Thứ Năm, 17 tháng 7, 2014

KINH TẾ VIỆT NAM 1945-1954 CHỦ TRƯƠNG VÀ THÀNH TỰU

KINH TẾ VIỆT NAM 1945-1954 CHỦ TRƯƠNG VÀ THÀNH TỰU

ĐẶNG PHONG*

I- KHẮC PHỤC NẠN ĐÓI, KHÔI PHỤC VÀ BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP, DÂN CHỦ
1. Những thách đố sau ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng gặp rất nhiều khó khăn, tưởng chừng không thể vượt qua. Giặc đói hoành hành, nạn đói cũ chưa được giải quyết, thì một nạn đói mới sắp diễn ra.
Sau khi Nhật chiếm Đông Dương và biến thành hậu phương để thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược châu Á - Thái Bình Dương, chúng bắt chính quyền Pháp phải cưỡng bức thu mua lúa gạo của nhân dân Việt Nam theo giá rẻ, đồng thời ép buộc Ngân hàng Đông Dương phát hành thêm tiền để mua gạo. Đây chính là thời kỳ của nạn mua thóc tạ, một sự cướp bóc trắng trợn đối với người nông dân khó nhọc trồng nên cây lúa ở Việt Nam nói riêng và đối với dân tộc Việt Nam nói chung. Thóc lúa đã không đủ cung ứng nhu cầu chung, phát xít Nhật còn bắt người dân Việt Nam nhổ lúa, nhổ khoai, nhổ sắn để trồng cây đay là thứ nguyên liệu dùng làm bao tải đựng cát, phục vụ cho việc xây dựng các công sự của quân đội Nhật. Hai chính sách tàn bạo đó đã khiến cho cả vùng Đông Dương, nơi từng đứng thứ nhì thế giới về xuất khẩu lúa gạo (những năm 1936-1937, Đông Dương xuất khẩu 1,6 - 1,7 triệu tấn, chỉ đứng sau Miến Điện), khi đó trở thành một dân tộc thiếu đói trên quy mô gần như toàn thể. Cho đến đầu năm 1945, nguồn lúa gạo ở Đông Dương hầu như đã cạn kiệt. Chính những người trồng lúa lại là người bị đói trước tiên. Nông dân đói từ Thanh Hoá, Nam Định, Thái Bình, Hà Nam... lũ lượt kéo ra các thành phố đi ăn xin, kéo lên miền núi đào củ chuối, củ mài cầm hơi. Trên đường đi, họ chết dần, chết mòn. Số còn lại sống lay lắt thêm ít ngày rồi cũng chết, vì không còn cái gì có thể ăn được. Cho đến tháng 8-1945, Việt Nam đã có tới 2 triệu người chết đói. Đó là con số chưa từng có trong lịch sử kinh tế Việt Nam.
Đúng vào dịp bùng nổ Cách mạng Tháng Tám, cũng là lúc mưa rất nhiều, nước trên các dòng sông đều dâng cao. Mưa lũ xảy ra trong tình hình hệ thống đê điều đã bị chính quyền Pháp - Nhật hoàn toàn “xao nhãng” từ nhiều năm. Nạn vỡ đê diễn ra tứ tung trên đồng bằng Bắc Bộ. Chưa bao giờ trong lịch sử đê điều Việt Nam, nạn vỡ đê diễn ra rộng khắp như thế: sông Hồng, sông Thao, sông Thương, sông Thái Bình, sông Đáy, sông Nhuệ đâu đâu cũng vỡ. Nước lụt chiếm 350 ngàn hécta trong tổng số 830 ngàn hécta diện tích lúa mùa đã cấy xong ở đồng bằng Bắc Bộ. Vỡ đê đồng nghĩa với việc một nạn đói lớn hơn nữa sẽ diễn ra vào mùa thu năm đó.
Về tài chính tiền tệ, khi cách mạng thành công, kho bạc hoàn toàn trống rỗng. Thực tế đó được Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến nhận định một cách chua chát: Chính phủ cách mạng lúc đó là một chính phủ “không tiền”1. Có một địa chỉ giữ tiền và đang in tiền là Ngân hàng Đông Dương nhưng do quân đội Nhật đóng giữ và chờ trao lại cho quân Đồng minh. Trong khi đó, tình trạng lạm phát một cách nghiêm trọng trong suốt 5 năm trước đó của Ngân hàng Đông Dương khiến cho bản thân đồng tiền Đông Dương cũng mất giá nghiêm trọng. Số tiền do ngân hàng này phát hành năm 1939 là 216 triệu đồng, đến tháng 10-1945, tới 2.483 triệu. Đồng tiền trong tay người dân Việt Nam “teo lại” nhanh chóng. Giá gạo từ chỗ 4-5 đồng/tạ, đến giữa năm 1945 đã lên tới 700-800 đồng/tạ.
Tình hình văn hóa và y tế cũng thê thảm khôn xiết. Sau 80 năm chịu sự “khai hoá văn minh” của người Pháp, hơn 90% dân số Việt Nam vẫn không biết đọc, biết viết. Sự dốt nát dẫn tới những tệ nạn mê tín, dị đoan, những hủ tục vừa tốn kém, vừa vô ích cho đời sống.
Trong lĩnh vực y tế, dịch tả diễn ra ở nhiều nơi, giết chết hàng vạn người. Nạn đói, rét đã sản sinh ra không biết bao thứ bệnh tật mà trước đó chưa được gọi tên. Trên mọi nẻo đường Việt Nam, nhất là ở nông thôn, các thị trấn nhỏ, người Việt Nam trông thật tiều tụy, rách rưới, bẩn thỉu, đầy rẫy bệnh tật. Đó cũng là kết quả của sự “khai sáng” trong 80 năm Pháp thuộc và 5 năm “cách mạng da vàng” Nhật Bản.
Sau khi cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh với uy tín cá nhân và tình cảm sẵn có đã liên lạc với chính phủ của các cường quốc và các nước láng giềng để tìm kiếm bạn bè. Nhưng tiếc thay, nỗ lực ấy không mấy thành công!
Với Mỹ, sau quãng thời gian thắm thiết ngắn ngủi của giai đoạn tiền khởi nghĩa, từ tháng 8-1945 trở đi, Tổng thống Mỹ Tơruman áp dụng một chính sách xích lại gần với các nước thực dân hơn là ngả về những dân tộc bị áp bức. Những đoàn đặc nhiệm của Mỹ tới Việt Nam để giúp đỡ kháng chiến chống Nhật từ thời kỳ tiền khởi nghĩa lần lượt ra đi.
Còn lại ba trong năm cường quốc nữa là Pháp, Anh và Trung Hoa dân quốc thì người Việt Nam không đặt bao nhiêu hy vọng, ngược lại họ còn là kẻ thù của cách mạng Việt Nam. Theo hiệp định của các nước Đồng minh ký tại Pốtxđam tháng 7-1945, Đông Dương từ phía bắc vĩ tuyến 16 sẽ được giao cho quân đội Trung Hoa dân quốc để giải giáp quân đội Nhật. Quân đội Anh cũng làm nhiệm vụ đó từ vĩ tuyến 16 về phía Nam.
Ở phía Bắc, ngày 28-8-1945, 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc tiến vào lãnh thổ Việt Nam. Nhưng lực lượng ô hợp này làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thì ít, cướp bóc thì nhiều. Về kinh tế, họ buộc Việt Nam phải chấp nhận cho họ sử dụng hai loại tiền là Quan kim và Quốc tệ để mua hàng hóa trên thị trường Việt Nam và áp đặt một chế độ giá cả cực kỳ phi lý. Thực tế, họ đã dùng giấy lộn để đổi lấy những của cải thật của Việt Nam.
Quân đội Trung Hoa dân quốc còn kéo sang nước ta một đám người Việt lưu vong từ nhiều năm bên Trung Quốc, thuộc những đảng phái cũng ô hợp như họ. Trung Hoa dân quốc muốn dùng những thành phần lưu vong này để lập ra một chính phủ bù nhìn làm tay sai cho họ. Sự hiện diện và cách hành xử của 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc thể hiện rõ bản chất một kẻ xâm lược thứ ba sau Pháp và Nhật.
Ở miền Nam, ngày 12-9-1945, tướng Anh Gracey đã đưa 2.000 quân vào Sài Gòn để tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật. Gracey còn cho phép 1.500 quân Pháp đi theo và sau đó, mở cửa tất cả các nhà tù mà quân Nhật đã giam giữ quân Pháp, để cho hàng ngàn lính và thường dân Pháp được tự do. Hơn thế nữa, Gracey còn lấy vũ khí của Nhật trang bị cho những người Pháp này. Đó là cơ sở để bùng nổ cuộc chiến ở miền Nam vào ngày 23-9-1945, tức là chỉ 21 ngày sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập.
Còn Pháp? Ngay từ giữa tháng 8-1945, khi quân đội Nhật đầu hàng Đồng minh thì tướng Đờ Gôn đã cử ba đặc phái viên cấp tốc bay sang Đông Dương và nhảy dù xuống ba miền trên lãnh thổ Việt Nam, mang theo mệnh lệnh của Đờ Gôn hòng phục hồi lại nền thống trị của Pháp ở Việt Nam.
Lúc đó, chỉ có hai nước láng giềng sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam là Chính phủ Thái Lan của Thủ tướng Pridi và Chính phủ Miến Điện. Thủ tướng Pridi rất có cảm tình với cách mạng Việt Nam, ông đã tiếp nhận một phái đoàn đại diện của Chính phủ Việt Nam ở Băng Cốc. Phái đoàn này đã tổ chức mua vũ khí và các phương tiện cần thiết chở về nước, tổ chức huấn luyện các cán bộ điện đài, huấn luyện các lực lượng quân sự và gửi về nước một số tiểu đoàn để chiến đấu. Nhưng động thái này diễn ra không được lâu. Năm 1948, Chính phủ Pridi bị lật đổ. Chính phủ Songram lên cầm quyền đã khủng bố dã man những Việt kiều yêu nước muốn giúp đỡ đất nước. Niềm hy vọng cuối cùng ở nước bạn láng giềng đến đây chấm dứt.
2. Những kỳ tích trên mặt trận kinh tế (9-1945 - 12-1946)
Những khó khăn và hiểm họa kể trên tưởng như khó có thể vượt qua. Song, chính quyền cách mạng tuy còn non trẻ về nhiều mặt nhưng lại có sức mạnh phi thường, bởi vì, đó là chính quyền của dân. Mọi người dân đều coi chính quyền cách mạng là chính quyền của mình và dốc lòng giúp đỡ. Như chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Đây thực sự là chính quyền do dân bầu ra, dựa vào sức dân làm sức mạnh của mình để mưu cầu hạnh phúc cho dân.Trước hết, nói về bộ máy Chính phủ: bộ máy Chính phủ mới được thành lập, gồm những thành phần ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam đương thời. Đó là những chiến sĩ cách mạng tài năng xuất sắc, những chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực công thương, canh nông, luật pháp, giáo dục, y tế, những viên chức đã có kinh nghiệm quản lý trong chế độ cũ và sẵn lòng vận dụng kinh nghiệm đó để phục vụ chế độ mới. Cả những quan lại cao cấp của triều đình Huế và bản thân Hoàng đế Bảo Đại cũng tham gia chính quyền. Hoàng hậu Nam Phương cũng tham gia vào Uỷ ban Kiến thiết đất nước. Điều đó thể hiện sức mạnh của sự đoàn kết dân tộc. Đó chính là điều kiện làm nên những kỳ tích.
Còn quần chúng nhân dân? Dân tộc Việt Nam sau 80 năm dưới ách thống trị của thực dân Pháp, đại đa số người dân bị mù chữ. Thiếu văn hóa, thiếu kiến thức, bao nhiêu tệ nạn xã hội, thói hư tật xấu còn phổ biến. Nhưng dưới ánh sáng của cách mạng, hình như có một phép màu giúp cho mọi người đều muốn thoát ra khỏi thân phận cũ, muốn thay đổi kiếp sống cũ để hưởng một kiếp sống mới tươi sáng hơn, xứng đáng là con dân của một quốc gia độc lập. Chính với tinh thần đó, cùng với sự dìu dắt, hướng dẫn của Chính phủ, cả dân tộc nhanh chóng đổi thay về mọi mặt. Dưới đây, có thể kể đến những thành tích to lớn mà chính quyền cách mạng và toàn dân Việt Nam đã đạt được trong một thời gian ngắn, chỉ 16 tháng kể từ tháng 8-1945 cho tới ngày toàn quốc kháng chiến vào tháng 12-1946.
Giặc đói cùng với giặc dốt là bạn đồng minh của giặc ngoại xâm. Ngay ngày mùng 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên nhiệm vụ trước mắt của Chính phủ: Phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành.
Nhưng chống đói bằng cách nào? Gạo không còn. Lụt tứ tung. Nhiều nơi đã cấy rồi nhưng lúa chết vì ngập nước. Vụ tới còn gì để ăn? Nguồn tiếp tế từ Nam ra Bắc chỉ vận chuyển được 20 nghìn tấn, sau đó phải dừng lại từ khi xảy ra chiến sự ở Nam Bộ. Nhập khẩu thì hoàn toàn không hy vọng vì không có ngoại tệ! Chỉ còn một cách là tự cứu lấy mình. Cứu bằng cách nào?
Các chuyên gia trong Chính phủ, các vị hiền tài khắp cả nước đã hiến kế giúp Chính phủ chống nạn giặc đói. Đi đầu trong việc đề xuất ý kiến chính là các chuyên gia nông nghiệp đã từng học Trường Cao đẳng Canh nông trước đây (Nghiêm Xuân Yêm, Hoàng Văn Đức, Cù Huy Cận...). Sau khi khẩn trương bàn bạc, nắm chắc tình hình cụ thể, Chính phủ đề ra hai biện pháp cứu đói khẩn cấp: Nhường cơm sẻ áo là giải pháp trước mắt và tăng gia sản xuất là giải pháp lâu dài.
Toàn dân thể hiện tinh thần đoàn kết, đùm bọc nhau vượt qua cơn hoạn nạn. Phong trào nhường cơm sẻ áo được phát động trong cả nước. Những thân hào, thân sĩ, những công thương gia... ai có tiền thì góp tiền, ai có thóc thì góp thóc cho quỹ cứu đói. Cán bộ, chiến sĩ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh gương mẫu thực hiện 10 ngày nhịn ăn một bữa để dành gạo cứu đói. Trong tuần lễ phát động chiến dịch cứu đói, vị đại biểu Quốc hội cao tuổi nhất là cụ Ngô Tử Hạ đã đích thân kéo chiếc xe bò, xuất phát từ Nhà hát Lớn để đi quyên gạo, quyên tiền cho công cuộc cứu đói. Nhà nước cũng tổ chức những địa điểm phát chẩn để cung cấp cơm, cháo hay bất cứ thức gì ăn được cho những người đang quá đói. Nhờ đó, hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn chiếc dạ dày lép kẹp chờ chết, những thân thể chỉ có da bọc xương đã được cứu sống. Từ cuối tháng 9-1945, cảnh chết đói gần như đã chấm dứt.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào số lúa gạo có sẵn để cứu đói thì chỉ có tính cầm cự nhất thời. Biện pháp lâu dài là phải sản xuất. Ngay từ sau ngày tuyên ngôn độc lập, khắp nơi đều phát động chiến dịch tăng gia sản xuất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra một khẩu hiệu thật đơn giản nhưng vô cùng thống thiết:
Tăng gia sản xuất,
Tăng gia sản xuất ngay,
Tăng gia sản xuất nữa!
Để thực hiện chủ trương tăng gia sản xuất, khắp nơi đề ra khẩu hiệu “Tấc đất tấc vàng”, tức là tận dụng mọi nơi mọi chỗ có thể trồng trọt được. Ở các trường học, học sinh được phép cuốc sân trường lên để trồng khoai, trồng ngô. Trên các vỉa hè thành phố, thanh niên, chiến sĩ đào đất lên để trồng khoai, trồng sắn. Trên các bờ đê sông Hồng, thanh niên nam nữ thay phiên nhau ra cuốc đất trồng ngô, khoai, sắn. Ở nông thôn, Nhà nước yêu cầu tất cả ruộng đất đều phải được canh tác. Ruộng nào không canh tác hết thì chính quyền địa phương có quyền tạm trưng dụng để cho những người nông dân tổ chức sản xuất, tạo ra thu hoạch. Một phong trào sản xuất trong cả nước được phát động rầm rộ bằng mọi hình thức. Nhiều sáng kiến đã xuất hiện. Thí dụ: sau khi nước lụt đã rút hết, đã qua mùa cấy lúa, chỉ có thể trồng khoai nhưng khoai thì phải có dây làm giống. Trong tình hình khoai giống khan hiếm vì nhu cầu quá lớn, Kỹ sư Hoàng Văn Đức đã tìm ra một giải pháp: lấy dây khoai trồng tạm trong vòng ba tuần, khoai chưa ra củ nhưng đã ra rễ thì đào lên cắt từng đoạn giống, nhân lên gấp 5, gấp 10 lần để phát triển diện tích trồng khoai. Vụ thu hoạch có thể chậm hơn 2-3 tuần, nhưng diện tích và sản lượng thì tăng hơn 5-10 lần. Chính nhờ sáng kiến đó, đến khoảng tháng 10, tháng 11-1945, trên cả nước đã có những vụ thu hoạch lúa, ngô, khoai sắn đầu tiên. Nhân dân cả nước có thể nhoẻn miệng cười thoát cơn bĩ cực. Cảnh chết đói đầy đường chắc chắn sẽ không còn xảy ra dưới chính quyền cách mạng.
Để đảm bảo sản xuất vững chắc, vấn đề quan trọng muôn thuở của nông nghiệp Việt Nam là đê điều. Tháng 8-1945, đê vỡ hàng loạt chính là vì những chính quyền cũ bỏ bê việc củng cố hệ thống đê, khiến cho đê điều sạt lở liên tiếp trong 4-5 năm mà không được gia cố. Nay, chính quyền cách mạng tổ chức đắp lại, củng cố tất cả những đoạn đê bị vỡ, sạt lở. Cho đến tháng 10-1945, hầu hết các đoạn đê vỡ đã được tu bổ, những đoạn đê xung yếu đã được bồi đắp.
Nhờ tất cả những cố gắng đó, đến năm 1946, nạn đói đã bị đẩy lùi. Sản lượng lương thực năm 1946 đạt 1.155.000 tấn, gấp đôi năm 1945. Trong diễn văn kỷ niệm một năm Quốc khánh 2-9-1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp tuyên bố: “Cách mạng đã chiến thắng nạn đói. Thực là một kỳ công của chế độ dân chủ”2.
Về tài chính, chỉ hai ngày sau tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng uy tín của mình đã đưa ra sáng kiến thành lập Quỹ độc lập. Tất cả mọi người, già, trẻ, trai, gái, giàu, nghèo, người Việt hay người ngoại quốc đều có thể đóng góp giúp Chính phủ có phương tiện tài chính để duy trì nền độc lập Việt Nam. Sau đó ít lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại phát động Tuần lễ vàng để phát động bà con trong và ngoài nước, ai có vàng bạc châu báu muốn đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập quốc gia đều có thể đóng góp vào quỹ này. Chính Quỹ độc lập và Tuần lễ vàng đã giúp cho Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Chính phủ không tiền trở thành Chính phủ có tiền. Dù không nhiều, nhưng tiền đóng góp của toàn dân ít nhất đã giúp Chính phủ có thể lo ở mức tối thiểu những việc quốc gia đại sự, như cứu đói, đắp đê, chữa bệnh, giáo dục, quốc phòng, ngoại giao... Đó là một kỳ tích nữa của cách mạng.
Về tiền tệ, sau Cách mạng Tháng Tám, tình hình tiền tệ ở Việt Nam rất phức tạp. Ngoài những đồng tiền Quan kim và Quốc tệ do quân đội Trung Hoa dân quốc mang vào thì đồng bạc lưu hành chính thức ở Việt Nam vẫn là giấy bạc do Ngân hàng Đông Dương phát hành. Khi phát xít Nhật đảo chính lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp, giấy bạc Đông Dương vẫn được Nhật cho lưu hành. Quân đội Nhật kiểm soát hoạt động của ngân hàng này. Đây là vấn đề rất khó khăn và phức tạp. Chính phủ cách mạng đã tuyên bố đứng về phe Đồng minh và đang ra sức tranh thủ sự thừa nhận của những cường quốc trong Đồng minh. Nếu tiến hành chiếm Ngân hàng Đông Dương, tức là động chạm đến Chính phủ Pháp, một trong những thành viên của Đồng minh. Do đó, Chính phủ Hồ Chí Minh lựa chọn một chủ trương mềm dẻo, để vừa đạt được mục đích, vừa không tạo ra thêm những bất lợi về mặt chính trị. Vì những lý do đó, việc không chiếm Ngân hàng Đông Dương là một lựa chọn đúng đắn.
Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam đã có những biện pháp đấu tranh tích cực để buộc ngân hàng này phải thực hiện một số yêu cầu của Chính phủ. Trước hết là việc phải cung cấp tiền cho Chính phủ cách mạng với lý do: Trong tất cả các công sở mà Pháp xây dựng ở Việt Nam đương thuộc quyền quản lý trực tiếp của Chính phủ cách mạng, viên chức đều là nhân viên của Pháp. Chính phủ Pháp không thể không trả lương cho các nhân viên đó. Đây là một đòi hỏi chính đáng và phía Pháp đã thừa nhận. Tuy nhiên, họ vẫn gây rất nhiều khó khăn cho Chính phủ ta. Lúc thì Pháp tuyên bố tờ giấy bạc 500 đồng không còn hiệu lực, đồng nghĩa với việc tước đoạt của người dân Việt Nam tờ giấy bạc này. Một cuộc biểu tình lớn của quần chúng trước Ngân hàng Đông Dương phản đối biện pháp đó. Cuối cùng, phía Pháp phải nhượng bộ. Rồi họ lại đơn phương phát hành loại tiền 100 đồng mới để chi tiêu trong xã hội, ngoài sự kiểm soát của Chính phủ cách mạng. Chính phủ Việt Nam tuyên bố, tất cả những tờ giấy bạc mới phát hành đều không có giá trị nếu không được đóng dấu Việt Nam dân chủ cộng hòa. Thị trường lúc này vẫn nằm trong tay người Việt Nam. Người Việt Nam thấy giấy bạc không có con dấu thì không bán hàng. Người Pháp cuối cùng không những phải nhượng bộ, mà còn đem số tiền đã phát hành đó đến nhờ Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đóng dấu xác nhận để người Pháp có thể chi tiêu. Đó là một thắng lợi nữa.
Để tranh thủ độc lập về chính trị, Chính phủ Việt Nam phải tuyên bố thừa nhận những quyền lợi về kinh tế của tư bản Pháp trên đất nước Việt Nam. Nếu Chính phủ phát hành đồng tiền mới, sẽ ảnh hưởng đến vấn đề chính trị nhạy cảm này. Tuy chưa thể phát hành đồng tiền mới, Việt Nam vẫn tích cực chuẩn bị cho động thái này. Nhà tư sản đỏ Đỗ Đình Thiện đã hiến cho Chính phủ toàn bộ Nhà máy in Taupin của ông để phục vụ cho nhu cầu này. Từ ngày 31-1-1946, những tờ giấy bạc Cụ Hồ đầu tiên đã xuất xưởng. Việc phát hành được tính toán rất chu đáo. Đầu tiên, tờ giấy bạc này được phát hành ở Nam Trung Bộ, là nơi không có quân đội Anh và cũng không có quân đội Trung Hoa dân quốc. Nhân dân đón mừng nồng nhiệt và sẵn sàng đổi giấy bạc Đông Dương lấy giấy bạc Cụ Hồ với tỷ giá 1,2 đồng Đông Dương bằng 1 đồng bạc Cụ Hồ. Nhờ đó, từ Nam Trung Bộ, chính quyền địa phương đã rút ra một số lượng khá lớn giấy bạc Đông Dương để cung cấp cho Nam Bộ và Bắc Bộ, đồng thời tờ giấy bạc Cụ Hồ đã vững chân trên một phần đất nước Việt Nam. Nhân dân nhìn thấy hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, thấy dòng chữ Việt Nam dân chủ cộng hòa thì đón nhận không chỉ như một đồng tiền, mà như một “chứng chỉ” của một nước Việt Nam độc lập. Từ giữa năm 1946, quân đội Trung Hoa dân quốc rút khỏi miền Bắc Việt Nam, quân đội Anh cũng ra đi, trên đất nước Việt Nam chỉ còn hai đồng tiền song song tồn tại, đó là tiền Đông Dương và giấy bạc Cụ Hồ. Đến lúc này thì Pháp đã trở mặt trên nhiều lĩnh vực. Hy vọng vớt vát hòa bình ngày càng xa vời. Từ tháng 8-1946, Chính phủ cho phép phát hành tiền ra cả Bắc Trung Bộ. Sau đó, giấy bạc Cụ Hồ đã tràn cả ra miền Bắc, và đến tháng 11-1946, Nhà nước chính thức cho phát hành giấy bạc Cụ Hồ trên phạm vi cả nước.
Như vậy, khi bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, Việt Nam đã có đồng tiền riêng của mình, một đồng tiền độc lập của một quốc gia độc lập.
II- ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT, XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ KHÁNG CHIẾN, TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT
Những nỗ lực cứu vãn hòa bình của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngăn chặn được cuộc chiến tranh từ phía thực dân Pháp. Ngày 18-12-1946, người Pháp gửi tối hậu thư: nếu không chấp nhận những yêu cầu của họ thì họ phải tự nắm lấy quyền giữ trật tự, có nghĩa là loại toàn bộ Chính phủ Hồ Chí Minh khỏi vũ đài chính trị. Đến nước đó, không còn cách nào khác là dùng súng đạn nói chuyện với súng đạn. Cuộc kháng chiến trường kỳ bắt đầu trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
1. Đường lối kinh tế kháng chiến
Kháng chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện là một chủ trương bao trùm tất cả mọi hoạt động kháng chiến, mọi tầng lớp nhân dân. Cả dân tộc Việt Nam vùng dậy kháng chiến trên tất cả các mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và ngoại giao.
Vừa kháng chiến vừa kiến quốc là một chủ trương lớn của Đảng, được xác định ngay trong bản Chỉ thị ngày 25-11-1945 của Ban Thường vụ Trung ương, trở thành khẩu hiệu công khai lần đầu tiên tại phiên họp Quốc hội vào tháng 11-1946. Đó là khi cuộc kháng chiến sắp tới gần. Tên cuộc họp Quốc hội đó được đặt là Quốc hội kháng chiến và kiến quốc.
Vì lực lượng hai bên không cân sức, cho nên không thể tiến hành chiến tranh chớp nhoáng mà phải kéo dài, phải kháng chiến trường kỳ. Thời gian sẽ ủng hộ lực lượng kháng chiến và gây bất lợi cho đối phương.
Nhưng trường kỳ kháng chiến thì phải kiến tạo một cuộc sống ổn định, có thể tồn tại lâu dài và ổn định để đối đầu với Pháp trong nhiều năm. Muốn như vậy phải kiến quốc. Kiến quốc là xây dựng một cuộc sống toàn diện về kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế. Chính vì vậy, bộ đội, cơ quan đi đến đâu, ngoài việc dựa vào dân về chỗ ở, chỗ ăn, đều phải tự túc một phần. Trong công nghiệp, Nhà nước tập trung cho mấy lĩnh vực quan trọng, như công nghiệp quốc phòng, sản xuất vũ khí và đạn dược cho chiến tranh. Ngoài ra, những ngành sản xuất khác để cho nhân dân tự lo, như vải mặc, đường, mực, phấn viết, ngòi bút, thuốc lá, các đồ dùng gia đình. Nông dân được Nhà nước khuyến khích tăng gia để nuôi mình, góp phần nuôi bộ đội. Chợ búa được khuyến khích phát triển, các luồng giao lưu hàng hoá hầu hết do thương nhân đảm nhiệm và Nhà nước giúp đỡ để có thể lưu thông hàng hoá từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Để thể hiện mối quan hệ khăng khít giữa hai nhiệm vụ lớn kháng chiến và kiến quốc, trong một bài thơ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ:
Ruộng rẫy là chiến trường
Cuốc cày là vũ khí,
Nhà nông là chiến sĩ,
Hậu phương thi đua với tiền phương.
Chính nhờ tư tưởng vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, cho nên cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam không bị hụt hẫng, suy yếu trong quá trình chiến tranh. Ngược lại, hậu phương của cuộc kháng chiến ngày càng được củng cố, khả năng cung ứng cho quân đội, cơ quan và cán bộ càng ngày càng được đảm bảo tốt hơn. Đó chính là một trong những điều kiện quan trọng để duy trì cuộc kháng chiến trường kỳ, khiến cho quân đội Pháp ngày càng gặp nhiều khó khăn, bị tiêu hao sức lực, trong khi lực lượng cách mạng ngày càng trưởng thành lớn mạnh.
Đại đoàn kết là một tư tưởng lớn về chính trị. Mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam, bất kể thành phần tôn giáo, tín ngưỡng, đều một lòng đoàn kết dân tộc, hướng tới độc lập, tự do và hạnh phúc cho toàn dân. Mọi thành phần xã hội đều là thành viên của sự nghiệp kháng chiến chống Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dùng chữ: “Sĩ, nông, công, thương, binh”3 để nói về các thành phần của cuộc kháng chiến. Trong nhiều lần trả lời báo chí nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói thẳng: Lúc này chúng tôi chưa đặt vấn đề đấu tranh giai cấp, mục tiêu số một lúc này là đấu tranh chống thực dân xâm lược. Chính vì vậy, trong một thời gian dài, tất cả các thành phần xã hội Việt Nam đều toàn tâm, toàn lực đóng góp cho kháng chiến. Người có khả năng nhiều đóng góp nhiều, người có khả năng ít đóng góp ít. Về quan điểm giai cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh có lần đã nói về quan hệ chủ thợ như sau: “Chủ và thợ hợp tác chặt chẽ, thì hai bên đều có lợi…, mà còn lợi chung cho nền kinh tế của Tổ quốc, lợi chung cho toàn thể đồng bào”4.
“Tự lực cánh sinh” là một phương châm chiến lược của cuộc kháng chiến. Như trên đã nói, cho tới năm 1950, Việt Nam ở trong cảnh bị bao vây cô lập, không biết trông cậy vào bất cứ ai để tiến hành cuộc kháng chiến. Cách duy nhất có thể là dựa vào sức mình. Sức mình chính là sức của bộ đội, cán bộ và chủ yếu là sức dân. Dân nuôi bộ đội, dân cho ăn, dân cho ở, dân cho quần áo... Chính phủ cần chi tiêu thì in tiền như một biện pháp để giải quyết ngân sách. Nhờ vào lòng yêu nước của toàn dân, đồng tiền Việt Nam lúc đó (thường gọi là tiền tài chính) hoàn toàn không dựa vào thứ bản vị nào. Nói chính xác hơn, bản vị duy nhất khi đó là lòng dân, thế mà đồng tiền phát huy giá trị rất hiệu quả, phục vụ đắc lực cho cuộc kháng chiến.
Tự cấp tự túc tức là từng vùng, từng đơn vị phải tự lo các nhu yếu phẩm cho mình. Cơ quan phải tăng gia sản xuất để có lương thực, thực phẩm. Bộ đội phải tự cấp tự túc một phần để đỡ gánh nặng cho dân. Phải tự cấp tự túc vì trong kháng chiến, các vùng bị chia cắt, giao thông cách trở, vận chuyển khó khăn, khó có thể san bằng nơi thừa nơi thiếu. Vì thế, ở các vùng như Liên khu V, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ, Bình Trị Thiên, Việt Bắc, người dân và cán bộ đều phải tự lo cho mình nào vải, nào gạo, nào thực phẩm, nào quần áo... Chỉ trừ một số nhu yếu phẩm mà mỗi vùng không tự giải quyết được thì Chính phủ phải tổ chức, chẳng hạn vấn đề muối. Việt Bắc là vùng bị bao vây tứ phía, người Pháp biết là Việt Bắc không có muối nên đặt một hệ thống giám sát rất kỹ các cửa khẩu. Tiên liệu được điều đó, từ trước khi kháng chiến bùng nổ, Nhà nước đã đưa được một khối lượng muối rất lớn lên Việt Bắc và lập những kho dự trữ muối ở đây, đồng thời mở nhiều tuyến đường từ biển để đưa muối lên Việt Bắc. Ngoài những nhu yếu phẩm như muối, có những hàng hóa khác không sản xuất được tại địa phương. Việc này phải nhờ tới các thương nhân len lỏi vào vùng tạm chiếm để mua về, đó là các loại thuốc chữa bệnh, hoá chất cần thiết cho việc in tiền và chế tạo vũ khí. Hiện thực này cho thấy, tư tưởng tự cấp tự túc trong thời chiến hoàn toàn khác với hình thức kinh tế tự nhiên. Kinh tế tự cấp tự túc là do tình thế đặt ra chứ không phải là một chủ trương đối lập với kinh tế thị trường. Ngược lại, trong vùng kháng chiến, chợ búa vẫn họp, giao lưu, đường bộ, đường thuỷ rất phát triển.
Cần kiệm liêm chính, đồng cam cộng khổ là một khẩu hiệu lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong điều kiện kinh tế khó khăn, nguyên tắc quan trọng là phải cần cù, chăm chỉ trong công việc và trong nếp sống. Bộ đội phải lo chiến đấu, cán bộ phải lo làm tròn trách nhiệm, ngoài ra phải ra sức tăng gia sản xuất.
Trong hoàn cảnh thiếu thốn thì tiết kiệm là một nguyên tắc. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng mặc áo vá, viết giấy tận dụng cả hai mặt... Tác phong đó đã thấm sâu tới mọi thành viên của Hội đồng Chính phủ và từ đó, tới chiến sĩ, tới cán bộ, tới toàn dân. Kẻ nào hoang phí trong hoàn cảnh đó bị cả xã hội lên án. Trường hợp Trần Dụ Châu là một thí dụ tiêu biểu.
Liêm, chính là không tham ô, không lấy của công. Đối với dân, không được lạm dụng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dặn chiến sĩ và cán bộ là không được động đến cái kim, sợi chỉ của dân. Hầu hết, bộ đội và cán bộ thời kỳ này đều thực hiện tốt nguyên tắc đó.
Để thực hiện “cần kiệm liêm chính” trong điều kiện kinh tế khó khăn, trên dưới phải bình đẳng không những về trách nhiệm, về công việc, mà phải bình đẳng cả về mức sống, tức là đồng cam cộng khổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường cùng ăn với cán bộ chiến sĩ, mức ăn hoàn toàn như nhau; trong hàng ngũ cán bộ chiến sĩ, quần áo đều giống nhau. Đồng cam cộng khổ không chỉ là một giải pháp của sự thiếu thốn, mà còn là một yếu tố tinh thần vô cùng quan trọng, làm cho mọi người nhận thấy rằng, trong công cuộc kháng chiến, mọi người đều dốc lòng cho sự nghiệp chung, không ai mưu cầu sự giàu sang cho riêng mình. Đó là một trong những vẻ đẹp của thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
2. Những thành tựu kinh tế trong kháng chiến
Nông nghiệp: Vùng tự do trong kháng chiến là nơi không có những cánh đồng rộng lớn, trừ Khu IV với các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, còn phần lớn đều thuộc địa hình đồi núi. Đất đai hoang hóa thì nhiều, nhưng ruộng lúa lại tương đối ít. Tuy nhiên, với chính sách toàn dân tăng gia sản xuất, lại được sự giúp đỡ tận tình của Chính phủ, các cơ quan, các đơn vị bộ đội, cho nên nông nghiệp trong suốt thời kỳ kháng chiến được đảm bảo ổn định, phát triển và đủ cung cấp cho kháng chiến.
Trong kháng chiến, tất cả các cơ quan, đơn vị đều tham gia sản xuất nông nghiệp. Đi đến đâu cũng phải khai phá thêm đất đai để trồng khoai, trồng sắn, trồng rau... Từ Chủ tịch Hồ Chí Minh đến các vị bộ trưởng, ngày nào cũng phải dành thời gian để tăng gia sản xuất, nhằm tự túc một phần lương thực và thực phẩm, để giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân. Liên khu V có thành tích nổi bật về việc sản xuất tự túc của các cơ quan. Một số tỉnh ở Liên khu V có thể tự túc về ăn từ 4 đến 8 tháng.
Những bà con tản cư từ thành thị về nông thôn, ngoài các nghề buôn bán, dịch vụ cũng khai phá đất đai để trồng trọt, chăn nuôi. Vì thế, trong suốt thời kỳ kháng chiến, không xảy ra nạn đói. Ở đâu có đất là ở đó có cái ăn.
Tất nhiên, tuyệt đại bộ phận sản xuất nông nghiệp vẫn trong tay nông dân. Nhà nước đã có những sự hỗ trợ nhất định về vốn, về thủy lợi, về kỹ thuật... Từ năm 1947 đến năm 1951, Sở Tín dụng sản xuất đã cho vay vào khu vực nông nghiệp là 181 triệu đồng tiền Tài chính5.
Về thủy lợi, bộ đội, cơ quan đi đến đâu cũng tổ chức giúp dân xây dựng các cơ sở tiểu thủy nông để tăng vụ cho sản xuất. Tính từ năm 1946 đến năm 1954, diện tích được tưới bằng tiểu thủy nông trong vùng kháng chiến tăng gần 20 lần: Từ 22.500ha lên 405.300ha.
Nhờ những cố gắng kể trên, cho nên sản lượng lúa trong thời kỳ kháng chiến không những không giảm mà có xu hướng tăng lên.
Ruộng đất là một trong những vấn đề lớn của sản xuất nông nghiệp. Sau Cách mạng Tháng Tám đến hết năm 1952, Đảng và Chính phủ chưa chủ trương làm cách mạng ruộng đất, nhưng có nhiều biện pháp để giải quyết vấn đề ruộng đất một cách hợp tình hợp lý. Ngày 13-11-1945, Nhà nước đã ra thông tư về việc giảm 25% mức địa tô đối với tá điền, người cấy rẽ, cấy thuê. Đến ngày 28-11-1946, Chính phủ lại ra thông tư nhắc lại việc giảm 25% địa tô cho những người lĩnh canh. Đến ngày 14-7-1949, Nhà nước ban hành Sắc lệnh 78/SL về việc giảm địa tô 25%. Tính đến tháng 4-1952, các tỉnh thuộc Liên khu Việt Bắc, bảy tỉnh thuộc Liên khu III và bốn tỉnh thuộc Liên khu IV đã có 147.000 mẫu ruộng được giảm tô đúng mức 25%. Ở Liên khu V, diện tích giảm tô 25% đã lên tới 250.000 mẫu. Số địa chủ thực hiện giảm tô là 146.000 người, số tá điền được hưởng chính sách giảm tô là 291.000 người, số lúa giảm tô là 4.262 tấn7...
Cùng với việc thực hiện giảm tô, tháng 5-1950, Nhà nước ban hành Quy chế lĩnh canh, nhằm đảm bảo quyền lợi ổn định cho những người lĩnh canh. Ngày 1-7-1949, Nhà nước ban hành Quy chế 75/SL về việc tạm cấp ruộng đất của Việt gian và thực dân Pháp cho nông dân, bộ đội, du kích và những người tá điền đã từng lĩnh canh trên mảnh đất đó. Mức tạm cấp tối đa ở Bắc Bộ và Trung Bộ là 0,5 ha/người, ở Nam Bộ là 1ha/người…
Đến tháng 3-1952, Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về sử dụng công điền công thổ, dựa trên nguyên tắc chia cấp công điền một cách công bằng, dân chủ và có lợi cho nông dân nghèo.
Với tất cả những biện pháp kể trên, phần lớn ruộng đất đã chuyển về tay người cày. Ước tính từ năm 1945 đến năm 1953, đã có tất cả 302.840ha ruộng đất từ các nguồn khác nhau (của thực dân Pháp, ruộng công và nửa ruộng công, ruộng hiến, ruộng trưng mua, trưng thu của địa chủ) được tạm cấp, tạm giao cho nông dân. Như vậy, là đã giải quyết tới 58,3% tổng số ruộng đất thuộc loại này (518.710ha). Cho tới trước cải cách ruộng đất, tháng 12-1953, trên thực tế, thành phần gọi là địa chủ chỉ còn chiếm hữu non một nửa diện tích đất của họ trước cách mạng. Riêng ở 3.035 xã thuộc miền Bắc, họ còn chiếm hữu khoảng 215.915ha, tức là khoảng 40% tổng số diện tích của họ có trước năm 19458. Ở Liên khu V, chỉ tính riêng các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, đã có tới 207.000 mẫu, tức gần 25% diện tích đất của bốn tỉnh đã được chia lại cho nông dân.
Ở Nam Bộ, có khoảng 6.000 địa chủ đã bỏ ruộng đất ở vùng nông thôn về ở trong các thành phố. Toàn Nam Bộ đã chia khoảng 564.547ha cho 527.153 nhân khẩu, tính trung bình mỗi người được chia 1ha9…
Tuy nhiên, từ năm 1953, chịu ảnh hưởng của những kinh nghiệm nước ngoài, lại do bệnh ấu trĩ, “tả” khuynh trong vấn đề giai cấp, đã có phong trào phát động quần chúng giảm tô tiến tới cải cách ruộng đất, trong đó có việc đấu tố địa chủ, phú nông, gây những tổn thương đáng kể trong khối đại đoàn kết dân tộc. Đặc biệt từ cuối năm 1953, Nhà nước ban hành Luật cải cách ruộng đất, tiến hành việc đấu tố tràn lan ở một số nơi làm thí điểm cải cách ruộng đất trong kháng chiến. Nhất là từ sau khi hòa bình lập lại, nhiều đợt cải cách ruộng đất đã được tiến hành ở những vùng mới giải phóng, gây nhiều tổn thất về kinh tế, xã hội và đặc biệt là về tình cảm trong môi trường nông thôn.
Công nghiệp: Công nghiệp trong thời kỳ kháng chiến chủ yếu là công nghiệp quốc phòng. Nhiều máy móc được vận chuyển từ Hà Nội lên chiến khu để xây dựng các binh công xưởng, chế tạo vũ khí cho kháng chiến. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ngành công nghiệp quân giới đã có những nỗ lực to lớn nhằm đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của quân đội. Cho tới trước năm 1954, Việt Nam bị bao vây tứ phía, nguồn vũ khí từ nước ngoài cung cấp gần như không có. Do đó, chỉ có hai cách là cướp súng đạn của giặc và tự chế tạo vũ khí, nhất là đạn dược. Theo thống kê của ngành quân giới thì tốc độ phát triển của vũ khí đạn dược (tính từ Liên khu IV trở ra, tính bằng tấn vũ khí và đạn dược) như sau: Năm 1946 là 100 thì năm 1947 là 107, 1948 là 1.044, năm 1949 là 3.544, năm 1950 là 2.111, năm 1951 là 1.877, năm 1952 là 1.744, năm 1953 là 3.552.
Ở Liên khu V, nếu năm 1948 là 100 thì năm 1949 là 130, năm 1950 là 243, năm 1951 là 1.087, năm 1952 là 327510.
Còn công nghiệp dân dụng, trừ một vài cơ sở của Nhà nước sản xuất giấy, dệt vải cung cấp cho trường học, bộ đội, phần còn lại hầu hết nằm trong tay các tiểu chủ từ thành phố tản cư ra. Nhà nước giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để họ tổ chức sản xuất những sản phẩm cần thiết cho đời sống nhân dân. Nhiều nhà sản xuất đã có sáng kiến khắc phục những khó khăn về nguyên liệu, máy móc để sản xuất được những nhu yếu phẩm, như vải mặc, xà phòng, thuốc đánh răng, bút máy, bút chì, mực, phấn viết, giày dép. Liên khu V có thành tích lớn về việc đã tổ chức tự túc được hầu hết các nhu yếu phẩm của nhân dân và cán bộ, đặc biệt là vải mặc (vải sita).
Giao thông vận tải: Bước vào kháng chiến, công việc đầu tiên của giao thông vận tải là phá hoại đường sá, cầu cống và phương tiện vận tải để Pháp không thể tấn công vào các vùng kháng chiến. Đã có 10.721km đường trong tổng số 21.026km đường ôtô, 1.540km đường trong tổng số 2.569km đường sắt và 30.560m cầu bị phá hoại.
Sau khi phá xong những phương tiện giao thông kể trên, vùng kháng chiến được bảo vệ một cách thụ động do không còn khả năng vận động bằng cơ giới. Từ đây, mọi hoạt động trong vùng kháng chiến là dựa vào xe đạp, xe ngựa và ngựa, đường thủy, gồng gánh, xe bò, xe trâu, ở một số địa phương cách xa các vùng chiếm đóng của Pháp thì duy trì được một số đoạn đường sắt để phục vụ kháng chiến, vừa chạy bằng tàu có đầu máy kéo, vừa chạy bằng những xe goòng do người đẩy. Liên khu V có đoạn đường dài 307km. Liên khu IV có đoạn đường dài 74km từ bắc Quảng Bình ra tới nam Hà Tĩnh…
Một phát minh lớn trong thời kỳ kháng chiến là chiếc xe thồ. Từ chiếc xe đạp dùng cho người, được cải tiến thành chiếc xe đẩy chở hàng hóa. Mỗi chiếc xe thồ có thể chở được tới 300kg. Những chiếc xe thồ này đã đóng góp quan trọng cho các chiến dịch Tây Bắc, Điện Biên Phủ. Từ năm 1953, Hội đồng cung cấp mặt trận đã huy động tới 12.400 chiếc xe thồ của tư nhân để phục vụ cho các chiến dịch.
Thương nghiệp: Như đã nói ở trên, vùng hậu phương của Việt Nam phần lớn là nông thôn và miền núi. Chợ búa hầu hết là các chợ quê, chợ miền núi họp theo phiên và có phần sầm uất hơn trước, vì người đi chợ không chỉ là những người nông dân quanh vùng mà có thêm cả bộ đội, cán bộ…
Một đặc điểm lớn của thương nghiệp thời kỳ này là có một số lượng đáng kể dân đô thị bỏ vùng Pháp chiếm đóng đi vào vùng tự do. Họ không có ruộng đất và không quen nghề nông, cho nên họ chuyển sang nghề dịch vụ như mở quán nước, quán cà phê, làm thợ may, bán hàng xén ven các con đường kháng chiến. Nhiều phố phường kháng chiến bỗng xuất hiện tại những nơi mà trước đây ít ai biết đến. Ở Việt Bắc, có Đại Từ của Thái Nguyên là nơi thường được gọi là thủ đô kháng chiến. Ở Khu III, có Nho Quan thuộc Ninh Bình là một huyện lỵ nhỏ giáp núi đã trở thành một chợ lớn và đông vui vì bộ đội, cán bộ từ Khu III vào Khu IV đều phải qua vùng này.
Hầu hết các chợ đều phải họp ban đêm. Những người tản cư thì sinh sống trên những nẻo đường xa chợ và gần núi đồi để có thể đào hầm tránh máy bay. Đó là những hiệu cắt tóc, những quán cà phê, những quầy hàng xén, những hàng chữa đồng hồ, mài dao kéo, bán nước chè, bán bún, bánh, phở... Những đường phố mới hình thành này trở thành một trong những nét độc đáo trên những nẻo đường kháng chiến.
Như trên đã nói, thương nghiệp vẫn chủ yếu nằm trong tay tư nhân. Nhà nước chỉ có cơ quan tiếp liệu để mua nhu yếu phẩm cho cơ quan và bộ đội. Từ năm 1951, theo kinh nghiệm của các cố vấn Trung Quốc, Nhà nước đã thành lập một cơ quan thương nghiệp gọi là mậu dịch quốc doanh. Mậu dịch quốc doanh lúc này chưa đảm đương toàn bộ nền thương nghiệp mà chủ yếu chỉ lo kinh doanh một số nhu yếu phẩm tối cần thiết cho kháng chiến là gạo, vải, muối, dầu thắp. Mậu dịch quốc doanh đã tổ chức những chuyến vận tải muối từ miền biển của Liên khu III, qua Hoà Bình, lên Phú Thọ và tới Việt Bắc. Nhiều kho muối được lập ra ở đây để cung cấp muối là thứ nhu yếu phẩm hết sức khan hiếm ở Việt Bắc trước đây. Mậu dịch quốc doanh cũng tổ chức thu mua vải của nhân dân theo giá thị trường và mua vải vùng Pháp chiếm đóng để cung cấp quần áo cho bộ đội.
Từ khi ra đời, mậu dịch quốc doanh đã phát triển nhanh chóng và tham gia tích cực cả trong hai lĩnh vực mua và bán để phục vụ kháng chiến và phục vụ cho đời sống nhân dân: Về mua vào, nếu tính theo đồng ngân hàng cũ thì năm 1951 là 388 triệu đồng, năm 1952 là 4.671 triệu đồng, năm 1953 là 5.958 triệu đồng, năm 1954 là 8.951 triệu đồng. Như vậy, nếu năm 1951 là 100 thì đến năm 1954 là 2.308, tăng hơn 23 lần. Về lượng bán ra của mậu dịch quốc doanh, từ khi thành lập, ba mặt hàng chính cần bình ổn ở thị trường đã tăng lên
Cùng với mậu dịch quốc doanh, Nhà nước đã lập ra các chi điếm xuất nhập khẩu để đảm đương việc buôn bán với vùng Pháp (hình thức ngoại thương duy nhất thời kỳ này). Những chi điếm này không trực tiếp cử người vào vùng Pháp chiếm đóng mua, mà giao cho các thương nhân vào đó để mua các nhu yếu phẩm cần thiết cho Nhà nước. Những chi điếm này cũng giúp đỡ các thương nhân đưa những mặt hàng nông thổ sản vào vùng Pháp, như mây tre, gạo, củ nâu, măng, mộc nhĩ, sa nhân để bán, thu lấy ngoại tệ, rồi mua những nhu yếu phẩm chuyển ra cho mậu dịch quốc doanh. Sau đó, việc kết hối được thực hiện theo giá thị trường. Lúc này, giá cả hoàn toàn là giá thị trường và thuận mua vừa bán, chưa có sự áp đặt nào về định giá và tỷ giá của Nhà nước.
Tài chính và tiền tệ: Thời kỳ đầu, Nhà nước chưa đặt ra các chế độ thuế ổn định mà hoàn toàn dựa vào sự đóng góp tự nguyện của nhân dân. Nguồn chi tiêu chính của bộ đội và Chính phủ lúc này chính là phát hành tiền. Xưởng in tiền ở Bản Thi (Chiêm Hoá, Tuyên Quang) chính là nơi đảm bảo nhu cầu này. Vì chi tiêu cho kháng chiến càng ngày càng nhiều cho nên mức lạm phát tăng lên khá cao.
Nam Trung Bộ và Nam Bộ là nơi xa xôi, hẻo lánh, không thể chuyển tiền tài chính vào được. Vì thế, Nhà nước cho phép Liên khu V phát hành tín phiếu (cũng là một thứ tiền tệ) và Nam Bộ được phát hành giấy bạc Nam Bộ để chi tiêu.
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ II (2-1951), Nhà nước đã tiến hành hàng loạt cải cách trong các lĩnh vực kinh tế. Về tài chính, chấm dứt tình trạng đóng góp tuỳ tiện dựa vào hảo tâm, áp dụng một hình thức thuế gọi là thuế nông nghiệp. Thuế này bắt đầu được thu từ tháng 5-1951 căn cứ vào mức hoa lợi để nộp thuế theo luỹ tiến. Người thu hoạch nhiều đóng góp với tỷ lệ cao, người thu hoạch ít đóng góp với tỷ lệ thấp. Người thu hoạch không đủ thì miễn thuế. Tính trung bình trên toàn vùng kháng chiến, mức thuế thu trên hoa lợi là 18,5%. Mức đó đủ đảm bảo những nhu cầu cho cuộc kháng chiến, cũng đảm bảo cho những người trồng lúa có đủ lương thực để sinh sống. Thuế nông nghiệp rất quan trọng về mặt kinh tế, nó đảm bảo sự ổn định về mặt hậu cần cho cuộc kháng chiến. Từ đây, cán bộ chiến sĩ không có lương mà được lĩnh trực tiếp bằng gạo.
Từ khi thực hiện thuế nông nghiệp, nguồn thu ngân sách được cải thiện đáng kể. Trước đây, lấy phát hành để chi tiêu là chính. Tỷ lệ thu qua phát hành năm 1946 là 72%, năm 1947 là 73%, năm 1948 là 80%, năm 1949 là 82%, năm 1950 là 77%11.
Từ năm 1951, thuế nông nghiệp đã chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số thu ngân sách: năm 1951: 86,2%, năm 1952: 77%, năm 1953: 71%, năm 1954: 54,7%12.
Từ khi có thuế nông nghiệp, cán cân ngân sách đã được cải thiện về căn bản. Từ năm 1952, đã thực hiện được khẩu hiệu tiến tới thăng bằng thu chi: Năm 1952: thu 372.820 tấn thóc, chi 474.796 tấn thóc; năm 1953: thu 635.571 tấn thóc, chi: 535.229 tấn thóc; năm 1954: thu 644.000 tấn thóc, chi 512.000 tấn thóc13. Như vậy, kể từ năm 1953, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng, đã có bội thu ngân sách. Đó là thành tựu rất lớn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Trong lĩnh vực tiền tệ cũng có một cuộc cải cách lớn. Từ ngày 31-5-1951, Ngân hàng quốc gia được thành lập. Việc phát hành tiền được chuyển từ Bộ Tài chính sang Ngân hàng quốc gia và không phải dành cho chi tiêu mà để phục vụ lưu thông.
Đời sống nhân dân: Trong kháng chiến, đời sống nhân dân đương nhiên là vô cùng gian khổ. Thế nhưng, có một điều lạ là người Việt Nam rất dễ thích nghi với những điều kiện khó khăn, kể cả các anh lính cậu từ thành phố về, kể cả các trí thức lớn..., đều sớm thích nghi với cuộc sống ở chiến khu. Những trí thức lớn ở miền Bắc cũng như miền Nam, những người đã từng du học ở Pháp, định cư ở Pháp và sau đó ở các đô thị lớn như Sài Gòn, Hà Nội với một mức sống rất cao. Thế nhưng, khi lên chiến khu, họ chấp nhận cuộc sống mới một cách không khó khăn lắm. Đó là trường hợp các trí thức lớn, như các bác sĩ Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di, Trần Đức Thảo ở miền Bắc. Ở miền Nam là bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, Nguyễn Thiện Thành, Lưu Văn Lang và biết bao nhiêu nhà văn, nghệ sĩ nổi tiếng đã sống ở chiến khu như những người chiến sĩ bình thường. Một đặc điểm của đời sống vùng kháng chiến là ánh sáng văn minh theo cùng các đơn vị kháng chiến. Những vùng đất mà trước đây được coi như khỉ ho cò gáy, thâm sơn cùng cốc, lạc hậu, nghèo nàn, dốt nát thì bây giờ có trường học, người già cũng phải đi học văn hoá, trẻ con có trường học, mọi người dân có trạm y tế, có trạm hộ sinh không khác gì cuộc sống văn minh đô thị. Đó là nét đặc sắc của đời sống kháng chiến.
Từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công đến khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp, vai trò của dân luôn luôn được đặt lên hàng đầu, ngang bằng với lợi ích, trách nhiệm của chính họ. Đây chính là thành công lớn mà chính quyền cách mạng đã sáng suốt nhận thấy và vững tay thực hiện trong cả một giai đoạn dài, góp phần quan trọng vào những thành tựu đáng tự hào của dân tộc Việt Nam, Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam trong chặng đường mới nhiều thử thách.

* Viện Kinh tế Việt Nam.
1. Bộ trưởng Lê Văn Hiến giải thích với tác giả: Đây là cách chơi chữ của Bộ trưởng, nghĩa là không có tiền, đồng thời cũng có nghĩa là trước đó chưa từng có, theo câu thành ngữ “Không tiền khoáng hậu”.
2. Đặng Phong: Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, Sđd, t.1, tr.136.
3. Sĩ là trí thức, nông là nông dân, công là công nhân, thương là thương nhân, binh là binh sĩ.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.106.
5. Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-1954, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr.305.
6. Nguyễn Ngọc Minh: Kinh tế Việt Nam trong chín năm kháng chiến chống đế quốc xâm lược, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 22-1964.
7. Đặng Phong: Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, Sđd, t.1, tr.313.
8. Báo cáo thống kê của Uỷ ban vật giá Trung ương, ngày 22-3-1958.
9. Đặng Phong: Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, Sđd, t.1, tr.313-314.
10. Nguyễn Ngọc Minh: Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1967, tr.197.
11, 12. Nguyễn Ngọc Minh: Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi, Sđd, tr.326, 335.
13. Trích Sổ tay của Bộ trưởng Tài chính Lê Văn Hiến, lưu trữ của Bộ Tài chính, tr.18.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét