TIẾP TỤC NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG, PHÁT HUY SỨC MẠNH TOÀN DÂN TỘC, ĐẨY MẠNH TOÀN DIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, TẠO NỀN TẢNG ĐỂ ĐẾN NĂM 2020 NƯỚC TA CƠ BẢN TRỞ THÀNH NƯỚC CÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI
Đại hội XI của Đảng họp vào lúc toàn Đảng, toàn dân ta kết thúc thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội X và đã trải qua 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010. Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, đề ra phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2011 - 2015; tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, xác định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020; tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991; kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X; bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI (nhiệm kỳ 2011 - 2015).
Đại hội có ý nghĩa trọng đại, định hướng cho toàn Đảng, toàn
dân ta tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến
giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
I- KIỂM ĐIỂM 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI X; NHÌN LẠI 10 NĂM THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 2001 - 2010, 20 NĂM THỰC HIỆN CƯƠNG LĨNH NĂM 1991
Năm năm qua, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường. Tuy hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố, bất ổn chính trị - xã hội, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ vẫn diễn ra ở nhiều nơi, diễn biến phức tạp. Thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng năng lượng, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu trở thành những vấn đề nghiêm trọng trên quy mô toàn thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính từ Mỹ lan rộng, trở thành cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
I- KIỂM ĐIỂM 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI X; NHÌN LẠI 10 NĂM THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 2001 - 2010, 20 NĂM THỰC HIỆN CƯƠNG LĨNH NĂM 1991
Năm năm qua, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường. Tuy hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố, bất ổn chính trị - xã hội, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ vẫn diễn ra ở nhiều nơi, diễn biến phức tạp. Thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng năng lượng, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu trở thành những vấn đề nghiêm trọng trên quy mô toàn thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính từ Mỹ lan rộng, trở thành cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Thời gian đầu sau Đại hội X, đất nước phát triển thuận lợi,
Việt Nam
trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nhưng từ cuối năm
2007, đầu năm 2008, kinh tế và đời sống gặp nhiều khó khăn. Các thế lực thù
địch tiếp tục chống phá, kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa
bình”. Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu vượt qua
khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện
các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra, nhưng cũng còn nhiều hạn chế, khuyết
điểm cần được khắc phục.
A- THÀNH TỰU
1. Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2001 - 2005, đạt 42,9% GDP. Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao. (1) Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỉ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000; GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Kinh tế nông thôn và đời sống nông dân được cải thiện hơn trước. Việc tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đầu tư, phát triển giống mới có năng suất, chất lượng cao, phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề, tiểu thủ công nghiệp... đã có tác động tích cực đến việc sản xuất, tạo việc làm và xoá đói, giảm nghèo. Sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, đảm bảo cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu. Đã đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao. Khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu lao động cũng có sự chuyển dịch tích cực.(2)
A- THÀNH TỰU
1. Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2001 - 2005, đạt 42,9% GDP. Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao. (1) Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỉ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000; GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Kinh tế nông thôn và đời sống nông dân được cải thiện hơn trước. Việc tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đầu tư, phát triển giống mới có năng suất, chất lượng cao, phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề, tiểu thủ công nghiệp... đã có tác động tích cực đến việc sản xuất, tạo việc làm và xoá đói, giảm nghèo. Sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, đảm bảo cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu. Đã đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao. Khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu lao động cũng có sự chuyển dịch tích cực.(2)
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp
tục được xây dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp
tục được thể chế hoá thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng
bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và
các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành
phần có bước phát triển mạnh. Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành
lập các tập đoàn kinh tế nhà nước đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010,
doanh nghiệp nước ta tăng hơn 2,3 lần về số doanh nghiệp và 7,3 lần về số vốn
so với 5 năm trước. Doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức sản xuất
kinh doanh phổ biến.
2. Giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và các lĩnh vực xã hội có tiến bộ, bảo vệ
tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn; đời sống các tầng lớp nhân dân được
cải thiện
Đổi mới giáo dục đạt một số kết quả bước đầu. Chi ngân sách
nhà nước cho giáo dục, đào tạo đạt trên 20% tổng chi ngân sách; việc huy động
các nguồn lực xã hội cho giáo dục, đào tạo, phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng
sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm. Quy
mô giáo dục tiếp tục được phát triển. Đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố
đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng,
năm 2010 đạt 40% tổng số lao động đang làm việc. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng
tiến bộ khoa học, công nghệ được đẩy mạnh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế
- xã hội. Quản lý khoa học, công nghệ có đổi mới, thực hiện cơ chế tự chủ cho
các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ. Thị trường khoa học, công nghệ bước
đầu hình thành. Đầu tư cho khoa học, công nghệ được nâng lên.
Giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện chính
sách với người và gia đình có công, chính sách an sinh xã hội đạt kết quả tích
cực. Trong 5 năm, đã giải quyết được việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỉ lệ
thất nghiệp ở thành thị giảm còn dưới 4,5%, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%. Công
tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, bình
đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ đạt được một số kết quả quan trọng; mức hưởng
thụ các dịch vụ y tế của nhân dân tăng lên, đặc biệt với trẻ em, người nghèo,
đồng bào dân tộc thiểu số. Chỉ số phát triển con người không ngừng tăng lên;
Việt Nam
đã hoàn thành phần lớn các Mục tiêu Thiên niên kỷ.(3)
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin, thể dục, thể thao
ngày càng mở rộng, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao
của nhân dân. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” từng
bước đi vào chiều sâu.
Nhận thức về bảo vệ môi trường được nâng lên. Việc phòng
ngừa, khắc phục suy thoái, ô nhiễm môi trường được quan tâm và đạt một số kết
quả tích cực. Công tác bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học có tiến bộ.
Chương trình quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu bước đầu được triển khai.
3. Quốc phòng, an
ninh, đối ngoại được tăng cường
Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã
hội chủ nghĩa, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Thế
trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực
quốc phòng, an ninh được tăng cường, nhất là trên các địa bàn chiến lược, xung
yếu, phức tạp. Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh được
triển khai rộng rãi. Sự phối hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại được chú trọng
hơn.
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục được củng cố,
xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, thực
sự là lực lượng tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; làm tốt vai trò tham
mưu, góp phần chủ động phòng ngừa, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”,
hoạt động gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đấu tranh ngăn
chặn và xử lý có hiệu quả các hoạt động cơ hội chính trị, các loại tội phạm
hình sự, nhất là tội phạm nguy hiểm, có tổ chức, tội phạm ma tuý, tội phạm có
yếu tố nước ngoài, tội phạm lợi dụng công nghệ cao, sử dụng vũ khí nóng, chống
người thi hành công vụ; tham gia tích cực, có hiệu quả vào các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống và khắc
phục thiên tai.
Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều
sâu, góp phần tạo ra thế và lực mới của đất nước. Phát triển quan hệ với các
nước láng giềng; thiết lập và nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác quan trọng.
Hoàn thành phân giới cắm mốc trên đất liền với Trung Quốc; tăng dày hệ thống
mốc biên giới với Lào; hoàn thành một bước phân giới cắm mốc trên đất liền với
Campuchia; bước đầu đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ với
Trung Quốc và thúc đẩy phân định biển phía Tây Nam với các nước liên quan. Tham
gia tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn khu vực và quốc tế; đảm nhiệm
tốt vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; đóng góp
quan trọng vào việc xây dựng cộng đồng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
và Hiến chương ASEAN, đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội
đồng liên nghị viện các nước Đông Nam Á (AIPA). Quan hệ với các đảng cộng sản
và công nhân, đảng cánh tả, đảng cầm quyền và một số đảng khác; hoạt động đối
ngoại nhân dân tiếp tục được mở rộng. Công tác về người Việt Nam ở nước
ngoài đạt kết quả tích cực. Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế; đối thoại cởi
mở, thẳng thắn về tự do, dân chủ, nhân quyền.
Nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ký
kết hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương với một số đối tác quan
trọng; mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác; góp phần quan
trọng vào việc tạo dựng và mở rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư của
Việt Nam, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tranh thủ vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) và các nguồn tài trợ quốc tế khác.
4. Dân chủ xã hội chủ
nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố
Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra nhiều chủ trương, chính sách
nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ, bảo đảm lợi ích của nhân dân, vai trò giám
sát của nhân dân đối với hoạt động của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Công tác dân vận của hệ thống chính trị có
nhiều đổi mới cả về nội dung và hình thức. Các cấp ủy đảng, chính quyền lắng
nghe, tăng cường đối thoại với các tầng lớp nhân dân, tôn trọng các loại ý kiến
khác nhau. Dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức và xã hội được mở rộng, nâng
cao; quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn. Việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật được coi trọng.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng tiếp tục được mở rộng và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, mở rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội
viên, tổ chức nhiều phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động có hiệu quả thiết
thực...; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần tích cực vào
những thành tựu của đất nước.
5. Việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động
được nâng lên
Quốc hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, có nhiều đổi
mới, nâng cao chất lượng hoạt động. Hệ thống pháp luật được bổ sung. Hoạt động
giám sát đã tập trung vào những vấn đề bức xúc, quan trọng nhất của đất nước.
Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân
sách nhà nước, các dự án, công trình trọng điểm quốc gia có chất lượng và thực
chất hơn. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội có
nhiều cải tiến nội dung, phương pháp công tác; đề cao trách nhiệm của đại biểu
Quốc hội.
Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ được sắp xếp, điều
chỉnh, giảm đầu mối theo hướng tổ chức các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực (4)
. Quản lý, điều hành của Chính phủ, các bộ năng động, tập trung nhiều hơn vào
quản lý vĩ mô và giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính
tiếp tục được chú trọng, đã rà soát, bước đầu tổng hợp thành bộ thủ tục hành
chính thống nhất và công bố công khai. Việc thực hiện thí điểm đổi mới về tổ
chức bộ máy chính quyền địa phương (không tổ chức hội đồng nhân dân quận,
huyện, phường) được tập trung chỉ đạo để rút kinh nghiệm.
Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp có một số đổi
mới. Việc tăng thẩm quyền cho toà án cấp huyện, nâng cao chất lượng tranh tụng
tại phiên tòa, đề cao vai trò của luật sư trong tố tụng được thực hiện bước đầu
có kết quả. Việc thực hiện các thủ tục tố tụng ngày càng tốt hơn, hạn chế được
tình trạng điều tra, truy tố, xét xử oan, sai hay bỏ lọt tội phạm. Chất lượng
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được nâng lên.
Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí
và Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được
chỉ đạo tích cực, đạt một số kết quả. Nhiều vụ án tham nhũng được đưa ra xét
xử. Trên một số lĩnh vực, lãng phí, tham nhũng từng bước được kiềm chế.
6. Công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực
Công tác lý luận đã chủ động nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn của công cuộc đổi mới, diễn biến mới của tình hình thế giới; giá
trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tập
trung vào tổng kết và bổ sung, phát triển Cương lĩnh, xây dựng Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và các văn kiện khác trình Đại hội XI của
Đảng.
Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng có đổi
mới. Coi trọng hơn nhiệm vụ xây dựng đạo đức trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân; tập trung chỉ đạo có kết quả bước đầu cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chủ
động hơn trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, bác bỏ các quan điểm sai
trái, luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch. Các hoạt động thông tin,
báo chí, xuất bản được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; chú trọng ngăn ngừa, khắc
phục những lệch lạc, nhất là biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích. Công tác thông
tin đối ngoại được đẩy mạnh. Đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin
tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của
đất nước. Tư tưởng tích cực vẫn là xu hướng chủ đạo trong đời sống xã hội.
Công tác tổ chức, cán bộ được triển khai thực hiện tương đối
đồng bộ. Tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, nhà nước các cấp được sắp xếp, kiện
toàn theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Đã xây dựng, bổ sung các quy định
về chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động và lề lối làm việc của mỗi tổ
chức; ban hành nhiều quy chế phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống chính
trị. Tổng kết, rút kinh nghiệm, xác định rõ hơn tổ chức và hoạt động các đảng
đoàn, ban cán sự đảng trong các cơ quan hành pháp và tư pháp ở trung ương và
cấp tỉnh, ban cán sự đảng và mô hình tổ chức đảng ở các đơn vị sự nghiệp trực
thuộc Chính phủ.
Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán
bộ được thể chế hoá, cụ thể hoá thành các quy chế, quy định. Đã triển khai
tương đối đồng bộ các khâu: quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ, trong
đó công tác quy hoạch, đào tạo và luân chuyển cán bộ có những chuyển biến tích
cực. Tăng cường phân cấp trong công tác cán bộ. Đội ngũ cán bộ được bổ sung về
số lượng, chú trọng nâng cao về chất lượng.
Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt được một số kết quả; chú
trọng hơn xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng
yếu, có nhiều khó khăn. Chức năng, nhiệm vụ các loại hình tổ chức cơ sở đảng
được xác định phù hợp hơn. Công tác phát triển, quản lý, nâng cao chất lượng
đảng viên được quan tâm chỉ đạo. Số lượng đảng viên mới kết nạp hằng năm đều tăng;
tỉ lệ đảng viên mới kết nạp trong độ tuổi thanh niên, đảng viên nữ, người dân
tộc thiểu số, trí thức tăng hơn khoá trước. Sau hơn hai năm triển khai thực
hiện Quy định số 15-QĐ/TW ngày 28-8-2006 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa X) về đảng viên làm kinh tế tư nhân, đã có nhiều đảng viên trước đây công
tác ở các cơ quan đảng, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ
trang, doanh nghiệp nhà nước, tham gia phát triển kinh tế tư nhân để làm giàu
chính đáng cho bản thân, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp uỷ, tổ chức
đảng quan tâm chỉ đạo; tiếp tục giải quyết những vấn đề lịch sử chính trị, đồng
thời chú trọng nắm và giải quyết vấn đề chính trị hiện nay.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được coi trọng, chất
lượng, hiệu quả được nâng lên. Cấp uỷ đảng các cấp đã chỉ đạo thực hiện có kết
quả việc kiểm tra thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng; các chương trình, dự
án; quản lý và sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản; chống tham nhũng, lãng
phí, thực hành tiết kiệm và công tác cán bộ; xử lý nghiêm tổ chức đảng, đảng
viên có sai phạm, góp phần phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm, tăng cường kỷ luật,
kỷ cương, thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền, tổ chức bộ máy, điều kiện hoạt động của uỷ ban kiểm tra và cơ quan uỷ
ban kiểm tra các cấp tiếp tục được làm rõ.
Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới, vừa bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các
tổ chức trong hệ thống chính trị. Việc mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng
được chú trọng; đã thí điểm chủ trương đại hội đảng bầu trực tiếp ban thường
vụ, bí thư, phó bí thư. Phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo
Đảng từ trung ương đến cơ sở tiếp tục được cải tiến theo hướng sâu sát cơ sở,
gần gũi nhân dân, tăng cường đôn đốc, kiểm tra, giám sát.
B- HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM
1. Kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước; một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch
B- HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM
1. Kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước; một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch
Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng đầu
tư, khai thác tài nguyên; các cân đối vĩ mô chưa vững chắc. Công nghiệp chế
tạo, chế biến phát triển chậm, gia công, lắp ráp còn chiếm tỉ trọng lớn. Cơ cấu
kinh tế giữa các ngành, lĩnh vực chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng còn
chậm. Cơ cấu trong nội bộ từng ngành cũng chưa thật hợp lý. Năng suất lao động
xã hội thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Năng lực cạnh tranh quốc
gia chậm được cải thiện. Đầu tư vẫn dàn trải. Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn
đầu tư còn thấp, còn thất thoát, lãng phí, nhất là nguồn vốn đầu tư của Nhà
nước. Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển chậm, thiếu đồng bộ, đặc biệt đối với
khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. Chất lượng nhiều công trình xây dựng cơ bản
còn thấp. Quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hiệu quả chưa cao,
còn lãng phí. Tình trạng khai thác rừng, khai thác khoáng sản bất hợp pháp vẫn
còn xảy ra ở nhiều nơi, nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu, ngăn chặn kịp thời.
Trình độ phát triển giữa các vùng cách biệt lớn và có xu hướng mở rộng. Các chỉ
tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) và chuyển dịch cơ cấu kinh tế không đạt
kế hoạch Đại hội X đề ra (5) .
Những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế thị trường chưa được chú ý đúng mức. Một số tập đoàn kinh tế và doanh
nghiệp nhà nước kinh doanh thua lỗ, gây bức xúc trong xã hội. Chỉ đạo đổi mới,
phát triển kinh tế tập thể, các nông, lâm trường quốc doanh chậm, lúng túng.
Chất lượng xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển một số ngành,
vùng, nhất là quy hoạch sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản còn yếu, gây
lãng phí, thất thoát lớn. Quản lý thị trường, nhất là thị trường bất động sản,
thị trường tài chính, có lúc còn lúng túng, sơ hở, thiếu chặt chẽ dẫn đến tình
trạng đầu cơ, làm giàu bất chính cho một số người; chính sách phân phối còn
nhiều bất hợp lý.
2. Các lĩnh vực giáo
dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, môi trường còn nhiều
hạn chế, yếu kém, gây bức xúc xã hội
Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển
mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa
tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người.
Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu
giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo
dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Quản lý nhà nước về giáo dục còn bất cập. Xu hướng thương
mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp,
đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội.
Khoa học, công nghệ chưa thật sự trở thành động lực thúc
đẩy, chưa gắn kết chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Thị trường khoa học, công nghệ còn sơ khai, chưa tạo sự gắn kết có hiệu quả
giữa nghiên cứu với đào tạo và sản xuất kinh doanh. Đầu tư cho khoa học, công
nghệ còn thấp, sử dụng chưa hiệu quả. Trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc
hậu, đổi mới chậm.
Tình trạng thiếu việc làm còn cao. Chính sách tiền lương,
thu nhập chưa động viên được cán bộ, công chức, người lao động gắn bó, tận tâm
với công việc. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở miền núi, vùng sâu,
vùng xa còn nhiều khó khăn. Xóa đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái
nghèo cao. Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo còn khá lớn và ngày càng doãng ra.
Chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ còn thấp, hệ thống y tế và chất
lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng được yêu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân, nhất
là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Vệ
sinh, an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế.
Quản lý văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản còn thiếu chặt chẽ. Môi trường văn
hoá bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ
nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy
đồi đạo đức, nhất là trong thanh, thiếu niên, rất đáng lo ngại.
Việc xây dựng pháp luật và chính sách bảo vệ môi trường còn
chậm, thực hiện chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả thấp. Môi trường ở nhiều nơi
tiếp tục bị xuống cấp, một số nơi đã đến mức báo động. Chưa chủ động nghiên
cứu, dự báo đánh giá tác động của biến đổi khí hậu; hậu quả của thiên tai còn
nặng nề.
Việc thực hiện chính sách xã hội hóa chưa được đẩy mạnh,
chưa huy động được nhiều nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước cho phát triển giáo
dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội, môi
trường.
3. Các lĩnh vực quốc
phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế
Một số quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đại hội X về nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh chưa được triển khai thực hiện kịp thời. Nhận thức về quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân của một số cán bộ, đảng viên trong các
ngành, các cấp chưa đầy đủ, sâu sắc, thiếu cảnh giác trước âm mưu “diễn biến
hoà bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ. Công tác bảo vệ an ninh trong một số lĩnh vực còn có những thiếu sót; xử lý
tình hình phức tạp nảy sinh ở cơ sở có lúc, có nơi còn bị động, tội phạm hình
sự, tệ nạn xã hội, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở một số địa bàn
còn diễn biến phức tạp. Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với củng cố, tăng
cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, đặc biệt là tại các vùng chiến lược, biển,
đảo còn chưa chặt chẽ. Công nghiệp quốc phòng, an ninh chưa đáp ứng yêu cầu
trang bị cho các lực lượng vũ trang.
Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về đối ngoại có mặt
còn hạn chế. Sự phối hợp giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại
giao nhân dân, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hoá đối ngoại chưa
thật đồng bộ.
4. Dân chủ và sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ
Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh
vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức; có tình
trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng
đến trật tự, an toàn xã hội.
Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc,
về quyền và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được thể chế đầy
đủ thành pháp luật; hoặc đã thể chế hóa nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc;
công tác kiểm tra, đôn đốc chưa thường xuyên; giữa chủ trương và tổ chức thực
hiện còn cách biệt. Việc tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân dân tham
gia các phong trào, cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân
còn hạn chế. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chưa sâu
sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở.
5. Xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý
đất nước
Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực
thi pháp luật còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa hợp lý, biên chế
cán bộ, công chức tăng thêm; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ,
còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu
đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Năng lực dự
báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực yếu; phân cấp
mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã hội không nghiêm.
Cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ. Công tác điều tra, giam giữ, truy tố,
xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác; án tồn đọng, án bị huỷ, bị cải
sửa còn nhiều.
Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu
cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu
hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội.
6. Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm
được khắc phục
Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm
sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả
của công tác tư tưởng còn hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu,
thủ đoạn “diễn biến hòa bình”. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu
nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm
giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát
triển của đất nước. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” chưa thực sự đi vào chiều sâu, ở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu
quả chưa cao, làm theo chưa đạt yêu cầu.
Tổ chức của một số cơ quan đảng, nhà nước và tổ chức chính
trị - xã hội chưa thực sự tinh gọn, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ
chưa rõ ràng. Việc đổi mới công tác cán bộ còn chậm; thiếu cơ chế, chính sách
cụ thể để thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát hiện và sử dụng
người tài; chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm,
miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu. Tình trạng
chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương chưa được khắc
phục. Công tác cán bộ thiếu tầm nhìn xa. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
thấp. Môi trường làm việc, chính sách cán bộ chưa tạo được động lực để khuyến
khích, thu hút, phát huy năng lực, sự cống hiến của cán bộ; chưa cổ vũ ý chí
phấn đấu vươn lên, sự gắn bó, tận tụy của cán bộ đối với công việc.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng
còn thấp; công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền
nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu. Việc xây dựng
tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài còn chậm, vai trò của tổ chức đảng ở đây mờ nhạt. Động cơ phấn đấu vào
Đảng của một số người có biểu hiện lệch lạc, cơ hội.
Việc xử lý, sử dụng và quản lý cán bộ, đảng viên có vấn đề
lịch sử chính trị còn phiến diện, thiếu chặt chẽ. Việc xem xét, giải quyết
những vấn đề chính trị hiện nay của cán bộ, đảng viên còn lúng túng. Nhiều cấp
uỷ, tổ chức đảng chưa quan tâm chỉ đạo đúng mức công tác này.
Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra,
giám sát và thi hành kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát
chưa cao; chưa coi trọng việc kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối, chủ
trương, chỉ thị, nghị quyết, thi hành Điều lệ Đảng, kiểm tra, giám sát phòng
ngừa tiêu cực và phát huy nhân tố tích cực. Nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng
viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện. Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội,
suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên. Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ chức đảng không nghiêm. Sự đoàn kết,
nhất trí ở không ít cấp uỷ chưa tốt.
Một số tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận và đoàn thể nhân
dân chưa quan tâm đúng mức công tác dân vận. Nội dung, phương thức vận động,
tập hợp quần chúng vẫn nặng tính hành chính.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi
mới. Chức năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, ban cán sự đảng chưa được xác định rõ
ràng, cụ thể nên hoạt động còn lúng túng. Phong cách, lề lối làm việc đổi mới
chậm; hội họp vẫn nhiều. Nguyên tắc tập trung dân chủ còn bị vi phạm, ảnh hưởng
đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Nhìn tổng quát, 5 năm qua, trong bối cảnh tình hình quốc tế
và trong nước có rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, toàn Đảng, toàn dân ta đã nỗ
lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng. Ứng phó có kết quả với những
diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước. Cơ bản giữ vững ổn định
kinh tế vĩ mô. Duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, các ngành đều có
bước phát triển, quy mô nền kinh tế tăng lên; đời sống của nhân dân tiếp tục
được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng
cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; hoạt
động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế của nước
ta được nâng cao; phát huy dân chủ có tiến bộ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc
tiếp tục được củng cố; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt một số
kết quả tích cực.
Kết quả đạt được trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X
đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2001 - 2010 và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Mười năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là giai đoạn đất nước ta thực sự đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 so với năm 2000 theo giá thực tế gấp 3,26 lần; thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu gấp 5 lần; tuổi thọ bình quân tăng từ 67 tuổi lên 72,8 tuổi.
Mười năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là giai đoạn đất nước ta thực sự đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 so với năm 2000 theo giá thực tế gấp 3,26 lần; thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu gấp 5 lần; tuổi thọ bình quân tăng từ 67 tuổi lên 72,8 tuổi.
Những thành tựu đạt được trong 20 năm thực hiện Cương lĩnh
là to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước bước đầu thực hiện thành công công
cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời
sống của nhân dân có nhiều thay đổi; sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được
giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo
tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.
Nguyên nhân của những thành tựu đạt được 5 năm qua là do sự
lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, các cấp uỷ đảng trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X, giải
quyết kịp thời, có kết quả những vấn đề mới phát sinh; sự đổi mới, nâng cao
chất lượng hoạt động của Quốc hội và các cơ quan dân cử; sự điều hành năng động
của Chính phủ, chính quyền các cấp; sự nỗ lực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân, của cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân, cộng đồng các doanh
nghiệp. Bối cảnh hội nhập quốc tế đem lại nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển đất nước.
Tuy nhiên, một số chỉ tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra chưa
đạt. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của
nền kinh tế thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá chậm; chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý, phân hoá xã hội tăng lên.
Những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công
nghệ, văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường chậm được khắc phục; tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối sống... chưa
được ngăn chặn, đẩy lùi. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực,
kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm yếu cản trở sự phát triển. Nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công
tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng
cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển
biến chậm. Còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Những hạn chế, yếu kém có nguyên nhân khách quan là do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai,
dịch bệnh; những yếu kém vốn có của nền kinh tế; sự chống phá của các thế lực
thù địch; nhưng trực tiếp và quyết định nhất vẫn là nguyên nhân chủ quan: Công
tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu. Nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế,
thiếu thống nhất. Công tác dự báo trong nhiều lĩnh vực còn yếu. Sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực và một
số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương không
nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn bất cập.
Ban Chấp hành Trung ương xin tự phê bình trước Đại hội và
trước nhân dân về những khuyết điểm, yếu kém đã làm hạn chế những thành tựu lẽ
ra có thể đạt được nhiều hơn.
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội
X, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây:
Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên
trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo,
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới toàn diện, đồng bộ với những bước đi
thích hợp. Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hoá
dân tộc. Mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và
ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và cả cộng
đồng.
Hai là, phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng
trưởng và phát triển bền vững, nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế,
đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô.
Tăng cường huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm và
hiệu quả các nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển lực
lượng sản xuất phải đồng thời xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp;
củng cố và tăng cường các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế.
Ba là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng
kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm
lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo,
đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy
giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng, an
ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính
trị, tư tưởng và tổ chức. Thật sự phát huy dân chủ, giữ vững nguyên tắc, kỷ
luật, kỷ cương, đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng, trong sáng về
đạo đức, lối sống, có sức chiến đấu cao, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ;
phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Năm là, trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy
bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước; chú trọng công tác dự
báo, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình mới; tăng cường công
tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao, phát huy sức mạnh của cả hệ thống
chính trị, của toàn xã hội.
II- TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH TOÀN DIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI THEO CON ĐƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA; PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 5 NĂM (2011 - 2015)
1. Dự báo tình hình thế giới và trong nước những năm sắp tới
II- TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH TOÀN DIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI THEO CON ĐƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA; PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 5 NĂM (2011 - 2015)
1. Dự báo tình hình thế giới và trong nước những năm sắp tới
Trên thế giới: Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn tiếp tục gia tăng.
Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ
hoá trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi
phối các quan hệ quốc tế. Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát
triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri
thức. Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn
còn nhiều khó khăn, bất ổn; chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức;
cơ cấu lại thể chế, các ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các nước;
tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có quan hệ
ảnh hưởng nhiều với nước ta, có nhiều thay đổi. Cạnh tranh về kinh tế - thương
mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn
vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao... giữa các nước ngày càng gay gắt. Những
vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực,
biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn
biến phức tạp. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc
đấu tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn biến phức tạp.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông
Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố
gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện các
hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. ASEAN tuy còn nhiều khó
khăn, thách thức nhưng tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khu vực.
Ở trong nước: Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi
mới (1986 - 2011) đã tạo ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn
nhiều so với trước. Năm năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta sẽ phục hồi, lấy
lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy giảm; sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp định
thương mại tự do song phương và đa phương; khắc phục những hạn chế, yếu kém
trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Tuy
nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng
hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Nguy cơ
tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn
tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
là nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến
hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”
hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa
rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những
diễn biến phức tạp.
Nhìn chung, những tình hình và xu hướng nêu trên sẽ tạo ra
cả những thời cơ và thách thức đan xen đối với sự phát triển của đất nước trong
5 năm tới.
2. Tiếp tục đổi mới
toàn diện, mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ nghĩa
Thực tiễn phong phú và những thành tựu đạt được qua 25 năm
đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng
tạo; đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn phù hợp với quy luật khách quan và
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chúng ta một lần nữa khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa
xã hội mới bảo đảm cho dân tộc ta có độc lập, tự do thực sự, đất nước phát
triển phồn vinh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Qua tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, chúng ta
càng thấy rõ ý nghĩa lịch sử và giá trị định hướng, chỉ đạo to lớn của Cương
lĩnh đối với công cuộc đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta; đồng
thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần tiếp tục được giải đáp. Tại
Đại hội này, Đảng ta sẽ xem xét, quyết định bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm
1991 để làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội; phấn đấu
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; và
đến giữa thế kỷ XXI trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phải tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ với chất
lượng và hiệu quả cao hơn; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát
triển kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài
hoà các vấn đề xã hội, môi trường; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và
an ninh quốc gia; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp
tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và
mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Đặc biệt chú trọng xử lý và giải quyết
tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội
chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn
hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm (2011 -
2015)
Mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới là: Tiếp tục nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội;
tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nhiệm vụ chủ yếu:
- Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ
cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững; huy động và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực; từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất
lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Tập
trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện
điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Tiếp tục xây dựng nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá
tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Bảo vệ môi
trường, chủ động phòng tránh thiên tai, ứng phó có hiệu quả với tình trạng biến
đổi khí hậu.
- Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, trật tự,
an toàn xã hội; ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các
thế lực thù địch; mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực,
chủ động hội nhập quốc tế.
- Tiếp tục phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc; hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của
Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương; đẩy mạnh cải cách hành chính và
cải cách tư pháp; thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân.
- Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng
và tổ chức; thường xuyên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh;
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thật sự
trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Phấn đấu đạt được các chỉ tiêu chủ yếu:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2011 - 2015: 7,0
- 7,5%/năm. Năm 2015, GDP bình quân đầu người khoảng 2.000 USD; cơ cấu GDP:
nông nghiệp 17 - 18%, công nghiệp và xây dựng 41 - 42%, dịch vụ 41 - 42%; sản
phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 35% tổng GDP; tỉ lệ
lao động qua đào tạo đạt 55%. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12%/năm, giảm
nhập siêu, phấn đấu đến năm 2020 cân bằng được xuất nhập khẩu. Vốn đầu tư toàn
xã hội bình quân 5 năm đạt 40% GDP. Tỉ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt
23 - 24% GDP; giảm mức bội chi ngân sách xuống 4,5% GDP vào năm 2015. Giải
quyết việc làm cho 8 triệu lao động. Tốc độ tăng dân số đến năm 2015 khoảng 1%.
Tuổi thọ trung bình năm 2015 đạt 74 tuổi. Tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2%/năm.
Tỉ lệ che phủ rừng năm 2015 đạt 42 - 43%...
III- ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG, CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ; ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ, PHÁT TRIỂN NHANH, BỀN VỮNG
1. Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển kinh tế nhanh, bền vững
III- ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG, CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ; ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ, PHÁT TRIỂN NHANH, BỀN VỮNG
1. Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển kinh tế nhanh, bền vững
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo
chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy
mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Thực hiện cơ cấu
lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp
với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại và điều chỉnh chiến lược phát triển doanh
nghiệp; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản
phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế.
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, áp dụng
các hình thức thu hút đầu tư đa dạng, hấp dẫn để huy động và sử dụng có hiệu
quả mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài, phát huy
nội lực, tranh thủ ngoại lực cho phát triển. Khuyến khích đầu tư vào các ngành
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ công nghệ cao và các giải pháp đổi mới công
nghệ, chế tạo sản phẩm mới... tham gia ngày càng nhiều và có hiệu quả vào những
khâu, công đoạn có hàm lượng khoa học, giá trị gia tăng cao trong mạng sản xuất
và phân phối toàn cầu.
Phát triển đa dạng các ngành, nghề để tạo nhiều việc làm và
thu nhập; khuyến khích, tạo thuận lợi để người lao động học tập, nâng cao trình
độ, tay nghề, đồng thời có cơ chế, chính sách phát hiện, trọng dụng nhân tài.
Phát huy tiềm lực khoa học, công nghệ của đất nước, nâng cao nhanh năng suất
lao động xã hội và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Tăng cường liên kết,
khai thác, phát huy đúng tiềm năng, thế mạnh của từng vùng kinh tế; tạo điều
kiện cho phát triển và phát huy vai trò đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm,
tạo sức lan toả, lôi cuốn các vùng kinh tế khác.
2. Phát triển công
nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, tiếp tục tạo nền tảng cho một nước công
nghiệp và nâng cao khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế
Cơ cấu lại, xây dựng nền công nghiệp theo hướng phát triển
mạnh những ngành có tính nền tảng, có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược
đối với sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ
của nền kinh tế, từng bước có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản
xuất và phân phối toàn cầu. Ưu tiên phát triển và hoàn thành những công trình
then chốt về cơ khí chế tạo, sản xuất máy móc, thiết bị thay thế nhập khẩu cho
công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng; công nghiệp công nghệ cao sản xuất linh
kiện điện tử, máy tính, công nghiệp dầu khí, điện, than, khai khoáng, hoá chất,
luyện thép, xi măng, phân đạm..., công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp quốc phòng,
an ninh với trình độ công nghệ ngày càng cao, sạch, tiêu tốn ít nguyên liệu,
năng lượng, tăng sức cạnh tranh và giá trị gia tăng.
Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông
thôn, đặc biệt là công nghiệp sản xuất trang thiết bị, máy móc làm đất, thu
hoạch, bảo quản, chế biến sản phẩm nông - lâm - thuỷ sản, sản phẩm xuất khẩu;
sản xuất phân bón, thức ăn cho chăn nuôi và thuốc bảo vệ động, thực vật...
Phát triển mạnh công nghiệp xây dựng và phát triển hợp lý
công nghiệp sử dụng nhiều lao động, góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động.
Tập trung phát triển thiết bị nâng đỡ, bốc xếp ở các cảng biển, sân bay, sản
xuất ôtô, đầu máy, toa xe, các phương tiện vận tải nặng, các tàu vận tải biển
và sông; máy móc thi công cầu, đường, sản xuất vật liệu xây dựng, nhất là vật
liệu xây dựng chất lượng cao, thiết bị điện và thiết bị viễn thông.Từng bước
nâng cao trình độ thiết kế, quy hoạch, chất lượng xây dựng; hiện đại hoá công
nghiệp xây dựng đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, đáp ứng yêu cầu xây dựng
trong nước và đấu thầu quốc tế.
Phát triển năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các sản
phẩm công nghiệp có công nghệ tiên tiến, giá trị gia tăng cao, nhất là các máy
điều khiển kỹ thuật số, hệ thống tự động hoá, có khả năng xuất khẩu, thay thế
nhập khẩu, nâng cao tỉ lệ nội địa hoá sản phẩm...; nhanh chóng hình thành một
số viện công nghệ công nghiệp, viện công nghệ thăm dò và khai thác khoáng sản
nước ta có thế mạnh, viện công nghệ nông nghiệp, đủ sức nghiên cứu, phát minh,
sáng chế kỹ thuật, công nghệ; gắn kết chặt chẽ các cơ sở nghiên cứu khoa học,
cơ sở đào tạo với các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Bố trí hợp lý công nghiệp trên các vùng; phát huy hiệu quả
các khu, cụm công nghiệp hiện có và đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hình
thức cụm, nhóm sản phẩm, tạo thành các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, hiệu quả
cao; đẩy mạnh việc xây dựng các khu công nghệ cao; hình thành và phát triển các
khu kinh tế tổng hợp ven biển và các khu kinh tế cửa khẩu.
Phấn đấu giá trị gia tăng công nghiệp - xây dựng bình quân 5
năm tăng 7,8 - 8%/năm.
3. Phát triển nông -
lâm - ngư nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với
giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn
Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu
quả, bền vững, phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới. Trên cơ sở tích
tụ đất đai, đẩy mạnh cơ giới hoá, áp dụng công nghệ hiện đại (nhất là công nghệ
sinh học); bố trí lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát triển kinh tế hộ, trang
trại, tổ hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp, vùng chuyên môn hoá, khu nông nghiệp
công nghệ cao, các tổ hợp sản xuất lớn. Thực hiện tốt việc gắn kết chặt chẽ
“bốn nhà” (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước) và phát triển
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở khu vực nông thôn. Phát triển các
hiệp hội nông dân và các tổ chức khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, tạo điều
kiện để các tổ chức này hoạt động thiết thực, có hiệu quả.
Phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất,
chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, thân thiện với môi trường, gắn
sản xuất với chế biến và thị trường, mở rộng xuất khẩu. Giữ vững diện tích đất
trồng lúa theo quy hoạch, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia và tăng
giá trị xuất khẩu gạo. Mở rộng diện tích, áp dụng công nghệ cao để tăng năng
suất, chất lượng các loại rau, màu, cây ăn quả, cây công nghiệp có lợi thế.
Phát triển nhanh ngành chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp
với công nghệ tiên tiến.
Phát triển lâm nghiệp toàn diện, bền vững, trong đó chú
trọng cả rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng; tăng diện tích trồng
rừng và độ che phủ rừng trên cơ sở khuyến khích các thành phần kinh tế cùng
tham gia đầu tư. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ để người dân có thể sống, làm
giàu từ trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng; hình thành các tổ hợp trồng rừng nguyên
liệu gắn với công nghiệp chế biến lâm sản và phát triển các vùng rừng chuyên
môn hoá bảo đảm đáp ứng ngày càng nhiều hơn nguyên liệu trong nước cho công
nghiệp chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ, giấy.
Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản đa dạng theo quy hoạch,
phát huy lợi thế từng vùng gắn với thị trường; coi trọng hình thức nuôi công
nghiệp, thâm canh là chủ yếu đối với thuỷ sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn;
gắn nuôi trồng với chế biến bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm. Đẩy mạnh việc đánh
bắt hải sản xa bờ với ứng dụng công nghệ cao trong các khâu tìm kiếm ngư
trường, đánh bắt và hiện đại hoá các cơ sở chế biến thuỷ sản. Xây dựng đồng bộ
kết cấu hạ tầng, cơ sở dịch vụ phục vụ nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, xuất
khẩu thuỷ sản.
Xây dựng nông thôn mới: Quy hoạch phát triển nông thôn và
phát triển đô thị và bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch
vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường. Triển khai chương trình xây dựng
nông thôn mới phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc
trong từng giai đoạn; giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp
của nông thôn Việt Nam
. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để khai
thác mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động. Triển khai có hiệu quả chương
trình đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm.
Thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo
và các đối tượng chính sách, chương trình nhà ở cho đồng bào vùng bão, lũ; bố
trí hợp lý dân cư, bảo đảm an toàn ở những vùng ngập lũ, sạt lở núi, ven sông,
ven biển.
Phấn đấu giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân 5 năm đạt 2,6 - 3%/năm. Tỉ trọng lao động nông nghiệp năm 2015 chiếm 40 - 41% lao động xã hội. Thu nhập của người dân nông thôn tăng 1,8 - 2 lần so với năm 2010.
Phấn đấu giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân 5 năm đạt 2,6 - 3%/năm. Tỉ trọng lao động nông nghiệp năm 2015 chiếm 40 - 41% lao động xã hội. Thu nhập của người dân nông thôn tăng 1,8 - 2 lần so với năm 2010.
4. Phát triển các
ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, du lịch và các
dịch vụ có giá trị gia tăng cao
Ưu tiên phát triển và hiện đại hoá các dịch vụ tài chính,
ngân hàng, viễn thông, thương mại, du lịch, vận tải, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ,
giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ. Có cơ chế, chính sách khuyến khích sử
dụng hàng hoá sản xuất trong nước, mở rộng thị trường nội địa, phát triển mạnh
thương mại trong nước ở tất cả các vùng; hoàn thiện hệ thống phân phối để xác
lập vị thế vững chắc của doanh nghiệp trong nước trên thị trường bán lẻ. Đẩy
mạnh và khuyến khích xuất khẩu, đặc biệt là những mặt hàng mới, sản phẩm chế
biến, chế tạo có hàm lượng khoa học công nghệ cao, giá trị gia tăng cao; giảm
mạnh xuất khẩu nguyên liệu, khoáng sản, sản phẩm thô. Hình thành các trung tâm
thương mại - dịch vụ lớn, vừa là trung tâm giao thương trong nước, vừa là cửa
ngõ giao thương với nước ngoài tại Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ. Xây dựng một số trung tâm du lịch lớn trong nước,
gắn kết có hiệu quả với các trung tâm du lịch lớn của các nước trong khu vực.
Phấn đấu khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc
độ tăng GDP và gấp ít nhất 1,3 lần tốc độ tăng trưởng của các ngành sản xuất
sản phẩm vật chất; tốc độ tăng trưởng dịch vụ bình quân 5 năm đạt 8 - 8,5%/năm.
5. Tập trung xây dựng,
tạo bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển
của đất nước
Hoàn thiện quy hoạch hệ thống kết cấu hạ tầng cả nước. Phát
triển có trọng tâm, trọng điểm và đầu tư tập trung, dứt điểm, kiên quyết hoàn
thành những công trình kết cấu hạ tầng kinh tế then chốt theo hướng hiện đại và
tương đối đồng bộ ở các vùng động lực phát triển, các khu công nghệ cao, các
khu công nghiệp, khu kinh tế. Hoàn thiện cơ bản mạng lưới giao thông thiết yếu,
đường ven biển, đường vành đai biên giới. Hiện đại hoá một số sân bay, cảng
biển quan trọng và một số tuyến đường bộ trọng yếu nối kết với Trung Quốc, Lào,
Campuchia. Tiếp tục hoàn thiện theo hướng hiện đại hệ thống giao thông đô thị,
tập trung giải quyết tình trạng ách tắc giao thông và ngập úng ở Thủ đô Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời phát triển đồng bộ hệ thống vận tải địa
phương, phấn đấu hầu hết xã, cụm xã có đường ôtô đến trung tâm (trừ các xã có
địa hình, địa lý đặc biệt khó khăn).
Phát triển nhanh nguồn điện bảo đảm đủ điện cho công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và nhu cầu sinh hoạt của nhân dân; hoàn chỉnh hệ thống truyền
tải điện gắn với bảo đảm vận hành an toàn, phấn đấu giảm 1/3 mức điện tổn thất
so với hiện nay. Hiện đại hoá bưu chính - viễn thông và hạ tầng công nghệ thông
tin đủ sức bảo đảm nhu cầu phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng. Xây dựng các công trình thuỷ lợi đa mục tiêu, nâng cao năng lực
tưới tiêu chủ động cho các loại cây trồng; xây dựng thêm hồ chứa nước ở vùng
thường xuyên bị khô hạn, hệ thống đê sông, đê biển. Phát triển hệ thống cung
cấp đủ nước sạch cho đô thị, khu công nghiệp và dân cư nông thôn.
Xây dựng các công trình xử lý chất thải rắn, nước, khí thải
và các công trình bảo vệ môi trường. Sớm hoàn chỉnh hệ thống dự báo khí hậu,
thời tiết và cơ sở nghiên cứu về biến đổi khí hậu toàn cầu để nâng cao năng lực
dự báo, phòng, chống, hạn chế tác hại của thiên tai.
6. Phát triển kinh tế
- xã hội hài hoà giữa các vùng, đô thị và nông thôn
Phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng với tầm nhìn dài
hạn, tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng theo quy hoạch, khắc
phục tình trạng đầu tư trùng lặp, thiếu liên kết giữa các địa phương trong
vùng; đồng thời tăng cường sự liên kết, phối hợp giữa các vùng để các vùng đều
phát triển, từng bước giảm bớt chênh lệch về trình độ phát triển và mức sống
dân cư giữa các vùng. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển các vùng kinh tế, lãnh thổ
trọng điểm tạo động lực cho nền kinh tế. Tăng cường chính sách hỗ trợ phát
triển các vùng còn nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số.
Đối với vùng đồng bằng: Tập trung phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ công nghệ cao, hình thành và phát huy vai trò các trung tâm đô thị lớn và các khu công nghiệp, khu kinh tế. Sử dụng quỹ đất tiết kiệm, có hiệu quả cao trên cơ sở phát triển kinh tế theo chiều sâu, tận dụng chiều cao không gian. Tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, phát triển các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, thâm canh, các khu nông nghiệp công nghệ cao, gắn với công nghiệp bảo quản, chế biến, thị trường trong nước và xuất khẩu. Giãn bớt sự tập trung quá mức về công nghiệp và đô thị ở vùng đồng bằng sông Hồng; có biện pháp cụ thể để chủ động hạn chế những tác hại do nước biển dâng đối với vùng đồng bằng sông Hồng và vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Đối với vùng đồng bằng: Tập trung phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ công nghệ cao, hình thành và phát huy vai trò các trung tâm đô thị lớn và các khu công nghiệp, khu kinh tế. Sử dụng quỹ đất tiết kiệm, có hiệu quả cao trên cơ sở phát triển kinh tế theo chiều sâu, tận dụng chiều cao không gian. Tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, phát triển các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, thâm canh, các khu nông nghiệp công nghệ cao, gắn với công nghiệp bảo quản, chế biến, thị trường trong nước và xuất khẩu. Giãn bớt sự tập trung quá mức về công nghiệp và đô thị ở vùng đồng bằng sông Hồng; có biện pháp cụ thể để chủ động hạn chế những tác hại do nước biển dâng đối với vùng đồng bằng sông Hồng và vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Đối với vùng trung du, miền núi: Phát triển hệ thống kết cấu
hạ tầng giao thông, tận dụng cơ hội giao thương với Trung Quốc, Lào, Campuchia
và các vùng đồng bằng, ven biển; khai thác hợp lý, có hiệu quả tiềm năng thuỷ
điện, khoáng sản, phát triển thuỷ lợi kết hợp với thuỷ điện; sử dụng hiệu quả đất
nông, lâm nghiệp, hình thành các vùng sản xuất lớn cây công nghiệp, cây ăn quả
tập trung, rừng nguyên liệu giấy, gỗ và chăn nuôi đại gia súc. Tiếp tục giao
đất, giao rừng, hỗ trợ lương thực để nhân dân trồng và bảo vệ rừng. Nâng cao
dân trí, đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân; có chế độ,
chính sách hợp lý đối với cán bộ, bộ đội, công an, nhân dân thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ vùng biên cương của Tổ quốc, bảo vệ rừng và nguồn nước.
Đối với vùng ven biển, biển và hải đảo: Phát triển kinh tế
ven biển, biển và hải đảo theo định hướng Chiến lược biển đến năm 2020. Xây
dựng hợp lý hệ thống cảng biển, các khu công nghiệp, khu kinh tế, đô thị ven
biển gắn với phát triển công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, khai thác, chế biến
dầu khí, vận tải biển, du lịch biển. Phát triển mạnh kinh tế đảo, khai thác hải
sản xa bờ gắn với tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và giữ vững chủ quyền vùng biển quốc
gia. Đẩy mạnh việc điều tra cơ bản đối với một số loại tài nguyên biển quan
trọng.
Phát triển hài hoà giữa thành thị và nông thôn. Phát triển
đô thị phù hợp với quá trình phát triển kinh tế, theo quy hoạch dài hạn, không
khép kín theo ranh giới hành chính và xử lý đúng mối quan hệ giữa đô thị hoá và
hiện đại hoá nông thôn. Đẩy mạnh việc đưa công nghiệp và dịch vụ về nông thôn
để hạn chế tình trạng nông dân ra các thành phố, đồng thời không để một khu vực
lãnh thổ rộng lớn nào trống vắng đô thị.
Nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị và đẩy mạnh đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng ở các đô thị lớn, nhất là Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh. Hình thành hệ thống đô thị vừa và nhỏ theo hướng phân bố hợp lý trên
các vùng, khắc phục tình trạng tự phát trong phát triển đô thị. Xây dựng đô thị
ven biển cần tính đến nước biển dâng do biến đổi khí hậu. Hỗ trợ quy hoạch, xây
dựng, tổ chức tốt hơn các điểm dân cư nông thôn theo hướng sạch, đẹp, văn minh.
IV- HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường
IV- HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái
kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa
trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ
nghĩa xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ
chế thị trường phải được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có
hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao
đời sống nhân dân, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm
nghèo, tăng cường đồng thuận xã hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công
dân để làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội. Mọi thành phần kinh tế,
các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát triển lâu dài,
hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo.
Phát triển kinh tế thị trường, chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế, đồng thời giữ vững, tăng cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách. Công bằng trong phân
phối các yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội, điều kiện phát triển.
Phân phối kết quả làm ra chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng
thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ
thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước.
Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bằng luật
pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh
tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu
tố thị trường và các loại thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao
sức cạnh tranh của nền kinh tế, định hướng phát triển, phát huy mặt tích cực,
hạn chế, khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường; phát huy dân chủ,
quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế.
2. Phát triển các hình
thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
Tiếp tục thể chế hoá quan điểm của Đảng về phát triển đa
dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp;
bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức
sở hữu, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật
pháp về sở hữu đối với các loại tài sản mới như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái
phiếu, tài nguyên nước..., quy định rõ quyền, trách nhiệm của các chủ sở hữu
đối với xã hội.
Đổi mới, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về sở hữu
đối với đất đai, tài nguyên, vốn và các loại tài sản công khác để tài nguyên,
vốn và các tài sản công được quản lý, sử dụng có hiệu quả, khắc phục tình trạng
thất thoát, lãng phí. Đất đai, tài nguyên, vốn, tài sản do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu được giao cho các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế sử dụng theo
nguyên tắc hiệu quả. Các chủ thể có quyền và nghĩa vụ như nhau trong sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước. Tổng kết hoạt động của Tổng công ty Đầu tư,
kinh doanh vốn nhà nước; nghiên cứu hình thành các tổ chức quản lý đầu tư, kinh
doanh có hiệu quả các nguồn vốn, tài sản của Nhà nước; khắc phục tình trạng bộ
máy quản lý hành chính tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh doanh thông
qua mệnh lệnh hành chính.
Đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp nhà nước. Khẩn trương cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh của các
tập đoàn kinh tế và các tổng công ty nhà nước, tập trung vào một số ngành, lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế. Từng bước xây dựng các doanh nghiệp mang tầm khu
vực và toàn cầu. Xác định đúng đắn, cụ thể hơn quyền hạn, trách nhiệm của hội
đồng quản trị và giám đốc doanh nghiệp đối với vốn và tài sản nhà nước tại
doanh nghiệp, vừa bảo đảm quyền chủ động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
vừa bảo toàn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản nhà nước.
Đẩy mạnh đổi mới tổ chức, cơ chế hoạt động của các đơn vị
dịch vụ công phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các
đơn vị này có quyền chủ động và được khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để
tham gia thị trường, cung cấp ngày càng nhiều và tốt hơn dịch vụ công cho xã
hội, nhất là dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ...
Đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa
dạng, mà nòng cốt là hợp tác xã. Tổng kết tình hình phát triển các hợp tác xã
và thực hiện Luật Hợp tác xã. Khẩn trương hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ
chế, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc ra đời, phát triển các hợp tác
xã, các tổ hợp tác kiểu mới và các mô hình kinh tế tập thể khác theo nguyên tắc
tự nguyện, cùng có lợi, có chức năng kinh tế và xã hội. Tạo điều kiện phát
triển các trang trại ở nông thôn và hình thành hợp tác xã của các chủ trang
trại.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư
nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các
loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch
và quy định của pháp luật. Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư
nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Thu hút mạnh đầu tư
trực tiếp của nước ngoài vào những ngành, lĩnh vực kinh tế phù hợp với quy
hoạch và chiến lược phát triển của đất nước, nhất là các lĩnh vực công nghệ
cao. Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các trang trại, hộ sản xuất kinh
doanh, đặc biệt trong nông nghiệp và khu vực nông thôn, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế.
Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp với hình
thức sở hữu hỗn hợp như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều
thành viên, công ty hợp danh, hợp tác xã cổ phần. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện
các quy định luật pháp về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật của người sở hữu
(hội đồng quản trị), quyền và trách nhiệm của người được chủ sở hữu giao quản
lý sử dụng các tài sản để kinh doanh (ban giám đốc); phân phối lợi nhuận tạo ra
cho người chủ sở hữu, người được giao quản lý sử dụng và người lao động.
3. Phát triển đồng bộ
các yếu tố thị trường và các loại thị trường
Sớm hoàn thành việc rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy
định pháp luật về kinh doanh phù hợp với điều kiện Việt Nam , bảo vệ thị trường nội địa, đồng thời tuân
thủ những quy định của các tổ chức quốc tế và khu vực mà Việt Nam tham gia. Đổi mới, hoàn thiện
thể chế về giá, cạnh tranh, kiểm soát độc quyền, về ký kết, thực hiện hợp đồng
và giải quyết tranh chấp; không hình sự hoá các tranh chấp dân sự trong hoạt
động kinh tế. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước. Xây dựng và thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp đối với người tiêu dùng và đối với môi trường. Nâng cao trình độ hiểu
biết của doanh nghiệp về thị trường, pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ
quốc tế; xây dựng các tổ chức tư vấn có trình độ cao để giúp doanh nghiệp giải
quyết các tranh chấp trong kinh doanh ở trong và ngoài nước. Hình thành đồng bộ
một số quỹ hỗ trợ cho kinh doanh. Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, đoàn
thể để bảo vệ quyền lợi chính đáng của cả người kinh doanh và người tiêu dùng.
Phát triển đa dạng, đồng bộ, ngày càng văn minh, hiện đại
các loại thị trường hàng hoá, dịch vụ. Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời
chú trọng mở rộng và chiếm lĩnh thị trường trong nước, bảo vệ lợi ích của cả
người sản xuất và người tiêu dùng, nhất là về giá cả, chất lượng hàng hoá, vệ
sinh, an toàn thực phẩm.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế về tiền tệ, tín dụng và ngoại
hối. Từng bước mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng phù hợp với nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội trong nước và cam kết quốc tế; phát huy vai trò chủ động
điều hành chính sách, quản lý thị trường tiền tệ, tín dụng, ngoại hối và thanh
tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định
vĩ mô và góp phần tăng trưởng kinh tế; tiếp tục cổ phần hoá và cơ cấu lại các
ngân hàng thương mại; áp dụng các thông lệ và chuẩn mực mới phù hợp với thông
lệ quốc tế và điều kiện Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển
an toàn, bền vững của các ngân hàng trong nước. Hoàn thiện thể chế bảo đảm phát
triển lành mạnh thị trường chứng khoán, tăng tính minh bạch của thị trường;
chống các giao dịch phi pháp, các hành vi rửa tiền, nhiễu loạn thị trường, làm
cho thị trường này ngày càng đóng vai trò quan trọng trong huy động vốn cho đầu
tư phát triển. Phát triển đa dạng và nâng cao chất lượng các sản phẩm bảo hiểm;
khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các doanh nghiệp bảo hiểm thuộc mọi
thành phần kinh tế trong nước; thực hiện lộ trình mở cửa thị trường bảo hiểm
phù hợp với điều kiện đất nước và cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; bảo vệ lợi
ích của người mua bảo hiểm.
Khẩn trương nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính
sách đất đai, bảo đảm hài hoà các lợi ích của Nhà nước, của người giao lại
quyền sử dụng đất và của nhà đầu tư; tạo điều kiện thuận lợi để sử dụng đất đai
có hiệu quả; khắc phục tình trạng sử dụng lãng phí và tham nhũng đất đai.
Khuyến khích các tổ chức, cá nhân bị thu hồi đất tham gia góp vốn bằng giá trị
quyền sử dụng đất vào các dự án đầu tư, kinh doanh. Nhà nước tạo lập, quản lý
thị trường bất động sản và chủ động tham gia thị trường với tư cách là chủ sở
hữu đất đai và nhiều tài sản trên đất để phát triển và điều tiết thị trường.
Phát triển mạnh thị trường khoa học và công nghệ gắn với
việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; có nhiều hình thức thông tin giới thiệu các
hoạt động và sản phẩm khoa học, công nghệ; hoàn thiện các định chế về mua bán
các sản phẩm khoa học, công nghệ trên thị trường.
Đẩy mạnh phát triển thị trường lao động. Tiền lương, tiền
công phải được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Chế độ hợp đồng lao động được mở rộng, áp
dụng phổ biến cho các đối tượng lao động. Đổi mới tổ chức và hoạt động của các
trung tâm dịch vụ việc làm của Nhà nước; khuyến khích tổ chức các hội chợ việc
làm; phát triển các tổ chức dịch vụ tư vấn, sàn giao dịch, giới thiệu việc làm
đi đôi với tăng cường quản lý của Nhà nước; ngăn chặn các hành vi lừa đảo và
các hiện tượng tiêu cực khác.
4. Nâng cao vai trò
lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nghiên cứu, tổng kết để xác định rõ và đầy đủ hơn đường lối
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn
nước ta, nhất là những nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường. Tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế, nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế của
các tổ chức đảng; tăng cường, sử dụng hợp lý các tổ chức, cán bộ nghiên cứu để
tham mưu cho Đảng trong việc xây dựng, lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước
phải thật sự nâng cao vai trò lãnh đạo, quản lý kinh tế thị trường, chú trọng
đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ công tác.
Đổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của
Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới trên cơ sở
tôn trọng và vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật và cơ chế vận hành của kinh
tế thị trường. Vận dụng và phát huy mặt tích cực; hạn chế, ngăn ngừa mặt trái
của cơ chế thị trường; tạo ra những tiền đề để nền kinh tế phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tập trung duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, định
hướng phát triển, tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững. Tiếp
tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế; đổi mới công tác xây
dựng, thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Phân định rõ hơn chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước và chức năng của các tổ
chức kinh doanh vốn và tài sản nhà nước.
Nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử, tổ chức chính trị -
xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và của nhân dân trong phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tiếp tục hoàn thiện luật
pháp, cơ chế, chính sách tạo điều kiện để nhân dân và các tổ chức này tham gia
có hiệu quả vào quá trình hoạch định, thực thi và giám sát việc thực hiện luật
pháp, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, ngăn ngừa, khắc phục
những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
V- PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO, KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ,
KINH TẾ TRI THỨC; BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
1. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo
1. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo
Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất
lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và
học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch
sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác
phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về
số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Đề cao trách nhiệm của gia đình và xã
hội phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong giáo dục thế hệ trẻ. Tiếp tục phát
triển và nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các cơ sở giáo dục, đào tạo.
Đầu tư hợp lý, có hiệu quả xây dựng một số cơ sở giáo dục, đào tạo đạt trình độ
quốc tế.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, văn hoá
đầu đàn; đội ngũ doanh nhân và lao động lành nghề. Đẩy mạnh đào tạo nghề theo
nhu cầu phát triển của xã hội; có cơ chế và chính sách thiết lập mối liên kết chặt
chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở đào tạo. Xây dựng và thực hiện các chương
trình, đề án đào tạo nhân lực cho các ngành, lĩnh vực mũi nhọn, đồng thời chú
trọng đào tạo nghề cho nông dân, đặc biệt đối với người bị thu hồi đất; nâng
cao tỉ lệ lao động qua đào tạo. Quan tâm hơn tới phát triển giáo dục, đào tạo ở
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục; thực
hiện tốt chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với người và gia đình có công, đồng bào
dân tộc thiểu số, học sinh giỏi, học sinh nghèo, học sinh khuyết tật, giáo viên
công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh
thần tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào
tạo. Thực hiện hợp lý cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo gắn với
đổi mới cơ chế tài chính. Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát
triển, quản lý mục tiêu, chất lượng giáo dục, đào tạo. Phát triển hệ thống kiểm
định và công bố công khai kết quả kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo; tổ
chức xếp hạng cơ sở giáo dục, đào tạo. Tăng cường công tác thanh tra; kiên
quyết khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục, đào tạo. Hoàn thiện cơ
chế, chính sách xã hội hoá giáo dục, đào tạo trên cả ba phương diện: động viên
các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng đồng; khuyến
khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, tạo điều
kiện để người dân được học tập suốt đời. Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế
trong giáo dục, đào tạo.
2. Phát triển và nâng
cao hiệu quả của khoa học, công nghệ; phát triển kinh tế tri thức
Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế tri thức; góp phần
tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự
phát triển nhanh, bền vững của đất nước; nâng tỉ lệ đóng góp của yếu tố năng
suất tổng hợp vào tăng trưởng. Thực hiện đồng bộ ba nhiệm vụ chủ yếu: nâng cao
năng lực khoa học, công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy mạnh nghiên cứu ứng
dụng.
Phát triển năng lực khoa học, công nghệ có trọng tâm, trọng
điểm, tập trung cho những ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn, đảm bảo đồng bộ
về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực. Nhà nước tăng mức đầu tư và ưu tiên đầu tư
cho các nhiệm vụ, các sản phẩm khoa học, công nghệ trọng điểm quốc gia, đồng
thời đẩy mạnh xã hội hoá, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là của các doanh
nghiệp cho đầu tư phát triển khoa học, công nghệ.
Đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học,
công nghệ, xem đó là khâu đột phá để thúc đẩy phát triển và nâng cao hiệu quả
của khoa học, công nghệ. Chuyển các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng sang cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm; phát triển các doanh nghiệp khoa học và công nghệ,
thị trường khoa học, công nghệ. Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh phí nhà
nước; xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả các chương trình, đề tài khoa
học và công nghệ theo hướng phục vụ thiết thực mục tiêu, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, lấy hiệu quả ứng dụng làm thước đo chủ yếu đánh giá chất
lượng công trình. Thực hiện đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng,
đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học, công nghệ.
Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng; phát triển đồng bộ khoa học
xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Khoa học xã hội làm
tốt nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo xu hướng phát
triển, cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách phát triển đất
nước trong giai đoạn mới. Hướng mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ
phục vụ các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt là
trong những ngành, những lĩnh vực then chốt, mũi nhọn. Ưu tiên phát triển công
nghệ cao, đồng thời sử dụng hợp lý công nghệ sử dụng nhiều lao động. Nhanh
chóng hình thành một số cơ sở nghiên cứu - ứng dụng mạnh, gắn với các doanh
nghiệp chủ lực, đủ sức tiếp thu, cải tiến và sáng tạo công nghệ mới. Xây dựng
và thực hiện chương trình đổi mới công nghệ quốc gia; có chính sách khuyến
khích và hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đổi mới công
nghệ. Kết hợp chặt chẽ nghiên cứu và phát triển trong nước với tiếp nhận công
nghệ nước ngoài.
Phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển giáo dục,
đào tạo, khoa học, công nghệ; xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa học, công
nghệ, trước hết là công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ tự động, nâng
cao năng lực nghiên cứu - ứng dụng gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ
công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, dựa nhiều vào tri thức. Phát huy và sử
dụng có hiệu quả nhất nguồn tri thức của con người Việt Nam và khai
thác nhiều nhất tri thức của nhân loại. Xây dựng và triển khai lộ trình phát
triển kinh tế tri thức đến năm 2020.
3. Coi trọng bảo vệ
môi trường, chủ động phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu
Nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của toàn xã hội,
trước hết là của cán bộ lãnh đạo các cấp về bảo vệ môi trường. Khẩn trương hoàn
thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường; xây dựng chế tài đủ mạnh để ngăn
ngừa, xử lý nghiêm các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn có hiệu quả
nạn phá rừng, cháy rừng và tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi; xử lý
nghiêm các cơ sở gây ô nhiễm, khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường.
Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình, dự án đầu tư. Các
dự án, công trình đầu tư xây dựng mới bắt buộc phải thực hiện nghiêm các quy
định bảo vệ môi trường. Quản lý, khai thác hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên thiên
nhiên, đảm bảo cân bằng sinh thái. Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân
thiện với môi trường; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu
dùng sạch. Chủ động nghiên cứu, đánh giá, dự báo tác động của biến đổi khí hậu
đối với nước ta; thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về ứng
phó với biến đổi khí hậu; tích cực tham gia, phối hợp cùng cộng đồng quốc tế
hạn chế tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, bảo vệ hệ thống khí hậu trái
đất. Tăng cường đầu tư, nâng cao chất lượng hệ thống dự báo, cảnh báo thiên
tai. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao ý thức phòng, chống thiên tai
trong mỗi người dân, nhất là nhân dân vùng thường xảy ra thiên tai. Quy hoạch,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, các địa phương phải chú ý
đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai; tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng nơi neo
đậu tàu thuyền tránh bão, hệ thống thoát lũ, phương tiện liên lạc, cứu hộ, cứu
nạn ở vùng thường xuyên bị thiên tai, hạn chế thấp nhất thiệt hại do thiên tai
gây ra.
Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời có các cơ chế, chính sách ưu
đãi để đẩy mạnh xã hội hoá, huy động các nguồn lực phòng, chống thiên tai, bảo
vệ môi trường.
VI- CHĂM LO PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ
1. Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng
VI- CHĂM LO PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ
1. Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng
Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”
đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hoá trong các gia
đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, làm cho các giá trị văn hoá
thấm sâu vào mọi mặt đời sống, được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác,
quan hệ hằng ngày của cộng đồng và từng con người, tạo sức đề kháng đối với các
sản phẩm độc hại. Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống
có văn hóa; xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội; ngăn chặn
và đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại dâm, ma tuý, cờ
bạc... Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ
gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hoá, con người Việt Nam,
nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người
Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hoá
ở các cấp, đồng thời có kế hoạch cải tạo, nâng cấp và đầu tư xây dựng mới một
số công trình văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao hiện đại ở các trung tâm
kinh tế - chính trị - văn hoá của đất nước. Xã hội hoá các hoạt động văn hoá,
chú trọng nâng cao đời sống văn hoá ở nông thôn, vùng khó khăn, thu hẹp dần
khoảng cách hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, các nhóm xã hội, giữa đô thị và
nông thôn.
2. Phát triển sự
nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá truyền
thống, cách mạng
Tiếp tục phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại,
phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất
nước; cổ vũ, khẳng định cái đúng, cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác.
Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm những phương thức thể hiện và phong cách nghệ
thuật mới, đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh, đa dạng và bồi dưỡng lý tưởng,
thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bảo vệ sự trong sáng
của tiếng Việt. Khắc phục yếu kém, nâng cao tính khoa học, sức thuyết phục của
hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, góp phần hướng dẫn sự phát triển
của sáng tạo văn học, nghệ thuật, từng bước xây dựng hệ thống lý luận văn nghệ
Việt Nam.
Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp
luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá vật thể
và phi vật thể của dân tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hoá, văn
nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá với phát triển du lịch và
hoạt động thông tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hoá trong
công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ và người nước ngoài. Xây dựng và thực hiện
các chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá, ngôn ngữ, chữ viết các dân
tộc thiểu số. Xây dựng và thực hiện các chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng,
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt
động văn hoá, văn học, nghệ thuật sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư
tưởng và nghệ thuật.
3. Phát triển hệ thống
thông tin đại chúng
Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng
thông tin, giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin
đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước; khắc phục xu hướng thương mại
hoá, xa rời tôn chỉ, mục đích trong hoạt động báo chí, xuất bản. Tập trung đào
tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất bản vững vàng về chính
trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ mới. Rà
soát, sắp xếp hợp lý mạng lưới báo chí, xuất bản trong cả nước theo hướng tăng
cường hiệu quả hoạt động, đồng thời đổi mới mô hình, cơ cấu tổ chức, cơ sở vật
chất - kỹ thuật theo hướng hiện đại.
Phát triển và mở rộng việc sử dụng internet, đồng thời có
biện pháp quản lý, hạn chế mặt tiêu cực, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động
lợi dụng internet để truyền bá tư tưởng phản động, lối sống không lành mạnh.
4. Mở rộng và nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hoá
Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hoá, văn
học, nghệ thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới. Mở rộng, nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại, hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực văn hoá, báo chí, xuất bản. Xây dựng một số trung tâm văn hoá Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng
bá văn hoá Việt Nam
ra nước ngoài.
Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hoá của các
nước, giới thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với
công chúng Việt Nam
. Thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế về bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác
giả các sản phẩm văn hoá. Xây dựng cơ chế, chế tài ngăn chặn, đẩy lùi, vô hiệu
hoá sự xâm nhập và tác hại của các sản phẩm đồi trụy, phản động; bồi dưỡng và
nâng cao sức đề kháng của công chúng, nhất là thế hệ trẻ.
VII- THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI, BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI TRONG TỪNG BƯỚC VÀ TỪNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
1. Tập trung giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm và thu nhập
VII- THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI, BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI TRONG TỪNG BƯỚC VÀ TỪNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
1. Tập trung giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm và thu nhập
Trên cơ sở đầu tư phát triển kinh tế, phải hết sức quan tâm
tới yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm cho người lao
động; tạo điều kiện giải quyết ngày càng nhiều việc làm, đặc biệt là cho nông
dân. Hoàn thiện pháp luật về dạy nghề; ban hành chính sách ưu đãi về đất đai,
thuế, đào tạo giáo viên, hỗ trợ cơ sở hạ tầng… nhằm khuyến khích các thành phần
kinh tế tham gia đào tạo nghề. Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng dạy và
học, gắn dạy nghề với nhu cầu thực tế. Đẩy mạnh và chấn chỉnh công tác quản lý,
tổ chức xuất khẩu lao động.
Kiên quyết khắc phục những bất hợp lý về tiền lương, tiền
công, trợ cấp xã hội phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước; gắn
cải cách tiền lương với sắp xếp, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức của hệ thống chính trị. Gắn tiền lương của người lao động với hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chăm lo bảo hộ lao động; cải thiện điều kiện
làm việc; hạn chế tai nạn lao động; tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý
nghiêm các vi phạm pháp luật lao động, đưa việc thi hành pháp luật lao động vào
nền nếp; xây dựng quan hệ lao động ổn định, hài hoà, tiến bộ.
2. Bảo đảm an sinh xã
hội
Tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt,
có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu
thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống. Tăng
tỉ lệ người lao động tham gia các hình thức bảo hiểm. Đẩy mạnh xã hội hoá dịch
vụ bảo hiểm xã hội, chuyển các loại hình trợ giúp, cứu trợ xã hội sang cung cấp
dịch vụ bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng. Bảo đảm cho các đối tượng bảo trợ xã
hội có cuộc sống ổn định, hoà nhập tốt hơn vào cộng đồng, có cơ hội tiếp cận
nguồn lực kinh tế, dịch vụ công thiết yếu. Thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm
các vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội, đảm bảo thực hiện đúng, đầy đủ chế độ
quy định đối với mọi đối tượng.
Tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình xoá đói,
giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đa dạng hoá các nguồn
lực và phương thức xoá đói, giảm nghèo gắn với phát triển nông nghiệp, nông
thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm để xoá đói, giảm
nghèo bền vững; tạo điều kiện và khuyến khích người đã thoát nghèo vươn lên làm
giàu và giúp đỡ người khác thoát nghèo.
Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt
hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công.
Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách người có công, đặc biệt là người
tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong trong các
thời kỳ cách mạng và kháng chiến. Tạo điều kiện, khuyến khích người và gia đình
có công tích cực tham gia phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần, có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư tại địa bàn.
3. Nâng cao chất lượng
chăm sóc sức khoẻ nhân dân và công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ và
chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em
Chú ý nhiều hơn công tác y tế dự phòng và chăm sóc sức khoẻ
nhân dân. Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, nâng cao năng lực của
bệnh viện tuyến huyện và tuyến tỉnh, hiện đại hoá một số bệnh viện đầu ngành.
Tăng đầu tư nhà nước đồng thời với đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động y tế. Nâng
cao y đức, đấu tranh đẩy lùi tiêu cực trong hoạt động khám, chữa bệnh. Phát
triển mạnh công nghiệp dược; quản lý chặt chẽ thị trường thuốc chữa bệnh. Bảo
đảm cho người có bảo hiểm y tế được khám, chữa bệnh thuận lợi; mọi công dân khi
có nhu cầu và khả năng đều được đáp ứng dịch vụ y tế chất lượng cao. Tiếp tục
kiềm chế và giảm mạnh lây nhiễm HIV. Làm tốt công tác phòng, chống dịch bệnh.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về vệ sinh, an toàn thực phẩm, tăng cường thanh
tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm.
Thực hiện nghiêm chính sách và pháp luật về dân số, duy trì
mức sinh hợp lý, quy mô gia đình ít con. Có chính sách cụ thể đảm bảo tỉ lệ cân
bằng giới tính khi sinh. Tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức và huy động sự
tham gia của toàn xã hội vào công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình. Làm tốt
công tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, giảm mạnh tỉ lệ
trẻ em suy dinh dưỡng, góp phần nâng cao chất lượng dân số. Bảo đảm các quyền
cơ bản của trẻ em, tạo môi trường lành mạnh để trẻ em được phát triển toàn diện
về thể chất và trí tuệ. Chú trọng bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt, trẻ em gia đình nghèo, trẻ em vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn;
ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em. Nhân rộng các mô hình làm tốt
việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em dựa vào cộng đồng. Xây dựng và triển khai chiến
lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ, tập trung ở những vùng
và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình đẳng cao; ngăn chặn, đẩy lùi
tình trạng buôn bán phụ nữ và bạo lực trong gia đình. Tạo điều kiện để phụ nữ
tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm
vụ.
Phát triển mạnh phong trào thể dục, thể thao đại chúng, tập
trung đầu tư nâng cao chất lượng một số môn thể thao thành tích cao nước ta có
ưu thế. Kiên quyết khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong thể thao.
4. Đấu tranh phòng,
chống có hiệu quả tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông
Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền, giáo dục cộng đồng,
đề cao vai trò giáo dục của gia đình đối với thanh, thiếu niên về tác hại của
ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác. Đấu tranh quyết liệt với việc buôn
bán, sử dụng ma tuý. Huy động nhiều nguồn vốn, tăng cường đầu tư xây dựng, quản
lý các trung tâm cai nghiện có hiệu quả. Đề cao trách nhiệm của gia đình, đoàn
thể và chính quyền cơ sở trong quản lý, tạo việc làm, tái hoà nhập cộng đồng
cho các đối tượng sau cai nghiện. Có giải pháp kiểm soát và hạn chế tệ nạn mại
dâm, giảm thiểu tác hại của các tệ nạn xã hội. Nhân rộng mô hình xã, phường,
thôn, ấp, bản không có tệ nạn xã hội.
Huy động cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành triển
khai tích cực, đồng bộ các giải pháp giảm thiểu tai nạn giao thông. Nâng cao
hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời xử lý nghiêm các vi phạm pháp
luật giao thông. Tăng cường hạ tầng kỹ thuật, phương tiện giao thông công cộng,
năng lực tổ chức giao thông; thực hiện phương án điều tiết hợp lý cơ cấu và quản
lý chất lượng các phương tiện giao thông để giảm tới mức thấp nhất tai nạn giao
thông.
VIII- TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG, AN NINH, BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
VIII- TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG, AN NINH, BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức
dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến
thức quốc phòng, an ninh, làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác
động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như: chiến
tranh bằng vũ khí công nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển đảo, vùng trời,
“diễn biến hoà bình”, bạo loạn chính trị, khủng bố, tội phạm công nghệ cao, tội
phạm xuyên quốc gia...
Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và
thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng thế
trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Kết hợp chặt
chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế trong từng
chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; chú trọng vùng sâu,
vùng xa, biên giới, biển đảo.
Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lý, với chất lượng
tổng hợp và sức chiến đấu cao, đồng thời quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động
viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc
trong mọi tình huống. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh; tăng
cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang từng bước
được trang bị hiện đại, trước hết là cho lực lượng hải quân, phòng không, không
quân, lực lượng an ninh, tình báo, cảnh sát cơ động. Đẩy mạnh công tác nghiên
cứu khoa học, nghệ thuật quân sự, an ninh, đánh thắng chiến tranh bằng vũ khí
công nghệ cao của các lực lượng thù địch.
Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng
đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về quốc phòng, an ninh. Hoàn thiện các chiến lược quốc phòng, an ninh và
hệ thống cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới; tiếp
tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, các quy chế phối hợp quân
đội, công an và các tổ chức chính trị - xã hội.
IX- TRIỂN KHAI ĐỒNG BỘ, TOÀN DIỆN HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI; CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
IX- TRIỂN KHAI ĐỒNG BỘ, TOÀN DIỆN HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI; CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các
mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy
tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm
thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế. Xúc tiến mạnh thương
mại và đầu tư, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc
tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến.
Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi
ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế,
Hiến chương Liên hợp quốc. Thực hiện tốt công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc
biệt là Liên hợp quốc. Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và
quốc tế trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, và
nhất là tình trạng biến đổi khí hậu; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ
chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động,
kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công
việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an
ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam.
Thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới,
lãnh thổ, ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở
những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực;
làm tốt công tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu
nghị, hợp tác cùng phát triển. Củng cố, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị
truyền thống với các nước láng giềng có chung biên giới. Chủ động, tích cực và
có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường
quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ
hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Phát triển quan hệ với các đảng
cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm quyền và những đảng khác trên
cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển; mở rộng tham gia các cơ chế, diễn đàn đa phương ở
khu vực và thế giới. Coi trọng và nâng cao hiệu quả của công tác ngoại giao
nhân dân. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu về đối
ngoại; chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; thường
xuyên bồi dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập
trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động
đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao
chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hoá; giữa đối ngoại với quốc
phòng, an ninh.
X- PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
1. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
X- PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
1. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân
dân; cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn
trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ
công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ
thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Thực hiện tốt
hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội;
phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những
hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội; chống tập
trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức. Quan tâm hơn nữa việc chăm lo
hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về
quyền con người mà Việt Nam ký kết.
2. Phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân về
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục tiêu
xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ
mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác
nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền
thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận
chung, tăng cường đồng thuận xã hội. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ
sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn
kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng
nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân
dân; tin dân, tôn trọng những người có ý kiến khác; làm tốt công tác dân vận,
có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện
quyền làm chủ của mình.
Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp
công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ
học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao
động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế. Phát huy vai trò của giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách
mạng, thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; sửa đổi, bổ sung các
chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
thất nghiệp, cải thiện điều kiện nhà ở, làm việc... để bảo vệ quyền lợi, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân.
Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể
của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nâng cao trình độ giác ngộ của
giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi
nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hỗ trợ,
khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và áp
dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển
sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông
thôn; thực hiện có hiệu quả bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo, làm giàu
hợp pháp.
Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp
ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong
hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng
phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ
xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có chính sách đặc biệt đối với nhân tài
của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ
quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Gắn bó mật thiết
giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước.
Tạo điều kiện xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn
mạnh, có trình độ quản lý, kinh doanh giỏi, có đạo đức nghề nghiệp và trách
nhiệm xã hội cao. Phát huy tiềm năng và vai trò tích cực của đội ngũ doanh nhân
trong phát triển sản xuất kinh doanh; mở rộng đầu tư trong nước và nước ngoài;
tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, hàng hoá, dịch vụ cho đất nước và
xuất khẩu; đóng góp cho ngân sách nhà nước; nâng cao chất lượng sản phẩm; tạo
dựng và giữ gìn thương hiệu hàng hoá Việt Nam; đóng góp ngày càng nhiều cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống,
lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát
triển thể lực, trí tuệ cho thế hệ trẻ. Khuyến khích, cổ vũ thanh niên nuôi
dưỡng ước mơ, hoài bão lớn, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ
hiện đại. Hình thành lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành
và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, góp phần quan trọng vào
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thu hút rộng rãi thanh niên, thiếu niên và nhi đồng
vào các tổ chức do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm nòng cốt và phụ
trách.
Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần
của phụ nữ. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các luật pháp, chính sách đối với
lao động nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình; tăng tỉ lệ
phụ nữ tham gia vào cấp uỷ và bộ máy quản lý nhà nước. Kiên quyết đấu tranh
chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại và xúc phạm
nhân phẩm phụ nữ.
Phát huy truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, tích cực tham gia xây
dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân của cựu
chiến binh. Động viên cựu chiến binh giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống,
tích cực tham gia giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh
hùng cách mạng cho thế hệ trẻ; đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí
và các tệ nạn xã hội; xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, xây dựng Đảng, chính
quyền trong sạch, vững mạnh.
Quan tâm chăm sóc sức khoẻ, tạo điều kiện để người cao tuổi
hưởng thụ văn hoá, được tiếp cận thông tin, sống vui, sống khoẻ, sống hạnh
phúc. Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập của người cao tuổi
trong xã hội và gia đình. Tiếp tục xây dựng gia đình “ông bà, cha mẹ mẫu mực,
con cháu hiếu thảo”; giúp đỡ người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa.
Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
cách mạng của nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính
sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội vùng dân
tộc thiểu số. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ
trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân
tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân
tộc.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức
tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống
tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến
chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định
của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những
hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đại
đoàn kết dân tộc.
Đồng bào định cư ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời
của cộng đồng dân tộc Việt Nam .
Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách để hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào ổn định cuộc
sống, phát triển kinh tế, góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân
ta với nhân dân các nước; tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc, hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng đất nước.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục tăng
cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng
hành chính hoá, phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; thực hiện dân chủ, giám sát và phản
biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; tổ chức
các phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các
nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
XI- ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆTNAM
1. Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
XI- ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
1. Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế,
quản lý xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường. Nâng cao năng lực quản
lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa và kỷ luật, kỷ cương. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền,
lợi ích chính đáng của mọi người dân. Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế
và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp.Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước
phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu
quả nền kinh tế và thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia,
dân tộc.
Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992
(đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) phù hợp với tình hình mới. Tiếp tục xây
dựng, từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp
trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.
2. Tiếp tục đổi mới tổ
chức, hoạt động của bộ máy nhà nước
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội
thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất. Hoàn thiện cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội để cử tri lựa chọn và bầu
những người thực sự tiêu biểu vào Quốc hội. Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc
hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu chuyên trách; có cơ chế để đại biểu Quốc hội
gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với cử tri. Cải tiến, nâng cao chất lượng
hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các uỷ ban của Quốc hội, chất lượng hoạt động
của đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội. Nghiên cứu, giao quyền chất vấn
cho Hội đồng Dân tộc và các uỷ ban của Quốc hội. Tiếp tục phát huy dân chủ,
tính công khai, đối thoại trong thảo luận, hoạt động chất vấn tại diễn đàn Quốc
hội.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng
pháp luật, trước hết là quy trình xây dựng luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh cần
quy định cụ thể, tăng tính khả thi để đưa nhanh vào cuộc sống. Thực hiện tốt
hơn nhiệm vụ quyết định và giám sát các vấn đề quan trọng của đất nước, nhất là
các công trình trọng điểm của quốc gia, việc phân bổ và thực hiện ngân sách;
giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp, công tác phòng, chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí.
Nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ
tịch nước để thực hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước
về đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ
tịch nước với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo
hướng xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có
hiệu lực, hiệu quả; tổ chức tinh gọn và hợp lý; tăng tính dân chủ và pháp quyền
trong điều hành của Chính phủ; nâng cao năng lực dự báo, ứng phó và giải quyết
kịp thời những vấn đề mới phát sinh. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm, tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ; khắc phục tình trạng bỏ
trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, ngành. Tổng kết, đánh
giá việc thực hiện chủ trương sắp xếp các bộ, sở, ban, ngành quản lý đa ngành,
đa lĩnh vực để có chủ trương, giải pháp phù hợp. Thực hiện phân cấp hợp lý cho
chính quyền địa phương đi đôi với nâng cao chất lượng quy hoạch và tăng cường
thanh tra, kiểm tra, giám sát của trung ương, gắn quyền hạn với trách nhiệm
được giao.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và bãi bỏ các loại thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Nâng cao năng lực, chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách. Đẩy mạnh xã hội hoá các loại dịch vụ công phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và bãi bỏ các loại thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Nâng cao năng lực, chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách. Đẩy mạnh xã hội hoá các loại dịch vụ công phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn
trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự,
dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, bảo
đảm tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật
của từng cơ quan và chức danh tư pháp. Đổi mới hệ thống tổ chức toà án theo
thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải cách hoạt động xét xử là trọng tâm của cải cách
hoạt động tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của toà án đối với các khiếu kiện
hành chính. Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức toà án, bảo
đảm tốt hơn các điều kiện để viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều
tra. Sắp xếp, kiện toàn tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra theo hướng
thu gọn đầu mối; xác định rõ hoạt động điều tra theo tố tụng và hoạt động trinh
sát trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tiếp tục đổi mới và kiện toàn các tổ
chức bổ trợ tư pháp. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề
nghiệp của đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp. Tăng cường các cơ chế giám
sát, bảo đảm sự tham gia giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.
Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa
phương. Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân
các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và
tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp. Nghiên cứu tổ
chức, thẩm quyền của chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo. Tiếp tục thực
hiện thí điểm chủ trương không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
3. Xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới
Rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ, công chức; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt động công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân. Tổng kết việc thực hiện “nhất thể hoá” một số chức vụ lãnh đạo Đảng, Nhà nước để có chủ trương phù hợp. Thực hiện bầu cử, bổ nhiệm lại chức vụ lãnh đạo theo hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
4. Tích cực thực hành
tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí
Phòng và chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là
nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Mọi cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ trung ương đến cơ sở và từng đảng viên,
trước hết là người đứng đầu phải gương mẫu thực hiện và trực tiếp tham gia đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách hành chính
phục vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tập trung vào các lĩnh vực dễ xảy ra
tham nhũng, lãng phí. Nghiên cứu phân cấp, quy định rõ chức năng cho các ngành,
các cấp trong phòng, chống tham nhũng. Chú trọng các biện pháp phòng ngừa tham
nhũng, lãng phí. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính
trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công, doanh nghiệp nhà
nước. Công khai, minh bạch về cơ chế, chính sách, các dự án đầu tư, xây dựng cơ
bản, mua sắm từ ngân sách nhà nước, huy động đóng góp của nhân dân, quản lý và
sử dụng đất đai, tài sản công, công tác tiếp nhận, bổ nhiệm cán bộ. Thực hiện
có hiệu quả việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
theo quy định. Cải cách chính sách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo
đảm cuộc sống cho cán bộ, công chức để góp phần phòng, chống tham nhũng. Hoàn
thiện các quy định trách nhiệm của người đứng đầu khi để cơ quan, tổ chức, đơn
vị xảy ra tham nhũng, lãng phí. Xử lý đúng pháp luật, kịp thời, công khai cán
bộ tham nhũng; tịch thu, sung công tài sản tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ
tham nhũng. Xây dựng chế tài xử lý những tổ chức, cá nhân gây thất thoát, lãng
phí lớn tài sản của Nhà nước và nhân dân. Tăng cường công tác kiểm toán, thanh
tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng. Có cơ chế khuyến khích và
bảo vệ những người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; đồng thời kỷ
luật nghiêm những người bao che, cố tình ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng
phí hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, làm hại người khác, gây
mất đoàn kết nội bộ.Tôn vinh những tấm gương liêm chính. Tổng kết, đánh giá cơ
chế và mô hình tổ chức cơ quan phòng, chống tham nhũng để có chủ trương, giải
pháp phù hợp.
Coi trọng và nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử, của
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng và
của nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức, phát hiện, đấu tranh chống
tham nhũng, lãng phí; cổ vũ, động viên phong trào tiết kiệm trong sản xuất và
tiêu dùng.
XII- XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG
1. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị
XII- XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG
1. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị
Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận
dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam , kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị,
trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của cán
bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Kiên
định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng
vội, đổi mới vô nguyên tắc.
Khẩn trương triển khai cụ thể hoá, thể chế hoá và tổ chức
thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XI. Gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn
các nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và
phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội.
2. Nâng cao chất lượng
và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận
Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng
tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới,
không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước; khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên
cứu lý luận. Tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến
khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên
cứu lý luận. Khẩn trương ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận
chính trị. Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận,
cải tiến tổ chức nghiên cứu lý luận phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn. Tổng kết
30 năm đổi mới đất nước.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa
tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền,
học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ động viên các
nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, giáo dục truyền
thống yêu nước, cách mạng. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý
luận chính trị, giáo dục công dân trong hệ thống các trường chính trị, các
trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Mỗi cán bộ, đảng viên đều phải học
tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị. Xây dựng và thực hiện quy định mọi
đảng viên có trách nhiệm trực tiếp làm công tác tư tưởng. Cán bộ chủ chốt cấp
uỷ đảng phải thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, chủ động
nắm bắt, đánh giá, dự báo diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và có biện
pháp giải quyết kịp thời. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt
động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu
tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ
ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong
Đảng, sự đồng thuận xã hội. Đổi mới hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn theo
hướng thiết thực, hiệu quả.
3. Rèn luyện phẩm chất
đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân
Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là
nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi
bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là một tấm gương về phẩm chất đạo
đức, lối sống. Cán bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên
và nhân dân.
Cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước
Tổ quốc, trước Đảng và nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân. Các tổ chức đảng tạo điều kiện để đảng viên công tác, lao động có
năng suất, chất lượng, hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng.
Triển khai thực hiện tốt Quy chế dân vận trong hệ thống
chính trị; đổi mới và nâng cao chất lượng công tác vận động nhân dân. Định kỳ
lấy ý kiến nhận xét của nhân dân về tư cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Xử
lý nghiêm mọi cán bộ, đảng viên vi phạm về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, lối
sống.
4. Tiếp tục đổi mới,
kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị
Tiếp tục xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức
của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Sớm tổng kết việc thực hiện sáp nhập
một số ban, bộ, ngành trung ương để có chủ trương phù hợp. Kiện toàn, nâng cao
chất lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, nhất là
ở cấp chiến lược.
Tổng kết, đánh giá đúng thực trạng, đề ra các giải pháp củng
cố và đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức đảng, nhất
là của đảng đoàn, ban cán sự đảng. Tập trung chỉ đạo, củng cố những tổ chức
đảng yếu kém; kịp thời kiện toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ ở nơi có nhiều khó
khăn, nội bộ mất đoàn kết. Coi trọng đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt
cấp uỷ, tổ chức đảng, chất lượng tự phê bình, phê bình trong sinh hoạt đảng.
Thật sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt
chi bộ, sinh hoạt cấp uỷ ở cơ sở đến sinh hoạt Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban
Chấp hành Trung ương; đồng thời giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng. Thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ. Chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, lối
làm việc vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ.
5. Kiện toàn tổ chức
cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên
Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng, tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các
loại hình cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các đơn vị sự nghiệp và doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Kiện toàn tổ chức của hệ thống chính trị,
bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và
xây dựng đội ngũ cấp uỷ viên, trước hết là bí thư cấp uỷ. Thực hiện trẻ hoá,
tiêu chuẩn hoá, tăng cường bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ theo chức danh cán bộ
cơ sở.
Đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên,
bảo đảm chất lượng đảng viên theo yêu cầu của Điều lệ Đảng. Xây dựng các tiêu
chí, yêu cầu cụ thể về tư tưởng chính trị, trình độ năng lực, phẩm chất đạo
đức, lối sống của đảng viên đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới; phát huy
tính tiền phong gương mẫu, chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực
hiện nhiệm vụ được giao. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư
cách đảng viên. Tổng kết, đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm để tiếp tục thực
hiện Quy định số 15-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về đảng
viên làm kinh tế tư nhân. Thực hiện thí điểm việc kết nạp những người là chủ
doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng.
6. Đổi mới công tác
cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện
tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đổi mới
tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ.
Xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài. Nâng cao chất
lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; khắc phục tình trạng chạy theo bằng
cấp. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, nữ, dân
tộc thiểu số, chuyên gia trên các lĩnh vực; xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến
lược. Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã
được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của
nhân dân làm thước đo chủ yếu. Không bổ nhiệm cán bộ không đủ đức, đủ tài, cơ hội
chủ nghĩa. Thực hiện nghiêm quy chế thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán
bộ lãnh đạo, quản lý. Kịp thời thay thế cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực,
không hoàn thành nhiệm vụ, uy tín giảm sút. Có chế tài xử lý nghiêm những
trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp,
chạy huân chương. Thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý theo quy
hoạch ở các ngành, các cấp; khắc phục tư tưởng cục bộ, khép kín. Tăng cường
công tác giáo dục, quản lý cán bộ. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
và quản lý các cấp, đội ngũ chuyên gia đầu ngành. Đổi mới, trẻ hoá đội ngũ cán
bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và
phát triển.
Nghiên cứu ban hành và thực hiện tốt chính sách sử dụng và
quản lý cán bộ, đảng viên có vấn đề về lịch sử chính trị. Chú trọng nắm và giải
quyết vấn đề chính trị hiện nay.
7. Đổi mới, nâng cao
hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
Các cấp uỷ, tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần trách
nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng. Tập
trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định
của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước; việc chấp hành nguyên tắc tập
trung dân chủ, quy chế làm việc, chế độ công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng,
giữ gìn đoàn kết nội bộ; việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng,
lãng phí, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; việc chỉ
đạo và tổ chức thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp; việc điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án, nhất là những vụ án nghiêm trọng, gây bức xúc
trong dư luận xã hội; kiểm tra, giám sát việc tuyển dụng, quy hoạch, luân
chuyển, đào tạo, đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ. Chú trọng kiểm tra, giám sát
người đứng đầu tổ chức đảng, nhà nước, mặt trận và các đoàn thể nhân dân các
cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng phải phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra của Chính phủ,
công tác giám sát của Quốc hội và các cơ quan hành pháp, tư pháp, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và thẩm quyền của mỗi cơ
quan.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và hoạt động của hệ thống
uỷ ban kiểm tra các cấp. Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa uỷ ban kiểm tra đảng
với các tổ chức đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc xem xét khiếu
nại, tố cáo và xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên.
8. Tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng
Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây
dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị.
Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ
quan quản lý nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam . Đổi mới phong cách, lề lối
làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa phương, cơ sở.
Thực hiện tốt chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động,
sáng tạo và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. Phát
huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp uỷ viên hoạt động
trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đổi mới
cách ra nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ
kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục
hành chính trong Đảng, khắc phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục,
giảm bớt giấy tờ, hội họp; sâu sát thực tế, cơ sở; nói đi đôi với làm.
*
* *
* *
Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau:
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
- Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, sinh hoạt của nhân dân.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế của đất nước.
- Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, nhất là hệ thống giao thông, yếu tố đang gây ách tắc, cản trở sự phát triển kinh tế, gây bức xúc trong nhân dân.
- Đổi mới quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; khắc phục tình trạng bất hợp lý và tác động tiêu cực của quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập hiện nay.
- Tập trung giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối sống, tệ nạn xã hội, trật tự, kỷ cương xã hội).
- Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí để thực sự ngăn chặn, đẩy lùi được tệ nạn này.
*
* *
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
- Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, sinh hoạt của nhân dân.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế của đất nước.
- Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, nhất là hệ thống giao thông, yếu tố đang gây ách tắc, cản trở sự phát triển kinh tế, gây bức xúc trong nhân dân.
- Đổi mới quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; khắc phục tình trạng bất hợp lý và tác động tiêu cực của quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập hiện nay.
- Tập trung giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối sống, tệ nạn xã hội, trật tự, kỷ cương xã hội).
- Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí để thực sự ngăn chặn, đẩy lùi được tệ nạn này.
*
* *
Đất nước ta đã vượt qua những khó khăn, thách thức to lớn và
đang vững bước đi lên. Tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng, tạo cho nước ta
nhiều thời cơ nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Đại hội XI của Đảng khẳng
định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta tận dụng tốt thời cơ, vượt qua thách
thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh,
bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. /.
(1). Trong 5 năm 2006 - 2010, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 146,8 tỉ USD, gấp 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,3 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỉ USD, vượt 17,5%.
(2). Tỉ trọng khu vực công nghiệp trong cơ cấu GDP từ 41% (năm 2005) tăng lên 41,1% (năm 2010); khu vực dịch vụ từ 38% (năm 2005) tăng lên 38,3% (năm 2010); khu vực nông nghiệp từ 21% (năm 2005) giảm xuống 20,6% (năm 2010).
Cơ cấu lao động trong nông nghiệp từ 57,1% (năm 2005) giảm xuống 48,2% (năm 2010); trong công nghiệp và xây dựng từ 18,2% (năm 2005) tăng lên 22,4% (năm 2010); dịch vụ từ 24,7% (năm 2005) tăng lên 29,4% (năm 2010).
(3). Chỉ số phát triển con người tăng từ mức 0,683 (năm 2000) lên 0,733 (năm 2008), xếp thứ 100/177 nước, thuộc nhóm trung bình cao; hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) do Liên hợp quốc đặt ra cho các nước đang phát triển đến năm 2015.
(4). Các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ giảm từ 29 xuống còn 22.
(5). Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 7% (chỉ tiêu Đại hội X đề ra là 7,5 - 8%, phấn đấu đạt trên 8,0%/năm). Cơ cấu ngành trong GDP: khu vực công nghiệp, xây dựng 41,1% (chỉ tiêu 43 - 44%); dịch vụ 38,3% (chỉ tiêu 40 - 41%); nông nghiệp 20,6% (chỉ tiêu 15 - 16%).
(1). Trong 5 năm 2006 - 2010, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 146,8 tỉ USD, gấp 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,3 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỉ USD, vượt 17,5%.
(2). Tỉ trọng khu vực công nghiệp trong cơ cấu GDP từ 41% (năm 2005) tăng lên 41,1% (năm 2010); khu vực dịch vụ từ 38% (năm 2005) tăng lên 38,3% (năm 2010); khu vực nông nghiệp từ 21% (năm 2005) giảm xuống 20,6% (năm 2010).
Cơ cấu lao động trong nông nghiệp từ 57,1% (năm 2005) giảm xuống 48,2% (năm 2010); trong công nghiệp và xây dựng từ 18,2% (năm 2005) tăng lên 22,4% (năm 2010); dịch vụ từ 24,7% (năm 2005) tăng lên 29,4% (năm 2010).
(3). Chỉ số phát triển con người tăng từ mức 0,683 (năm 2000) lên 0,733 (năm 2008), xếp thứ 100/177 nước, thuộc nhóm trung bình cao; hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) do Liên hợp quốc đặt ra cho các nước đang phát triển đến năm 2015.
(4). Các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ giảm từ 29 xuống còn 22.
(5). Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 7% (chỉ tiêu Đại hội X đề ra là 7,5 - 8%, phấn đấu đạt trên 8,0%/năm). Cơ cấu ngành trong GDP: khu vực công nghiệp, xây dựng 41,1% (chỉ tiêu 43 - 44%); dịch vụ 38,3% (chỉ tiêu 40 - 41%); nông nghiệp 20,6% (chỉ tiêu 15 - 16%).
4. ĐIỀU LỆ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐẢNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG
Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và
rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập
nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân, phong
kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành
công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập
của Tổ quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam
là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam ; đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân
chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực
hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan,
xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường
lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động,
lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời
thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương
lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào
nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp
cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ
thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo
cách mạng của Đảng.
Chương I
ĐẢNG VIÊN
Điều 1:
1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng
trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt
Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ
quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân;
chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của
Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;
có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ
chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.
2. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và
tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ
đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là
người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng.
Điều 2:
Đảng viên có nhiệm vụ:
1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của
Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết,
chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;
phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến
thức, năng lực
công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối
sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu,
tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban
Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ
quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công
tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ
chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng;
thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát
triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
Điều 3:
Đảng viên có quyền:
1. Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết
công việc của Đảng.
2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng
theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng
viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có
trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.
4. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định
công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình. Đảng viên dự bị có các quyền trên
đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Điều 4:
Thủ tục kết nạp đảng viên (kể cả kết nạp lại):
1. Người vào Đảng phải:
- Có đơn tự nguyện xin vào Đảng;
- Báo cáo trung thực lý lịch với chi bộ;
- Được hai đảng viên chính thức giới thiệu.
Nơi có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người
vào Đảng trong độ tuổi thanh niên phải là đoàn viên, được ban chấp hành đoàn cơ
sở và một đảng viên chính thức giới thiệu.
Ở các cơ quan, doanh nghiệp nơi không có tổ chức Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng phải là đoàn viên công đoàn, được ban
chấp hành công đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu.
2. Người giới thiệu phải:
- Là đảng viên chính thức và cùng công tác với người vào
Đảng ít nhất một năm;
- Báo cáo với chi bộ về lý lịch, phẩm chất, năng lực của
người vào Đảng và chịu trách nhiệm về sự giới thiệu của mình. Có điều gì chưa
rõ thì báo cáo để chi bộ và cấp trên xem xét.
3. Trách nhiệm của chi bộ và cấp uỷ:
- Trước khi chi bộ xét và đề nghị kết nạp, chi uỷ kiểm tra
lại điều kiện của người vào Đảng và lấy ý kiến nhận xét của tổ chức đoàn thể
nơi người đó sinh hoạt.
Vấn đề lịch sử chính trị của người vào Đảng phải thực hiện
theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
- Chi bộ xét và đề nghị kết nạp từng người một, khi được ít
nhất hai phần ba số đảng viên chính thức trong chi bộ tán thành thì đề nghị lên
cấp uỷ cấp trên; khi có quyết định của cấp uỷ cấp trên, chi bộ tổ chức lễ kết
nạp từng người một.
- Đảng uỷ cơ sở xét, nếu được ít nhất hai phần ba số cấp uỷ
viên tán thành kết nạp thì đề nghị lên cấp uỷ cấp trên trực tiếp.
- Ban thường vụ cấp uỷ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở
đảng hoặc cấp uỷ cơ sở được uỷ quyền xét, quyết định kết nạp từng người một.
4. Nơi chưa có đảng viên hoặc có đảng viên nhưng chưa đủ
điều kiện giới thiệu thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp cử đảng viên về làm công tác
tuyên truyền, xem xét, giới thiệu kết nạp vào Đảng. Trường hợp đặc biệt do Ban
Chấp hành Trung ương quy định.
Điều 5:
1. Người được kết nạp vào Đảng phải trải qua thời kỳ dự bị
mười hai tháng, tính từ ngày chi bộ tổ chức lễ kết nạp. Trong thời kỳ dự bị,
chi bộ tiếp tục giáo dục, rèn luyện và phân công đảng viên chính thức giúp đảng
viên đó tiến bộ.
2. Khi hết thời kỳ dự bị, chi bộ xét công nhận đảng viên
chính thức từng người một và biểu quyết như khi xét kết nạp; nếu không đủ tư
cách đảng viên thì đề nghị lên cấp uỷ có thẩm quyền quyết định xoá tên trong
danh sách đảng viên dự bị.
3. Nghị quyết của chi bộ về đề nghị công nhận đảng viên
chính thức phải được cấp uỷ có thẩm quyền quyết định.
4. Đảng viên đã được công nhận chính thức thì tuổi đảng của
đảng viên tính từ ngày ghi trong quyết định kết nạp.
Điều 6:
Việc phát và quản lý thẻ đảng viên, quản lý hồ sơ đảng viên
và thủ tục chuyển sinh hoạt đảng do Ban Chấp hành Trung ương quy định.
Điều 7:
Đảng viên tuổi cao, sức yếu, tự nguyện xin giảm, miễn công
tác và sinh hoạt đảng do chi bộ xem xét, quyết định.
Điều 8:
1. Đảng viên bỏ sinh hoạt chi bộ hoặc không đóng đảng phí ba
tháng trong năm mà không có lý do chính đáng; đảng viên giảm sút ý chí phấn
đấu, không làm nhiệm vụ đảng viên, đã được chi bộ giáo dục mà không tiến bộ thì
chi bộ xem xét, đề nghị lên cấp có thẩm quyền xoá tên trong danh sách đảng
viên.
2. Các trường hợp trên nếu đảng viên có khiếu nại thì chi bộ
báo cáo cấp uỷ có thẩm quyền xem xét.
3. Đảng viên xin ra khỏi Đảng do chi bộ xem xét, đề nghị cấp
có thẩm quyền chuẩn y kết nạp quyết định.
Chương II
NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA ĐẢNG
Điều 9:
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực
hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu
toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng
viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung
ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động
của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ
thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực
hiện tự phê bình và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của
Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng
tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và
Ban Chấp hành Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá
trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước
khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý
kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho
đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết,
không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền
nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến
thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền
hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Điều 10:
1. Hệ thống tổ chức của Đảng được lập tương ứng với hệ thống
tổ chức hành chính của Nhà nước.
2. Tổ chức cơ sở đảng được lập tại đơn vị cơ sở hành chính,
sự nghiệp, kinh tế hoặc công tác, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ huyện, quận,
thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam theo quy
định tại Chương VI. Việc lập tổ chức đảng ở những nơi có đặc điểm riêng theo
quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định lập hoặc giải thể
đảng bộ, chi bộ trực thuộc.
Điều 11:
1. Cấp uỷ triệu tập đại hội khi hết nhiệm kỳ, thông báo
trước cho cấp dưới về thời gian và nội dung đại hội.
2. Cấp uỷ triệu tập đại hội quyết định số lượng đại biểu và
phân bổ cho các đảng bộ trực thuộc căn cứ vào số lượng đảng viên, số lượng đảng
bộ trực thuộc, vị trí quan trọng của từng đảng bộ, theo hướng dẫn của Ban Chấp
hành Trung ương.
3. Đại biểu dự đại hội gồm các uỷ viên ban chấp hành cấp
triệu tập đại hội và đại biểu do đại hội cấp dưới bầu.
4. Việc chỉ định đại biểu chỉ thực hiện đối với tổ chức đảng
hoạt động trong điều kiện đặc biệt không thể mở đại hội để bầu cử được, theo
quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
5. Đại biểu dự đại hội phải được đại hội thẩm tra tư cách và
biểu quyết công nhận. Cấp uỷ triệu tập đại hội không được bác bỏ tư cách đại
biểu do đại hội cấp dưới bầu, trừ trường hợp đại biểu đang bị đình chỉ sinh
hoạt đảng, đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ, bị khởi tố, truy tố, tạm giam.
6. Đại hội chỉ hợp lệ khi có ít nhất hai phần ba số đại biểu
hoặc đảng viên được triệu tập tham dự và có ít nhất hai phần ba số tổ chức đảng
trực thuộc có đại biểu tham dự.
7. Đại hội bầu đoàn chủ tịch (chủ tịch) để điều hành công
việc của đại hội.
Điều 12:
1. Cấp uỷ viên phải có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị,
đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh; chấp hành nghiêm chỉnh nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt đảng, kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có kiến
thức và năng lực tham gia lãnh đạo tập thể, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;
đoàn kết cán bộ, đảng viên, được quần chúng tín nhiệm.
2. Số lượng Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương do Đại hội đại
biểu toàn quốc quyết định; số lượng cấp uỷ viên cấp nào do đại hội cấp đó quyết
định, theo hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương. Cấp uỷ các cấp cần được đổi
mới, bảo đảm tính kế thừa và phát triển qua mỗi lần đại hội.
3. Đoàn chủ tịch (chủ tịch) hướng dẫn bầu cử:
- Đại biểu có quyền nhận xét, chất vấn về người ứng cử và người
được đề cử.
- Danh sách bầu cử do đại hội thảo luận và biểu quyết thông
qua.
- Bầu cử bằng phiếu kín.
- Người trúng cử phải được số phiếu bầu quá một nửa so với
tổng số đại biểu được triệu tập hoặc so với tổng số đảng viên chính thức của
đảng bộ, chi bộ được triệu tập.
Trường hợp số người có số phiếu quá một nửa nhiều hơn số
lượng cần bầu thì lấy số người có số phiếu cao hơn; nếu ở cuối danh sách trúng
cử có nhiều người ngang phiếu nhau và nhiều hơn số lượng cần bầu thì bầu lại số
người ngang phiếu đó để lấy người có số phiếu cao hơn, không cần phải quá một
nửa. Trường hợp bầu lại mà số phiếu vẫn ngang nhau, có bầu nữa hay không do đại
hội quyết định.
Nếu bầu một lần mà chưa đủ số lượng quy định, có bầu thêm
nữa hay không do đại hội quyết định.
Điều 13:
1. Cấp uỷ khoá mới nhận sự bàn giao từ cấp uỷ khoá trước,
điều hành công việc ngay sau khi được bầu và được công nhận chính thức khi có
quyết định chuẩn y của cấp uỷ cấp trên trực tiếp.
2. Việc bổ sung cấp uỷ viên thiếu do cấp uỷ đề nghị, cấp uỷ
cấp trên trực tiếp quyết định; số lượng cấp uỷ viên sau khi bổ sung không vượt
quá tổng số cấp uỷ viên mà đại hội đã quyết định. Khi thật cần thiết, cấp uỷ
cấp trên trực tiếp chỉ định tăng thêm một số cấp uỷ viên cấp dưới.
3. Khi thật cần thiết, cấp uỷ cấp trên có quyền điều động
một số cấp uỷ viên cấp dưới, nhưng không quá một phần ba tổng số cấp uỷ viên do
đại hội đã bầu.
4. Cấp uỷ viên xin rút khỏi cấp uỷ, do cấp uỷ xem xét đề
nghị lên cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định; đối với Uỷ viên Trung ương, do Ban
Chấp hành Trung ương quyết định. Cấp uỷ viên đương nhiệm ở đảng bộ từ cấp tỉnh
trở xuống, khi có quyết định nghỉ công tác để nghỉ hưu hoặc chuyển công tác đến
đơn vị khác ngoài đảng bộ thì thôi tham gia các cấp uỷ đương nhiệm ở đảng bộ
đó.
Đối với Uỷ viên Trung ương khi có quyết định thôi giữ chức
vụ trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể để nghỉ hưu thì thôi tham gia Ban
Chấp hành Trung ương đương nhiệm.
5. Từ tổ chức cơ sở đảng đến đảng bộ trực thuộc Trung ương
nếu được thành lập mới, chia tách, hợp nhất, sáp nhập trong nhiệm kỳ, thì cấp
uỷ cấp trên trực tiếp chỉ định cấp uỷ chính thức; chỉ đạo xây dựng hoặc bổ sung
nhiệm vụ cho phù hợp; nhiệm kỳ đầu tiên của các cấp uỷ này không nhất thiết là
năm năm để nhiệm kỳ đại hội phù hợp với nhiệm kỳ đại hội của tổ chức đảng cấp
trên.
6. Đối với tổ chức đảng không thể mở đại hội được, cấp uỷ
cấp trên trực tiếp chỉ định cấp uỷ của tổ chức đảng đó.
Điều 14:
1. Cấp uỷ mỗi cấp lập các cơ quan tham mưu, giúp việc theo
hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương.
2. Khi cần, cấp uỷ lập tiểu ban, hội đồng, tổ công tác và
giải thể khi hoàn thành nhiệm vụ.
Chương III
CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG Ở CẤP TRUNG ƯƠNG
Điều 15:
1. Đại hội đại biểu toàn quốc do Ban Chấp hành Trung ương
triệu tập thường lệ năm năm một lần; có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn, nhưng
không quá một năm.
2. Đại hội đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết của nhiệm
kỳ vừa qua; quyết định đường lối, chính sách của Đảng nhiệm kỳ tới; bổ sung,
sửa đổi Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng khi cần; bầu Ban Chấp hành Trung
ương. Số lượng Uỷ viên
Trung ương chính thức và Uỷ viên Trung ương dự khuyết do Đại
hội quyết định.
Ban Chấp hành Trung ương xem xét việc chuyển Uỷ viên Trung
ương dự khuyết có đủ điều kiện để thay thế Uỷ viên Trung ương chính thức khi
khuyết.
3. Khi Ban Chấp hành Trung ương xét thấy cần hoặc khi có hơn
một nửa số cấp uỷ trực thuộc yêu cầu thì Ban Chấp hành Trung ương triệu tập Đại
hội đại biểu toàn quốc bất thường. Đại biểu dự Đại hội bất thường là các Uỷ
viên Trung ương đương nhiệm, đại biểu đã dự Đại hội đại biểu toàn quốc đầu
nhiệm kỳ, đủ tư cách.
Điều 16:
1. Ban Chấp hành Trung ương tổ chức chỉ đạo thực hiện Cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đại hội; quyết định những chủ
trương, chính sách về đối nội, đối ngoại, công tác quần chúng và công tác xây
dựng Đảng; chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng nhiệm kỳ tiếp theo, Đại
hội đại biểu toàn quốc bất thường (nếu có).
2. Ban Chấp hành Trung ương căn cứ tình hình thực tế quyết
định chỉ đạo thí điểm một số chủ trương mới.
3. Ban Chấp hành Trung ương họp thường lệ sáu tháng một lần;
họp bất thường khi cần.
Điều 17:
1. Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị; bầu Tổng Bí
thư trong số Uỷ viên Bộ Chính trị; thành lập Ban Bí thư gồm Tổng Bí thư, một số
Uỷ viên Bộ Chính trị do Bộ Chính trị phân công và một số Uỷ viên Ban Bí thư do
Ban Chấp hành Trung ương bầu trong số Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương; bầu Uỷ
ban Kiểm tra Trung ương; bầu Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương trong số Uỷ
viên Uỷ ban Kiểm tra Trung ương.
Số lượng Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư và Uỷ viên
Uỷ ban Kiểm tra Trung ương do Ban Chấp hành Trung ương quyết định.
Đồng chí Tổng Bí thư giữ chức vụ Tổng Bí thư không quá hai
nhiệm kỳ liên tiếp.
2. Bộ Chính trị lãnh đạo và kiểm tra, giám sát việc thực
hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung
ương; quyết định những vấn đề về chủ trương, chính sách, tổ chức, cán bộ; quyết
định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương; báo
cáo công việc đã làm trước hội nghị Ban Chấp hành Trung ương hoặc theo yêu cầu
của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Ban Bí thư lãnh đạo công việc hằng ngày của Đảng: chỉ đạo
công tác xây dựng Đảng và công tác quần chúng; kiểm tra, giám sát việc thực
hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh,
đối ngoại; chỉ đạo sự phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính
trị; quyết định một số vấn đề về tổ chức, cán bộ và một số vấn đề khác theo sự
phân công của Ban Chấp hành Trung ương; chỉ đạo hoặc kiểm tra việc chuẩn bị các
vấn đề đưa ra Bộ Chính trị thảo luận và quyết định.
Chương IV
CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG Ở CÁC CẤP ĐỊA PHƯƠNG
Điều 18:
1. Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, đảng bộ huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh do cấp uỷ cùng cấp
triệu tập thường lệ năm năm một lần; có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn, nhưng
không quá một năm.
2. Đại hội thảo luận văn kiện của cấp uỷ cấp trên; đánh giá
kết quả thực hiện nghị quyết nhiệm kỳ vừa qua; quyết định nhiệm vụ nhiệm kỳ
tới; bầu cấp uỷ; bầu đại biểu đi dự đại hội cấp trên.
3. Khi cấp uỷ xét thấy cần hoặc khi có trên một nửa số cấp
uỷ trực thuộc yêu cầu và được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý thì triệu tập
đại hội đại biểu bất thường.
Đại biểu dự đại hội đại biểu bất thường là các cấp uỷ viên
đương nhiệm, đại biểu đã dự đại hội đại biểu đảng bộ đầu nhiệm kỳ, đang sinh
hoạt tại đảng bộ, đủ tư cách.
Điều 19:
1. Cấp uỷ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là
tỉnh uỷ, thành uỷ), cấp uỷ huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi
tắt là huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ) lãnh đạo thực hiện nghị quyết đại
hội đại biểu; nghị quyết, chỉ thị của cấp trên.
2. Hội nghị tỉnh uỷ, thành uỷ, huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ do
ban thường vụ triệu tập thường lệ ba tháng một lần; họp bất thường khi cần.
Điều 20:
1. Hội nghị tỉnh uỷ, thành uỷ, huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ bầu
ban thường vụ; bầu bí thư và phó bí thư trong số uỷ viên thường vụ; bầu uỷ ban
kiểm tra; bầu chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra trong số uỷ viên uỷ ban kiểm tra.
2. Số lượng uỷ viên ban thường vụ và uỷ viên uỷ ban kiểm tra
do cấp uỷ quyết định theo hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Ban thường vụ lãnh đạo và kiểm tra, giám sát việc thực
hiện nghị quyết của đại hội đại biểu, nghị quyết, chỉ thị của cấp uỷ cùng cấp
và cấp trên; quyết định những vấn đề về chủ trương, tổ chức, cán bộ; quyết định
triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của cấp uỷ.
4. Thường trực cấp uỷ gồm bí thư, các phó bí thư, chỉ đạo
kiểm tra thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp uỷ, của ban thường vụ và cấp uỷ
cấp trên; giải quyết công việc hằng ngày của đảng bộ; quyết định triệu tập và
chuẩn bị nội dung các kỳ họp của ban thường vụ.
Chương V
TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
Điều 21:
1. Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền
tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
2. Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở
lên, lập tổ chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp uỷ cấp huyện). Ở cơ quan, doanh
nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị
khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức cơ sở
đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở); cấp uỷ cấp trên trực tiếp xem xét,
quyết định việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp uỷ cấp trên nào cho phù hợp; nếu
chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng
viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp.
3. Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ
sở, có các tổ đảng trực thuộc.
4. Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập
đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc đảng uỷ.
5. Những trường hợp sau đây, cấp uỷ cấp dưới phải báo cáo và
được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện:
- Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng
viên.
- Lập chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở có hơn ba mươi đảng
viên.
- Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng uỷ cơ sở.
Điều 22:
1. Đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên của tổ chức cơ sở
đảng do cấp uỷ cơ sở triệu tập năm năm một lần; có thể triệu tập sớm hoặc muộn
hơn nhưng không quá một năm.
2. Đại hội thảo luận văn kiện của cấp trên; đánh giá kết quả
thực hiện nghị quyết nhiệm kỳ vừa qua; quyết định nhiệm vụ nhiệm kỳ tới; bầu
cấp uỷ; bầu đại biểu đi dự đại hội đảng bộ cấp trên.
3. Khi cấp uỷ xét thấy cần hoặc khi có trên một nửa số tổ
chức đảng trực thuộc yêu cầu và được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý thì triệu
tập đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên bất thường.
Đại biểu dự đại hội đại biểu bất thường là các cấp uỷ viên
đương nhiệm, đại biểu đã dự đại hội đại biểu đảng bộ đầu nhiệm kỳ, đang sinh
hoạt tại đảng bộ, đủ tư cách. Dự đại hội đảng viên bất thường là những đảng
viên của đảng bộ đó.
4. Đảng uỷ, chi uỷ cơ sở họp thường lệ mỗi tháng một lần;
họp bất thường khi cần.
5. Đảng uỷ cơ sở có từ chín uỷ viên trở lên bầu ban thường
vụ; bầu bí thư, phó bí thư trong số uỷ viên thường vụ; dưới chín uỷ viên chỉ
bầu bí thư, phó bí thư.
6. Đảng bộ cơ sở họp thường lệ mỗi năm hai lần; họp bất
thường khi cần. Chi bộ cơ sở họp thường lệ mỗi tháng một lần; họp bất thường
khi cần.
Điều 23:
Tổ chức cơ sở đảng có nhiệm vụ:
1. Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo
thực hiện có hiệu quả.
2. Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao
chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật
và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện
và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến
đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.
3. Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành
chính, sự nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong
sạch, vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
4. Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân
tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước.
5. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh;
kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Đảng uỷ cơ sở nếu được cấp uỷ cấp trên trực tiếp uỷ quyền
thì được quyết định kết nạp và khai trừ đảng viên.
Điều 24:
1. Chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở được tổ chức theo nơi làm
việc hoặc nơi ở của đảng viên; mỗi chi bộ ít nhất có ba đảng viên chính thức.
Chi bộ đông đảng viên có thể chia thành nhiều tổ đảng; tổ đảng bầu tổ trưởng,
nếu cần thì bầu tổ phó; tổ đảng hoạt động dưới sự chỉ đạo của chi uỷ.
2. Chi bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị;
giáo dục, quản lý và phân công công tác cho đảng viên; làm công tác vận động
quần chúng và công tác phát triển đảng viên; kiểm tra, giám sát thi hành kỷ
luật đảng viên; thu, nộp đảng phí. Chi bộ, chi uỷ họp thường lệ mỗi tháng một
lần.
3. Đại hội chi bộ do chi uỷ triệu tập năm năm hai lần; nơi
chưa có chi uỷ thì do bí thư chi bộ triệu tập. Khi được đảng uỷ cơ sở đồng ý có
thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn, nhưng không quá sáu tháng.
4. Chi bộ có dưới chín đảng viên chính thức, bầu bí thư chi
bộ; nếu cần, bầu phó bí thư. Chi bộ có chín đảng viên chính thức trở lên, bầu
chi uỷ, bầu bí thư và phó bí thư chi bộ trong số chi uỷ viên.
Chương VI
TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM
Điều 25:
1. Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân
dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; sự lãnh đạo của Đảng được tập
trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ
Chính trị, Ban Bí thư; Đảng quyết định những vấn đề cơ bản xây dựng Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng, hết sức phục vụ
nhân dân, là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, tham
gia xây dựng đất nước. Nhà nước thống nhất quản lý đối với Quân đội, Công an và
sự nghiệp quốc phòng, an ninh theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
2. Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam hoạt động theo Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
3. Các ban của cấp uỷ đảng theo chức năng giúp cấp uỷ hướng
dẫn, kiểm tra, giám sát công tác xây dựng Đảng và công tác quần chúng trong
Quân đội nhân dân Việt Nam
và Công an nhân dân Việt Nam .
Điều 26:
1. Quân uỷ Trung ương do Bộ Chính trị chỉ định, gồm một số
Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương công tác trong Quân đội và một số Uỷ viên Ban
Chấp hành Trung ương công tác ngoài Quân đội, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp
hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đồng chí Tổng Bí
thư là Bí thư Quân uỷ Trung ương.
2. Quân uỷ Trung ương nghiên cứu đề xuất để Ban Chấp hành
Trung ương quyết định những vấn đề về đường lối, nhiệm vụ quân sự và quốc
phòng; lãnh đạo mọi mặt trong Quân đội.
3. Tổng cục Chính trị đảm nhiệm công tác đảng, công tác
chính trị trong toàn quân, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Ban Bí thư và trực
tiếp, thường xuyên của Quân uỷ Trung ương. Ở mỗi cấp có cơ quan chính trị và
cán bộ chính trị đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị dưới sự lãnh đạo
của cấp uỷ đảng cùng cấp và sự chỉ đạo của cơ quan chính trị cấp trên.
Điều 27:
1. Cấp uỷ đảng trong bộ đội chủ lực và bộ đội biên phòng ở
cấp nào do đại hội cấp đó bầu, lãnh đạo các đơn vị thuộc cấp mình về mọi mặt;
trường hợp đặc biệt do cấp uỷ cấp trên chỉ định.
2. Đảng uỷ quân khu gồm các đồng chí công tác trong đảng bộ
quân khu do đại hội cùng cấp bầu và các đồng chí bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ trên
địa bàn quân khu được chỉ định tham gia; lãnh đạo thực hiện nghị quyết của cấp
trên, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân; phối hợp với cấp uỷ địa phương thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng trong quân khu.
3. Tổ chức đảng quân sự địa phương ở cấp nào đặt dưới sự
lãnh đạo của cấp uỷ địa phương cấp đó về mọi mặt, đồng thời chấp hành nghị
quyết của đảng uỷ quân sự cấp trên về nhiệm vụ quốc phòng toàn dân và công tác
quân sự địa phương. Cơ
quan chính trị cấp trên phối hợp với cấp uỷ địa phương chỉ
đạo công tác đảng, công tác chính trị và công tác quần chúng trong lực lượng vũ
trang địa phương.
4. Đảng uỷ quân sự tỉnh, thành, huyện, quận, thị xã gồm các
đồng chí công tác trong đảng bộ quân sự địa phương do đại hội cùng cấp bầu,
đồng chí bí thư cấp uỷ địa phương và một số đồng chí ngoài đảng bộ quân sự địa
phương được cấp uỷ địa phương chỉ định tham gia. Đồng chí bí thư cấp uỷ địa
phương trực tiếp làm bí thư đảng uỷ quân sự cùng cấp.
Điều 28:
1. Đảng uỷ Công an Trung ương do Bộ Chính trị chỉ định gồm
một số Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương công tác trong Công an nhân dân và một
số Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương công tác ngoài Công an nhân dân, một số
đồng chí công tác thuộc Đảng bộ Công an Trung ương, đặt dưới sự lãnh đạo của
Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đảng uỷ
Công an Trung ương nghiên cứu đề xuất để Ban Chấp hành Trung ương quyết định
những vấn đề về đường lối, chính sách, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an
toàn xã hội; lãnh đạo mọi mặt công tác trong công an.
2. Cấp uỷ công an cấp nào do đại hội cấp đó bầu, trường hợp
thật cần thiết do cấp uỷ cấp trên chỉ định. Cấp uỷ lãnh đạo các đơn vị thuộc cấp
mình về mọi mặt.
3. Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân đảm nhiệm
công tác đảng, công tác chính trị và công tác quần chúng trong các đơn vị thuộc
đảng bộ công an, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ Công an Trung ương;
phối hợp với cấp uỷ địa phương chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị và
công tác quần chúng trong lực lượng công an địa phương.
4. Cơ quan xây dựng lực lượng công an mỗi cấp đảm nhiệm công
tác đảng, công tác chính trị, công tác quần chúng trong đảng bộ, hoạt động dưới
sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng cùng cấp và sự chỉ đạo của cơ quan xây dựng lực
lượng cấp trên.
Điều 29:
1. Tổ chức đảng công an nhân dân địa phương cấp nào đặt dưới
sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của cấp uỷ cấp đó, đồng thời chấp hành nghị
quyết của đảng uỷ công an cấp trên về giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an
toàn xã hội; lãnh đạo xây dựng lực lượng công an nhân dân ở địa phương và xây
dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh.
2. Đảng uỷ công an tỉnh, thành, huyện, quận, thị xã do đại
hội đảng bộ cùng cấp bầu.
Chương VII
CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG VÀ UỶ BAN KIỂM TRA CÁC
CẤP
Điều 30:
1. Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng.
Tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. Tổ chức đảng và đảng
viên chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng.
2. Các cấp uỷ đảng lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát và
tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và đảng viên
chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Điều 31:
1. Uỷ ban kiểm tra các cấp do cấp uỷ cùng cấp bầu, gồm một
số đồng chí trong cấp uỷ và một số đồng chí ngoài cấp uỷ.
2. Các thành viên uỷ ban kiểm tra và chủ nhiệm, phó chủ
nhiệm uỷ ban kiểm tra cấp dưới phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp chuẩn y, nếu
điều động chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra sang công tác khác phải được cấp uỷ cấp
trên trực tiếp đồng ý.
3. Uỷ ban kiểm tra làm việc theo chế độ tập thể, dưới sự
lãnh đạo của cấp uỷ cùng cấp và sự chỉ đạo, kiểm tra của uỷ ban kiểm tra cấp
trên.
Điều 32:
Uỷ ban kiểm tra các cấp có nhiệm vụ:
1. Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp uỷ viên cùng cấp khi có dấu
hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và trong việc thực
hiện nhiệm vụ đảng viên.
2. Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm
trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng.
3. Giám sát cấp uỷ viên cùng cấp, cán bộ diện cấp uỷ cùng
cấp quản lý và tổ chức đảng cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, nghị quyết của cấp uỷ và đạo đức, lối sống theo quy định
của Ban Chấp hành Trung ương.
4. Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết
định hoặc đề nghị cấp uỷ thi hành kỷ luật.
5. Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải
quyết khiếu nại về kỷ luật Đảng.
6. Kiểm tra tài chính của cấp uỷ cấp dưới và của cơ quan tài
chính cấp uỷ cùng cấp.
Điều 33:
Uỷ ban kiểm tra có quyền yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới và
đảng viên báo cáo, cung cấp tài liệu về những vấn đề liên quan đến nội dung
kiểm tra.
Chương VIII
KHEN THƯỞNG VÀ KỶ LUẬT
Điều 34:
Tổ chức đảng và đảng viên có thành tích được khen thưởng
theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
Điều 35:
1. Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm kỷ luật phải xử lý công
minh, chính xác, kịp thời.
2. Hình thức kỷ luật:
- Đối với tổ chức đảng: khiển trách, cảnh cáo, giải tán;
- Đối với đảng viên chính thức: khiển trách, cảnh cáo, cách
chức, khai trừ;
- Đối với đảng viên dự bị: khiển trách, cảnh cáo.
Điều 36:
Thẩm quyền thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm:
1. Chi bộ quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên trong
chi bộ (kể cả cấp uỷ viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý)
vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực
hiện nhiệm vụ đảng viên (trừ nhiệm vụ do cấp trên giao).
Đảng uỷ cơ sở quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên
trong đảng bộ, cách chức cấp uỷ viên cấp dưới.
Đảng uỷ cơ sở được uỷ quyền quyết định kết nạp đảng viên thì
có quyền quyết định khai trừ đảng viên, nhưng không phải là cấp uỷ viên cùng
cấp và đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý.
2. Cấp uỷ tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương quyết định
các hình thức kỷ luật đảng viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp uỷ viên
các cấp, đảng viên thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý vi phạm phẩm chất chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên;
quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp uỷ viên cùng cấp vi phạm nhiệm vụ do cấp
uỷ giao.
Ban thường vụ cấp uỷ quyết định các hình thức kỷ luật đảng
viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp uỷ viên các cấp, đảng viên thuộc
diện cấp uỷ cấp trên quản lý vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên, cán bộ thuộc diện cấp
uỷ cấp trên quản lý vi phạm nhiệm vụ chuyên môn được giao.
3. Ban Chấp hành Trung ương quyết định các hình thức kỷ luật
đảng viên, kể cả Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên
Bộ Chính trị.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định các hình thức kỷ luật
đảng viên, kể cả đảng viên là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản
lý; khiển trách, cảnh cáo Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương vi phạm phẩm chất
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng
viên.
4. Uỷ ban kiểm tra từ cấp huyện, quận và tương đương trở lên
quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, nhưng không phải là cấp uỷ viên
cùng cấp; quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp
uỷ cùng cấp quản lý và cấp uỷ viên cấp dưới trực tiếp.
5. Cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra cấp trên có quyền chuẩn y, thay
đổi hoặc xoá bỏ hình thức kỷ luật do cấp dưới quyết định.
6. Đảng viên giữ nhiều chức vụ bị kỷ luật cách chức thì tuỳ
mức độ, tính chất vi phạm mà cách một hay nhiều chức vụ.
Điều 37:
Thẩm quyền thi hành kỷ luật tổ chức đảng vi phạm:
1. Cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định khiển trách, cảnh
cáo tổ chức đảng cấp dưới.
2. Kỷ luật giải tán một tổ chức đảng do cấp uỷ cấp trên trực
tiếp đề nghị, cấp uỷ cấp trên cách một cấp quyết định. Quyết định này phải báo
cáo lên cấp uỷ cấp trên trực tiếp và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương.
3. Chỉ giải tán một tổ chức đảng khi tổ chức đó phạm một trong
các trường hợp: có hành động chống đường lối, chính sách của Đảng; vi phạm đặc
biệt nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng hoặc pháp luật của Nhà
nước.
Điều 38:
1. Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm không thuộc thẩm quyền
quyết định kỷ luật của cấp mình thì đề nghị lên cấp có thẩm quyền quyết định.
2. Trường hợp tổ chức đảng cấp dưới không xử lý hoặc xử lý
không đúng mức đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm thì cấp uỷ hoặc uỷ ban
kiểm tra cấp trên quyết định các hình thức kỷ luật theo thẩm quyền, đồng thời
xem xét trách nhiệm của tổ chức đảng đó.
3. Kỷ luật giải tán một tổ chức đảng và khai trừ đảng viên
phải được ít nhất hai phần ba số thành viên của tổ chức đảng cấp dưới đề nghị
và do tổ chức đảng có thẩm quyền quyết định.
Điều 39:
1. Đảng viên vi phạm phải kiểm điểm trước chi bộ, tự nhận
hình thức kỷ luật; nếu từ chối kiểm điểm hoặc bị tạm giam, tổ chức đảng vẫn
tiến hành xem xét kỷ luật. Trường hợp cần thiết, cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra cấp
có thẩm quyền trực tiếp xem xét kỷ luật.
2. Tổ chức đảng vi phạm phải kiểm điểm, tự nhận hình thức kỷ
luật và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên quyết định.
3. Trước khi quyết định kỷ luật, đại diện tổ chức đảng có
thẩm quyền nghe đảng viên vi phạm hoặc đại diện tổ chức đảng vi phạm trình bày
ý kiến.
4. Quyết định của cấp dưới về kỷ luật
tổ chức đảng và đảng viên vi phạm phải báo cáo lên cấp uỷ,
uỷ ban kiểm tra cấp trên trực tiếp; nếu đảng viên vi phạm tham gia nhiều cơ
quan lãnh đạo của Đảng thì phải báo cáo đến các cơ quan lãnh đạo cấp trên mà đảng
viên đó là thành viên.
5. Quyết định của cấp trên về kỷ luật tổ chức đảng và đảng
viên vi phạm phải được thông báo đến cấp dưới, nơi có tổ chức đảng và đảng viên
vi phạm; trường hợp cần thông báo rộng hơn thì do cấp uỷ có thẩm quyền quyết
định.
6. Kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm có hiệu lực
ngay sau khi công bố quyết định.
7. Tổ chức đảng, đảng viên không đồng ý với quyết định kỷ
luật thì trong vòng một tháng, kể từ ngày nhận quyết định, có quyền khiếu nại
với cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra cấp trên cho đến Ban Chấp hành Trung ương. Việc
giải quyết khiếu nại kỷ luật, thực hiện theo quy định của Ban Chấp hành Trung
ương.
8. Khi nhận khiếu nại kỷ luật, cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra
thông báo cho tổ chức đảng hoặc đảng viên khiếu nại biết; chậm nhất ba tháng
đối với cấp tỉnh, thành phố, huyện, quận và tương đương, sáu tháng đối với cấp
Trung ương, kể từ ngày nhận được khiếu nại, phải xem xét, giải quyết, trả lời
cho tổ chức đảng và đảng viên khiếu nại biết.
9. Trong khi chờ giải quyết khiếu nại, tổ chức đảng và đảng
viên bị kỷ luật phải chấp hành nghiêm chỉnh quyết định kỷ luật.
Điều 40:
1. Đảng viên bị hình phạt từ cải tạo không giam giữ trở lên
phải khai trừ ra khỏi Đảng.
2. Tổ chức đảng bị kỷ luật giải tán, cấp uỷ cấp trên trực
tiếp lập tổ chức đảng mới hoặc giới thiệu sinh hoạt đảng cho số đảng viên còn
lại.
3. Đảng viên bị kỷ luật cách chức, trong vòng một năm, kể từ
ngày có quyết định, không được bầu vào cấp uỷ, không được bổ nhiệm vào các chức
vụ tương đương và cao hơn.
4. Việc đình chỉ sinh hoạt đảng của đảng viên, đình chỉ sinh
hoạt cấp uỷ của cấp uỷ viên, đình chỉ hoạt động của tổ chức đảng phải được cấp
uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra có thẩm quyền quyết định theo quy định của Ban Chấp
hành Trung ương.
Chương IX
ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ ĐOÀN THỂ CHÍNH
TRỊ - XÃ HỘI
Điều 41:
1. Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể
chính trị - xã hội
bằng Cương lĩnh chính trị, chiến lược, chính sách, chủ
trương; bằng công tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kiểm tra, giám sát việc thực
hiện.
2. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội
ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu
các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.
3. Đảng giới thiệu cán bộ đủ tiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ
nhiệm vào cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội.
4. Tổ chức đảng và đảng viên công tác trong cơ quan nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội phải chấp hành nghiêm
chỉnh nghị quyết, chỉ thị của Đảng; tổ chức đảng lãnh đạo việc cụ thể hoá thành
các văn bản luật pháp của Nhà nước, chủ trương của đoàn thể; lãnh đạo thực hiện
có hiệu quả.
Điều 42:
1. Trong cơ quan lãnh đạo của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
đoàn thể chính trị - xã hội cấp Trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, do bầu cử lập ra, cấp uỷ cùng cấp lập đảng đoàn gồm một số đảng
viên công tác trong tổ chức đó. Nơi không lập đảng đoàn thì tổ chức cơ sở đảng
trong cơ quan đó thực hiện chức năng lãnh đạo theo quy định của Ban Chấp hành
Trung ương.
2. Đảng đoàn do cấp uỷ cùng cấp chỉ định; có bí thư, nếu
cần, có phó bí thư. Đảng đoàn làm việc theo chế độ tập thể và chịu trách nhiệm
trước cấp uỷ.
3. Đảng đoàn lãnh đạo, thuyết phục các thành viên trong tổ
chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng; liên hệ mật thiết với nhân dân;
đề xuất với cấp uỷ về phương hướng, nhiệm vụ, tổ chức, cán bộ và quyết định
theo thẩm quyền; lãnh đạo công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính
sách của Đảng.
4. Khi cần, đảng đoàn triệu tập các đảng viên trong tổ chức
để thảo luận chủ trương của cấp uỷ và bàn biện pháp thực hiện.
Điều 43:
1. Trong cơ quan hành pháp, tư pháp cấp Trung ương và cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cấp uỷ cùng cấp lập ban cán sự đảng gồm
một số đảng viên công tác trong tổ chức đó. Nơi không lập ban cán sự đảng thì
tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan đó thực hiện chức năng lãnh đạo theo quy định
của Ban Chấp hành Trung ương.
2. Ban cán sự đảng do cấp uỷ cùng cấp chỉ định; có bí thư,
nếu cần, có phó bí thư. Ban cán sự đảng làm việc theo chế độ tập thể và chịu
trách nhiệm trước cấp uỷ.
3. Ban cán sự đảng lãnh đạo quán triệt và tổ chức thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng; đề xuất với cấp uỷ về phương hướng, nhiệm vụ,
tổ chức, cán bộ và quyết định theo thẩm quyền; lãnh đạo công tác kiểm tra việc
chấp hành đường lối, chính sách của Đảng.
Chương X
ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
Điều 44:
1. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy
của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp cách
mạng vẻ vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là lực lượng nòng cốt trong
phong trào thanh niên; là trường học xã hội chủ nghĩa; đại diện quyền lợi của
thanh niên; phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
2. Cấp uỷ đảng lãnh đạo trực tiếp tổ chức đoàn cùng cấp về
phương hướng, nhiệm vụ, tư tưởng, tổ chức, cán bộ.
Điều 45:
Đảng viên còn trong độ tuổi đoàn phải sinh hoạt và công tác
trong tổ chức đoàn.
Chương XI
TÀI CHÍNH CỦA ĐẢNG
Điều 46:
1. Tài chính của Đảng gồm đảng phí do đảng viên đóng, từ
ngân sách nhà nước và các khoản thu khác.
2. Ban Chấp hành Trung ương quy định thống nhất nguyên tắc,
chế độ quản lý tài chính, tài sản của Đảng, mức đóng đảng phí của đảng viên.
3. Hằng năm, cấp uỷ nghe báo cáo và quyết định nhiệm vụ tài
chính của cấp mình.
Chương XII
CHẤP HÀNH ĐIỀU LỆ ĐẢNG
Điều 47:
Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh Điều
lệ Đảng.
Điều 48:
Chỉ Đại hội đại biểu toàn quốc mới có quyền sửa đổi
Điều lệ Đảng./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét