Nghệ thuật tạo và nắm thời cơ
Cách đây 35 năm, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh đã ghi một mốc son chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1975 đánh đấu bước phát triển vượt bậc nghệ thuật quân sự Việt Nam, đặc biệt là nghệ thuật tạo thời cơ và nắm thời cơ.
Thực hiện quyết tâm của Đảng, trong 2 năm 1973-1974, quân và dân ta tích cực làm mọi công tác chuẩn bị, nhanh chóng thành lập các quân đoàn chủ lực, đưa hàng vạn thanh niên, nhân viên kỹ thuật miền Bắc vào tăng cường cho miền Nam. Đẩy mạnh tiến công địch ở địa bàn Tây Nguyên, Khu 5, Nam Bộ, giải phóng nhiều vùng chiến lược quan trọng. Đặc biệt sau giải phóng Phước Long (6-1-1975), thấy rõ khả năng suy giảm của quân ngụy và khả năng khó quay lại của quân Mỹ, chớp thời cơ thuận lợi đó, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc Tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Mở đầu cuộc tổng tiến công, ta mở Chiến dịch Tây Nguyên, được sự chỉ đạo đúng đắn của Bộ Tổng tư lệnh, ta đã chủ động tạo ra được nhiều thời cơ thuận lợi.
Trước hết, là thời cơ đánh trận mở màn then chốt chiến dịch, trận Buôn Ma Thuột, để giữ vững quyền chủ động, ta thực hiện nghi binh, cắt toàn bộ các con đường 19, 7, 21, 14, cô lập địch ở Buôn Ma Thuột, vây chặt tập đoàn chủ yếu của địch ở bắc Tây Nguyên, không cho chúng tăng cường, ứng cứu Buôn Ma Thuột một cách dễ dàng, mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho ta triển khai lực lượng. Sau khi tạo ra thời cơ mới, rạng sáng 10-3-1975, ta nổ súng tiến công Buôn Ma Thuột. Địch chưa kịp trở tay, phán đoán, hành động, thì trưa 11-3 ta đã giải phóng Buôn Ma Thuột.
Thứ hai, nắm vững thời cơ đánh đòn thứ nhất giành thắng lợi tốt đẹp, ta chủ động tạo ra thời cơ mới, gây cho địch khó khăn mới, buộc chúng phải phạm sai lầm mới. Chính những sai lầm mới của địch lại tạo ra thời cơ mới cho ta. Do đó, nghệ thuật tạo và nắm thời cơ lúc này là: phán đoán, hạ quyết tâm, xử lý đúng đắn, kịp thời để khỏi bỏ lỡ thời cơ, củng cố và phát triển thắng lợi vừa mới giành được, đó là đánh địch phản kích.
Trong Chiến dịch Tây Nguyên, tình huống và thời cơ đánh địch phản kích đã được dự kiến trong kế hoạch chiến dịch và xuất hiện đúng như ta đã dự kiến. Vì vậy, ta đã biến thời cơ thuận lợi đó thành kết quả thắng lợi giòn giã, đánh bại hoàn toàn cuộc phản kích của Sư đoàn bộ binh 23(-) và Liên đoàn biệt động 21 (từ ngày 12 đến 18-3) đập tan hy vọng giành lại Buôn Ma Thuột, đẩy địch vào những sai lầm nghiêm trọng hơn, đó là rút bỏ Tây Nguyên vào ngày 15-3-1975. Tình huống mới, thời cơ mới lại xuất hiện, lực lượng rút chạy là lực lượng lớn nhất, đông nhất của Quân đoàn 2 ngụy, gồm phần lớn các đơn vị chủ lực của địch. Nắm thời cơ đó, từ ngày 16 đến 24-3, ta mở cuộc truy kích thần tốc tiêu diệt toàn bộ địch rút chạy trên đường số 7, giải phóng toàn bộ Tây Nguyên.
Đồng thời với Chiến dịch Tây Nguyên, Quân khu Trị Thiên, Quân khu 5, Quân đoàn 2 nhanh chóng tiến công địch trong hành tiến, giải phóng Trị Thiên và Nam Ngãi. Thời cơ mới tiếp tục xuất hiện ở Trị Thiên và Nam Ngãi. Khi phát hiện ra thời cơ, Bộ Tư lệnh, Bộ Tổng tham mưu đã kịp thời chỉ đạo các đơn vị thực hiện chia cắt chiến lược, cô lập Huế – Đà Nẵng, tập trung lực lượng, tiêu diệt địch ở Trị Thiên – Huế và Quảng Ngãi – Quảng Nam, không cho địch co cụm về Đà Nẵng.
Trên địa bàn Trị Thiên-Huế, trên cơ sở phương án đã chuẩn bị, nắm vững thời cơ, các đơn vị của Quân đoàn 2, Quân khu Trị Thiên, nhanh chóng phát triển tiến công tiêu diệt Sư đoàn bộ binh 1 ngụy, Lữ đoàn thủy quân lục chiến 147 và các đơn vị bộ binh, binh chủng của địch, giải phóng thành phố Huế (10 giờ ngày 25-3) và toàn bộ tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Trên địa bàn Quân khu 5, các đơn vị Quân khu đồng loạt tiến công địch ở Quảng Nam-Đà Nẵng, tiêu diệt Sư đoàn bộ binh 2 ngụy, giải phóng thị xã Tam Kỳ, toàn bộ tỉnh Quảng Ngãi, căn cứ Chu Lai, cắt đường 1 ở phía nam từ Tam Kỳ đi Đà Nẵng, tạo ra thời cơ thuận lợi cho giải phóng Đà Nẵng. Nắm thời cơ đó, ngày 27-3, các binh đoàn thọc sâu của ta bỏ qua các mục tiêu vòng ngoài, tiến thẳng vào thành phố Đà Nẵng.
Sau thắng lợi Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế – Đà Nẵng, thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến, ta đã chủ động tạo thế và thời cơ cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, với tinh thần “một ngày bằng 20 năm”. Các sư đoàn chủ lực của ta phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến về giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung…
Đến ngày 26-4, các quân đoàn chủ lực của ta đã triển khai trên 5 hướng theo thế bao vây, chia cắt. Đúng 17 giờ ngày 26-4, cuộc tiến công Sài Gòn bắt đầu, với thế trận bao vây và sức mạnh áp đảo, tư tưởng chỉ đạo là: thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng. Chiều 28-4, các sư đoàn địch phòng ngự ở vòng ngoài đã bị ta tiêu diệt và làm tan rã. Từ sáng 29 đến 30-4, các cánh quân ta trên các hướng đồng loạt tiến công vào nội đô. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4, Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi.
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã đưa cách mạng Việt Nambước sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước tiến lên xây dựng CNXH. Đã 35 năm trôi qua trên đất nước ta, khí thế hào hùng của ngày đại thắng, cũng như bài học về nghệ thuật tạo thời cơ, nắm thời cơ vẫn còn nguyên giá trị, là tài sản vô giá trong kho tàng nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, chúng ta tiếp tục nghiên cứu, bổ sung phát triển nền nghệ thuật quân sự Việt Nam lên một tầm cao mới, triệt để tận dụng thời cơ thuận lợi mà Đảng, Nhà nước, nhân dân tạo ra, để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Đại tá ĐÀO VĂN ĐỆ
Nghệ thuật sử dụng lực lượng phòng không trong Tổng tiến công mùa Xuân 1975
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975 và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là thắng lợi của toàn dân tộc. Trong lĩnh vực quân sự đây là thắng lợi của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân, nghệ thuật tổ chức sử dụng lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng phòng không đi cùng bộ đội binh chủng hợp thành của Đảng ta.
Trong một thời gian ngắn chúng ta đã tổ chức một lực lượng lớn phòng không cho các binh đoàn tác chiến binh chủng hợp thành. Quân chủng PK-KQ đã chuyển giao hơn 50% số trung đoàn pháo phòng không (PPK); 243 xe phục vụ; 134 khẩu pháo; 68 cơ cấu phóng tên lửa tầm thấp A-72 và 794 đạn cho các quân đoàn chủ lực. Trong đội hình mỗi sư đoàn bộ binh được biên chế 1 tiểu đoàn PPK 37-2mm; 1 đến 3 phân đội tên lửa tầm thấp A-72. Các trung đoàn bộ binh có 1 đại đội súng máy phòng không (SMPK) 12,7mm. Các sư đoàn, trung đoàn phòng không được biên chế vào đội hình các quân khu, quân đoàn. Đây là một bước phát triển mới, quan trọng trong nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng phòng không tác chiến đi cùng đội hình binh chủng hợp thành, là nghệ thuật chuyển hóa thế trận phù hợp với tác chiến chiến dịch của binh chủng hợp thành.
Một đơn vị pháo phòng không tham gia chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng. Ảnh tư liệu
Đầu năm 1975, lực lượng không quân nguỵ trên chiến trường rất mạnh với tổng số 1852 máy bay các loại, trong biên chế của 6 sư đoàn không quân. Về số lượng, không quân địch được đánh giá là “đứng hàng thứ 3″ trên thế giới. Đây là một thách thức lớn đối với toàn bộ các đơn vị và các hoạt động của ta, cũng như với lực lượng PKLQ. Để tập trung lực lượng và xây dựng thế tiến công kịp thời, bảo đảm cho chiến dịch, bộ đội phòng không đã cơ động hàng nghìn ki-lô-mét với đội hình xe, pháo nặng nề, cồng kềnh, dễ lộ bí mật, đã vượt qua nhiều địa hình phức tạp, khó khăn và đã đánh hàng trăm trận. Nhiều trận đánh địch của lực lượng phòng không có công sự, ngụy trang chu đáo, có trận địa chính thức, trận địa dự bị, nhưng đa số các trận đánh diễn ra trong điều kiện hành tiến, không có đầy đủ công sự, ngụy trang; các trận “tao ngộ chiến” với cả địch trên không và địch mặt đất, mặt nước. Lực lượng PKLQ đã tiêu diệt và làm tan rã 6 sư đoàn không quân; thu và phá hủy hơn 1000 máy bay; bắn rơi, bắn hỏng hàng trăm máy bay; bắn chìm, bắn cháy nhiều tàu chiến địch, phá hủy nhiều hỏa điểm, lô cốt, ổ đề kháng, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bảo đảm cho tác chiến chiến dịch thắng lợi.
Đi cùng và chiến đấu trực tiếp bảo vệ đội hình quân đoàn (và tương đương quân đoàn) là các sư đoàn phòng không (hoặc các trung đoàn phòng không tăng cường). Trên các hướng tiến công chủ yếu, các mũi thọc sâu của các sư đoàn bộ binh, thường ta tập trung lực lượng từ 1 đến 2 trung đoàn phòng không. Đặc biệt nhất là chúng ta tập trung toàn bộ lực lượng A-72 cho các đơn vị binh chủng hợp thành. Tên lửa tầm thấp A-72 đi cùng các đơn vị đặc công, các mũi đột kích, thọc sâu của xe tăng, bộ binh đã đánh địch có hiệu quả, quân địch rất khiếp sợ khi quan sát thấy cảnh tượng tên lửa ta đuổi hạ máy bay địch, chúng kinh hoàng kêu lên “hỏa tiễn tìm nhiệt Việt Cộng hạ phi cơ rồi”. Tinh thần binh lính địch hoảng loạn, sa sút, các ổ đề kháng bị tiêu diệt, tạo điều kiện cho bộ binh, xe tăng ta phát triển tiến công. Lực lượng A-72 đã luôn theo sát bước chân thần tốc của bộ đội ta, chiến đấu mưu trí, dũng cảm, cách đánh cũng rất táo bạo, linh hoạt, bất ngờ.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, tên lửa tầm thấp A-72 đã bắn rơi tại chỗ 34 máy bay địch. Ngay trên hướng Tây Bắc Sài Gòn trong ngày 29-4, tên lửa A-72 đã bắn rơi 9 máy bay địch ở Phú Lâm, Tân Tạo, Ngã tư Bảy Hiền. Cũng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh chúng ta đã tổ chức thành công hiệp đồng tác chiến giữa lực lượng phòng không với bộ binh, xe tăng và các tổ, đội bộ binh bắn máy bay bay thấp. Phát huy hỏa lực của các loại vũ khí trang bị PPK 57mm, 37mm, 23mm và súng máy phòng không 12,7mm được sử dụng đánh cả địch trên không và địch mặt đất, mặt nước. Riêng 2 trung đoàn phòng không 234 và 284 đã bắn cháy, bắn chìm 10 tàu chiến địch trên sông Đồng Nai. Và ngược lại bằng các loại vũ khí có trong tay như súng bộ binh, súng máy 12,7mm các đơn vị xe tăng, bộ binh đã chiến đấu quyết liệt với máy bay địch, kết hợp các phương tiện, trang bị từ súng bộ binh, súng máy phòng không, pháo phòng không, tên lủa tầm thấp, cả tên lửa và không quân chúng ta đã tạo ra một lưới lửa vừa tập trung, vừa rộng khắp, đánh địch liên tục trong suốt quá trình chiến dịch.
Từ tác chiến phòng không của lực lượng đi cùng binh chủng hợp thành trong Chiến dịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm. Trước hết để bảo vệ trực tiếp cho các đơn vị binh chủng hợp thành, cần sử dụng phương tiện phòng không có sức cơ động nhanh, chiến đấu có hiệu quả với máy bay bay thấp và máy bay trực thăng vũ trang, chi viện hỏa lực của địch. Đó là các loại pháo phòng không tự hành, pháo phòng không có xe kéo, súng máy phòng không, tên lửa vác vai kết hợp với sự chuẩn bị sẵn kế hoạch bắn máy bay bằng súng bộ binh của các đơn vị binh chủng hợp thành. Tên lửa tầm thấp (A-72, A-87) có thể bố trí ngay trên các xe tăng, xe chiến đấu bộ binh và ở hướng dự kiến địch đánh phá. Trong quá trình phát triển của chiến dịch tiến công, căn cứ vào tình hình địch trên không, vị trí của các đơn vị được bảo vệ, các lực lượng và phương tiện phòng không phải thường xuyên sẵn sàng và di chuyển nhanh chóng bảo vệ bộ đội binh chủng hợp thành. Khi bộ đội binh chủng hợp thành vượt qua những đầu mối giao thông, cầu phà, bến vượt, ngầm… các phân đội phòng không phải ở tư thế SSCĐ cao nhất. Khi bị địch tập trung đánh phá ở độ cao thấp, các đơn vị phòng không nhanh chóng bắn trong tư thế hành tiến hay từ vị trí tạm dừng. Đồng thời sử dụng triệt để hỏa lực súng bộ binh, súng máy, đại liên… để tiêu diệt địch.
Mặt khác, trong tác chiến hiệp đồng với bộ đội binh chủng hợp thành, điều quan trọng nhất của người chỉ huy phòng không là phải nắm chắc nhiệm vụ, ý định, quyết tâm của người chỉ huy binh chủng hợp thành, nắm chắc nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ tiếp theo của chiến dịch và của các đợt, các trận chiến đấu của binh chủng hợp thành. Để đánh địch mặt đất, mặt nước, người chỉ huy các cấp nhất là từ tiểu đoàn trở xuống phải có kế hoạch cụ thể, chuẩn bị chu đáo, hiệp đồng chặt chẽ với các đơn vị bạn để hỗ trợ nhau tiêu diệt địch và bảo toàn lực lượng ta.
Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là cuộc chiến tranh nhân dân, bằng sức mạnh của toàn dân tộc, của lực lượng vũ trang ba thứ quân. Đây sẽ là cuộc chiến tranh lớn bằng vũ khí công nghệ cao hiện đại kết hợp với vũ khí công nghệ chưa cao, chưa hiện đại, thậm chí cả vũ khí thô sơ cũng được sử dụng để đánh địch. Do đó, lực lượng PKLQ, phòng không địa phương và dân quân tự vệ cần có số lượng đông, tổ chức tác chiến rộng khắp, tạo nên hỏa lực ở độ cao thấp là lực lượng xử lý và đánh địch tại chỗ nhanh nhất, đánh máy bay bay thấp, tên lửa hành trình, đổ bộ đường không, đường biển và tham gia các chiến dịch phản công, tiến công, các trận đánh trong các khu vực phòng thủ tỉnh, thành.
Lực lượng PKLQ, phòng không địa phương và dân quân tự vệ phải được tổ chức thành các cụm hỏa lực phòng không đủ mạnh, để bảo vệ trực tiếp các mục tiêu quan trọng trong khu vực phòng thủ, có nhiệm vụ tiêu hao, tiêu diệt địch, buộc địch phải phân tán, đối phó, đánh bại âm mưu dùng hỏa lực mạnh, đánh nhanh, thắng nhanh của địch. Đồng thời tham gia trực tiếp bảo vệ các khu vực phòng thủ tỉnh (thành), chiến đấu tạo thế cho bộ đội PK-KQ tác chiến với chiến dịch phòng không lớn.
Thiếu tướng NGUYỄN VĂN CHƯƠNG
Cục trưởng Cục Phòng không Lục quân
Cục trưởng Cục Phòng không Lục quân
Nghệ thuật xây dựng thế trận chiến lược
Thời cơ để quân và dân ta mở cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1975 là trên cơ sở thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 ở chiến trường miền Nam, bước đầu ta đã tiêu diệt lực lượng lớn quân địch và giải phóng một số vùng đất đai cùng với đòn đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của địch ra miền Bắc, buộc Mỹ phải ngồi vào đàm phán với ta tại Hội nghị Pa-ri (27-1-1973). Sau thất bại nặng nề đó, địch đã suy yếu toàn diện cả về lực lượng, thế trận và tinh thần. So sánh lực lượng trên chiến trường có lợi cho ta và bất lợi cho địch, nhưng ngụy quân Sài Gòn vẫn còn có sự viện trợ về vũ khí và giúp đỡ của cố vấn quân sự dưới dạng cố vấn hành chính của Mỹ. Chính quyền ngụy Sài Gòn ra sức phá hoại Hiệp định Pa-ri, tăng cường mở các cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng của ta.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng hạ quyết tâm lịch sử giải phóng hoàn toàn miền Nam trong 2 năm 1975-1976, nếu thời cơ đến sớm giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975. Đồng thời, nhất trí phê chuẩn phương án của Bộ Tổng tham mưu là chọn Nam Tây Nguyên làm hướng tiến công chiến lược chủ yếu, đây là hướng địch tuy mạnh nhưng có nhiều sơ hở và là nơi có tính chất hiểm yếu, sẽ gây bất ngờ lớn, cắt đôi chiến trường toàn miền Nam, làm đảo lộn thế chiến lược của địch. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, ta tiến hành 3 chiến dịch lớn. Đây là ba đòn tiến công chiến lược, thể hiện rõ nghệ thuật chỉ đạo tác chiến chiến lược, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng thế trận chiến lược.
Trước hết, là thế trận đứng chân của các binh đoàn chủ lực. Thế trận của ta là thế trận của chiến tranh nhân dân đã được xây dựng từ đầu cuộc chiến tranh, do chiến tranh nhân dân phát triển cao, nên các binh đoàn chủ lực của ta đã đứng chân ở phía Nam vĩ tuyến 17, lập thế tiến công ở phía tây chiến tuyến của địch, từ vĩ tuyến 17 đến Sài Gòn, đến đồng bằng sông Cửu Long. Các binh đoàn chủ lực của ta không tiến công địch từ phía Bắc vĩ tuyến 17, không đánh vào chiều dọc chiến tuyến của địch. Bởi vì, nếu ta mở cuộc tổng tiến công từ phía Bắc vĩ tuyến 17 đánh theo chiều dọc chiến tuyến của địch, có độ dày và chiều sâu lớn từ Quảng Trị đến Huế – Đà Nẵng – Nha Trang thì khả năng và sức đột phá không đủ mạnh để tiêu diệt địch, phá vỡ các tuyến phòng ngự của chúng. Do đó, các binh đoàn chủ lực của ta triển khai đứng chân ở phía tây chiến tuyến của địch, chỉ cách Huế – Đà Nẵng khoảng từ 30 đến 40km, thậm chí cũng đứng chân ở sát nách Sài Gòn, chỉ cách phía Tây Bắc Sài Gòn khoảng 60km, thực hành tiến công địch là hợp lý, dễ chọc thủng và chia cắt các tuyến phòng ngự của địch, giành thắng lợi nhanh chóng.
Thế trận triển khai từ phía tây đánh vào chiều ngang đội hình mỏng yếu của địch, không có chiều sâu, thì ta có thể nhanh chóng đánh chiếm chiến tuyến phòng ngự cơ bản của địch trên đường số 1. Ở Huế, Đà Nẵng và Tam Kỳ, ta chỉ cần một lần đột phá chiến dịch là có thể đạt tới chiều sâu chiến lược. Thực tế ta đánh từ phía Tây các thành phố Huế, Đà Nẵng và thị xã Tam Kỳ thì tuyến phòng ngự của địch không có chiều sâu chiến lược mà chỉ có chiều sâu chiến dịch. Vì các binh đoàn chủ lực của ta đứng sẵn ở phía Bắc Sài Gòn, nên Sài Gòn gần như không còn chiều sâu chiến lược, tạo điều kiện cho ta nhanh chóng phá vỡ chiến tuyến, làm sụp đổ nhanh chóng thế trận chiến lược của địch.
Thế trận chiến lược mà ta tạo được đã chia cắt thế trận, phá được thế liên hoàn chiến lược của địch, cô lập và chia cắt các tập đoàn lực lượng của địch ra từng cụm, khó có thể ứng cứu được nhau, ta tiến công vào đâu cũng dễ giành được thắng lợi, dễ phát triển tiến công, khuếch trương thắng lợi trước để giành thắng lợi sau lớn hơn, thắng lợi sau tạo cho ta một thế trận vững chắc hơn để tiến công đè bẹp địch nhanh chóng. Đây là nét đặc sắc trong xây dựng thế trận chiến lược của ta. Trong chiến dịch Tây Nguyên, trận Buôn Ma Thuột là trận then chốt đầu tiên có ý nghĩa quyết định vì, giáng một đòn sấm sét rất nhanh vào trận địa-tuyến phòng ngự của địch, mở ra và thúc đẩy sự phát triển lớn về thế chiến lược của ta, phá vỡ thế chiến lược của địch. Trận thứ 2 ở Huế-Đà Nẵng, ta đã giáng một đòn rất mạnh, rất nhanh cũng có ý nghĩa then chốt quyết định, làm đảo lộn thế chiến lược của địch, tạo ra cục diện chiến tranh mới, gây ra đột biến chiến tranh, tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho đòn thứ 3 là chiến dịch Hồ Chí Minh thành một trận then chốt quyết định, kết thúc chiến tranh.
Thế trận của cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là một thế trận chiến tranh nhân dân, triển khai từ Quảng Trị qua Tây Nguyên đến Sài Gòn, là một thế trận đánh từ phía tây sang phía đông, đánh cắt giao thông, thế kết hợp các vùng, miền và sự nổi dậy của quần chúng. Xây dựng thế trận chiến lược như thế, buộc địch phải phân tán đối phó để ta có điều kiện tập trung lực lượng đánh các đòn chiến lược quyết định ở Tây Nguyên, Huế-Đà Nẵng, rồi phát triển thắng lợi giải phóng Nam Trung Bộ. Trên đà thắng lợi, ta dùng tất cả lực lượng, cả quân đoàn tổng dự bị chiến lược và lực lượng ở Đồng bằng sông Cửu Long, cùng tập đoàn chiến lược phía Nam đã đứng chân sẵn ở ngoại vi Sài Gòn thực hiện đòn chiến lược then chốt quyết định giải phóng Sài Gòn một cách nhanh gọn.
Nghệ thuật xây dựng thế trận chiến lược trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là một nghệ thuật độc đáo tài tình, đầy sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam, là bước phát triển rực rỡ, là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó là biểu tượng sáng ngời của nghệ thuật chỉ đạo tác chiến chiến lược tài giỏi của Đảng và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
Đại tá Đào Văn Đệ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét