Thứ Năm, 4 tháng 10, 2012

Dioxin và cuộc chiến Việt Nam


Dioxin và cuộc chiến Việt Nam
Hủy diệt môi sinh luôn luôn là một thủ đoạn rất cổ xưa và rất thông thường trong chiến tranh. Khi kĩ thuật và công nghệ trở nên tinh vi, sự hủy diệt môi trường càng trở nên khốc liệt.  Có thể nói chiến dịch dùng độc chất ở Việt Nam là một sự phá hoại môi sinh lớn nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới.
Ngược dòng lịch sử
            Chiến dịch sử dụng hóa chất trong cuộc chiến Việt Nam của quân đội Mĩ không phải là lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh cận đại.  Trong Thế chiến thứ II, Chính phủ Mĩ ủy nhiệm và cung cấp ngân sách cho Hội đồng Khoa học Quốc gia để phát triển một hóa chất dùng cho tiêu hủy đồng lúa và vụ mùa của Nhật.  (Nên nhớ rằng lúc đó lúa gạo là nguồn thực phẩm chính của người Nhật.)  Kết quả của nghiên cứu này là 2,4-D và 2,4,5-T (tức là Chất màu da cam ngày nay) ra đời.  Tuy nhiên, qua thảo luận giữa Tổng thống D. Roosevelt và Chánh văn phòng Nhà trắng, Đô đốc William D. Leahy quyết định không sử dụng hóa chất này trong cuộc chiến với Nhật.  Do đó, chất màu da cam không được dùng trong Thế chiến thứ II.
            Nhưng trong đầu những nhà cầm quyền Tây phương, việc sử dụng hóa chất như là một vũ khí trong chiến tranh vẫn là một lựa chọn.  Vào cuối thập niên 1950, qua sự thành công của Anh trong việc sử dụng hóa chất 2,4,5-trichlorophenoxyacetic (2,4,5-T) để tiêu hủy mùa màng ở Malaya, Bộ quốc phòng Mĩ lại ủy nhiệm cho cơ quan ARPD (Advanced Research Project Agency) nghiên cứu và phát triển các hóa chất diệt cỏ để dùng cho các mục đích quân sự [1].  Một cuộc thử nghiệm tương đối qui mô đầu tiên dùng hóa chất màu tím (Agent Purple) được tiến hành ở Trại Drum (bang New York) vào năm 1959, và mô hình này được ứng dụng trong chiến tranh Việt Nam sau đó vài năm [2].
            Giữa lúc cuộc chiến giữa Việt Nam và Mĩ càng ngày càng đi vào giai đoạn ác liệt, và trước sự thất bại của Mĩ trong việc theo dõi quân đội Việt Nam, giới quân sự và chính trị Mĩ nghĩ đến việc dùng hóa chất.  Giới quân sự Mĩ lí giải rằng, chất màu da cam nên được dùng bởi vì nó có thể “khai quang”, tức là làm trống đồng cỏ, quân đội Việt Nam sẽ không có nơi để ngụy trang, và không quân Mĩ tha hồ bỏ bom cắt tuyến đường Trường Sơn. 
Ngày 30 tháng 11 năm 1961,  Tổng thống John F. Kennedy phê chuẩn cho quân đội Mĩ tiến hành chiến dịch khai quang đồng cỏ Việt Nam [3].  Quyết định này được Ngô Đình Diệm, lúc đó là Tổng thống nam Việt Nam (một chính phủ do Mĩ dựng nên và nuôi dưỡng), ủng hộ nồng nhiệt.  Diệm cho rằng ông ta “biết cộng sản đang ở đâu”, và tin rằng chiến dịch này sẽ thành công mĩ mãn [4].  Ngược lại với quan điểm của Diệm, các giới chức cao cấp trong Bộ ngoại giao Mĩ như Roger Hilsman và W. Averell Harriman phản đối quyết định của Tổng thống Kennedy, vì họ cho rằng không có cách gì để biết được là chiến dịch sẽ “khai quang” hay đồng ruộng của dân sẽ bị tiêu hủy [5].  (Họ, người Mĩ, xem ra còn có quan tâm đến sinh mạng và cuộc sống của người Việt hơn là ông Diệm).  Ông Averell và Hilsman còn lí giải rằng nếu Mĩ dùng hóa chất trong cuộc chiến, Việt Nam sẽ có lí do để tố cáo Mĩ là “đế quốc ngoại bang dã man” (“foreign imperialist barbarism”).  Nhưng chiến dịch vẫn được thi hành.
Hóa chất bắt đầu được vận chuyển đến Việt Nam trong thời gian từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1961.  Các hóa chất này được chứa trong các thùng phuy, với mã màu khác nhau: chất màu hồng (Agent Pink), chất màu xanh lá cây (Agent Green), màu tím (Agent Purple), màu da cam (Agent Orange), màu trắng (Agent White), và màu xanh da trời (Agent Blue).  Mỗi thùng phuy chứa khoảng 250 lít (tức 55 gallons).  Mỗi loại hóa chất màu có thành phần hóa học khác nhau, nhưng nói chung phần lớn chúng đều có thành phần 2,4,5-T, tức có chứa dioxin.  Dioxin, như đã và sẽ đề cập trong một phần sau, là một độc chất có khả năng gây ra ung thư và hàng loạt bệnh tật khác trên con người.  Vì thế, nói đến chất màu da cam, người ta thường hay đồng hóa với dioxin.
Chiến dịch xịt hóa chất xuống Việt Nam có tên là "Operation Trail Dust".  Trong chiến dịch này có nhiều chiến dịch và chương trình nhỏ.  Chiến dịch Ranch Hand (nằm trong chiến dịch Trail Dust) thực hiện khoảng 95% việc xịt hóa chất.  Khi đến Việt Nam, trên danh nghĩa, các hóa chất này thuộc quyền sở hữu của chính phủ miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.  Điều này có nghĩa là quân đội Nam Việt Nam trực tiếp quản lí và sử dụng các hóa chất này.  Trong chương trình có tên là “Farmgate” (do Bộ quốc phòng Mĩ điều khiển), máy bay mang nhãn hiệu Việt Nam, do phi công mặc đồ dân sự lái và với sự trợ giúp của một nhân viên người Việt, đã tiến hành những phi vụ tiêu hủy mùa vụ ở miền Nam và Trung Việt Nam.
            Trong chiến dịch Ranch Hand, có nhiều dự án với những mục tiêu cụ thể, chẳng hạn như xịt ở đâu, bao nhiêu, loại hóa chất nào, và do ai tiến hành.  Mỗi dự án đều có sự chấp thuận của hai bên, Mĩ và Nam Việt Nam
Như đề cập trên, cá nhân Tổng thống John F. Kennedy trực tiếp phê chuẩn chiến dịch xịt hóa chất, nhưng tất cả các mục tiêu, địa điểm xịt đều phải qua phê chuẩn của Văn phòng tổng thống (Oval Office).  Đến cuối năm 1962, vì bận nhiều việc khác, Tổng thống Kennedy ủy nhiệm một phần quyền hạn này cho đại sứ Mĩ tư lệnh quân đội tại Việt Nam (theo “Message, Department of State to AMEMBASSY Saigon, Joint State-Defense Message No. 561, ngày 30 tháng 11 năm 1962).
            Kể từ năm 1962, Lực lượng Không quân Mĩ đã bắt đầu rải hóa chất ở qui mô lớn trong các vùng đất thuộc miền Nam và Trung Việt Nam.  Phần lớn (90%) AO được rải xuống Việt Nam bằng máy bay loại C-123, và phần còn lại (10%) bằng trực thăng, xe vận tải, và đi bộ. 
Dư luận thế giới
Chiến dịch dùng hóa chất của Mĩ ở Việt Nam bị dư luận thế giới lên án gay gắt.  Hầu như tất cả báo chí Âu châu và ngay trong nước Mĩ, giới khoa học và trí thức thế giới cực lực phản đối hành động của Mĩ và đòi hỏi Chính phủ Mĩ phải ngưng ngay việc dùng hóa chất độc hại.  Bertrand Russell, một nhà toán học danh tiếng trên thế giới, tố cáo thẳng thắn rằng quân đội Mĩ đang tiến hành một cuộc chiến tranh hóa học ở Việt Nam, qua việc sử dụng hóa chất có khả năng gây ra ung thư trong con người.  Trong khi đó, một thượng nghị sĩ Mĩ, Robert W. Kastenmeier (Wisconsin), cảm thấy tình hình bất ổn, ông viết cho Tổng thống Kennedy chất vấn việc dùng hóa chất và đặt vấn đề chế độ Diệm có xứng đáng để Mĩ phải hi sinh nguyên tắc đạo đức hay không [6].
Tháng 1 năm 1966, Giáo sư John Edsall (Đại học Harvard) và một nhóm gồm 29 nhà khoa học ở Thành phố Boston viết một thư phản đối việc dùng hóa chất để tiêu hủy mùa vụ của nông dân.  Họ cho đó là một hành động vô nhân đạo và dã man [7].  Một năm sau, Cố vấn khoa học cho Tổng thống  nhận được một thư phản kháng từ 5.000 nhà khoa học trên thế giới, trong đó có 17 người từng đoạt giải Nobel và 129 thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Mĩ, yêu cầu Tổng thống Lyndon B. Johnson chấm dứt ngay hành động hủy diệt môi sinh tại Việt Nam [8]. 
            Năm 1967, Hiệp hội vì Phát triển Khoa học Mĩ (American Association for the Advancement of Science), với sự thúc đẩy của Giáo sư E. W. Pfeiffer (Đại học Montana), khuyến cáo Bộ quốc phòng Mĩ về hậu quả lâu dài cho người dân và môi sinh Việt Nam do chiến dịch Ranch Hand gây ra.  Bộ Quốc phòng ủy nhiệm cho Viện Nghiên cứu khoa học Trung Tây (Midwest Research Institute) nghiên cứu về ảnh hưởng của chất màu da cam ở Việt Nam.  Dựa vào các dữ kiện khoa học thời đó, Viện này kết luận rằng ảnh hưởng của chất màu da cam ở Việt Nam đến đất đai sẽ không lâu; họ cho rằng đất đai sẽ hồi phục sau một thời gian.  Nhưng họ cũng đề nghị cần phải nghiên cứu thêm về hậu quả của chất màu da cam đến sức khỏe con người [10].
            Đại sứ Ellsworth Bunker tại Sài Gòn lúc đó cũng tổng kết sự tiến triển của Chiến dịch Ranch Hand, và ông đánh giá rằng Chiến dịch đã thành công trên phương diện quân sự, nhưng những tàn phá môi trường, mùa vụ, và sự sống của người dân là một mối quan tâm [11].  Đại sứ Bunker cũng trình bày báo cáo lên ông Nguyễn Văn Thiệu, lúc đó là tổng thống Nam Việt Nam, và ông Thiệu cũng đồng ý với nhận định của ông Bunker, nhưng ông Thiệu đề nghị nên hạn chế việc dùng chất màu da cam trong tương lai hay chỉ dùng ở những nơi cần thiết. 
            Năm 1969, khi Richard Nixon lên cầm quyền, trong xu hướng giảm thiểu sự có mặt của quân đội Mĩ ở Việt Nam, Chiến dịch Ranch Hand cũng giảm đến 30%.  Đến cuối năm 1969, Chiến dịch này mất 11 trong số 25 máy bay [12]. 
Trong thời gian này, Thượng nghị viện Mĩ sắp phê chuẩn Nghị quyết của Liên hiệp quốc về việc cấm dùng các vũ khí hóa học và sinh học trong chiến tranh.  Nixon cũng muốn thông qua Nghị quyết này, nhưng lí luận rằng việc Mĩ dùng chất màu da cam ở Việt Nam không nằm trong Nghị quyết của Liên hiệp quốc.  Tuy nhiên, Hội đồng khoáng đại Liên hiệp quốc không chấp nhận lí luận của Nixon, và cho rằng Chiến dịch Ranch Hand của Mĩ, theo Nghị quyết, là bất hợp pháp [13].  Nhưng dù sao đi nữa, Nixon có thêm một lí do để chấm dứt chiến dịch Ranch Hand [14].
            Mùa Thu năm 1969, một nhóm khoa học gia công bố một nghiên cứu quan trọng cho thấy chất 2,4,5-T, một thành phần hóa học của chất màu da cam, ở nồng độ cao, có khả năng gây ra dị thai hay dị dạng bẩm sinh (birth defects) và chết thai trong bụng mẹ (stillbirth) [15].  Lúc đó, các bản tin tức từ báo chí Sài Gòn cũng cho biết chất màu da cam là nguyên nhân gây ra nhiều trường hợp dị dạng bẩm sinh trong người dân.  Ngày 15 tháng 4 năm 1970, sau khi nghiên cứu này được công bố, Bộ Y tế, Giáo dục và Xã hội, Bộ Nội vụ, và Bộ Nông nghiệp Mĩ ra lệnh ngưng ngay việc dùng chất màu da cam ở Mĩ.
Tháng 4 năm 1970, Bộ quốc phòng ra lệnh tạm thời đình chỉ Chiến dịch Ranch Hand.  Nhưng nhưng trên thực tế, các thuốc khai quang khác vẫn được tiếp tục rải xuống Việt Nam.  Đến tháng 7 năm 1971 thì chiến dịch hoàn toàn chấm dứt [16].  Theo báo cáo chính thức của Chiến dịch Ranch Hand, quân đội Mĩ đã thành công phá hủy khoảng 14% diện tích rừng nam Việt Nam, kể cả 50% các rừng đước.
Vài nhận xét
            Xét qua diễn biến Chiến dịch Ranch Hand và những hậu quả của nó, người ta có thể nói cuộc chiến Việt Nam đã được giới quân sự Mĩ biến thành một bãi thí nghiệm khổng lồ cho hóa chất độc hại.  Điều đáng nói ở đây là có dấu hiệu cho thấy họ biết những hóa chất này có khả năng gây ra tác hại cho sức khỏe của người dân.  Trong một lá thư gửi cho Thượng nghị sĩ Tom Daschle, đề ngày 9 tháng 9 năm 1998, Tiến sĩ James R. Clary, thuộc cơ quan nghiên cứu vũ khí hóa học (Chemical Weapons Branch) trực thuộc Trung tâm Phát triển Vũ trang không quân (Airforce Armament Development Laboratory, Florida), viết như sau [tạm dịch]: “Lúc chúng tôi (các nhà khoa học quân đội) khởi xướng chương trình khai hoang vào thập niên 1960, chúng tôi biết tiềm năng độc hại của chất dioxin chứa trong thuốc diệt cỏ.  Chúng tôi còn biết rằng công thức mà giới quân sự dùng có nồng độ cao hơn nồng độ mà giới dân sự dùng, vì chi phí rẻ và thời gian sản xuất ngắn.  Tuy nhiên, vì hóa chất sẽ được dùng trên kẻ thù, không ai trong chúng tôi quan tâm thái quá.  Chúng tôi không bao giờ nghĩ là quân đội chúng ta lại bị nhiễm độc chất.  Và, nếu chúng tôi nghĩ đến tình huống này, chúng tôi mong muốn chính phủ chúng ta giúp đỡ các cựu chiến binh bị nhiễm độc chất.” (“When we (military scientists) initiated the herbicide program in the 1960s, we were aware of the potential for damage due to dioxin contamination in the herbicide.  We were even aware that the military formulation had a higher dioxin concentration than the civilian version due to the lower cost and speed of manufacture.  However, because the material was to be used on the enemy, none of us were overly concerned.  We never considered a scenario in which our own personnel would become contaminated with the herbicide.  And, if we had, we would have expected our own government to give assistance to veterans so contaminated.”)  Tiết lộ trên cho thấy giới quân sự Mĩ đã biết trước các hóa chất trong cuộc chiến Việt Nam là độc hại, nhưng một cách kiêu ngạo, họ cho rằng vẫn có thể dùng trên “kẻ thù”. 
Cần phải nói thêm ở đây là không những chỉ dùng các phương tiện hóa học ở Việt Nam, Mĩ còn có dự định dùng vũ khí hạt nhân trong thời chiến.  Tài liệu của Viện nghiên cứu Nautilus (Nautilus Institute, Berkeley, California) vừa mới tiết lộ (2003) cho thấy vào năm 1966, trong lúc Mĩ đang leo thang chiến tranh ở Việt Nam, Nhà năm góc (Pentagon) đã từng suy nghĩ đến việc dùng vũ khí hạt nhân tấn công Việt Nam.  Ông Freeman Dyson, cựu giáo sư vật lí tại Đại học Princeton, từng nghe các giới chức Nhà năm góc nói đến việc dùng vũ khí hạt nhân để đối phương (tức Việt Nam) phỏng đoán [16].  Không phải là người hiếu chiến và muốn ngăn chận ý đồ điên rồ của giới quân sự, sau khi nghe tin này, ông Dyson và đồng nghiệp, Robert Gomer và S. Courtenay Wright (thuộc Đại học Chicago), và Steven Weinberg (Đại học Harvard), quyết định tiến hành một nghiên cứu về những hậu quả nếu Mĩ quyết định dùng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam.  Công trình nghiên cứu này ước đoán rằng Mĩ cần phải dùng đến 3000 vũ khí hạt nhân hàng năm để phá hủy hệ thống giao thông đường mòn Hồ Chí Minh.  Ngoài ra, nếu Mĩ quyết định như thế thì phía Việt Nam, dưới sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc, có thể dùng vũ khí hạt nhân để phản công và hậu quả sẽ khủng khiếp cho quân đội Mĩ hơn là cho quân đội Việt Nam.  Báo cáo của các nhà vật lí được đệ trình lên Bộ quốc phòng, nhưng không ai biết ảnh hưởng của báo cáo đến chính sách của Mĩ ra sao.  Lúc đó, Robert McNamara là Bộ trưởng quốc phòng, và ông đã từng phản đối ý nghĩ dùng vũ khí hạt nhân trong cuộc chiến. 
            Trong y học, một khi một công thức thuốc được phát triển, người ta phải làm thử nghiệm về sự an toàn của thuốc trên thú vật như chuột cực kì kĩ càng trước khi đem ra dùng cho bệnh nhân.  Ngay cả thử nghiệm trên chuột, các nhà khoa học phải được phép của hội đồng y đức trước khi để tiến hành nghiên cứu.  Trong khi đó, quyết định dùng chất màu da cam chứa dioxin trong chiến tranh Việt Nam chỉ do một người quyết định (Tổng thống Kennedy) và nhận được sự ủng hộ của ông Ngô Đình Diệm.  Người dân Việt Nam hoàn toàn không biết gì đến quyết định này.  Vì thế, có thể nói rằng quyết định dùng AO ở Việt Nam là một việc làm tàn nhẫn và vô nhân đạo.  Nó thể hiện một thái độ ngạo mạn của người Mĩ coi thường mạng sống con người Việt Nam và môi trường Việt Nam.  Nhận xét đó đã được giới khoa bảng Mĩ nêu lên từ năm 1966, họ cho đó là một hành động dã man, chỉ có hại cho người lính và thường dân. 
Hiện nay, trong khi Mĩ tìm cách ngăn chận các nước khác dùng hóa chất trong chiến tranh, thì chính Mĩ lại là nước dùng những độc chất đó vào những mục tiêu phá hoại và giết người.  Lịch sử sẽ ghi nhận việc Mĩ dùng chất màu da cam và dioxin ở Việt Nam (và nhiều hóa chất độc hại khác ở vùng Vịnh, Balkans và A Phú Hãn) như là những cuộc chiến tranh hóa học đầu tiên trong lịch sử chiến tranh thế giới.

Tài liệu tham khảo và chú thích:
[1]  Royal Air Force, the Malayan Emergency, 1948-1960.  London: Ministry of Defence, June 1970, pp 113-114, 152.  Trích theo tài liệu của Tiến sĩ William A. Buckingham, Jnr “Operation Ranch Hand: Herbicides in Southeast Asia 1961-1971.”
[2]  Report, Wright Air Development Center, Wright-Patterson Air Force Base, Ohio, subject: “Engineering Study on a Large Capacity Spray System Installation for Aircraft, June 3, 1951”.
[3]  NSAM 115, subject: Defoliant Operations in Vietnam, November 30, 1961; và Message, Department of State to American Embassy in Saigon, Joint State – Defense Message Number 561, November 30, 1962.
[4]  Record, 4th SECDEF Conference, HQ CINCPAC, March 21, 1962.
[5]  Letter, W. Averell Harriman to Roswell L. Gilpatric, September 6, 1961; và Letter, Roger Hilsman to W. Averell Harriman, subject: Crop Destruction, South Vietnam, August 8, 1962.
[6]  Letter, Robert W. Kastenmeier to President John F. Kennedy, March 7, 1963.
[7]  “Scientists protest Viet Crop Destruction”, Science, 21/1/1966, trang 309.
[8]  “5000 Scientists Ask Ban on gas in Vietnam”, Washington Post, 15/2/1967, trang A-1.
[9]   Minutes of the Meeting of the AAAS Council, Washington, DC, 30/12/1966, trang 9, Letter, Don K. Price to Secretary McNamara, 13/9/1967.
[10]  Báo cáo “Assessment of Ecological Effects of Extensive or Repeated Use of Herbicides”, Midwest Research Institute, ARPA, 22, Order No. 1086, AD824314, 1/12/1967, trang 290-292.
[11]  Báo cáo American Embassy Saigon to Secretary of State, Subject: Herbicides, 191300Z Sep 68.
[12]  History, 12th SOS, October – December 1969, trang 4, 5, 7, 10.
[13]  “UN Rebuffs United States on Tear Gas Use: Vote Declares Geneva Pact Also Bans Defoliants”, New York Times, 11/12/1969.
[14]  Memo, William P. Rogers to Richard M. Nixon, subject: The Geneva Protocol, 2/2/1971.
[15]  K. Diane Courtney, D. W. Gaylor, M. D. Hogan, H. L. Falk, R. R. Bates, I. Mitchell.  Teratogenic Evaluation of 2,4,5-T.  Science 1970; 168:864-866, 15/5/1970.
[16]  Project CHECO Southeast Asia Report, Ranch Hand Hercide Operations in SEA, 13/7/1971, trang 32, 104.
[17]  Nguyên văn: “It might be a good idea to toss a nuke from time to time, just to keep the other side guessing”).  Freeman Dyson interview, January 8, 2003 (www.nautilus.org/VietnamFOIA/report/JASONs.html).

Một vài tài liệu tuyên truyền trong chiến dịch xịt chất da cam trong thời chiến




 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét