Thứ Ba, 26 tháng 6, 2012

Ðường Trường Sơn qua đánh giá, số liệu của đối phương


Ðường Trường Sơn qua đánh giá, số liệu của đối phương
Cập nhật lúc 10:46, Thứ sáu, 15/05/2009 (GMT+7)
LTS - Vừa qua, Tiến sĩ John Prados, nghiên cứu viên tại Cục Lưu trữ An ninh quốc  gia Mỹ, đã viết cuốn sách tựa đề The Blood Road: The Ho Chi Minh Trail and the Vietnam War (Con đường đẫm máu: Ðường mòn Hồ Chí Minh và cuộc chiến tranh Việt Nam) và mạng tin Wiki có bài "Ðường Trường Sơn" viết về lịch sử hình thành và phát triển tuyến đường huyền thoại này cũng như các kế hoạch tiến công phá hoại của Mỹ.
Các tác phẩm nêu trên dựa theo gần một trăm nghiên cứu, báo cáo, tài liệu... của chính phủ Mỹ, Cục Tình báo trung ương Mỹ, các nhà phân tích chiến lược quân sự Mỹ và phương Tây và cả một số tư liệu của Việt Nam, được cập nhật đến ngày 7-5-2009. Chúng tôi xin giới thiệu một số nội dung của các tài liệu nói trên để bạn đọc rộng đường tham khảo.
Ðánh giá về tuyến đường Trường Sơn
Các tài liệu này viết, hệ thống Ðường Trường Sơn phát triển thành một mạng lưới phức tạp của các con đường đất (một số nơi rải đá hoặc lót ván gỗ) rộng khoảng 5,5 m, đường cho người đi bộ và xe đạp thồ, bãi đỗ xe tải. Còn có kho chứa, bãi chứa hàng, doanh trại, bệnh viện và các cơ sở vật chất khác. Tất cả được che giấu khỏi sự quan sát từ trên không bằng một hệ thống ngụy trang tự nhiên và nhân tạo không ngừng được mở rộng và củng cố. Ban đầu, việc vận chuyển trên tuyến đường này chủ yếu bằng xe đạp, xe bò. Ðến tháng 12-1961, vận tải bằng ô-tô và có thêm  đường vận tải thủy. Ðến tháng 4-1965, Ðoàn 559 có khoảng 24 nghìn người, gồm sáu tiểu đoàn vận tải bằng ô-tô, hai tiểu đoàn vận tải bằng xe đạp, một tiểu đoàn vận tải thủy, tám tiểu đoàn công binh và 45 trạm giao liên. Khẩu hiệu của Ðoàn 559 là "Ðánh địch mà tiến, mở đường mà đi" (1).
Theo ước lượng của tình báo Mỹ, trong năm  1961 số quân vào nam theo Ðường Trường Sơn là 5.843, năm 1962: 12.675 (con số thực là 5.300); năm  1963:  7.693 (thực tế 4.700); và năm  1964 là 12.424 (thực tế là 9.000). Năm 1964, khả năng cung ứng của Ðường Trường Sơn đã đạt đến từ 20 đến 30 tấn mỗi ngày. Năm 1965, nhờ có các tuyến đường mới mở (trong đó có các tuyến đi qua  Cam-pu-chia), lượng quân nhu được chuyển vào nam trong năm này gần bằng tổng của năm năm trước (2).
Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9, trong thời gian này, trời luôn nhiều mây, mưa nhiều, nhiệt độ cao. Mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3, khí hậu tương đối khô hơn và nhiệt độ thấp hơn. Do mạng lưới đường chủ yếu là đường đất, khối lượng vận chuyển chủ yếu (và các hoạt động quân sự mà nó hỗ trợ) được thực hiện vào mùa khô. Về sau, hệ thống đường được bổ sung bởi vận tải đường sông, kiểu vận tải này cho phép chuyển các khối lượng lớn quân nhu ngay cả trong mùa mưa. Các lực lượng công binh, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến Trường Sơn gồm khoảng 120 nghìn người đã làm nên mạng đường liên hoàn, vững chắc với  năm hệ thống đường trục dọc, 21 đường trục ngang, nối Ðông với Tây Trường Sơn, vươn tới các chiến trường, với tổng chiều dài gần 20 nghìn  km đường ô-tô, 1.400 km đường ống dẫn xăng dầu, 3.140 km "đường kín" cho xe chạy ban ngày và hàng nghìn cầu, cống, ngầm.
Theo Tiến sĩ  G. Pra-đốt, Cục An ninh quốc gia Mỹ đánh giá, hệ thống Ðường mòn Hồ Chí Minh "là một trong những thành tựu về công binh lớn nhất trên thế giới trong thế kỷ 20".
Kế hoạch đánh phá của địch
Trong chiến tranh Việt Nam, lực lượng quân sự Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã đánh phá hệ thống giao thông này bằng các chiến dịch bộ binh và không quân. Một hệ thống máy móc điện tử đã được sử dụng để giúp hướng dẫn máy bay ném bom. Ngoài ra, chất độc da cam cùng một số loại chất độc diệt cỏ khác đã được rải xuống nhiều vùng rừng trên Ðường Trường Sơn làm trụi lá cây, các dự án tạo mưa và các chất hóa học tạo bùn cũng được Mỹ sử dụng để phá đường.
Ðến năm 1965, việc ngăn chặn hệ thống Ðường Trường Sơn đã trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu của Mỹ, nhưng các chiến dịch chống phá gặp khó khăn bởi thiếu lực lượng... Mỹ không ngừng ném bom Ðường Trường Sơn và xây dựng hỗ trợ một đội quân bí mật. Ngày 14-12-1964, không quân Mỹ thực hiện chiến dịch Barrel Roll lần đầu ném bom một cách có hệ thống phần đường tại Lào (3). Ngày 20-3-1965, sau khi chiến dịch Sấm Rền đánh phá miền bắc và Bắc Trung Bộ mở màn, Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson đã chấp thuận một cuộc leo thang quân sự nhằm phá Ðường Trường Sơn. Chiến dịch Barrel Roll tiếp diễn ở vùng đông bắc Lào, trong khi vùng cán xoong phía nam bị ném bom bởi Chiến dịch Steel Tiger. Ðến giữa năm, số phi vụ đã tăng từ 20 lên 1.000 lượt mỗi tháng. Trong tháng 1-1965, chỉ huy Mỹ tại Sài Gòn yêu cầu kiểm soát các chiến dịch ném bom tại các vùng Lào giáp ranh với năm tỉnh phía bắc Việt Nam Cộng hòa. Ðến thời điểm đó, vùng này thuộc về địa bàn của Chiến dịch Tiger Hound.
Mùa mưa hằng năm làm ảnh hưởng tới các hoạt động vận tải của Ðường Trường Sơn và cũng gây khó khăn cho các chiến dịch ném bom. Ngoài ra, sương mù buổi sớm và khói do tập tục đốt rẫy của dân cư thiểu số cũng cản trở việc ném bom. Trong năm 1968, không quân Mỹ thực hiện hai thí nghiệm với hy vọng làm trầm trọng hơn nữa kiểu thời tiết xấu của mùa mưa. Dự án Popeye là một cố gắng nhằm kéo dài vô hạn mùa mưa trên Ðường Trường Sơn bằng cách tạo mây. Dự án bắt đầu thử nghiệm vào tháng 9 trên vùng lưu vực sông Kong - con sông chảy qua địa bàn của các chiến dịch Steel Tiger và Tiger Hound. Mây được tạo trong không trung bằng các đám khói bạc iodide và sau đó được kích hoạt bằng một mồi nổ bắn ra từ súng bắn pháo sáng. Dự án thử nghiệm thành công và chương trình đã được thực hiện cho đến tháng 7-1972.
Dự án Commando Lava được bắt đầu thử nghiệm vào tháng 5. Các nhà khoa học ở công ty Dow Chemical đã chế tạo một dung dịch hóa học mà khi trộn với nước mưa sẽ phá hủy tính ổn định của các thành phần của đất và tạo ra bùn. Những thành viên quân sự và dân sự của chương trình này đã rất hứng thú, họ cho rằng, họ đang "tạo bùn chứ không gây chiến." Tuy nhiên, thử nghiệm không cho kết quả tốt, chất này chỉ có tác dụng ở một số vùng, tùy theo thành phần của đất (4).
Trên mặt đất, ban đầu, CIA và Quân đội Hoàng gia Lào có trách nhiệm ngăn chặn, làm chậm, hoặc ít nhất là theo dõi hoạt động của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Về sau, nhiệm vụ này được CIA giao cho các đội thám báo của Lào thực hiện. Ðến tháng 10-1965, tướng Uy-liêm Oét-mo-len, chỉ huy quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam, được quyền tung lực lượng biệt kích Mỹ vượt qua biên giới. Ngày 18-11, lực lượng bí mật SOG (Military Assistance Command, Vietnam Studies and Observations Group) thực hiện đặc vụ "vượt hàng rào" đầu tiên vào đất Lào. Ðây là khởi đầu của một nỗ lực thám báo không ngừng mở rộng của SOG cho đến khi tổ chức này được giải thể vào năm 1972. Ngày 10-12, một vũ khí khác của Mỹ đã được đưa vào sử dụng, đó là trận ném bom đầu tiên của pháo đài bay B-52 xuống Ðường Trường Sơn. Tuy nhiên, các cố gắng trên không chặn hoặc làm giảm được nhịp độ vận chuyển hàng hóa từ bắc vào nam.
 ... Cuối năm 1968, tình báo Mỹ đã có một phát hiện gây sốc, đó là phát hiện về hệ thống đường ống dẫn xăng dầu chạy ở phía tây nam từ Vinh (Nghệ An). Ðến đầu năm 1969, hệ thống này đã vượt qua biên giới với Lào và đến năm 1970 đã vươn tới gần thung lũng A Sầu ở tỉnh Thừa Thiên. Ðược hỗ trợ bởi nhiều trạm bơm nhỏ, đường ống bằng nhựa đã có thể chuyển dầu đi-ê-den, xăng và dầu hỏa qua cùng một ống(5).
Số lượng bom ném xuống Trường Sơn lên đến đỉnh điểm năm 1969; riêng xuống Lào khoảng 433 nghìn tấn. Ðây là thời điểm kết thúc của chiến dịch Rolling Thunder và mở đầu của chiến dịch Commando Hunt (tháng 11-1968). Các nỗ lực ném bom liên tục này được đặt trong chiến dịch Igloo White... Chiến dịch này gồm ba phần: các thiết bị cảm ứng địa chấn và âm thanh thu thập thông tin tình báo trên Ðường Trường Sơn, các máy tính tại Trung tâm Giám sát thâm nhập (Infiltration Surveillance Center - ISC) đặt tại Thái-lan thu thập thông tin và ước tính các đường vận tải và tốc độ xe; các kíp máy bay được ISC chỉ dẫn để đánh phá các mục tiêu. Nỗ lực này còn được hỗ trợ bởi các nhóm biệt kích SOG. Ngoài các nhiệm vụ do thám, đặt máy nghe trộm, và đánh giá thiệt hại do bom, các nhóm này còn tự tay lắp đặt các thiết bị cảm ứng cho chiến dịch Igloo White. Ðến giai đoạn cuối của chiến dịch Commando Hunt  (từ tháng 10-1970 đến tháng 4-1972) số phi vụ máy bay bắn phá mỗi ngày là 182 máy bay tiêm kích, 13 máy bay chiến đấu và 21 máy bay B-52 (6)... Ðầu tháng 2-1971, 16 nghìn (sau là 20 nghìn) binh sĩ Việt Nam Cộng hòa vượt biên giới Lào, tiến theo Ðường 9 về Sê-pôn. Chiến dịch Lam Sơn 719, cuộc tiến công được mong chờ đã lâu vào hệ thống Ðường Trường Sơn và cuộc thử nghiệm của chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, đã bắt đầu...
Mạng tin Wiki tổng kết, trong các chiến dịch đánh phá từ năm 1965 đến 1972, Mỹ đã huy động khoảng 733 nghìn chuyến máy bay, đánh phá khoảng 152 nghìn trận; ném xuống các tuyến đường Trường Sơn gần bốn triệu tấn bom đạn.  Trong 16 năm, hệ thống hậu cần đường Trường Sơn đã chuyển được hơn một triệu tấn hàng, vũ khí vào cho các chiến trường, bảo đảm chỉ huy hành quân cho hơn hai triệu lượt người vào chiến trường hoặc từ chiến trường ra bắc; vận chuyển cơ động 10 lượt sư đoàn, ba quân đoàn, hộ tống 90 đơn vị binh chủng kỹ thuật vào chiến trường.
(1) Theo Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam 1954 - 1975, do Merle L. Pribbenow và Lawrence KS dịch ra tiếng Anh.
(2) Tiến sĩ John Prados và Van Staaveren.
(3) Kenneth Conboy và James Morrison trong sách: Shadow War;  Roger Warner và South Royalton trong sách: Shooting at the Moon.
(4) Van Staaveren.
(5) Tiến sĩ John Prados.
(6) Herman L. Gilster trong sách: The Air War in Southeast Asia: Case Studies of Selected Campaigns.
XUÂN HIỆU

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét