Thứ Năm, 17 tháng 7, 2014

SỰ TIẾP NỐI TƯ TƯỞNG TRÊN ĐẤT NGHỆ TĨNH TỪ PHAN ĐÌNH PHÙNG QUA PHAN BỘI CHÂU TỚI HỒ CHÍ MINH

SỰ TIẾP NỐI TƯ TƯỞNG TRÊN ĐẤT NGHỆ TĨNH TỪ PHAN ĐÌNH PHÙNG QUA PHAN BỘI CHÂU TỚI HỒ CHÍ MINH 

PGS. TS. Phạm Xanh


Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng đánh Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam. Sau một thời gian ngắn cùng với nhân dân tổ chức kháng chiến chống xâm lăng, triều đình Huế, vì quyền lợi ích kỷ của mình, đã trượt dài trên con đường phản bội lợi ích dân tộc: năm 1862 ký hàng ước dâng ba tỉnh miền Đông, năm 1874 dâng nốt ba tỉnh miền Tây và cuối cùng năm 1884 ký hàng ước công nhận sự thống trị của thực dân Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam và trở thành chính quyền bù nhìn của chúng. Ngược với chính sách thoả hiệp và đầu hàng của triều đình nhà Nguyễn, nhân dân ta đã kiên quyết đứng lên chống thực dân Pháp để bảo vệ nền độc lập dân tộc và nền văn hiến của mình. Trên đất nước này, tiếng súng chống ngoại xâm không bao giờ ngừng nghỉ. Truyền thống yêu nước của dân tộc đã hun đúc, nhen nhóm và thổi bùng các phong trào chống Pháp của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Nếu lập một danh sách những người chống lại sự hiện diện của người Pháp thì “bản danh sách đó cũng dài bằng danh sách của tất cả những người đã chống lại sự đô hộ của Trung Hoa trong 20 thế kỷ qua”[1]. Từ sau năm 1884 phong trào chống thực dân Pháp đã bắt đầu chuyển đoạn. Nếu như trước đó các cuộc kháng chiến mang tính chất bảo vệ Tổ quốc, thì sau đó các phong trào chống Pháp đã chuyển sang phạm trù giải phóng dân tộc. Trên quy mô cả nước, sự vận động của các phong trào được diễn ra trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước theo chiều hướng đi lên. Đó cũng là sự vận động của các hệ tư tưởng trước vận mệnh lịch sử của đất nước. Lịch sử Việt Nam trong những năm 1884 -1945 đã từng chứng kiến sự bất lực trước nhiệm vụ cứu nước của hệ tư tưởng phong kiến, hệ tư tưởng tư sản và sự thắng lợi của hệ tư tưởng cộng sản. Như một hình ảnh thu nhỏ của phong trào cách mạng cả nước, Nghệ Tĩnh đã phản ánh đầy đủ và rõ nét sự tiếp nối không đứt đoạn tư tưởng trong việc tìm kiếm những con đường cứu nước. Nét đặc sắc và độc đáo đó của Nghệ Tĩnh lại được thể hiện cụ thể và sinh động qua sự nghiệp của ba người con ưu tú của quê hương, đó là Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh.
Phan Đình Phùng (1847-1895), người làng Đông Thái, huyện La Sơn, nay là xã Châu Phong, huyện Đức Thọ, tĩnh Hà Tĩnh. Ông đậu cử nhân năm 1876, đậu tiến sĩ năm 1877. Trước khi trở thành lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Hương Khê, ông đã làm Tri huyện Yên Khánh, Ninh Bình, rồi làm ngự sử trong Viện Đô sát triều đình Huế. Như vậy, Phan Đình Phùng chẳng những được đào tạo và thấm nhuần giáo lý Khổng, Mạnh, mà đã dấn thân vào chốn quan trường. Tấm bằng tiến sĩ và những năm tham chính của ông, trên một ý nghĩa nào đó, khẳng định ý thức tư tưởng của ông không đi chệch dòng chính thống đó. Thế nhưng, trong lời nói và hành động của ông, đây đó, đã thấy xuất hiện những nét mới không giống đại bộ phận nho sĩ đương thời.
Thời mà ông đang sống, từ vua đến quan, từ quan đến dân, đều cho rằng Thiên chúa giáo là tà đạo, những người theo tôn giáo này đều là tay sai của thực dân Pháp. Quan niệm không đúng đó một thời đã dẫn đến những thảm kịch lương - giáo. Khác với những quan niệm phổ biến nhưng sai lầm đó, Phan Đình Phùng đã có những ý nghĩ thoáng hơn, đúng đắn hơn về Thiên chúa giáo. Ông thường nói với những người tâm phúc: “Đạo Thiên chúa lấy Gia tô làm trời, cũng như Thích ca mâu ni là trời của đạo Phật hay là Khổng phu tử là trời của nhà Nho. Hễ ai tín ngưỡng điều gì, thì điều ấy là trời của mình. Mình muốn người ta đừng xâm phạm đến sự tín ngưỡng của mình thì mình đừng xâm phạm đến tín ngưỡng của người ta. Thiên chúa cũng là một thứ tôn giáo, mặc ai tin thì theo”[2]. Cùng với sự thẳng thắn, cương trực trong tính cách của ông và truyền thống phản kháng của quê hương, tầm nhìn thoáng đạt ấy dần dà giúp ông có được những chuyển biến mạnh mẽ trong quan niệm của ông về hai phạm trù đạo đức học nho giáo cơ bản - Trung, Hiếu.
Năm 1862, khi được tin triều đình ký hoà ước cắt ba tỉnh miền Đông Nam Bộ cho Pháp, nho sĩ Nghệ Tĩnh do Phan Huân đứng đầu dâng sớ bày tỏ một tâm trạng, một ý thức trái hẳn với truyền thống “Thiên hạ là của thiên hạ, thiên hạ không phải của bệ hạ mà chuyên giữ lấy một mình”. Tiếp đó là phong trào chống hòa ước Giáp Tuất lan rộng trong nhân dân “Làm vua ra rồi, một lòng bán nước; khi đang đánh được, không đánh gấp cho” và đạt tới đỉnh điểm trong cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn, Đặng Như Mai xem triều đình và thực dân Pháp đều là kẻ thù của dân tộc, phải quyết đánh:
“Dập dìu trống đánh cờ xiêu
Phen này quyết đánh cả triều lẫn Tây”.
Truyền thống bất khuất của quê hương đã giúp Phan Đình Phùng xác định được chỗ đứng của mình trong cuộc chiến đấu cho độc lập dân tộc - kiên quyết đứng về phía phe chủ chiến. Bỏ qua sự xung đột cá nhân giữa ông và Tôn Thất Thuyết, cuối năm 1885 ông lên sơn phòng Hà Tĩnh yết kiến vua Hàm Nghi và được phong làm Tán lý quân vụ, thống lĩnh các đạo nghĩa binh, nhận chiếu Cần vương về quê nhà tổ chức khởi nghĩa. Cụôc khởi nghĩa Hương Khê do ông lãnh đạo đã trở thành cuộc khởi nghĩa điển hình nhất trong phong trào Cần vương cuối thế kỷ XIX về thời gian, quy mô và tổ chức chiến đấu. ở thời kỳ đầu, Phan Đình Phùng đã vượt qua một thử thách ghê gớm trước những mưu mô độc ác của kẻ thù. ấy là lúc người anh của ông là Phan Đình Thông bị bắt, kẻ thù cho Lê Kính Hạp, bạn thân của ông, lấy việc hiếu đễ, tình cốt nhục viết thư dụ ông ra hàng: “Ngày nay trong họ hàng, làng xóm được an hay nguy chỉ can hệ ở nơi bác, tính mạng ông anh bác mất hay còn, cũng chỉ can hệ ở nơi bác…”. Kẻ thù đã đặt Phan Đình Phùng vào sự lựa chọn một trong hai giải pháp: buông súng đầu hàng để họ hàng làng xóm, mồ mả tổ tiên được bình yên, người anh thoát nạn hoặc tiếp tục chiến đấu thì mọi thứ đó sẽ mất. Tiến sĩ Phan Đình Phùng ung dung, thanh thản chọn cho mình giải pháp thứ hai, đặt vận mệnh đất nước, đặt tư tưởng trung với vua lên trên họ hàng làng xóm, chấp nhận sự hy sinh riêng tư: “Nay tôi chỉ có một ngôi mộ rất to, nên giữ, đó là đất Việt Nam; tôi chỉ có một ông anh rất to, đang bị nguy vong, là cả mấy mươi triệu đồng bào. Nếu về sửa sang phần mộ của mình thì ngôi mộ cả nước kia ai giữ? Về để cứu vớt ông anh của mình thì bao nhiêu anh em trong nước ai cứu? Tôi bây giờ chỉ có một cái chết mà thôi…”[3]. Trước hành động chối bỏ đó, kẻ thù đã thực thi hành động tàn bạo: đào mồ mả tổ tiên và hãm hại người anh của ông. Phan Đình Phùng vẫn không nao núng, kiên quyết chiến đấu đến cùng dưới ngọn cờ Cần vương. Năm 1888 khi vua Hàm Nghi bị bắt, một lần nữa Phan Đình Phùng trải qua một thử thách ghê gớm đối với một nhà nho: tiếp tục chiến đấu khi không còn vua hay lấy cái chết của mình làm rạng danh sự trung thành của bề tôi đối với đức vua cao cả. Nếu như ở giai đoạn trước trong quan niệm chữ Trung của Phan, vua gắn với nước thì đến đây đã có sự chuyển biến căn bản – nước đã được đặt lên trên vua. Ông đã chọn con đường tiếp tục chiến đấu. Đó cũng chính là thời điểm mở đầu giai đoạn hai của phong trào Cần vương và của cuộc khởi nghĩa Hương Khê của ông. Trong chiến dịch đánh thành Vinh năm 1893, Cao Thắng, vị chỉ huy của nghĩa quân, cánh tay phải của Phan Đình Phùng, bị trúng đạn tử trận trong trận tấn công vào đồn Nu. Kế hoạch lớn không thực hiện được. Vào chính thời điểm đó thực dân Pháp lệnh cho Hoàng Cao Khải, người cùng làng với ông, viết thư dụ hàng. Ông đã đáp lại bằng một bức thư đanh thép nói rõ ý chí bất khuất của mình, vạch mặt những kẻ như Khải mượn chữ “Trung” làm những điều bất nhân tàn bạo: “... Đến nay người Pháp với mình, xa cách nhau không biết là mấy muôn dặm, họ vượt bể tới đây, đi tới đâu như là gió lướt tới đó, đến nỗi nhà vua phải chạy, cả nước lao xao, bỗng chốc non sông nước mình biến thành bờ cõi người ta, thế là trọn cả nước nhà, dân nhà cũng bị đắm chìm hết thảy, có phải riêng một châu nào hay một nhà ai phải chịu cảnh lầm than mà thôi đâu… Chỉ vì nhân tâm đối với tôi như thế cho nên cảnh nhà tôi hương khói vắng tanh, bà con xiêu bạt, tôi cũng chẳng dám đoái hoài. Nghĩ xem, kẻ thân với mình mà mình không thèm đoái hoài huống chi là kẻ sơ; người gần với mình mà mình không bao bọc nổi, huống chi người xa. Vả chăng, hạt ta đến nỗi điêu đứng lầm than quá, không phải chỉ riêng vì tai hoạ binh đao làm nên nông nỗi thế đâu. Phải biết quân Pháp đi tới đâu có lũ tiểu nhân mình túa ra bày kế lập công, thù vơ oán chạ; những người không có tội gì chúng cũng đâm thọc buộc ràng cho người ta là có tội”[4].
Với quyết tâm đó, Phan Đình Phùng đã lãnh đạo nghĩa quân chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do ông lãnh đạo cũng chính là sự cáo chung của hệ tư tưởng phong kiến bất lực trước nhiệm vụ lịch sử của đất nước. Dẫu ông có kiên tâm tới đâu đi nữa, ngọn cờ Cần vương đã rách tả tơi không còn đủ sức tập hợp dân chúng cho sự nghiệp cao cả của mình. Và sự thất bại của Phan Đình Phùng cũng là điều dễ hiểu. Nhưng những sự chuyển biến tích cực trong tư tưởng của ông là sự khởi đầu và sẽ được tiếp nối kỳ diệu trong tư tưởng của Phan Bội Châu.
Sau khi dập tắt phong trào Cần vương, thực dân Pháp vội vã bắt tay khai thác thuộc địa. Dưới tác động của chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất, hình hài của một nền sản xuất mới, của một xã hội mới, dù là thuộc địa, nhưng đã khác xa với xã hội truyền thống, đang hình thành. Những đoạn đường sắt cùng với những chiếc cầu hiện đại và đường giây điện thoại, điện tín (Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội – Hải Phòng, Sài Gòn - Mỹ Tho, Sài Gòn - Nha Trang) trong hệ thống đường sắt đã được đưa vào khai thác, những thành phố kiểu phương Tây (Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng) đang được xây dựng. Hầu như cùng thời với những kết quả bước đầu của chương trình khai thác thuộc địa, luồng gió Tân văn, Tân thư từ Trung Quốc, Nhật Bản tràn tới. Trong không gian lịch sử hồi đầu thế kỷ XX ấy, khi mà giai cấp phong kiến đã suy tàn, giai cấp công nhân trên đường phát sinh, phát triển chưa đạt tới độ trưởng thành để đảm đương sứ mệnh lịch sử, giai cấp tư sản dân tộc đang manh nha. Vì vậy, cuộc cách mạng dân chủ tư sản nếu được tiến hành ở Việt Nam lúc này thì chưa có bệ đỡ xã hội cần thiết cho nó. Trong bối cảnh đó, những nhà nho yêu nước thức thời đứng ra đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử, đưa dân tộc bước vào thời kỳ lịch sử cùng với các dân tộc châu á - thời kỳ phương Đông thức tỉnh và khởi xướng phong trào cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Trên bầu trời sao Việt Nam thời đó ngôi sao chói sáng nhất là Phan Bội Châu.
Phan Bội Châu (1867-1940), người làng Đan Nhiệm, nay là xã Nam Hoa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Sau khi đậu giải nguyên năm 1900, Phan Bội Châu dấn thân vào con đường cách mạng theo cách đi riêng của mình, vừa kế thừa những di sản của các bậc tiền bối như Phan Đình Phùng, nhưng đồng thời cũng sáng tạo ra những cách thức mới đáp ứng đòi hỏi của thời đại. Từ tấm lòng yêu nước nồng đượm, từ truyền thống đánh giặc của quê hương, của đất nước ông đã chọn cho mình một phương pháp cách mạng duy nhất đúng - suốt đời theo đuổi vũ trang bạo động, không hề có ảo tưởng ở quân cướp nước và bè lũ bán nước. Trong cuộc bút đàm với Lương Khải Siêu trên đất Nhật, Phan Bội Châu đã bộc bạch: “Quyền giáo dục ở nước tôi hoàn toàn ở trong tay giặc Pháp... bây giờ chúng tôi tìm đường sống ở trong muôn vàn cái chết, chỉ nghĩ có bạo động mà thôi: bạo động tức là làm môi giới cho sự cải lương giáo dục”[5].
Lòng yêu nước và chí kiên trì bạo động đã giúp Phan Bội Châu tìm ra những phương thức hoạt động mới mẻ trước đó chưa bao giờ có. Đó là việc lập ra một tổ chức chính trị cố kết những người đồng tâm, đồng chí trong đó để đối đầu với bộ máy thống trị ngoại bang trong nước và những người đồng bệnh ở nước ngoài. Đó là việc sử dụng các phương tiện tuyên truyên để thức tỉnh hồn nước, hướng đồng bào tới mục đích tối thượng là đánh giặc cứu nước. Văn thơ Phan Bội Châu một thời làm say mê đồng bào, làm thức dậy những tấm lòng vì đại nghĩa, hướng tuổi trẻ Việt Nam đi vào cuộc chiến đấu sống mái với quân thù, mở ra một phong trào Đông du rầm rộ trong lịch sử nước nhà.
Cũng từ chủ nghĩa yêu nước và chí kiên trì vũ trang bạo động, Phan Bội Châu chủ trương đoàn kết mọi người. Chủ trương của ông đã làm sống lại tinh thần “vua tôi đồng lòng, trăm người một bụng” trong những trang sử chống ngoại xâm đẹp nhất của Việt Nam. Phan không chỉ nhìn ra sức mạnh đoàn kết toàn dân, mà còn ra công xây đắp khối đoàn kết ấy thành thứ vũ khí vô địch. Trong Tân Việt Nam, ông đã nhấn mạnh: “Nếu sức một người không đủ thì hiệp sức mười người lại, sức mười người không đủ thì hợp sức trăm, ngàn, vạn người mà làm cho ra. Lòng cả nước đều anh hùng, thì người Pháp một ngày không thể yên được”. Trên phương diện đoàn kết dân tộc, có lẽ Phan Bội Châu, người Việt Nam đầu tiên có những ý tưởng mới mẻ, đặt việc cứu nước là “trách nhiệm của quốc dân”, là “trách nhiệm của hàng triệu người”, “không phải một tay một chân mà làm nên, mà phải do tâm huyết của hàng vạn người anh hùng vô danh”. Cái mới mẻ trong tư tưởng đoàn kết của ông không chỉ ở 10 hạng người đồng tâm hiệp lực, mà còn ở chỗ lần đầu tiên ông đề cập vai trò của phụ nữ, của binh lính người Việt trong quân đội Pháp và hô hào đoàn kết lương-giáo trên lập trường cứu nước, trên nguyên tắc tự do tín ngưỡng. Đến năm 1908, trong Việt Nam quốc sử khảo, Phan Bội Châu liệt kê thêm một đối tượng nữa - các dân tộc thiểu số, vào danh sách các lực lượng chống Pháp.
Trong Tân Việt Nam, Phan Bội Châu sau khi nói những lời thật hay về vai trò, vị trí của phụ nữ trong xã hội, đã đi tới một nhận định táo bạo: “Trong nước nếu không có phụ nữ yêu nước thì nước ấy sẽ phải làm đầy tớ cho người ta mà thôi”. Những nhận thức, những quan điểm về phụ nữ của Phan thực sự mới mẻ và cách mạng, có sức cuốn hút mọi lực lượng cách mạng vào con đường đấu tranh cho tự do, độc lập của dân tộc.
Một điểm đặc sắc mang tính chất đổi mới trong nhận thức của Phan Bội Châu là sự quan tâm tới việc vận động giáo dân, xây dựng khối đoàn kết lương - giáo. Trong con mắt của ông, ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp không từ một tôn giáo nào. Vì thế, đối với ông, đồng bào công giáo “đều là anh ta cả, đều là em ta cả... Mấy mươi năm nay người Pháp nghiêm hình trọng phạt, có một thứ nào rộng rãi cho người theo đạo Gia tô đâu: tiền sưu tiền thuế thu nhiều không bớt một đồng nào cho người Gia tô”[6]. Bởi lẽ đó, giáo cũng như lương ai cũng có lòng yêu nước. Từ đó, ông đi tới một nhận thức đúng đắn là giáo dân nào “không chịu đi giúp người Pháp để làm hại nước Việt Nam… mới là dân của đạo Thiên chúa cứu thế, mới là dân đồng bào nước Việt Nam” và “nếu ai nhẫn tâm nhìn người Pháp làm hại người Việt, tức là không phải dân Thiên chúa giáo, tức là trong đạo Thiên chúa cứu thế không có thứ đạo lý ấy, trong đồng bào nước Việt Nam không có cái giống người ấy”2. Cách nhìn nhận của Phan Bội Châu cho phép san bằng hố ngăn cách giữa lương và giáo mà thái độ thù địch đã tạo ra hàng trăm năm nay và đã từng bị bọn thống trị lợi dụng. Vì thế, ông mới có thể thu hút sức người, sức của của giáo dân cho sự nghiệp của mình. Trong phong trào Đông du, nhiều giáo dân, tiêu biểu là Mai Lão Bạng, một con chiên ngoan đạo, đã trở thành một trợ thủ đắc lực của ông.
Cũng nhờ vào tấm lòng yêu nước chân thành, Phan Bội Châu đã chuyển từ yêu đất nước mình đến thông cảm với những đất nước cùng cảnh ngộ, do đó từ đoàn kết dân tộc đi tới “liên kết với những người đồng bệnh với ta”.
Và cuối cùng, Phan Bội Châu đã hoan hô Cách mạng tháng Mười Nga và Liên bang Xô viết, bởi lẽ đất nước ấy có thể giúp đỡ các dân tộc bị áp bức đánh đổ đế quốc thực dân, giành độc lập. Đó chính là những tư tưởng thực sự mới mẻ mà chỉ có nhãn quan cách mạng, tầm nhìn như ông mới có được.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi ngót 30 năm, Phan Bội Châu với chí hướng ấy, tư tưởng ấy, đức độ ấy sao phải trải qua nhiều thất bại đắng cay như chính ông đã bộc bạch: lịch sử của đời ông là “lịch sử hoàn toàn thất bại”? Thời đại đã tạo ra người anh hùng Phan Bội Châu, nhưng chính thời đại lại chưa tạo ra những điều kiện cần thiết cho người anh hùng thỏa chí tung hoành. Thời đại chưa sẵn sàng và Phan Bội Châu đã chín sớm. Hạn chế lịch sử đó thế hệ cách mạng như Phan Bội Châu không thể vượt qua. Và hạn chế lịch sử đó, nói như F. Anghen, hãy để cho thế hệ con cháu tìm kiếm và giải mã. Đúng như vậy. Không ở đâu, mà ngay trên mảnh đất Nghệ Tĩnh, đã xuất hiện con người đó, Hồ Chí Minh, về thế hệ, thuộc hàng con cháu Phan Bội Châu.
Hồ Chí Minh (1890-1969), người làng Kim Liên, nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Quê hương, gia đình và sự nhập cuộc sớm của bản thân đã làm nảy sinh trong Người lòng yêu nước thương dân tha thiết. Với tấm lòng ấy, Người đã trăn trở với biết bao câu hỏi lớn về thời cuộc, về vận mệnh của đất nước: Tại sao các phong trào chống Pháp phải chịu thất bại, chân lý ở đâu và tìm đâu ra chân lý để cứu dân cứu nước? Người đã lục tìm trong lịch sử, đặc biệt trong phong trào chống Pháp đương thời, những cứ liệu cho dự cảm của mình. Kính trọng các bậc anh hùng tiền bối như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám, v.v. nhưng Người không bằng lòng với đường đi nước bước của những người đi trước. Sau nhiều trăn trở, ngày 5-6-1911 với chân phụ bếp trên chiếc tàu Đô đốc Latouche Tréville của Hãng vận tải Hợp nhất, Người rời cảng Nhà Rồng đi Pháp tìm đường cứu nước. Hành trang của Người không có gì, ngoài tấm lòng yêu nước và đôi bàn tay lao động với quyết tâm tìm ra chân lý trở về giúp đồng bào. Từ năm 1911 đến trước khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, Hồ Chí Minh đã tận dụng mọi cơ hội để có thể đến được nhiều nơi trên thế giới, qua đó mà xem xét, khảo nghiệm nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống phức tạp, đa dạng của nhân loại. Với những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm đó chủ nghĩa yêu nước ở Hồ Chí Minh có những chuyển biến mới. Sự đồng cảm với đồng bào mình được nâng lên thành sự đồng cảm với những dân tộc cùng cảnh ngộ. Qua đó, sự nhận diện kẻ thù cũng trở nên sâu sắc hơn, sinh động hơn và khái quát hơn. Trong suy nghĩ của Người, nhân loại “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”. Cuối năm 1917 Người trở lại Pháp, chọn Pari làm địa bàn hoạt động. Bằng những hoạt động sôi nổi trong Việt kiều, trong Đảng Xã hội Pháp, trong phong trào công nhân Pháp, Hồ Chí Minh nhanh chóng nắm bắt được thời cuộc và nhịp thở của thời đại làm nền tảng cho sự lựa chọn những giá trị cho bản thân và cho dân tộc. Người đã đọc Sơ thảo Luận cương các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin và qua lăng kính chủ nghĩa yêu nước chân chính Người đã tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước khỏi ách thực dân. Từ bước chuyển biến tư tưởng quan trọng đó Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và thành lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đai hội Tua tháng 12-1920. Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc mình, Hồ Chí Minh đã xúc tiến hoạt động lý luận và thực tiễn nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước. Việc truyền bá tư tưởng cứu nước mới của Người là một quá trình liên tục, không đứt đoạn, từ thấp đến cao, có chủ đích, trên bốn địa bàn khác nhau: Pari (1921-1923), Mátxcơva (1923-1924), Quảng Châu (1924-1927), vùng Đông Bắc Xiêm (1928-1929). Ở mỗi địa bàn, tuỳ vào điều kiện lịch sử của nó, Người đã sử dụng những phương tiện truyền bá khác nhau nhằm đạt được mục đích nhất định. Trong bốn địa bàn đó quan trọng nhất là Quảng Châu, nơi có những điều kiện thuận lợi cho Hồ Chí Minh triển khai những hoạt động cách mạng của mình và đã đạt hiệu quả công tác lớn nhất. Tại đây, Người đã thừa hưởng nhiều công việc, nhiều kinh nghiệm mà Phan Bội Châu để lại. Đó là một đội ngũ những thanh niên yêu nước, có tri thức, hăng hái, dám xả thân vì đại nghĩa, theo tiếng gọi của Phan Bội Châu xuất dương sang sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Đó là hệ thống giao thông liên lạc với trong nước đã được xác lập thời Phan Bội Châu. Vì thế, trong một thời gian ngắn tới Quảng Châu, Người đã thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, một tổ chức chính trị theo khuynh hướng mácxit đầu tiên ở Việt Nam mà lớp hội viên đầu đều đã từng hoạt động dưới ảnh hưởng của Phan Bội Châu, xuất bản các phương tiện tuyên truyền như báo Thanh niên, Lính kách mệnh, Báo Công nông, cuốn sách Đường kách mệnh, tổ chức các lớp huấn luyện chính trị đào tạo những người tuyên truyền, những người tổ chức. Bằng những hoạt động tích cực đó, tổ chức cách mạng do Người sáng lập, đã xây dựng cơ sở khắp ba miền đất nước, truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác-Lênin trong quần chúng lao động để đến cuối năm 1929 đầu năm 1930 lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản. Ngày 3-2-1930 Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị hợp nhất thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước từ cuối thế kỷ XIX đã được giải quyết.
Những năm tháng hoạt động ở nước ngoài Hồ Chí Minh luôn luôn nghĩ về Tổ quốc. Trong một lá thư gửi lại cho những người bạn chiến đấu trước khi rời Pari, Người đã bộc bạch: “Chúng ta phải làm gì? Chúng ta không thể đặt vấn đề ấy một cách máy móc. Điều đó tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi dân tộc chúng ta. Đối với tôi câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Từ khát vọng đến hiện thực là cả một khoảng cách rất dài. Hồi ở Pháp, trong lá thư gửi Nguyễn Ái Quốc ngày 18-2-1922, Phan Chu Trinh không tán thành phương pháp mà ông gọi là “Ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội” của Nguyễn Ái Quốc và đã khuyên Người: “trở về ẩn náu trong thôn dã, hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công!”. Mặc dù rất kính trọng cụ Phan, bậc cha chú, nhưng Người đã không làm theo lời khuyên đó. Trở về, tức là tự nộp mình cho thực dân Pháp và bọn tay sai, phải “đãi thời” mới có thể “đột nội” được. Ở Nguyễn Ái Quốc, đợi thời đột nội đã là một khắc khoải cho nên Người chăm chú theo dõi những biến cố lịch sử trong và ngoài nước làm xuất hiện dấu hiệu thời cơ trở về nước. Thời cơ đột nội của Người chỉ xuất hiện sau tháng 10-1940, khi nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, Đông Dương lọt vào tay quân phiệt Nhật. Chớp lấy cơ hội đó, tháng 1-1941 Người quyết định trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Tháng 5-1941 tại Pắc Bó, Cao Bằng, Người chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8, hoàn thiện sự chuyển hướng chiến lược cách mạng Việt Nam - đặt vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc lên trên hết và trước hết. Nhằm mục đích tối cao ấy, Người quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp hết tháy những người Việt Nam yêu nước, không phân biệt đảng phái chính trị, giai cấp, tôn giáo, nam nữ, nghề nghiệp. Mặt trận Việt Minh với chương trình cứu nước đầy thuyết phục xuất hiện như một lực lượng trong phe dân chủ, trong phe Đồng minh chống phát xít. Đó là lúc mà nhân dân Việt Nam góp một phần xương máu của mình cùng với nhân loại tiến bộ và yêu chuộng hoà bình trên thế giới tiêu diệt chủ nghĩa phát xít và giành lại nền độc lập trong Cách mạng tháng Tám 1945 ở một nước thuộc địa. Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời. Đất nước bị nô dịch đã trở thành nước độc lập, nhân dân bị tước đoạt trở thành người tự do, người chủ thực sự của đất nước mình. Bản đồ chính trị thế giới năm 1945 có sự thay đổi lớn lao: ở châu Âu một loạt nước được giải phóng khỏi ách phát xít, xây dựng chính quyền dân chủ; ở châu á, Việt Nam, Inđônêxia giành được độc lập và phát triển đất nước theo con đường riêng của mình.
Trong lá thư viết dưới ánh đèn dầu ngày 14-2-1925 gửi Lý Thuỵ (Nguyễn ái Quốc), Phan Bội Châu đã viết những dòng tâm sự trộn lẫn quá khứ, hiện tại và tương lai với một người cháu đồng hương nơi xứ người:
“Nhớ lại hai mươi năm trước đây, khi đến nhà cháu uống rượu gõ án ngâm thơ, anh em cháu thảy đều chửa thành niên, lúc đó Phan Bội Châu này đâu có ngờ rằng sau này cháu sẽ trở thành một tiểu anh hùng như thế này. Bây giờ đem kẻ già này so với cháu bác thấy rất xấu hổ. Nhận được liên tiếp hai lá thư của cháu, bác cảm thấy vừa buồn vừa mừng. Buồn là buồn cho thân bác, mà mừng là mừng cho đất nước ta. Việc thừa kế nay đã có người, người đi sau giỏi hơn kẻ đi trước, trên tiền đồ đen tối sẽ xuất hiện ánh sáng ban mai. Ngày xế đường cùng, chỉ sợ không thấy được ngày đó, làm sao bác không cảm thấy buồn cho chính mình được? Một đời tận khổ, gánh vác công chuyện một mình, được sức lớn của cháu giúp vào thì ắt sẽ có nhiều người hưởng ứng theo. Việc gây dựng lại giang sơn, ngoài cháu có ai để nhờ uỷ thác trách nhiệm thay mình. Có được niềm an ủi lớn lao như thế, làm sao bác không cản thấy vui mừng được?”[7].
Những điều mà hai người bác-Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu - kỳ vọng ở người cháu Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đều đã được thực hiện trọn vẹn, hoàn hảo. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chí Minh, đất nước đã thoát khỏi ách phát xít Nhật và trở thành quốc gia độc lập từ năm 1945, rồi đánh Pháp, đuổi Mỹ, thu giang sơn về trong một mối. Và dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh đất nước ta đang lập nhiều kỳ tích trong thời kỳ đổi mới và sớm trở thành một nước giàu mạnh trên trái đất này.
* **
Lịch sử thế giới và lịch sử mỗi nước ẩn chứa bên trong những chuỗi dài bất tận các sự kiện tất yếu và ngẫu nhiên. Lịch sử nước ta cũng không ngoại lệ. Nhìn thoáng qua, sự xuất hiện ba nhân vật Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh tiếp nối và phát triển tư tưởng giải phóng dân tộc trên cùng mảnh đất Nghệ Tĩnh tưởng là một hiện tượng ngẫu nhiên. Nhưng suy cho cùng, xét cho kỹ thì đó là hiện tượng tất yếu. Mảnh đất Nghệ Tĩnh với những điều kiện tự nhiên, địa - văn hoá, địa - lịch sử đã chuẩn bị sẵn những điều kiện thuận lợi cho sự xuất hiện đó.
Tài liệu tham khảo
1]. J. Xanhtơni, Đối diện với Hồ Chí Minh.
[2]. Đào Trinh Nhất: Phan Đình Phùng, Tân Việt xuất bản, 1957, tr.20.
[3]. Đào Trinh Nhất: Sđd, tr. 85.
[4]. Đào Trinh Nhất: Sđd, tr. 123.
[5]. Phan Bội Châu: Niên biểu, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1959, tr. 33.
[6]. Phan Bội Châu: Việt Nam vong quốc sử, Văn Sử Địa, Hà Nội, 1972, tr. 80,81.
[7]. Vĩnh Sính: “Về bức thư của Phan Bội Châu gửi Nguyễn Ái Quốc”, Tạp chí Xưa Nay, số 38, tháng 4-1997, tr. 5.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc - mấy vấn đề bàn luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc - mấy vấn đề bàn luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, nhấn mạnh sự kết hợp vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc khác. Nhưng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc có những nội dung cần được nhấn mạnh hơn, nhất là thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa, quyền dân tộc tự quyết, đặc biệt là mối quan hệ không thể tách rời giữa độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.
1. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa là vấn đề độc lập dân tộc, xoá bỏ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân
Khi chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các cường quốc tư bản phương Tây ra sức tiến hành chiến tranh xâm lược thuộc địa, thiết lập ách thống trị của chủ nghĩa thực dân với những chính sách tàn bạo.
Trước khi chủ nghĩa tư bản phương Tây đưa đại bác đến gõ cửa các quốc gia phương Đông, thì những quốc gia này vẫn còn đang chìm nặng trong bóng tối của chế độ phong kiến ở giai đoạn suy vong, với cấu trúc xã hội gồm hai giai cấp: địa chủ phong kiến và nông dân. Dưới tác động của những chương trình khai thác thuộc địa, các giai cấp này ở Việt Nam ít nhiều có sự biến đổi, những giai cấp mới lần lượt ra đời: công nhân, tư sản, tiểu tư sản. Tất cả các giai cấp đó đều nằm dưới ách thống trị của chủ nghĩa tư bản thực dân.
Từ thuở thiếu thời, trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã thấy được sự đối kháng giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược qua các phong trào yêu nước của ông cha và sớm hình thành chí hướng cứu nước. Những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa càng nặng nề, thì phản ứng của dân tộc bị áp bức càng quyết liệt. Không chỉ quần chúng lao động (công nhân và nông dân), mà cả các giai cấp và tầng lớp trên trong xã hội (tiểu tư sản, tư sản và địa chủ) đều phải chịu nỗi nhục của người dân mất nước, của một dân tộc mất độc lập tự do. Ngay giai cấp tư sản Việt Nam cũng khác với giai cấp tư sản phương Tây, mặc dù vẫn là giai cấp bóc lột nhưng không phải là giai cấp thống trị. Họ không phải là đối tượng cách mạng, mà trái lại, có thể trở thành lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc[1].
Cuộc cách mạng ở thuộc địa là một cuộc đấu tranh dân tộc hay đấu tranh giai cấp? Đâu là “cái cốt” của cuộc cách mạng ở thuộc địa? Trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đã từng có luận điểm cho rằng: “thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa là vấn đề nông dân”, mà nông dân thì gắn với ruộng đất, vì thế phải nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và cuộc đấu tranh giai cấp ở thuộc địa. Với Hồ Chí Minh thì không phải như vậy. Người nhận thấy, yêu cầu bức thiết nhất, trước nhất của xã hội thuộc địa là phải tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chứ chưa phải là đấu tranh giai cấp như trong các xã hội tư bản chủ nghĩa phương Tây. Đối tượng của cách mạng thuộc địa là chủ nghĩa thực dân, chứ không phải là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc nói chung. Tuy hoạt động tích cực trong Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng sản, nhưng quan điểm của Nguyễn Ái Quốc có nhiều điểm không trùng hợp với quan điểm của Trung ương Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng sản, trong đó có vấn đề dân tộc ở thuộc địa. Người phê phán sự không quan tâm đến cách mạng thuộc địa của một số Đảng Cộng sản trên thế giới[2]. Người chỉ rõ thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc.
Trong nhiều tác phẩm như Tâm địa thực dân, Bình đẳng, Vực thẳm thuộc địa, Công cuộc khai hóa giết người..., Hồ Chí Minh tập trung tố cáo chủ nghĩa thực dân, vạch trần cái gọi là “khai hóa văn minh” của chúng. Người viết: “Để che đậy sự xấu xa của chế độ bóc lột giết người, chủ nghĩa tư bản thực dân luôn luôn điểm trang cho cái huy chương mục nát của nó bằng những châm ngôn lý tưởng: Bác ái, Bình đẳng, v.v.”. “Nếu lối hành hình theo kiểu Linsơ của những bọn người Mỹ hèn hạ đối với những người da đen là một hành động vô nhân đạo, thì tôi không còn biết gọi việc những người Âu nhân danh đi khai hóa mà giết hàng loạt người dân châu Phi là cái gì nữa”[3]. Trong những bài có tiêu đề Đông Dương và nhiều bài khác, Người lên án mạnh mẽ chế độ cai trị hà khắc, sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp ở Đông Dương trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Người chỉ rõ sự đối kháng giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc thực dân là mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa, đó là mâu thuẫn không thể điều hòa được. Sự áp bức, thống trị dân tộc càng nặng nề, thì phản ứng dân tộc sẽ càng quyết liệt về tính chất, đa dạng về nội dung và phong phú về hình thức. Nghiên cứu tình hình Đông Dương, Hồ Chí Minh nhận thấy: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”[4]. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc lên án mạnh mẽ tội ác của chủ nghĩa thực dân đã tước bỏ tất cả quyền con người và quyền dân tộc ở các thuộc địa.
Nếu như C. Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V. I. Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí Minh tập trung bàn về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. C. Mác và V. I. Lênin bàn nhiều về đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh bàn nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Trong nhiều tác phẩm, nhất là tác phẩm Đường kách mệnh, Người phân biệt ba loại cách mạng: cách mạng vô sản, cách mạng tư sản và cách mạng giải phóng dân tộc, xác định tính chất và nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa là giải phóng dân tộc.
Để giải phóng dân tộc cần xác định một con đường phát triển của dân tộc, vì phương hướng phát triển dân tộc quy định những yêu cầu và nội dung trước mắt của cuộc đấu tranh giành độc lập. Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân loại, Hồ Chí Minh khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc Việt Nam trong bối cảnh thời đại mới là chủ nghĩa xã hội. Hoạch định con đường phát triển từ cách mạng giải phóng dân tộc lên cách mạng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề hết sức mới mẻ. Từ một nước thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua nhiều giai đoạn chiến lược khác nhau. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. “Đi tới xã hội cộng sản” là hướng phát triển lâu dài. “Tư sản dân quyền cách mạng” là giai đoạn chiến lược giải phóng dân tộc, hoàn thành nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc (chưa tiến hành triệt để cuộc cách mạng ruộng đất). “Thổ địa cách mạng” không nằm trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, mà là một giai đoạn chiến lược với nhiệm vụ chủ yếu là cách mạng ruộng đất. “Đi tới xã hội cộng sản” lại là giai đoạn phát triển kế tiếp để từng bước đạt mục tiêu cuối cùng[5].
Mỗi giai đoạn chiến lược có một nhiệm vụ chiến lược trung tâm và trong mỗi giai đoạn có thể làm trước một phần nhiệm vụ của giai đoạn sau, hoặc là làm nốt nhiệm vụ của giai đoạn trước để lại.
Sự hoạch định con đường phát triển dân tộc của Hồ Chí Minh là biện chứng và khách quan, không nhập hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến vào một cuộc cách mạng tư sản dân quyền. Nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở thuộc địa. Đó cũng là nét độc đáo, khác biệt với con đường phát triển lên chủ nghĩa tư bản ở các nước phương Tây.
Nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa là độc lập tự do. Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh nói: "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu"[6].
Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, mà tư tưởng cốt lõi là độc lập tự do.
Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng, viết thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: "trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy"[7]. Người chỉ đạo thành lập Việt Nam độc lập đồng minh, ra báo Việt Nam độc lập, thảo Mười chính sách của Việt Minh, trong đó mục tiêu đầu tiên là: "Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền". Tháng 8-1945, Hồ Chí Minh đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân ta trong câu nói bất hủ: "Dù phải hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập!"
Cách mạng Tháng Tám thành công, Người thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước toàn thế giới:
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy"[8].
Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ các nước vào thời gian sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: "nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước"[9].
Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ. Thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi vang dội núi sông: "Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ"[10].
Khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh, ồ ạt đổ quân viễn chinh và phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc với qui mô và cường độ ngày càng ác liệt, Hồ Chí Minh nêu cao chân lý lớn nhất của thời đại: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do"[11].
Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam. Đó là sức mạnh chiến đấu và thắng lợi trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào: “Dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn. Đó là một truyền thống quí báu của ta. Từ xưa tới nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kêt thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lượt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nứơc”[12].
Theo Hồ Chí Minh, “Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân ta đã mấy năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh cho tan bọn thực dân cướp nước và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, một nước Việt Nam dân chủ mới”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính là một bộ phận của tinh thần quốc tế, “khác hẳn tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động”[13].
Với niềm tin ở truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam, Người khẳng định: "Địch chiếm trời, địch chiếm đất, nhưng chúng không làm sao chiếm được lòng nồng nàn yêu nước của nhân dân ta".
Độc lập, tự do là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, một tư tưởng lớn trong thời đại giải phóng dân tộc. “Không có gì quí hơn độc lập tự do” là khẩu hiệu hành động của dân tộc Việt Nam đồng thời cũng là nguồn cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đang đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Vì thế, Hồ Chí Minh không chỉ là Anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam mà còn là "Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX".
2. Tuyệt đối tôn trọng quyền dân tộc tự quyết, đấu tranh cho độc lập của dân tộc Việt Nam, đồng thời đấu tranh cho độc lập của các tất cả các dân tộc
Hồ Chí Minh hết sức trân trọng quyền con người, nhưng luôn đề cao quyền dân tộc. Người đã tìm hiểu và tiếp nhận những nhân tố về quyền con người được nêu trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp[14], như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Người khẳng định “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Nhưng không chỉ dừng ở đó. Từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng cao thành quyền dân tộc: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do"[15].
Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết đã được các đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất long trọng thừa nhận, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi tới hội nghị Vécxây bản Yêu sách gồm tám điểm, đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Bản Yêu sách chưa đề cập vấn đề độc lập hay tự trị, mà tập trung vào hai nội dung cơ bản:
Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như đối với người châu Âu. Cụ thể là, phải xóa bỏ các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ khủng bố, đàn áp bộ phận trung thực nhất trong nhân dân (tức những người yêu nước); phải xóa bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh (một cách độc tài) và thay thế bằng chế độ ra các đạo luật.
Hai là, đòi các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, đó là các quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do lập hội, hội họp, tự do cư trú...
Bản yêu sách đó không được bọn đế quốc chấp nhận. Nguyễn Ái Quốc kết luận: muốn giải phóng dân tộc, không thể bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài, mà trước hết phải dựa vào sức mạnh của chính dân tộc mình.
Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc Việt Nam, mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức.
Năm 1914, khi Chiến tranh thế giới thứ nhất mới bùng nổ, Người đem toàn bộ số tiền dành dụm được từ đồng lương ít ỏi của mình ủng hộ quỹ kháng chiến của người Anh và nói với người bạn của mình rằng: "Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy"[16]. Người thấy được một trong những ý nghĩa quan trọng của Cách mạng tháng Mười Nga (1917) là đã nêu tấm gương sáng về sự giải phóng dân tộc bị áp bức, đã "mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc"[17]. Năm 1921, Người tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa nhằm đoàn kết nhân dân các nước thuộc địa trong mặt trận chung chống chủ nghĩa đế quốc và xây dựng quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa các dân tộc thuộc địa với dân tộc Pháp. Tuyên ngôn của Hội do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo nêu rõ mục đích tập hợp mọi người dân thuộc địa cư trú trên đất Pháp nhằm tố cáo trước dư luận những tội ác của chủ nghĩa thực dân, tuyên truyền giác ngộ nhân dân các thuộc địa đứng lên tự giải phóng.
Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Lào và Campuchia, và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Đặc biệt, ở Đông Dương, Hồ Chí Minh nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc với tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo, tạo cơ sở vững chắc để củng cố và tăng cường khối đoàn kết và liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc, một nhân tố chiến lược, đảm bảo thắng lợi của cách mạng mỗi nước.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Đông Dương bị chủ nghĩa thực dân xâm lược và thống trị, sự nghiệp đấu tranh giải phóng mỗi dân tộc có liên quan mật thiết với nhau và không tách rời nhau, nhưng Người không nhìn nhận Đông Dương như một liên bang, mà thấy rõ ở Đông Dương có ba quốc gia dân tộc. Người phân biệt hai loại vấn đề: 1- Phát huy sức mạnh mỗi dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, thực hiện đoàn kết mỗi dân tộc; 2- Trên cơ sở tôn trong quyền dân tộc tự quyết, tôn trọng độc lập tự do của mỗi dân tộc, thực hiện đoàn kết ba dân tộc, giúp đỡ lẫn nhau chống kẻ thù chung.
Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ Tám của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (5-1941), chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, cốt làm sao để thức tỉnh tinh thần dân tộc ở mỗi nước. Hội nghị nhấn mạnh rằng các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều cùng chịu ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, cho nên phải "tập trung cho được lực lượng cách mạng toàn cõi Đông Dương", làm cho ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia đoàn kết, dựa vào nhau, thúc đẩy nhau giành thắng lợi. Song, nói đến vấn đề dân tộc lúc này là nói đến sự tự do, độc lập của mỗi dân tộc. Vì thế, Đảng phải hết sức tôn trọng và thi hành đúng chính sách "dân tộc tự quyết" đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi Pháp-Nhật thì "các dân tộc trên cõi Đông Dương sẽ tuỳ theo ý muốn, tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành lập một quốc gia tùy ý". "Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng"[18].
Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước một mặt trận riêng: Việt Nam độc lập đồng minh, Ai Lao độc lập đồng minh và Cao-miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở sự ra đời mặt trận ở mỗi nước, sẽ tiến tới thành lập mặt trận chung của ba nước. Đảng và Việt Minh “phải hết sức giúp đỡ các dân tộc Miên, Lào tổ chức ra Cao Miên độc lập đồng minh, Ai Lao độc lập đồng minh để sau đó lập ra Đông Dương độc lập đồng minh"[19].
Giải quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi từng nước ở Đông Dương là một chủ trương đúng đắn và sáng tạo, nhằm thực hiện quyền dân tộc tự quyết, phát huy sức mạnh mỗi dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh tự giải phóng mình; đập tan những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù về vấn đề dân tộc, về cái gọi là "Liên bang Đông Dương" và "hoạ Cộng sản"; đồng thời tạo điều kiện đoàn kết ba dân tộc chống kẻ thù chung, đặt cơ sở để xây dựng một chính sách mới, thiết lập một quan hệ mới giữa Việt Nam với hai nước láng giềng cùng chung một kẻ thù xâm lược.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thực dân Pháp trở lại xâm lược. Nhân dân ba nước Đông Dương phải tiếp tục đứng lên kháng chiến. Giúp đỡ cách mạng Lào, cũng như cách mạng Campuchia là chủ trương nhất quán của Hồ Chí Minh, coi “giúp bạn là tự giúp mình”, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, gúp bạn không phải là làm thay ban, mà phải làm cho bạn mạnh lên, để bạn tự làm lấy.
Trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc (12-1946) Hồ Chí Minh khẳng định: "Đối với Lào và Miên, nước Việt Nam tôn trọng nền độc lập của hai nước đó và mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền"[20].
Tháng 7-1947, khi trả lời một nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chính sách đối ngoại là thân thiện với tất cả các láng giềng... Cao Mên, Ai Lao, v.v., mà không thù gì với nước nào”[21]. Quan điẻm của Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Đông Dương là:
1 - Không đứng trên lợi ích Việt Nam mà làm công tác Lào, Miên.2 - Nắm chắc nguyên tắc dân tộc tự quyết, phải do Lào, Miên tự quyết định lấy.3 - Không đem chủ trương, chính sách, nguyên tắc của Việt Nam ứng dụng vào Lào, Miên như lắp máy.4 - Cần giúp đỡ Lào, Miên để bạn tự làm lấy[22].
Trong khi Đảng Cộng sản Đông Dương còn phải hoạt động bí mật và chưa có điều kiện thành lập ở mỗi nước một đảng riêng, Đảng Cộng sản Đông Dương có trách nhiệm lãnh đạo phối hợp cuộc kháng chiến của ba dân tộc. Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh, mỗi Đảng cộng sản thuộc về một dân tộc, trước hết phải hoàn thành sứ mệnh lịch sử với dân tộc mình. Đầu năm 1930, Hồ Chí Minh đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau một thời gian phải đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương và lãnh đạo cách mạng Đông Dương, đến năm 1951, Người cùng với Trung ương Đảng chủ trương tách các đảng bộ Lào và Campuchia để thành lập ở mỗi nước một Đảng cách mạng, nhằm đề ra đường lối chính trị phù hợp với hoàn cảnh của nước; đồng thời cũng xác định trách nhiệm của Đảng Lao động Việt Nam và dân tộc Việt Nam phải giúp đỡ cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc của Lào và Campuchia.
Tháng 9-1952, Hội nghị liên minh ba nước Đông Dương họp bàn triển khai chương trình hành động cụ thể của Mặt trận. Tại Hội nghị, Hồ Chí Minh nói: nhân dân Việt Nam hết lòng thành thật giúp đỡ nhân dân Lào, nhân dân Campuchia một cách vô điều kiện.
Đầu tháng 4-1953, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với Chính phủ kháng chiến Lào và Mặt trận Itxala quyết định mở chiến dịch Thượng Lào. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn bộ đội Việt Nam: “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”[23], phải nêu cao tinh thần quốc tế, tôn trọng chủ quyền, phong tục tập quán, kính yêu nhân dân nước bạn.
Trong những năm đầu sau khi Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được ký kết, trên cơ sở nhận thức đúng tình hình thực tế ở Lào và Campuchia, thấy rõ vai trò của hai quốc gia trong việc bảo vệ nền an ninh ở Đông Dương nói riêng và Đông Nam Á nói chung, lấy lợi ích của ba dân tộc làm trọng, ngày 1-1-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: Việt Nam dân chủ cộng hoà sẵn sàng lập quan hệ hữu hảo với Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia. Đây là một tín hiệu quan trọng, đặt cơ sở cho việc xây dựng tình đoàn kết và sự liên minh phù hợp với điều kiện lịch sử mới.
Tháng 3-1965, tại Phnôm Pênh, Hội nghị nhân dân Đông Dương được triệu tập theo sáng kiến của Thái tử Nôrôđôm Xihanúc, Quốc trưởng Vương quốc Campuchia. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mừng tới Hội nghị, khẳng định: sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia đoàn kết chặt chẽ nhất định sẽ giành được thắng lợi cuối cùng.
Cuối thế kỷ XX, các liên bang Xô viết, Tiệp Khắc, Nam Tư tan rã, chúng ta càng thấy rõ giá trị khoa học và thực tiễn của cách thức giải quyết vấn đề dân tộc ở Đông Dương theo quan điểm của Hồ Chí Minh.
3. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất đất nước
Độc lập dân tộc và thống nhất đất nước nhà là một quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam, là con đường sống của nhân dân Việt Nam. Đó là một quan điểm lớn của Hồ Chí Minh. Người nói: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.
Năm 1887, trên cơ sở thôn tính và áp đặt ách thống trị dân tộc, thi hành chính sách chia để trị, thực dân Pháp lập ra cái gọi là “Liên bang Đông Dương” thuộc Pháp, gồm 5 xứ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Lào và Cao Miên) do một viên Toàn quyền người Pháp đứng đầu.
Hồ Chí Minh lên án thực dân Pháp chia cắt nước Việt Nam, “lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết”[24]. Sự nghiệp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập của dân tộc Việt Nam cũng là cuộc đấu tranh cho sự thống nhất và toàn vẹn chủ quyền quốc gia. Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích của Cách mạng tháng Tám là “giành lại hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ cho Tổ quốc ta, cho nhân dân ta”. Mục đích của kháng chiến chống thực dân Pháp là để giữ lấy và phát triển những thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, tức là hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ”.
Độc lập và thống nhất của Tổ quốc là khát vọng và ý chí đấu tranh của Hồ Chí Minh và cả dân tộc Việt Nam. Người chấp nhận ký bản Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946, mặc dù chưa đòi được thực dân Pháp phải công nhận nền độc lập, nhưng họ đã phải công nhận “nước Việt Nam là một quốc gia tự do”, có Chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Việc thực hiện thống nhất đất nước sẽ do trưng cầu dân ý quyết định.
Trước khi sang Pháp, trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ (6-1946), Hồ Chí Minh khẳng định:“Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam.Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”[25].Mục đích chuyến đi của Người là “giải quyết vấn đề Việt Nam độc lập, cùng Trung, Nam, Bắc thống nhất”. Ngày 25-6-1946, trong khi tiếp chuyện các nhà báo, nhiếp ảnh, chiếu bóng tại Paris, Người nêu rõ “dân Việt Nam đòi thống nhất và độc lập”[26]
Ngày 12-7-1946, trong một cuộc họp báo, khi trả lời câu hỏi: “Nếu Nam kỳ từ chối không sáp nhập vào Việt Nam, Chủ tịch sẽ làm thế nào?”, Người nói: “Nam Kỳ cùng một tổ tiên với chúng tôi, tại sao Nam Kỳ lại không muốn ở trong đất nước Việt Nam? Người Baxcơ (Basques), người Brơton (Breton) không nói tiếng Pháp mà vẫn là người Pháp. Người Nam kỳ nói tiếng Việt Nam, tại sao lại còn nghĩ đến sự cản trở việc thống nhất nước Việt Nam?”[27]. Người tuyên bố trước các nhà báo: “Nam Bộ là một bộ phận nước Việt Nam, không ai có quyền chia rẽ, không lực lượng nào có thể chia rẽ”[28].
Trong diễn văn đọc tại lễ kỷ niệm Quốc khánh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Hội Liên hiệp Việt kiều và Hội hữu nghị Pháp – Việt tổ chức tại Paris (2-9-1946), Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nguyện vọng tha thiết nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam là Tổ quốc đang hồi sinh của chúng ta không bao giờ bị chia cắt và không gì chia cắt được”, “... sự chia rẽ và chia cắt không thể mang lại phồn vinh. Thật là phi lý nếu toan tính dựa vào nước Việt Nam suy yếu, chia rẽ và bị chia cắt để đạt được sự hùng mạnh của Liên hiệp Pháp”[29].
Ngày 22-9-1946, trên chiến hạm Đuymông Đuyếchvin, trong thư trả lời bà Sốtxi trong Hội liên hiệp phụ nữ Pháp, Hồ Chí Minh viết: “Các bà yêu đất nước mình, các bà mong đất nước mình được độc lập và thống nhất. Nếu có kẻ nào tìm cách xâm phạm nền độc lập và thống nhất ấy, thì tôi tin chắc rằng các bà sẽ đấu tranh đến cùng để bảo vệ nó. Chúng tôi cũng thế. Chúng tôi yêu Tổ quốc Việt Nam của chúng tôi, chúng tôi cũng muốn Tổ quốc của chúng tôi độc lập và thống nhất”. Người khẳng định “chúng tôi quyết dùng tất cả sức mình để giành được nền độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của chúng tôi”[30].
Sau khi đi Pháp về, người tuyên bố với quốc dân: vì hoàn cảnh hiện thời ở nước Pháp, mà hai vấn đề độc lập và thống nhất của nước Việt Nam chưa giải quyết được. “Nhưng không trước thì sau, tôi dám quyết rằng: Việt Nam nhất định độc lập, Trung, Nam Bắc nhất định sẽ thống nhất”[31]. “Trung, Nam, Bắc đều là đất nước Việt Nam. Chúng ta đều chung một tổ tiên dòng họ, đều là ruột thịt anh em. Nước có Trung, Nam, Bắc cũng như một nhà có ba anh em. Cũng như nước Pháp có vùng Noócmăngđi, Prôvăngxơ, Bôxơ.
Không ai có thể chia rẽ con một nhà, không ai có thể chia rẽ nước Pháp, thì cũng không ai có thể chia rẽ nước Việt Nam ta”[32].
Người nói: “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên. Tôi trân trọng hứa với đồng bào rằng: Với quyết tâm của đồng bào, với quyết tâm của toàn thể nhân dân, Nam Bộ nhất định sẽ trở lại cùng thân ái chung trong lòng Tổ quốc”[33].
Tại phiên họp ngày 31-10-1946 của Kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá I, sau khi được Quốc hội giao trách nhiệm thành lập Chính phủ mới, Hồ Chí Minh tuyên bố mục đích của Chính phủ là “trong thì kiến thiết, ngoài tranh thủ độc lập và thống nhất của nước nhà”[34].
Trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc (12-1946), Người vạch rõ hành động của Pháp “nặn ra nước Cộng hoà Nam Kỳ với một Chính phủ bù nhìn tay sai” và khẳng định nhân dân Việt Nam “kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”[35].
Không thể dùng đàm phán hòa bình để giải quyết cuộc xung đột Việt – Pháp, Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến nhằm giành độc lập và thống nhất hoàn toàn. Trong Thư gửi dân chúng Việt Nam, dân chúng Pháp, dân chúng các nước Đồng minh, Người khẳng định: “Cuộc kháng chiến rất lâu dài và đau khổ. Dù phải hy sinh bao nhiêu và thời gian kháng chiến đến bao giờ, chúng ta cũng nhất định chiến đấu đến cùng, đến bao giờ nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập và thống nhất”[36].
Với việc ký kết và thi hành Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương, nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Hồ Chí Minh xác định mục đích của nhân dân Việt Nam sau khi Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được ký kết cũng là đấu tranh giữ vững hòa bình “để thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc”[37].
Ngày 22-7-1954, Người phân tích: điều chỉnh khu vực là việc tạm thời, là bước quá độ để thực hiện đình chiến, lập lại hòa bình và tiến đến thống nhất nước nhà bằng cách tổng tuyển cử. Điều chỉnh khu vực “quyết không phải là chia xẻ đất nước ta, quyết không phải là phân trị”. Người khẳng định: “Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”. Người chỉ rõ: “Đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”. “Chúng ta phải ra sức đấu tranh để thực hiện tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc đặng thống nhất nước nhà”[38].
Mục tiêu phấn đấu của nhân dân Việt Nam được Hồ Chí Minh khẳng định trong nhiều bài nói, bài viết và trả lời phỏng vấn của các báo trong và ngoài nước... Nhân dịp lễ mừng Quốc khánh lần thứ 9 (1954), Người nêu rõ: “Nhiệm vụ chung của chúng ta hiện nay là: Thi hành đúng đắn hiệp định đình chiến, đấu tranh để giữ gìn và củng cố hòa bình, để thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc”. Người kêu gọi: “Toàn thể đồng bào từ Nam ra Bắc phải đấu tranh chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử tự do, để thực hiện thống nhất toàn quốc”[39].
Trước âm mưu mới của đế quốc Mỹ và tay sai, Hồ Chí Minh khẳng định: “nước Việt Nam nhất định sẽ thống nhất, vì nước ta là một khối, không ai chia cắt được”. Người chủ trương củng cố miền Bắc để “giúp đỡ thiết thực đồng bào miền Nam đấu tranh đòi hòa bình và thống nhất”[40].
Để tập hợp mọi lực lượng cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng và và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất: “Từ Nam đến Bắc, ai là người tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, thì chúng ta sẵn sàng đoàn kết với họ, thật thà hợp tác với họ, dù từ trước tới nay họ đã theo phe phái nào”[41].
Ngày 2-9-1955, trong bài viết cho báo Vì một nền hòa bình lâu dài, vì một nền dân chủ nhân dân, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tự định ra cho mình mục tiêu đầu tiên là thi hành triệt để và đầy đủ Hiệp định Giơnevơ, nghĩa là triệu tập ngay tức khắc hội nghị hiệp thương giữa hai miền Nam và Bắc, đó là bước đầu tiên tiến tới chuẩn bị cuộc tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước”[42].
Theo Hồ Chí Minh, “Nhiệm vụ quan trọng nhất của nhân dân, Quốc hội và Chính phủ ta là phải ra sức phấn đấu để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà và góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông – Nam Á và trên thế giới”[43]. Phát biểu trong buổi khai mạc Kỳ họp thứ tám Quốc hội khoá I, Hồ Chí Minh xác định: “Nhiệm vụ trước mắt của toàn dân ta là ra sức xây dựng và củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, nhằm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. “Cuộc đấu tranh giành thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở độc lập và dân chủ là một cuộc cách mạng lâu dài, khó khăn phức tạp”[44].
Tại Đại hội lần thứ III của Đảng (9-1960), Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân tộc ta là một, nước Việt Nam là một. Nhân dân ta nhất định sẽ vượt tất cả mọi khó khăn và thực hiện kỳ được thống nhất đất nước, Nam, Bắc một nhà”[45].
Ngày 8-8-1963, trả lời câu hỏi của nhà báo W. Bớcsét: “Xin Chủ tịch cho biết có đúng là cuộc kháng chiến vũ trang ở miền Nam được miền Bắc ủng hộ hay không?”, Hồ Chí Minh nói: “Về mọi mặt địa lý, lịch sử, văn hóa và chủng tộc, dân tộc Việt Nam là một. Chúng tôi đã đoàn kết một lòng chống thực dân Pháp và xâm lược Nhật. Đó là một điều mà đường ranh giới tạm thời vạch theo vĩ tuyến 17, nhằm làm dễ dàng hơn việc ký hiệp định đình chiến năm 1954, không thể nào thay đổi được. Sự thống nhất của nước Việt Nam và của dân tộc Việt Nam đã được thừa nhận và ghi trong Hiệp định Giơnevơ. Cũng vì vậy mà cuộc đấu tranh của đồng bào chúng tôi ở miền Nam được toàn thể nhân dân Việt Nam, ở cả Bắc và Nam vĩ tuyến 17, đồng tình và ủng hộ”.
Từ năm 1965, đế quốc Mỹ ngày càng tăng cường chiến tranh xâm lược Việt Nam bằng chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Trong nhiều bài trả lời phỏng vấn của các nhà báo quốc tế, như nữ phóng viên Pháp Đanien Huynơben (7-5-1964), hay Nhật báo công nhân (Anh) (1-7-1965), Hồ Chí Minh luôn khẳng định: “Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một”, đế quốc Mỹ là kẻ chia cắt nước Việt Nam, và nhân dân Việt Nam sẽ chiến đấu đến cùng vì nền độc lập và thống nhất đất nước[46].
Trước lúc đi xa, Người chỉ rõ: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”[47]. Trong Di chúc tháng 5-1965, Người viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Trong bản thảo bổ sung tháng 5-1968, Người căn dặn phải “chuẩn bị mọi việc để thống nhất Tổ quốc”. Người dùng mực đỏ để viết cụm từ “thống nhất Tổ quốc”, nhấn mạnh một nhiệm vụ hết sức quan trọng phải làm ngay sau ngày kháng chiến chống Mỹ thắng lợi.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc không theo một khuôn mẫu giáo điều, mà được hình thành và phát triển gắn liền với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, trong đó có phong trào đấu tranh của dân tộc Việt Nam, nhằm xoá bỏ ách trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, hình thành nên nhà nước dân tộc độc lập và tiếp tục phát triển theo sự lựa chọn của mỗi quốc gia dân tộc, phản ánh chân lý lớn nhất của thời đại là “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Riêng với dân tộc Việt Nam, thì sự phát triển đó theo phương hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện điều mong muốn cuối cùng của Hồ Chí Minh là: “xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[48].
< Vũ Quang Hiển >

GÓP PHẦN TÌM HIỂU QUAN NIỆM VỀ “ĐỔI MỚI”, “CẢI TỔ”, “CẢI CÁCH

GÓP PHẦN TÌM HIỂU QUAN NIỆM VỀ
 “ĐỔI MỚI”, “CẢI TỔ”, “CẢI CÁCH”

Đổi mới là cái vốn có của mọi vận động và phát triển trong tự nhiên, xã hội cũng như trong tư duy. Bất kỳ sinh vật nào cũng luôn luôn tự Đổi mới để thích nghi với những sự thay đổi của môi trường sống. Đối với xã hội, Đổi mới là một phản ứng mang tính tự nhiên của xã hội để bảo đảm sự thích nghi của nó trước những biến đổi môi trường tự nhiên, môi trường quốc tế, để thích ứng với tình thế. Đổi mới là quá trình vận động tự nhiên của mọi hiện tượng xã hội.
Ngay từ năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng khái niệm “Đổi mới” trong sự vận dụng cụ thể vào Đổi mới đất nước. Người viết: “Công cuộc Đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”. Khi nhấn mạnh sự cần thiết phải không ngừng Đổi mới nhận thức để phản ánh đúng tình hình thế giới, tình hình trong nước vốn không ngừng biến đổi, Hồ Chí Minh viết: thế giới ngày ngày Đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. Đổi mới, theo Hồ Chí Minh, còn là để thắng sức ỳ của thói quen, của tập quán cũ. Dù đó là việc khó khăn, nhưng chẳng có việc gì là không thể Đổi mới”.
Đổi mới còn là cách để thay đổi một phương thức sống, tạo lập một phương thức sống mới, đáp ứng nhu cầu của sự phát triển. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh viết: “Khi trước nhà nào lo làm nhà nấy, làm thế nào cũng được. Nhưng bây giờ không phải như thế. Bây giờ mình phải Đổi mới nông thôn”.Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đổi mới và phát triển là những khái niệm rất gần gũi, đôi khi được hiểu như nhau. Trong Báo cáo tại Hội nghị Chính trị đặc biệt năm 1964, Người viết: “Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội, con người đều Đổi mới”.
Vận dụng vào vấn đề mà chúng ta nghiên cứu “Đổi mới’ là thay cách nghĩ, cách làm cũ lạc hậu, lỗi thời, không đáp ứng được nhu cầu phát triển, bằng cách nghĩ, cách làm khác, tiến bộ hơn, hợp với quy luật của sự phát triển.Phân tích tình hình đất nước trong những năm cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 thế kỷ XX, Đại hội VI của Đảng ta đã nhấn mạnh: Đổi mới là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Sau khi nêu nội dung Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đổi mới chính sách xã hội,… Đại hội tập trung làm nổi bật nội dung Đổi mới Đảng: Đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; Đổi mới tổ chức; Đổi mới đội ngũ cán bộ; Đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác của Đảng. Từ đây, “Đổi mới” được sử dụng rộng rãi trong các văn kiện của Đảng, trong sách báo cũng như trong ngôn ngữ hằng ngày của nhân dân ta.
Trong 20 năm qua, nhận thức về “Đổi mới ở Việt Nam” cũng không ngừng phát triển. Thời kỳ đầu, “Đổi mới” được hiểu như là những suy nghĩ, những hành động riêng lẻ, cụ thể nhằm thay đổi một nhận thức, một cách làm nhất định nào đó; càng về sau, càng nhận thức đầy đủ hơn về “Đổi mới” – đó là vấn đề chiến lược lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; nó bao quát toàn diện, không trừ lĩnh vực nào của quá trình đó.
Đổi mới là quá trình loại bỏ những gì kìm hãm và cản trở sự phát triển, tổ chức lại xã hội, đưa vào cơ chế vận hành của xã hội một hệ thống đồng bộ các yết tố vật chất và tinh thần, tạo nên lực lượng cho sự phát triển vượt bậc. “Đổi mới” – đó là quá trình giải phóng mang ý nghĩa toàn diện của từ đó – giải phóng về tư tưởng, giải phóng lực lượng sản xuất, giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo của con người, giải phóng khả năng trí tuệ của nhân dân,… để phục vụ cho sự phát triển con người, bảo đảm tự do, sáng tạo của nhân dân.“Đổi mới’ còn là quá trình sửa lại những nhận thức không đúng về “cái cũ”, nhưng “cái cũ” ấy lại là cái đúng, để hiểu đúng nó hơn, vận dụng có hiệu quả hơn vào thực tiễn mới.
“Đổi mới” còn là làm rõ cái gì là đúng của ngày hôm qua, nhưng do hoàn cảnh đã thay đổi, ngày hôm nay không còn thích hợp, cần từ tổng kết thực tiễn để khái quát lý luận nhằm bổ sung, phát triển nhận thức, phát triển nền tảng tư tưởng của chúng ta. Nhờ vậy, nền tảng tư tưởng đó thực hiện có hiệu quả hơn chức năng là cơ sở hoạch định và triển khai đường lối của Đảng, thúc đẩy đất nước phát triển.
Như vậy, “Đổi mới” có mục tiêu lý luận và mục tiêu thực tiễn. Về lý luận, Đổi mới nhằm xác lập hệ thống quan điểm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về thực tiễn, Đổi mới để xã hội xã hội chủ nghĩa từng bước được xác lập vững chắc. Hai mục tiêu đó có quan hệ biện chứng với nhau: Mục tiêu lý luận phục vụ cho mục tiêu thực tiễn; mục tiêu thực tiễn vừa là yêu cầu, là đòi hỏi nâng cao chất lượng mục tiêu lý luận, vừa là phương thức kiểm tra thành quả đạt được của mục tiêu lý luận. Trong sự tác động qua lại đó, mục tiêu thực tiễn là cơ quan quan trọng nhất.
Mục tiêu lý luận và thực tiễn đó cũng khẳng định rằng, chúng ta “Đổi mới” nhưng không “đổi mầu”. Đổi mới để giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, để làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả cao hơn. Đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là làm cho lý luận đó, tư tưởng đó được nhận thức và vận dụng, phát triển sáng tạo hơn, mang lại kết quả thiết thực hơn. Đổi mới không phải là phủ định sạch trơn nhận thức và cách làm trước đây cùng những thành tựu đã được tạo ra, mà là khẳng định những gì đã nghĩ đúng, làm đúng, giữ lại những giá trị tích cực của quá khứ, lấy đó làm tiền đề để Đổi mới, để tiến lên; đồng thời loại bỏ những gì hiểu sai, làm sai, những hậu quả do những sai sót đó tạo ra. Cho nên, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình Đổi mới là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nó giúp chúng ta tránh những sai lầm hữu khuynh cũng như “tả” khuynh.
Gần nghĩa với từ “Đổi mới”, có từ “Cải tổ”, “Cải cách”.“Cải tổ”, là tổ chức lại cho khác hẳn trước; là thay đổi căn bản và toàn diện về tổ chức, thể chế, cơ chế… trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội nhằm khắc phục hậu quả sai lầm trong quá khứ, đưa xã hội tiến lên.Vận dụng quan niệm đó vào việc xem xét Cải tổ như một sự kiện nhằm thực hiện thay đổi cơ bản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô vào những năm 80, 90 thế kỷ XX. Ở thời kỳ xuất phát của sự kiện đó, “Cải tổ” được hiểu là quá trình cải tạo toàn diện, triệt để xã hội Xô viết trên cơ sở đường lối đẩy nhanh sự phát triển kinh tế – xã hội do Hội nghị toàn thể tháng 4 (năm 1985) của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đề xướng và được Đại hội XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô tiếp tục thực hiện. Khi khởi xưởng, “Cải tổ” được hiểu là quá trình cách mạng nhằm Đổi mới tất cả mọi mặt đời sống của xã hội Xô viết, làm cho chủ nghĩa xã hội mang những hình thức hiện đại nhất, làm bộc lộ một cách đầy đủ nhất tiềm lực sáng tạo của xã hội xã hội chủ nghĩa. Cải tổ nhằm kiên quyết khắc phục các quá trình trì trệ, phá bỏ cơ chế kìm hãm để đẩy nhanh phát triển kinh tế – xã hội. Nó dựa trên sự sáng tạo sinh động của quần chúng, đòi hỏi phát triển toàn diện nền dân chủ, chế độ tự quản, mở rộng tính công khai phê bình và tự phê bình trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Cải tổ – đó là việc kiên quyết đưa xã hội ra khỏi những lệch lạc trong đạo đức xã hội chủ nghĩa, thực hiện nguyên tắc công bằng xã hội, bảo đảm thống nhất giữa lời nói và việc làm, giữa quyền lợi và nghĩa vụ.
Chính trên quan niệm như vậy, M. Goocbachốp tuyên bố: “Cải tổ” – đó là khắc phục một cách kiên quyết những quá trình trì trệ, phá vỡ cơ chế kìm hãm, sáng tạo cơ chế đáng tin cậy và có hiệu quả để đẩy nhanh sự phát triển kinh tế – xã hội đem lại cho sự phát triển ấy tính năng động cao. Cải tổ – đó là dựa vào sự sáng tạo sinh động của quần chúng; là sự phát triển toàn diện của nền dân chủ, tăng cưởng tính công khai, mở rộng phê bình và tự phê bình trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cải tổ – đó là sự phát triển theo chiều sâu một cách toàn diện nền kinh tế Xô viết, là chuyển một cách kiên quyết theo hướng khoa học bảo đảm mọi sáng kiến trên cơ sở khoa học vững chắc; là sự phát triển ưu tiên lĩnh vực xã hội nhằm thoả mãn ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu của nhân dân trong điều kiện tốt về lao động sinh hoạt, nghỉ ngơi, giáo dục và phục vụ y tế; là kiên quyết tránh cho xã hội khỏi sự xuyên tạc đạo đức xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhất quán những nguyên tắc công bằng xã hội. Mục đích cuối cùng của Cải tổ là Đổi mới sâu sắc tất cả các mặt của đất nước, đem lại cho chủ nghĩa xã hội những hình thức tổ chức xã hội hiện đại nhất, là sự phát triển đầy đủ nhất tính chất nhân đạo trong tất cả mọi khía cạnh quyết định của nó – kinh tế, chính trị, xã hội và đạo đức. Thực chất của Cải tổ chính là ở chỗ nó kết hợp chủ nghĩa xã hội và dân chủ cả về lý luận lẫn thực tiễn, khôi phục một cách đầy đủ quan niệm của V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội.
Để đưa Cải tổ tiến lên Đại hội lần thứ XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô xem “phát triển sản xuất theo chiều sâu về mọi mặt trên cơ sở tiến bộ khoa học – kỹ thuật, Cải tổ cơ cấu nền kinh tế, thực hiện những hình thức quản lý có hiệu quả, tổ chức và khuyến khích lao động” là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, toàn dân. Do một nền kinh tế quá to, có sức ỳ quán tính quá lớn, lại mới được tiến hành Cải tổ trong một khoảng thời gian quá ngắn, nên nền kinh tế đó không có bước chuyển đáng kể, sự hoài nghi về tính đúng đắn của việc xác định điểm xuất phát của Cải tổ – đi từ Cải tổ kinh tế – tăng lên. Một quan niệm khác dần hình thành và có vai trò chi phối: Xuất phát từ quan niệm cho rằng, Cải tổ là một cuộc cách mạng, mà trong quá trình cách mạng thì vị trí then chốt nhất nhất thiết là thuộc về chính trị, cho nên, muốn cho Cải tổ thành công, phải bắt đầu bằng việc đạt được những cuộc cải tạo to lớn, căn bản trên lĩnh vực chính trị theo hướng “Hãy mang lại nhiều hơn nữa ánh sáng cho tính công khai!”, “phê bình và tự phê bình trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”, “đẩy mạnh dân chủ hoá toàn diện đời sống xã hội”…
Trong thực tế triển khai “công khai” trở thành sự bộc lộ một cách trắng trợn những mưu đồ phủ nhận thành tựu lý luận và thực tiễn của 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội. “Phê bình và tự phê bình” trở thành sự bắn phá vào những thế hệ tiền bối một cách không thương xót, thành sự “xám hối” về một thời oanh liệt mà nhân dân Liên Xô đã trải qua. “Đẩy mạnh toàn diện dân chủ hoá” trở thành sự thoán quyền của một số người trong giới chóp bu chính trị, còn trong xã hội thì phát triển thành đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cuộc đấu tranh phe cánh diễn ra triền miên, “khôi phục một cách đầy đủ quan niệm của V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội” biến thành sự phủ định sạch trơn những tư tưởng căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin …Trái với lời tuyên bố của người khởi xướng công cuộc Cải tổ, xem Cải tổ là một cuộc cách mạng triệt để nhưng “bom không nổ và đạn không bay”, người ta đã nã đại bác vào toà nhà Quốc hội ở Matxcơva. “Cải tổ để có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn” biến thành sự tan rã của Liên bang Xô viết, từ một Liên bang Xô viết thống nhất phân rã ra thành hàng chục quốc gia trong cái gọi là “Cộng đồng quốc gia có chủ quyền” (SNG), trong những năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX, hằng ngày, hằng giờ họ dùng bom, đạn, đại bác nói chuyện với nhau.
Sự tan rã của Liên bang Xô viết, sự biến mất của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu là tổn thất lớn nhất của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là bi kịch lớn nhất của chủ nghĩa xã hội thế giới trong thế kỷ XX. Nhân loại chắc chắn còn phải bỏ ra nhiều công sức, thời gian, giấy bút để tổng kết sự kiện có một không hai đó để rút cho mình những kinh nghiệm cần thiết trên con đường tiến lên đạt mục tiêu giải phóng hoàn toàn con người.
“Cải cách” là đổi khác đi, làm cho biến đổi thành khác trước, là sửa đổi những bộ phận cũ không hợp lý cho thành mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình khách quan.
Vận dụng vào xã hội, “Cải cách xã hội” được hiểu là cải tạo, thay đổi, sắp xếp lại một mặt nào đó của đời sống xã hội (những trật tự, thiết chế), đồng thời vẫn duy trì những cơ sở của chế độ xã hội hiện tồn.
Trong gần 30 năm qua, thế giới theo dõi công cuộc “Cải cách mở cửa” của Trung Quốc với sự quan tâm đặc biệt.
Hội nghị Trung ương ba khoá XI (năm 1978) của Đảng Cộng sản Trung Quốc chính thức khởi xướng công cuộc Cải cách và mở cửa, xác định nhiệm vụ trung tâm, quan trọng nhất là xây dựng chủ nghĩa xã hội với bốn hiện đại hoá, phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Để đạt bước tiến căn bản trong Cải cách mở cửa, phải “Cải cách toàn diện, bao gồm Cải cách thể chế kinh tế, Cải cách thể chế chính trị và Cải cách lĩnh vực tương ứng khác”. Xuất phát từ quan niệm cho rằng, chính trị và kinh tế là hai mặt quan trọng nhất của bất kỳ chế độ xã hội nào, chúng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng tới toàn bộ những lĩnh vực khác của đời sống xã hội, hơn nữa chính trị luôn xâm nhập vào kinh tế, cho nên, muốn Cải cách kinh tế có hiệu quả nhằm thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng, không thể không Cải cách thể chế chính trị. Nhưng, muốn Cải cách thể chế chính trị một cách tích cực và ổn định, phải lấy Cải cách thể chế kinh tế, từ đó phát triển lực lượng sản xuất, làm cơ sở. Đây chính là triết lý cơ bản trong tư duy Cải cách toàn diện của Trung Quốc.
Trong khi khẳng định tính toàn diện của công cuộc Cải cách mở cửa, Đảng Cộng sản Trung Quốc xem tiêu chí của mọi Cải cách là nhằm phát triển lực lượng sản xuất. Cải cách mở cửa nhằm loại trừ mọi nhân tố ngăn cản sự giải phóng và phát triển đó. Đề cập vấn đề này, Đặng Tiểu Bình viết: “Mọi cuộc Cải cách của chúng ta đều chung một mục đích, chính là quét sạch mọi lực cản đối với sự phát triển của sức sản xuất”.
Xác định xuất phát điểm là Cải cách để giải phóng sức sản xuất, Đảng Cộng sản Trung Quốc có bước đột phá lớn về lý luận, khẳng định rằng, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội cũng cần áp dụng kinh tế thị trường. Từ đó, xây dựng lý luận về nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Cải cách kinh tế càng tiến lên, càng đòi hỏi và tạo điều kiện để đẩy mạnh Cải cách trên lĩnh vực thể chế chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Nhờ tiến hành Cải cách mở cửa với trình tự, bước đi thích hợp, 27 năm qua Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, mở ra một triển vọng huy hoàng cho nhân dân Trung Quốc, dân tộc Trung Hoa.

GS.TS. Phạm Ngọc QuangTạp chí Thông tin Công tác Tư tưởng, Lý luận, số 1-2006

KINH TẾ VIỆT NAM 1945-1954 CHỦ TRƯƠNG VÀ THÀNH TỰU

KINH TẾ VIỆT NAM 1945-1954 CHỦ TRƯƠNG VÀ THÀNH TỰU

ĐẶNG PHONG*

I- KHẮC PHỤC NẠN ĐÓI, KHÔI PHỤC VÀ BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP, DÂN CHỦ
1. Những thách đố sau ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng gặp rất nhiều khó khăn, tưởng chừng không thể vượt qua. Giặc đói hoành hành, nạn đói cũ chưa được giải quyết, thì một nạn đói mới sắp diễn ra.
Sau khi Nhật chiếm Đông Dương và biến thành hậu phương để thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược châu Á - Thái Bình Dương, chúng bắt chính quyền Pháp phải cưỡng bức thu mua lúa gạo của nhân dân Việt Nam theo giá rẻ, đồng thời ép buộc Ngân hàng Đông Dương phát hành thêm tiền để mua gạo. Đây chính là thời kỳ của nạn mua thóc tạ, một sự cướp bóc trắng trợn đối với người nông dân khó nhọc trồng nên cây lúa ở Việt Nam nói riêng và đối với dân tộc Việt Nam nói chung. Thóc lúa đã không đủ cung ứng nhu cầu chung, phát xít Nhật còn bắt người dân Việt Nam nhổ lúa, nhổ khoai, nhổ sắn để trồng cây đay là thứ nguyên liệu dùng làm bao tải đựng cát, phục vụ cho việc xây dựng các công sự của quân đội Nhật. Hai chính sách tàn bạo đó đã khiến cho cả vùng Đông Dương, nơi từng đứng thứ nhì thế giới về xuất khẩu lúa gạo (những năm 1936-1937, Đông Dương xuất khẩu 1,6 - 1,7 triệu tấn, chỉ đứng sau Miến Điện), khi đó trở thành một dân tộc thiếu đói trên quy mô gần như toàn thể. Cho đến đầu năm 1945, nguồn lúa gạo ở Đông Dương hầu như đã cạn kiệt. Chính những người trồng lúa lại là người bị đói trước tiên. Nông dân đói từ Thanh Hoá, Nam Định, Thái Bình, Hà Nam... lũ lượt kéo ra các thành phố đi ăn xin, kéo lên miền núi đào củ chuối, củ mài cầm hơi. Trên đường đi, họ chết dần, chết mòn. Số còn lại sống lay lắt thêm ít ngày rồi cũng chết, vì không còn cái gì có thể ăn được. Cho đến tháng 8-1945, Việt Nam đã có tới 2 triệu người chết đói. Đó là con số chưa từng có trong lịch sử kinh tế Việt Nam.
Đúng vào dịp bùng nổ Cách mạng Tháng Tám, cũng là lúc mưa rất nhiều, nước trên các dòng sông đều dâng cao. Mưa lũ xảy ra trong tình hình hệ thống đê điều đã bị chính quyền Pháp - Nhật hoàn toàn “xao nhãng” từ nhiều năm. Nạn vỡ đê diễn ra tứ tung trên đồng bằng Bắc Bộ. Chưa bao giờ trong lịch sử đê điều Việt Nam, nạn vỡ đê diễn ra rộng khắp như thế: sông Hồng, sông Thao, sông Thương, sông Thái Bình, sông Đáy, sông Nhuệ đâu đâu cũng vỡ. Nước lụt chiếm 350 ngàn hécta trong tổng số 830 ngàn hécta diện tích lúa mùa đã cấy xong ở đồng bằng Bắc Bộ. Vỡ đê đồng nghĩa với việc một nạn đói lớn hơn nữa sẽ diễn ra vào mùa thu năm đó.
Về tài chính tiền tệ, khi cách mạng thành công, kho bạc hoàn toàn trống rỗng. Thực tế đó được Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến nhận định một cách chua chát: Chính phủ cách mạng lúc đó là một chính phủ “không tiền”1. Có một địa chỉ giữ tiền và đang in tiền là Ngân hàng Đông Dương nhưng do quân đội Nhật đóng giữ và chờ trao lại cho quân Đồng minh. Trong khi đó, tình trạng lạm phát một cách nghiêm trọng trong suốt 5 năm trước đó của Ngân hàng Đông Dương khiến cho bản thân đồng tiền Đông Dương cũng mất giá nghiêm trọng. Số tiền do ngân hàng này phát hành năm 1939 là 216 triệu đồng, đến tháng 10-1945, tới 2.483 triệu. Đồng tiền trong tay người dân Việt Nam “teo lại” nhanh chóng. Giá gạo từ chỗ 4-5 đồng/tạ, đến giữa năm 1945 đã lên tới 700-800 đồng/tạ.
Tình hình văn hóa và y tế cũng thê thảm khôn xiết. Sau 80 năm chịu sự “khai hoá văn minh” của người Pháp, hơn 90% dân số Việt Nam vẫn không biết đọc, biết viết. Sự dốt nát dẫn tới những tệ nạn mê tín, dị đoan, những hủ tục vừa tốn kém, vừa vô ích cho đời sống.
Trong lĩnh vực y tế, dịch tả diễn ra ở nhiều nơi, giết chết hàng vạn người. Nạn đói, rét đã sản sinh ra không biết bao thứ bệnh tật mà trước đó chưa được gọi tên. Trên mọi nẻo đường Việt Nam, nhất là ở nông thôn, các thị trấn nhỏ, người Việt Nam trông thật tiều tụy, rách rưới, bẩn thỉu, đầy rẫy bệnh tật. Đó cũng là kết quả của sự “khai sáng” trong 80 năm Pháp thuộc và 5 năm “cách mạng da vàng” Nhật Bản.
Sau khi cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh với uy tín cá nhân và tình cảm sẵn có đã liên lạc với chính phủ của các cường quốc và các nước láng giềng để tìm kiếm bạn bè. Nhưng tiếc thay, nỗ lực ấy không mấy thành công!
Với Mỹ, sau quãng thời gian thắm thiết ngắn ngủi của giai đoạn tiền khởi nghĩa, từ tháng 8-1945 trở đi, Tổng thống Mỹ Tơruman áp dụng một chính sách xích lại gần với các nước thực dân hơn là ngả về những dân tộc bị áp bức. Những đoàn đặc nhiệm của Mỹ tới Việt Nam để giúp đỡ kháng chiến chống Nhật từ thời kỳ tiền khởi nghĩa lần lượt ra đi.
Còn lại ba trong năm cường quốc nữa là Pháp, Anh và Trung Hoa dân quốc thì người Việt Nam không đặt bao nhiêu hy vọng, ngược lại họ còn là kẻ thù của cách mạng Việt Nam. Theo hiệp định của các nước Đồng minh ký tại Pốtxđam tháng 7-1945, Đông Dương từ phía bắc vĩ tuyến 16 sẽ được giao cho quân đội Trung Hoa dân quốc để giải giáp quân đội Nhật. Quân đội Anh cũng làm nhiệm vụ đó từ vĩ tuyến 16 về phía Nam.
Ở phía Bắc, ngày 28-8-1945, 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc tiến vào lãnh thổ Việt Nam. Nhưng lực lượng ô hợp này làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thì ít, cướp bóc thì nhiều. Về kinh tế, họ buộc Việt Nam phải chấp nhận cho họ sử dụng hai loại tiền là Quan kim và Quốc tệ để mua hàng hóa trên thị trường Việt Nam và áp đặt một chế độ giá cả cực kỳ phi lý. Thực tế, họ đã dùng giấy lộn để đổi lấy những của cải thật của Việt Nam.
Quân đội Trung Hoa dân quốc còn kéo sang nước ta một đám người Việt lưu vong từ nhiều năm bên Trung Quốc, thuộc những đảng phái cũng ô hợp như họ. Trung Hoa dân quốc muốn dùng những thành phần lưu vong này để lập ra một chính phủ bù nhìn làm tay sai cho họ. Sự hiện diện và cách hành xử của 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc thể hiện rõ bản chất một kẻ xâm lược thứ ba sau Pháp và Nhật.
Ở miền Nam, ngày 12-9-1945, tướng Anh Gracey đã đưa 2.000 quân vào Sài Gòn để tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật. Gracey còn cho phép 1.500 quân Pháp đi theo và sau đó, mở cửa tất cả các nhà tù mà quân Nhật đã giam giữ quân Pháp, để cho hàng ngàn lính và thường dân Pháp được tự do. Hơn thế nữa, Gracey còn lấy vũ khí của Nhật trang bị cho những người Pháp này. Đó là cơ sở để bùng nổ cuộc chiến ở miền Nam vào ngày 23-9-1945, tức là chỉ 21 ngày sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập.
Còn Pháp? Ngay từ giữa tháng 8-1945, khi quân đội Nhật đầu hàng Đồng minh thì tướng Đờ Gôn đã cử ba đặc phái viên cấp tốc bay sang Đông Dương và nhảy dù xuống ba miền trên lãnh thổ Việt Nam, mang theo mệnh lệnh của Đờ Gôn hòng phục hồi lại nền thống trị của Pháp ở Việt Nam.
Lúc đó, chỉ có hai nước láng giềng sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam là Chính phủ Thái Lan của Thủ tướng Pridi và Chính phủ Miến Điện. Thủ tướng Pridi rất có cảm tình với cách mạng Việt Nam, ông đã tiếp nhận một phái đoàn đại diện của Chính phủ Việt Nam ở Băng Cốc. Phái đoàn này đã tổ chức mua vũ khí và các phương tiện cần thiết chở về nước, tổ chức huấn luyện các cán bộ điện đài, huấn luyện các lực lượng quân sự và gửi về nước một số tiểu đoàn để chiến đấu. Nhưng động thái này diễn ra không được lâu. Năm 1948, Chính phủ Pridi bị lật đổ. Chính phủ Songram lên cầm quyền đã khủng bố dã man những Việt kiều yêu nước muốn giúp đỡ đất nước. Niềm hy vọng cuối cùng ở nước bạn láng giềng đến đây chấm dứt.
2. Những kỳ tích trên mặt trận kinh tế (9-1945 - 12-1946)
Những khó khăn và hiểm họa kể trên tưởng như khó có thể vượt qua. Song, chính quyền cách mạng tuy còn non trẻ về nhiều mặt nhưng lại có sức mạnh phi thường, bởi vì, đó là chính quyền của dân. Mọi người dân đều coi chính quyền cách mạng là chính quyền của mình và dốc lòng giúp đỡ. Như chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Đây thực sự là chính quyền do dân bầu ra, dựa vào sức dân làm sức mạnh của mình để mưu cầu hạnh phúc cho dân.Trước hết, nói về bộ máy Chính phủ: bộ máy Chính phủ mới được thành lập, gồm những thành phần ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam đương thời. Đó là những chiến sĩ cách mạng tài năng xuất sắc, những chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực công thương, canh nông, luật pháp, giáo dục, y tế, những viên chức đã có kinh nghiệm quản lý trong chế độ cũ và sẵn lòng vận dụng kinh nghiệm đó để phục vụ chế độ mới. Cả những quan lại cao cấp của triều đình Huế và bản thân Hoàng đế Bảo Đại cũng tham gia chính quyền. Hoàng hậu Nam Phương cũng tham gia vào Uỷ ban Kiến thiết đất nước. Điều đó thể hiện sức mạnh của sự đoàn kết dân tộc. Đó chính là điều kiện làm nên những kỳ tích.
Còn quần chúng nhân dân? Dân tộc Việt Nam sau 80 năm dưới ách thống trị của thực dân Pháp, đại đa số người dân bị mù chữ. Thiếu văn hóa, thiếu kiến thức, bao nhiêu tệ nạn xã hội, thói hư tật xấu còn phổ biến. Nhưng dưới ánh sáng của cách mạng, hình như có một phép màu giúp cho mọi người đều muốn thoát ra khỏi thân phận cũ, muốn thay đổi kiếp sống cũ để hưởng một kiếp sống mới tươi sáng hơn, xứng đáng là con dân của một quốc gia độc lập. Chính với tinh thần đó, cùng với sự dìu dắt, hướng dẫn của Chính phủ, cả dân tộc nhanh chóng đổi thay về mọi mặt. Dưới đây, có thể kể đến những thành tích to lớn mà chính quyền cách mạng và toàn dân Việt Nam đã đạt được trong một thời gian ngắn, chỉ 16 tháng kể từ tháng 8-1945 cho tới ngày toàn quốc kháng chiến vào tháng 12-1946.
Giặc đói cùng với giặc dốt là bạn đồng minh của giặc ngoại xâm. Ngay ngày mùng 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên nhiệm vụ trước mắt của Chính phủ: Phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành.
Nhưng chống đói bằng cách nào? Gạo không còn. Lụt tứ tung. Nhiều nơi đã cấy rồi nhưng lúa chết vì ngập nước. Vụ tới còn gì để ăn? Nguồn tiếp tế từ Nam ra Bắc chỉ vận chuyển được 20 nghìn tấn, sau đó phải dừng lại từ khi xảy ra chiến sự ở Nam Bộ. Nhập khẩu thì hoàn toàn không hy vọng vì không có ngoại tệ! Chỉ còn một cách là tự cứu lấy mình. Cứu bằng cách nào?
Các chuyên gia trong Chính phủ, các vị hiền tài khắp cả nước đã hiến kế giúp Chính phủ chống nạn giặc đói. Đi đầu trong việc đề xuất ý kiến chính là các chuyên gia nông nghiệp đã từng học Trường Cao đẳng Canh nông trước đây (Nghiêm Xuân Yêm, Hoàng Văn Đức, Cù Huy Cận...). Sau khi khẩn trương bàn bạc, nắm chắc tình hình cụ thể, Chính phủ đề ra hai biện pháp cứu đói khẩn cấp: Nhường cơm sẻ áo là giải pháp trước mắt và tăng gia sản xuất là giải pháp lâu dài.
Toàn dân thể hiện tinh thần đoàn kết, đùm bọc nhau vượt qua cơn hoạn nạn. Phong trào nhường cơm sẻ áo được phát động trong cả nước. Những thân hào, thân sĩ, những công thương gia... ai có tiền thì góp tiền, ai có thóc thì góp thóc cho quỹ cứu đói. Cán bộ, chiến sĩ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh gương mẫu thực hiện 10 ngày nhịn ăn một bữa để dành gạo cứu đói. Trong tuần lễ phát động chiến dịch cứu đói, vị đại biểu Quốc hội cao tuổi nhất là cụ Ngô Tử Hạ đã đích thân kéo chiếc xe bò, xuất phát từ Nhà hát Lớn để đi quyên gạo, quyên tiền cho công cuộc cứu đói. Nhà nước cũng tổ chức những địa điểm phát chẩn để cung cấp cơm, cháo hay bất cứ thức gì ăn được cho những người đang quá đói. Nhờ đó, hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn chiếc dạ dày lép kẹp chờ chết, những thân thể chỉ có da bọc xương đã được cứu sống. Từ cuối tháng 9-1945, cảnh chết đói gần như đã chấm dứt.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào số lúa gạo có sẵn để cứu đói thì chỉ có tính cầm cự nhất thời. Biện pháp lâu dài là phải sản xuất. Ngay từ sau ngày tuyên ngôn độc lập, khắp nơi đều phát động chiến dịch tăng gia sản xuất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra một khẩu hiệu thật đơn giản nhưng vô cùng thống thiết:
Tăng gia sản xuất,
Tăng gia sản xuất ngay,
Tăng gia sản xuất nữa!
Để thực hiện chủ trương tăng gia sản xuất, khắp nơi đề ra khẩu hiệu “Tấc đất tấc vàng”, tức là tận dụng mọi nơi mọi chỗ có thể trồng trọt được. Ở các trường học, học sinh được phép cuốc sân trường lên để trồng khoai, trồng ngô. Trên các vỉa hè thành phố, thanh niên, chiến sĩ đào đất lên để trồng khoai, trồng sắn. Trên các bờ đê sông Hồng, thanh niên nam nữ thay phiên nhau ra cuốc đất trồng ngô, khoai, sắn. Ở nông thôn, Nhà nước yêu cầu tất cả ruộng đất đều phải được canh tác. Ruộng nào không canh tác hết thì chính quyền địa phương có quyền tạm trưng dụng để cho những người nông dân tổ chức sản xuất, tạo ra thu hoạch. Một phong trào sản xuất trong cả nước được phát động rầm rộ bằng mọi hình thức. Nhiều sáng kiến đã xuất hiện. Thí dụ: sau khi nước lụt đã rút hết, đã qua mùa cấy lúa, chỉ có thể trồng khoai nhưng khoai thì phải có dây làm giống. Trong tình hình khoai giống khan hiếm vì nhu cầu quá lớn, Kỹ sư Hoàng Văn Đức đã tìm ra một giải pháp: lấy dây khoai trồng tạm trong vòng ba tuần, khoai chưa ra củ nhưng đã ra rễ thì đào lên cắt từng đoạn giống, nhân lên gấp 5, gấp 10 lần để phát triển diện tích trồng khoai. Vụ thu hoạch có thể chậm hơn 2-3 tuần, nhưng diện tích và sản lượng thì tăng hơn 5-10 lần. Chính nhờ sáng kiến đó, đến khoảng tháng 10, tháng 11-1945, trên cả nước đã có những vụ thu hoạch lúa, ngô, khoai sắn đầu tiên. Nhân dân cả nước có thể nhoẻn miệng cười thoát cơn bĩ cực. Cảnh chết đói đầy đường chắc chắn sẽ không còn xảy ra dưới chính quyền cách mạng.
Để đảm bảo sản xuất vững chắc, vấn đề quan trọng muôn thuở của nông nghiệp Việt Nam là đê điều. Tháng 8-1945, đê vỡ hàng loạt chính là vì những chính quyền cũ bỏ bê việc củng cố hệ thống đê, khiến cho đê điều sạt lở liên tiếp trong 4-5 năm mà không được gia cố. Nay, chính quyền cách mạng tổ chức đắp lại, củng cố tất cả những đoạn đê bị vỡ, sạt lở. Cho đến tháng 10-1945, hầu hết các đoạn đê vỡ đã được tu bổ, những đoạn đê xung yếu đã được bồi đắp.
Nhờ tất cả những cố gắng đó, đến năm 1946, nạn đói đã bị đẩy lùi. Sản lượng lương thực năm 1946 đạt 1.155.000 tấn, gấp đôi năm 1945. Trong diễn văn kỷ niệm một năm Quốc khánh 2-9-1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp tuyên bố: “Cách mạng đã chiến thắng nạn đói. Thực là một kỳ công của chế độ dân chủ”2.
Về tài chính, chỉ hai ngày sau tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng uy tín của mình đã đưa ra sáng kiến thành lập Quỹ độc lập. Tất cả mọi người, già, trẻ, trai, gái, giàu, nghèo, người Việt hay người ngoại quốc đều có thể đóng góp giúp Chính phủ có phương tiện tài chính để duy trì nền độc lập Việt Nam. Sau đó ít lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại phát động Tuần lễ vàng để phát động bà con trong và ngoài nước, ai có vàng bạc châu báu muốn đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập quốc gia đều có thể đóng góp vào quỹ này. Chính Quỹ độc lập và Tuần lễ vàng đã giúp cho Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Chính phủ không tiền trở thành Chính phủ có tiền. Dù không nhiều, nhưng tiền đóng góp của toàn dân ít nhất đã giúp Chính phủ có thể lo ở mức tối thiểu những việc quốc gia đại sự, như cứu đói, đắp đê, chữa bệnh, giáo dục, quốc phòng, ngoại giao... Đó là một kỳ tích nữa của cách mạng.
Về tiền tệ, sau Cách mạng Tháng Tám, tình hình tiền tệ ở Việt Nam rất phức tạp. Ngoài những đồng tiền Quan kim và Quốc tệ do quân đội Trung Hoa dân quốc mang vào thì đồng bạc lưu hành chính thức ở Việt Nam vẫn là giấy bạc do Ngân hàng Đông Dương phát hành. Khi phát xít Nhật đảo chính lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp, giấy bạc Đông Dương vẫn được Nhật cho lưu hành. Quân đội Nhật kiểm soát hoạt động của ngân hàng này. Đây là vấn đề rất khó khăn và phức tạp. Chính phủ cách mạng đã tuyên bố đứng về phe Đồng minh và đang ra sức tranh thủ sự thừa nhận của những cường quốc trong Đồng minh. Nếu tiến hành chiếm Ngân hàng Đông Dương, tức là động chạm đến Chính phủ Pháp, một trong những thành viên của Đồng minh. Do đó, Chính phủ Hồ Chí Minh lựa chọn một chủ trương mềm dẻo, để vừa đạt được mục đích, vừa không tạo ra thêm những bất lợi về mặt chính trị. Vì những lý do đó, việc không chiếm Ngân hàng Đông Dương là một lựa chọn đúng đắn.
Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam đã có những biện pháp đấu tranh tích cực để buộc ngân hàng này phải thực hiện một số yêu cầu của Chính phủ. Trước hết là việc phải cung cấp tiền cho Chính phủ cách mạng với lý do: Trong tất cả các công sở mà Pháp xây dựng ở Việt Nam đương thuộc quyền quản lý trực tiếp của Chính phủ cách mạng, viên chức đều là nhân viên của Pháp. Chính phủ Pháp không thể không trả lương cho các nhân viên đó. Đây là một đòi hỏi chính đáng và phía Pháp đã thừa nhận. Tuy nhiên, họ vẫn gây rất nhiều khó khăn cho Chính phủ ta. Lúc thì Pháp tuyên bố tờ giấy bạc 500 đồng không còn hiệu lực, đồng nghĩa với việc tước đoạt của người dân Việt Nam tờ giấy bạc này. Một cuộc biểu tình lớn của quần chúng trước Ngân hàng Đông Dương phản đối biện pháp đó. Cuối cùng, phía Pháp phải nhượng bộ. Rồi họ lại đơn phương phát hành loại tiền 100 đồng mới để chi tiêu trong xã hội, ngoài sự kiểm soát của Chính phủ cách mạng. Chính phủ Việt Nam tuyên bố, tất cả những tờ giấy bạc mới phát hành đều không có giá trị nếu không được đóng dấu Việt Nam dân chủ cộng hòa. Thị trường lúc này vẫn nằm trong tay người Việt Nam. Người Việt Nam thấy giấy bạc không có con dấu thì không bán hàng. Người Pháp cuối cùng không những phải nhượng bộ, mà còn đem số tiền đã phát hành đó đến nhờ Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đóng dấu xác nhận để người Pháp có thể chi tiêu. Đó là một thắng lợi nữa.
Để tranh thủ độc lập về chính trị, Chính phủ Việt Nam phải tuyên bố thừa nhận những quyền lợi về kinh tế của tư bản Pháp trên đất nước Việt Nam. Nếu Chính phủ phát hành đồng tiền mới, sẽ ảnh hưởng đến vấn đề chính trị nhạy cảm này. Tuy chưa thể phát hành đồng tiền mới, Việt Nam vẫn tích cực chuẩn bị cho động thái này. Nhà tư sản đỏ Đỗ Đình Thiện đã hiến cho Chính phủ toàn bộ Nhà máy in Taupin của ông để phục vụ cho nhu cầu này. Từ ngày 31-1-1946, những tờ giấy bạc Cụ Hồ đầu tiên đã xuất xưởng. Việc phát hành được tính toán rất chu đáo. Đầu tiên, tờ giấy bạc này được phát hành ở Nam Trung Bộ, là nơi không có quân đội Anh và cũng không có quân đội Trung Hoa dân quốc. Nhân dân đón mừng nồng nhiệt và sẵn sàng đổi giấy bạc Đông Dương lấy giấy bạc Cụ Hồ với tỷ giá 1,2 đồng Đông Dương bằng 1 đồng bạc Cụ Hồ. Nhờ đó, từ Nam Trung Bộ, chính quyền địa phương đã rút ra một số lượng khá lớn giấy bạc Đông Dương để cung cấp cho Nam Bộ và Bắc Bộ, đồng thời tờ giấy bạc Cụ Hồ đã vững chân trên một phần đất nước Việt Nam. Nhân dân nhìn thấy hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, thấy dòng chữ Việt Nam dân chủ cộng hòa thì đón nhận không chỉ như một đồng tiền, mà như một “chứng chỉ” của một nước Việt Nam độc lập. Từ giữa năm 1946, quân đội Trung Hoa dân quốc rút khỏi miền Bắc Việt Nam, quân đội Anh cũng ra đi, trên đất nước Việt Nam chỉ còn hai đồng tiền song song tồn tại, đó là tiền Đông Dương và giấy bạc Cụ Hồ. Đến lúc này thì Pháp đã trở mặt trên nhiều lĩnh vực. Hy vọng vớt vát hòa bình ngày càng xa vời. Từ tháng 8-1946, Chính phủ cho phép phát hành tiền ra cả Bắc Trung Bộ. Sau đó, giấy bạc Cụ Hồ đã tràn cả ra miền Bắc, và đến tháng 11-1946, Nhà nước chính thức cho phát hành giấy bạc Cụ Hồ trên phạm vi cả nước.
Như vậy, khi bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, Việt Nam đã có đồng tiền riêng của mình, một đồng tiền độc lập của một quốc gia độc lập.
II- ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT, XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ KHÁNG CHIẾN, TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT
Những nỗ lực cứu vãn hòa bình của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngăn chặn được cuộc chiến tranh từ phía thực dân Pháp. Ngày 18-12-1946, người Pháp gửi tối hậu thư: nếu không chấp nhận những yêu cầu của họ thì họ phải tự nắm lấy quyền giữ trật tự, có nghĩa là loại toàn bộ Chính phủ Hồ Chí Minh khỏi vũ đài chính trị. Đến nước đó, không còn cách nào khác là dùng súng đạn nói chuyện với súng đạn. Cuộc kháng chiến trường kỳ bắt đầu trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
1. Đường lối kinh tế kháng chiến
Kháng chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện là một chủ trương bao trùm tất cả mọi hoạt động kháng chiến, mọi tầng lớp nhân dân. Cả dân tộc Việt Nam vùng dậy kháng chiến trên tất cả các mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và ngoại giao.
Vừa kháng chiến vừa kiến quốc là một chủ trương lớn của Đảng, được xác định ngay trong bản Chỉ thị ngày 25-11-1945 của Ban Thường vụ Trung ương, trở thành khẩu hiệu công khai lần đầu tiên tại phiên họp Quốc hội vào tháng 11-1946. Đó là khi cuộc kháng chiến sắp tới gần. Tên cuộc họp Quốc hội đó được đặt là Quốc hội kháng chiến và kiến quốc.
Vì lực lượng hai bên không cân sức, cho nên không thể tiến hành chiến tranh chớp nhoáng mà phải kéo dài, phải kháng chiến trường kỳ. Thời gian sẽ ủng hộ lực lượng kháng chiến và gây bất lợi cho đối phương.
Nhưng trường kỳ kháng chiến thì phải kiến tạo một cuộc sống ổn định, có thể tồn tại lâu dài và ổn định để đối đầu với Pháp trong nhiều năm. Muốn như vậy phải kiến quốc. Kiến quốc là xây dựng một cuộc sống toàn diện về kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế. Chính vì vậy, bộ đội, cơ quan đi đến đâu, ngoài việc dựa vào dân về chỗ ở, chỗ ăn, đều phải tự túc một phần. Trong công nghiệp, Nhà nước tập trung cho mấy lĩnh vực quan trọng, như công nghiệp quốc phòng, sản xuất vũ khí và đạn dược cho chiến tranh. Ngoài ra, những ngành sản xuất khác để cho nhân dân tự lo, như vải mặc, đường, mực, phấn viết, ngòi bút, thuốc lá, các đồ dùng gia đình. Nông dân được Nhà nước khuyến khích tăng gia để nuôi mình, góp phần nuôi bộ đội. Chợ búa được khuyến khích phát triển, các luồng giao lưu hàng hoá hầu hết do thương nhân đảm nhiệm và Nhà nước giúp đỡ để có thể lưu thông hàng hoá từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Để thể hiện mối quan hệ khăng khít giữa hai nhiệm vụ lớn kháng chiến và kiến quốc, trong một bài thơ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ:
Ruộng rẫy là chiến trường
Cuốc cày là vũ khí,
Nhà nông là chiến sĩ,
Hậu phương thi đua với tiền phương.
Chính nhờ tư tưởng vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, cho nên cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam không bị hụt hẫng, suy yếu trong quá trình chiến tranh. Ngược lại, hậu phương của cuộc kháng chiến ngày càng được củng cố, khả năng cung ứng cho quân đội, cơ quan và cán bộ càng ngày càng được đảm bảo tốt hơn. Đó chính là một trong những điều kiện quan trọng để duy trì cuộc kháng chiến trường kỳ, khiến cho quân đội Pháp ngày càng gặp nhiều khó khăn, bị tiêu hao sức lực, trong khi lực lượng cách mạng ngày càng trưởng thành lớn mạnh.
Đại đoàn kết là một tư tưởng lớn về chính trị. Mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam, bất kể thành phần tôn giáo, tín ngưỡng, đều một lòng đoàn kết dân tộc, hướng tới độc lập, tự do và hạnh phúc cho toàn dân. Mọi thành phần xã hội đều là thành viên của sự nghiệp kháng chiến chống Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dùng chữ: “Sĩ, nông, công, thương, binh”3 để nói về các thành phần của cuộc kháng chiến. Trong nhiều lần trả lời báo chí nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói thẳng: Lúc này chúng tôi chưa đặt vấn đề đấu tranh giai cấp, mục tiêu số một lúc này là đấu tranh chống thực dân xâm lược. Chính vì vậy, trong một thời gian dài, tất cả các thành phần xã hội Việt Nam đều toàn tâm, toàn lực đóng góp cho kháng chiến. Người có khả năng nhiều đóng góp nhiều, người có khả năng ít đóng góp ít. Về quan điểm giai cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh có lần đã nói về quan hệ chủ thợ như sau: “Chủ và thợ hợp tác chặt chẽ, thì hai bên đều có lợi…, mà còn lợi chung cho nền kinh tế của Tổ quốc, lợi chung cho toàn thể đồng bào”4.
“Tự lực cánh sinh” là một phương châm chiến lược của cuộc kháng chiến. Như trên đã nói, cho tới năm 1950, Việt Nam ở trong cảnh bị bao vây cô lập, không biết trông cậy vào bất cứ ai để tiến hành cuộc kháng chiến. Cách duy nhất có thể là dựa vào sức mình. Sức mình chính là sức của bộ đội, cán bộ và chủ yếu là sức dân. Dân nuôi bộ đội, dân cho ăn, dân cho ở, dân cho quần áo... Chính phủ cần chi tiêu thì in tiền như một biện pháp để giải quyết ngân sách. Nhờ vào lòng yêu nước của toàn dân, đồng tiền Việt Nam lúc đó (thường gọi là tiền tài chính) hoàn toàn không dựa vào thứ bản vị nào. Nói chính xác hơn, bản vị duy nhất khi đó là lòng dân, thế mà đồng tiền phát huy giá trị rất hiệu quả, phục vụ đắc lực cho cuộc kháng chiến.
Tự cấp tự túc tức là từng vùng, từng đơn vị phải tự lo các nhu yếu phẩm cho mình. Cơ quan phải tăng gia sản xuất để có lương thực, thực phẩm. Bộ đội phải tự cấp tự túc một phần để đỡ gánh nặng cho dân. Phải tự cấp tự túc vì trong kháng chiến, các vùng bị chia cắt, giao thông cách trở, vận chuyển khó khăn, khó có thể san bằng nơi thừa nơi thiếu. Vì thế, ở các vùng như Liên khu V, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ, Bình Trị Thiên, Việt Bắc, người dân và cán bộ đều phải tự lo cho mình nào vải, nào gạo, nào thực phẩm, nào quần áo... Chỉ trừ một số nhu yếu phẩm mà mỗi vùng không tự giải quyết được thì Chính phủ phải tổ chức, chẳng hạn vấn đề muối. Việt Bắc là vùng bị bao vây tứ phía, người Pháp biết là Việt Bắc không có muối nên đặt một hệ thống giám sát rất kỹ các cửa khẩu. Tiên liệu được điều đó, từ trước khi kháng chiến bùng nổ, Nhà nước đã đưa được một khối lượng muối rất lớn lên Việt Bắc và lập những kho dự trữ muối ở đây, đồng thời mở nhiều tuyến đường từ biển để đưa muối lên Việt Bắc. Ngoài những nhu yếu phẩm như muối, có những hàng hóa khác không sản xuất được tại địa phương. Việc này phải nhờ tới các thương nhân len lỏi vào vùng tạm chiếm để mua về, đó là các loại thuốc chữa bệnh, hoá chất cần thiết cho việc in tiền và chế tạo vũ khí. Hiện thực này cho thấy, tư tưởng tự cấp tự túc trong thời chiến hoàn toàn khác với hình thức kinh tế tự nhiên. Kinh tế tự cấp tự túc là do tình thế đặt ra chứ không phải là một chủ trương đối lập với kinh tế thị trường. Ngược lại, trong vùng kháng chiến, chợ búa vẫn họp, giao lưu, đường bộ, đường thuỷ rất phát triển.
Cần kiệm liêm chính, đồng cam cộng khổ là một khẩu hiệu lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong điều kiện kinh tế khó khăn, nguyên tắc quan trọng là phải cần cù, chăm chỉ trong công việc và trong nếp sống. Bộ đội phải lo chiến đấu, cán bộ phải lo làm tròn trách nhiệm, ngoài ra phải ra sức tăng gia sản xuất.
Trong hoàn cảnh thiếu thốn thì tiết kiệm là một nguyên tắc. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng mặc áo vá, viết giấy tận dụng cả hai mặt... Tác phong đó đã thấm sâu tới mọi thành viên của Hội đồng Chính phủ và từ đó, tới chiến sĩ, tới cán bộ, tới toàn dân. Kẻ nào hoang phí trong hoàn cảnh đó bị cả xã hội lên án. Trường hợp Trần Dụ Châu là một thí dụ tiêu biểu.
Liêm, chính là không tham ô, không lấy của công. Đối với dân, không được lạm dụng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dặn chiến sĩ và cán bộ là không được động đến cái kim, sợi chỉ của dân. Hầu hết, bộ đội và cán bộ thời kỳ này đều thực hiện tốt nguyên tắc đó.
Để thực hiện “cần kiệm liêm chính” trong điều kiện kinh tế khó khăn, trên dưới phải bình đẳng không những về trách nhiệm, về công việc, mà phải bình đẳng cả về mức sống, tức là đồng cam cộng khổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường cùng ăn với cán bộ chiến sĩ, mức ăn hoàn toàn như nhau; trong hàng ngũ cán bộ chiến sĩ, quần áo đều giống nhau. Đồng cam cộng khổ không chỉ là một giải pháp của sự thiếu thốn, mà còn là một yếu tố tinh thần vô cùng quan trọng, làm cho mọi người nhận thấy rằng, trong công cuộc kháng chiến, mọi người đều dốc lòng cho sự nghiệp chung, không ai mưu cầu sự giàu sang cho riêng mình. Đó là một trong những vẻ đẹp của thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
2. Những thành tựu kinh tế trong kháng chiến
Nông nghiệp: Vùng tự do trong kháng chiến là nơi không có những cánh đồng rộng lớn, trừ Khu IV với các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, còn phần lớn đều thuộc địa hình đồi núi. Đất đai hoang hóa thì nhiều, nhưng ruộng lúa lại tương đối ít. Tuy nhiên, với chính sách toàn dân tăng gia sản xuất, lại được sự giúp đỡ tận tình của Chính phủ, các cơ quan, các đơn vị bộ đội, cho nên nông nghiệp trong suốt thời kỳ kháng chiến được đảm bảo ổn định, phát triển và đủ cung cấp cho kháng chiến.
Trong kháng chiến, tất cả các cơ quan, đơn vị đều tham gia sản xuất nông nghiệp. Đi đến đâu cũng phải khai phá thêm đất đai để trồng khoai, trồng sắn, trồng rau... Từ Chủ tịch Hồ Chí Minh đến các vị bộ trưởng, ngày nào cũng phải dành thời gian để tăng gia sản xuất, nhằm tự túc một phần lương thực và thực phẩm, để giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân. Liên khu V có thành tích nổi bật về việc sản xuất tự túc của các cơ quan. Một số tỉnh ở Liên khu V có thể tự túc về ăn từ 4 đến 8 tháng.
Những bà con tản cư từ thành thị về nông thôn, ngoài các nghề buôn bán, dịch vụ cũng khai phá đất đai để trồng trọt, chăn nuôi. Vì thế, trong suốt thời kỳ kháng chiến, không xảy ra nạn đói. Ở đâu có đất là ở đó có cái ăn.
Tất nhiên, tuyệt đại bộ phận sản xuất nông nghiệp vẫn trong tay nông dân. Nhà nước đã có những sự hỗ trợ nhất định về vốn, về thủy lợi, về kỹ thuật... Từ năm 1947 đến năm 1951, Sở Tín dụng sản xuất đã cho vay vào khu vực nông nghiệp là 181 triệu đồng tiền Tài chính5.
Về thủy lợi, bộ đội, cơ quan đi đến đâu cũng tổ chức giúp dân xây dựng các cơ sở tiểu thủy nông để tăng vụ cho sản xuất. Tính từ năm 1946 đến năm 1954, diện tích được tưới bằng tiểu thủy nông trong vùng kháng chiến tăng gần 20 lần: Từ 22.500ha lên 405.300ha.
Nhờ những cố gắng kể trên, cho nên sản lượng lúa trong thời kỳ kháng chiến không những không giảm mà có xu hướng tăng lên.
Ruộng đất là một trong những vấn đề lớn của sản xuất nông nghiệp. Sau Cách mạng Tháng Tám đến hết năm 1952, Đảng và Chính phủ chưa chủ trương làm cách mạng ruộng đất, nhưng có nhiều biện pháp để giải quyết vấn đề ruộng đất một cách hợp tình hợp lý. Ngày 13-11-1945, Nhà nước đã ra thông tư về việc giảm 25% mức địa tô đối với tá điền, người cấy rẽ, cấy thuê. Đến ngày 28-11-1946, Chính phủ lại ra thông tư nhắc lại việc giảm 25% địa tô cho những người lĩnh canh. Đến ngày 14-7-1949, Nhà nước ban hành Sắc lệnh 78/SL về việc giảm địa tô 25%. Tính đến tháng 4-1952, các tỉnh thuộc Liên khu Việt Bắc, bảy tỉnh thuộc Liên khu III và bốn tỉnh thuộc Liên khu IV đã có 147.000 mẫu ruộng được giảm tô đúng mức 25%. Ở Liên khu V, diện tích giảm tô 25% đã lên tới 250.000 mẫu. Số địa chủ thực hiện giảm tô là 146.000 người, số tá điền được hưởng chính sách giảm tô là 291.000 người, số lúa giảm tô là 4.262 tấn7...
Cùng với việc thực hiện giảm tô, tháng 5-1950, Nhà nước ban hành Quy chế lĩnh canh, nhằm đảm bảo quyền lợi ổn định cho những người lĩnh canh. Ngày 1-7-1949, Nhà nước ban hành Quy chế 75/SL về việc tạm cấp ruộng đất của Việt gian và thực dân Pháp cho nông dân, bộ đội, du kích và những người tá điền đã từng lĩnh canh trên mảnh đất đó. Mức tạm cấp tối đa ở Bắc Bộ và Trung Bộ là 0,5 ha/người, ở Nam Bộ là 1ha/người…
Đến tháng 3-1952, Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về sử dụng công điền công thổ, dựa trên nguyên tắc chia cấp công điền một cách công bằng, dân chủ và có lợi cho nông dân nghèo.
Với tất cả những biện pháp kể trên, phần lớn ruộng đất đã chuyển về tay người cày. Ước tính từ năm 1945 đến năm 1953, đã có tất cả 302.840ha ruộng đất từ các nguồn khác nhau (của thực dân Pháp, ruộng công và nửa ruộng công, ruộng hiến, ruộng trưng mua, trưng thu của địa chủ) được tạm cấp, tạm giao cho nông dân. Như vậy, là đã giải quyết tới 58,3% tổng số ruộng đất thuộc loại này (518.710ha). Cho tới trước cải cách ruộng đất, tháng 12-1953, trên thực tế, thành phần gọi là địa chủ chỉ còn chiếm hữu non một nửa diện tích đất của họ trước cách mạng. Riêng ở 3.035 xã thuộc miền Bắc, họ còn chiếm hữu khoảng 215.915ha, tức là khoảng 40% tổng số diện tích của họ có trước năm 19458. Ở Liên khu V, chỉ tính riêng các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, đã có tới 207.000 mẫu, tức gần 25% diện tích đất của bốn tỉnh đã được chia lại cho nông dân.
Ở Nam Bộ, có khoảng 6.000 địa chủ đã bỏ ruộng đất ở vùng nông thôn về ở trong các thành phố. Toàn Nam Bộ đã chia khoảng 564.547ha cho 527.153 nhân khẩu, tính trung bình mỗi người được chia 1ha9…
Tuy nhiên, từ năm 1953, chịu ảnh hưởng của những kinh nghiệm nước ngoài, lại do bệnh ấu trĩ, “tả” khuynh trong vấn đề giai cấp, đã có phong trào phát động quần chúng giảm tô tiến tới cải cách ruộng đất, trong đó có việc đấu tố địa chủ, phú nông, gây những tổn thương đáng kể trong khối đại đoàn kết dân tộc. Đặc biệt từ cuối năm 1953, Nhà nước ban hành Luật cải cách ruộng đất, tiến hành việc đấu tố tràn lan ở một số nơi làm thí điểm cải cách ruộng đất trong kháng chiến. Nhất là từ sau khi hòa bình lập lại, nhiều đợt cải cách ruộng đất đã được tiến hành ở những vùng mới giải phóng, gây nhiều tổn thất về kinh tế, xã hội và đặc biệt là về tình cảm trong môi trường nông thôn.
Công nghiệp: Công nghiệp trong thời kỳ kháng chiến chủ yếu là công nghiệp quốc phòng. Nhiều máy móc được vận chuyển từ Hà Nội lên chiến khu để xây dựng các binh công xưởng, chế tạo vũ khí cho kháng chiến. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ngành công nghiệp quân giới đã có những nỗ lực to lớn nhằm đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của quân đội. Cho tới trước năm 1954, Việt Nam bị bao vây tứ phía, nguồn vũ khí từ nước ngoài cung cấp gần như không có. Do đó, chỉ có hai cách là cướp súng đạn của giặc và tự chế tạo vũ khí, nhất là đạn dược. Theo thống kê của ngành quân giới thì tốc độ phát triển của vũ khí đạn dược (tính từ Liên khu IV trở ra, tính bằng tấn vũ khí và đạn dược) như sau: Năm 1946 là 100 thì năm 1947 là 107, 1948 là 1.044, năm 1949 là 3.544, năm 1950 là 2.111, năm 1951 là 1.877, năm 1952 là 1.744, năm 1953 là 3.552.
Ở Liên khu V, nếu năm 1948 là 100 thì năm 1949 là 130, năm 1950 là 243, năm 1951 là 1.087, năm 1952 là 327510.
Còn công nghiệp dân dụng, trừ một vài cơ sở của Nhà nước sản xuất giấy, dệt vải cung cấp cho trường học, bộ đội, phần còn lại hầu hết nằm trong tay các tiểu chủ từ thành phố tản cư ra. Nhà nước giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để họ tổ chức sản xuất những sản phẩm cần thiết cho đời sống nhân dân. Nhiều nhà sản xuất đã có sáng kiến khắc phục những khó khăn về nguyên liệu, máy móc để sản xuất được những nhu yếu phẩm, như vải mặc, xà phòng, thuốc đánh răng, bút máy, bút chì, mực, phấn viết, giày dép. Liên khu V có thành tích lớn về việc đã tổ chức tự túc được hầu hết các nhu yếu phẩm của nhân dân và cán bộ, đặc biệt là vải mặc (vải sita).
Giao thông vận tải: Bước vào kháng chiến, công việc đầu tiên của giao thông vận tải là phá hoại đường sá, cầu cống và phương tiện vận tải để Pháp không thể tấn công vào các vùng kháng chiến. Đã có 10.721km đường trong tổng số 21.026km đường ôtô, 1.540km đường trong tổng số 2.569km đường sắt và 30.560m cầu bị phá hoại.
Sau khi phá xong những phương tiện giao thông kể trên, vùng kháng chiến được bảo vệ một cách thụ động do không còn khả năng vận động bằng cơ giới. Từ đây, mọi hoạt động trong vùng kháng chiến là dựa vào xe đạp, xe ngựa và ngựa, đường thủy, gồng gánh, xe bò, xe trâu, ở một số địa phương cách xa các vùng chiếm đóng của Pháp thì duy trì được một số đoạn đường sắt để phục vụ kháng chiến, vừa chạy bằng tàu có đầu máy kéo, vừa chạy bằng những xe goòng do người đẩy. Liên khu V có đoạn đường dài 307km. Liên khu IV có đoạn đường dài 74km từ bắc Quảng Bình ra tới nam Hà Tĩnh…
Một phát minh lớn trong thời kỳ kháng chiến là chiếc xe thồ. Từ chiếc xe đạp dùng cho người, được cải tiến thành chiếc xe đẩy chở hàng hóa. Mỗi chiếc xe thồ có thể chở được tới 300kg. Những chiếc xe thồ này đã đóng góp quan trọng cho các chiến dịch Tây Bắc, Điện Biên Phủ. Từ năm 1953, Hội đồng cung cấp mặt trận đã huy động tới 12.400 chiếc xe thồ của tư nhân để phục vụ cho các chiến dịch.
Thương nghiệp: Như đã nói ở trên, vùng hậu phương của Việt Nam phần lớn là nông thôn và miền núi. Chợ búa hầu hết là các chợ quê, chợ miền núi họp theo phiên và có phần sầm uất hơn trước, vì người đi chợ không chỉ là những người nông dân quanh vùng mà có thêm cả bộ đội, cán bộ…
Một đặc điểm lớn của thương nghiệp thời kỳ này là có một số lượng đáng kể dân đô thị bỏ vùng Pháp chiếm đóng đi vào vùng tự do. Họ không có ruộng đất và không quen nghề nông, cho nên họ chuyển sang nghề dịch vụ như mở quán nước, quán cà phê, làm thợ may, bán hàng xén ven các con đường kháng chiến. Nhiều phố phường kháng chiến bỗng xuất hiện tại những nơi mà trước đây ít ai biết đến. Ở Việt Bắc, có Đại Từ của Thái Nguyên là nơi thường được gọi là thủ đô kháng chiến. Ở Khu III, có Nho Quan thuộc Ninh Bình là một huyện lỵ nhỏ giáp núi đã trở thành một chợ lớn và đông vui vì bộ đội, cán bộ từ Khu III vào Khu IV đều phải qua vùng này.
Hầu hết các chợ đều phải họp ban đêm. Những người tản cư thì sinh sống trên những nẻo đường xa chợ và gần núi đồi để có thể đào hầm tránh máy bay. Đó là những hiệu cắt tóc, những quán cà phê, những quầy hàng xén, những hàng chữa đồng hồ, mài dao kéo, bán nước chè, bán bún, bánh, phở... Những đường phố mới hình thành này trở thành một trong những nét độc đáo trên những nẻo đường kháng chiến.
Như trên đã nói, thương nghiệp vẫn chủ yếu nằm trong tay tư nhân. Nhà nước chỉ có cơ quan tiếp liệu để mua nhu yếu phẩm cho cơ quan và bộ đội. Từ năm 1951, theo kinh nghiệm của các cố vấn Trung Quốc, Nhà nước đã thành lập một cơ quan thương nghiệp gọi là mậu dịch quốc doanh. Mậu dịch quốc doanh lúc này chưa đảm đương toàn bộ nền thương nghiệp mà chủ yếu chỉ lo kinh doanh một số nhu yếu phẩm tối cần thiết cho kháng chiến là gạo, vải, muối, dầu thắp. Mậu dịch quốc doanh đã tổ chức những chuyến vận tải muối từ miền biển của Liên khu III, qua Hoà Bình, lên Phú Thọ và tới Việt Bắc. Nhiều kho muối được lập ra ở đây để cung cấp muối là thứ nhu yếu phẩm hết sức khan hiếm ở Việt Bắc trước đây. Mậu dịch quốc doanh cũng tổ chức thu mua vải của nhân dân theo giá thị trường và mua vải vùng Pháp chiếm đóng để cung cấp quần áo cho bộ đội.
Từ khi ra đời, mậu dịch quốc doanh đã phát triển nhanh chóng và tham gia tích cực cả trong hai lĩnh vực mua và bán để phục vụ kháng chiến và phục vụ cho đời sống nhân dân: Về mua vào, nếu tính theo đồng ngân hàng cũ thì năm 1951 là 388 triệu đồng, năm 1952 là 4.671 triệu đồng, năm 1953 là 5.958 triệu đồng, năm 1954 là 8.951 triệu đồng. Như vậy, nếu năm 1951 là 100 thì đến năm 1954 là 2.308, tăng hơn 23 lần. Về lượng bán ra của mậu dịch quốc doanh, từ khi thành lập, ba mặt hàng chính cần bình ổn ở thị trường đã tăng lên
Cùng với mậu dịch quốc doanh, Nhà nước đã lập ra các chi điếm xuất nhập khẩu để đảm đương việc buôn bán với vùng Pháp (hình thức ngoại thương duy nhất thời kỳ này). Những chi điếm này không trực tiếp cử người vào vùng Pháp chiếm đóng mua, mà giao cho các thương nhân vào đó để mua các nhu yếu phẩm cần thiết cho Nhà nước. Những chi điếm này cũng giúp đỡ các thương nhân đưa những mặt hàng nông thổ sản vào vùng Pháp, như mây tre, gạo, củ nâu, măng, mộc nhĩ, sa nhân để bán, thu lấy ngoại tệ, rồi mua những nhu yếu phẩm chuyển ra cho mậu dịch quốc doanh. Sau đó, việc kết hối được thực hiện theo giá thị trường. Lúc này, giá cả hoàn toàn là giá thị trường và thuận mua vừa bán, chưa có sự áp đặt nào về định giá và tỷ giá của Nhà nước.
Tài chính và tiền tệ: Thời kỳ đầu, Nhà nước chưa đặt ra các chế độ thuế ổn định mà hoàn toàn dựa vào sự đóng góp tự nguyện của nhân dân. Nguồn chi tiêu chính của bộ đội và Chính phủ lúc này chính là phát hành tiền. Xưởng in tiền ở Bản Thi (Chiêm Hoá, Tuyên Quang) chính là nơi đảm bảo nhu cầu này. Vì chi tiêu cho kháng chiến càng ngày càng nhiều cho nên mức lạm phát tăng lên khá cao.
Nam Trung Bộ và Nam Bộ là nơi xa xôi, hẻo lánh, không thể chuyển tiền tài chính vào được. Vì thế, Nhà nước cho phép Liên khu V phát hành tín phiếu (cũng là một thứ tiền tệ) và Nam Bộ được phát hành giấy bạc Nam Bộ để chi tiêu.
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ II (2-1951), Nhà nước đã tiến hành hàng loạt cải cách trong các lĩnh vực kinh tế. Về tài chính, chấm dứt tình trạng đóng góp tuỳ tiện dựa vào hảo tâm, áp dụng một hình thức thuế gọi là thuế nông nghiệp. Thuế này bắt đầu được thu từ tháng 5-1951 căn cứ vào mức hoa lợi để nộp thuế theo luỹ tiến. Người thu hoạch nhiều đóng góp với tỷ lệ cao, người thu hoạch ít đóng góp với tỷ lệ thấp. Người thu hoạch không đủ thì miễn thuế. Tính trung bình trên toàn vùng kháng chiến, mức thuế thu trên hoa lợi là 18,5%. Mức đó đủ đảm bảo những nhu cầu cho cuộc kháng chiến, cũng đảm bảo cho những người trồng lúa có đủ lương thực để sinh sống. Thuế nông nghiệp rất quan trọng về mặt kinh tế, nó đảm bảo sự ổn định về mặt hậu cần cho cuộc kháng chiến. Từ đây, cán bộ chiến sĩ không có lương mà được lĩnh trực tiếp bằng gạo.
Từ khi thực hiện thuế nông nghiệp, nguồn thu ngân sách được cải thiện đáng kể. Trước đây, lấy phát hành để chi tiêu là chính. Tỷ lệ thu qua phát hành năm 1946 là 72%, năm 1947 là 73%, năm 1948 là 80%, năm 1949 là 82%, năm 1950 là 77%11.
Từ năm 1951, thuế nông nghiệp đã chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số thu ngân sách: năm 1951: 86,2%, năm 1952: 77%, năm 1953: 71%, năm 1954: 54,7%12.
Từ khi có thuế nông nghiệp, cán cân ngân sách đã được cải thiện về căn bản. Từ năm 1952, đã thực hiện được khẩu hiệu tiến tới thăng bằng thu chi: Năm 1952: thu 372.820 tấn thóc, chi 474.796 tấn thóc; năm 1953: thu 635.571 tấn thóc, chi: 535.229 tấn thóc; năm 1954: thu 644.000 tấn thóc, chi 512.000 tấn thóc13. Như vậy, kể từ năm 1953, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng, đã có bội thu ngân sách. Đó là thành tựu rất lớn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Trong lĩnh vực tiền tệ cũng có một cuộc cải cách lớn. Từ ngày 31-5-1951, Ngân hàng quốc gia được thành lập. Việc phát hành tiền được chuyển từ Bộ Tài chính sang Ngân hàng quốc gia và không phải dành cho chi tiêu mà để phục vụ lưu thông.
Đời sống nhân dân: Trong kháng chiến, đời sống nhân dân đương nhiên là vô cùng gian khổ. Thế nhưng, có một điều lạ là người Việt Nam rất dễ thích nghi với những điều kiện khó khăn, kể cả các anh lính cậu từ thành phố về, kể cả các trí thức lớn..., đều sớm thích nghi với cuộc sống ở chiến khu. Những trí thức lớn ở miền Bắc cũng như miền Nam, những người đã từng du học ở Pháp, định cư ở Pháp và sau đó ở các đô thị lớn như Sài Gòn, Hà Nội với một mức sống rất cao. Thế nhưng, khi lên chiến khu, họ chấp nhận cuộc sống mới một cách không khó khăn lắm. Đó là trường hợp các trí thức lớn, như các bác sĩ Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di, Trần Đức Thảo ở miền Bắc. Ở miền Nam là bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, Nguyễn Thiện Thành, Lưu Văn Lang và biết bao nhiêu nhà văn, nghệ sĩ nổi tiếng đã sống ở chiến khu như những người chiến sĩ bình thường. Một đặc điểm của đời sống vùng kháng chiến là ánh sáng văn minh theo cùng các đơn vị kháng chiến. Những vùng đất mà trước đây được coi như khỉ ho cò gáy, thâm sơn cùng cốc, lạc hậu, nghèo nàn, dốt nát thì bây giờ có trường học, người già cũng phải đi học văn hoá, trẻ con có trường học, mọi người dân có trạm y tế, có trạm hộ sinh không khác gì cuộc sống văn minh đô thị. Đó là nét đặc sắc của đời sống kháng chiến.
Từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công đến khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp, vai trò của dân luôn luôn được đặt lên hàng đầu, ngang bằng với lợi ích, trách nhiệm của chính họ. Đây chính là thành công lớn mà chính quyền cách mạng đã sáng suốt nhận thấy và vững tay thực hiện trong cả một giai đoạn dài, góp phần quan trọng vào những thành tựu đáng tự hào của dân tộc Việt Nam, Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam trong chặng đường mới nhiều thử thách.

* Viện Kinh tế Việt Nam.
1. Bộ trưởng Lê Văn Hiến giải thích với tác giả: Đây là cách chơi chữ của Bộ trưởng, nghĩa là không có tiền, đồng thời cũng có nghĩa là trước đó chưa từng có, theo câu thành ngữ “Không tiền khoáng hậu”.
2. Đặng Phong: Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, Sđd, t.1, tr.136.
3. Sĩ là trí thức, nông là nông dân, công là công nhân, thương là thương nhân, binh là binh sĩ.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.106.
5. Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-1954, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr.305.
6. Nguyễn Ngọc Minh: Kinh tế Việt Nam trong chín năm kháng chiến chống đế quốc xâm lược, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 22-1964.
7. Đặng Phong: Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, Sđd, t.1, tr.313.
8. Báo cáo thống kê của Uỷ ban vật giá Trung ương, ngày 22-3-1958.
9. Đặng Phong: Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, Sđd, t.1, tr.313-314.
10. Nguyễn Ngọc Minh: Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1967, tr.197.
11, 12. Nguyễn Ngọc Minh: Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi, Sđd, tr.326, 335.
13. Trích Sổ tay của Bộ trưởng Tài chính Lê Văn Hiến, lưu trữ của Bộ Tài chính, tr.18.