC DÂN PHÁP CUỐI THẾ KỶ XIX

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: BỐI CẢNH NƯỚC TA TRƯỚC KHI THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC ( NỮA ĐẦU THẾ KỶ XIX)
1.1 Tình hình thế giới
Âm mưu xâm lược của thực dân Pháp đối với nước ta
            Bước sang thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương tây đã phát triển mạnh trên phạm vi thế giới và vùng viễn đông nhằm mở rộng thị trường và tìm nguồn nguyên liệu, từng bước xâm lược các nước phương Đông. Việt Nam đã có nhiều nước đặt quan hệ ngoại giao buôn bán, thăm dò, chuẩn bị kế hoạch. Tư bản Pháp đã tổ chức các hoạt động thăm dò thông qua hoạt động của công ty Đông - Ấn và hội truyền giáo nước ngoài tại Việt Nam.
            Âm mưu xâm lược của tư bản Pháp đối với Việt Nam lâu dài và liên tục, bắt nguồn từ thế kỷ XVII và xúc tiến mạnh mẽ vào giữa thế kỷ XIX. Năm 1812, Na-pô-lê-ông I ra lệnh cho nghiên cứu lại hiệp ước Véc-xây (1787) để tìm cớ can thiệp vào Việt Nam. Năm 1818, Lu-I XVIII cử phái đoàn sang Việt Nam yêu cầu vua Gia Long nhượng cho Pháp cửa biển Đà Nẵng và Côn Lôn. Năm 1819, Anh chiếm Singapore, sau đó cử xứ thần đến Huế yêu cầu mở cửa cho Anh vào buôn bán (1822). Pháp bị Anh gạt khỏi Ấn Độ, không khỏi lo lắng bị mất thị trường ở Việt Nam. Những năm 30 của thế kỷ XIX, nước Pháp bước nhanh trên con đường đại công nghiệp. Nhưng đối thủ của Pháp là Anh thì đã bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp trước Pháp nữa thể kỷ. Cuối những năm 30, Anh đã sẵng sàng tiến công vào lục địa Trung Quốc. Trong tình hình đó Pháp càng ráo riêt xâm lược Việt Nam. Năm 1843 thủ tướng Pháp Ghi-dôt tuyên bố nước Pháp cần có hải đảm bảo ở Viễn Đông là một căn cứ quân sự ở biển Trung Quốc và một thuộc địa ở gần Trung Quốc. Các vua đầu triều Nguyễn không phải không hay biết về ý đồ xâm lược của Pháp. Nhưng họ không có giải pháp chiến lược nào nâng cao năng lực trước ngọa ngoại xâm. Để trả ơn tư bản Pháp, Gia Long tri phong Bá Đa Lộc là thái tử thái phó Bi nhu quận công. Ông cho giáo sĩ Pháp tự do hoạt động và lưu các võ quan Pháp đã từng giúp ông ở lại làm quan trong triều đình Huế. Bọn này hoạt động gián điệp ngay trong lòng chúng ta. Đa-yo được Gia Long phong tước Tri lược hầu, chức Khâm sai đại thần. Hồi còn chỉ huy hải quân của Nguyễn Ánh, y vẽ bản đồ bờ biển và đường thủy Việt Nam, rồi năm 1807 bí mật gửi tài liệu này về Pháp. Sen-hô được phong tước toàn hầu, chức Chưởng cơ. Sen-ho và vanie thường liên lạc với hầu tước Ri-sơ-liơ để báo cáo tình hình Việt Nam. Năm 1819 “Sen-ho về Pháp để bày tỏ những phương sách mà ông ta có thể cống hiến cho sứ sở”, rồi trở lại Việt Nam với chức vụ khâm sai của Pháp hoàng.
            Đầu thế kỷ XIX, các giáo sĩ của hội truyền giáo nước ngoài Pháp không dừng lại ở hoạt động điều tra gián điệp như thế kỷ trước, mà đã tiến thêm một bước can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, họ ủng hộ một số viên đại thần vận động cho con trai Đông cung cảnh nối ngôi Gia Long, khuyến khích sự chống đối của Lê Văn Duyệt với Minh Mạng, kích động sự bất mản của Hồng Bào để gây ra vụ âm mưu bạo động chống Tự Đức (1848). Mưu đồ của họ là tìm con bài dự trữ cho Pháp, trước mắt là làm cho triều đình Huế thêm cô lập. Lợi dụng sự bất mãn của nhân dân ta với chế độ nhà Nguyễn, họ xen vào nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân mong gây ảnh hưởng trong quần chúng và đánh lạc hướng những hành động chuẩn bị chiến tranh xâm lược của Pháp. Năm 1826, một số giáo sĩ Pháp nhúng tay vào cuộc khởi nghĩa ở Bắc thành, sau đó lại thâm nhập vào khởi nghĩa  Văn Khôi ở thành Phiên A (Gia Định). Hội truyền giáo nước ngoài tập trung hoạt động trong số gần 50 vạn giáo dân. Chúng kích động một số giáo dân lạc hậu để gây hận thù giữa giáo và lương. Chúng lường gạt bằng thần quyền và ép buộc một số con chiên làm việc do thám cho chúng. Chúng xúi giục giáo dân vi phạm luật lệ của triều đình, tạo ra những vụ mất an ninh trật tự. Chúng chủ trương làm ruỗng nát xã hội Việt Nam từ bên trong bằng cách gây chia rẽ trong nội bộ của dân tộc ta, hòng thủ tiêu tinh thần kháng chiến của Việt Nam khi chúng đem quân xâm lược. Chúng đinh ninh rằng “Đánh chiếm Việt Nam sẽ dễ dàng hết sức, sẽ không gây phí tổn gì cho nước Pháp. Dân chúng hiền lành, cần cù, rất thuận lợi cho việc tuyên truyền lòng tin thiên chúa giáo, đang rên siết dưới sự bạo tang đến tột độ. Họ sẽ đón tiếp chúng ta những người giải phóng và những ân nhân”. Thực dân Pháp đã tìm cách “ đưa” triều đình Huế vào cái bẫy cấm đạo mà mình đặt ra, các Vua ra các sắc chỉ cấm đạo năm : 1825, 1833 và 1851. Bọn gián điệp Pháp đội lốt giáo sĩ lại nắm lấy cơ hội đẩy mạnh việc chia rẻ và khoét sâu mâu thuẫn giữa giáo và lương – người Việt không theo kito giáo.
            Đồng thời thực dân Pháp tiến hành những vụ khiêu khích về quân sự. Năm 1822,1825, Pháp cho tàu chiến vào Đà Nẵng đòi triều đình Huế thả giáo sĩ bị bắt, đòi tự do buôn bán. Năm 1845, hai lần tàu chiến Pháp vào thị uy ở cửa biển Đà Nẵng. Năm 1847, tàu chiến chúng lại tiếp tới khiêu khích Việt Nam. Tháng 3 năm 1847, hai tàu chiến Pháp vào Đà Nẵng. Thuyền trưởng cùng giáo sĩ Pháp ngang nhiên đi thẳng vào công quán hâm dọa. Tháng 4 năm 1847, tàu chiến Pháp lại vào Đà Nẵng đánh phá chiến thuyền của triều đình Huế. Ở trong đất liền, giáo sĩ Pháp ép buộc một số con chiên làm tay sai cho chúng. Sau khi hay tin Pháp uy hiếp Đà Nẵng, Vua Thiệu Trị đã tức giận và hạ vụ nhằm siết chặt việc “ cấm đạo, sát đạo”.
            Đến tháng 11 năm 1847 khi vua Tự Đức lên ngôi, vua đã tiếp tục khắc khe cấm đạo và sát đạo hơn, làm cho các nhà giáo sĩ Pháp có cớ thôi thút vua Pháp tiến hành can thiệp vũ trang vào Việt Nam. Cách mạng tư sản Pháp năm 1848 và đế chế thứ hai thành lập (1852) tuy có làm chậm kế hoạch xâm lược Việt Nam, nhưng việc chuẩn bị xâm lược sau đó càng gấp rút hơn
            Giữa thế kỷ XIX, lúc các tàu chiến Pháp lảng vảng ở biển Việt Nam, thì cũng là lúc các giáo sĩ Pháp như Giám mục Rôt, giám mục Pe-lơ-ranh, giáo sĩ Húc, tới tấp yêu cầu Napoleong III gấp rút hành động. Chúng sợ “ Người Anh đang nhòm ngó Đà Nẵng, họ sẽ đi trước chúng ta nếu họ biết đề án đánh chiếm của ta”. Năm 1856, giám mục Pe-lơ-ranh lẻn xuống tàu Pháp ở Đà Nẵng báo cáo tình hình, sau đó Pe-lơ-ranh từ Việt Nam về Pháp tâu với Na-pô-lê-ông III rằng: “ Những công giáo An Nam sẽ nổi lên hàng loạt khi người Pháp tới và sẽ đi theo những người giải phóng họ để trong một ít ngày kết thúc cuộc hành binh”. Đầu năm 1857, Pháp lập ủy ban nghiên cứu vấn đề Việt Nam đưa ra quyết định gấp rút đánh chiếm Việt Nam. Na-pô-lê-ông III cử sứ thần đến Huế đòi “ truyền đạo tự do, buôn bán tự do”. Bộ trưởng bộ hải quân và thuộc địa Pháp ở Thái Bình Dương để cùng Anh, Mỹ xâm lược Trung Quốc, đồng ra lệnh cho thiếu tướng  hải quân Đơ-Giơ-nui thống lĩnh quân đội viễn chinh Pháp đánh chiếm Việt Nam sau khi chiếm được Quảng Châu. Ngày 22 tháng 04 năm 1857, Na-pô-lê-ông III quyết định thành lập “ Hội đồng Nam Kì” để xem xét hiệp ước Véc-xây, nhằm mục đích hợp thức hóa việc đem quân  đánh chiếm Việt Nam.
            Chủ trương cấm đạo Thiên Chúa của vua Nguyễn lúc này đã tạo điều kiện cho vua Pháp thực hiện ý định trên. Những thông tin báo về Pháp về tình hình khủng hoảng xã hoảng xã hội ở Việt Nam, về sự suy yếu của triều Tự Đức, càng làm chính phủ Pháp mạnh bạo hơn trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam. Tháng 09 năm 1858, với cớ là bênh vực giáo sĩ, chống lại việc triều đình Nguyễn ngược đãi các giáo sĩ và cự tuyệt việc nhận các quốc thư của Pháp đòi tự do buôn bán Việt Nam, Pháp đã nổ súng xâm lược nước ta.
1.2. Tình hình trong nước
            1.2.1. Tình hình kinh tế
            Đối với nông nghiệp , thực hiện chính sách khai hoang với các hình thức “ Doanh điền” và “ Đồn điền”. Tổ chức phát triển và củng cố hệ thống đê điều. Kết quả là Triều Nguyễn tiếp tục khai hoang hoàn chỉnh vùng đất Gia Định, một sự nghiệp vĩ đại của dân tộc đã khởi đầu từ hơn hai thế kỷ trước. Từ năm 1802 đến năm 1855, triều đình ban hành 25 quyết định về khai hoang, trong đó 16 quyết định áp dụng ở Lục tỉnh, 2 ở Bắc thành, 1 ở vùng kinh kì và 6 đối với toàn quốc. Ở Namcũng như ở Bắc, hình thức chủ yếu là chiêu mộ dân lưu tán lập đồn điền. Một số quan chỉ đạo khai hoang có kết quả  như: Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Văn Thoại,…Tuy công việc khai hoang có kết quả, nhưng thành quả khai hoang trước hết lọt vào tay giai cấp địa chủ phong kiến. Hiện tượng dân phiêu tán càng trở nên phổ biến hơn. Năm 1840, các tỉnh thành Gia Định báo cáo cho Minh Mệnh: “ Trong hạt không có ruộng công, các nhà giàu đã bao chiếm ruộng tư đến nghìn trăm mẫu, dân nghèo không được nhờ cậy”. Bên cạnh đó chính quyền nhà Nguyễn còn tiếp tục thi hành chế độ quân điền nằm đảm bảo cho chế độ quân lính và công lành xã với hình thức công điền, và thừa nhận sự tồn tại của chế độ tư điền, …Do đó dân nghèo phiêu tán ngày càng tăng, ruộng bỏ hoang ngày càng nhiều, tình hình kinh tế sa sút,  song bên cạnh đó nạn mất mùa, đói kém thường xuyên xảy ra triền miên làm cho đời sống của nhân dân vô cùng khổ cực.
            Đối với công thương nghiệp, ngay từ đầu thế kỷ với một số biện pháp tích cực nền công nghiệp của Việt Nam đã phát triển nhất định và đạt được những thành tựu đáng kể và đã làm xuất hiện các khu trung tâm buôn bán sầm uất. Nhưng từ giữa thế kỷ XIX, chính triều Nguyễn chủ trương “ ức thương” dần dần “ bế quan tỏa cảng”. Triều đình nắm độc quyền ngoại thương, quản lí các  hầm mỏ và công xưởng lớn, thi hành chính sách công tượng. Trong những thập niên đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn còn cử nhiều quan lại cầm đầu phái đoàn đi các nước lân bang để mua hàng hóa và giám sat tình hình hoạt động của tư bản nước ngoài. Nhưng sự ràng buộc của chế độ phong kiến chuyên chế lại thêm sự uy hiếp ngày càng tăng của chủ nghĩa tư bản thực dân  phương Tây khiến triều Nguyễn không dám vượt lên bằng những cuộc cải cách và giao thương cởi mở đường cho công thương nghiệp phát triển mạnh. Và cũng chính chính sách “ bế quan tỏa cảng” đã khiến cho nước ta bị cô lập với thế giới bên ngoài và làm cho công thương nghiệp trong giai đoạn này bị đình đốn nghiêm trọng.
            1.2.2. Tình hình chính trị
            Ngay sau khi lên ngôi (1802), Nguyễn Ánh lấy niên hiệu là Gia Long đã tiến hành khôi phục nền thống trị của họ Nguyễn trên toàn quốc gia thống nhất từ mũi Cà Mau đến Ải Nam Quan.
            Vận mệnh quốc gia dân tộc nằm trong tay triều Nguyễn, dưới triều Nguyễn, vua là “ con trời” có uy quyền tuyệt đối. Giai cấp địa chủ và hệ thống quan lại cường hào là rường cột của chế độ. Đối nội để tập trung quyền lực, Gia Long đặt lệ “ Tứ bất”. Đối ngoại, triều Nguyễn thực hiện chính sách thần phục phong kiến Trung Quốc và “ bế quan tỏa cảng” mong chánh tư bản phương tây dòm ngó Việt Nam. Gia Long và Minh Mạng đã khước từ tổng cộng 30 đoàn ngoại giao và ngoại thương phương tây đã đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Một chính sách nội trị bảo thủ và lạc hậu không làm cho năng lực nội sinh của đất nước được mạnh thêm thì với chính sách ngoại giao “ đóng cửa” làm sao vương triều và quốc gia có đủ sức đương đầu với những thử thách mới của chủ nghĩa tư bản thực dân đang ập tới, mà đặc biệt là chủ nghĩa tư bản Pháp đã dòm ngó Việt Nam từ rất lâu rồi. Hệ thống quản lí nhà nước rất quy cũ nhưng cũng rất quan liêu độc đoán, nạn quan tham lam lại ngày càng công nhiên hoành hành.
            1.2.3. Tình hình văn hóa – xã hội
            Về nền tảng ý thức hệ, triều Nguyễn dựa trên cơ sở ý thức hệ Nho giáo – Khổng giáo kết hợp với ý thức dân tộc phát triển và vận dụng nó trong các lĩnh vực văn hóa một cách mềm dẻo. Về giáo dục, nền giáo dục triều Nguyễn đã tạo điều kiện cho mọi người dân đi thi để có thể tham gia vào quan trường. Nội dung học tập, giáo dục chủ yếu gắn bó với “ Tứ thư, ngũ kinh”…
            Về tôn giáo, nhà nước không khuyến khích phát triển nhưng trong cách cai trị của các vua Nguyễn muốn kết hợp tinh thần của Nho và phật trong giáo dục nhân dân, riêng đối với Kito giáo về sau ( thời Thiệu Trị trở đi ) thì tôn giáo này bị cấm và hạn chế phát triển.
            Về văn hóa, dưới triều Nguyễn có nhiều thành tựu về kiến trúc mang tầm di sản văn hóa thế giới “ Công trình cố đô Huế”, “ Nhã nhạc cung đình”,... Các bộ lịch sử của Quốc sử quán triều Nguyễn như: Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện,…Tuy nhiên, triều Nguyễn đã trở lại dùng chữ Hán làm ngôn ngữ nhà nước và phương tiện giáo dục, hủy bỏ cải cách giáo dục của triều Tây Sơn trước đó phát triển tiếng nói, chữ viết dân tộc.
            Về xã hội, đầu thế kỷ XIX triều Nguyễn đã nhanh chống khôi phục lại chế độ phong kiến, và ổn định tình hình đất nước nhưng đến nữa thế kỷ XIX tình hình kinh tế-xã hội trở nên lạc hậu. Khi thời đại tư bản chủ nghĩa đã xác lập trên phạm vi toàn cầu, khi nguy cơ bị xâm lược bởi chủ nghĩa thực dân ngày càng đến gần, triều Nguyễn – Vua Tự Đức đã làm mất khả năng ứng phó của dân tộc. Trong quá trình trị vì các vua triều Nguyễn đã dùng pháp luật, quân đội và Nho giáo kìm kẹp nhân dân về mọi mặt trong trật tự của nền chuyên chế cực đoan đã gây ra mâu thuẫn xã hội. Và cũng chính những nguyên nhân đó đã khiến nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân chóng triều đình liên tiếp nổ ra như: Phan Bá Vành (1821-1827), Nông Văn Vân (1833-1835),…
CHƯƠNG II: THÁI ĐỘ, TRÁCH NHIỆM CỦA TRIỀU NGUYỄN TRONG VIỆC ĐỂ NƯỚC TA RƠI VÀO TAY THỰC DÂN PHÁP CUỐI THỂ KỶ XIX
2.1 Thái độ
            2.1.1. Khi Pháp nổ súng mở đầu xâm lược nước ta 1-9-1858
            Với âm mưu xâm lược Việt Nam đã có từ trước, và thực dân Pháp xúc tiến mạnh mẽ việc xâm lược nước ta từ giữa thế kỉ XIX.
            Vào ngày 1 tháng 9 năm 1858, thực dân Pháp đã tấn công vào cửa biển Đà Nẵng của nước ta, sở dĩ thực dân Pháp chọn Đà Nẵng là nơi tấn công đầu tiên vì Đà Nẵng có một vị trí quân sự quan trọng, hải cảng rộng và sâu, thuận tiện cho tàu chiến triển khai. Hơn nữa theo cách nhìn của giới quân sự Pháp, Đà Nẵng là cổ họng của Huế, chỉ cách Huế 100km về phía nam, neeus chiếm được Đà Nẵng, người Pháp có khả năng chiếm ngay kinh thành Huế, sớm kết thúc chiến tranh.
            Giới quân sự Pháp cũng được lời hứa hẹn rằng, Giám mục Peloranh đã hoạch định kế hoạch lôi kéo giáo dân vùng ven biển Đà Nẵng nổi dậy, phối hợp với hải quân Pháp khi vào trận. Nhưng sự thực, điều này đã không xảy ra.
VIỆC Đà Nẵng bị tấn coong khoong hề bất ngờ với triều đình. Sách Dương sự thủy mạt đã ghi rằng, từ năm 1857, nhiều bản điều trần đã dâng lên Tự Đức đề nghị triều đình cho tăng cường phòng thủ cho hải cảng này. Theo kế hoạch đó, trên sông Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà được đắp thêm hai đồn lũy kiên cố, đèo Hải Vân cũng được xây thêm các đồn phòng thủ, có sẵn đá hộc chặn giặc. Quân số trên các đồn chính ở Đà Nẵng có lúc lên tới gần 5000, trang bị thêm đại bác mới…
            Rạng sáng ngày 1 tháng 9 năm 1858, không chờ quân triều đình trả lời tối hậu thư liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã nổ súng vào bán đảo Sơn Trà. Trước tình hình đó, Tự Đức đã lập tức cách chức Tổng đốc Trần Hoàng và Hồ Đức, cử danh tướng Nguyễn Tri Phương làm tổng đốc Quảng Nam cùng Chu Phúc Minh ra Đà Nẵng chặn giặc. Nhưng ông không chủ trương tấn công tiêu diệt giặc mà ông đã chủ trương bao vây giặc bằng cách xây dựng tuyến phòng thủ từ Hải Châu tới Thách Giản dài 4km nhằm vây chặt Pháp không cho chúng đánh rộng ra. Mặt dù chiến thuật này không độc đáo nhưng cũng làm cho quân Pháp bị giam chân trong 5 tháng liền, bị tiêu hao, bị dịch bệnh hoành hành ( 200 tên chết trong vòng một tháng), khả năng được tiếp ứng từ đất liền hoàn toàn không có.
            Trong tình trạng khó xử đó, R. Giơnuiy quyết định chuyến hướng, chỉ để lại một lực lượng nhỏ ở bán đảo Sơn Trà, còn đại quân sẽ tiến vào Nam Kì mà đầu tiên là thành Gia Định, sau nhiều ngày công phá các pháo đài Phúc Thắng, Lương Thiện,… có nhiệm vụ bảo vệ thành. Đến trưa ngày 17 thực dân Pháp đã chiếm được thành Gia Định. Nhưng cũng như ở Đà Nẵng thực dân Pháp không đủ sức bảo vệ thành, tướng Giơnuiy đã ra lệnh đốt thành và đưa quân xuống đóng dưới tàu chiến đậu trên sông để tránh quân ta phục kích.
            Đến tháng 02 năm 1859, Đô đốc Pagio được cử thay Gionuiy, nước Pháp lại đang sa lầy ở Xyri, quân Pháp đành phải rút khỏi Đà Nẵng và Đà Nẵng được giải phóng, trong khi đó cơ hội để hất cẳng Pháp khỏi Gia Định cũng rất là lớn như quân Pháp chỉ có 1000 tên nhưng nằm rải rác trên một tuyến dài 10km. Nhưng tư tưởng sợ giặc, “ chủ hòa” bắt đầu lan ra làm phân tán lòng người. Cũng chính tư tưởng này đến ngày 23 tháng 03 năm 1862 ta bị mất thành Vĩnh Long.
Như vậy, chúng ta có thể thấy được trước sức tấn công ồ ạt của Pháp, ngay từ đầu, giai cấp phong kiến cầm quyền có trách nhiệm bảo vệ độc lập dân tộc lại tỏ ra do dự thiếu quyết đoán và bất lực, trong nội bộ triều đình đã sớm có sự phân hóa sâu sắc: Phái chủ chiến và phái chủ hòa.
            Còn đứng trên lập trường giai cấp phong kiến thống trị, hai phái trên lại có cách giải quyết mâu thuẫn dân tộc khác nhau. Phái chủ chiến muốn dựa vào phong kiến Trung Quốc để đánh đuổi bọn cướp nước xa lạ mà họ gọi là bạch quỷ ( quỷ trắng ) hay dương quỷ ( quỷ ngoài biển ). Tiếng súng của giặc đã nổ ầm bên tai mà triều đình còn bận bàn cãi, nghị luận lung tung, kẻ hòa, người đánh, trên dưới đều không nhất trí, đánh hòa không ngã ngũ. Nhưng tựu trung lại, ý kiến được nhiều người tán thành là chủ hòa. Điều đó đã khẳng định một thực tế là ngay từ đầu, đại bộ phận hàng ngủ quan lại phong kiến cầm quyền đã mang nặng tư tưởng thất bại chủ nghĩa, chính tư tưởng này đã làm cho quân ta mất nhiều cơ hội để đánh Pháp, hết Trần Hoàng đến Lê Đình Lý, Phạm Khắc Thận,… cuối cùng cả danh tướng Nguyễn Tri Phương cũng tỏ ra “ án binh bất động” chỉ chủ trương bao vây địch ngoài mé biển mà không chủ động tấn công địch vì đây cũng là do thái độ do dự không dức khoát của hai phái trong triều đình nhà Nguyễn.
            Nhưng cũng cần nói rằng những điều kiện phòng thủ và tấn công địch trên mặt trận Đà Nẵng không phải là ít. Ngay từ đầu khi quân Pháp tấn công vào cửa biển Đà Nẵng đã gặp phải sức kháng cự quyết liệt của triều đình và nhân dân ta, khiến cho quân Pháp gặp nhiều khó khăn, buộc Pháp phải “ án binh bất động” trong thời gian dài, như tướng Giơnuiy nhận đinh rằng: “ Nếu họ đánh mạnh thì họ đã đánh bại chúng tôi lâu rồi” cũng chính thái độ do dự của triều đình đã khiến cho ta mất nhiều cơ hội tiêu diệt Pháp khi Pháp đang gặp nhiều khó khăn, bên cạnh đó do sự nhìn nhận tình hình của triều đình không đúng và không có kết hợp được với sức mạnh toàn dân để đánh bại thực dân Pháp xâm lược.
2.2.1. Trong công cuộc canh tân đất nước
Đến những năm 40-50 của thế kỷ XIX , mà đặc biệt là những năm trước khi Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ nhất trong triều đình đã rộ lên những phong trào cải cách đất nước, đặc biệt là những sĩ phu công giáo có cơ hội đi ra nước ngoài như: Phạm Phú Thứ, Nguyễn Hiệp, Đặng Công Trứ,…nhất là Nguyễn Trường Tộ. Những người này thấy rõ sự trì truệ của đất nước, sự bảo thủ của giới “hủ nho: và Nho giáo, sự tai hại của chính sách đóng cửa và đặc biệt là quay lưng lại với những tiến bộ kỹ thuật của văn minh phương tây. Phần lớn họ vẫn chấp nhận chế độ phong kiến, nhưng đều muốn nước ta đi theo con đường Minh Trị Duy tân của Nhật Bản
Trong tất cả những đề xuất của nhà nho yêu nước Việt Nam trong nửa đầu thế kỉ XIX, đáng chú ý hơn cả là dự án canh tân của Nguyễn Trường Tộ. Dự án của ông khiến cho không ít những người đương thời và hậu thế tán đầu và khâm phục, vì, theo họ, đó là một kế hoạch đổi mới toàn diện đất nước, nếu được thực thi, có thể xoay chuyển được tình hình đất nước lúc bấy giờ.  Năm mươi tám bản điều trần trong tám năm (1863-1871) mà Nguyễn Trường Tộ gửi cho triều đình Huế là cả một bản kế hoạch đồ sộ, hy vọng để xoay vần đất nước mà người đời sau hết lòng thán phục. Nội dung bản điều trần của ông nổi lên bốn vấn đề chính: Cải cách kinh tế, văn hóa và giáo dục, quân sự, chính trị ngoại giao. Đó là đề nghị mà Nguyễn Trường Tộ đã dồn cả tâm huyết và trí lực sáng tạo nên, và điều đáng ngạc nhiên là nó không thua kém gì các nội dung cải cách của các nước láng giềng lúc bấy giờ.
Vậy, vấn đề đặt ra: Thái độ của triều Nguyễn như thế nào khi xem xét những ý kiến đó của Nguyễn Trường Tộ? Hay vì sao kế hoạch cải cách đồ sộ của ông lại không được thực hiện? Có phải ông thiếu kiên trì và nhiệt thành đệ trình bản kế hoạch lên nhà vua hay không? Hay vì Tự Đức nhất mực khước từ đề nghị này? Lâu nay và không ít ý kiến giải đáp cho rằng tất cả là do nhà Nguyễn mà đại biểu là Tự Đức.
Công bằng mà nói, không phải Tự Đức quay lưng hoàn toàn với cải cách . Ông đã đã đọc các điều trần và thái độ không phải lúc nào cũng thờ ơ với những điều tâm huyết trong cải cách. Trong thực tế, nhà vua cũng đã thi hành một số cải cách trong  các lĩnh vực kinh tế ( như mở các mỏ than, sắt; định ngạch thuế trong thương mại, lập Ty bình chuẩn trông coi công việc buôn bán; mua sắm vũ khí, dịch tài liệu quân sự nước ngoài để huấn luyện quân đội; phê chuẩn việc học tiếng nước ngoài; đưa người ra nước ngoài học tập, giao lưu với một số nước…). Khi đám quần thần bàn lùi trong thực thi cải cách thì ông dụ rằng “ Xét việc thì nên cẩn thận và suy nghĩ cho chính, nhưng cũng nên làm thế nào cho tiến bộ, chứ không tiến là thoái vậy!” [9, tr. 138]. Tuy nhiên, ông cũng là một ông vua thiếu quyết đoán, chủ yếu dựa vào ý kiến của các triều thần như: Có lúc trước những đề nghị canh tân dồn dập của Nguyễn Trường Tộ thì ông lại cho rằng: “ Nguyễn Trường Tộ quá tin vào những lời hắn đề nghị. Nếu cần phải canh tân thì ta cứ làm từ từ. Tại sao lại thúc dục nhiều đến thế khi mà những khôn phép cũ của ta cũng rất đầy đủ để điều khiển quốc gia rồi” [9, tr. 141]. Vì thế, những đề án cải cách thường bị cho vào ngăn tủ rồi bị lãng quên hoặc nó được thực thi ở những điểm nào đó, nhưng cũng chỉ là nửa vời, vớt vát, không mang lại kết quả.
Không thể trách một mình vua Tự Đức. Ngôi nhà mà các nhà canh tân thiết kế trông đồ sộ nhưng lại thiếu một nền móng vững chắc, thiếu một người chỉ huy thi công- đó là một chính quyền đủ mạnh, có thể đảm đương việc triển khai canh tân. Và thực tế Việt nam cuối thế kỷ XIX cũng đã chứng minh điều đó: Một bộ máy nhà nước dựa vào đám quần thần bảo thủ, lạc hậu, một ông vua thiếu quyết đoán, không dám vượt lên những lời bàn của đám hủ nho thì những đề nghị cải cách của những nhà canh tân, trong đó có Nguyễn Trường Tộ trở nên lạc lỏng và bị rơi vào im lặng là điều tất yếu.
Ví dụ: Nếu so sánh với Nhật Bản với Xiêm thời điểm mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị cải cách, Việt Nam chưa có một cấu trúc chính trị - xã hội tiên tiến như Nhật Bản, kể cả Xiêm. Trong lúc Âu – Mỹ, khoa học – kỹ thuật phát triển nhanh chóng, nền kinh tế thay da đổi thịt với những thành tựu đáng kinh ngạc, thể chế chính trị chuyển sang một cấu trúc mới – tư bản chủ nghĩa…thế mà ở Việt Nam triều thần quanh vua Tự Đức chỉ lo tầm chương trích cú, rửa bút mài nghiên theo lối cổ hủ, bàn đến quốc sự thì lấy nghêu, Thuấn, Hạ, Thương, Chu xa xưa của Trung Quốc làm gương, tự vỗ ngực là văn minh, chê bai thiên hạ…Khi đất nước bị đe dọa thì phái ngoài, vua hỏi kế sách thì tất cả im lặng; khi nước ngoài cải cách tác động vào và nhiều nhà canh tân Việt Nam đưa ra những điều trần đổi mới thì triều thần cho là nói càn, bản nhảm…thì những tư tưởng trên bị thất bại là điều tất yếu mà thôi.
Bên cạnh đó, triều đình Nguyễn mà đặc biệt là Vua Tự Đức vẫn chưa tin tưởng ở Nguyễn Trường Tộ để tiến hành thực hiện cải cách thông qua thái độ của Tự Đức khi xem xét bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ như: “ Những lời tê Tộ thật đã khám phá sự tình. Nhưng y vốn không phải tộc loại với ta, tình ý chưa tin nhau, vội vàng thi hành e chưa tiện” [8, tr. 217]
“ Không phải tộc loại” vì Nguyễn Trường Tộ là sĩ phu Công giáo. Và công giáo trong giai đoạn này là một vấn đề làm xói mòn sức chiến đấu của nhân dân ta. Đây là một chiêu bài của thực dân Pháp để hòng chia rẽ, hủy hoại từ bên trong sức lực của triều đình, của dân chúng ta. Từ việc kích động dân công giáo nổi dậy.
Nhưng! Nói gì đi nữa việc thất bại “ cơ hội” để nước thoát khỏi sự thống trị của thực dân Pháp, hay nói đúng hơn là thất bại trong công cuộc canh tân đất nước, để nước ta dần dần rơi vào tay thực dân Pháp, nhà Nguyễn phải một chịu một phần trách nhiệm trong việc biến việc mất nước từ không tất yếu trở thành tất yếu.
2.1.3 Khi kí kết các hiệp ước đầu hàng
Để tìm hiểu về thái độ của triều đình Nguyễn khi kí kết các hiệp ước đầu hàng thực dân Pháp.
Vấn đề đặt ra: Vì sao nhà Nguyễn ký các hiệp ước đầu hàng trong cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp xâm lược (1858-1884).
Như chúng ta đã biết, thực dân Pháp đã có âm mưu xâm lược nước ta từ khoảng thế kỷ XVII, nhưng chưa có điều kiện để thực hiện. Đến giữa thế kỷ XIX, viện cớ nhà Nguyễn thi hành chính sách cấm đạo, giết đạo, chính phủ Pháp đẩy mạnh kế hoạch chiến tranh xâm lược Việt Nam. Trước nguy cơ xâm lược của một kẻ thù mà nhà Nguyễn đã dựa vào để đánh bại Tây Sơn, lại có ý thức cảnh giác với âm mưu xâm chiếm của chúng, công bằng mà nói, đã chuẩn bị và tiến hành kháng cự khi thực dân Pháp dám đến gần. Khi liên quân Pháp-Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng, triều đình đã vội điều binh khiển tướng tăng cường cho mặt trận Quảng Nam để kiên quyết đánh giữ. Bên cạnh đó vua Tự Đức còn dụ thuyền tìm mưu kế hay trong quan dân đế chống lại thực dân Pháp xâm lược. Tuy vậy, triều đình Huế vẫn còn mơ hồ về âm mưu và hành động xâm lược của Pháp. Bản thân vua Tự Đức khi thấy quân Pháp chiếm đóng mãi ở Gia Định đã nói với Viện cơ mật rằng: “ trước kia trẫm nghĩ là người Tây dương đến Gia Định, đã no chán thỏa thích rồi, thì tất lui. Không ngờ chúng thực có lòng cố giữ” [9, tr. 477]. Còn các quan trong triều ( thuộc phái chủ hòa ) thì hầu hết cho rằng người Tây đánh ta chỉ để đạt được mục đích tự do thông thương và truyền đạo, mà không hiểu rằng đó chỉ là cái cớ để chúng thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Khi thực dân Pháp bị tướng Nguyễn Tri Phương giam chân ở Đà Nẵng thì Giơnuiy đã chuyển hướng quân tấn công vào Gia Định. Đầu năm 1962, phong trào kháng chiến của nhân dân đang dân cao, do không nắm được tình hình thế giới đến đầu tháng 5 năm 1862 triều đình Tự Đức xin “ nghị hòa” với quân Pháp, do không nắm được thực dân Pháp đang gặp khó khăn trước sự thất bại tại chiến trường Mê-hi-cô cùng cuộc chiến tranh hao tài tốn của ở Trung Quốc, chính điều này đã làm thực dân Pháp cũng phải thốt lên: “ May mắn thay, đang lúc phải đón đợi lấy một tình thế xấu thì Huế lại yêu cầu kí hòa ước”.
Với việc kí hòa ước 1862 đã gây tình trạng bất bình trong nhân dân, rồi tiếp đó là các hiệp ước khác như: hiệp ước bất bình đẳng 1874 và hiệp ước Pa-tơ-nôt năm 1884. Và hiệp ước này cũng đánh dấu một điều là nước ta hoàn toàn rơi vào tay thực dân Pháp.
Vậy, do có tư tưởng cầu hòa từ trước nhà Nguyễn đã không dùng những chính sách cứng rắng để chống lại một đế quốc hùng mạnh xâm lược đó là đế quốc Pháp, hơn nữa trong nội bộ triều đình lại luôn luôn mâu thuẫn với nhau không thể phát huy được sức mạnh toàn dân để đánh Pháp, còn những người cầm đầu thì do dự thiếu quyết đoán nên không thể đưa ra một chính sách phù hợp để chống kẻ thù. Chính sự thiếu thống nhất đó đã bị thực dân Pháp lợi dụng thừa lúc vua Tự Đức mới qua đời, triều đình đang bối rối, quân Pháp kéo vào tới sát kinh thành Huế mà triều đình vẫn đang lục đục trong việc chọn người kế vị ngôi vua. Bởi vậy nên khi Pháp đưa ra các hiệp ước đã soạn thảo sẵn, triều đình Huế chỉ còn cách ngoan ngoãn chấp nhận mà thôi, mà không có biện pháp lâu dài, toàn diện, bỏ lở nhiều cơ hội khi Pháp cũng nhiều khó khăn, như chiến tranh Pháp – Phổ (1870); không thể và không cùng nhân dân kháng chiến chống Pháp.
Xét toàn bộ điều kiện khách quan và chủ quan tác động đến việc kí hiệp ước, ta thấy triều Nguyễn đã gặp khó khăn hơn là thuận lợi. Hơn nữa, triều Nguyễn lại không biết xử lý tốt mối quan hệ giữa khó khăn và thuận lợi, thường lấy khó khăn làm lý do biện minh cho các hành động hèn nhát để thúc đẩy việc ký hiệp ước nhưng lại chưa tận dụng được cơ hội tận dụng nào để chuyển bại thành thắng, tạo sức ép với kẻ thù trên bàn thương lượng.
Nhưng cũng phải nhìn nhận một cách khách quan rằng chế độ phong kiến Việt Nam lúc đó đã khủng hoảng sâu sắc, nước Việt Nam đã suy yếu về mọi mặt nên khó có khả năng chống đỡ trước sự tấn công của tư bản phương Tây. Nhưng chính giai cấp phong kiến thống trị nhà Nguyễn phải chịu trách nhiệm về sự suy yếu đó. Những chính sách bảo thủ, lạc hậu của triều Nguyễn là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của đất nước và sức sáng tạo của nhân dân. Đến khi thất bại trước cuộc vũ trang xâm lược của thực dân Pháp thì triều Nguyễn lại đổ lỗi cho khách quan và lấy việc ký hiệp ước làm lối thoát duy nhất. Thực ra trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc làm mất nước ta vào tay thực dân Pháp là điều không thể chối cải được.
2.2. Trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX
          Trước đây, do nhận thức vấn đề chưa đầy đủ, đã từng có những đánh giá khá nặng nề về triều Nguyễn, như cho là “ phản động toàn diện”, hà là “ cõng rắn cắn gà nhà” là “ rước vuoi về day mã tổ”, để rồi cam tâm bán nước cho giặc.
            Giờ đây, với cái nhìn mới, cùng với sự phân tích các sự kieenj lịch sử một cách khoa học khách quan, đã có một số ý kiến tương đối nhất trí về cách đánh giá nhà Nguyễn tgrong lịch sử.
            Trước hết cần phải đặt triều Nguyễn – cũng như sự xâm lược của tư bản phương Tây nói chung – trong đó có tư bản Pháp vốn có nhiều quan hệ với Việt Nam từ sớm thông qua các hoạt động liên tục và ngấm ngầm trong nhân dân của đội giáo sĩ và thương nhân kiêm gián điệp – trong bối cảnh chung của lịch sử thế giới là cuộc chạy đua ráo riết giữa các nước tư bản chủ nghĩa săn tìm các thuộc địa. Khu vực Đông Nam Á – trong đó có Việt Nam, với các điều kiện đất rộng, người đông, tài nguyên phong phú luôn luôn là đối tượng dòm ngó, săn lùng, là miếng mồi ngon cho bọn tư bản háu lợi. Việt Nam cùng các nước trong khu vực phải đối đầu với nguy cơ xâm lược; và cuối cùng trước sức tấn công quyết liệt  của bè lũ tư bản phương Tây có ưu thế tuyệt đối vè vũ khí đều lần lượt bị chúng thôn tính, chỉ trừ Thái Lan nhờ nằm vòa một vị trí trái độn giữa hai tên đế quốc đẩu sỏ Anh – Pháp nên vẫn giữ được nền độc lập hình thức, nhưng về thực chất vẫn nằm gọn trong hai tay đế quốc đầu sỏ.
            Có thể khẳng định bối cảnh chung được giới thiệu trên là một nguyên nhân khách quan sẽ dẫn tới việc thực dân nổ súng phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam (1858). Đó là nguyên nhân khách quan từ ngoài áp đặt tới, ngoài ý muốn chủ quan của chính quyền và nhân dân các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam.
            Đối với Việt Nam, ngoài nguyên nhân khách quan chúng được nêu trên, còn có một nguyên nhân chủ quan mà các nước trong khu vực đều không có. Đó là việc Nguyễn Ánh trên con đường lưu vong trước sức tấn công của nghĩa quân Tây Sơn, đã phải bán víu vào tư bản Pháp háu lợi đang cùng tư bản các nước khác chạy đua tìm kiếm thuộc địa trong khu vực Viễn Đông. Về vấn đề này, gần đây trong hội thảo cũng có ý kiến cho rằng việc đi cầu cứu ngoại bang chẳng qua cũng như ở nông thôn “ cháy nhà van xóm” thôi, không đáng trách cứ! Trong cuộc tranh chấp quyền lợi, việc tranh thủ đồng  minh cũng là lẻ thường, trước kia đã có, mà ngày nay vẫn có. Nhưng vấn đề thái độ xử lý sau khi đã thắng lợi phải như thế nào đế chính kẻ đồng minh mới của mình không thể lợi dụng tình hình để mưu lợi. Trong việc này, nói gì thì nói ta phải công nhận rằng thái độ và cách cư xử của vua Gia Long – Và các vua sau đều có ý cảnh giác cao đối với thực dân Pháp. Ngày sau khi đánh bại Tây Sơn để lên cầm quyền Gia Long đã “ trả ơn” cho một số giáo sĩ Pháp có công giúp ông ta. Ông giữ lại vài người làm quan trong triều, phong cho các chức quan cao cấp, biệt đãi hậu hĩ, nhưng với ý thức cảnh giác cao gần như ông đã cô lập được số người này ngay tại triều đình, theo dõi sát sao và kiểm tra chặt chẽ những quan hệ của bọn Chaignesu, Vannier…trong mối quan hệ với các phái viên của chính phủ Pháp. Chính vì vậy mà giờ đây chúng ta có quyền nói là với việc làm của các vua triều Nguyễn, đặc biệt là ông vua Gia Long, không thể nói là có việc “ cõng rắn cắn gà nhà”, “ rước voi về dày mã tổ” mang tính tự nguyện.
            Tất nhiên cũng phải công nhận là dù sao việc Gia Long tranh thủ  sự viện trợ của Pháp cũng là một cơ hội tốt cho Pháp để ngày càng tăng cường chú ý đến Việt Nam, tìm cách xâm nhập ngày càng sâu sắc bằng hai con đường truyền giáo và buôn bán để đến khi có thời cơ thì hành động. Vì vậy cũng có thể khẳng định rằng đó là một nguyên nhân chủ quan sẽ dẫn tới cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp vào giữa thế kỷ XIX, một nguyên nhân tuy rằng chủ quan, nhưng hoàn toàn ngoài ý muốn của Nguyễn Ánh khi tranh thủ sự giúp đỡ quân sự của giặc Pháp.
            Nguyên nhân chủ quan và khách quan là như vậy, nhưng các nguyên nhân đó hoàn toàn không quyết định việc nước ta bị tư bản Pháp thôn tính. Mà việc mất nước Việt Nam vào tay Pháp vào giữa thế kỷ XIX lại do trách nhiệm chủ quan của triều đình nhà Nguyễn – nói triều đình nhà Nguyễn lúc này không phải chỉ có mấy ông vua mà là cả cái bộ máy quần thần quan liêu, bảo thủ nặng nề, nhất nhất mọi xử sự và hành động đều theo tư tưởng Tống Nho hẹp hòi và cổ hủ.
            Có ý kiến khẳng định rằng việc nước ta rơi vào tay thực dân Pháp hồi giữa thế kỷ XIX là do trình độ dân trí Việt Nam quá thấp kém so với kẻ thù xâm lược, “ chỉ là vì văn minh nông nghiệp của Á Đông hết sức lạc hậu, yếu hèn; mà văn minh khoa học cũng cơ giới của Tây Phương lại quá mạnh mà thôi” [9, tr. 49]. Khẳng định như vậy thì còn gì là trách nhiệm chủ quan của nhà Nguyễn trong việc bảo vệ đất nước, vì một lý do có tính chất “ định mệnh”, bất khả kháng rồi. Nói như vậy là việc mất nước có tính tất yếu, kẻ yếu phải thua kẻ mạnh, người văn minh phải chiến thắng người lạc hâu.
            Để làm rõ được trách nhiệm chủ quan của triều Nguyễn trong việc để mất nước vào cuối thế kỷ XIX, phải thấy được việc mất nước là một quá trình từ không tất yếu cuối cùng đã chuyển thành tất yếu, có nghĩa là buổi đầu tư bản Pháp nổ súng xâm lược, khả năng đánh bại chúng dưới lá cờ của triều đình không phải là không có, mà do chính những chính sách ai lầm của triều đình đã làm cho các khả năng đề kháng và chiến thắng của quân dân ta ngày càng tiêu mòn, kẻ địch lấn lướt từ bước này tới bước khác để cuối cùng nuốt gọn nước ta. Chứng cớ là trong thời kỳ đầu tấn công xâm lược nước ta, chúng đã vấp phải sức ngoan cường của quân dân ta chiến đấu dưới lá cờ của triều đình, tình hình chúng có lúc vô cùng nguy ngập và đã tính đến chuyện rút quân về nước để tránh bị tiêu diệt tại chỗ. Thế nhưng chính trong quá trình chiến đấu chống ngoại xâm của dân tộc đã ngày càng bộc lộ sự bất lực và phản động của triều đình Nguyễn chỉ sau một thời kỳ ngắn lãnh đạo nhân dân để chiến đấu-rõ ràng không ngoài mục đích giữ ngai vàng của dòng họ -đã nhanh chống trượt dài trên con đường nội bộ, cầu hòa để có thể đối phó với phong trào đấu tranh của nhân dân cả nước ngày càng phát triển do hàng loạt chính sách sai lầm của nhà cầm quyền, đói nội thì triệt để bóc lột nhân dân đến xương tủy để phục vụ cho cuộc sống xa hoa phung phí của bè lũ, kết hợp với thẳng tay đàn áp nhân dân các địa phương, đối ngoại lại thực hiện chính sách bành trướng đói với hai nước láng giềng sau lưng trong lúc yêu cầu chung của lịch sử ba nước bán đảo Đông Dương là phải đoàng kết với nhau để chóng lại dẻ thù chung. Bên ngoài thì kẻ thù đang ra sức đẩy mạnh âm mưu thôn tính, mà bên trong thì giữa người cầm quyền với nhân lại không cố kết một lòng, thậm chí có lúc kẻ cầm quyền đã sẵng sàng chìa tay ra hợp tác với kẻ thù dân tộc để có thêm điều kiện đàn áp phong trào quần chúng.
            Nhận định tình hình nước ta khi Pháp phát động chiến tranh xâm lược, có thể khẳng định chế độ phong kiến ở Việt Nam đang ngày càng suy yếu, lực lượng vật chất và tinh thần của nhân dân ta bị sự thống trị của nhà Nguyễn hủy hoại, chí có thể cứu vãn nguy cơ mất nước nếu nhà cầm quyền sớm biết mở đường cho xã hội tiến lên theo hướng mới, tăng cường lực lượng vất chất và tinh thần trong nhân dân để có đủ khả năng bảo vệ đất nước. Muốn vậy chỉ có thể thực hiện được bằng cách điều chỉnh các mối xung đột của địa chủ với nông dân, giữa giai cấp phong kiến ngoan cố với những thành phần tư sản chớm nở, chấn chỉnh quân đội, cố kết nhân tâm, một yêu cầu mà nhà Nguyễn với tất cả những tồn tại và hạn chế của nó hoàn toàn không có khả năng đáp ứng.
            Kết quả là tư bản Pháp đã có thể vượt qua những khó khăn không ít và không nhỏ của chúng để cuối cùng nuốt gọn Việt Nam.
            Để kết luận, có thể khẳng địn rằng Việt Nam từ những năm đầu của thế kỷ XIX đã bị đặt vào tình trạng khủng hoảng vai trò lãnh đạo, triều Nguyễn bằng những chính sách phản động đã tự thủ tiêu vai trò lãnh đạo của mình, đối lập sâu sắc với nhân dân cả nước, ngày càng lún sâu vào con đường ngượng bộ, cầu hòa, và cuoois cùng cấu kết với kẻ thù dân tộc trong việc đàn áp, bốc lột nhân dân. Đó là trách nhiệm, đó cũng là tội lớn của nhà Nguyễn trước dân tộc, trước lịch sử. Nhà nguyễn phải chịu trách nhiệm một phần trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX.

PHẦN KẾT LUẬN
          Qua sự phân tích trên chúng ta có thể thấy được triều Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử dân tộc Việt Nam, cũng là triều đại có công lẫn có “ tội”.
            Cái “ công” ở đây được thể hiện ở việc trong suốt 143 năm tồn tại triều Nguyễn cũng có những đóng góp nhất định cho dân tộc đó là dưới triều Nguyễn đất nước được thống nhất từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, chính triều Nguyễn đã biên soạn những bộ sử học đồ sộ và xây dựng nên những công trình kiến trúc mà hiện nay được công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Đó là mặt tích cực còn mặt tiêu cực của triều đại phong kiến cuối cùng này được thể hiện ở cái “tội” trước lịch sử dân tộc như chính triều Nguyễn đã làm cho tiềm lực của đất nước ngày càng kiệt dần trước âm mưu xâm lược xâm thực dân Pháp. Dù một điều không thể phủ nhận là các vua Nguyễn cũng đã có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm và thực hiện những biện pháp nhằm củng cố triều đại và bảo vệ quốc gia. Nhưng các vua nhà Nguyễn lại lựa chọn đường lối không phù hợp với xu thế và yêu cầu của xã hội Việt Nam đặt ra, để rồi không phát huy được khối đại đoàn kết dân tộc. Nhưng cũng phải nhìn nhận một cách khách quan rằng chế độ phong kiến Việt Nam lúc đó đã khủng hoảng sâu sắc, khủng hoảng về mọi mặt khó có thể chống đở nổi trước âm mưu và hành động xâm lược của một đế quốc hùng mạnh – Pháp. Nhưng chính giai cấp phong kiến phải chịu về sự suy yếu này, trong triều kẻ bàn hòa, người bàn đánh, khi giặc đánh tới kinh thành mà còn mơ hồ không có cách đối phó, để rồi dần dần nước ta bị rơi hoàn toàn vào tay Pháp. Còn người đứng đầu – vua Tự Đức tuy có ý cải cách đưa đất nước thoát khỏi tình trạng lạc hậu, nhưng lại thiếu quyết đoán luôn luôn trong chờ vào ý kiến của quan lại trong triều, để rồi những cải cách của các nhà yêu nước như Nguyễn Trường Tộ với 58 bản điều trần nhưng cũng bị lãng quên trong ngăn tủ.
Yêu nước nhưng không có biện pháp đúng đắn, sáng tạo để giữ nước, cuối cùng chính triều Nguyễn đặc biệt là vua Tự Đức đã làm cho việc mất nước từ không tất yếu trở thành tất yếu. Đây là trách nhiệm mà cũng là “tội”, mà triều đại phong kiến cuối cùng này phải chịu trước dân tộctrước dân tộc.

Thứ Năm, 17 tháng 7, 2014

SỰ TIẾP NỐI TƯ TƯỞNG TRÊN ĐẤT NGHỆ TĨNH TỪ PHAN ĐÌNH PHÙNG QUA PHAN BỘI CHÂU TỚI HỒ CHÍ MINH

SỰ TIẾP NỐI TƯ TƯỞNG TRÊN ĐẤT NGHỆ TĨNH TỪ PHAN ĐÌNH PHÙNG QUA PHAN BỘI CHÂU TỚI HỒ CHÍ MINH 

PGS. TS. Phạm Xanh


Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng đánh Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam. Sau một thời gian ngắn cùng với nhân dân tổ chức kháng chiến chống xâm lăng, triều đình Huế, vì quyền lợi ích kỷ của mình, đã trượt dài trên con đường phản bội lợi ích dân tộc: năm 1862 ký hàng ước dâng ba tỉnh miền Đông, năm 1874 dâng nốt ba tỉnh miền Tây và cuối cùng năm 1884 ký hàng ước công nhận sự thống trị của thực dân Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam và trở thành chính quyền bù nhìn của chúng. Ngược với chính sách thoả hiệp và đầu hàng của triều đình nhà Nguyễn, nhân dân ta đã kiên quyết đứng lên chống thực dân Pháp để bảo vệ nền độc lập dân tộc và nền văn hiến của mình. Trên đất nước này, tiếng súng chống ngoại xâm không bao giờ ngừng nghỉ. Truyền thống yêu nước của dân tộc đã hun đúc, nhen nhóm và thổi bùng các phong trào chống Pháp của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Nếu lập một danh sách những người chống lại sự hiện diện của người Pháp thì “bản danh sách đó cũng dài bằng danh sách của tất cả những người đã chống lại sự đô hộ của Trung Hoa trong 20 thế kỷ qua”[1]. Từ sau năm 1884 phong trào chống thực dân Pháp đã bắt đầu chuyển đoạn. Nếu như trước đó các cuộc kháng chiến mang tính chất bảo vệ Tổ quốc, thì sau đó các phong trào chống Pháp đã chuyển sang phạm trù giải phóng dân tộc. Trên quy mô cả nước, sự vận động của các phong trào được diễn ra trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước theo chiều hướng đi lên. Đó cũng là sự vận động của các hệ tư tưởng trước vận mệnh lịch sử của đất nước. Lịch sử Việt Nam trong những năm 1884 -1945 đã từng chứng kiến sự bất lực trước nhiệm vụ cứu nước của hệ tư tưởng phong kiến, hệ tư tưởng tư sản và sự thắng lợi của hệ tư tưởng cộng sản. Như một hình ảnh thu nhỏ của phong trào cách mạng cả nước, Nghệ Tĩnh đã phản ánh đầy đủ và rõ nét sự tiếp nối không đứt đoạn tư tưởng trong việc tìm kiếm những con đường cứu nước. Nét đặc sắc và độc đáo đó của Nghệ Tĩnh lại được thể hiện cụ thể và sinh động qua sự nghiệp của ba người con ưu tú của quê hương, đó là Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh.
Phan Đình Phùng (1847-1895), người làng Đông Thái, huyện La Sơn, nay là xã Châu Phong, huyện Đức Thọ, tĩnh Hà Tĩnh. Ông đậu cử nhân năm 1876, đậu tiến sĩ năm 1877. Trước khi trở thành lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Hương Khê, ông đã làm Tri huyện Yên Khánh, Ninh Bình, rồi làm ngự sử trong Viện Đô sát triều đình Huế. Như vậy, Phan Đình Phùng chẳng những được đào tạo và thấm nhuần giáo lý Khổng, Mạnh, mà đã dấn thân vào chốn quan trường. Tấm bằng tiến sĩ và những năm tham chính của ông, trên một ý nghĩa nào đó, khẳng định ý thức tư tưởng của ông không đi chệch dòng chính thống đó. Thế nhưng, trong lời nói và hành động của ông, đây đó, đã thấy xuất hiện những nét mới không giống đại bộ phận nho sĩ đương thời.
Thời mà ông đang sống, từ vua đến quan, từ quan đến dân, đều cho rằng Thiên chúa giáo là tà đạo, những người theo tôn giáo này đều là tay sai của thực dân Pháp. Quan niệm không đúng đó một thời đã dẫn đến những thảm kịch lương - giáo. Khác với những quan niệm phổ biến nhưng sai lầm đó, Phan Đình Phùng đã có những ý nghĩ thoáng hơn, đúng đắn hơn về Thiên chúa giáo. Ông thường nói với những người tâm phúc: “Đạo Thiên chúa lấy Gia tô làm trời, cũng như Thích ca mâu ni là trời của đạo Phật hay là Khổng phu tử là trời của nhà Nho. Hễ ai tín ngưỡng điều gì, thì điều ấy là trời của mình. Mình muốn người ta đừng xâm phạm đến sự tín ngưỡng của mình thì mình đừng xâm phạm đến tín ngưỡng của người ta. Thiên chúa cũng là một thứ tôn giáo, mặc ai tin thì theo”[2]. Cùng với sự thẳng thắn, cương trực trong tính cách của ông và truyền thống phản kháng của quê hương, tầm nhìn thoáng đạt ấy dần dà giúp ông có được những chuyển biến mạnh mẽ trong quan niệm của ông về hai phạm trù đạo đức học nho giáo cơ bản - Trung, Hiếu.
Năm 1862, khi được tin triều đình ký hoà ước cắt ba tỉnh miền Đông Nam Bộ cho Pháp, nho sĩ Nghệ Tĩnh do Phan Huân đứng đầu dâng sớ bày tỏ một tâm trạng, một ý thức trái hẳn với truyền thống “Thiên hạ là của thiên hạ, thiên hạ không phải của bệ hạ mà chuyên giữ lấy một mình”. Tiếp đó là phong trào chống hòa ước Giáp Tuất lan rộng trong nhân dân “Làm vua ra rồi, một lòng bán nước; khi đang đánh được, không đánh gấp cho” và đạt tới đỉnh điểm trong cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn, Đặng Như Mai xem triều đình và thực dân Pháp đều là kẻ thù của dân tộc, phải quyết đánh:
“Dập dìu trống đánh cờ xiêu
Phen này quyết đánh cả triều lẫn Tây”.
Truyền thống bất khuất của quê hương đã giúp Phan Đình Phùng xác định được chỗ đứng của mình trong cuộc chiến đấu cho độc lập dân tộc - kiên quyết đứng về phía phe chủ chiến. Bỏ qua sự xung đột cá nhân giữa ông và Tôn Thất Thuyết, cuối năm 1885 ông lên sơn phòng Hà Tĩnh yết kiến vua Hàm Nghi và được phong làm Tán lý quân vụ, thống lĩnh các đạo nghĩa binh, nhận chiếu Cần vương về quê nhà tổ chức khởi nghĩa. Cụôc khởi nghĩa Hương Khê do ông lãnh đạo đã trở thành cuộc khởi nghĩa điển hình nhất trong phong trào Cần vương cuối thế kỷ XIX về thời gian, quy mô và tổ chức chiến đấu. ở thời kỳ đầu, Phan Đình Phùng đã vượt qua một thử thách ghê gớm trước những mưu mô độc ác của kẻ thù. ấy là lúc người anh của ông là Phan Đình Thông bị bắt, kẻ thù cho Lê Kính Hạp, bạn thân của ông, lấy việc hiếu đễ, tình cốt nhục viết thư dụ ông ra hàng: “Ngày nay trong họ hàng, làng xóm được an hay nguy chỉ can hệ ở nơi bác, tính mạng ông anh bác mất hay còn, cũng chỉ can hệ ở nơi bác…”. Kẻ thù đã đặt Phan Đình Phùng vào sự lựa chọn một trong hai giải pháp: buông súng đầu hàng để họ hàng làng xóm, mồ mả tổ tiên được bình yên, người anh thoát nạn hoặc tiếp tục chiến đấu thì mọi thứ đó sẽ mất. Tiến sĩ Phan Đình Phùng ung dung, thanh thản chọn cho mình giải pháp thứ hai, đặt vận mệnh đất nước, đặt tư tưởng trung với vua lên trên họ hàng làng xóm, chấp nhận sự hy sinh riêng tư: “Nay tôi chỉ có một ngôi mộ rất to, nên giữ, đó là đất Việt Nam; tôi chỉ có một ông anh rất to, đang bị nguy vong, là cả mấy mươi triệu đồng bào. Nếu về sửa sang phần mộ của mình thì ngôi mộ cả nước kia ai giữ? Về để cứu vớt ông anh của mình thì bao nhiêu anh em trong nước ai cứu? Tôi bây giờ chỉ có một cái chết mà thôi…”[3]. Trước hành động chối bỏ đó, kẻ thù đã thực thi hành động tàn bạo: đào mồ mả tổ tiên và hãm hại người anh của ông. Phan Đình Phùng vẫn không nao núng, kiên quyết chiến đấu đến cùng dưới ngọn cờ Cần vương. Năm 1888 khi vua Hàm Nghi bị bắt, một lần nữa Phan Đình Phùng trải qua một thử thách ghê gớm đối với một nhà nho: tiếp tục chiến đấu khi không còn vua hay lấy cái chết của mình làm rạng danh sự trung thành của bề tôi đối với đức vua cao cả. Nếu như ở giai đoạn trước trong quan niệm chữ Trung của Phan, vua gắn với nước thì đến đây đã có sự chuyển biến căn bản – nước đã được đặt lên trên vua. Ông đã chọn con đường tiếp tục chiến đấu. Đó cũng chính là thời điểm mở đầu giai đoạn hai của phong trào Cần vương và của cuộc khởi nghĩa Hương Khê của ông. Trong chiến dịch đánh thành Vinh năm 1893, Cao Thắng, vị chỉ huy của nghĩa quân, cánh tay phải của Phan Đình Phùng, bị trúng đạn tử trận trong trận tấn công vào đồn Nu. Kế hoạch lớn không thực hiện được. Vào chính thời điểm đó thực dân Pháp lệnh cho Hoàng Cao Khải, người cùng làng với ông, viết thư dụ hàng. Ông đã đáp lại bằng một bức thư đanh thép nói rõ ý chí bất khuất của mình, vạch mặt những kẻ như Khải mượn chữ “Trung” làm những điều bất nhân tàn bạo: “... Đến nay người Pháp với mình, xa cách nhau không biết là mấy muôn dặm, họ vượt bể tới đây, đi tới đâu như là gió lướt tới đó, đến nỗi nhà vua phải chạy, cả nước lao xao, bỗng chốc non sông nước mình biến thành bờ cõi người ta, thế là trọn cả nước nhà, dân nhà cũng bị đắm chìm hết thảy, có phải riêng một châu nào hay một nhà ai phải chịu cảnh lầm than mà thôi đâu… Chỉ vì nhân tâm đối với tôi như thế cho nên cảnh nhà tôi hương khói vắng tanh, bà con xiêu bạt, tôi cũng chẳng dám đoái hoài. Nghĩ xem, kẻ thân với mình mà mình không thèm đoái hoài huống chi là kẻ sơ; người gần với mình mà mình không bao bọc nổi, huống chi người xa. Vả chăng, hạt ta đến nỗi điêu đứng lầm than quá, không phải chỉ riêng vì tai hoạ binh đao làm nên nông nỗi thế đâu. Phải biết quân Pháp đi tới đâu có lũ tiểu nhân mình túa ra bày kế lập công, thù vơ oán chạ; những người không có tội gì chúng cũng đâm thọc buộc ràng cho người ta là có tội”[4].
Với quyết tâm đó, Phan Đình Phùng đã lãnh đạo nghĩa quân chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do ông lãnh đạo cũng chính là sự cáo chung của hệ tư tưởng phong kiến bất lực trước nhiệm vụ lịch sử của đất nước. Dẫu ông có kiên tâm tới đâu đi nữa, ngọn cờ Cần vương đã rách tả tơi không còn đủ sức tập hợp dân chúng cho sự nghiệp cao cả của mình. Và sự thất bại của Phan Đình Phùng cũng là điều dễ hiểu. Nhưng những sự chuyển biến tích cực trong tư tưởng của ông là sự khởi đầu và sẽ được tiếp nối kỳ diệu trong tư tưởng của Phan Bội Châu.
Sau khi dập tắt phong trào Cần vương, thực dân Pháp vội vã bắt tay khai thác thuộc địa. Dưới tác động của chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất, hình hài của một nền sản xuất mới, của một xã hội mới, dù là thuộc địa, nhưng đã khác xa với xã hội truyền thống, đang hình thành. Những đoạn đường sắt cùng với những chiếc cầu hiện đại và đường giây điện thoại, điện tín (Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội – Hải Phòng, Sài Gòn - Mỹ Tho, Sài Gòn - Nha Trang) trong hệ thống đường sắt đã được đưa vào khai thác, những thành phố kiểu phương Tây (Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng) đang được xây dựng. Hầu như cùng thời với những kết quả bước đầu của chương trình khai thác thuộc địa, luồng gió Tân văn, Tân thư từ Trung Quốc, Nhật Bản tràn tới. Trong không gian lịch sử hồi đầu thế kỷ XX ấy, khi mà giai cấp phong kiến đã suy tàn, giai cấp công nhân trên đường phát sinh, phát triển chưa đạt tới độ trưởng thành để đảm đương sứ mệnh lịch sử, giai cấp tư sản dân tộc đang manh nha. Vì vậy, cuộc cách mạng dân chủ tư sản nếu được tiến hành ở Việt Nam lúc này thì chưa có bệ đỡ xã hội cần thiết cho nó. Trong bối cảnh đó, những nhà nho yêu nước thức thời đứng ra đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử, đưa dân tộc bước vào thời kỳ lịch sử cùng với các dân tộc châu á - thời kỳ phương Đông thức tỉnh và khởi xướng phong trào cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Trên bầu trời sao Việt Nam thời đó ngôi sao chói sáng nhất là Phan Bội Châu.
Phan Bội Châu (1867-1940), người làng Đan Nhiệm, nay là xã Nam Hoa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Sau khi đậu giải nguyên năm 1900, Phan Bội Châu dấn thân vào con đường cách mạng theo cách đi riêng của mình, vừa kế thừa những di sản của các bậc tiền bối như Phan Đình Phùng, nhưng đồng thời cũng sáng tạo ra những cách thức mới đáp ứng đòi hỏi của thời đại. Từ tấm lòng yêu nước nồng đượm, từ truyền thống đánh giặc của quê hương, của đất nước ông đã chọn cho mình một phương pháp cách mạng duy nhất đúng - suốt đời theo đuổi vũ trang bạo động, không hề có ảo tưởng ở quân cướp nước và bè lũ bán nước. Trong cuộc bút đàm với Lương Khải Siêu trên đất Nhật, Phan Bội Châu đã bộc bạch: “Quyền giáo dục ở nước tôi hoàn toàn ở trong tay giặc Pháp... bây giờ chúng tôi tìm đường sống ở trong muôn vàn cái chết, chỉ nghĩ có bạo động mà thôi: bạo động tức là làm môi giới cho sự cải lương giáo dục”[5].
Lòng yêu nước và chí kiên trì bạo động đã giúp Phan Bội Châu tìm ra những phương thức hoạt động mới mẻ trước đó chưa bao giờ có. Đó là việc lập ra một tổ chức chính trị cố kết những người đồng tâm, đồng chí trong đó để đối đầu với bộ máy thống trị ngoại bang trong nước và những người đồng bệnh ở nước ngoài. Đó là việc sử dụng các phương tiện tuyên truyên để thức tỉnh hồn nước, hướng đồng bào tới mục đích tối thượng là đánh giặc cứu nước. Văn thơ Phan Bội Châu một thời làm say mê đồng bào, làm thức dậy những tấm lòng vì đại nghĩa, hướng tuổi trẻ Việt Nam đi vào cuộc chiến đấu sống mái với quân thù, mở ra một phong trào Đông du rầm rộ trong lịch sử nước nhà.
Cũng từ chủ nghĩa yêu nước và chí kiên trì vũ trang bạo động, Phan Bội Châu chủ trương đoàn kết mọi người. Chủ trương của ông đã làm sống lại tinh thần “vua tôi đồng lòng, trăm người một bụng” trong những trang sử chống ngoại xâm đẹp nhất của Việt Nam. Phan không chỉ nhìn ra sức mạnh đoàn kết toàn dân, mà còn ra công xây đắp khối đoàn kết ấy thành thứ vũ khí vô địch. Trong Tân Việt Nam, ông đã nhấn mạnh: “Nếu sức một người không đủ thì hiệp sức mười người lại, sức mười người không đủ thì hợp sức trăm, ngàn, vạn người mà làm cho ra. Lòng cả nước đều anh hùng, thì người Pháp một ngày không thể yên được”. Trên phương diện đoàn kết dân tộc, có lẽ Phan Bội Châu, người Việt Nam đầu tiên có những ý tưởng mới mẻ, đặt việc cứu nước là “trách nhiệm của quốc dân”, là “trách nhiệm của hàng triệu người”, “không phải một tay một chân mà làm nên, mà phải do tâm huyết của hàng vạn người anh hùng vô danh”. Cái mới mẻ trong tư tưởng đoàn kết của ông không chỉ ở 10 hạng người đồng tâm hiệp lực, mà còn ở chỗ lần đầu tiên ông đề cập vai trò của phụ nữ, của binh lính người Việt trong quân đội Pháp và hô hào đoàn kết lương-giáo trên lập trường cứu nước, trên nguyên tắc tự do tín ngưỡng. Đến năm 1908, trong Việt Nam quốc sử khảo, Phan Bội Châu liệt kê thêm một đối tượng nữa - các dân tộc thiểu số, vào danh sách các lực lượng chống Pháp.
Trong Tân Việt Nam, Phan Bội Châu sau khi nói những lời thật hay về vai trò, vị trí của phụ nữ trong xã hội, đã đi tới một nhận định táo bạo: “Trong nước nếu không có phụ nữ yêu nước thì nước ấy sẽ phải làm đầy tớ cho người ta mà thôi”. Những nhận thức, những quan điểm về phụ nữ của Phan thực sự mới mẻ và cách mạng, có sức cuốn hút mọi lực lượng cách mạng vào con đường đấu tranh cho tự do, độc lập của dân tộc.
Một điểm đặc sắc mang tính chất đổi mới trong nhận thức của Phan Bội Châu là sự quan tâm tới việc vận động giáo dân, xây dựng khối đoàn kết lương - giáo. Trong con mắt của ông, ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp không từ một tôn giáo nào. Vì thế, đối với ông, đồng bào công giáo “đều là anh ta cả, đều là em ta cả... Mấy mươi năm nay người Pháp nghiêm hình trọng phạt, có một thứ nào rộng rãi cho người theo đạo Gia tô đâu: tiền sưu tiền thuế thu nhiều không bớt một đồng nào cho người Gia tô”[6]. Bởi lẽ đó, giáo cũng như lương ai cũng có lòng yêu nước. Từ đó, ông đi tới một nhận thức đúng đắn là giáo dân nào “không chịu đi giúp người Pháp để làm hại nước Việt Nam… mới là dân của đạo Thiên chúa cứu thế, mới là dân đồng bào nước Việt Nam” và “nếu ai nhẫn tâm nhìn người Pháp làm hại người Việt, tức là không phải dân Thiên chúa giáo, tức là trong đạo Thiên chúa cứu thế không có thứ đạo lý ấy, trong đồng bào nước Việt Nam không có cái giống người ấy”2. Cách nhìn nhận của Phan Bội Châu cho phép san bằng hố ngăn cách giữa lương và giáo mà thái độ thù địch đã tạo ra hàng trăm năm nay và đã từng bị bọn thống trị lợi dụng. Vì thế, ông mới có thể thu hút sức người, sức của của giáo dân cho sự nghiệp của mình. Trong phong trào Đông du, nhiều giáo dân, tiêu biểu là Mai Lão Bạng, một con chiên ngoan đạo, đã trở thành một trợ thủ đắc lực của ông.
Cũng nhờ vào tấm lòng yêu nước chân thành, Phan Bội Châu đã chuyển từ yêu đất nước mình đến thông cảm với những đất nước cùng cảnh ngộ, do đó từ đoàn kết dân tộc đi tới “liên kết với những người đồng bệnh với ta”.
Và cuối cùng, Phan Bội Châu đã hoan hô Cách mạng tháng Mười Nga và Liên bang Xô viết, bởi lẽ đất nước ấy có thể giúp đỡ các dân tộc bị áp bức đánh đổ đế quốc thực dân, giành độc lập. Đó chính là những tư tưởng thực sự mới mẻ mà chỉ có nhãn quan cách mạng, tầm nhìn như ông mới có được.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi ngót 30 năm, Phan Bội Châu với chí hướng ấy, tư tưởng ấy, đức độ ấy sao phải trải qua nhiều thất bại đắng cay như chính ông đã bộc bạch: lịch sử của đời ông là “lịch sử hoàn toàn thất bại”? Thời đại đã tạo ra người anh hùng Phan Bội Châu, nhưng chính thời đại lại chưa tạo ra những điều kiện cần thiết cho người anh hùng thỏa chí tung hoành. Thời đại chưa sẵn sàng và Phan Bội Châu đã chín sớm. Hạn chế lịch sử đó thế hệ cách mạng như Phan Bội Châu không thể vượt qua. Và hạn chế lịch sử đó, nói như F. Anghen, hãy để cho thế hệ con cháu tìm kiếm và giải mã. Đúng như vậy. Không ở đâu, mà ngay trên mảnh đất Nghệ Tĩnh, đã xuất hiện con người đó, Hồ Chí Minh, về thế hệ, thuộc hàng con cháu Phan Bội Châu.
Hồ Chí Minh (1890-1969), người làng Kim Liên, nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Quê hương, gia đình và sự nhập cuộc sớm của bản thân đã làm nảy sinh trong Người lòng yêu nước thương dân tha thiết. Với tấm lòng ấy, Người đã trăn trở với biết bao câu hỏi lớn về thời cuộc, về vận mệnh của đất nước: Tại sao các phong trào chống Pháp phải chịu thất bại, chân lý ở đâu và tìm đâu ra chân lý để cứu dân cứu nước? Người đã lục tìm trong lịch sử, đặc biệt trong phong trào chống Pháp đương thời, những cứ liệu cho dự cảm của mình. Kính trọng các bậc anh hùng tiền bối như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám, v.v. nhưng Người không bằng lòng với đường đi nước bước của những người đi trước. Sau nhiều trăn trở, ngày 5-6-1911 với chân phụ bếp trên chiếc tàu Đô đốc Latouche Tréville của Hãng vận tải Hợp nhất, Người rời cảng Nhà Rồng đi Pháp tìm đường cứu nước. Hành trang của Người không có gì, ngoài tấm lòng yêu nước và đôi bàn tay lao động với quyết tâm tìm ra chân lý trở về giúp đồng bào. Từ năm 1911 đến trước khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, Hồ Chí Minh đã tận dụng mọi cơ hội để có thể đến được nhiều nơi trên thế giới, qua đó mà xem xét, khảo nghiệm nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống phức tạp, đa dạng của nhân loại. Với những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm đó chủ nghĩa yêu nước ở Hồ Chí Minh có những chuyển biến mới. Sự đồng cảm với đồng bào mình được nâng lên thành sự đồng cảm với những dân tộc cùng cảnh ngộ. Qua đó, sự nhận diện kẻ thù cũng trở nên sâu sắc hơn, sinh động hơn và khái quát hơn. Trong suy nghĩ của Người, nhân loại “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”. Cuối năm 1917 Người trở lại Pháp, chọn Pari làm địa bàn hoạt động. Bằng những hoạt động sôi nổi trong Việt kiều, trong Đảng Xã hội Pháp, trong phong trào công nhân Pháp, Hồ Chí Minh nhanh chóng nắm bắt được thời cuộc và nhịp thở của thời đại làm nền tảng cho sự lựa chọn những giá trị cho bản thân và cho dân tộc. Người đã đọc Sơ thảo Luận cương các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin và qua lăng kính chủ nghĩa yêu nước chân chính Người đã tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước khỏi ách thực dân. Từ bước chuyển biến tư tưởng quan trọng đó Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và thành lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đai hội Tua tháng 12-1920. Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc mình, Hồ Chí Minh đã xúc tiến hoạt động lý luận và thực tiễn nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước. Việc truyền bá tư tưởng cứu nước mới của Người là một quá trình liên tục, không đứt đoạn, từ thấp đến cao, có chủ đích, trên bốn địa bàn khác nhau: Pari (1921-1923), Mátxcơva (1923-1924), Quảng Châu (1924-1927), vùng Đông Bắc Xiêm (1928-1929). Ở mỗi địa bàn, tuỳ vào điều kiện lịch sử của nó, Người đã sử dụng những phương tiện truyền bá khác nhau nhằm đạt được mục đích nhất định. Trong bốn địa bàn đó quan trọng nhất là Quảng Châu, nơi có những điều kiện thuận lợi cho Hồ Chí Minh triển khai những hoạt động cách mạng của mình và đã đạt hiệu quả công tác lớn nhất. Tại đây, Người đã thừa hưởng nhiều công việc, nhiều kinh nghiệm mà Phan Bội Châu để lại. Đó là một đội ngũ những thanh niên yêu nước, có tri thức, hăng hái, dám xả thân vì đại nghĩa, theo tiếng gọi của Phan Bội Châu xuất dương sang sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Đó là hệ thống giao thông liên lạc với trong nước đã được xác lập thời Phan Bội Châu. Vì thế, trong một thời gian ngắn tới Quảng Châu, Người đã thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, một tổ chức chính trị theo khuynh hướng mácxit đầu tiên ở Việt Nam mà lớp hội viên đầu đều đã từng hoạt động dưới ảnh hưởng của Phan Bội Châu, xuất bản các phương tiện tuyên truyền như báo Thanh niên, Lính kách mệnh, Báo Công nông, cuốn sách Đường kách mệnh, tổ chức các lớp huấn luyện chính trị đào tạo những người tuyên truyền, những người tổ chức. Bằng những hoạt động tích cực đó, tổ chức cách mạng do Người sáng lập, đã xây dựng cơ sở khắp ba miền đất nước, truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác-Lênin trong quần chúng lao động để đến cuối năm 1929 đầu năm 1930 lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản. Ngày 3-2-1930 Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị hợp nhất thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước từ cuối thế kỷ XIX đã được giải quyết.
Những năm tháng hoạt động ở nước ngoài Hồ Chí Minh luôn luôn nghĩ về Tổ quốc. Trong một lá thư gửi lại cho những người bạn chiến đấu trước khi rời Pari, Người đã bộc bạch: “Chúng ta phải làm gì? Chúng ta không thể đặt vấn đề ấy một cách máy móc. Điều đó tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi dân tộc chúng ta. Đối với tôi câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Từ khát vọng đến hiện thực là cả một khoảng cách rất dài. Hồi ở Pháp, trong lá thư gửi Nguyễn Ái Quốc ngày 18-2-1922, Phan Chu Trinh không tán thành phương pháp mà ông gọi là “Ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội” của Nguyễn Ái Quốc và đã khuyên Người: “trở về ẩn náu trong thôn dã, hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công!”. Mặc dù rất kính trọng cụ Phan, bậc cha chú, nhưng Người đã không làm theo lời khuyên đó. Trở về, tức là tự nộp mình cho thực dân Pháp và bọn tay sai, phải “đãi thời” mới có thể “đột nội” được. Ở Nguyễn Ái Quốc, đợi thời đột nội đã là một khắc khoải cho nên Người chăm chú theo dõi những biến cố lịch sử trong và ngoài nước làm xuất hiện dấu hiệu thời cơ trở về nước. Thời cơ đột nội của Người chỉ xuất hiện sau tháng 10-1940, khi nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, Đông Dương lọt vào tay quân phiệt Nhật. Chớp lấy cơ hội đó, tháng 1-1941 Người quyết định trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Tháng 5-1941 tại Pắc Bó, Cao Bằng, Người chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8, hoàn thiện sự chuyển hướng chiến lược cách mạng Việt Nam - đặt vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc lên trên hết và trước hết. Nhằm mục đích tối cao ấy, Người quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp hết tháy những người Việt Nam yêu nước, không phân biệt đảng phái chính trị, giai cấp, tôn giáo, nam nữ, nghề nghiệp. Mặt trận Việt Minh với chương trình cứu nước đầy thuyết phục xuất hiện như một lực lượng trong phe dân chủ, trong phe Đồng minh chống phát xít. Đó là lúc mà nhân dân Việt Nam góp một phần xương máu của mình cùng với nhân loại tiến bộ và yêu chuộng hoà bình trên thế giới tiêu diệt chủ nghĩa phát xít và giành lại nền độc lập trong Cách mạng tháng Tám 1945 ở một nước thuộc địa. Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời. Đất nước bị nô dịch đã trở thành nước độc lập, nhân dân bị tước đoạt trở thành người tự do, người chủ thực sự của đất nước mình. Bản đồ chính trị thế giới năm 1945 có sự thay đổi lớn lao: ở châu Âu một loạt nước được giải phóng khỏi ách phát xít, xây dựng chính quyền dân chủ; ở châu á, Việt Nam, Inđônêxia giành được độc lập và phát triển đất nước theo con đường riêng của mình.
Trong lá thư viết dưới ánh đèn dầu ngày 14-2-1925 gửi Lý Thuỵ (Nguyễn ái Quốc), Phan Bội Châu đã viết những dòng tâm sự trộn lẫn quá khứ, hiện tại và tương lai với một người cháu đồng hương nơi xứ người:
“Nhớ lại hai mươi năm trước đây, khi đến nhà cháu uống rượu gõ án ngâm thơ, anh em cháu thảy đều chửa thành niên, lúc đó Phan Bội Châu này đâu có ngờ rằng sau này cháu sẽ trở thành một tiểu anh hùng như thế này. Bây giờ đem kẻ già này so với cháu bác thấy rất xấu hổ. Nhận được liên tiếp hai lá thư của cháu, bác cảm thấy vừa buồn vừa mừng. Buồn là buồn cho thân bác, mà mừng là mừng cho đất nước ta. Việc thừa kế nay đã có người, người đi sau giỏi hơn kẻ đi trước, trên tiền đồ đen tối sẽ xuất hiện ánh sáng ban mai. Ngày xế đường cùng, chỉ sợ không thấy được ngày đó, làm sao bác không cảm thấy buồn cho chính mình được? Một đời tận khổ, gánh vác công chuyện một mình, được sức lớn của cháu giúp vào thì ắt sẽ có nhiều người hưởng ứng theo. Việc gây dựng lại giang sơn, ngoài cháu có ai để nhờ uỷ thác trách nhiệm thay mình. Có được niềm an ủi lớn lao như thế, làm sao bác không cản thấy vui mừng được?”[7].
Những điều mà hai người bác-Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu - kỳ vọng ở người cháu Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đều đã được thực hiện trọn vẹn, hoàn hảo. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chí Minh, đất nước đã thoát khỏi ách phát xít Nhật và trở thành quốc gia độc lập từ năm 1945, rồi đánh Pháp, đuổi Mỹ, thu giang sơn về trong một mối. Và dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh đất nước ta đang lập nhiều kỳ tích trong thời kỳ đổi mới và sớm trở thành một nước giàu mạnh trên trái đất này.
* **
Lịch sử thế giới và lịch sử mỗi nước ẩn chứa bên trong những chuỗi dài bất tận các sự kiện tất yếu và ngẫu nhiên. Lịch sử nước ta cũng không ngoại lệ. Nhìn thoáng qua, sự xuất hiện ba nhân vật Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh tiếp nối và phát triển tư tưởng giải phóng dân tộc trên cùng mảnh đất Nghệ Tĩnh tưởng là một hiện tượng ngẫu nhiên. Nhưng suy cho cùng, xét cho kỹ thì đó là hiện tượng tất yếu. Mảnh đất Nghệ Tĩnh với những điều kiện tự nhiên, địa - văn hoá, địa - lịch sử đã chuẩn bị sẵn những điều kiện thuận lợi cho sự xuất hiện đó.
Tài liệu tham khảo
1]. J. Xanhtơni, Đối diện với Hồ Chí Minh.
[2]. Đào Trinh Nhất: Phan Đình Phùng, Tân Việt xuất bản, 1957, tr.20.
[3]. Đào Trinh Nhất: Sđd, tr. 85.
[4]. Đào Trinh Nhất: Sđd, tr. 123.
[5]. Phan Bội Châu: Niên biểu, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1959, tr. 33.
[6]. Phan Bội Châu: Việt Nam vong quốc sử, Văn Sử Địa, Hà Nội, 1972, tr. 80,81.
[7]. Vĩnh Sính: “Về bức thư của Phan Bội Châu gửi Nguyễn Ái Quốc”, Tạp chí Xưa Nay, số 38, tháng 4-1997, tr. 5.